ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
ĐỖ THỊ ANH
NéI QUY LAO §éNG TRONG C¸C DOANH NGHIÖP
Cã VèN §ÇU T¦ N¦íC NGOµI THEO PH¸P LUËT LAO §éNG VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
ĐỖ THỊ ANH
NéI QUY LAO §éNG TRONG C¸C DOANH NGHIÖP
Cã VèN §ÇU T¦ N¦íC NGOµI THEO PH¸P LUËT LAO §éNG VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380101.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THANH HUYỀN
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính xác thực, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học và đã thanh toán đầy đủ nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đỗ Thị Anh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục biểu đồ
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NỘI QUY LAO
ĐỘNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ NỘI QUY LAO ĐỘNG .................. 9
1.1. Một số vấn đề lý luận về nội quy lao động .................................... 9
1.1.1. Khái niệm nội quy lao động ............................................................ 9
1.1.2. Đặc điểm nội quy lao động.............................................................13
1.1.3. Vai trò của nội quy lao động ..........................................................16
1.2. Pháp luật về nội quy lao động ......................................................18
1.2.1. Khái niệm pháp luật về nội quy lao động ........................................18
1.2.2. Nguyên tắc ban hành nội quy lao động ...........................................20
1.2.3. Nội dung của nội quy lao động .......................................................21
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...........................................................................28
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH NỘI QUY LAO ĐỘNG VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM................................ 29
2.1. Khái quát chung về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam .................................................................................29
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam.........................................................................29
2.1.2. Đóng góp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đối
với việc phát triển kinh tế xã hội tại Việt Nam ................................35
2.2. Thực trạng quy định nội quy lao động tại các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài .............................................................40
2.2.1. Chủ thể và phạm vi ban hành nội quy lao động ...............................40
2.2.2. Nguyên tắc ban hành nội quy lao động ...........................................42
2.2.3. Nội dung của nội quy lao động .......................................................43
2.2.4. Trình tự ban hành, công bố nội quy lao động ..................................55
2.3. Thực trạng thực hiện nội quy lao động tại các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài .............................................................57
2.3.1. Những kết quả đạt được .................................................................57
2.3.2. Những tồn tại.................................................................................59
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...........................................................................64
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VỀ NỘI QUY LAO
ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI.............................................................................66
3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nội quy lao động.........66
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về nội quy lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài ...............................................................................70
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ...........................................................................74
KẾT LUẬN ..............................................................................................76
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................79
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu, Diễn giải chữ viết tắt
BLLĐ 1994
Bộ luật lao động số 35-L/CTN của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 23/06/1994 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006 và 2007)
BLLĐ 2012
NLĐ
Người lao động
Bộ luật lao động số 10/2012/QH13 do Quốc hội Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 18/06/2012
NQLĐ Nội quy lao động
NSDLĐ Người sử dụng lao động
QHLĐ Quan hệ lao động
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số hiệu Tên biểu đồ Trang
Biểu đồ 2.1 Tổng vốn đầu tư theo đối tác 34
Biểu đồ 2.2 Tốc độ tăng trưởng theo thành phần kinh tế 37
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trên đà hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế
quốc tế. Với những chính sách mở cửa, những năm vừa qua, nền kinh tế Việt
Nam đã có những bước chuyển mình rõ rệt trong sản xuất, kinh doanh và đầu
tư phát triển kinh tế, cùng với sự xuất hiện của hàng loạt các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài lớn, các công ty đa quốc gia. Đặc trưng của các doanh
nghiệp này là ngoài sự chuyên môn hóa cao thì quy mô doanh nghiệp cũng rất
lớn – có những doanh nghiệp có hàng ngàn thậm chí hàng chục ngàn người
lao động (NLĐ). Với trình độ phân công lao động cao cũng như quy mô
doanh nghiệp lớn thì việc đòi hỏi các doanh nghiệp này phải thiết lập và duy
trì trật tự lao động trong đơn vị thường xuyên để có thể vận hành và phát triển
kinh doanh là điều tất yếu.
Quá trình lao động giữa những NLĐ đòi hỏi phải có trật tự, kỷ luật để
hướng hoạt động của từng người vào việc thực hiện kế hoạch chung và tạo ra
những kết quả như mong muốn. Để thực hiện điều này, doanh nghiệp có thể
áp dụng nhiều biện pháp và một trong những biện pháp quản lý quan trọng và
hữu hiệu nhất là nội quy lao động (NQLĐ). Nội quy lao động xuất hiện trong
mọi hoạt động của doanh nghiệp và giúp doanh nghiệp hình thành quy tắc
với doanh nghiệp. Nội quy lao động thực chất là sự cụ thể hóa các quy định
của pháp luật dựa trên những đặc trưng tại từng doanh nghiệp, quy định cụ thể
quyền và nghĩa vụ của NLĐ và doanh nghiệp khi tham gia quan hệ lao động
(QHLĐ) nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên cũng như hạn chế
các tranh chấp lao động có thể phát sinh. Điều này đặc biệt quan trọng hơn
ứng xử chung, thống nhất và bình đẳng giữa những NLĐ cũng như giữa NLĐ
1
với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, do khi tham gia thị trường
lao động Việt Nam, các doanh nghiệp này không chỉ mang công nghệ kỹ
thuật mà còn mang cả văn hóa doanh nghiệp cũng như tư duy quản lý của
nước ngoài. Do đó, NQLĐ không chỉ mang vai trò đơn thuần của việc quy
định quy tắc xử sự của NLĐ mà còn đảm bảo sự quản lý, vận hành của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được tuân thủ theo đúng quy định pháp luật
lao động Việt Nam.
Nhận thức được ý nghĩa quan trọng của NQLĐ với các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, pháp luật lao động Việt Nam nói chung và Bộ luật
lao động năm 2012 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng
xây dựng NQLĐ phù hợp nhằm thiết lập, duy trì và xử lý kỷ luật lao động
đã có những quy định rõ ràng, cụ thể về NQLĐ để các doanh nghiệp có thể
trong doanh nghiệp của mình. Tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, việc xây dựng NQLĐ phù hợp và thiết thực sẽ đóng vai trò quan trọng
trong việc quản lý lao động.
Do đó, việc nghiên cứu và đánh giá một cách có hệ thống NQLĐ tại
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là hoàn toàn cần thiết, qua đó chúng
ta có thể nhìn nhận cụ thể hơn, rõ ràng hơn về tình hình xây dựng, thực hiện
NQLĐ tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và đề xuất một số khuyến
nghị, giải pháp để NQLĐ được áp dụng một cách có hiệu quả tại các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đó là lý do tôi chọn thực hiện đề tài: “Nội
quy lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo pháp
luật lao động Việt Nam” để làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nội quy lao động là một nội dung quan trọng của pháp luật lao động
Việt Nam. Nội dung được đề cập đến trong hầu hết các giáo trình, luận văn,
luận án, bài viết đăng trên tạp chí khoa học...
Các đề tài, luận văn, luận án đã công bố nghiên cứu những vấn đề liên
2
quan đến nội quy lao động bao gồm:
- Luận án tiến sỹ Pháp luật về kỷ luật lao động ở Việt Nam – thực trạng
và giải pháp (2007) của tác giả Trần Thị Thúy Lâm. Qua việc phân tích quy
định pháp luật về kỷ luật lao động, luận án đã dành một phần để phân tích các
quy định pháp luật, đưa ra định nghĩa, đặc điểm cũng như đánh giá thực tiễn
thực hiện nội quy lao động với vai trò là cơ sở pháp lý quan trọng để thiết lập
kỷ luật lao động tại doanh nghiệp.
- Luận văn thạc sỹ Pháp luật lao động Việt Nam về nội quy lao động –
Thực trạng và phương hướng hoàn thiện (2010) của Đặng Thị Oanh. Luận
văn đã đưa ra khái niệm, đặc điểm của nội quy lao động theo pháp luật hiện
pháp luật về nội quy lao động tại Việt Nam. Qua đó, luận văn đưa ra các
hành (BLLĐ 1994) cũng như đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của
khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về nội quy lao động.
- Luận văn thạc sỹ Kỷ luật lao động theo pháp luật Việt Nam hiện nay
và hướng hoàn thiện (2014) của tác giả Hoàng Thị Anh Vân. Thông qua việc
phân tích, đánh giá kỷ luật lao động, luận văn đã gián tiếp đưa ra định nghĩa
về NQLĐ cũng như phân tích những nội dung cơ bản của NQLĐ với tư cách
là cơ sở pháp lý để thiết lập kỷ luật lao động.
- Luận án tiến sỹ Pháp luật về quyền quản lý lao động của người sử
dụng lao động ở Việt Nam (2014) của tác giả Đỗ Thị Dung. Luận án đã
nghiên cứu, đánh giá toàn diện về quyền quản lý lao động dưới góc độ rộng,
lao động dưới ba góc độ: Quy định pháp luật về quyền quản lý của NSDLĐ,
thực trạng quy định pháp luật về quyền quản lý của NSDLĐ và những biện
pháp hoàn thiện pháp luật về quyền quản lý của NSDLĐ. Qua đó, luận án đưa
ra quyền được ban hành NQLĐ của NSDLĐ như một nội dung phân tích
trong phạm vi ban hành NQLĐ.
sâu về vấn đề này. Luận án tiếp cận quyền quản lý của NSDLĐ theo pháp luật
3
- Luận văn thạc sỹ Nội quy lao động theo pháp luật Việt Nam (2014)
của tác giả Nguyễn Hoàng Anh. Luận văn đã nêu ra khái niệm về NQLĐ theo
BLLĐ 2012 cũng như các đặc điểm cơ bản của NQLĐ. Luận văn đã đánh giá
thực trạng quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về NQLĐ cũng như thực
tiễn thực hiện và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của
pháp luật về NQLĐ ở Việt Nam.
- Luận văn tiến sỹ Kỷ luật lao động và trách nhiệm kỷ luật lao động
trong pháp luật Việt Nam (2017) của tác giả Hoàng Thị Huyền. Qua việc
phân tích khái niệm, vai trò của kỷ luật lao động, luận án đã gián tiếp đưa ra
những nội dung, đặc điểm của NQLĐ với vai trò là cơ sở tiền đề, căn cứ để áp
- Luận văn thạc sỹ Quyền quản lý của người sử dụng lao động trong
dụng kỷ luật lao động tại doanh nghiệp.
pháp luật lao động, qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Bình (2018) của tác giả Phan
Thị Hồng Nhung. Luận văn đã nghiên cứu rõ những vấn đề lý luận cơ bản về
quyền quản lý của NSDLĐ như: khái niệm quyền quản lý, đặc điểm quyền
quản lý của NSDLĐ; nội quy pháp luật về quyền quản lý của NSDLĐ…Qua
đó, tác giả đánh giá thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về quyền
quản lý của NSDLĐ tại tỉnh Quảng Bình để đưa ra những kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật về quyền quản lý của NSDLĐ trong đó có nội dung
quyền ban hành Nội quy lao động như một phạm trù của phạm vi ban hành
Nội quy lao động.
và phân tích nội quy lao động trên góc độ là một quy định của xử lý kỷ luật
lao động, như:
- Thực trạng pháp luật về kỷ luật sa thải và một số kiến nghị của ThS
Trần Thị Thúy Lâm đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6 năm 2006;
- Khái niệm và bản chất của kỷ luật lao động của ThS Trần Thị Thúy
Một số bài nghiên cứu đăng trên tạp chí cũng mang tính chất trao đổi
4
Lâm đăng trên Tạp chí Luật học số 9 năm 2006;
- Bài báo của Ths. Hoàng Thị Thanh và Ths. Lê Đăng Đào (2018) “Nội
quy lao động – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn”.
Nhìn chung, NQLĐ được đề cập trong hầu hết các giáo trình, sách
chuyên khảo, luận văn, luận án…Tuy nhiên, các tài liệu này chủ yếu chỉ đề
cập đến NQLĐ ở phương diện lý luận, thực tiễn áp dụng chung mà chưa
nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết với nhóm doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài. Vì vậy, việc nghiên cứu NQLĐ tại doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài sẽ đưa ra cái nhìn rõ hơn về các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn
về NQLĐ tại các doanh nghiệp.
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn không chỉ là nghiên cứu toàn diện,
3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
sâu sắc một số vấn đề lý luận chung về NQLĐ theo quy định của pháp luật
Việt Nam mà còn đưa ra những nghiên cứu, đánh giá về thực tiễn xây dựng
và áp dụng NQLĐ tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thông qua việc phân tích, đánh giá thực tiễn xây dựng và áp dụng
NQLĐ tại các doanh nghiệp, luận văn đề xuất những kiến nghị sửa đổi, bổ
sung hoàn thiện một số quy định về NQLĐ ở Việt Nam nói chung cũng như
tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng theo hướng phù hợp
với sự phát triển của nền kinh tế cũng như thị trường lao động trong bối cảnh
hội nhập nền kinh tế quốc tế.
Thứ nhất, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về
NQLĐ và pháp luật về NQLĐ.
Thứ hai, luận văn phân tích, đánh thực trạng thực hiện các quy định của
pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về NQLĐ tại các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài. Qua đó, tác giả rút ra các nhận xét về những kết quả
đạt được cũng như những vấn đề còn tồn tại, bất cập trong việc áp dụng tại
Từ mục đích này, luận văn sẽ tập trung vào các nhiệm vụ chính sau:
5
các doanh nghiệp.
Thứ ba, tác giả đề xuất các khuyến nghị sửa đổi nhằm hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về NQLĐ tại các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật
đã nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nội quy lao động có thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
Tuy nhiên, luận văn này chỉ nghiên cứu NQLĐ dưới góc độ luật học và trong
phạm vi pháp luật lao động. Cụ thể:
Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu toàn diện, sâu sắc một số
vấn đề lý luận chung về NQLĐ; kết hợp với việc phân tích, đánh giá thực tiễn
áp dụng pháp luật về NQLĐ, cũng như đề xuất các khuyến nghị hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về NQLĐ tại các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện nay.
Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu NQLĐ tại các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi cả nước.
Phạm vi về thời gian: Luận văn tập chung nghiên cứu NQLĐ từ giai
đoạn bộ luật lao động 2012 có hiệu lực thi hành đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
tích, đánh giá vai trò của NQLĐ đối với các chủ thể liên quan.
Luận văn áp dụng phương pháp so sánh, đối chiếu với các quy định của
pháp luật lao động và pháp luật có liên quan ở Việt Nam, quy định của pháp
luật quốc tế trong các công ước, khuyến nghị của Tổ chức Lao động quốc tế
ILO và pháp luật lao động của một số quốc gia trên thế giới có liên quan đến
về Nhà nước và pháp luật, phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để phân
6
NQLĐ để làm rõ một số quy định pháp luật liên quan đến NQLĐ.
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp – so sánh, kết hợp
giữa lý luận và thực tiễn nhằm phân tích những kết quả đạt được cũng như
những tồn tại, hạn chế áp dụng pháp luật về NQLĐ tại các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài hiện nay.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn
diện pháp luật Việt Nam về NQLĐ đặc biệt là đưa ra những nghiên cứu về
thực tiễn áp dụng thực hiện NQLĐ tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý
luận và thực tiễn với những đóng góp mới chủ yếu sau đây:
- Luận văn làm rõ hơn khái niệm NQLĐ, đồng thời làm rõ bản chất, vai
trò của NQLĐ, góp phần làm phong phú thêm về mặt học thuật của khoa học
luật lao động.
- Luận văn khái quát các nội dung của pháp luật lao động về NQLĐ và
phân tích một cách có hệ thống các nội dung này trên cơ sở quy định của ILO
và pháp luật một số quốc gia trên thế giới.
- Luận văn phân tích, đánh giá một cách tương đối đầy đủ và toàn diện
về thực trạng áp dụng pháp luật về NQLĐ tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
hạn chế còn tồn tại trong việc áp dụng NQLĐ tại các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, cũng như đưa ra những luận giải về các hạn chế còn tồn tại
này. Qua đó, luận văn đưa ra một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy
định của pháp luật lao động về NQLĐ nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật lao động để nâng cao hiệu quả thực hiện NQLĐ trong các doanh
- Luận văn đưa ra những đánh giá về điểm đạt được cũng như những
7
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
nghiên cứu trong luận văn được kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về nội quy lao động và pháp luật về
nội quy lao động.
Chương 2. Thực trạng quy định nội quy lao động và thực tiễn thực hiện
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
Chương 3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
8
pháp luật về nội quy lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NỘI QUY LAO ĐỘNG
VÀ PHÁP LUẬT VỀ NỘI QUY LAO ĐỘNG
1.1. Một số vấn đề lý luận về nội quy lao động
1.1.1. Khái niệm nội quy lao động
Trước khi tìm hiểu khái niệm về NQLĐ, cần phải hiểu thế nào là nội
quy? Nội quy là một khái niệm đã được hình thành từ khá lâu trong tiến trình
lịch sử với những quan điểm khác nhau.
quy định trong nội bộ cơ quan tổ chức, doanh nghiệp, địa điểm công cộng
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, “nội quy” được hiểu là “quy chế,
có hiệu lực bắt buộc đối với mọi người khi hiện diện, giao dịch tại địa điểm
đó” [44, tr.300]. Theo đó, nội quy được hiểu là các quy định được ban hành
trong nội bộ tổ chức, tập thể mang tính chất bắt buộc đối với các hành vi ứng
xử của mọi người khi hiện diện trong tập thể đó.
Còn từ điển Tiếng Việt thì giải thích “nội quy” là “những quy định để
đảm bảo trật tự và kỷ luật trong một tập thể, một cơ quan” [40, tr.738]. Theo
định nghĩa này, nội quy cũng được hiểu là những quy định, quy tắc chung
mang tính bắt buộc đối với hành vi của mỗi cá nhân khi tham gia vào hoạt
động chung của một tập thể hoặc một cộng đồng nhằm đảm bảo trật tự, kỷ
nhất hoạt động của các cá nhân với nhau nhằm đạt được những mục đích
chung nhất định của tập thể.
Như vậy, tựu chung lại “nội quy” là tổng thể những quy tắc, quy
định mang tính chất bắt buộc đối với hoạt động của các thành viên trong tổ
chức để đảm bảo tính chặt chẽ của tổ chức đó nhằm đạt được những mục
luật của tổ chức đó. Vì vậy, nội quy còn được hiểu là phương tiện để thống
9
đích chung.
Tùy theo tính chất của từng nhóm quan hệ xã hội cũng như yêu cầu,
mục đích hoạt động mà có nhiều loại nội quy khác nhau; trong đó, NQLĐ là
một dạng nội quy phổ biến bởi lao động là hoạt động chủ yếu và đặc trưng
của loài người.
Như chúng ta đã biết, lao động là “hoạt động có mục đích của con người
nhằm tạo ra các loại sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội” [40, tr.545]. Lao
động của con người là những hoạt động cụ thể có mục đích, được thực hiện
theo một quy trình nhất định nhằm tạo ra các sản phẩm vật chất và tinh thần
theo mục tiêu đặt ra trước đó. Trong cuộc sống, do nhiều lý do khác nhau như
con người không thể thực hiện các hoạt động một cách đơn lẻ mà thay vào đó
yêu cầu, điều kiện của quá trình lao động, mục đích, lợi ích, thu nhập...khiến
con người luôn có xu hướng liên kết, tụ hợp lại để cùng thực hiện một công
việc. Chính việc nhiều người cùng lao động trong một quy trình nhất định đã
đòi hỏi các cá nhân trong tập thể đó cần phải có sự phối hợp, hoạt động nhịp
nhàng với nhau. Việc đảm bảo hoạt động của tập thể được diễn ra hiệu quả
trong mối quan hệ hài hòa của các cá nhân với nhau, của các cá nhân với tập
thể đã dẫn tới một yêu cầu khách quan – đó là sự quản lý.
