VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN QUỐC TUẤN

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM,

TỪ THỰC TIỄN TẠI TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội - 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN QUỐC TUẤN

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM,

TỪ THỰC TIỄN TẠI TỈNH BẮC NINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM MINH TUYÊN Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN.

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và

trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa từng được ai công

bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Quốc Tuấn

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ .................................................... 6

1.1. Khát quát chung về Luật sư ....................................................................... 6

1.2. Khái quát về địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự ................. 16

1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới địa vị pháp lý của Luật sư trong tố tụng hình sự Việt Nam .................................................................................................... 23

Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 25

Chương 2 ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH ......... 26

2.1. Địa vị pháp lý của luật sư trong Bộ luật tố tụng hình sự ......................... 26

2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về địa vị pháp lý của Luật sư trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh ..................................................... 39

Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 56

Chương 3 MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ................ 57

3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về địa vị pháp lý của luật sư ...... 57

3.2. Cần nhận thức đúng đắn vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự .. 64

3.3. Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. . 65

3.4. Tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng đội ngũ luật sư ....... 68

3.5. Tăng cường tuyên truyền giáo dục pháp luật ........................................... 72

Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 73

KẾT LUẬN .................................................................................................... 74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 76

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS: Bộ luật dân sự

BLHS: Bộ luật hình sự

BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự

CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng

TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao

TNHS: Trách nhiệm hình sự

XHCN: Xã hội chủ nghĩa

PLTTHS: Pháp luật tố tụng hình sự

CQĐT: Cơ quan điều tra

VKSND: Viện kiểm sát nhân dân

TAND: Tòa án nhân dân.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Luật sư tham gia tố tụng trong vụ án hình sự được xác định là người

bào chữa, có vị trí quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án, sự tham gia

của luật sư cũng là căn cứ góp phần giúp Tòa án ban hành bản án, quyết định

một cách chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nhận thức được

tầm quan trọng của Luật sư tham gia bào chữa trong vụ án hình sự, thời gian

qua Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương chính sách khẳng định vị trí,

vai trò quan trọng của luật sư có thể kể đến như: Nghị quyết 08/NQ-TW của

Bộ Chính trị đã nêu: Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết

quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng

cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên

đơn, bị đơn, người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định

đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định....

Bên cạnh đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW còn đề ra những định hướng rất quan

trọng đối với việc xây dựng và hoàn thiện chế định luật sư cho phù hợp với

tình hình mới của đất nước trước xu hướng pháp triển và hội nhập, cụ thể là:

Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị,

đạo đức, có trình độ chuyên môn; hoàn thiện cơ chế đảm bảo để luật sư thực

hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách

nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về mặt pháp lý để phát huy chế

độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư

đối với thành viên của mình. Đặc biệt, ngày 28 tháng 7 năm 2017 Chánh án

TAND tối cao đã ban hành Thông tư số: 01/2017/TT-TANDTC Quy định về

phòng xử án đã quy định vị trí ngồi của luật sư là ngang hàng với Viện kiểm

sát. Có thể thấy vị thế của Luật sư ngày càng được coi trọng, địa vị pháp lý

của luật sư ngày càng được nâng cao, khẳng định sự quan trọng của chủ thể

1

này trong hoạt động tố tụng. Chính vì vậy BLTTHS 2015, đã sửa đổi, bổ sung

nhiều quy định mới, lần đầu tiên vấn đề tranh tụng được quy định trong cả

Hiến pháp và là một nguyên tắc cơ bản của BLTTHS (Điều 26 BLTTHS

2015), tạo mọi điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia tố tụng và phần nào

khẳng định vị trí pháp lý quan trọng của Luật sư. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn

có những quy định chưa thật sự hợp lý, vướng mắc bất cập, ảnh hưởng đến

hoạt động bào chữa của luật sư đặt ra yêu cầu cấp thiết của việc nghiên cứu,

kiến nghị hoàn thiện. Chính vì vậy, học viên lựa chọn đề tài: Địa vị pháp lý

của luật sư trong tố tụng hình sự Việt Nam, từ thực tiễn tại tỉnh Bắc

Ninh làm luận văn thạc sĩ.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong khoa học luật hình sự, đã có một số công trình nghiên cứu liên

quan đến Địa vị pháp lý của luật sư như: Giáo trình Luật sư và nghề luật sư,

Học viện tư pháp; Phan Đăng Thanh – Trương Thị Hòa, Lịch sử nghề luật sư

ở Việt Nam, Nxb. Tổng hợp, TP. Hồ Chí Minh; Quy tắc đạo đức và ứng xử

nghề nghiệp luật sư Việt Nam của Liên Đoàn luật sư Việt Nam; Giáo trình

Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Tư pháp;

Viện khoa học pháp lý, Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm

2003, NXB. Tư pháp, Hà Nội, 2005; Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng, Bình

luận khoa học BLTTHS 2015, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2016; Trần Văn Bảy

(2001), Người bào chữa trong tố tụng hình sự, Tạp chí khoa học pháp luật;

Nguyễn Ngọc Khanh, Nâng cao vị thế của người bào chữa tại phiên tòa hình

sự, Tạp chí Luật học, Số 7/2008; Đỗ Đình Nghĩa, “Địa vị pháp lý của người

bào chữa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam những vấn đề lý luận và thực

tiễn”, Luận văn tiến sĩ Luật học; Ngô Thị Ngọc Vân, Hoạt động bào chữa của

luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luật án tiến sĩ luật học

trường Đại học luật Hà Nội năm 2016.

2

Có thể thấy đề tài liên quan đến Địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng

hình sự Việt Nam chưa thật sự được quan tâm, thể hiện ở việc các công trình

nghiên cứu còn hạn chế, chưa có công trình nghiên cứu nào ở cấp độ luật văn

thạc sĩ nghiên cứu, do vậy đề tài “Địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng

hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh” của học viên đảm bảo tính

mới và không bị trùng lặp.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về

địa vị pháp lý của luật sư qua đó đề xuất các giải pháp nâng cao địa vị pháp lý

của luật sư.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để hoàn thành được mục đích đặt ra của việc nghiên cứu, luận văn xác

định những nhiệm vụ phải giải quyết sau đây:

- Làm rõ những vấn đề chung về địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng

hình sự

- Trình bày và phân tích các quy định của pháp luật hình sự về địa vị

pháp lý của luật sư

- Phân tích nội dung và các điểm mới quy định về địa vị pháp lý của

luật sư theo quy định của BLHS 2015 và thực tiễn áp dụng địa vị pháp lý của

luật sư trong tố tụng hình sự tại tỉnh Bắc Ninh thông qua các vụ án cụ thể.

- Trình bày các giải pháp bảo đảm nâng cao địa vị pháp lý của luật sư

trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật tố

tụng hình sự hiện hành thể hiện địa vị pháp lý của luật sư.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung: Đề tài được giới hạn trong các quy định của pháp luật tố

tụng hình sự theo quy định của BLTTHS 2015 thể hiện địa vị pháp lý của luật

sư với tư cách tham gia tố tụng là người bào chữa.

Giới hạn về không gian: Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh;

Giới hạn về thời gian: Trong giai đoạn 05 năm từ năm 2015 – 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác - Lê nin, trong đó có sự vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật

biện chứng, duy vật lịch sử. Luận văn vận dụng những quan điểm cơ bản của

Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn bản pháp luật Việt

Nam, các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài đăng trên tạp

chí của các nhà khoa học pháp lý và các luật gia Việt Nam.

Bên cạnh đó, học viên còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể

như: phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp luật học so sánh,

phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, đánh giá để làm sáng tỏ các

vấn đề của đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Học viên nghiên cứu một cách hệ thống về những vấn đề lý luận và

thực tiễn làm rõ địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự. Luận văn có

những điểm mới sau đây:

4

- Phân tích được khái niệm, đặc điểm địa vị pháp lý của luật sư trong tố

tụng hình sự.

- Là công trình nghiên cứu đầu tiên có sự phân tích một các toàn diện

các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự tính

đến thời điểm hiện nay.

- Là cơ sở dữ liệu nghiên cứu, đa dạng hóa các công trình nghiên cứu

về quy định địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự.