Các-Mác đã nhận định: Hình thức lao động mà trong đó “nhiều người
làm việc bên cạnh nhau trong một quá trình sản xuất nào đó hoặc là trong
những quá trình sản xuất khác nhau nhưng lại liên kết với nhau thì lao động
mang tính hợp tác. Sự hợp tác này tồn tại mọi lúc, mọi nơi. Để sự hợp tác này
đạt được hiệu quả, mục đích chung thì tất yếu cần có sự quản lý, như Các-
Mác đã viết: “Tất cả mọi lao động trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành
trên quy mô tương đối lớn thì ít, nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều
hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung...” [6].
của họ mang tính hiệp tác” [6]. Rõ ràng, mọi sự liên kết của một tập thể đều
10
Theo tiến trình lịch sử, sự quản lý, điều khiển của người này đối với
người khác không phải là sản phẩm của xã hội hiện đại, mà đã xuất hiện từ rất
sớm. Ngay từ chế độ Cộng sản nguyên thủy, con người đã biết tập hợp nhau
lại thành các nhóm để cùng chung sống. Sự tập hợp thành các nhóm này đã
tạo lên sự gắn kết, sức mạnh tập thể để con người có thể cùng nhau chống
chọi với thiên nhiên và kẻ thù để sinh tồn. Để duy trì hoạt động chung, mỗi cá
nhân phải tuân theo những quy tắc, luật lệ nhất định đã được đặt ra và phải
chịu sự chỉ huy của một người hoặc một nhóm người đứng đầu. Khi xã hội
bắt đầu xuất hiện sự phân công lao động thì sự quản lý trở thành một yếu tố
không thể thiếu để duy trì trật tự lao động và trật tự xã hội. Sự quản lý trong
là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định. Tại thời kỳ chiếm hữu nô lệ,
lao động tại thời kỳ này xuất phát từ quan hệ sản xuất thống trị mà trước hết
quyền lực của chủ nô là tuyệt đối. Mọi thành quả lao động của nô lệ đều thuộc
sở hữu của chủ nô. Vì thế, các quy tắc, nội quy trong hoạt động lao động đều
do giới chủ nô xây dựng theo ý chí của mình. Đến chế độ phong kiến, nông
nô là lực lượng sản xuất chủ yếu để duy trì sự tồn tại của chính quyền phong
kiến, song họ vẫn phải chịu đời sống cực khổ, bị áp bức bóc lột nặng nề. Tổ
chức lao động thời kỳ này đã dựa vào chế độ kỷ luật roi vọt và cưỡng bức
quần chúng nhân dân. Hay tại chế độ tư bản chủ nghĩa, do được xây dựng trên
nền tảng của quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, vì thế xét về bản
chất đây vẫn là một xã hội bóc lột nhưng ở mức độ tiến bộ và tinh vi hơn đó
dựa vào cưỡng bức kinh tế đối với công nhân làm thuê.
Khi xã hội loài người bước sang hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng
chính là thời điểm hình thành và phát triển một chế độ quản lý lao động hoàn
toàn mới. Tính chất của quản lý lao động thời kỳ này được thể hiện bởi mối
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trên tinh thần tự nguyện, tự giác của NLĐ.
là bóc lột về giá trị thặng dư. Do đó, tổ chức lao động ở thời kỳ này chủ yếu
11
Lúc này, NLĐ đã thoát khỏi chế độ lao động hà khắc, bóc lột thô bạo mà thay
vào đó là một chế độ làm việc công bằng, có trật tự, kỷ cương trên cơ sở sức
lao động tự nguyện. Lênin đã viết: “Tổ chức lao động xã hội chủ nghĩa thì
dựa vào và ngày càng dựa vào kỷ luật tự nguyện tự giác của chính ngay
những người lao động” [43, tr.16].
Như vậy, có thể thấy rằng quản lý lao động trong mỗi thời kỳ, mỗi mối
quan hệ xã hội khác nhau thì có những tính chất đặc thù khác nhau. Tuy
nhiên, điểm chung về quản lý lao động trong mỗi thời kỳ đều là sự điều chỉnh,
tác động của chủ thể quản lý lên các đối tượng khác trong quan hệ lao động
nhằm đảm bảo các đối tượng và khách thể này phải tuân thủ khi tham gia vào
của công việc.
quan hệ lao động để đảm bảo sự ổn định, hiệu quả và năng suất chất lượng
Trong quá trình lao động, quyền quản lý lao động của NSDLĐ xuất
phát từ vai trò là chủ sở hữu các tư liệu sản xuất của NSDLĐ. Để đảm bảo
lợi ích của NSDLĐ cũng như trật tự lao động tại cơ sở sản xuất, kinh doanh
nói chung, NSDLĐ có quyền ban hành ra những nguyên tắc, quy tắc ứng
xử đối với những hành vi của NLĐ khi tham gia vào quan hệ lao động.
Trên cơ sở đó, NLĐ có trách nhiệm phải tuân thủ những quy định này của
NSDLĐ. Các quy tắc này được thể hiện trong văn bản pháp lý nhất định,
đó chính là nội quy lao động.
Theo Từ điển Luật học nội quy lao động là “văn bản quy định việc tuân
việc của người sử dụng lao động…” [45].
Giáo trình Luật Lao động – trường Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái
niệm: “Nội quy lao động là văn bản quy định do người sử dụng lao động ban
hành, gồm những quy tắc xử sự chung và xử sự riêng biệt cho từng loại lao
động hoặc khu vực sản xuất; các hành vi vi phạm kỷ luật lao động và các biện
theo thời gian, công nghệ, trật tự trong đơn vị lao động và sự điều hành công
12
pháp xử lý đối với những người có hành vi vi phạm kỷ luật lao động” [41].
Như vậy, dưới góc độ pháp lý với tư cách là chế định của luật lao động,
khái niệm nội quy lao động có thể được hiểu như sau: Nội quy lao động là
văn bản do người sử dụng lao động ban hành dựa trên các quy định của pháp
luật, quy định về các quy tắc xử sự mà người lao động phải tuân thủ khi tham
gia quan hệ lao động, các hành vi vi phạm kỷ luật lao động, cách thức xử lý
và trách nhiệm vật chất.
1.1.2. Đặc điểm nội quy lao động
Thứ nhất, nội quy lao động do NSDLĐ ban hành thể hiện ý chí của
NSDLĐ thông qua việc quy định các nghĩa vụ mà NLĐ được thực hiện.
NSDLĐ. Sự quản lý lao động của NSDLĐ xuất phát từ vai trò là chủ sở hữu
Nội quy lao động bản chất là công cụ thể hiện sự quản lý lao động của
các tư liệu sản xuất của NSDLĐ. Người sử dụng lao động có quyền kiểm tra,
giám sát, quản lý khối lượng tài sản của mình.
Nếu như thỏa ước lao động tập thể ra đời dựa trên sự thỏa thuận giữa
tập thể NLĐ và NSDLĐ; hợp đồng lao động được ký kết với sự tự nguyện và
thống nhất ý chí giữa các bên thì NQLĐ do NSDLĐ soạn thảo và ban hành –
thể hiện ý chí, quan điểm của NSDLĐ trong quá trình vận hành, quản lý
doanh nghiệp, tuy nhiên, trong quá trình soạn thảo NQLĐ, NSDLĐ có tham
khảo ý kiến của tập thể NLĐ. Trao quyền tự chủ trong việc soạn thảo, ban
hành NQLĐ chính là sự thừa nhận của Nhà nước đối với quyền tự chủ trong
bật của NQLĐ so với các loại văn bản nội bộ khác trong doanh nghiệp.
Chính từ quyền tự chủ này, NQLĐ luôn thể hiện ý chí, quan điểm định
hướng quản lý lao động của NSDLĐ. Nếu thỏa ước lao động tập thể ký kết
dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và theo hướng có lợi cho NLĐ thì
NQLĐ lại thể hiện ý chí của NSDLĐ. Nội quy lao động quy định những quy
lĩnh vực tổ chức và quản lý lao động của NSDLĐ. Đây là một đặc trưng nổi
13
tắc xử sự mà NLĐ phải thực hiện, trong đó bao gồm các nội dung chủ yếu
như: Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; trật tự nơi làm việc; an toàn, vệ
sinh lao động ở nơi làm việc; các hành vi vi phạm kỷ luật của NLĐ và các
hình thức xử lý kỷ luật... Những nội dung này sẽ căn cứ trên đặc điểm ngành
nghề sản xuất, kinh doanh, môi trường lao động của từng doanh nghiệp mà có
những quy định khác nhau. Tùy theo đặc trưng của từng ngành nghề sản xuất
kinh doanh mà NSDLĐ sẽ đề ra những tiêu chuẩn, quy định riêng để áp dụng
tại doanh nghiệp nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra
hiệu quả nhất.
Thứ hai, nội quy lao động mang tính quy phạm.
động là văn bản có tính bắt buộc đối với NLĐ và nội quy lao động phải được
Đặc điểm này của NQLĐ thể hiện trên hai phương diện: nội quy lao
ban hành theo nội dung, trình tự, thủ tục không trái với các quy định của pháp
luật lao động.
Tính bắt buộc của nội quy lao động thể hiện khi NQLĐ được ban hành
theo đúng quy định của pháp luật thì tất cả NLĐ trong doanh nghiệp phải tuân
theo các quy tắc đã được nêu trong nội quy. Nếu NLĐ không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng các nội dung quy định trong nội quy lao động, NLĐ sẽ
phải chịu xử lý kỷ luật lao động. Sở dĩ NSDLĐ có quyền này là do xuất phát
từ vị thế của NSDLĐ trong mối quan hệ với NLĐ. Với tư cách là chủ sở hữu
tư liệu sản xuất, NSDLĐ có quyền điều hành NLĐ – với tư cách là người làm
doanh nhằm đem lại lợi nhuận cho chủ sử dụng lao động. Do đó, có thể nói
nội quy lao động chính là “luật lao động” của đơn vị sử dụng lao động – thể
hiện ý chí của NSDLĐ. Mặt khác, trong quá trình sản xuất kinh doanh, để
đảm bảo vận hành tổ chức một nhóm lao động luôn đòi hỏi phải có những quy
tắc xử sự chung nhằm duy trì sự vận hành thống nhất giữa những NLĐ. Mỗi
thuê, đem sức lao động của mình để tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh
14
NLĐ là một mắt xích trong quá trình sản xuất, do đó sự phối hợp hài hòa
trong lao động của mọi người sẽ dẫn đến sự ổn định, thông suốt của quá trình
sản xuất kinh doanh. Nội quy lao động chính là cơ sở để hình thành và duy trì
sự thống nhất trong sản xuất của nhóm NLĐ.
Tuy nhiên, do được đặc quyền tự chủ trong quá trình soạn thảo nội
dung, do đó, để hạn chế sự lạm dụng quyền của NSDLĐ và bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của NLĐ, pháp luật lao động cũng đã có những yêu cầu bắt
buộc về nội dung, trình tự, thủ tục ban hành NQLĐ mà NSDLĐ phải tuân thủ.
Theo đó, nội dung của NQLĐ phải đảm bảo những yêu cầu của pháp luật lao
động và không được trái với những quy định của pháp luật. Đồng thời,
hành nội quy lao động. Ngoài việc phải tham khảo ý kiến của tổ chức đại diện
NSDLĐ cũng phải tuân theo những quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục ban
cho tập thể NLĐ trước khi ban hành nội quy lao động, NSDLĐ còn phải đăng
ký NQLĐ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều này vừa đảm bảo tính
dân chủ của NQLĐ khi được tham khảo ý kiến của đại diện NLĐ vừa đảm
bảo sự tham gia quản lý của nhà nước trong việc thực hiện quyền quản lý lao
động của NSDLĐ.
Thứ ba, nội quy lao động là cơ sở để xử lý kỷ luật lao động.
Đặc điểm này xuất phát từ tính quy phạm của NQLĐ. Như đã phân tích
ở trên, nội quy lao động vừa là sự cụ thể hóa quy định pháp luật về quản lý
lao động đồng thời thể hiện quan điểm, ý chí của NSDLĐ trong việc điều
nghiệp”, đồng thời phải tuân thủ các quy định của pháp luật lao động của nhà
nước. Xuất phát từ bản chất này, các bên khi tham gia quan hệ lao động luôn
có nghĩa vụ phải tuân thủ các quy định của nội quy lao động. NLĐ khi tham
gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh có nghĩa vụ tuân thủ các quy tắc đã
được nêu trong nội quy.
hành doanh nghiệp, do đó có thể thấy, NQLĐ vừa là “luật lao động của doanh
15
Nội dung cơ bản của NQLĐ là các quy tắc, nghĩa vụ mà NLĐ phải thực
hiện - đó là các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, an toàn lao
động, vệ sinh lao động, trật tự tại nơi làm việc, việc bảo vệ tài sản, bí mật
kinh doanh, công nghệ… của NSDLĐ. Những quy định này có tính bắt buộc
đối với toàn thể NLĐ trong doanh nghiệp.
Ngoài quy định về những việc NLĐ được làm, nội quy lao động còn
quy định về các hành vi vi phạm kỷ luật lao động và các biện pháp xử lý kỷ
luật lao động. Nếu NLĐ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy
tắc, nghĩa vụ hoặc thực hiện những hành vi bị cấm thì sẽ bị xử lý theo các
hình thức kỷ luật tương ứng quy định trong nội quy lao động.
xử lý kỷ luật lao động là vì NSDLĐ chỉ được quyền xử lý kỷ luật NLĐ nếu họ
Sở dĩ nội quy lao động được coi là một trong những cơ sở pháp lý để
có hành vi vi phạm được quy định cụ thể trong NQLĐ. Khi có hành vi vi phạm
kỷ luật lao động xảy ra, NSDLĐ sẽ căn cứ vào những quy định có trong nội quy
để đưa ra quyết định xử phạt. Do đó, một yêu cầu bắt buộc khi xây dựng NQLĐ
đó là phải cụ thể hóa các quy tắc xử sự mà NLĐ phải tuân theo cũng như các
quyền quản lý lao động thông qua nội quy lao động của NSDLĐ.
Tóm lại, xuất phát từ vị thế chủ sở hữu với đặc quyền ban hành nội quy
lao động nên mọi NQLĐ khi được soạn thảo và ban hành đều mang ý chí của
NSDLĐ với các quy định mang tính chất bắt buộc đối với NLĐ khi tham gia
quan hệ lao động. Tuy nhiên, dù xây dựng theo hướng nào thì NQLĐ vẫn buộc
tục ban hành để hạn chế sự lạm quyền của chủ sử dụng lao động là phù hợp.
phải tuân theo những quy định bắt buộc của pháp luật về nội dung cũng như thủ
1.1.3. Vai trò của nội quy lao động
Nội quy lao động là cơ sở để tổ chức lao động một cách khoa học, có
hiệu quả trong từng doanh nghiệp. Bằng việc duy trì nội quy lao động, NLĐ
được bố trí, sắp xếp hợp lý theo từng tính chất công việc nhất định để vừa
16
đảm bảo ổn định sản xuất, đời sống của NLĐ vừa góp phần xây dựng trật tự,
kỷ cương xã hội. Do đó, nội quy lao động có vai trò quan trọng đối với cả
Nhà nước, NSDLĐ và NLĐ.
Thứ nhất, nội quy lao động giúp Nhà nước gián tiếp tham gia quản lý
lao động tại đơn vị sử dụng lao động ban hành NQLĐ đó.
Nội quy lao động là sự cụ thể hóa các quy định của pháp luật lao động
cho phù hợp với thực tế của các doanh nghiệp. Nhà nước công nhận quyền
được ban hành NQLĐ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các nội dung, quy trình
và thủ tục ban hành NQLĐ phải tuân thủ theo những quy định cụ thể của pháp
luật. Qua đó, định hướng quản lý lao động của nhà nước được thể hiện trong
hướng quản lý lao động của nhà nước được thể hiện rõ nét hơn.
NQLĐ. Như vậy, thông qua nội quy lao động, đường lối quan điểm, định
Thứ hai, nội quy lao động chính là căn cứ pháp lý quan trọng để NSDLĐ
thực hiện quyền quản lý của mình trong việc tổ chức, điều hành lao động theo
nhu cầu sản xuất kinh doanh; trong việc tuyên dương khen thưởng hay phê
bình và xử lý vi phạm lao động.
Nội quy lao động có thể được ví như luật riêng của NSDLĐ để thực
hiện mục tiêu quản lý của mình. Dựa trên những quy tắc được quy định trong
nội quy lao động, NSDLĐ có quyền ra quyết định sắp xếp, tổ chức, điều hành
sản xuất theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp cũng như thiết
lập và duy trì trật tự, nề nếp trong đơn vị.
xử lý kỷ luật NLĐ vi phạm các quy định của NQLĐ. Nội quy lao động quy
định các hành vi được xem là vi phạm kỷ luật lao động và đưa ra các hình
thức xử lý kỷ luật tương ứng. Vì vậy, nội quy lao động phải được ban hành và
đăng ký theo đúng quy định pháp luật và công khai cho NLĐ thì mới được coi
là căn cứ hợp lệ để xem xét và xử lý kỷ luật lao động.
Thứ ba, nội quy lao động là cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
Nội quy lao động cũng chính là căn cứ để quy kết trách nhiệm vật chất,
17
của NLĐ trong mối quan hệ với NSDLĐ.
Trong quan hệ lao động, NLĐ vốn là nhóm yếu thế do phải chịu sự
phân công công việc, chỉ đạo, điều hành của NSDLĐ nên không tránh khỏi
những hiện tượng bị bóc lột, xâm phạm những lợi ích hợp pháp. Do đó, việc
quy định người sử dụng phải ban hành NQLĐ và công khai cho mọi NLĐ sẽ
làm minh bạch hóa các nghĩa vụ của NLĐ trong doanh nghiệp. Khi đó,
NSDLĐ sẽ không được phép tùy tiện xử lý NLĐ mà phải căn cứ vào NQLĐ.
Mặt khác, thông qua nội quy lao động, NLĐ có thể biết được những
hành vi nào được phép làm, hành vi nào không được phép làm, từ đó chấp
hành nghiêm chỉnh các quy định trong nội quy lao động, tránh được các hậu
cũng có thể biết được mức độ vi phạm của mình và hình thức xử phạt tương
quả bất lợi cho bản thân và cho doanh nghiệp. Khi có hành vi vi phạm, NLĐ
ứng, tránh trường hợp người sử dụng lạm quyền, xử lý không đúng.
1.2. Pháp luật về nội quy lao động
1.2.1. Khái niệm pháp luật về nội quy lao động
Pháp luật là công cụ của Nhà nước để tác động lên các quan hệ xã hội.
Thông qua các quy phạm pháp luật, Nhà nước quy định cho các bên tham gia
quan hệ xã hội một số quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định, đồng thời pháp
luật cũng xác lập những điều kiện để đảm bảo cho các quyền và nghĩa vụ đó
được thực hiện. Theo giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật của trường
Đại học Luật Hà Nội, “điều chỉnh pháp luật là quá trình nhà nước dùng pháp
viên trong xã hội nhằm đạt được những mục đích đề ra” [42]. Như vậy, điều
chỉnh các quan hệ xã hội thông qua pháp luật là một hoạt động có mục đích,
có tổ chức và được thực hiện thông qua một hệ thống các phương tiện, quy
trình pháp lý – hay còn gọi là cơ chế điều chỉnh pháp luật.
Trong quan hệ lao động, khi sức lao động được coi như một loại hàng
luật (với tư cách là công cụ điều chỉnh) tác động lên hành vi của các thành
18
hóa, được đem ra trao đổi, thuê mướn…thì việc quản lý, điều chỉnh quan hệ
lao động lại càng quan trọng, nhất là trong mối quan hệ giữa NSDLĐ và NLĐ
vốn đã mang sự phân biệt rõ rệt giữa một bên là chủ sở hữu tư liệu sản xuất và
một bên là người làm thuê, chịu sự quản lý điều hành của NSDLĐ. Do đó, để
đảm bảo cân bằng lợi ích của hai bên trong mối quan hệ này là vô cùng phức
tạp – vừa phải bảo vệ quyền lợi hợp pháp của chủ thể yếu thế (NLĐ) nhưng
vẫn phải tôn trọng quyền được tự chủ trong quản lý lao động của chủ doanh
nghiệp (NSDLĐ). Vì vậy, một yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải có sự điều
chỉnh của pháp luật về NQLĐ để đảm bảo quyền lợi cũng như hài hòa lợi ích
của các bên trong QHLĐ, đảm bảo cho QHLĐ được duy trì và phát triển bền
trong việc duy trì quan hệ lao động.
vững. Sự tham gia của pháp luật trong QHLĐ có ý nghĩa vô cùng quan trọng
Thứ nhất, pháp luật về nội quy lao động thể hiện đường lối quản lý của
nhà nước trong lĩnh vực lao động, tạo cơ sở để xây dựng và ban hành NQLĐ.
Nhà nước xây dựng hành lang pháp lý, cụ thể hóa các quy định dưới hình thức
các văn bản pháp luật về lao động, tạo cơ sở cho người sử dụng ban hành và tổ
chức thực hiện NQLĐ một cách đầy đủ, hiệu quả hơn, đảm bảo tính thực thi của
NQLĐ. Dưới sự điều chỉnh của pháp luật, doanh nghiệp không thể tùy tiện đặt ra
các quy định trái pháp luật, trái với thỏa ước lao động tập thể.
Thứ hai, pháp luật về nội quy lao động có tác dụng định hướng cho
hành vi xử sự của NSDLĐ khi ban hành NQLĐ, nhằm kiểm soát việc ban
góp phần điều hòa lợi ích của NLĐ và NSDLĐ. Với hàng loạt các quy định
của pháp luật về nguyên tắc ban hành, nội dung chủ yếu của NQLĐ, quy định
về trình tự, thủ tục ban hành và đăng ký NQLĐ… đã định hướng cho việc ban
hành nội quy lao động của NSDLĐ. Tùy vào quy mô, tính chất và sự phát
triển của mỗi doanh nghiệp mà NSDLĐ xây dựng và ban hành NQLĐ phù
hành NQLĐ trái pháp luật, ngăn ngừa sự lạm quyền từ phía NSDLĐ; qua đó
19
hợp với quy định của pháp luật. Nếu NSDLĐ không tuân thủ đúng quy định
của pháp luật thì sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định pháp luật. Bằng
những quy định đó, điều chỉnh pháp luật về NQLĐ đã kiểm soát được hành vi
vi phạm pháp luật của NSDLĐ trong việc ban hành NQLĐ, góp phần bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ.