- Làm sáng tỏ vấn đề về lý luận và thực tiễn về địa vị pháp lý của luật

sư trong tố tụng hình sự, từ đó góp phần đưa ra các giải pháp nâng cao địa vị

pháp lý của luật sư trong công tác tham gia giải quyết vụ án hình sự.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn bao gồm ba chương:

Chương 1. Những vấn đề chung về địa vị pháp lý của luật sư trong tố

tụng hình sự

Chương 2. Địa vị pháp lý của luật sư trong BLTTHS 2015 từ thực tiễn

tỉnh Bắc Ninh

Chương 3. Một số đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao địa vị pháp lý của

luật sư trong tố tụng hình sự

5

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. Khát quát chung về Luật sư

1.1.1. Khái niệm luật sư

Ở các nước phát triển trên thế giới, nghề Luật sư xuất hiện từ rất sớm

và ngày càng được coi trọng. Lịch sử cho thấy, từ thời Hy Lạp, La Mã cổ đại

đến thời kỳ Trung cổ, nghề Luật sư đã xuất hiện trong đời sống xã hội tuy

nhiên vẫn mang tính tự phát và Luật sư thời kỳ này không thể hiện rõ và đầy

đủ các tính chất nghề nghiệp của họ, vai trò của Luật sư bị hạn chế bởi chế độ

xã hội chuyên quyền hà khắc. Đến chế độ tư bản, các cuộc đấu tranh vì dân

chủ, bình đẳng diễn ra thường xuyên đã buộc chính quyền các nước tư sản

phải mở rộng quyền dân chủ cho người dân, nhu cầu của người dân đối với

việc được đảm bảo quyền và lợi ích của mình trên cơ sở các quy định pháp

luật luôn thường trực. Nghề Luật sư thể hiện vai trò to lớn của mình, dần hình

thành một nghề tự do [18]. Cho đến nay, nghề Luật sư tại các quốc gia phát

triển luôn được xã hội tôn vinh là một nghề cao quý.

Tại Việt Nam, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt

Nam dân chủ cộng hòa được ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số

46/SL ngày 10/10/1945 về tổ chức các đoàn thể Luật sư. Sắc lệnh này quy

định việc duy trì tổ chức Luật sư đã có, đồng thời vận dụng linh hoạt các quy

định pháp luật của chế độ cũ về Luật sư nhưng không trái với nguyên tắc độc

lập và chính thể dân chủ cộng hòa. Tại Hiến pháp năm 1946 cũng khẳng định

quyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân. Các bản Hiến

pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 tiếp tục ghi nhận và đề cao nguyên tắc

quan trọng này.

6

Tuy nhiên, phải đến năm 2001, khi Pháp lệnh Luật sư được ban hành

và có hiệu lực thì Luật sư mới thực sự được coi là một nghề nghiệp trong xã

hội. Theo pháp lệnh này thì: “Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề

theo quy định của pháp lệnh này và tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện tư

vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của các cá nhân, tổ

chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp

luật”[35]. Kể từ khi áp dụng theo Pháp lệnh Luật sư năm 2001, đội ngũ Luật

sư nước ta không ngừng được tăng nhanh về số lượng và đảm bảo về chất

lượng hoạt động. Các tổ chức luật sư hoạt động ngày càng chuyên nghiệp,

khẳng định được vai trò của tổ chức xã hội – nghề nghiệp, đồng thời tạo tiền

đề cho tổ chức luật sư tại nước ta ngày càng phát triển, vươn xa hơn và tiến

tới hội nhập với bạn bè quốc tế.

Có thể nói, Pháp lệnh Luật sư năm 2001 là cơ sở pháp lý quan trọng để

luật sư hành nghề, đảm bảo đáp ứng nhu cầu về mặt pháp lý cho cá nhân và tổ

chức. Tuy nhiên, qua quá trình áp dụng thực tiễn, Pháp lệnh Luật sư năm

2001 đã bộc lộ hạn chế, chưa đáp ứng đủ và kịp thời với nhu cầu và xu hướng

hiện tại. Trước bối cảnh đó, ngày 29 tháng 6 năm 2006, Quốc hội khóa XI kỳ

họp thứ 9 đã thông qua Luật Luật sư. Luật Luật sư năm 2006 có hiệu lực thi

hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2007 và thay thế Pháp lệnh Luật sư năm 2001.

Tại Điều 2 Luật Luật sư năm 2006 quy định: “Luật sư là người có đủ

tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ

pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là

khách hàng)”. Thực chất, đây không được coi là quy định về định nghĩa như

thế nào là Luật sư mà đây chỉ là quy định về tiêu chuẩn chung trở thành Luật

sư. Đó là người Luật sư phải có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy

định của Luật Luật sư năm 2006, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của

cá nhân, cơ quan, tổ chức (khách hàng của luật sư). Như vậy, có thể thấy,

7

pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ đều chưa có quy định cụ thể định nghĩa

về luật sư.

Do đó, hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa Luật

sư, trong đó có một số quan điểm như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Luật sư là người hoạt động bào chữa

chuyên nghiệp hoạt động trong đoàn Luật sư. Quan điểm này còn rất chung

chung và chưa thực sự đầy đủ, bởi lẽ ngoài hoạt động bào chữa, Luật sư còn

thực hiện rất nhiều các hoạt động khác, các dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của

khách hàng như tham gia bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại,

nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

trong các vụ án hình sự, dân sự, lao động, kinh doanh thương mại… tham gia

tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng…

Quan điểm thứ hai: Luật sư là người hành nghề liên quan đến lĩnh vực

pháp luật khi có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của pháp

luật của mỗi quốc gia [36]. Quan điểm này cũng khá là chung chung và gần

giống với quy định tại Điều 2 Luật Luật sư năm 2006.

Quan điểm thứ ba: Theo Đại từ điển tiếng Việt: "Luật sư là người có

chức trách, dùng pháp luật bào chữa cho bị can trước tòa án" [21]. Theo học

viên, định nghĩa này chưa thực sự chính xác, bởi vì, theo quy định của pháp

luật hình sự Việt Nam, người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử được gọi

là bị cáo chứ không phải bị can. Hơn nữa, ngoài hoạt động bào chữa tại Tòa

án nhân dân cho bị cáo thì Luật sư còn thực hiện nhiều dịch vụ pháp lý khác

như đã phân tích tại quan điểm thứ nhất.

Hiện nay, để trở thành một Luật sư, người đó phải đáp ứng tiêu chuẩn

luật sư theo quy định của pháp luật hiện hành.

8

Theo quy định tại Điều 2 Luật luật sư 2006 và Luật luật sư sửa đổi

2012 thì: Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy

định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ

quan, tổ chức (gọi chung là khách hàng).

Tại Điều 10 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012 quy

định về tiêu chuẩn Luật sư như sau: "Là công dân Việt Nam trung thành với

Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng

cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành

nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật

sư".

Người đáp ứng đủ tiêu chuẩn luật sư như trên chỉ thực sự được gọi là

luật sư và được phép hành nghề Luật sư khi đáp ứng đủ hai điều kiện sau:

được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và đã gia nhập một Đoàn Luật sư

(Điều 11 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012).

Có thể thấy, trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước cùng với chất

lượng lập pháp của Quốc hội ngày càng được nâng cao, các quy định về Luật

sư cũng được quy định bổ sung, chặt chẽ theo hương nâng cao vai trò của

Luật sư trong Bộ luật tố tụng hình sự. Chính vì vậy, đội ngũ các Luật sư cũng

ngày càng tăng về số lượng và chất lượng (Nếu năm 2009 số thành viên của

liên đoàn Luật sư Việt Nam mới chỉ là 5.300 Luật sư thì tới tháng 9/2019, số

lượng Luật sư đã là 13.563 Luật sư tăng 61%). Nghề luật sư trong xã hội cũng

được coi trọng. Do vậy, đối với các Luật sư ngoài những yêu cầu về kiến

thức, những trình độ chuyên môn cao, nhằm góp phần quan trọng vào việc

bảo vệ quyền con người, quyền công dân và góp phần bảo vệ pháp chế, thúc

đẩy sự phát triển của xã hội. Để làm tốt công việc của mình, thì ngoài yêu cầu

9

về chuyên môn, các Luật sư còn phải tuân thủ theo những quy chế đạo đức

nghề nghiệp riêng của nghề luật sư.

Phạm vi hành nghề của luật sư trong vụ án hình sự

Trong vụ án hình sự, luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người tố

giác và người bị tố giác; người bị tạm giữ, người bị bắt do phạm tội quả tang

hoặc đang bị truy nã; bị can, bị cáo và trong toàn bộ quá trình khởi tố, điều

tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Luật sư tham gia tố tụng với tư cách người

bảo vệ quyền lợi hợp pháp hoặc người đại diện cho người bị hại, nguyên đơn,

bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự.

Từ những phân tích trên, có thể hiểu Luật sư là một chức danh tư pháp

độc lập, chỉ những người đáp ứng đủ tiêu chuẩn là công dân Việt Nam trung

thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức

tốt, có bằng cử nhật luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập

sự hành nghề Luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề Luật sư và đáp ứng đủ

điều kiện được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và đã gia nhập một Đoàn

luật sư để hành nghề Luật sư thực hiện các hoạt động chuyên môn, cung ứng

các dịch vụ pháp lý cho khách hàng.

1.1.2. Phân biệt Luật sư với tư cách là người bào chữa trong vụ án

hình sự với người bào chữa

Trước hết, về người bào chữa: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã mở

rộng phạm vi người tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa. Theo đó,

tại Khoản 1 Điều 72 Bộ Luật tố tụng Hình sự năm 2015 quy định: “Người

bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có

thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền

tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa”.

10

Tại Khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định người

bào chữa có thể là những người sau:

“2. Người bào chữa có thể là:

a) Luật sư;

b) Người đại diện của người bị buộc tội;

c) Bào chữa viên nhân dân;

d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối

tượng được trợ giúp pháp lý”.

Thứ nhất, về Luật sư:

Như đã phân tích tại phần 1.1.1 Khái niệm về luật sư thì Luật sư là một

chức danh tư pháp độc lập, chỉ những người phải đáp ứng đủ tiêu chuẩn là

công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật,

có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhật luật, đã được đào tạo nghề Luật sư,

đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề

luật sư và đáp ứng đủ điều kiện được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và đã

gia nhập một Đoàn luật sư để hành nghề luật sư thực hiện các hoạt động

chuyên môn, cung ứng các dịch vụ pháp lý cho khách hàng.

Luật sư tham gia vụ án hình sự với tư cách là người bào chữa cũng phải

đáp ứng đủ các tiêu chuẩn và điều kiện để hành nghề luật sư theo quy định

của pháp luật hiện hành.

Thứ hai, người đại diện của người bị buộc tội:

Trước đây, trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định diện

người bào chữa có thể là “người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị

can, bị cáo” (Điều 56), nay được quy định khái niệm rộng hơn là “người đại

diện của người bị buộc tội.

11

Tuy nhiên trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không quy định cụ

thể như thế nào là người đại diện của người bị buộc tội. Do đó, ta có thể vận

dụng kiến thức từ Bộ Luật Dân sự và Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 để

nói về người đại diện của người bị buộc tội. Theo đó, người đại diện của

người bị buộc tội có thể là người đại diện theo pháp luật của người bị buộc tội

và người đại diện theo ủy quyền của người bị buộc tội. Trong đó, người đại

diện theo pháp luật của người bị buộc tội là bố mẹ đẻ, bố mẹ nuôi, người đỡ

đầu, anh, chị em ruột và những người theo quy định của pháp luật đối với bị

can, bị cáo là người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi.

Người đại diện của người bị buộc tội nếu không bào chữa cho bị cáo thì họ

cũng có những quyền như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, họ tham gia tố

tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp, nếu họ tham gia tố tụng với tư

cách là người bào chữa thì họ có quyền và nghĩa vụ như đối với người bào

chữa. Người đại diện theo ủy quyền của người bị buộc tội là người được

người bị buộc tội ủy quyền bào chữa cho họ. Nhìn chung, người đại diện cho

người bị buộc tội phải đáp ứng một số tiêu chuẩn sau: là người đã thành niên;

không bị tâm thần hay bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; là công dân Việt

Nam và cư trú tại Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối

với người đại diện của người bị buộc tội có quốc tịch là người nước ngoài,

người không có quốc tịch hoặc người Việt Nam ở nước ngoài.

Thứ ba, bào chữa viên nhân dân:

Theo quy định tại Khoản 3 Điều 72 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015

thì bào chữa viên nhân dân là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung

thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, đủ sức

khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủy ban Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa

cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.

12

Thứ tư, trợ giúp viên pháp lý:

Đây là một quy định mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Việc

bổ sung trợ giúp viên pháp lý có thể tham gia tố tụng hình sự với tư cách là

người bào chữa góp phần đảm bảo quyền bào chữa miễn phí cho các đối

tượng thuộc diện chính sách.

Căn cứ vào Điều 17 và Điều 19 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 thì trợ

giúp viên pháp lý có thể được hiểu là viên chức của Trung tâm trợ giúp pháp

lý nhà nước có phẩm chất đạo đức tốt; có trình độ cử nhân luật trở lên; đã

được đào tạo nghề luật sư hoặc miễn đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian

tập sự hành nghề luật sư hoặc tập sự trợ giúp pháp lý; có sức khỏe đảm bảo

thực hiện công việc trợ giúp pháp lý; không đang trong thời gian bị xử lý kỷ

luật.

Ngoài ra, tư vấn viên pháp luật có kinh nghiệm 02 năm tư vấn pháp luật

trở lên làm việc tại tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; cộng tác viên trợ giúp

pháp lý và luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo Hợp đồng với Trung tâm trợ

giúp pháp lý nhà nước hay luật sư thực hiện trợ giúp theo sự phân công của tổ

chức tham gia trợ giúp pháp lý cũng là đối tượng được thực hiện công tác trợ

giúp pháp lý.

Như vậy, có thể thấy, Luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là

Luật sư bào chữa và người bào chữa, hai khái niệm này không đồng nhất với

nhau. Trong thực tế, mọi người luôn quan niệm rằng người bào chữa phải là

luật sư và luật sư luôn luôn là người bào chữa, những người khác không phải

là luật sư thì không thể là người bào chữa. Tuy nhiên, đây là quan niệm sai

lầm. Bởi lẽ, từ những phân tích ở trên có thể thấy người bào chữa ngoài luật

sư còn có người đại diện của người bị buộc tội; bào chữa viên nhân dân; trợ

giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được

13

trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, Luật sư để trở thành người bào chữa khi tham gia

tố tụng hình sự phải là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị

cáo trong vụ án hình sự. Bên cạnh đó, pháp luật có quy định chặt chẽ hơn đối

với luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa. Người luật

sư phải đáp ứng đủ tiêu chuẩn luật sư và điều kiện hành nghề. Còn những

người khác không phải luật sư thì không phải đáp ứng các điều kiện này. Ví

dụ: Luật sư bao giờ cũng phải là người đã có bằng cử nhân Luật, phải học qua

lớp đào tạo Luật sư, phải có thời gian tập sự và dự thi kỳ thi tuyển chọn Luật

sư (Trừ một số trường hợp đặc cách như đã là Thẩm phán, Kiểm sát viên hoặc

có học vị Tiến sĩ...), còn đối với người đại diện và bào chữa viên nhân dân,

cũng được coi là người bào chữa nhưng lại không yêu cầu phải có những tiêu

chí như của Luật sư.

1.1.3. Vai trò của Luật sư trong tố tụng hình sự

Trong hoạt động tố tụng hình sự, Luật sư có vai trò vô cùng quan trọng.

Cụ thể:

Thứ nhất, Luật sư có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; bảo vệ công lý, công bằng xã hội góp phần

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Bởi vậy, nhắc tới luật sư là đa phần mọi người sẽ nghĩ ngay đến vai trò

đầu tiên của luật sư là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.

Trong xã hội ngày nay, có nhiều bộ phận người dân nước ta có trình độ dân trí

thấp, chưa am hiểu pháp luật. Bên cạnh đó, trình độ, năng lực của các cán bộ

tham gia tiến hành tố tụng còn nhiều hạn chế hoặc có một số cán bộ có hành

vi cố ý làm trái với quy định pháp luật nhằm trục lợi… Do đó, cần phải có

Luật sư – người am hiểu pháp luật, áp dụng pháp luật vào thực tiễn nhằm bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các cá nhân, tổ chức (khách hàng), bảo vệ

14

công lý, công bằng xã hội, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng của luật sư

phải dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó, Luật sư tư vấn,

giúp khách hàng đưa ra những ý kiến, yêu cầu hợp pháp đối với cơ quan tiến

hành tố tụng hướng tới việc giải quyết các vụ án được thấu tình đạt lý.

Thứ hai, Luật sư là cầu nối truyền tải pháp luật vào đời sống bằng các

hoạt động chuyên môn của mình.