Như vậy, pháp luật về nội quy lao động là tổng thể các quy định pháp
luật về NQLĐ tác động lên hành vi của các chủ thể tham gia trong quan hệ
pháp luật về NQLĐ (cụ thể bao gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
NSDLĐ và NLĐ, tổ chức đại diện cho tập thể NLĐ) nhằm đảm bảo NQLĐ
phát huy được hết vai trò của mình, qua đó duy trì và phát triển bền vững
quan hệ lao động.
1.2.2. Nguyên tắc ban hành nội quy lao động
Nội quy lao động là văn bản quy định do NSDLĐ ban hành, gồm
những quy tắc xử sự chung và những quy tắc xử sự riêng biệt cho từng loại
lao động, các hành vi được coi là vi phạm kỷ luật lao động và các biện pháp
xử lý tương ứng. Nội quy lao động không chỉ là sự cụ thể hóa các quy định
của pháp luật mà còn là sự kết hợp, điều chỉnh các quy định ấy sao cho phù
hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp. Do đó, khi ban hành NQLĐ phải
đảm bảo NQLĐ không được trái với pháp luật lao động cũng như các quy
định khác của pháp luật có liên quan đồng thời phải tham khảo ý kiến, quan
điểm của các chủ thể liên quan.
được trái với pháp luật về lao động và quy định khác của pháp luật có liên
quan. Nhà nước công nhận và trao quyền cho NSDLĐ được tự mình soạn
thảo, ban hành NQLĐ trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, nội dung của NQLĐ
phải phù hợp với pháp luật lao động và thỏa ước lao động tập thể (nếu có)
trong doanh nghiệp. Người sử dụng lao động phải tham khảo ý kiến của các
Theo pháp luật Việt Nam, nội dung của NQLĐ trước hết phải không
20
chủ thể khác về những nội dung đã quy định trong nội quy. Tùy theo phong
tục, tập quán của từng nước mà đối tượng để tham khảo ý kiến trước khi
ban hành nội quy có thể khác nhau, song hầu hết đều quy định đại diện
NLĐ là chủ thể chủ yếu để tham khảo ý kiến trước khi người sử dụng ban
hành nội quy lao động.
Đồng thời, để có hiệu lực pháp luật thì trình tự, thủ tục ban hành nội
quy cũng phải tuân thủ những quy định cụ thể. Theo đó, nội quy bắt buộc phải
được đăng ký tại một cơ quan có thẩm quyền nhằm kiểm tra, cho phép trước
khi thực hiện. Ở Việt Nam, nội quy lao động phải được đăng ký tại cơ quan
quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh. Khi nội quy lao động có hiệu lực pháp
chính của NQLĐ phải được niêm yết ở những nơi cần thiết tại nơi làm việc.
luật, NSDLĐ phải có trách nhiệm thông báo cho NLĐ biết và những nội dung
Việc thông báo này được xem là nghĩa vụ bắt buộc của NSDLĐ. Trường hợp
NSDLĐ không ban hành nội quy lao động hoặc không thông báo các quy
định trong nội quy thì xem như không có quyền xử lý kỷ luật lao động.
1.2.3. Nội dung của nội quy lao động
Nội dung của nội quy lao động là một trong những yêu cầu quan trọng
khi ban hành nội quy lao động. Để đảm bảo tính hợp pháp, NQLĐ không chỉ
thể hiện ý chí, quan điểm quản lý lao động của NSDLĐ mà còn phải thể hiện
đầy đủ, cụ thể những nội dung bắt buộc theo quy định của pháp luật.
Ở mỗi nước, do phong tục, tập quán hay do quan điểm của các nhà lập
quy định thành một chế định trong pháp luật lao động hoặc được quy định rải
rác trong các chế định khác, được quy định chi tiết hoặc chỉ là các quy định
mang tính nguyên tắc trong các văn bản pháp luật lao động. Thực tế trên thế
giới, pháp luật nhiều nước chưa đưa ra các quy định về NQLĐ một cách rõ
ràng. Ngay cả Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cũng chưa đưa ra một Công
pháp khác nhau nên các nội dung bắt buộc của NQLĐ sẽ khác nhau và được
21
ước cụ thể, riêng biệt về NQLĐ, mà chỉ mới quy định rải rác trong một số văn
bản như: Công ước 150 năm 1978 về quản lý lao động: vai trò, chức năng và
tổ chứ; Công ước 155 ngày 22/06/1981 về an toàn lao động, vệ sinh lao động
và môi trường lao động; Công ước 14 năm 1921 về áp dụng nghỉ hàng tuần
trong các cơ sở công nghiệp,... Song, xuất phát từ vai trò quan trọng của
NQLĐ nên pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều quy định về nội
quy lao động. Nhìn chung, theo pháp luật các nước như Pháp, Nhật Bản,
Campuchia, Hàn Quốc, Việt Nam… thì nội quy lao động phải bắt buộc ban
hành ở các đơn vị sử dụng nhiều lao động, nhằm để thiết lập kỷ luật lao động
và làm cơ sở để xử lý vi phạm kỷ luật lao động trong đơn vị sử dụng lao động
một số nước lại không bắt buộc NSDLĐ phải ban hành nội quy lao động như
một cách ổn định, tránh thiên vị [3, tr.113-115]. Bên cạnh đó, pháp luật của
Ấn Độ, Anh, Canada, Hoa Kỳ… Các nước khác như Australia và Srilanka thì
nội quy lao động không được quy định trong luật [19, tr.48].
Do chưa được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật nên tùy theo
mỗi quốc gia, nội dung của NQLĐ được quy định khác nhau. Ở một số nước
trong đó có Việt Nam thì pháp luật về NQLĐ thường quy định về các vấn đề
sau: chủ thể và phạm vi ban hành nội quy lao động; nội dung nội quy lao
động; thủ tục ban hành nội quy lao động; hiệu lực của nội quy lao động.
Thứ nhất, về chủ thể và phạm vi ban hành nội quy lao động.
Hầu hết pháp luật các nước đều quy định NQLĐ được ban hành bởi
giữa người chủ sở hữu tư liệu sản xuất và người làm thuê. Do chiếm ưu thế về
sở hữu tư liệu sản xuất nên NSDLĐ có toàn quyền điều hành, tổ chức, phân
công hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp của mình. Để đảm
bảo được sự hoạt động có hiệu quả của doanh nghiệp, NSDLĐ cần ban hành
các quy tắc chung để thiết lập trật tự, quy tắc ứng xử mang tính bắt buộc đối
với NLĐ trong doanh nghiệp. Qua đó, NSDLĐ điều chỉnh, định hướng hành
NSDLĐ. Điều này xuất phát từ mối quan hệ lao động giữa NSDLĐ và NLĐ –
22
vi của NLĐ để hoạt động sản xuất được diễn ra hiệu quả.
Pháp luật của đa số quốc gia đều công nhận quyền ban hành NQLĐ
phải thuộc về người có quyền cao nhất trong đơn vị sử dụng lao động – đó là
chủ sử dụng lao động. Tuy nhiên, ở các nước khác nhau sẽ có những quy định
khác nhau về phạm vi quyền ban hành nội quy lao động của NSDLĐ.
Hiện nay, quan niệm của các quốc gia về việc ban hành NQLĐ được
thể hiện thông qua quan niệm về quyền quản lý lao động của NSDLĐ, chủ
yếu qua hai học thuyết: Thuyết tổ chức (Institutional theory) và Thuyết hợp
đồng (Contractual theory). Thuyết tổ chức được biết đến với tư cách là học
thuyết về quyền của bên sử dụng lao động. Thuyết hợp đồng nảy sinh trực
các doanh nghiệp xây dựng và phát triển các thỏa thuận pháp lý [19].
tiếp từ các nguyên tắc của luật dân sự, nghiên cứu về cách thức các cá nhân và
Theo thuyết tổ chức, quyền quản lý lao động của NSDLĐ phát sinh từ
quan điểm tổ chức có thứ bậc mà ở đó NSDLĐ là người đứng đầu. Trước đây,
pháp luật của các nước theo thuyết tổ chức trao cho NSDLĐ có toàn quyền
trong việc ban hành và tổ chức thực hiện NQLĐ để thực hiện quyền quản lý
lao động của mình mà không cần tham khảo ý kiến của bất kỳ chủ thể có liên
quan nào. Tuy nhiên, ngày nay với sự phát triển ngày càng lớn mạnh của tổ
chức công đoàn cũng như chủ nghĩa nhân quyền được nâng cao thì quyền ban
hành NQLĐ của người sử dụng cũng hạn chế hơn. Theo đó, NSDLĐ trước
khi ban hành nội quy lao động phải tham khảo ý kiến của các chủ thể liên
Theo thuyết hợp đồng, quyền quản lý lao động của NSDLĐ phát sinh
từ hợp đồng (Hợp đồng lao động). Theo đó, các bên tham gia quan hệ lao
động (NSDLĐ và NLĐ) trên cơ sở tự nguyện ý chí, thỏa thuận và cam kết
thực hiện các quy định mà NSDLĐ đưa ra trong quá trình lao động nhằm đảm
bảo hoạt động sản xuất kinh doanh được hiệu quả, không trái với pháp luật
quan như đại diện NLĐ (Công đoàn).
23
(đây chính là NQLĐ). Xuất phát từ chính cam kết này mà NLĐ phát sinh
nghĩa vụ phải tuân theo sự chỉ đạo, điều hành của NSDLĐ, đồng thời trao cho
NSDLĐ quyền được ban hành các quy định cụ thể để thực hiện quyền quản lý
lao động của mình.
Dù tiếp cận ở góc độ khác nhau nhưng nhìn chung, cả hai học thuyết
đều thừa nhận quyền tự chủ ban hành nội quy lao động của NSDLĐ. Đây
được xem là quyền và nghĩa vụ của NSDLĐ. Theo đó, các doanh nghiệp có
quy mô nhất định thì buộc phải ban hành nội quy lao động. Yêu cầu về mức
độ, quy mô của doanh nghiệp tại từng quốc gia sẽ khác nhau tùy thuộc theo
trình độ quản lý sản xuất. Chẳng hạn như ở Pháp, theo quy định của Luật Lao
động trở lên bắt buộc phải ban hành nội quy lao động [26]. Tại Việt Nam, quy
động bổ sung năm 1982 thì ở những doanh nghiệp sử dụng từ 20 người lao
định về quy mô tại các doanh nghiệp bị yêu cầu bắt bộc phải ban hành nội
quy lao động cũng khác nhau theo từng thời kỳ. Theo sắc lệnh số 29-SL ngày
12/03/1947 thì: “Các xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ và thương điểm dùng quá 25
công nhân phải lập một bản nội quy”. Ở giai đoạn Việt Nam cộng hòa thì theo
Bộ luật Việt Nam cộng hòa năm 1950: “Các xí nghiệp kỹ nghệ, khoáng sản hay
thương mại dùng ít nhất 20 thợ thuyền phải lập một bản nội quy, gọi là quy –
điều – nội – trị hay quy – điều – xưởng” [1, tr.30]. Từ bộ luật lao động 1994 đến
bộ luật lao động 2012 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy
định NSDLĐ sử dụng từ 10 NLĐ trở lên phải có NQLĐ bằng văn bản.
hai thuyết đã được điều chỉnh để phù hợp hơn với tiến trình phát triển của
pháp luật hiện đại. Theo đó, việc ban hành NQLĐ không còn xem là “quyền
năng đặc biệt” và đơn phương của NSDLĐ nữa mà buộc NSDLĐ “phải tham
khảo đầy đủ ý kiến của Hội đồng doanh nghiệp hoặc của đại diện NLĐ, phải
được thanh tra lao động kiểm tra cho phép trước khi thực hiện [26, tr.54]. Ví dụ,
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế cũng như kỹ thuật lập pháp, cả
24
ở Cộng hòa Séc, Bộ luật lao động quy định nội quy lao động phải được ban hành
bởi NSDLĐ, song, ở những doanh nghiệp có tổ chức công đoàn thì NSDLĐ chỉ
có thể ban hành hoặc sửa đổi nội quy lao động sau khi có sự chấp nhận bằng văn
bản của tổ chức công đoàn về việc ban hành hoặc sửa đổi đó, nếu không có sự
chấp thuận của công đoàn nội quy lao động sẽ bị xem là vô hiệu [46].
Mặc dù ý kiến của công đoàn chỉ mang tính tham khảo nhưng rõ ràng,
sự tham gia của tổ chức đại diện NLĐ – Công đoàn đã góp phần hạn chế sự
lạm quyền NSDLĐ trong quá trình xây dựng, ban hành nội quy lao động, góp
phần bảo đảm các quyền lợi chính đáng của NLĐ.
Thứ hai, về nội dung của nội quy lao động.
tắc xử sự do NSDLĐ đề ra mang tính chất bắt buộc đối với tất cả NLĐ trong
Nội quy lao động là văn bản cụ thể hóa các quy định pháp luật về quy
doanh nghiệp. Tùy theo pháp luật mỗi quốc gia mà nội quy lao động có những
nội dung khác nhau. Ở Cộng hòa liên bang Đức, các nội dung cơ bản tập
trung quy định về: vệ sinh an toàn lao động, tính chất, thể thức và các mức xử
lý trách nhiệm kỷ luật cụ thể thuộc thẩm quyền của chủ doanh nghiệp cũng
như quy định về khen thưởng đối với những người chấp hành tốt kỷ luật lao
động [59]. Trong khi đó NQLĐ ở Anh ngoài các nội dung như Đức còn có
những quy định rất cụ thể về thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, bảo vệ
tài sản và bí mật thông tin của doanh nghiệp [60].
Như vậy, nhìn chung NQLĐ gồm hai nhóm nội dung chính, bao gồm:
trật tự tại nơi làm việc; các quy định về sử dụng máy móc, thiết bị, an toàn, vệ
sinh lao động; bảo vệ tài sản và bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, sở hữu
trí tuệ của NSDLĐ…) và các biện pháp xử lý đối với NLĐ có hành vi vi
phạm các quy định đã đặt ra (xử lý kỷ luật, trách nhiệm vật chất…). Trong đó,
các quy định về kỷ luật lao động là nội dung không thể thiếu trong quy định
của pháp luật lao động các nước về nội dung của nội quy lao động. Điều này
các quy định buộc NLĐ phải thực hiện (thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi;
25
hoàn toàn phù hợp với bản chất và vai trò của nội quy lao động – quy tắc xử
sự chung của doanh nghiệp do người chủ sở hữu xây dựng và ban hành nhằm
điều chỉnh hành vi của NLĐ trong quá trình vận hành, quản lý doanh nghiệp.
Nội quy lao động thực chất là văn bản quy định do người sử dụng lao
động ban hành, gồm những quy tắc xử sự chung và những quy tắc xử sự riêng
biệt cho từng loại lao động, các hành vi được coi là vi phạm kỷ luật lao động
và các biện pháp xử lý tương ứng. Điều này dễ lý giải bởi lẽ kỷ luật lao động
thuộc quyền quản lý lao động của người sử dụng lao động nên Nhà nước
không thể quy định cụ thể các vấn đề kỷ luật lao động, mà chỉ quy định những
nội dung chính. Trên cơ sở nền tảng đó, người sử dụng lao động sẽ cụ thể hóa
từng đơn vị. Hầu hết các nước đều quy định người sử dụng lao động chỉ được
thành bản nội quy lao động riêng phù hợp với những điều kiện cụ thể của
xử lý kỷ luật đối với người lao động khi họ thực hiện hành vi vi phạm kỷ luật
và hành vi đó phải được quy định trong bản nội quy lao động. Điều này cũng
nhằm mục đích hạn chế sự lạm quyền của chủ sử dụng lao động và bảo vệ
quyền lợi hợp pháp cho người lao động khi tham gia quan hệ lao động
Thứ ba, về thủ tục ban hành nội quy lao động.
Để nội quy lao động có hiệu lực, ngoài việc tuân thủ các quy định về
nội dung thì việc ban hành nội quy cũng phải tuân theo các quy định chặt chẽ.
Theo đó, trước khi ban hành nội quy lao động, NSDLĐ phải tham khảo ý kiến
của các chủ thể khác về các điều khoản chính trong nội quy lao động. Tùy
nhau về đối tượng được tham khảo ý kiến. Nhìn chung, pháp luật các nước
thường quy định đối tượng được tham khảo ý kiến là các tổ chức đại diện
NLĐ (Công đoàn), hội đồng doanh nghiệp (theo pháp luật Pháp)
Mặt khác, để bản NQLĐ có hiệu lực, NSDLĐ bắt buộc phải đăng ký tại
cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm
theo phong tục, tập quán của từng nước mà pháp luật có những quy định khác
tra, xác nhận tính hợp pháp và chấp thuận trước khi thực hiện.
26
Sau khi NQLĐ được cơ quan thẩm quyền chấp thuận, NSDLĐ phải
thông báo cho NLĐ biết và niêm yết nội dung chính của NQLĐ tại những nơi
cần thiết để NLĐ biết và chấp hành tốt các quy định trong nội quy lao động,
tránh để quyền và lợi ích của mình bị ảnh hưởng do không biết các quy định
đó. Như vậy, tuân thủ các trình tự, thủ tục ban hành nội quy lao động như
tham khảo ý kiến tổ chức đại diện tập thể NLĐ, đăng ký với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, thông báo công khai nội quy lao động đến NLĐ… là
27
nghĩa vụ bắt buộc đối với NSDLĐ.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Nội quy lao động là văn bản do NSDLĐ ban hành dựa trên những
quy định của pháp luật lao động và pháp luật liên quan, quy định về các
quy tắc xử sự mà NLĐ có trách nhiệm bắt buộc phải tuân thủ khi tham gia
quan hệ lao động, quy định về các hành vi kỷ luật lao động, cách thức xử lý
và trách nhiệm vật chất nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa NLĐ và
NSDLĐ trong quá trình lao động. Nội quy lao động có ba đặc điểm cơ bản
sau: do NSDLĐ ban hành thể hiện định hướng quản lý của NSDLĐ thông
qua việc quy định các nghĩa vụ mà NLĐ phải thực hiện; mang tính qui
Nội quy lao động không chỉ là phương tiện rõ nhất thể hiện quyền quản
phạm và là cơ sở để xử lý kỷ luật lao động.
lý lao động của NSDLĐ, có ý nghĩa lớn đối với NLĐ mà còn có vai trò quan
trọng đối với Nhà nước và xã hội. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm hài
hòa mối quan hệ giữa NLĐ và NSDLĐ, đồng thời thể hiện sự quản lý của
Nhà nước trong lĩnh vực lao động nói chung và pháp luật lao động về nội quy
lao động nói riêng. Nội quy lao động càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết khi đặt
28
trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay.
Chương 2
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH NỘI QUY LAO ĐỘNG VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
2.1. Khái quát chung về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam
kinh tế thế giới thực sự là một tổng thể chứa đựng nền kinh tế các quốc gia và
Trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, nền
khu vực trên phạm vi toàn cầu. Quốc tế hóa và khu vực hóa kinh tế là những
quá trình khách quan không đảo nghịch. Chúng tạo cơ hội lớn chưa từng có
trong lịch sử, nhưng đồng thời cũng là những thách thức lớn đối với sự phát
triển của từng quốc gia, từng khu vực với tư cách là một bộ phận hữu cơ của
nền kinh tế thế giới thống nhất. Hiện nay, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài
đang trở thành một bộ phận chủ yếu trong quan hệ kinh tế thế giới và là nhân
tố quan trọng của nhiều nước, nhằm hỗ trợ và phát huy lợi thế so sánh của
mỗi quốc gia để phát triển. Sự tăng trưởng kinh tế làm cho các mặt khác của
nền kinh tế được cải thiện, gia tăng. Để có được sự tăng trưởng kinh tế, điều
vốn nước ngoài. Bởi vì vốn đầu tư là một mắt xích quan trọng nhất trong
vòng tròn tác động lẫn nhau giữa vốn, kỹ thuật và tăng trưởng.
Khái niệm đầu tư quốc tế ra đời từ thế kỷ XIX khi trên thế giới xuất
hiện hiện tượng nhập khẩu tư bản từ nước thừa sang nước thiếu, khái niệm
đầu tư quốc tế ra đời. Theo các nhà kinh tế học, đầu tư quốc tế là một hình
kiện thiết yếu là phải có vốn đầu tư và nguồn vốn bao gồm cả trong nước và
29
thức quan trọng của kinh tế đối ngoại, trong đó có sự di chuyển tư bản từ quốc
gia này sang quốc gia khác nhằm thực hiện các dự án đầu tư nhằm mang lại
lợi ích cho các bên tham gia. Theo Lênin, đầu tư quốc tế - còn gọi là xuất
khẩu tư bản là một hình thức cơ bản của quan hệ kinh tế đối ngoại. Nó là quá
trình trong đó hai hay nhiều bên cùng góp vốn để xây dựng và triển khai một
dự án đầu tư quốc tế nhằm mục đích sinh lợi.
Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên trong một thời gian
tương đối dài nhằm thu được lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế - xã hội. Vốn đầu
tư bao gồm:
- Tiền tệ các loại: nội tệ, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý…
- Hiện vật hữu hình: tư liệu sản xuất, tài nguyên, hang hóa, nhà xưởng…
- Hàng hóa vô hình: sức lao động, công nghệ, thông tin, bí quyết kỹ
thuật, phát minh – sáng chế…
- Các phương tiện đặc biệt khác: Cổ phiếu, hối phiếu, trái phiếu, các
chứng từ có giá khác.
Theo Khoản 6 Điều 3 Luật Đầu tư 2005 thì doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài là “doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập thực hiện
hoạt động đầu tư tại Việt Nam; doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước
ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại”. Đến Luật Đầu tư 2014 thì khái niệm về
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại không được đưa ra trực tiếp mà thông
3 Luật đầu tư 2014 thì “Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh
tế có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông”. Theo đó thì doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp có nhà đầu tư nước ngoài là
thành viên hoặc cổ đông. Như vậy, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thể
hiện dưới hai hình thức: doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài (Đầu tư trực
qua khái niệm về tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Theo Khoản 17 Điều
30
tiếp) hoặc doanh nghiệp liên doanh (Đầu tư gián tiếp).
Hiện nay có nhiều khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài do các tổ
chức quốc tế đưa ra. Cụ thể:
Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đầu tư trực tiếp nước ngoài
(Foreign Direct Investment, viết tắt là FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một
nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu
tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý được dùng để phân
biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu
tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là cơ sở kinh doanh. Trong
những trường hợp như vậy, nhà đầu tư thường được gọi là “công ty mẹ” và các
tài sản được gọi là “công ty con” hay “chi nhánh công ty” [61].
Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund – viết tắt IMF),
FDI là một hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm đạt được những lợi ích lâu
dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác
nền kinh tế chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực
sự doanh nghiệp. Theo định nghĩa này, đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di
chuyển vốn mang tính dài hạn giữa các quốc gia. Đây là một đặc điểm phân
biệt giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp nước ngoài [56].
Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (The Organisation for
Economic Co-operation and Development – viết tắt là OECD), đầu tư trực
tế dài lâu với một doanh nghiệp, đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả
năng tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp nói trên bằng cách:
thành lập hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn
quyền quản lý của chủ đầu tư; mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có; tham gia
vào một doanh nghiệp mới; cấp tín dụng dài hạn (>5 năm); quyền kiểm soát
tiếp là hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh
31
nắm từ 10% cổ phiếu thường hoặc có quyền biểu quyết trở lên [56].
Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (United Nations
Conference on Trade and Development – viết tắt là UNCTAD) đưa ra khái
niệm đầu tư trực tiếp trong báo cáo đầu tư thế giới năm 1996: Đầu tư trực tiếp
nước ngoài là đầu tư có mối liên hệ, lợi ích và sự kiểm soát lâu dài của một
pháp nhân hoặc thể nhân (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ)
đối với một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác (doanh nghiệp FDI hoặc chi
nhánh nước ngoài hoặc chi nhánh doanh nghiệp) [58, tr.219].
Với định nghĩa này của UNCTAD, có thể thấy trong hình thức đầu tư
nước ngoài, chủ sở hữu vốn đồng thời người trực tiếp quản lý và điều hành
Dù với quan điểm, định nghĩa nào thì đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn
hoạt động sử dụng vốn, do lợi ích của họ gắn liền với hiệu quả đầu tư.
mang đặc trưng cơ bản là một khoản đầu tư đòi hỏi một mối quan tâm lâu dài
và phản ánh lợi ích dài hạn và quyền kiểm soát của một chủ thể cư trú ở một
nền kinh tế trong một doanh nghiệp cư trú ở một nền kinh tế khác.
Trong khi đó, đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư gián tiếp xuyên biên
giới. Nó chỉ các hoạt động mua tài sản tài chính nước ngoài nhằm kiếm lời.
Hình thức đầu tư này không kèm theo việc tham gia vào các hoạt động quản
lý và nghiệp vụ của doanh nghiệp giống như hình thức đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Theo Điều 3 Luật Đầu tư 2005 thì “Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu
tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác;
gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia hoạt động đầu tư”. Theo
cách hiểu này, đầu tư gián tiếp nước ngoài là các khoản đầu tư gián tiếp do
các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện. Cách hiểu này tương đồng với định
nghĩa chung của các tổ chức quốc tế trên thế giới: “Đầu tư gián tiếp nước
ngoài (FPI) là hoạt động mua chứng khoán (cổ phiếu hoặc trái phiếu) được
thông qua quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung
phát hành bởi một công ty hoặc cơ quan chính phủ của một nước khác trên
32
thị trường tài chính trong hoặc nước ngoài” [57].
Xuất phát từ định nghĩa và hình thức đầu tư, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài mang những đặc điểm điểm pháp lý sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bắt buộc phải có sự
có mặt của nhà đầu tư nước ngoài với tư cách là chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở
hữu của doanh nghiệp. Nhà đầu tư nước ngoài được hiểu là các cá nhân có
quốc tịch nước ngoài, tổ chức được thành lập ở nước ngoài, họ chịu sự chi
phối lớn của quốc gia mà họ mang quốc tịch. Nhưng khi thực hiện đầu tư vào
một tổ chức kinh tế ở Việt Nam thì các nhà đầu tư nước ngoài này phải đáp
ứng được các điều kiện về chủ thể kinh doanh theo quy định của pháp luật
trường hợp bị cấm thành lập, góp vốn, mua cổ phần, quản lý doanh nghiệp
Việt Nam. Theo đó, các nhà đầu tư nước ngoài này phải không thuộc các
theo quy định của Luật doanh nghiệp và các văn bản pháp luật có liên quan.
Một đặc trưng nữa liên quan đến chủ đầu tư của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài đó chính là tỷ lệ vốn sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài
trong doanh nghiệp. Các nhà đầu tư này có thể sở hữu từ trên 0% đến 100%
vốn điều lệ của doanh nghiệp. Việc họ sở hữu tỷ lệ vốn góp bao nhiêu không
chỉ quyết định đến quyền và nghĩa vụ của họ mà còn quyết định đến việc áp
dụng quy định pháp luật nào đối với doanh nghiệp đó. Cùng được xem là
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng nếu như có sự khác biệt về tỷ
lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài thì có thể sẽ có những quy định khác
Theo báo cáo quan hệ lao động năm 2017 của Bộ Lao động – Thương
binh và xã hội, tính đến 01/01/2017, cả nước có 505.000 doanh nghiệp thực tế
đang hoạt động, trong đó có trên 14.000 doanh nghiệp FDI, bình quân hàng
năm tăng 9,2% [5, tr.7]. Về tổng vốn đầu tư, theo số liệu của Cục Đầu tư nước
ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến tháng 12/2018, tổng vốn đăng ký
nhau về điều kiện, thủ tục khi tiến hành hoạt động kinh doanh.
33
mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ phần đạt 35,46 tỷ USD, bằng 98,8% năm
2017. Theo đối tác đầu tư, có 130 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư
tại Việt Nam. Trong đó, ba quốc gia có tổng vốn đầu tư đứng đầu lần lượt là
Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore [56].
Biểu đồ 2.1. Tổng vốn đầu tư theo đối tác
Thứ hai, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải được tổ chức
dưới hình thức doanh nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Theo quy định của Luật doanh nghiệp, ở Việt Nam có bốn hình thức
doanh nghiệp: Doanh nghiệp tư nhân, Công ty hợp danh, Công ty trách nhiệm
hữu hạn (hai thành viên trở lên và 1 thành viên) và Công ty cổ phần. Trước
đây, với quan điểm hạn chế rủi ro một cách tối ưu cho các nhà đầu tư nước
ngoài và cũng để phục vụ mục đích thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, pháp
luật quy định doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ tồn tại ở hai hình
nay khi chúng ta đang cố xây dựng một sân chơi chung, không phân biệt đối
xử giữa các nhà đầu tư thì pháp luật không còn ấn định hình thức tổ chức
riêng cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cũng giống như các nhà
đầu tư trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài có quyền lựa chọn một loại hình
doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu của mình để thực hiện hoạt động kinh
thức đó là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Tuy nhiên, hiện
34
doanh ở Việt Nam.
Thứ ba, về trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành lập dưới hình
thức doanh nghiệp tư nhân, chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ có thể là một cá
nhân có quốc tịch nước ngoài. Do không có sự phân tách về mặt tài sản giữa
chủ sở hữu và doanh nghiệp nên chủ sở hữu doanh nghiệp có vốn đầu tư trong
trường hợp này sẽ chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt
động của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành lập dưới hình
thức là các loại hình công ty (có sự tham gia của nhiều cá nhân, tổ chức), do
ngoài trong trường hợp này được phân tách rõ ràng thành: trách nhiệm tài sản
có tư cách pháp nhân, nên trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp có vốn nước
của doanh nghiệp và trách nhiệm tài sản của các nhà đầu tư là thành viên hoặc
cổ đông của doanh nghiệp đó. Về nguyên tắc, doanh nghiệp sẽ chịu trách
nhiệm với các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác bằng toàn bộ vốn và tài
sản của doanh nghiệp. Còn đối với các nhà đầu tư, trong đó có nhà đầu tư
nước ngoài sẽ phải chịu trách nhiệm theo quy định tương ứng đối với hình
thức tổ chức của doanh nghiệp. Nếu tổ chức dưới hình thức công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, các nhà đầu tư sẽ chỉ phải chịu trách nhiệm
đối với các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã
góp vào doanh nghiệp. Nếu hình thức tổ chức là công ty hợp danh, các nhà
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với mọi hoạt động của doanh nghiệp,
nếu là thành viên góp vốn thì chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã
góp vào doanh nghiệp.
đầu tư là thành viên hợp danh của công ty này sẽ phải cùng nhau chịu trách
2.1.2. Đóng góp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đối
với việc phát triển kinh tế xã hội tại Việt Nam
35
Qua những kết quả đạt được, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đã chứng minh vai trò quan trọng của mình trong việc phát triển kinh tế,
tăng cường quan hệ đối ngoại với các nước trên thế giới.
Thứ nhất, tăng khối lượng vốn đầu tư cho sản xuất trong nước.
Ở thời kỳ đầu mới phát triển, trong khi nhu cầu vốn đầu tư để phát triển
nhằm rút ngắn khoảng cách với các nước công nghiệp phát triển là rất lớn thì
khả năng tích lũy vốn trong nội bộ nền kinh tế lại rất hạn chế do trình độ kinh
tế của Việt Nam còn thấp. Bên cạnh đó, tâm lý chung của người dân vẫn chưa
yên tâm bỏ vốn đầu tư kinh doanh do cơ chế huy động vốn chưa rõ ràng, chưa
phù hợp. Do đó, đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc huy
đầu tư và dần thoát khỏi vòng luẩn quẩn.
động nguồn vốn bên ngoài, giúp Việt Nam giải quyết được bài toán thiếu vốn
Sau hơn 30 năm kể từ khi ban hành Luật đầu tư, hoạt động đầu tư ở Việt
Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng góp phần tích cực vào việc thực
hiện những mục tiêu kinh tế xã hội quan trọng, đưa đất nước ra khỏi khủng
hoảng kinh tế, tăng cường vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đầu tư nước
ngoài đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn lực đầu tư trong nước. Tính đến năm 2018, vốn FDI thực hiện đạt 19,1 tỷ
USD, tăng 9,1% so với năm 2017, chiếm 22% tổng vốn đầu tư xã hội [55]. Từ
đầu năm 2019 đến thời điểm 20/6/2019 đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút 1.723
dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 7.411,8 triệu USD, tăng 26,1% về số
628 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với
số vốn tăng thêm đạt 2.935,4 triệu USD, giảm 33,8% so với cùng kỳ năm trước.
Như vậy, tổng số vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm trong 6 tháng đầu năm
2019 đạt 10.347,2 triệu USD, giảm 36,3% so với cùng kỳ năm 2018. Vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài thực hiện 6 tháng ước tính đạt 9,1 tỷ USD, tăng 8,1% so với
dự án và giảm 37,2% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018. Bên cạnh đó, có
36
cùng kỳ năm 2018. Trong 6 tháng còn có 4.020 lượt góp vốn, mua cổ phần của
nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 8,12 tỷ USD, tăng 98,1% so
với cùng kỳ năm 2018, trong đó có 625 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn
điều lệ của doanh nghiệp với giá trị vốn góp là 5,48 tỷ USD và 3.395 lượt nhà
đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ
với giá trị 2,64 tỷ USD [52, 50].
Đầu tư nước ngoài là khu vực phát triển năng động nhất với tốc độ tăng
GDP cao hơn tốc độ tăng trưởng cả nước. Đóng góp của khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài tăng từ 15,2% trong năm 2010 lên 19,6% trong năm 2017. Tốc
độ tăng trưởng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng được đánh giá là
có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định nhất [51].
Biểu đồ 2.2. Tốc độ tăng trưởng theo thành phần kinh tế
Sự tham gia của đầu tư nước ngoài còn tạo đòn bẩy cho xuất khẩu Việt
Nam phát triển. Trước năm 2001, xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài chỉ
đạt 45,2% tổng kim ngạch. Từ năm 2003, xuất khẩu của khu vực này bắt đầu
vượt trong nước và dần trở thành 10 nhân tố chính thúc đẩy xuất khẩu, chiếm
37
khoảng 64% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012 [44]. Đến năm 2018, khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 175,5 tỷ USD, tăng 12,9% so
với năm 2017, chiếm 71,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước [54].
Thứ hai, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hình thành nên các ngành
kinh tế mũi nhọn và tăng số việc làm.
Thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài là một nội
dung quan trọng của việc thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh
thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập
tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm: đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, tăng số lao động việc làm, tạo ra những ngành nghề mũi nhọn từ đó nâng cao
Sự chuyển dịch cơ cấu trong nền kinh tế diễn ra theo hai xu hướng:
năng lực cạnh tranh của các sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế.
Chuyển dịch từ khu vực sản xuất sang khu vực dịch vụ và chuyển dịch trong
nội bộ khu vực sản xuất vật chất, chủ yếu là chuyển dịch cơ cấu từ khu vực
nông nghiệp sang khu vực công nghiệp. Với điều kiện của nước ta hiện nay,
đang trong quá trình công nghiệp hóa, mở cửa nền kinh tế cùng với sự thu hút
lớn được một nguồn vốn đầu tư nước ngoài nên hai xu hướng này được thể
hiện một cách rõ nét. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành thể hiện
tương đối rõ nét ở sự thay đổi cơ cấu tổng sản phẩm trong nước (GDP). Tỉ
trọng của nông-lâm-ngư nghiệp giảm đáng kể so với những giai đoạn trước,
trong khi đó tỉ trọng của ngành công nghiệp tăng vọt. Nắm bắt được xu hướng
hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030,
tầm nhìn đến năm 2045. Theo đó, đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu tỉ
trọng công nghiệp trong GDP đạt trên 40%; tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế
tạo trong GDP đạt khoảng 30%, trong đó công nghiệp chế tạo đạt trên 20%.
Chính sự chuyển dịch cơ cấu ngành cùng với sự mở cửa để tạo hành lang
chuyển dịch, Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW về định
38
pháp lý thuận lợi đã tạo động lực cho hàng loạt các công ty có vốn đầu tư
nước ngoài trong các ngành công nghiệp, dịch vụ trên thế giới đầu tư vào thị
trường Việt Nam.
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đã tạo đòn bẩy cho số lượng
việc làm cho NLĐ được tăng nhanh. Số lượng lao động trong khu vực công
nghiệp và dịch vụ tăng cao, chiếm gần 50% trong cơ cấu nền kinh tế quốc
dân. Đến 01/01/2017, cả nước có 22,9 triệu người đang làm việc cho các tổ
chức cá nhân có thuê mướn người lao động. Người lao động đang làm việc
trong các doanh nghiệp chiếm 61%, trong đó có 26% người lao động làm
việc trong các doanh nghiệp FDI [5, tr.14]. Với việc hình thành các công ty
công xứng đáng với những gì NLĐ bỏ ra thì đây thực sự là một cơ hội với
có vốn đầu tư nước ngoài, đòi hỏi khắt khe về trình độ, chi thức và việc trả
lao động trẻ Việt Nam.
Thứ ba, nâng cao trình độ khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý và
mở rộng thị trường xuất khẩu.
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, đầu tư từ nước ngoài
có vai trò hỗ trợ một cách đồng bộ về kỹ thuật công nghệ cũng như kinh
nghiệm quản lý, nâng cao trình độ lao động nội địa. Đầu tư nước ngoài không
chỉ đóng góp nguồn vốn quan trọng cho sự đầu tư phát triển, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu mà còn nâng cao trình độ khoa học công nghệ. Với việc mang đến
những dây chuyền sản xuất hiện đại, kinh nghiệm sản xuất cũng như các
mang đến những cơ hội học hỏi, nâng cao trình độ, tay nghề của lao động
Việt Nam thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh.
Rõ ràng, với trình độ, cách thức quản lý tiến bộ cũng như dây chuyền sản
xuất áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
đã khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế. Tuy nhiên, do
bất đồng ngôn ngữ cũng như văn hóa nên tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư
thành tựu khoa học tiên tiến, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
39
nước ngoài vẫn thường xuất hiện những mâu thuẫn trong QHLĐ. Để thấy rõ
hơn thực trạng này, chúng ta sẽ xem xét thực trạng ban hành và thực hiện
NQLĐ tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại phần tiếp theo.
2.2. Thực trạng quy định nội quy lao động tại các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài
2.2.1. Chủ thể và phạm vi ban hành nội quy lao động
Bộ luật lao động 2012 đã cụ thể hóa quyền quản lý lao động của
NSDLĐ mà một trong những quyền quan trọng nhất đó chính là quyền ban
hành nội quy lao động để thực hiện quyền quản lý của mình, nhằm thiết lập
và duy trì nề nếp, trật tự, kỷ luật trong doanh nghiệp.
Theo đó, NSDLĐ theo quy định của BLLĐ 2012, bao gồm: doanh nghiệp, cơ
Quy định này của BLLĐ 2012 là sự kế thừa và phát huy của BLLĐ 1994.
quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động
theo hợp đồng lao động… đều có quyền ban hành nội quy lao động.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, không phải mọi đơn vị sử dụng lao động đều
nhất thiết phải ban hành NQLĐ bằng văn bản, mà chỉ những đơn vị sử dụng
từ 10 lao động trở lên mới phải ban hành NQLĐ bằng văn bản. Điều này cũng
đã được quy định trong BLLĐ 1994 và được kế thừa, phát huy trong BLLĐ
2012. Điều 82 BLLĐ 1994 quy định: “Doanh nghiệp sử dụng từ 10 lao động
trở lên phải có nội quy lao động bằng văn bản”. Quy định như vậy sẽ dễ gây
hiểu lầm là chỉ có những đối tượng là doanh nghiệp và có từ 10 lao động trở
dụng lao động không phải là doanh nghiệp thì không. Trong khi đó, tại Thông
tư 19/2003/TT-BLĐTBXH đã quy định các đơn vị sử dụng lao động sử dụng
từ 10 lao động trở lên sẽ phải đăng ký nội quy lao động tại Sở lao động –
thương binh xã hội. Rõ ràng ở đây có sự chưa thống nhất trong quy định giữa
BLLĐ 1994 và các văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên, BLLĐ 2012 ra đời đã
lên mới phải ban hành NQLĐ bằng văn bản, còn đối với những đơn vị sử
40
thay thế cụm từ “doanh nghiệp” thành cụm từ “người sử dụng lao động” để
khắc phục nhược điểm này. Khoản 1 Điều 119 BLLĐ 2012 quy định: “Người
sử dụng lao động sử dụng từ 10 người lao động trở lên phải có nội quy lao
động bằng văn bản”. Quy định này vừa khẳng định quyền ban hành NQLĐ là
thuộc về NSDLĐ, vừa giới hạn phạm vi những đối tượng nào bắt buộc phải
ban hành NQLĐ. Những đơn vị sử dụng dưới 10 lao động thì không nhất thiết
phải ban hành NQLĐ bằng văn bản. Kỷ luật lao động ở các đơn vị này có thể
được thể hiện dưới dạng NQLĐ, mệnh lệnh hay yêu cầu của NSDLĐ.
Quy định này đã tỏ ra phù hợp với tình hình thực tế các đơn vị sử dụng
lao động trong nhiều năm qua, nhất là trong bối cảnh thị trường lao động đã
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với số lượng lao động lớn. Với các doanh
có những biến chuyển mới với sự xuất hiện của ngày càng nhiều các doanh
nghiệp này, đại đa số là các doanh nghiệp có số lượng lao động lớn từ hàng
trăm thậm chí hàng nghìn NLĐ. Để đảm bảo trật tự lao động tại doanh nghiệp
cũng như đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra theo đúng kế
hoạch, định hướng thì NSDLĐ cần sử dụng tổng hợp các công cụ quản lý,
trong đó, NQLĐ là một công cụ quản lý hữu hiệu nhất. Việc xây dựng những
quy tắc ứng xử chung trong một tập thể sẽ giúp cho NSDLĐ dể dàng quản lý,
điều hành NLĐ; đồng thời, đây sẽ là cơ sở để xác định những hành vi vi phạm
để có những biện pháp xử lý kỷ luật tương xứng. Do đó, việc ban hành NQLĐ
là điều rất cần thiết để thiết lập và duy trì trật tự lao động, từ đó thực hiện
Tuy nhiên, để tránh sự lạm dụng quyền quản lý của NSDLĐ, luật lao
động đã có những quy định ràng buộc NSDLĐ. Nội quy lao động phải ban
hành theo những trình tự, thủ tục nhất định, có những nội dung nhất định theo
quy định của pháp luật. Một trong những quy định hạn chế sự lạm quyền của
NSDLĐ là sự tham gia của tổ chức đại diện tập thể NLĐ tại cơ sở trong việc
quyền quản lý lao động một cách hiệu quả.
41
xây dựng và ban hành NQLĐ. NSDLĐ phải tham khảo ý kiến của tổ chức đại
diện tập thể NLĐ trước khi ban hành NQLĐ. Tổ chức đại diện tập thể NLĐ là
tổ chức có quyền đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
NLĐ. Tổ chức đại diện tập thể NLĐ có quyền tham gia với doanh nghiệp xây
dựng và giám sát việc thực hiện NQLĐ. Công đoàn cơ sở hoặc tổ chức đại
diện tập thể NLĐ khác có quyền tổ chức lấy ý kiến, tổng hợp ý kiến của NLĐ,
tham gia bằng văn bản với NSDLĐ trong việc xây dựng, ban hành, sửa đổi,
bổ sung NQLĐ theo quy định của pháp luật lao động.
2.2.2. Nguyên tắc ban hành nội quy lao động
Nội quy lao động dù là văn bản do người sử dụng ban hành mang tính
chất riêng biệt đối với từng doanh nghiệp nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc
không trái với pháp luật về lao động cũng như các quy định pháp luật khác
của pháp luật có liên quan.
Từ trình tự, thủ tục soạn thảo đến đăng ký NQLĐ cũng như các nội
dung cần có trong nội quy lao động luôn được các doanh nghiệp đặc biệt chú
ý. Nguyên tắc không trái với các quy định pháp luật là kim chỉ nam cho các
doanh nghiệp khi tiến hành soạn thảo nội quy lao động. Nội dung được đề cập
đầu tiên tại hầu hết các bản NQLĐ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài luôn là căn cứ pháp lý của nội quy lao động. Khi soạn thảo, ban hành
NQLĐ, căn cứ pháp lý đầu tiên phải là Bộ luật lao động, tiếp đó là các văn
Tại bản nội quy lao động của Công ty TNHH Microsoft Mobile Việt
Nam khẳng định “Nội quy lao động này được soạn trên cơ sở Bộ luật lao
động Việt Nam và các quy định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
hướng dẫn việc thực hiện Bộ luật lao động”. Hay tại nội quy lao động của
Công ty TNHH Wisol Hà Nội chỉ rõ Bộ luật lao động và các văn bản pháp
bản hướng dẫn có liên quan.
42
luật khác có liên quan là căn cứ để xây dựng nội quy, trong trường hợp những
điều khoản nào chưa được quy định trong Nội quy lao động thì sẽ được thực
hiện theo các quy định trong Bộ luật lao động và các văn bản có liên quan.
2.2.3. Nội dung của nội quy lao động
Tùy vào quy mô, đặc điểm của doanh nghiệp mà đơn vị sử dụng lao động,
NSDLĐ có quyền xây dựng các nội dung của NQLĐ phù hợp với định hướng
phát triển của doanh nghiệp nhưng phải đảm bảo nội dung của nội quy lao động
không trái với các quy định của pháp luật và thỏa ước lao động (nếu có).
Khoản 2 Điều 119 BLLĐ 2012 và Điều 27 Nghị định 05/2015/NĐ-CP
quy định nội quy lao động bao gồm những nội dung chính sau: (i) Thời giờ
vệ sinh lao động ở nơi làm việc; (iv) Việc bảo vệ tài sản và bí mật kinh doanh,
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; (ii) Trật tự nơi làm việc; (iii) An toàn lao động,
bí mật công nghệ, sở hữu trí tuệ của NSDLĐ; (v) Các hành vi vi phạm kỷ luật
của NLĐ và các hình thực xử lý kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất.
Thứ nhất, các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.
Chế độ thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi được hình thành trên cơ sở
cả sinh học, tâm lý và kinh tế xã hội có liên quan đến quyền và lợi ích thiết
thân trong quan hệ lao động, được NLĐ và cả NSDLĐ cùng quan tâm. Xét về
mặt kinh tế, đây là một trong những nguyên tắc chính để làm cơ sở cho
NSDLĐ thực hiện quyền quản lý lao động của mình. Dựa trên những quy
định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi tại doanh nghiệp, NSDLĐ lên kế
doanh. Xét về mặt sinh học, đây là quy định mang tính chất đảm bảo, cân
bằng hoạt động sinh học, thể trạng của NLĐ. Theo các nhà khoa học thì một
người bình thường phải dành ít nhất 8 giờ đồng hồ để ngủ mỗi ngày; 16 giờ
còn lại con người dành cho các hoạt động cá nhân trong đó có thời gian cho
làm việc. Lao động đến một mức nào đó thì cảm giác mệt mỏi sinh lý bắt đầu
hoạch sản xuất, điều động lao động hợp lý để hoàn thành kế hoạch kinh
43
xuất hiện. Đó là một cơ chế bảo vệ, bắt cơ thể ngừng hoạt động để tránh tình
trạng kiệt sức. Để có thể làm việc hiệu quả, NLĐ phải có thời gian nhất định
giành cho nghỉ ngơi. Đây chính là giai đoạn mà NLĐ tái sản xuất sức lao
động, cân bằng sức khỏe. Do đó, việc xây dựng một chế độ làm việc, nghỉ ngơi
phù hợp sẽ đảm bảo sức khỏe cho NLĐ để NLĐ luôn ở trạng thái lao động tốt
nhất. Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi cần phải xây dựng cụ thể: biểu thời
giờ làm việc trong ngày, trong tuần; thời giờ nghỉ giải lao trong ca làm việc; số
ca làm việc; ngày nghỉ trong tuần; ngày nghỉ lễ; nghỉ hàng năm; nghỉ về việc
riêng; số giờ làm thêm trong ngày, trong tuần trong tháng, trong năm.
Dựa trên cơ sở sinh học cũng như kinh tế xã hội, pháp luật các quốc gia
Đức quy định số giờ làm việc tối đa không được vượt quá 8 giờ trong 01
có những quy định riêng về thời giờ làm việc. Đạo luật thời giờ làm việc của
ngày, chủ nhật người lao động được nghỉ. Tuy nhiên, luật này không đưa ra
quy định về thời gian làm việc tối đa hàng tuần [48]. Pháp luật lao động Việt
Nam thì quy định thời giờ làm việc không quá 08 giờ trong 01 ngày và 48 giờ
trong 01 tuần (Điều 104 Bộ luật lao động Việt Nam). Đồng thời, Nhà nước
khuyến khích NSDLĐ thực hiện tuần làm việc 40 giờ để đảm bảo tối đã sức
khỏe của NLĐ. Ngoài ra, pháp luật lao động Việt Nam cũng đã có những quy
định về giờ làm việc ban đêm; làm thêm giờ. Với quy định cụ thể thời giờ làm
việc ban đêm được tính từ 22 giờ đến 6 giờ sáng hôm sau (Điều 105 Bộ luật lao
động); hay số giờ làm thêm của NLĐ không quá 50% số giờ làm việc bình
số giờ làm việc bình thường và số giờ thêm không qua 12 giờ trong 01 ngày;
không quá 30 giờ trong 01 tháng và tổng số không quá 200 giờ trong 01 năm, trừ
một số trường hợp đặc biệt thì được làm thêm không quá 300 giờ trong 01 năm.
Bên cạnh việc quy định về thời gian làm việc, pháp luật Việt Nam cũng
đã chú trọng quy định về thời giờ nghỉ ngơi để tái tạo sức lao động. Bộ luật
thường trong 01 ngày, trường hợp áp dụng quy định làm việc theo tuần thì tổng
44
lao động quy định về thời gian nghỉ trong giờ làm việc hay còn gọi là nghỉ
giữa giờ làm việc; nghỉ chuyển ca; nghỉ hằng tuần; nghỉ hằng năm; nghỉ lễ tết;
nghỉ việc riêng hưởng nguyên lương và không hưởng lương. Ngoài ra, Bộ luật
lao động 2012 cũng có quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đối
với những người làm việc có tính chất đặc biệt. Các quy định về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi của Bộ luật lao động 2012 được hướng dẫn cụ thể
trong các văn bản dưới luật như Nghị định số 45/2013/NĐ-CP quy định chi
tiết một số điều của Bộ luật lao động về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
và an toàn lao động, vệ sinh lao động.
Quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi luôn được các doanh
Tùy đặc trưng của từng doanh nghiệp mà NQLĐ ghi nhận thời giờ làm việc
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chú trọng, ghi nhận chi tiết trong NQLĐ.
riêng. Đa số NQLĐ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ghi nhận
thời giờ làm việc bình thường là 08 giờ trong một ngày và 48 giờ trong một
tuần. Ví dụ như: NQLĐ Công ty TNHH Wisol Hà Nội hay NQLĐ Công ty
TNHH Microsoft Mobile Việt Nam. Tuy nhiên, tùy theo tình hình sản xuất
kinh doanh, một số doanh nghiệp ghi nhận thời giờ làm việc hàng tuần ít hơn
48 giờ. Ví dụ như tại NQLĐ Công ty TNHH Linea Aqua Việt Nam quy định:
“Tất cả người lao động làm việc tại Công ty sẽ làm việc 45 giờ mỗi tuần. 9
giờ trong một ngày - 5 ngày trong một tuần hoặc 8 giờ trong một ngày - 5.5
ngày trong tuần”.
Những quy định về trật tự tại nơi làm việc là quy định về việc đi lại,
giao tiếp, phạm vi làm việc cũng như quy định về giữ gìn trật tự chung. Điều
này có ý nghĩa thiết thực trong việc xây dựng một môi trường lao động kỷ
cương, trật tự, nền nếp. Chính vì vậy, NSDLĐ thường ban hành những quy
định để nhằm hạn chế các hành vi vi phạm kỷ luật lao động đối với NLĐ. Trên
Thứ hai, các quy định về trật tự tại nơi làm việc.
45
cơ sở của pháp luật, tùy thuộc vào đặc điểm của đơn vị mình mà NSDLĐ cụ
thể hóa các quy định về trật tự trong doanh nghiệp cho phù hợp. Nhìn chung
các doanh nghiệp thường có quy định nghiêm cấm những hành vi như: đánh
bạc tại nơi làm việc, uống rượu, hút thuốc lá trong giờ làm việc; gây gổ đánh
nhau, gây mất đoàn kết nội bộ; không nói chuyện riêng trong giờ làm việc;
không đi vào khu vực cấm…
Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, với đặc thù số
lượng lao động lớn, địa điểm làm việc rộng, nhiều đặc thù thì vấn đề trật tự tại
nơi làm việc rất được chú trọng xây dựng trong nội quy lao động. Với quy mô
và dây chuyền sản xuất tự động, đa phần các doanh nghiệp chú trọng nhiều đến
TNHH Nikkiso Việt Nam quy định: NLĐ không được đi xung quanh khu vực
vị trí làm việc, khu vực sản xuất của NLĐ. Ví dụ: Nội quy lao động của Công ty
làm việc nếu không thuộc phạm vi trách nhiệm của mình; hay NLĐ không được
để những phương tiện, nguyên vật liệu, sản phẩm ở khu vực gần đường đi, lối
thoát hiểm, bảng điều khiển hoặc khu vực để thiết bị phòng cháy chữa cháy, tủ
thuốc…Tại một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, NQLĐ cũng hạn chế
các hoạt động tập thể tại nơi làm việc như “không được tiến hành các hoạt động
chính trị hay tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng trái với lợi ích quốc gia và lợi ích của
công ty” (Nội quy lao động Công ty TNHH Wisol Hà Nội).
Ngoài các quy định về vị trí, nơi làm việc, các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài cũng khá cẩn trọng trong việc xây dựng quy định về trật tự, an
nội quy lao động tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều quy định
chặt chẽ về quy trình, thủ tục ra vào công ty như ra vào công ty theo lối quy
định; tuyệt đối tuân thủ quy định ra vào tại các chốt bảo vệ; ra, vào công ty
phải xuất trình thẻ nhân viên/thẻ khách… Một số doanh nghiệp còn quy định
chi tiết về việc kiểm tra đồ mang theo người. Ví dụ Nội quy lao động của
toàn nơi làm việc để đảm bảo sự ổn định, trật tự của doanh nghiệp. Đa phần
46
Công ty TNHH Wisol Hà Nội có quy định: “Người lao động khi đi qua cổng
bảo vệ phải trình đồ mang theo người. Khi vào phân xưởng, mọi túi xách phải
để ở ngoài, không được mang bất cứ vật gì vào nơi sản xuất.”. Tại một số
doanh nghiệp sản xuất, việc tiếp khách và dùng điện thoại vì những lý do cá
nhân tại nơi làm việc là hành vi bị cấm.
Nhìn chung, những quy định này góp phần tạo ra môi trường làm việc
an toàn và hiệu quả, thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh của đơn vị sử
dụng lao động. Mặt khác, quy định cụ thể về trật tự tại nơi làm việc để
NSDLĐ ngăn chặn những hành vi vi phạm kỷ luật dù là rất nhỏ của NLĐ, là
điều kiện để NLĐ tự bảo vệ mình tránh khỏi những hành vi phạm trật tự trong
Thứ ba, các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động ở nơi làm việc.
đơn vị đã quy định trong nội quy lao động.
Trong quá trình lao động, sự an toàn về tính mạng và đảm bảo sức khỏe
cho NLĐ là một quyền cơ bản của mọi công dân đã được ghi nhận trong Hiến
pháp 1992 và được kế thừa ở Hiến pháp 2013. An toàn, vệ sinh lao động là
việc ngăn ngừa sự cố tai nạn, bệnh tật xảy ra trong quá trình lao động, gây
thương tích đối với cơ thể hoặc gây tử vong cho NLĐ. An toàn lao động, vệ
sinh lao động ở nơi làm việc bao gồm: Việc chấp hành những biện pháp bảo
đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động, ngăn ngừa tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp; tuân thủ các quy phạm, các tiêu chuẩn an toàn lao động, vệ sinh
lao động; việc sử dụng và bảo quản trang bị phòng hộ cá nhân; vệ sinh công
Tiêu chuẩn về an toàn lao động, vệ sinh lao động là một trong những
nội dung phải được nghiêm chỉnh thực hiện. Đây là nghĩa vụ của NLĐ mà
NSDLĐ phải quy định trong NQLĐ của mình. Những quy định về an toàn lao
động, vệ sinh lao động được Nhà nước thống nhất quy định và tiêu chuẩn hóa.
Có hai loại tiêu chuẩn: tiêu chuẩn cấp Nhà nước và tiêu chuẩn cấp ngành. Vì
nghiệp tại nơi làm việc.
47
vậy, những quy định về tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh lao động trong đơn vị lao
động không được trái với những tiêu chuẩn của Nhà nước. Dựa trên những
tiêu chuẩn này, các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động xây dựng hệ thống
tiêu chuẩn cho phù hợp với đơn vị mình. Việc tuân theo những tiêu chuẩn an
toàn, vệ sinh lao động do Chính phủ ban hành là đảm bảo cần thiết và quan
trọng để phòng ngừa sự cố xảy ra.
Về các biện pháp phòng hộ bảo vệ NLĐ chống lại rủi ro, ngoài việc
chủ động xây dựng môi trường làm việc an toàn và vệ sinh cho NLĐ, phần
lớn nội quy lao động tại các doanh nghiệp đều quy định về: Trang bị đồ bảo
hộ lao động cho NLĐ; huấn luyện về an toàn, vệ sinh lao động…
việc liên tục, tùy theo đặc thù của từng doanh nghiệp mà sẽ có những quy
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, với dây chuyền làm
định an toàn riêng. Ví dụ: Đặc thù là nhà máy sản xuất linh kiện điện tử, Công
ty TNHH Microsoft Việt Nam có quy định về trang phục, đồ bảo hộ lao động
với công nhân như sau: “Công ty cung cấp thiết bị bảo hộ cá nhân bao gồm
nhưng không giới hạn ESD (trang bị chống tĩnh điện) mang trong phòng
sạch”. Theo đó, “Công nhân phải mặc đồ bảo hộ lao động theo quy định của
Công ty khi đi vào khu vực sản xuất”. Ngoài ra, nội quy lao động cũng đặt ra
nghĩa vụ đối với NSDLĐ trong việc đảm bảo các điều kiện an toàn lao động,
vệ sinh lao động đối với máy móc, thiết bị, nhà xưởng; thường xuyên kiểm
tra, đánh giá các yếu tố nguy hiểm, có hại tại nơi làm việc để đề ra các biện
sóc sức khỏe cho NLĐ.
Việc quy định chi tiết về an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc
trong nội quy lao động có ý nghĩa rất lớn đối với NSDLĐ và NLĐ. Khi an
toàn, vệ sinh lao động được tuân thủ, NSDLĐ không phải trả chi phí hoặc bồi
thường tai nạn lao động, không phải trả chi phí y tế từ sơ cứu, cấp cứu cho
pháp loại trừ, giảm thiểu các mối quy hại, cải thiện điều kiện lao động, chăm
48
người bị tai nạn lao động. Nếu tai nạn lao động xảy ra, tùy thuộc vào sự cố là
lớn hay nhỏ, phạm vi rộng hay hẹp mà NSDLĐ phải chịu hậu quả về tài sản.
Do đó, nếu quy định về an toàn, vệ sinh lao động được thực hiện tốt sẽ tạo ra
môi trường lao động đảm bảo an toàn, khi đó NLĐ sẽ yên tâm, tự tin trong lao
động, tinh thần thoải mái dẫn đến hăng say lao động, phát huy sáng kiến cải
tiến kỹ thuật và do đó năng suất lao động và doanh thu tăng, lợi nhuận của
doanh nghiệp cũng nhiều lên.
Thứ tư, các quy định về việc bảo vệ tài sản và bí mật kinh doanh, bí
mật công nghệ, sở hữu trí tuệ của NSDLĐ.
Khi NLĐ tham gia vào quan hệ lao động sẽ được NSDLĐ bàn giao các
trong các lĩnh vực đặc thù và ở những vị trí quan trọng, NLĐ còn có thể nắm
tài sản có liên quan để thực hiện nhiệm vụ, công việc. Không những vậy,
bắt được các bí mật kinh doanh, công nghệ của cơ quan, doanh nghiệp. Chính
vì vậy, việc bảo vệ tài sản và bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ và sở hữu
trí tuệ của NSDLĐ là nghĩa vụ quan trọng của NLĐ khi quan hệ lao động được
thiết lập. Pháp luật yêu cầu và cho phép NSDLĐ cụ thể hóa vấn đề bảo vệ tài
sản, bí mật kinh doanh, công nghệ, sở hữu trí tuệ thành một nội dung chính của
NQLĐ. Theo đó, NSDLĐ thường cụ thể hóa các loại tài sản, tài liệu, tư liệu, số
liệu của đơn vị mà NLĐ có trách nhiệm phải giữ gìn; tránh làm hư hỏng, thiệt
hại; giữ bí mật, không được xâm phạm hay tiết lộ thông tin về sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp cho người khác biết. Nếu NLĐ nào vi phạm sẽ phải
Tài sản của doanh nghiệp là nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát và
có thể thu được lợi ích kinh tế trong tương lai, bao gồm những tư liệu sản
xuất, máy móc, trang thiết bị, nhà xưởng... Theo Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa
đổi năm 2009 thì bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư
tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh.
chịu chế tài tương ứng đã được dự liệu trước trong nội quy lao động.
49
Bí mật kinh doanh, công nghệ được bảo hộ phải thỏa mãn: (i) không là hiểu
biết thông thường; (ii) có khả năng áp dụng trong kinh doanh và khi được sử
dụng sẽ tạo cho người nắm giữ thông tin đó có lợi thế hơn so với người không
nắm giữ hoặc không sử dụng nó; (iii) được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện
pháp cần thiết để không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận được. Tài sản, bí
mật kinh doanh, công nghệ là những tài sản thuộc sự sở hữu hoặc quyền
chiếm hữu, sử dụng của đơn vị sử dụng lao động. Vì vậy, bí mật kinh doanh
được bảo hộ bởi pháp luật Việt Nam. Đối với doanh nghiệp có yếu tố nước
ngoài thì vấn đề này càng được chú trọng. Bởi lẽ, khi đầu tư kinh doanh, các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không chỉ đầu tư tiền bạc, nguồn vốn
mà còn đầu tư cả dây chuyền sản xuất, công nghệ; sáng chế kinh doanh. Đây
là những thông tin tuyệt mật của từng doanh nghiệp, quyết định đến sự tồn tại
của doanh nghiệp. Do đó, tại nội quy lao động, phần lớn các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài đều quy định rất chi tiết với nội dung này và đưa ra
những chế tài xử phạt đối với hành vi vi phạm.