Thông qua hoạt động tư vấn pháp luật, Luật sư giải thích pháp luật theo

nhu cầu của các cá nhân, tổ chức (khách hàng), tư vấn cho khách hàng những

quyền và lợi ích hợp pháp của họ trên cơ sở các quy định của pháp luật,

hướng dẫn khách hàng thực hiện, ứng xử theo đúng chuẩn mực của các quy

định pháp luật. Thông qua hoạt động bào chữa, Luật sư tuyên truyền, giải

thích những quy định của pháp luật cho bị can, bị cáo để họ hiểu được những

quy định của pháp luật, những điều pháp luật cấm hay những điều pháp luật

cho phép. Từ đó, giúp cho họ ý thức được những hành vi sai trái của mình để

họ có thái độ ăn năn, hối cải, biết sửa sai nhằm được hưởng sự khoan hồng

của pháp luật, giúp cho họ sớm được làm lại cuộc đời. Bằng các hoạt động

chuyên môn của mình, Luật sư góp phần tuyên truyền, phổ biến pháp luật.

Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật của Luật sư không chỉ dừng lại ở

việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho khách hàng của mình mà thông qua

việc tư vấn pháp luật hay tranh tụng tại phiên tòa, luật sư nói lên tiếng nói của

công lý với tất cả mọi người trong phòng xét xử. Đó cũng chính là cách gửi

thông điệp đến toàn bộ xã hội. Qua đó, góp phần nâng cao ý thức pháp luật

trong xã hội, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của nhân dân, chủ động tham

gia đấu tranh phòng, chống tội phạm.

15

Thứ ba, Luật sư cung cấp các dịch vụ pháp lý khác nhằm đáp ứng nhu

cầu của khách hàng.

Bên cạnh việc thực hiện tranh tụng và tư vấn pháp luật, luật sư còn thực

hiện các dịch vụ pháp lý khác như: Soạn thảo hợp đồng, thực hiện các công

việc liên quan đến thủ tục hành chính, làm chứng các giao dịch mà khách yêu

cầu không trái với quy định của pháp luật,... Trong xã hội luôn biến động,

thay đổi từng ngày thì các nhu cầu của khách hàng cũng rất đa dạng. Chính vì

thế, luật sư phải là người có kiến thức, am hiểu sâu sắc về pháp luật, về tình

hình chính trị, kinh tế - xã hội, luôn nâng cao kiến thức trên mọi lĩnh vực để

có thể phục vụ, đáp ứng được các nhu cầu đa dạng của khách hàng. Việc thực

hiện các dịch vụ pháp lý này góp phần giúp cho khách hàng tiết kiệm thời

gian, công sức, chi phí cho công việc. Đồng thời, các công việc mà luật sư

thực hiện góp phần đảm bảo hạn chế các tranh chấp có thể xảy ra.

Nhìn chung, qua các hoạt động hành nghề của mình, luật sư có vai trò

quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ

chức; bảo vệ công lý và lẽ phải; tuyên truyền, phổ biến pháp luật; cung ứng

dịch vụ pháp lý đến khách hàng. Tuy nhiên, để thực hiện các hoạt động này

có hiệu quả, người luật sư không phải chỉ có kiến thức sâu rộng về pháp luật,

hiểu biết chính trị, xã hội mà còn phải là người có “cái tâm” với nghề để tránh

những hành vi xuyên tạc, phá rối, lợi dụng kẽ hở của pháp luật để thực hiện

các hành vi không đúng chuẩn mực gây mất niềm tin của nhân dân vào pháp

luật và nhà nước.

1.2. Khái quát về địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự

1.2.1. Khái niệm địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự

Thực tế từ trước đến nay cũng chưa có khái niệm cụ thể thế nào là địa

vị pháp lý của Luật sự trong tố tụng hình sự. Theo Từ điển luật học: “Địa vị

16

pháp lý là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể

pháp luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật. Địa vị pháp lý của chủ

thể pháp luật thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của

chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các

hoạt động của mình”[33].

Theo đó, địa vị pháp lý của luật sư là tổng thể các quyền và nghĩa vụ

của Luật sư theo quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của luật sư;

được quyết định bởi mô hình tố tụng hình sự, chức năng tố tụng hình sự,

cácnguyeen tắc của tố tụng hình sự, vai trò, vị trí của bị can, bị cáo và mối

quan hệ giữa luật sư với các chủ thể khác tham gia tố tụng trong vụ án hình

sự. Trong tố tụng hình sự, địa vị pháp lý của luật sư được xác định là khi luật

sư tham gia tố tụng với vai trò là người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của đương sự (Điều 72, Điều 84 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm

2015).

Địa vị pháp lý của luật sư giúp luật sư thực hiện nhiệm vụ, có điều kiện

thực hiện các biện pháp bảo vệ cho khách hàng, thể hiện phẩm chất nghề

nghiệp, trách nhiệm nghề nghiệp nhằm gỡ bỏ cáo buộc cho bị can, bị cáo hoặc

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, góp phần vào việc giải

quyết vụ án đúng pháp luật, đúng người, đúng tội, bảo vệ pháp chế xã hội, tạo

lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước.

Trong vụ án hình sự, luật sư có thể tham gia tố tụng với tư cách là

người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị hại, đương sự có quyền và lợi ích liên

quan đến vụ án… Tuy nhiên, địa vị pháp lý của luật sư sẽ được thể hiện rõ nét

nhất khi luật sư tham gia tố tụng hình sự với vai trò là người bào chữa.

Luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa cho

người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (hay còn được gọi là luật sư bào chữa) với

17

mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được bào chữa, đồng

thời góp phần đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ án hình sự được dân chủ

khách quan, đúng theo quy định của pháp luật. Trong quá trình tham gia tố

tụng hình sự, luật sư có thể giám sát việc tuân thủ pháp luật của cơ quan tiến

hành tố tụng, tránh tình trạng oan sai, vi phạm pháp luật, có thể kịp thời phát

hiện và kiến nghị để khắc phục hậu quả trong thực tiễn.

Luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa phải

đáp ứng các tiêu chuẩn của luật sư là người có trình độ, có kiến thức pháp

luật, có kỹ năng hành nghề và kinh nghiệm trong lĩnh vực bào chữa thì mới có

thể đảm bảo việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo một

cách hiệu quả nhất.

Khi tham gia tố tụng với tư cách là Luật sư bào chữa thì Luật sư bào

chữa có những đặc điểm cơ bản sau:

- Luật sư chỉ trở thành người bào chữa, khi được người buộc tội nhờ

bào chữa hoặc do các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định tham

gia bào chữa.

- Để thực hiện chức năng bào chữa của mình, Luật sư phải đến Cơ quan

có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đăng ký việc bào chữa và được Cơ quan,

người có thẩm quyền THTT tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.

- Trong hoạt động tranh tụng, Luật sư được quyền vận dụng các ký

năng nghề nghiệp, kiến thức pháp luật để đưa ra các lý lẽ, chứng cứ nhằm

chứng minh sự vô tội của thân chủ hoặc làm nhẹ đi trách nhiệm hình sự cho

thân chủ mà mình nhận bào chữa.

- Khi tham gia tố tụng để bào chữa cho thân chủ mà mình nhận bào

chữa, Luật sư không có quyền và lợi ích riêng liên quan đến vụ án, hoạt động

của Luật sư chỉ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ mình.

18

Từ những phân tích trên, có thể hiểu địa vị pháp lý của Luật sư trong tố

tụng hình sự như sau: “Địa vị pháp lý của Luật sư của Luật sư là được sử

dụng các quyền của Luật sư theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong

mối quan hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của

pháp luật. Từ đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của các chủ thể pháp

luật khác trong các hoạt động của mình”.

1.2.2 Ý nghĩa của địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự

+ Ý nghĩa về mặt chính trị, xã hội

Việc quy định địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự với vai

trò là người bào chữa thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta. Pháp luật quy

định quyền bào chữa của bị can, bị cáo nhằm để họ có quyền bảo vệ mình

trước pháp luật. Quy định về người luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư

cách là người bào chữa là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can,

bị cáo góp phần cân bằng trạng thái giữa công dân và nhà nước, giữa người bị

buộc tội và người buộc tội – cơ quan tiến hành tố tụng. Như vậy, có thể thấy,

việc quy định địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự là biện pháp

đảm bảo tốt nhất quyền bào chữa của công dân, phù hợp với nguyên tắc Hiến

định. Bên cạnh đó, quy định này còn thể hiện tính dân chủ của Bộ Luật tố

tụng hình sự, góp phần củng cố, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa. Thông qua sự tham gia tố tụng của luật sư với tư cách là người bào

chữa góp phần giúp vụ án hình sự được giải quyết đúng đắn theo quy định của

pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được tôn trọng và thực thi một cách nghiêm

chỉnh, việc giải quyết vụ án phải đúng người, đúng tội, tránh tình trạng lạm

quyền của cơ quan tiến hành tố tụng, tạo được niềm tin của người dân đối với

Đảng và Nhà nước ta.

19

Bên cạnh đó, việc quy định địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình

sự không chỉ có ý nghĩa đối với cá nhân người bị buộc tội mà còn có ý nghĩa

đối với mọi cá nhân trong xã hội. Bởi lẽ, thông qua hoạt động giải quyết vụ án

hình sự trên thực tế góp phần cho mọi công dân quan tâm đến vụ án có thể

hiểu được cái giá phải trả cho hành vi vi phạm pháp luật; quyền và nghĩa vụ

của mỗi công dân cần tuân thủ pháp luật, không làm những điều pháp luật

cấm. Thông qua hoạt động xét xử vụ án hình sự công khai cũng là một hình

thức tuyên truyền pháp luật đến với người dân, góp phần nâng cao ý thức

chấp hành pháp luật của mọi người.

Ý nghĩa về mặt pháp lý

Việc quy định quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng

hình sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của người bị buộc tội. Qua đó góp phần quan trọng trong việc xác

định sự thật của vụ án, đảm bảo việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn

diện, đầy đủ và đúng theo quy định của pháp luật, đảm bảo không làm oan

người vô tội. Thông qua sự tham gia của luật sư trong tố tụng hình sự còn góp

phần nâng cao hiệu quả hoạt động của của quá trình tiến hành tố tụng.

Dựa vào các quyền năng mà pháp luật trao cho luật sư với tư cách là

người bào chữa trong vụ án hình sự, luật sư có thể tham gia tố tụng từ khi

khởi tố vụ án, hay trong các trường hợp bắt người cho đến khi thi hành án.

Các quy định này giúp cho người bảo chữa có thể giám sát việc thi hành pháp

luật của các cơ quan tiến hành tố tụng và các chủ thể có quyền trong tố tụng

hình sự. Qua đó, đảm bảo rằng các cơ quan và chủ thể có thẩm quyền tiến

hành tố tụng phải thực thi đúng theo quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó, thông qua hoạt động bào chữa của luật sư còn góp phần

tích cực vào việc thực hiện các nhiệm vụ của tố tụng hình sự đó là phòng

20

ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công

minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan

người vô tội, góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà

nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, đồng thời giáo dục

người dân ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội

phạm.

1.2.3. So sánh về địa vị pháp lý của Luật sư trong các mô hình tố

tụng

Trong hệ thống tư pháp hình sự trên thế giới từ trước tới nay vẫn tồn tại

hai mô hình tố tụng là tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn (hay còn gọi là

xét hỏi). Cả hai hệ thống tố tụng nói trên đều hướng tới mục đích tìm ra sự

thật khách quan của vụ án, trừng trị người phạm tội và không làm oan người

vô tội.

Tuy nhiên xét về địa vị pháp lý của Luật sư, thì giữa các mô hình tố

tụng hiện nay cũng có sự khác biệt như sau:

- Đối với mô hình tố tụng tranh tụng, được sử dụng nhiều ở các quốc

gia như Anh, Mỹ, Australia... Đối với các quốc gia theo mô hình tố tụng tranh

tụng thì địa vị pháp lý của Luật sư cũng được coi trọng hơn, bởi vì theo mô

hình này Luật hình thức sẽ được đề cao hơn Luật nội dung với nguyên tắc

“Trọng chứng hơn trọng cung”. Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa luôn mang

tính tự do, cởi mở giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội với một thủ tục tố tụng

công khai và triệt để tôn trọng nguyên tắc tranh tụng, mọi chứng cứ viết, các

biên bản của Cảnh sát chỉ mang tính tham khảo chứ không được coi là chứng

cứ. Mà các chứng cứ sẽ do bên buộc tội và bên bào chữa đưa ra để chứng

minh sự có tội hay vô tội của bị cáo. Các bên đều bình đẳng với nhau trong

việc sử dụng pháp luật. Chính vì vậy, trong mô hình tố tụng tranh tụng thì vai

21

trò của Luật sư bào chữa rất được đề cao và đương nhiên địa vị pháp lý của

Luật sư trong mô hình này cũng được coi trọng. Chính vì vậy đã có câu ví

“Bệnh nhân có thể không có Bác sĩ điều trị, nhưng bị can, bị cáo phải có Luật

sư bào chữa[19].

Đối với mô hình tố tụng tranh tụng, tại phiên tòa Công tố viên chỉ đóng

vai trò chủ thể buộc tội còn Luật sư bào chữa sẽ đóng vai trò là chủ thể của

bên gỡ tội. Cả hai chủ thể này đều có thể sử dụng tất cả các kỹ năng, phương

tiện, biện pháp mà pháp luật cho phép để tranh luận, phản bác lẫn nhau và đều

cố gắng thuyết phục Tòa án chấp nhận quan điểm của mình. Tòa án chỉ đóng

vai trò trọng tài, bảo đảm cho các bên được tự do tranh tụng theo quy định của

pháp luật. Tòa án sẽ cấn nhắc các chứng cứ mà hai bên đưa ra, để đưa ra phán

quyết của mình chứ không có nghĩa vụ phải chứng minh tìm ra sự thật của vụ

án.

Địa vị pháp lý của Luật sư trong mô hình tố tụng tranh tụng được coi

trọng thể hiện ở việc, các Luật sư luôn được chủ động và độc lập trong việc

đưa ra các chứng cứ, vật chứng, các quan điểm pháp lý, để chứng minh sự vô

tội hay làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo mà mình bảo vệ. Luật sư

không bị ràng buộc, hạn chế gì từ phía công tố, ngoài việc phải tuân thủ các

quy định của tố tụng

- Đối với tố tụng thẩm vấn, Được sử dụng phổ biến ở các quốc gia như

Pháp, Tây Ban Nha, Đức, Áo, Hà Lan... Mô hình tố tụng thẩm vấn lại ngược

lại so với mô hình tố tụng tranh tụng là coi trọng Luật nội dung hơn Luật hình

thức (trọng cung hơn trọng chứng), nên các chứng cứ viết được coi trọng. Tố

tụng thẩm vấn lại đề cao vai trò của Tòa án, Thẩm phán vừa là người đưa ra

quyết định điều tra vụ án, có trách nhiệm tìm ra sự thật của vụ án và chỉ đạo

toàn bộ các giai đoạn tố tụng. Ở mô hình này thì Viện Công tố cũng có nhiều

22

quyền hạn hơn so với tố tụng tranh tụng. Tuy nhiên, theo mô hình này vai trò

của Thẩm phán là rất lớn, Thẩm phán hoạt động độc lập, điều tra làm rõ sự

thật của vụ án, tất cả các chứng cứ buộc tội hay gỡ tội đều do Thẩm phán điều

tra độc lập và ra các phán quyết trên nguyên tắc khách quan, tôn trọng sự thật.

Với đặc điểm như vậy thì, vai trò của Luật sư bào chữa cũng rất mờ

nhạt, dẫn đến địa vị pháp lý của Luật sư cũng không được coi trọng như tố

tụng tranh tụng.

Đối với Việt Nam, không hoàn toàn sử dụng mô hình tố tụng tranh tụng

hay tố tụng thẩm vấn mà chúng ta biết chắt lọc tìm tòi những tính ưu việt của

hai mô hình tố tụng trên để xây dựng mô hình tố tụng phù hợp với đặc điểm

của Việt Nam như khoa học thường gọi là “mô hình tố tụng pha trộn”. Với sự

kết hợp các yếu tố tích cực của hai mô hình trên nên ở Việt Nam Luật sư cũng

được đề cao và địa vị pháp lý của Luật sư cũng được coi trọng như đã phân

tích ở trên.

1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới địa vị pháp lý của Luật sư trong

tố tụng hình sự Việt Nam

Để bảo đảm địa vị pháp lý của Luật sự trong tố tụng hình sự Việt Nam,

thì phải có các yếu tố khách quan, chủ quan bảo đảm được việc thực hiện đầy

đủ các quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong quá trình tham gia vào hoạt động

bào chữa bao gồm:

- Về yếu tố pháp luật, cần phải có Hệ thống pháp luật cả về hình thức

và nội dung cần phải đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, minh bạch, tạo điều kiện để các

Luật sư áp dụng thống nhất, các văn bản, các quy định cũng cần phải quy định

cụ thể về quyền cũng như nghĩa vụ của Luật sư, làm rõ trách nhiệm của Luật

sư cũng như của các cơ quan và người có thẩm quyền THTT trong quá trình

giải quyết các vụ án hình sự. Các chủ thể buộc tội và gỡ tội đều có quyền bình

23

đẳng trong việc phát hiện, kiến nghị đối với mọi sai phạm của nhau và có

quyền yêu cầu khắc phục hoặc xử lý bằng chế tài pháp luật, nếu nghiêm trọng

thì đề nghị xử lý theo pháp luật hình sự. Tránh đề ra các quy định không công

bằng giữa Luật sư và bên công tố.