Trong nội quy lao động của Công ty TNHH Microsoft Mobile Việt
Nam dành một điều để liệt kê chi tiết những hành vi được coi là tiết lộ bí mật
kinh doanh. Theo đó, NLĐ không được truy cập trái phép hoặc tiết lộ thông
tin mật của Công ty, bao gồm nhưng không giới hạn các thông tin về sở hữu
trí tuệ, bí mật kinh doanh và thương mại; không được bẻ khóa phần mềm
sở dữ liệu của Công ty hay không được truy cập trái phép vào các tập tin/dữ
liệu của người khác và của Công ty. Nội dung này cũng được quy định tại
điều 34 nội quy lao động của Công ty TNHH Wisol Hà Nội như: Người lao
động không được phép mang USB của công ty về nhà hay mang ra ngoài,
không được phép sao chép những bí mật công nghệ, chiến lược, kế hoạch
hoặc bất kỳ nỗ lực không được cho phép để bẻ khóa xâm nhập máy tính, cơ
50
kinh doanh của Công ty hay Người lao động không được phép chụp ảnh,
quy phim những máy móc, thiết bị, hàng hóa của Công ty và mang ra ngoài
Công ty vì mục đích cá nhân.
Như vậy, việc quy định bảo vệ tài sản, thông tin kinh doanh, công nghệ
của đơn vị là một trong những nội dung cơ bản của NLĐ hoàn toàn phù hợp
với pháp luật quốc tế và phù hợp với thực tế các đơn vị sử lao động hiện nay.
Thứ năm, các quy định về các hành vi vi phạm kỷ luật lao động của
NLĐ và các hình thức xử lý kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất.
Nội dung này được xem là yếu tố quan trọng cần có trong nội quy lao
động của bất kỳ đơn vị nào bởi đây chính là căn cứ pháp lý để NSDLĐ xử lý
thể hóa từng loại hành vi vi phạm cũng như mức độ vi phạm tương ứng; các
kỷ luật khi NLĐ thực hiện hành vi vi phạm. NSDLĐ có trách nhiệm phải cụ
hình thức kỷ luật lao động; xác định các loại trách nhiệm vật chất, phương
thức bồi thường sao cho phù hợp, tương thích với đặc điểm của từng đơn vị
mà không trái với các quy định của pháp luật.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khi doanh nghiệp có
số lượng lao động lớn, mỗi lao động có tâm sinh lý, trình độ nhận thức khác
nhau nên trong quá trình lao động không tránh khỏi việc vi phạm kỷ luật lao
động. Để duy trì trật tự trong doanh nghiệp, nếu chỉ quy định những hành vi
buộc phải thực hiện hoặc những hành vi cấm thì chỉ mới mang tính chất giáo
dục, thuyết phục, bị động mà chưa đủ tính chất trừng phạt đích đáng. Vì vậy,
xử lý kỷ luật đối với NLĐ cũng như đảm bảo quyền tự bảo vệ của NLĐ, có
thể tránh được những hành vi phạm không đáng có. Càng cụ thể được nhiều
các hành vi vi phạm kỷ luật với chế tài tương ứng, NSDLĐ càng có căn cứ để
xử lý kỷ luật lao động một cách hợp pháp và hiệu quả, đồng thời, tạo ra một
môi trường lao động tốt, có kỷ luật nghiêm khắc và đúng pháp luật, thúc đẩy
việc NSDLĐ cụ thể hóa các hành vi vi phạm kỷ luật là yếu tố quan trọng để
51
sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, để tránh sự lạm dụng quyền lực của NSDLĐ, pháp luật Việt
Nam bắt buộc các nội dung của nội quy lao động về các hành vi vi phạm kỷ
luật, hình thức xử lý kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất phải tuân thủ
các quy định riêng biệt của pháp luật về vấn đề này. NSDLĐ chỉ được phép
xử lý kỷ luật đối với NLĐ có hành vi vi phạm được quy định trong nội quy
lao động. Các hình thức xử lý kỷ luật đơn vị sử dụng lao động được phép áp
dụng gồm có: Khiển trách, kéo dài thời hạn nâng lương không quá 06 tháng
hoặc cách chức và sa thải.
Khiển trách là hình thức kỷ luật được áp dụng đối với NLĐ phạm lỗi
trách gồm có: số lần vi phạm và mức độ vi phạm. Có hai hình thức khiển
lần đầu ở mức độ nhẹ. Như vậy, căn cứ để áp dụng hình thức kỷ luật khiển
trách: Khiển trách bằng lời nói hoặc khiển trách bằng văn bản.
Một số doanh nghiệp sẽ áp dụng cả 2 hình thức khiển trách này như với
Công ty TNHH Wisol Hà Nội, hình thức khiển khách bằng lời nói được áp
dụng với NLĐ vi phạm lần đầu một trong các hành vi như: không mặc đồng
phục theo quy định, nói chuyện trong nơi làm việc, hút thuốc lá không đúng
nơi quy định… Hình thức khiển trách bằng văn bản được áp dụng với những
hành vi tái phạm một trong các hành vi thuộc khiển trách bằng lời nói trong
vòng 3 tháng kể từ khi bị khiển trách bằng lời nói hay với những hành vi nặng
hơn như không tuân thủ nội quy công ty, không tuân thủ thời giờ làm việc,
Tuy nhiên, tại một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh
nghiệp không áp dụng hình thức khiển trách bằng lời nói mà chỉ áp dụng hình
thức khiển trách bằng văn bản. Ví dụ: Nội quy lao động của Công ty TNHH
Nikkiso Việt Nam hay Nội quy lao động của Công ty TNHH Microsoft Mobile
Việt Nam đều chỉ ghi nhận hình thức khiển trách bằng văn bản.
thời giờ nghỉ ngơi…
52
Đa phần các doanh nghiệp đều liệt kê các hành vi sẽ bị áp dụng hình
thức khiển trách. Tuy nhiên, tại một số doanh nghiệp, NSDLĐ lại căn cứ vào
mức độ thiệt hại để áp dụng hình thức này. Theo NQLĐ của Công ty Honda
Việt Nam, NLĐ lần đầu thực hiện các hành vi vi phạm quy định trong nội quy
mà chưa gây thiệt hại về tài sản, lợi ích của Công ty hoặc gây thiệt hại dưới
năm triệu đồng sẽ bị áp dụng hình thức kỷ luật khiển trách. Như vậy, mỗi
NSDLĐ có mỗi cách quy định khác nhau về những lỗi lần đầu ở “mức độ
nhẹ”. Điều này xuất phát từ sự quy định chưa cụ thể của pháp luật lao động về
hình thức xử lý kỷ luật này.
Kéo dài thời hạn nâng lương không quá 06 tháng hoặc cách chức được
gian ba tháng hoặc có hành vi vi phạm đã được quy định trong nội quy lao
áp dụng đối với NLĐ đã bị khiển trách bằng văn bản mà tái phạm trong thời
động. Hình thức cách chức là việc NSDLĐ quyết định không để NLĐ đang
giữ chức vụ quản lý, lãnh đạo không được tiếp tục giữ chức vụ quản lý, lãnh
đạo đó nữa, mà phải làm ở một vị trí khác có chức vụ thấp hơn. Tùy vào mức
độ lỗi của NLĐ mà NSDLĐ lựa chọn áp dụng một trong hai hình thức trên.
Tùy từng đặc thù của mỗi doanh nghiệp mà hình thức này sẽ được áp
dụng với từng hành vi cụ thể. Ngoài hành vi tái phạm với các vi phạm thuộc
hình thức khiển trách, một số doanh nghiệp sẽ quy định những hành vi cụ thể
theo đặc thù của doanh nghiệp. Theo Nội quy lao động của Công ty TNHH
Microsoft Việt Nam thì hành vi “đột nhập vào các địa điểm, khu vực, cơ sở
vào bất kỳ thông tin nào đang được lưu trữ trong các hệ thống vi tính hoặc hệ
thống hồ sơ khác của Công ty” sẽ bị áp dụng biện pháp xử lý kéo dài thời hạn
nâng lương không quá 6 tháng hoặc cách chức.
Sa thải là hình thức xử lý kỷ luật lao động theo đó NSDLĐ chấm dứt
việc sử dụng lao động khi NLĐ vi phạm. Theo quy định của pháp luật hiện
dữ liệu và/hoặc thông tin mật của Công ty” hay “Tìm cách/truy cập trái phép
tại Điều 126 Bộ luật Lao động 2012 như sau:
53
hành, NSDLĐ được quyền sa thải NLĐ khi có một trong các căn cứ quy định
- NLĐ có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử
dụng ma túy trong phạm vi nơi làm việc, tiết lộ bí mật công nghệ, bí mật kinh
doanh, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của NSDLĐ, có hành vi gây thiệt hại
nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi
ích của NSDLĐ;
- NLĐ bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương mà tái phạm trong
thời gian chưa xoá kỷ luật hoặc bị xử lý kỷ luật cách chức mà tái phạm. Quy
định về xóa kỷ luật được quy định tại Điều 127 của Bộ luật lao động 2012.
- NLĐ tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong một tháng hoặc 20 ngày
Riêng đối với hình thức xử lý kỷ luật sa thải, các doanh nghiệp có vốn
cộng dồn trong một năm mà không có lý do chính đáng.
đầu tư nước ngoài đặc biệt chú trọng và xây dựng quy trình xử lý nghiêm
ngặt, bởi lẽ, đây là hình thức xử lý kỷ luật cao nhất mang tính chất nghiêm
trọng nhất – chấm dứt quan hệ lao động giữa NSDLĐ với NLĐ. Ngoài việc
quy định về các hành vi vi phạm, nội quy lao động cần xác định cụ thể về
mức độ được coi là “thiệt hại nghiêm trọng” để áp dụng trong quá trình xử lý.
Tại nội quy lao động của Công ty TNHH Microsoft Mobile Việt Nam, “thiệt
hại nghiêm trọng” được định nghĩa là thiệt hại dưới mọi hình thức có tổng giá
trị thiệt hại từ 10.000.000 đồng trở lên.
Có thể thấy, để hạn chế sự tùy tiện trong việc sa thải NLĐ của NSDLĐ,
được quyền kỷ luật sa thải. Do đó, khi xây dựng NQLĐ, dù có quy định
như thế nào thì mọi hành vi vi phạm của NLĐ được ghi nhận trong NQLĐ
mà được áp dụng hình thức kỷ luật sa thải thì không được trái với quy định
của pháp luật.
Ngoài các nội dung chủ yếu mà pháp luật quy định nói trên, nếu thấy cần
pháp luật đã quy định cụ thể những hành vi nào của NLĐ thì NSDLĐ mới
54
thiết, NSDLĐ có thể bổ sung thêm các nội dung khác như việc khen thưởng
đối với những NLĐ thực hiện tốt nội quy lao động; quyền bào chữa của NLĐ
trước quyết định xử lý kỷ luật của NSDLĐ…Dù nội quy lao động chỉ bao gồm
các điều khoản chủ yếu hay bổ sung thêm các điều khoản khác, NSDLĐ vẫn
phải bảo đảm rằng các nội dung của nội quy lao động không được trái với pháp
luật về lao động và quy định khác của pháp luật có liên quan.
2.2.4. Trình tự ban hành, công bố nội quy lao động
Nhằm ngăn ngừa sự lạm quyền của NSDLĐ và ảnh hưởng tới quyền
lợi hợp pháp của NLĐ, pháp luật lao động quy định những trình tự, thủ tục
cụ thể mà NSDLĐ phải tuân thủ khi ban hành NQLĐ. Theo quy định tại
gồm bốn bước sau:
Điều 119, 120, 121 Bộ luật lao động 2012 thì thủ tục ban hành NQLĐ bao
Bước 1: NSDLĐ xây dựng dự thảo NQLĐ căn cứ vào quy mô, tính
chất và đặc điểm sản xuất kinh doanh của đơn vị cũng như các quy định của
pháp luật lao động và pháp luật khác có liên quan.
Nội dung của dự thảo NQLĐ phải thỏa mãn nguyên tắc đảm bảo các
quy định của pháp luật và thỏa ước lao động tập thể (nếu có) và phải có đầy
đủ các nội dung chủ yếu của NQLĐ như đã phân tích ở trên.
Bước 2: Lấy ý kiến tham khảo của tổ chức đại diện tập thể người lao
động tại cơ sở trước khi ký quyết định ban hành.
Đây là một điểm mới của BLLĐ 2012 nhằm góp phần khắc phục được
đoàn cơ sở. Theo đó, tại cơ sở sẽ thành lập một tổ chức đại diện tập thể NLĐ
và sẽ lấy ý kiến tham khảo của tổ chức này trước khi ban hành nội quy lao
động. Điều này có ý nghĩa rất thiết thực bởi lẽ, tổ chức đại diện tập thể NLĐ
chính là nơi bảo vệ quyền lợi hợp pháp của NLĐ, là tiếng nói quan trọng của
NLĐ. Vì vậy, NSDLĐ phải tôn trọng các ý kiến của tổ chức này và phải tham
hạn chế so với quy định trước đây khi đơn vị không có Ban Chấp hành công
55
khảo ý kiến của họ trước khi ban hành NQLĐ của doanh nghiệp.
Việc tham khảo ý kiến của tổ chức đại diện tập thể lao động cơ sở là
thủ tục bắt buộc. Nếu vi phạm thủ tục này, NQLĐ sẽ không được chấp nhận
khi thực hiện thủ tục đăng ký. Trước đây, theo khoản 1 Điều 14 Nghị định
113/2004/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật
lao động, doanh nghiệp sẽ bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng
nếu không tham khảo ý kiến Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc Ban chấp
hành công đoàn lâm thời khi xây dựng nội quy lao động. Nghị định
47/2010/NĐ-CP thay thế Nghị định 113/2004/NĐ-CP lại quy định đối với
NSDLĐ có hành vi không tham khảo ý kiến Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở,
sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đến 500.000 đồng. Tuy nhiên,
Ban Chấp hành Công đoàn lâm thời (nếu có) khi xây dựng nội quy lao động
hiện nay, nghị định số 95/2013/NĐ – CP lại không có một điều khoản trực
tiếp nào là căn cứ để xử lý hành chính khi NSDLĐ không lấy ý kiến tham
khảo của tổ chức công đoàn khi xây dựng NQLĐ. Đây cũng là một khó khăn
cho các cơ quan quản lý trong việc đảm bảo thực hiện nghiêm túc thủ tục
tham khảo ý kiến tổ chức công đoàn cơ sở.
Bước 3: Đăng ký nội quy lao động đối với đơn vị sử dụng từ 10 NLĐ
trở lên.
Thủ tục đăng ký NQLĐ tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thể hiện
sự tham gia quản lý của nhà nước vào việc ban hành NQLĐ. Với mục đích là
tình trạng NSDLĐ, vì lợi ích của mình mà quy định các nội dung bất lợi cho
NLĐ. Quy định này còn nhằm tăng cường tinh thần trách nhiệm của NSDLĐ
trong việc tuân theo các quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 28 Nghị định 05/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi
hành một số nội dung của BLLĐ 2012, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày
để cơ quan có thẩm quyền xem xét lại các quy định trong NQLĐ, ngăn ngừa
56
ban hành nội quy lao động, NSDLĐ phải nộp hồ sơ đăng ký nội quy lao động.
Hồ sơ đăng ký nội quy lao động bao gồm: Văn bản đề nghị đăng ký NQLĐ;
các văn bản của NSDLĐ có liên quan đến kỷ luật lao động và trách nhiệm vật
chất; biên bản góp ý của tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở; nội quy
lao động. Việc gửi hồ sơ đăng ký có thể tiến hành bằng hai cách: Nộp trực
tiếp tại cơ quan có thẩm quyền hoặc gửi qua bưu điện bằng thư bảo đảm. Nếu
đơn vị nộp hồ sơ đăng ký thông qua đường bưu điện thì sau 02 ngày làm việc
kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải
thông báo cho đơn vị nộp hồ sơ biết về ngày, tháng, năm nhận được hồ sơ.
Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký
quan nhà nước về lao động cấp tỉnh thông báo, hướng dẫn NSDLĐ sửa đổi,
nội quy lao động, nếu nội quy lao động có quy định trái với pháp luật thì cơ
bổ sung và đăng ký lại. Quy định này đã rút ngắn thời gian trả lời của Sở lao
động thương binh và xã hội từ 10 ngày xuống 07 ngày làm việc kể từ ngày
nhận được hồ sơ đăng ký nội quy lao động của doanh nghiệp.
Trường hợp đơn vị lao động không nhận được thông báo nội dung trái
pháp luật từ Sở lao động thương binh và xã hội thì NQLĐ đương nhiên có
hiệu lực trong vòng 15 ngày kể từ ngày Sở lao động thương binh và xã hội
nhận được hồ sơ hợp lệ.
Bước 4: NSDLĐ ký quyết định ban hành nội quy lao động và thông
báo công khai đến NLĐ trong đơn vị lao động.
đến NLĐ và những nội dung chính phải được niêm yết ở những nơi cần thiết
tại nơi làm việc.
Khi nội quy lao động có hiệu lực pháp luật thì NSDLĐ phải thông báo
2.3. Thực trạng thực hiện nội quy lao động tại các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài
2.3.1. Những kết quả đạt được
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đạt được những kết quả đáng chú ý.
57
Nhìn chung, việc ban hành và tổ chức thực hiện NQLĐ của các doanh
NSDLĐ ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò quan trọng của NQLĐ.
Đây không chỉ là một loại văn bản nội bộ, điều chỉnh mọi hoạt động của
doanh nghiệp, mà còn là cơ sở pháp lý để NSDLĐ thực hiện quyền quản lý
lao động của mình. Do đó, NSDLĐ đã có ý thức hơn trong việc xây dựng và
ban hành nội quy, cũng như trong việc tổ chức thực hiện nội quy trong quá
trình lao động và sản xuất.
Ngay từ khi bắt đầu đi vào hoạt động, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài đã chú trọng và bắt tay ngay vào việc xây dựng NQLĐ. Số lượng
NQLĐ được đăng ký tại Sở Lao động Thương binh và Xã hội ngày càng có
làm – Sở Lao động Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội, trong năm
xu hướng tăng lên. Theo số liệu thống kê của Phòng chính sách lao động việc
2013 có 552 đơn vị trên địa bàn đăng ký NQLĐ, trong đó 104 bản nội quy
của các doanh nghiệp FDI [39]. Chỉ tính trong khoảng 5 năm trở lại đây
(2012-2017), số doanh nghiệp đăng ký NQLĐ tại Sở Lao động – Thương binh
và Xã hội thành phố Hà Nội trung bình mỗi năm khoảng hơn 500 doanh
nghiệp và Ban Quản lý các khu công nghiệp và chế xuất trung bình khoảng
100 doanh nghiệp bao gồm cả đăng ký mới và đăng ký lại [49].
Điều này cho thấy, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã
nghiêm túc, chủ động thực hiện ban hành NQLĐ và đăng ký với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
nghiệp hầu hết đã đảm bảo đủ năm nội dung cơ bản theo quy định của pháp
luật lao động Việt Nam: thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; trật tự trong
doanh nghiệp; an toàn, vệ sinh lao động; bảo vệ tài sản, bí mật thông tin kinh
doanh, công nghệ, sở hữu trí tuệ; các hành vi vi phạm kỷ luật và hình thức xử
lý, trách nhiệm vật chất và cụ thể hóa nhiều quy định khác phù hợp với quy
Về nội dung của nội quy lao động, nhìn chung NQLĐ của các doanh
58
mô, tính chất và đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiện nay,
NSDLĐ có xu hướng cụ thể hóa các hành vi vi phạm kỷ luật lao động của
NLĐ trong nội quy lao động. Nhiều nội quy lao động đã liệt kê cụ thể các
hành vi vi phạm kỷ luật lao động cho một hình thức kỷ luật lao động. Như:
Nội quy lao động của Công ty TNHH Microsoft Việt Nam quy định tới 33
hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật lao động ở mức khiển trách; hình thức kéo
dài thời hạn nâng lương không quá 06 tháng được áp dụng cho 19 hành vi vi
phạm kỷ luật ở nội quy lao động của Công ty TNHH Nikkiso Việt Nam; trong
nội quy lao động của Công ty TNHH Microsoft Mobile Việt Nam liệt kê đến
24 hành vi bị áp dụng hình thức kỷ luật sa thải.
tuân thủ thực hiện nội quy lao động từ NLĐ cũng là một phần vô cùng quan
Ngoài việc chú trọng xây dựng và tổ chức thực hiện từ NSDLĐ thì việc
trọng. Thực tế thực hiện, NLĐ đã bắt đầu có sự quan tâm, nhìn nhận và thực
hiện những quy định của nội quy lao động. Đặc biệt, trong các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, NLĐ tuân thủ khá nghiêm ngặt các quy định trong
nội quy lao động. Ở các doanh nghiệp lớn, đại đa số NLĐ đã nắm được các
quy định trong nội quy lao động.