- Về yếu tố con người, Các Luật sư cũng cần phải chú trọng tới đạo đức

nghề nghiệp và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là tôn trọng nguyên

tắc pháp chế trong tố tụng hình sự để không còn những nhận thức không đúng

từ phía người có thẩm quyền tố tụng cho rằng Luật sư tham gia tố tụng chỉ

gây rối, gây khó khăn cho các Cơ quan THTT thậm chí là “chạy án”, để từ đó

coi nhẹ vai trò của Luật sự và coi thường địa vị pháp lý của Luật sư.

- Yếu tố nhận thức của người dân, thực tiễn hiện nay không phải ở đâu

người dân cũng nhận thức đúng vai trò của luật sư, cũng còn một bộ phận

nhân dân chưa hiểu đúng về vai trò của Luật sư đặc biệt là ở giai đoạn điều tra

vụ án hình sự nên đã từ chối hoặc không mời Luật sư tham gia. Do vậy, nhiều

khi các Luật sư không có điều kiện tham gia vụ án sớm để thực hiện hiệu quả

quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong việc tìm ra sự thật vụ án từ giai đoạn

điều tra.

24

Tiểu kết chương 1

Qua nghiên cứu những vấn đề chung về địa vị pháp lý của luật sư trong tố

tụng hình sự bằng cách phân tích khái quát chung về luật sư và địa vị pháp lý

của luật sư trong tố tụng hình sự, ta thấy được vai trò, ý nghĩa của luật sư

trong tố tụng hình đó là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ

chức; bảo vệ công lý, công bằng xã hội góp phần xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa; là cầu nối truyền tải pháp luật vào đời sống bằng các

hoạt động chuyên môn của mình;luật sư cung cấp các dịch vụ pháp lý khác

nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra, tại chương 1 cũng khẳng

định được địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự là có ý nghĩa vô

cùng quan trọng không chỉ đối với người bị buộc tội mà còn với cả tình hình

chính trị, xã hội của quốc gia. Thông qua những vấn đề chung được phân tích

tại chương 1 làm cơ sở, tiền đề cho việc đi sâu phân tích nội dung địa vị pháp

lý của luật sư trong tố tụng hình sự tại chương 2 của luận văn.

25

Chương 2

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG

HÌNH SỰ NĂM 2015 TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

2.1. Địa vị pháp lý của luật sư trong Bộ luật tố tụng hình sự

2.1.1. Khái quát về địa vị pháp lý Luật sư trong tố tụng hình sự trước

khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2015

Trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước, mặc dù có những

giai đoạn chúng ta chưa ban hành Bộ luật tố tụng hình sự, nhưng địa vị pháp

lý của luật sư luôn được đề cập và có sự quan tâm nhất định, đề cao vai trò

của Luật sư thể hiện thông qua các quy định về quyền và nghĩa vụ của người

bào chữa nói chung và của Luật sư nói riêng cụ thể như sau:

Ngay sau Cách mạng tháng tám thành công tháng 8/1945, Nước Việt

Nam dân chủ công hòa được thành lập thì ngày 13/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã ký sắc lện số 33C về việc thành lập Tòa án Quân sự và tại Điều 5 của

Sắc lệnh 33C đã quy định “Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác

bênh vực cho họ”. Tại Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về việc Tổ chức các

Tòa án và các ngạch Thẩm phán thì tại Điều 46 đã quy định: “Các Luật sư có

quyền biện hộ trước tất cả các Tòa án, trừ Tòa án sơ cấp”.

Tại Bản Hiến pháp đầu tiên được Quốc hội thông qua ngày 9/11/1946

của Nước Việt Nam dân chủ công hòa đã ghi nhận địa vị pháp lý của Luật sư

thông qua quy định tại Điều 67 là “Bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc

nhờ luật sư bào chữa”. Trên tinh thần của Hiến pháp 1946, thì tại Sắc lệnh số

69 – SL ngày 18/6/1949, với quy định cho phép các bị can có thể nhờ một

công dân, không phải là luật sư, bênh vực trước Tòa án. Nếu bị can không có

26

ai bênh vực, ông Chánh án có thể tự mình hay theo lời yêu cầu của bị can cử

người bào chữa cho bị can.

Mặc dù các quy định trên, chưa quy định cụ thể về địa vị pháp lý của

Luật sư, nhưng đó chính là những quy định định hướng, bảo đảm địa vị pháp

lý của Luật sư khi tham gia hoạt động bào chữa trước Tòa án và bảo đảm

quyền bào chữa của người bị buộc tội trước Tòa án.

Tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa VIII ngày 28/6/1988, đã thông qua Bộ

luật tố tụng hình sự đầu tiên, ngoài các quy định về nguyên tắc chung, trình

tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự thì cũng đã có những quy định về địa vị

pháp lý của Luật sư thông qua các quy định về quyền và nghĩa vụ của người

bào chữa, như quy định về bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo (Điều

12); quyền và nghĩa vụ của người bào chữa (Điều 36). Theo đó, người bào

chữa nói chung và Luật sư có quyền tham gia tố tụng từ giai đoạn khởi tố bị

can; có quyền có mặt khi lấy lời khai của bị can và nếu Điều tra viên đồng ý

thì được phép đặt câu hỏi; quyền đề nghị thay đổi người THTT... Người bào

chữa được sử dụng mọi biện pháp theo pháp luật quy định để làm sáng tỏ

những tình tiết khách quan của vụ án và để chứng minh sự vô tội của bị can,

bị cáo hoặc những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo...

Có thể thấy, BLTTHS 1988, đã đánh dấu một bước tiến lớn trong quá

trình phát triển hệ thống pháp luật TTHS ở nước ta và đã có những quy định

cụ thể hóa các quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa. Những quy định này

đã tạo địa vị pháp lý của Luật sư bào chữa với các Cơ quan và người có thẩm

quyền THTT.

Quy định của BLTTHS 2003 về địa vị pháp lý của Luật sư

Tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khpas XI ngày 26/11/2003 đã thông qua

BLTTHS 2003, đã sửa đổi, bổ sung toàn diện BLTTHS 1988. Về địa vị pháp

27

lý của Luật sư thông qua các quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào

chữa nói chung và Luật sư nói riêng, đã được mở rộng đáng kể so với quy

định tại BLTTHS 1988. Theo đó theo quy định tại Điều 58 thì Luật sư bào

chữa có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can và bắt người trong

trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã.

Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự thì Luật sư bào chữa có quyền

có mặt khi lấy lời khai bị can, nếu Điều tra viên đồng ý thì được quyền đặt

câu hỏi với người bị tạm giữ, bị can, có mặt trong các hoạt động điều tra khác;

xem các biên bản tố tụng mà có sự tham gia của mình; đề nghị Cơ quan điều

tra báo trước về thời gian, địa điểm khi lấy lời khai hoặc hỏi cung bị can; thay

đổi người THTT, phiên dịch, giám định; thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan

đến vụ án và liên quan đến việc bào chữa...

Mặc dù các quy định của BLTTHS 2003, đã có nhiều tiến bộ hơn so

với BLYYHS 1988 đặc biệt là các vấn đề liên quan đến địa vị pháp lý của

Luật sư, song qua hơn 10 năm thi hành thì BLTTHS 2003 cũng bộc lộ nhiều

hạn chế, bất cập nói chung về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và về

các quy định liên quan đến địa vị pháp lý của Luật sư nói riêng, nên đòi hỏi

cần phải sửa đổi, bổ sung toàn diện BLTTHS 2003 là một yêu cầu cấp thiết.

Chính vì vậy, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII ngày 27/11/2015 đã thông

qua BLTTHS 2015 có hiệu lực thi hành bắt đầu từ ngày 01/01/2018. Trong đó

BLTTHS 2015 đã xây dựng một chương mới là Chương V quy định về bào

chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.

2.1.2. Địa vị pháp lý của Luật sư trong Bộ luật tố tụng hình sự năm

2015

2.1.2.1. Quyền của luật sư theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015

28

Quyền của luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào

chữa được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm

2015.

Tại điểm a, điểm b Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định

người bào chữa có quyền:

“a. Gặp, hỏi người bị buộc tội.

b. Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị

can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì

được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi

cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người

bị bắt, người bị tạm giữ, bị can”.

Trước đây, tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003 chỉ

quy định người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm

giữ, khi hỏi cung bị can và người bào chữa cần đề nghị Cơ quan điều tra báo

trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can.