2.3.2. Những tồn tại
Bên cạnh những kết quả đáng tích cực đã đạt được, việc thực hiện
những quy định của pháp luật về NQLĐ tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài vẫn còn những hạn chế nhất định. Điều này có ảnh hưởng không
Thứ nhất, việc ban hành nội quy tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài vẫn còn những vi phạm về nội dung cũng như thủ tục ban hành [50].
Việc áp dụng các quy định của pháp luật trong quá trình xây dựng nội dung
NQLĐ chưa thật sự nghiêm túc, trong nhiều trường hợp còn vi phạm pháp
luật nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ. Việc
nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ cũng như NSDLĐ.
59
xây dựng và ban hành nội quy lao động còn nhiều hạn chế, vướng mắc, nội
quy lao động chỉ mang tính “hình thức” là một hiện tượng khá phổ biến trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là một trong những vấn đề
nổi bật nhất hiện nay, đòi hỏi phải có những giải pháp thiết yếu, kịp thời.
Nội dung nội quy lao động của một số đơn vị doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài không phù hợp với quy định pháp luật. Ví dụ: Nội quy lao động
của Công ty TNHH Năng lượng xanh Biomax quy định người lao động nghỉ
việc riêng trong mọi trường hợp phải làm đơn xin phép trước một ngày và
phải được Ban lãnh đạo công ty đồng ý mới được nghỉ [50]. Thực tế cho thấy,
nhiều nội dung của NQLĐ còn trùng lặp hoặc sao chép lại những quy định
sơ sài, chưa cụ thể hóa được các hành vi vi phạm kỷ luật lao động có khả
của thỏa ước lao động tập thể hoặc của Bộ luật lao động. Nhiều nội dung còn
năng xảy ra trong doanh nghiệp. Một số vấn đề quan trọng liên quan đến trách
nhiệm của NSDLĐ không có, còn thiếu hoặc có quy định thì chỉ quy định
chung chung. Ví dụ, nội quy lao động của Công ty TNHH Microsoft Mobile
Việt Nam khi quy định về công tác an toàn, vệ sinh lao động thì phần trách
nhiệm của người sử dụng chỉ quy định chung chung “Công ty sẽ chủ động xây
dựng môi trường làm việc an toàn và vệ sinh cho người lao động.” Nhưng thế
nào là môi trường làm việc an toàn, vệ sinh và công tác bảo đảm an toàn, vệ
sinh lao động như thế nào thì lại không thấy đề cập đến trong NQLĐ. Điều
này khiến cơ quan quản lý khó xác định được vi phạm của NSDLĐ nếu doanh
Ngoài ra, với quyền ban hành NQLĐ của mình, NSDLĐ có xu hướng
lạm quyền, đưa vào NQLĐ những điều khoản trái quy định pháp luật, xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ. Chẳng hạn như các quy định
về kiểm soát an ninh, trật tự tại doanh nghiệp. Đặc biệt đối với các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, do đặc thù bảo mật thông tin công nghệ,
nghiệp không thực hiện tốt quy định về an toàn vệ sinh lao động tại Công ty.
60
kinh doanh mà các doanh nghiệp luôn đặt ra những yêu cầu khắt khe đối với
quy định về kiểm soát an ninh. Tại một số doanh nghiệp còn áp dụng biện
pháp khám người hoặc yêu cầu xuất trình đồ đạc cá nhân mang theo người khi
ra vào công ty. Ví dụ: Tại điều 14 nội quy lao động của Công ty TNHH Wisol
Hà Nội có quy định: “Người lao động khi đi qua cổng bảo vệ phải xuất trình
đồ mang theo người”. Tình trạng này dễ thấy tại các doanh nghiệp sản xuất
điện tử khi mà việc mất cắp các chi tiết máy móc rất dễ xảy ra và khó tìm ra
thủ phạm. Để bảo vệ tài sản trong doanh nghiệp, hạn chế việc mất cắp, nhiều
doanh nghiệp đã trang bị camera theo dõi. Tuy nhiên, việc đầu tư không đồng
bộ khiến cho hiệu quả của camera giám sát không phát huy được hiệu quả. Để
vào nội quy lao động của doanh nghiệp mình. Theo quy định tại Điều 192 của
khắc phục tình trạng này, nhiều doanh nghiệp đã đưa biện pháp “khám người”
Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì việc khám người chỉ được tiến hành khi có
căn cứ để nhận định trong người đó có cất giữ công cụ, phương tiện phạm tội
hoặc đồ vật, tài sản do phạm tội mà có. Việc khám người chỉ có thể do cơ
quan có thẩm quyền tiến hành theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ được quy
định tại diều 194 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Mặt khác, theo quy định của
Bộ luật lao động, các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản liên quan
khác đều không quy định hình thức khám xét NLĐ. Bởi vậy, để bảo vệ tài sản
trong doanh nghiệp, NSDLĐ có thể sử dụng nhiều cách, nhưng việc khám xét
NLĐ trước khi rời nhà máy không thể được thực hiện, lại càng không được
động là hành vi vi phạm pháp luật và cần có biện pháp xử lý kịp thời.
Việc tham khảo ý kiến của tổ chức công đoàn cấp cơ sở trong việc xây
dựng và ban hành nội quy cơ bản đã được thực hiện nhưng chỉ mang tính hình
thức; công đoàn cơ sở chưa thật sự thể hiện được vai trò của mình trong quá
trình tham gia ý kiến xây dựng nội quy lao động tại doanh nghiệp. Tình trạng
phép đưa vào nội quy lao động. Việc đưa điều khoản này vào nội quy lao
61
này xảy ra do bản chất cán bộ công đoàn ở các doanh nghiệp thực chất cũng
chỉ là NLĐ trong doanh nghiệp. Chính yếu tố kiêm nhiệm này đã hạn chế
quyền độc lập của công đoàn cơ sở khi tham gia vào góp ý xây dựng NQLĐ.
Hơn nữa, pháp luật chưa có quy định cụ thể về chế tài xử lý khi NSDLĐ
không thực hiện thủ tục tham khảo ý kiến tổ chức đại diện tập thể lao động,
dẫn đến thiếu tính răn đe của quy định pháp luật.
Ngoài ra, trong những năm gần đây, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài có xu hướng ban hành các văn bản được gọi là Bộ quy tắc ứng xử
hay Sổ tay văn hóa doanh nghiệp. Ví dụ: Công ty TNHH Intel Product Việt
Nam (Intel Việt Nam), Tập đoàn Siemens, Công ty TNHH Microsoft Mobile
ứng xử quy định các nội dung khác nhau. Thông thường, Bộ quy tắc ứng xử
Việt Nam… Tùy vào đặc điểm cụ thể của mỗi đơn vị mà theo đó Bộ quy tắc
chú trọng đến các quy định về thời gian làm việc, bảo vệ tài sản đơn vị, quy
tắc ứng xử trong doanh nghiệp (giữa NLĐ với NSDLĐ, giữa cấp trên với cấp
dưới, giữa NLĐ với khách hàng/đối tác, môi trường làm việc, trách nhiệm xã
hội… Do tính ưu việt của nó trong việc chứa đựng các quy định mềm chủ yếu
về thái độ ứng xử, về văn hóa nên các đơn vị lao động nên đã có một số doanh
nghiệp đã sử dụng nó làm căn cứ để xử lý kỷ luật lao động, chứ không phải là
nội quy lao động.
Thứ hai, việc chấp hành nội quy lao động của NLĐ vẫn còn chưa
nghiêm túc. Như đã phân tích, để việc thực hiện nội quy lao động tại doanh
song với việc nâng cao nhận thức, trình độ của NLĐ trong việc thực hiện nội
quy lao động thì cần nâng cao ý thực của NLĐ. Tuy nhiên, một thực tế cho
thấy, tại nhiều doanh nghiệp, NLĐ không tự giác thực hiện. Nguyên nhân là
do NLĐ chưa thực sự tin tưởng vào NQLĐ của doanh nghiệp. Thậm chí, tại
một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, do áp dụng quá nhiều nội
nghiệp được hiệu quả, cần có sự chấp hành nghiêm chỉnh của NLĐ. Song
62
dung hà khắc đã dẫn đến sự bất bình của NLĐ khiến NLĐ không thực hiện
hoặc thực hiện nội quy lao động với tâm lý chống đối. Hiện tượng NLĐ coi
thường các quy định của NQLĐ, ý thức kỷ luật kém vẫn tồn tại nhiều trong
các doanh nghiệp. Sự vi phạm các quy tắc về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi diễn ra thường xuyên như: NLĐ thường xuyên đi muộn về sớm, tự động
nghỉ mà không xin phép… NLĐ coi thường các nguyên tắc về an toàn và vệ
sinh lao động, trật tự trong doanh nghiệp như: hút thuốc lá trong khi kiểm tra
máy móc, nói chuyện riêng, gây mâu thuẫn, đánh nhau trong giờ làm việc…
Theo báo cáo hàng năm của Công ty TNHH Fushan Technology Việt Nam thì
trong 06 tháng cuối năm 2018 tình trạng vi phạm các nội quy lao động chủ
phạm kỷ luật, trong đó vi phạm về thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi
yếu do lỗi liên quan đến ý thức của NLĐ. Báo cáo chỉ ra có 83 trường hợp vi
chiếm 20%; vi phạm về an ninh, kiểm soát ra vào chiếm 33%; hành vi trộm
cắp chiếm 5%; vi phạm về quy trình làm việc và an toàn, vệ sinh lao động
63
chiếm 13%; các vi phạm khác chiếm 29% [47].
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư
nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông. Theo đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài thể hiện dưới hai hình thức: doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước
ngoài (Đầu tư trực tiếp) hoặc doanh nghiệp liên doanh (Đầu tư gián tiếp). Với
những góp mặt trong nền kinh tế nội địa, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài đã chứng minh vai trò quan trọng của mình trong việc phát triển
kinh tế, tăng cường quan hệ đối ngoại với các nước trên thế giới như: tăng
khối lượng vốn đầu tư cho sản xuất trong nước; tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu
nâng cao trình độ khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý và mở rộng thị
kinh tế hình thành nên các ngành kinh tế mũi nhọn và tăng số việc làm và
trường xuất khẩu.
Nội quy lao động tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước mang những
đặc điểm chung của nội quy lao động theo quy định pháp luật như:
- Chủ thể ban hành là NSDLĐ tại các doanh nghiệp có từ 10 lao động
trở lên;
- Đảm bảo nguyên tắc ban hành không trái với pháp luật;
- Nội quy lao động phải bao gồm năm nội dung chính: (i) Thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi; (ii) Trật tự nơi làm việc; (iii) An toàn lao động, vệ
sinh lao động ở nơi làm việc; (iv) Việc bảo vệ tài sản và bí mật kinh doanh, bí
của NLĐ và các hình thực xử lý kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất;
- Trình tự ban hành, công bố nội quy lao động tuân thủ quy định pháp
luật: nội quy lao động phải được lấy ý kiến tham khảo của tổ chức đại diện
tập thể NLĐ trước khi ký quyết định ban hành. Với doanh nghiệp từ 10 NLĐ
trở lên phải đăng ký nội quy lao động tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
mật công nghệ, sở hữu trí tuệ của NSDLĐ; (v) Các hành vi vi phạm kỷ luật
64
nội quy lao động phải được thông báo công khai tại doanh nghiệp.
Ngoài những đặc điểm chung, nội quy lao động tại doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài mang những đặc trưng riêng. Với đặc thù và tính chất
của doanh nghiệp có số lượng lao động lớn, áp dụng các dây chuyền sản xuất
tiên tiến nên để dù trì trật tự lao động, các quy định về bảo vệ tài sản và bí
mật kinh doanh, bí mật công nghệ, sở hữu trí tuệ của NSDLĐ và kỷ luật lao
động được chú trọng hơn cả.
Thực tế áp dụng nội quy lao động tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài cơ bản là nghiêm túc, tuân thủ đúng và đủ các quy định pháp luật về nội
quy lao động. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại những hạn chế nhất định
phạm quyền và lợi ích của NLĐ; ý thức thực hiện nội quy lao động tại một số
như thủ tục xây dựng, ban hành còn mang tính hình thức; một số quy định vi
65
doanh nghiệp còn chưa tốt.
Chương 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VỀ NỘI QUY LAO ĐỘNG TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nội quy lao động
Hoàn thiện pháp luật về NQLĐ là một yêu cầu tất yếu để tạo ra hành
lang pháp lý vững chắc, thuận lợi cho việc thiết lập trật tự trong doanh
nghiệp, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của NLĐ. Việc hoàn thiện pháp luật về
nước mà còn phải đảm bảo tính toàn diện, thống nhất, đồng bộ với việc hoàn
NQLĐ không chỉ phải phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
thiện pháp luật lao động nói chung. Các quy định về NQLĐ phải nằm trong
mối quan hệ chặt chẽ với các quy định của luật lao động cũng như pháp luật
khác có liên quan. Mọi hạn chế của quy định này sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả
áp dụng của các quy định khác, những tồn tại của các quy định về nội quy lao
động sẽ ảnh hưởng đến các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong
quan hệ lao động. Do đó, khi xây dựng quy định về NQLĐ cần đặt nó trong
mối tương quan với các quy định pháp luật khác. Ngoài ra, để đảm bảo các
quy định pháp luật được áp dụng vào thực tế một cách hiệu quả, việc hoàn
thiện pháp luật về NQLĐ phải được xây dựng dựa trên đòi hỏi thực tế của nền
động nội địa cũng như xu hướng của thị trường lao động quốc tế. Để làm
được điều này thì việc hoàn thiện pháp luật về nội quy lao động không chỉ
xây dựng dựa trên pháp luật quốc gia mà còn phải phù hợp với pháp luật quốc
tế và pháp luật tại các tổ chức quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Qua những phân tích về thực trạng thực hiện pháp luật về NQLĐ tại
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tác giả đưa ra một số kiến nghị
hoàn thiện pháp luật về NQLĐ như sau:
66
kinh tế thị trường, đáp ứng được sự thay đổi thường xuyên của thị trường lao
Thứ nhất, pháp luật cần có những quy định xử phạt nghiêm đối với các
sai phạm trong quá trình áp dụng pháp luật về NQLĐ của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cũng như các doanh nghiệp có NQLĐ với những nội dung trái
pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ.
Như đã phân tích ở trên, hiện nay NQLĐ tại một số doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài vẫn tồn tại những quy định vi phạm pháp luật lao động
cũng như pháp luật có liên quan khác, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp
của NLĐ. Có hai nguyên nhân chính dẫn đến tình trang này đó là sự coi
thường pháp luật của các doanh nghiệp vi phạm và sự kiểm soát, quản lý lỏng
Có thể thấy, pháp luật hiện hành chưa có những quy định xử phạt
lẻo của cơ quan có thẩm quyền.
nghiêm minh đối với các doanh nghiệp có NQLĐ trái pháp luật. Sự thiếu răn
đe của pháp luật đã dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp dù biết là quy định
trái pháp luật nhưng vẫn áp dụng để đảm bảo lợi ích của mình trong quá trình
vận hành, kinh doanh. Do đó, cần xây dựng những quy định xử phạt nghiêm
minh đối với các doanh nghiệp vi phạm để đảm bảo quyền lợi của NLĐ.
Ngoài ra, sự kiểm soát, quản lý lỏng lẻo của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trong quá trình thẩm tra, áp dụng pháp luật về NQLĐ cũng là một
yếu tố làm gia tăng các vi phạm về NQLĐ. Với vai trò là cơ quan quản lý,
thẩm định các NQLĐ trước khi được công bố, ban hành và áp dụng tại doanh
nội dung của nội quy dẫn đến các nội quy chứa đựng nội dung vi phạm vẫn
được chấp thuận hoặc cơ quan lao động cấp tỉnh ra thông báo muộn hoặc
không ra thông báo đối với những nội dung trái pháp luật trong NQLĐ. Vì
vậy, những nội quy lao động trái pháp luật vẫn tồn tại và hàng ngày được đưa
ra áp dụng để xử lý kỷ luật NLĐ, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi
nghiệp, nhưng một số cơ quan lại không thực sự sát sao trong việc kiểm tra
67
ích hợp pháp của NLĐ. Theo kết luận thanh tra về việc thực hiện chức năng
quản lý của Nhà nước về lao động, bảo hiểm xã hội và bình đẳng giới tại Sở
Lao động thương bình và Xã hội thành phố Cần Thơ của thanh tra Bộ lao
động Thương binh và Xã hội thì nội quy lao động của một số doanh nghiệp có
những vi phạm nhưng vẫn được chấp thuận phê duyệt như: hồ sơ đăng ký nội
quy lao động của một số doanh nghiệp chưa có biên bản góp ý của đại diện
NLĐ tại cơ sở, một số nội quy lao động có nội dung chưa đúng theo quy định
của pháp luật như: quy định xử lý kỷ luật sa thải NLĐ vắng mặt khi NLĐ
nghỉ 5 ngày cộng dồn trong một tháng, 20 ngày cộng dồn trong một năm; kỷ
luật chuyển làm công việc khác khi NLĐ không tuân thủ sự điều động, phân
Do đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm
công của NSDLĐ; NLĐ nghỉ không lý do thì bị phạt tiền…[50].
quyền, việc bổ sung các quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trong việc đăng ký nội quy lao động là hoàn toàn cần thiết.
Thứ hai, pháp luật cần bổ sung thêm vấn đề ứng xử trong lao động là
một nội dung cơ bản của nội quy lao động.
Pháp luật có thể quy định ứng xử trong lao động là một trong những
nội dung cơ bản của nội quy lao động và NSDLĐ có thể tách nội dung này
xây dựng Bộ quy tắc ứng xử riêng. Tuy nhiên, khi xây dựng, ban hành Bộ quy
tắc ứng xử cũng phải tuân theo các quy định như xây dựng, ban hành NQLĐ
và Bộ quy tắc ứng xử là một nội dung không thể tách rời của NQLĐ. Việc bổ
việc tồn tại song song của bộ quy tắc ứng xử và NQLĐ mà nội dung của mỗi
loại lại có phần khác nhau nhất là khi các doanh nghiệp quá lạm dụng Bộ quy
tắc ứng xử và coi nó như là một cơ sở để xử lý kỷ luật thay vì phải áp dụng
nội quy lao động như quy định của pháp luật. Việc thừa nhận bộ quy tắc ứng
xử và xây dựng một quy trình ban hành riêng cho nó không chỉ tạo hành lang
sung quy định này sẽ giải quyết được các bất cập xảy ra trong thực tiễn, đó là
68
pháp lý để NSDLĐ xây dựng và ban hành bộ quy tắc ứng xử mà còn nâng cao
sự tham gia quản lý, kiểm soát của cơ quan có thẩm quyền đối với nội dung
của bộ quy tắc ứng xử, tránh những quy định xâm phạm đến quyền và lợi ích
hợp pháp của NLĐ.
Thứ ba, pháp luật cần cụ thể hóa các quy định về thủ tục thông báo,
niêm yết nội quy lao động đến NLĐ trong doanh nghiệp.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, sau khi nội quy lao động được cơ
quan có thẩm quyền chấp nhận, doanh nghiệp phải thông báo, phổ biến nội quy
lao động đến từng NLĐ; những điểm chính của nội quy lao động phải được niêm
yết ở nơi làm việc, phòng tuyển dụng lao động và những nơi cần thiết khác. Đây
đều hiểu và nắm rõ nội quy lao động, các quyền và nghĩa vụ của bản thân qua đó
là nghĩa vụ bắt buộc đối với NSDLĐ nhằm đảm bảo mọi NLĐ tại doanh nghiệp
nâng cao ý thức thực hiện nội quy lao động tại doanh nghiệp.
Tuy nhiên, ở đây, quy định của pháp luật chưa thật sự cụ thể. “Điểm
chính” của nội quy lao động là những nội dung nào? “Những nơi cần thiết
khác” là những địa điểm nào? Do không có quy định cụ thể nên mỗi doanh
nghiệp có thể hiểu và thực hiện quy định này một cách khác nhau. Vì vậy,
pháp luật nên cụ thể hóa những điểm nào là điểm chính của NQLĐ cần niêm
yết, những địa điểm nào trong doanh nghiệp cần thiết phải niêm yết.
Hơn nữa, pháp luật cần phải quy định cụ thể về thời gian và cách thức
(trực tiếp hoặc gián tiếp) mà NSDLĐ phải phổ biến nội quy lao động tới NLĐ
luật lao động. Có nên chăng cần quy định cụ thể hình thức phổ biến nội quy
lao động – tuyên truyền, phổ biến, đào tạo các quy định về NQLĐ; cũng như
thời gian định kỳ đào tạo để nâng cao ý thức của NLĐ cũng như đảm bảo mọi
nội dung của nội quy lao động đều được truyền đạt đủ và đúng đến NLĐ. Có
như vậy, nội quy lao động mới phát huy hiệu quả trên thực tế, thực sự trở
để NLĐ hiểu rõ các quy định trong NQLĐ, tránh những hành vi vi phạm kỷ
69
thành một văn bản nội bộ mang tính chất thiết lập trật tự, nề nếp trong đơn vị
sử dụng lao động, đồng thời bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của
NLĐ trước sự vi phạm của chủ sử dụng lao động.