Quy định này dẫn đến tình trạng việc tham gia trong giai đoạn điều tra của

người bào chữa chỉ mang tính hình thức. Bởi lẽ cuộc gặp, hỏi này do Điều tra

viên chủ động lên kế hoạch, việc hỏi của người bào chữa chỉ được tiến hành

khi được Điều tra viên đồng ý, việc thông báo trước cho người bào chữa

thường không bảo đảm kịp thời gian để làm việc, hỏi cung bị can...

Hiện nay, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm quy định mới về việc

gặp, hỏi người bị buộc tội. Qua đó, phân tách được hai cuộc gặp, hỏi như sau:

- Thứ nhất, theo điểm a Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 thì luật

sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa có thể chủ động

29

tiến hành gặp, hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong bất cứ

giai đoạn tố tụng nào và không bị hạn chế số lần, thời gian gặp, được hỏi;

được trao đổi riêng tư với người bị buộc tội trong điều kiện giám sát của cơ sở

giam giữ mà không bắt buộc phải có những người tiến hành tố tụng. Tuy

nhiên, để được gặp người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam

thì người bào chữa phải xuất trình văn bản thông báo người bào chữa, Thẻ

luật sư hoặc Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Chứng minh nhân dân hoặc thẻ

Căn cước công dân Cơ quan quản lý người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo

đang bị tạm giam phải phổ biến nội quy, quy chế của cơ sở giam giữ và yêu

cầu người bào chữa chấp hành nghiêm chỉnh. Trường hợp phát hiện người

bào chữa vi phạm các quy định về việc gặp thì phải dừng ngay việc gặp và lập

biên bản, báo cáo người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.

(Theo Điều 80 BLTTHS năm 2015).

- Thứ hai, theo điểm b Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 thì luật sư

tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa có thể có mặt tại cuộc

gặp do Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên chủ động tiếp hành, theo kế hoạch đã

được chuẩn bị trước nhằm lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi

cung bị can. Tuy nhiên, trong những cuộc gặp như này, người bào chữa chỉ

được hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can khi người có thẩm quyền tiến hành

lấy lời khai, hỏi cung đồng ý. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có

thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị

can.

Theo điểm c Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào

chữa có quyền: “Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết

giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này”.

30

Đây là một quy định mới, cụ thể hơn trong BLTTHS năm 2015. Theo

đó, Luật sư – người bào chữa có quyền có mặt trong hoạt động đối chất, nhận

dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của

BLTTHS. Quy định này nhằm đảm bảo quyền cho người bào chữa được tham

gia, có mặt trong các giai đoạn điều tra quan trọng góp phần giúp cho người

bào chữa có thể nắm bắt được các tình tiết vụ án một cách rõ nét và thu thập

chứng cứ có lợi cho thân chủ của mình.

Theo điểm d Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào

chữa có quyền: “Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về

thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành

hoạt động điều tra khác theo quy định của bộ luật này”.

Đây là quyền cơ bản của Luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách

là người bào chữa. Bởi lẽ, luật sư phải được cơ quan có thẩm quyền tiến hành

tố tụng thông báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời

gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác thì luật sư bào chữa mới có

thể sắp xếp công việc để tham gia, có mặt trong các buổi gặp, hỏi cung người

bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam được Điều tra viên, Kiểm

sát viên sắp xếp.

Tại điểm đ Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào

chữa có quyền: “Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình,

quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa”.

Quyền “Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình,

quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa” thực chất đã được

quy định từ BLTTHS năm 2003. Quy định này nhằm tạo sự giám sát lẫn nhau

giữa luật sư với người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Qua đó, phát hiện

những sai phạm kịp thời, đồng thời quy định này còn góp phần giúp cho cơ

31

quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện

công tác tiến hành tố tụng thận trọng hơn, thực hiện đúng theo quy định của

pháp luật, tránh những vi phạm trong tố tụng.

Tại điểm e Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào

chữa có quyền: “Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng,

người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;

đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế”.

Đây là một quy định được mở rộng phạm vi hơn so với BLTTHS năm

2003. Trước đây, tại BLTTHS năm 2003 quy định luật sư có quyền đề nghị

thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy

định của Bộ luật này. Ngoài việc đề nghị thay đổi các đối tượng như BLTTHS

năm 2003 đã quy định thì BLTTHS năm 2015 quy định thêm một số đối

tượng sau: người định giá tài sản, người dịch thuật. Ngoài ra, BLTTHS năm

2015 còn quy định việc người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi, hủy bỏ

biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Đây là một quy định tiến bộ, mở

rộng hơn các quyền của người bào chữa khi tham gia tố tụng.

Tại điểm g Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào

chữa có quyền: “Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ

luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác,

người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”.

Theo báo cáo đánh giá thực trạng hành nghề luật sư trong tố tụng hình

sự, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã chỉ ra những hạn chế khi có nhiều hoạt

động tố tụng khác như chứng kiến việc khám nghiệm hiện trường, khám

nghiệm tử thi, xem xét các dấu vết trên thân thể, thực hiện điều tra, thu giữ

vật chứng, định giá và bán đấu giá tài sản… thiếu vắng vai trò và sự hiện diện

của luật sư. Ngoài ra, ngoại trừ một số vụ án liên quan đến các hành vi xâm

32

phạm hoạt động tư pháp, việc triệu tập Điều tra viên để làm rõ các vấn đề liên

quan việc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, các dấu hiệu bức cung, nhục

hình, làm sai lệch hồ sơ vụ án… gần như không được pháp luật tố tụng hình

sự quy định cũng như không được tiến hành trên thực tế[26].

Chính vì vậy, BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có quyền

đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị

triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền

tiến hành tố tụng tại điểm g khoản 1 Điều 73 là phù hợp. Quy định này góp

phần giải quyết những bất cập trong thực tiễn tham gia tố tụng hình sự của

người bào chữa, góp phần nâng cao địa vị pháp lý, quyền của người bào chữa,

đồng thời làm rõ trách nhiệm của Điều tra viên, người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án.

Tại điểm h, điểm i và điểm k Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy

định người bào chữa có quyền:

“h, Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu.

i, Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật

liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh

giá.

k, Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ,

giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản”.

Trước thời điểm BLTTHS năm 2015 có hiệu lực, nhiều hoạt động tố

tụng thiếu vắng sự hiện diện và vai trò của người bào chữa. Trong nhiều

trường hợp, người bào chữa tự mình thu thập chứng cứ, tài liệu từ phía nhân

chứng, tổ chức, cá nhân có liên quan nhưng đều bị cơ quan tiến hành tố tụng

từ chối hoặc gây khó khăn. Do đó, địa vị pháp lý của người bào chữa chưa

thực sự tương xứng với chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự.

33

Để khắc phục tình trạng này, khoản 1 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự

năm 2015 đưa ra tới 3 quyền của người bào chữa gồm: Thu thập, đưa ra

chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về

chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành

tố tụng kiểm tra, đánh giá; Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng

thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản. Theo

đó, người bào chữa có quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, kiểm tra, đánh giá và

trình bày ý kiến về chứng cứ. Trong trường hợp việc thu thập chứng cứ gặp

khó khăn, người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành

tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá tài sản.

Việc quy định như vậy nhằm đảm bảo quyền thu thập chứng cứ của người bào

chữa, góp phần nâng cao vị thế của người bào chữa trong tố tụng hình sự.

Tại điểm l Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào

chữa có quyền: “Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án

liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra”.

Quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án là

những điều cần thiết giúp luật sư nắm vững các tình tiết của vụ án. Từ đó, luật

sư – người bào chữa nắm vững được bị can bị buộc tội trên cơ sở nào và tìm

hướng gỡ tội cho bị can.

Trước đây, trong BLTTHS năm 2003 quy định người bào chữa có

quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan

đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật. Như

vậy, thời điểm sau khi kết thúc điều tra, hồ sơ vụ án đã được chuyển sang

Viện kiểm sát để xem xét việc truy tố. Còn BLTTHS năm 2015 quy định về

quyền này của người bào chữa là thời điểm từ khi kết thúc điều tra. Việc quy

định như vậy nhằm giúp cho người bào chữa sớm tiếp cận các tài liệu có

trong hồ sơ vụ án từ hoạt động điều tra của cơ quan có thẩm quyền, nhằm

34

nắm được các tình tiết, các yếu tố buộc tội quan trọng, từ đó tìm hướng bào

chữa cho thân chủ của mình.

Tại điểm m Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào

chữa có quyền: “Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa”.