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
về nội quy lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Bên cạnh việc hoàn thiện các quy định của pháp luật để tạo hành lang
pháp lý thông thoáng, cần thực hiện các giải pháp để nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về NQLĐ tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ nhất, phải tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp
luật về NQLĐ nói riêng và pháp luật lao động nói chung đến các chủ thể
tư nước ngoài.
trong quan hệ lao động, đặc biệt là NSDLĐ tại các doanh nghiệp có vốn đầu
Với đặc thù riêng biệt của mình, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài luôn có sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài, do sự khác biệt về
văn hóa, ngôn ngữ nên nhận thức về pháp luật lao động nói chung và pháp
luật về nội quy lao động nói riêng của NSDLĐ này còn nhiều hạn chế. Do đó,
cần phải đẩy mạnh công tác giáo dục tuyên truyền pháp luật về nội quy lao
động đến nhóm chủ thể này để họ có thể hiểu rõ và đúng ý nghĩa, mục đích
của các quy đinh pháp luật. Bộ luật lao động 2012 ra đời cùng với các văn bản
hướng dẫn đã đưa pháp luật vào cuộc sống khá lâu, nhưng nếu chỉ dừng lại ở
đó thì các quy định của pháp luật không phát huy được ý nghĩa trên thực tế.
trong doanh nghiệp – cả chủ sử dụng lao đông và NLĐ đều không hiểu hết về
các quy định của Bộ luật lao động, đặc biệt là các quy định về nội quy lao
động. Vì vậy, nâng cao sự hiểu biết pháp luật về nội quy lao động cho NLĐ là
một công tác cần thiết. Để thực hiện tốt công tác này, cần có sự định hướng
về phổ biến, giáo dục kiến thức pháp luật về nội quy lao động với mỗi nhóm
Thực tiễn thực hiện pháp luật về nội quy lao động cho thấy, hầu như NLĐ
70
lao động khác nhau để hiệu quả tuyên truyền được cao nhất. Cụ thể:
Đối với NSDLĐ, phải nâng cao hơn nữa khả năng hiểu biết pháp luật
lao động cho chủ sử dụng lao động, đặc biệt là các quy định về nội quy lao
động. Chủ sử dụng lao động cần phải nắm rõ các quy định của pháp luật lao
động nói chung và các quy định của pháp luật về NQLĐ nói riêng thì mới có
thể thiết lập, duy trì được trật tự, nề nếp trong đơn vị một cách bền vững. Các
cơ quan quản lý Nhà nước về lao động cần chủ động tạo điều kiện tổ chức các
lớp tập huấn, học tập và kiểm tra kiến thức pháp luật, cấp giấy chứng nhận
trình độ hiểu biết pháp luật lao động cho những người đứng đầu doanh nghiệp
như giám đốc, chủ tịch công đoàn… Đối với nhóm chủ sử dụng lao động tại
tạo song ngữ riêng để các nhà đầu tư nước ngoài có thể hiểu đúng về pháp
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần xây dựng chương trình đào
luật lao động qua đó áp dụng nghiêm túc tại doanh nghiệp. Ngoài ra, cũng cần
có những chế tài tương ứng ràng buộc nếu NSDLĐ không thực hiện. Thêm
vào đó, các cơ quan có thẩm quyền cũng cần phối hợp với các cơ quan thông
tin, thông qua các phương tiện truyền thanh, truyền hình, báo chí để hướng
dẫn, giải đáp pháp luật lao động.
Đối với NLĐ, tại mỗi doanh nghiệp, NSDLĐ cần mở các lớp tập huấn,
phổ biến các quy định pháp luật lao động cho NLĐ hiểu rõ ý nghĩa, mục đích
của từng quy định cụ thể, đồng thời, có những biện pháp khuyến khích để
NLĐ thực hiện nghiêm chỉnh nội quy tại công ty. Cần xây dựng các chương
chung cũng như pháp luật về lao động nói riêng cho NLĐ, qua đó nâng cao ý
thức thực hiện nội quy lao động tại doanh nghiệp.
Thứ hai, phải nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của tổ chức đại
diện tập thể lao động trong các doanh nghiệp nói chung và trong việc xây
dựng, ban hành nội quy lao động nói riêng.
trình đào tạo định kỳ để cập nhật, bổ sung kiến thức pháp luật lao động nói
71
Tuy công đoàn không trực tiếp ban hành NQLĐ, nhưng khi ban hành
nội quy lao động, NSDLĐ phải tham khảo ý kiến công đoàn. Do đó, để thực
sự phát huy vai trò tham gia xây dựng NQLĐ của mình, công đoàn cơ sở cần
chú trọng thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản như: tạo điều kiện đào tạo NLĐ
vừa có kiến thức chuyên môn, vừa có kiến thức pháp luật về lao động, có bản
lĩnh chính trị để tham gia đấu tranh cho lợi ích của NLĐ; phát triển năng lực
cho mỗi đoàn viên, thường xuyên đổi mới phương thức, nội dung hoạt động
cho phù hợp với tình hình mới; tiến tới xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn
chuyên trách để có thể chủ động, độc lập đứng ra bảo vệ quyền lợi chính đáng
của NLĐ trước những vi phạm của NSDLĐ… Mặt khác, trong quá trình lao
động, công tác, mỗi đoàn viên công đoàn phải là một cầu nối phổ biến kiến
thức pháp luật lao động đến các đoàn viên khác cũng như những NLĐ không
phải đoàn viên. Đặc biệt với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thì
mỗi đoàn viên công đoàn phải là cầu nối gắn kết giữa những NLĐ Việt Nam
với những NLĐ nước ngoài. Để những lao động nước ngoài có thể hiểu rõ
hơn các quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại NQLĐ.
Thứ ba, tăng cường công tác quản lý nhà nước về lao động và xử lý vi
phạm pháp luật về nội quy lao động; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nâng cao
trình độ, năng lực của các cán bộ chuyên trách.
Hiện nay, hiện tượng vi phạm pháp luật lao động nói chung và pháp
biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tình trạng lạm dụng
quyền quản lý của NSDLĐ ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi chính đáng
của NLĐ. Vì vậy, việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử
lý kịp thời các vi phạm pháp luật lao động nói chung và pháp luật về nội quy
lao động nói riêng một cách thường xuyên là điều cần thiết.
luật về nội quy lao động nói riêng xảy ra khá phổ biến ở các doanh nghiệp đặc
Không chỉ thường xuyên tiến hành kiểm tra rà soát, đánh giá việc ban
72
hành nội quy lao động, đăng ký nội quy lao động của các doanh nghiệp để rút
ra những kinh nghiệm để hướng dẫn, đôn đốc các đơn vị ban hành, đăng ký
nội quy lao động theo đúng quy định của pháp luật; các cơ quan có thẩm
quyền cần phải thành lập đội ngũ thanh tra có kinh nghiệm, giàu chuyên môn
nghiệp vụ thường xuyên đến thanh tra các đơn vị sử dụng lao động đặc biệt là
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để kịp thời giải quyết những
vướng mắc, sai phạm trong quá trình thực hiện nội quy lao động.
Bên cạnh đó, cần chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ
chuyên trách; thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng trình độ cho
các cán bộ thực hiện công tác đăng ký nội quy lao động; tổ chức các cuộc thi
với những cán bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ;… Có như vậy, mới có
tìm hiểu về nội dung pháp luật về nội quy lao động nói riêng; khen thưởng đối
những cán bộ chuyên trách giàu chuyên môn, kinh nghiệm để đảm bảo quá
trình áp dụng pháp luật về nội quy lao động trong thực tế được nghiêm minh
73
và đúng quy định.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Thực tế thực hiện pháp luật về nội quy lao động cho thấy, cơ bản
NSDLĐ cũng như NLĐ đã có ý thức chấp hành có quy định của pháp luật về
nội quy lao động. Tuy nhiên, việc thực hiện pháp luật về nội quy lao động vẫn
còn nhiều bất cập do hệ thống pháp luật về nội quy lao động chưa thực sự hợp
lý; công tác tổ chức thực hiện pháp luật cũng như nâng cao ý thức pháp luật
của người dân còn nhiều hạn chế.
Hoàn thiện pháp luật về nội quy lao động trước hết cần khắc phục
những điểm bất cập, đảm bảo tính khả thi nhằm đảm bảo sự hài hòa về quyền
về nội quy lao động không chỉ phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và
và lợi ích của các bên trong mối quan hệ lao động. Việc hoàn thiện pháp luật
Nhà nước mà còn phải phù hợp với thực tế của nền kinh tế - xã hội cũng như
xu hướng quốc tế; đảm bảo tính toàn diện, thống nhất và đồng bộ với các quy
định của pháp luật có liên quan.
Nhà nước cần nhanh chóng ban hành có văn bản hướng dẫn, bổ sung,
sửa đổi các quy định pháp luật về nội quy lao động như: phạm vi chủ thể ban
hành nội quy lao động; các nội dung chủ yếu của nội quy lao đồng; thủ tục
tham khảo ý kiến tổ chức đại diện tập thể NLĐ; thủ tục công khai, phổ biến
nội quy lao động tại doanh nghiệp và chế tài xử phạt đối với doanh nghiệp
cũng như cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có hành vi sai phạm.
các công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về nội quy lao động tại các doanh nghiệp nước ngoài như: đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức pháp luật về nội quy lao động đối với các chủ thể có liên
quan, đặc biệt là với chủ sử dụng lao động – nhóm nhà đầu tư nước ngoài với
những hạn chế nhất định về ngôn ngữ và nhận thức pháp luật Việt Nam; nâng
Song song với việc hoàn thiện các quy định pháp luật, cần thực hiện
74
cao hiệu quả hoạt động của tổ chức đại diện tập thể lao động trong việc xây
dựng nội quy lao động để mỗi đoàn viên cơ sở là cầu nối tuyên truyền pháp
luật đến toàn thể NLĐ tại doanh nghiệp; tăng cường công tác quản lý nhà
nước về lao động và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ nhà
75
nước trong việc kiểm tra, rà soát việc thực hiện pháp luật về nội quy lao động.
KẾT LUẬN
Nội quy lao động là một trong những nội dung không thể thiếu tại
doanh nghiệp giúp NSDLĐ thực hiện được quyền quản lý lao động của mình.
Nhờ nội quy lao động, NSDLĐ thiết lập và duy trì trật tự, nề nếp của doanh
nghiệp qua đó giúp hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra hiệu quả. Nội quy
lao động đóng vai trò đặc biệt quan trọng tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài khi thực tiễn xây dựng, ban hành và thực hiện nội quy lao động tại
nhóm doanh nghiệp này còn nhiều khó khăn, bất cập.
Với đề tài “Nội quy lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài theo pháp luật lao động Việt Nam”, luận văn đã làm sáng tỏ các
vấn đề lý luận chung về nội quy lao động cũng như thực trạng áp dụng quy
định của pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về nội quy lao động tại các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; từ đó đề xuất sửa đổi, bổ sung các
quy định về nội quy lao động trong giai đoạn hiện nay để việc áp dụng nội
quy lao động tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được hiệu quả
hơn. Qua đó, luận văn rút ra những kết luận sau đây:
1. Nội quy lao động là văn bản do NSDLĐ ban hành dựa trên các quy
định của pháp luật, quy định về các quy tắc xử sự mà NLĐ phải tuân thủ khi
tham gia quan hệ lao động, quy định về các hành vi vi phạm kỷ luật lao động,
phương tiện thể hiện quyền quản lý lao động của NSDLĐ, cơ sở pháp lý để
bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia quan hệ lao động mà nó
còn là sự thể hiện quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực lao động nói
chung và pháp luật lao động về nội quy lao động nói riêng. Nội dung cơ bản
của nội quy lao động bao gồm các nội dung: (i) Thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi; (ii) Trật tự nơi làm việc; (iii) An toàn lao động, vệ sinh lao động ở
cách thức xử lý và trách nhiệm vật chất. Nội quy lao động không chỉ là
76
nơi làm việc; (iv) Việc bảo vệ tài sản và bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ,
sở hữu trí tuệ của NSDLĐ; (v) Các hành vi vi phạm kỷ luật của NLĐ và các
hình thực xử lý kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất.
2. Trong những năm gần đây, với sự góp mặt tích cực trong nền kinh
tế nội địa, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã chứng minh được
vai trò to lớn của mình trong việc phát triển nền kinh tế. Ngoài việc mang
những đặc điểm chung, nội quy lao động tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài ngoài vẫn mang những đặc thù riêng với những quy định khác
nhau. Qua thực tế thực hiện, về cơ bản việc xây dựng và ban hành nội quy lao
động tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cơ bản là nghiêm túc, tuân
bất cập. Những điểm bất cập này, dù ở mức độ khác nhau nhưng vẫn tồn tại ở
thủ theo các quy định về pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại những
nhiều nội quy lao động tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, từ vi
phạm về trình tự thủ tục ban hành nội quy lao động đến việc quy định những
nội dung vi phạm quy định pháp luật lao động. Ngoài ra, cùng với sự phát
triển của nền kinh tế - xã hội cũng như sự vận động của các quan hệ xã hội,
đặc biệt là quan hệ lao động, một số quy định về nội quy lao động đã trở nên
không còn phù hợp. Điều này đặt ra yêu cầu cần sửa đổi, bổ sung một số quy
định của pháp luật để các quy định về nội quy lao động được áp dụng một
cách hiệu quả trong thực tế.
3. Thực tiễn áp dụng đã đặt ra vấn đề cần thiết phải hoàn thiện pháp
thực tiễn; cũng như thực hiện một số biện pháp để nâng cao hiệu quả thực
hiện nội quy lao động tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Yêu
cầu cấp thiết đặt ra trước tiên là cần khắc phục ngay những điểm bất hợp lý
của pháp luật hiện hành, kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn các quy
định của Bộ luật lao động 2012 về nội quy lao động. Đối với việc sửa đổi, b ổ
luật về nội quy lao động trên cơ sở phải đảm bảo các yêu cầu về lý luận và
77
sung các quy định của pháp luật về nội quy lao động, cần thiết phải sửa đổi,
bổ sung các vấn đề sau: bổ sung nội dung chủ yếu của nội quy lao động; quy
định cụ thể hơn về thủ tục tham khảo ý kiến của tổ chức đại diện tập thể NLĐ
trong xây dựng và ban hành nội quy lao động. Song song với công tác hoàn
thiện quy định của pháp luật, Nhà nước cũng cần nâng cao hiệu quả của công
78
tác tổ chức, thực hiện pháp luật về nội quy lao động.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Nguyễn Hoàng Anh (2014), Nội quy lao động theo pháp luật Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội.
2. Ban chấp hành trung ương (2018), Nghị quyết số 23-NQ/TW về định
hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045, Hà Nội.
3. Bộ lao động Thương binh và Xã hội (2010), Tài liệu tham khảo pháp
luật lao động nước ngoài, Nxb Lao động – xã hội, Hà Nội.
4. Bộ lao động Thương binh và Xã hội (2015), Thông tư số 47/2015/TT-
BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện một số điều về hợp đồng kỷ luật lao
động, trách nhiệm vật chất của nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12
tháng 01 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số nội dung của Bộ luật lao động, Hà Nội.
5. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2017), Báo cáo quan hệ lao động
năm 2017, Hà Nội.
6. Các Mác (1960), Tư bản, Quyển thứ nhất, Tập II, Nxb Sự thật, Hà Nội.
7. Chính phủ (2013), Nghị định số 43/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi
hành Điều 10 của Luật Công đoàn về quyền, trách nhiệm của công đoàn
người lao động, Hà Nội.
8. Chính phủ (2013), Nghị định số 45/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số
điều của Bộ luật lao động về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và an
toàn lao động, vệ sinh lao động, Hà Nội.
9. Chính phủ (2013), Nghị định số 95/2013/NĐ – CP quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người
trong việc đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
79
lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Hà Nội.
10. Chính phủ (2015), Nghị định số 05/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật lao động, Hà Nội.
11. Chính phủ (2018), Nghị định số 148/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một
số điều của nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 01 năm 2015
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung
của Bộ luật lao động, Hà Nội.
12. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Cộng hòa (1947), Sắc lệnh số 29/SL về việc
quy định những sự giao dịch về việc làm công, giữa các chủ nhân người
Việt Nam hay người ngoại quốc và các công nhân Việt Nam làm tại các
13. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Cộng hòa (1950), Sắc lệnh số 78/SL về
xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ, thương điếm và các nhà làm nghề tự do, Hà Nội.
quy chế công nhân giúp việc Chính phủ.
14. Công ty Honda Việt Nam (2014), Nội quy lao động, Vĩnh Phúc.
15. Công ty TNHH Linea Aqua Việt Nam (2016), Nội quy lao động, Hưng Yên.
16. Công ty TNHH Microsoft Mobile Việt Nam (2015), Nội quy lao động,
Bắc Ninh.
17. Công ty TNHH Nikksiso Việt Nam (2013), Nội quy lao động, Hưng Yên.
18. Công ty TNHH Wisol Hà Nội (2015), Nội quy lao động, Bắc Ninh.
19. Đỗ Thị Dung (2014), Pháp luật về quyền quản lý lao động của người sử
dụng lao động ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học
20. ILO (1921), Công ước 14 năm 1921 về áp dụng nghỉ hàng tuần trong
các cơ sở công nghiệp.
21. ILO (1935), Công ước số 47 về tuần làm việc 40 giờ.
22. ILO (1962), Khuyến nghị 116 về giảm thời giờ làm việc.
23. ILO (1978), Công ước 150 năm 1978 về quản lý lao động: vai trò, chức
luật Hà Nội, Hà Nội.
80
năng và tổ chức.
24. ILO (1981), Công ước 155 ngày 22/06/1981 về an toàn lao động, vệ sinh
lao động và môi trường lao động.
25. Phạm Hữu Nghị (2008), “Nhìn lại những chặng đường phát triển của
pháp luật ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay”, Kỷ yếu hội thảo quốc tế
Việt Nam học lần thứ ba, Tiểu ban pháp luật Việt Nam - Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội.
26. Đặng Thị Oanh (2010), Pháp luật lao động Việt Nam về nội quy lao
động - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
28. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội.
27. Quốc hội (1946), Hiến pháp, Hà Nội.
29. Quốc hội (1980), Hiến pháp, Hà Nội.
30. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
31. Quốc hội (1994), Bộ luật lao động, Hà Nội.
32. Quốc hội (2005), Luật đầu tư, Hà Nội.
33. Quốc hội (2005), Luật sở hữu trí tuệ, Hà Nội.
34. Quốc hội (2012), Bộ luật lao động, Hà Nội.
35. Quốc hội (2012), Luật Công đoàn, Hà Nội.
36. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
37. Quốc hội (2014), Luật đầu tư, Hà Nội.
39. Sở lao động thương binh và xã hội Hà Nội (2014), Thống kê số lượng nội
quy lao động đã đăng ký các năm 2010, 2011, 2012, 2013 và 06 tháng
đầu năm 2014, Hà Nội.
40. Trung tâm từ điển (2007), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
41. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật lao động Việt Nam,
38. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
81
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
42. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Lý luận Nhà nước và
pháp luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
43. VI Lênin (1978), Toàn tập, tập 79, Nxb Tiến Bộ.
44. Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (2002), Từ điển Bách khoa,
tập 3, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
45. Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb Từ
điển Bách khoa và Nxb Tư pháp, Hà Nội.
II. Tài liệu Tiếng Anh
46. Czech (2006), Labour Code 2006.
2018, Bac Ninh.
47. Fushan Technology Vietnam Ltd.co (2018), Annual Discipline report
48. German Working Time Act.
III. Tài liệu Website
49. http://antoanlaodong.gov.vn/catld/Pages/chitiettin.aspx?IDNews=2109
50. https://baomoi.com/can-tho-noi-quy-cua-nhieu-doanh-nghiep-chua-
dung-luat/c/23409407.epi
51. http://cafef.vn/goc-nhin-khi-loi-nhuan-tu-von-dau-tu-nuoc-ngoai-chay-
ve-nuoc-me-cao-hon-tang-truong-gdp-viet-nam-2019080607490604.chn
52. https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=382&idmid=2&ItemID=19041
53. https://www.gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=621&ItemID=19226
dong-gop-tich-cuc-cua-dau-tu-truc-tiep-nuoc-ngoai-doi-voi-kinh-te-xa-
hoi-cua-viet-nam-52352.html
55. https://www.vietdata.vn/thu-hut-fdi-nam-2018-trien-vong-nam
2019536915517
56. http://www.dankinhte.vn/tong-quan-ve-fdi-la-gi/
54. http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-luan/nhung-
82
57. https://www.investopedia.com/terms/f/foreign-portfolio-investment-fpi.asp
58. https://unctad.org/en/Docs/wir1996_en.pdf
59. https://en.wikipedia.org/wiki/German_labour_law
60. http://en.wikipedia.org/wiki/United_Kingdom_labour_law
83
61. https://www.wto.org/English/news_e/pres96_e/pr057_e.htm