Thông qua việc hỏi, tranh luận tại phiên tòa, luật sư – người bào chữa

có thể làm sáng tỏ những vấn đề còn vướng mắc trong vụ án, làm rõ sự thật

khách quan, từ đó làm cơ sở cho Hội đồng xét xử xem xét, giải quyết vụ án

thấu tình đạt lý. Việc quy định tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa của

người bào chữa được xem là quyền cơ bản của luật sư – người bào chữa, góp

phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho bị cáo tại phiên tòa.

Tại điểm n Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào

chữa có quyền: “Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có

thẩm quyền tiến hành tố tụng”.

Trường hợp thấy quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan người có

thẩm quyền tiến hành tố tụng không đúng, không có căn cứ theo quy định của

pháp luật hay vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì luật sư – người bào

chữa có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có

thẩm quyền tiến hành tố tụng nhằm đảm bảo quyền lợi cho thân chủ của

mình.

Tại điểm o Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào

chữa có quyền: “Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là

người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy

định của Bộ luật này”.

Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo là người dưới 18

tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, BLTTHS năm 2015 quy

định người bào chữa có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án đối

35

với bị cáo thuộc đối tượng trên để đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại

vụ án theo trình tụ phúc thẩm nhằm đảm bảo quyền lợi cho bị cáo.

Như vậy, có thể thấy, BLTTHS năm 2015 đã có những quy định cụ thể

hơn và bổ sung thêm một số quyền cho người bào chữa giúp cho người bào

chữa có thể thực hiện tốt chức năng bào chữa của mình trong hoạt động tố

tụng hình sự. Qua đó, thấy được vị thế của luật sư – người bào chữa trong tố

tụng hình sự.

2.1.2.2. Nghĩa vụ của luật sư theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015

Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành ghi nhận các quyền cho luật sư

tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa, đồng thời cũng quy

định người bào chữa có trách nhiệm, nghĩa vụ phải thực hiện trong quá trình

tham gia tố tụng như sau:

Tại điểm a Khoản 2 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào

chữa có nghĩa vụ: “Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng

tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo”.

Nhiệm vụ của người bào chữa nói chung và luật sư nói riêng là bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội trong suốt quá trình tố tụng.

Do đó, để người bào chữa có thể thực hiện tốt công việc này, pháp luật quy

định họ có trách nhiệm sử dụng mọi biện pháp do luật định để làm sáng tỏ

những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Theo đó, người bào chữa có thể sử

dụng mọi biện pháp để thực hiện nhiệm vụ bào chữa cho thân chủ của mình

nhưng phải dựa trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan và tôn trọng pháp

luật, tức là sử dụng mọi biện pháp hợp pháp để bảo vệ quyền và lời ích chính

đáng cho người bị buộc tội.

36

Tại điểm b Khoản 2 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào

chữa có nghĩa vụ: “Giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của họ”.

Thông thường, người bị buộc tội thường có tâm lý không ổn định, thiếu

hiểu biết về pháp luật, không thể tự bào chữa cho chính mình một cách tốt

nhất. Do đó, cần phải có sự hiện diện của luật sư – người am hiểu pháp luật

sâu sắc tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa để giúp người bị buộc

tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.

Tại điểm c Khoản 2 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào

chữa có nghĩa vụ: “Không được từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà

mình đã đảm nhận bào chữa nếu không vì lý do bất khả kháng hoặc không

phải do trở ngại khách quan”.

Trước đây, theo BLTTHS năm 2003, luật sư không được quyền từ chối

bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa,

nếu không có lý do chính đáng. Đến BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể hơn

là luật sư không được từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà mình đã đảm

nhận bào chữa nếu không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại

khách quan. Như vậy, có thể thấy, nếu không phải là lý do bất khả kháng hoặc

do trở ngại khách quan thì luật sư không được từ chối bào chữa cho người bị

buộc tội mà mình đã đảm nhận bào chữa.

Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 còn quy định một số nghĩa vụ mà luật sư

cần phải thực hiện là:

- Tôn trọng sự thật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục

người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật (Điểm d Khoản 2

Điều 73 BLTTHS năm 2015).

37

- Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; trường hợp chỉ định người bào

chữa theo quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này thì phải có mặt theo

yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát (Điểm đ Khoản 2 Điều 73

BLTTHS năm 2015).

- Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào

chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án

vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi

ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân (Điểm e Khoản 2 Điều 73

BLTTHS năm 2015).

- Không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình

biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không

được sử dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi

ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân

(Điểm g Khoản 2 Điều 73 BLTTHS năm 2015). Đây là điểm mới so với

BLTTHS năm 2003 nhằm đảm bảo bí mật của vụ án, về người bị buộc tội mà

luật sư đảm nhận việc bào chữa.

Có thể thấy, trong suốt quá trình tham gia tố tụng, luật sư với vai trò là

người bào chữa không chỉ có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng

cho người bị buộc tội mà còn có nhiệm vụ tôn trọng, bảo vệ pháp luật và bảo

vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Theo đó, luật sư muốn bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp cho người bị buộc tội thì phải tôn trọng sự thật khách quan và tôn

trọng pháp luật. Bên cạnh đó, luật sư muốn đảm bảo pháp chế xã hội chủ

nghĩa thì phải đảm bảo việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị

buộc tội trên cơ sở áp dụng đúng pháp luật. Do đó, để đảm bảo thực hiện tốt

các nhiệm vụ này, luật sư với tư cách là người bào chữa cần phải thực hiện

các quyền và nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật.

38

2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về địa vị pháp lý của Luật sư

trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh

2.2.1. Tổng quan điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh

Bắc Ninh là một tỉnh cửa ngõ phía Bắc của Thủ đô Hà Nội, trung tâm

xứ Kinh Bắc cổ xưa, mảnh đất địa linh nhân kiệt, nơi có truyền thống khoa

bảng và nền văn hóa lâu đời. Tỉnh Bắc Ninh có 08 đơn vị hành chính cấp

huyện gồm 01 thành phố, 01 thị xã và 06 huyện.

+ Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang.

+ Phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên.

+ Phía Đông giáp tỉnh Hải Dương.

+ Phía Tây và Tây Nam giáp thủ đô Hà Nội.

Tỉnh Bắc Ninh với diện tích tự nhiên 823 km2, có 8 đơn vị hành chính

cấp huyện gồm 01 thành phố Bắc Ninh, 01 thị xã Từ Sơn và 06 huyện bao

gồm: Yên Phong, Quế Võ, Tiên Du, Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài.

Tỉnh Bắc Ninh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ: Hà Nội, Hải

Phòng, Quảng Ninh, khu vực có mức tăng trưởng kinh tế cao. Bắc Ninh có

các trục đường giao thông lớn quan trọng chạy qua, nối liền tỉnh với các

Trung tâm kinh tế, văn hoá và thương mại của phía Bắc, Việt Nam như:

- Đường Quốc lộ 1A;

- Quốc lộ 1B mới;

- Quốc lộ 18: Quốc lộ 18 sau khi cải tạo sẽ là đường giao thông rất

thuận tiện đi sân bay Quốc tế Nội Bài và đi cảng biển nước sâu Cái Lân,

Quảng Ninh.

- Quốc lộ 38, Tuyến đường sắt xuyên Việt đi Trung Quốc.

39

Có thể thấy, với vị trí địa lý thuận lợi, giao thông phát triển góp phần

làm cho Bắc Ninh thuộc tỉnh phát triển nền kinh tế mạnh mẽ của cả nước, tạo

cho Bắc Ninh nhiều lợi thế về phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng

cao chất lượng đời sống xã hội.

Trong những năm trở lại đây, tỉnh Bắc Ninh có sự thay đổi vượt bậc về

kinh tế - xã hội, các khu dân cư mới liên tục được xây dựng, khu công nghiệp,

khu chế xuất liên tục phát triển đã khiến hàng nghìn lao động từ các địa

phương lân cận và một số tỉnh miền núi đổ về lao động kiếm sống. Ngoài ra,

tỉnh Bắc Ninh có nhiều chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Do đó, nhiều

người lao động nước ngoài về Bắc Ninh lưu trú và lao động. Điều này làm gia

tăng tỷ lệ tội phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Cụ thể:

Theo Báo cáo tổng kết công tác năm 2018 của Công an tỉnh Bắc Ninh,

Công an tỉnh đã thực hiện điều tra làm rõ 561/714 vụ phạm pháp hình sự, mở

rộng điều tra 71 vụ, tỷ lệ điều tra chung đạt 80,5%; án rất nghiêm trọng và đặc

biệt nghiêm trọng điều tra làm rõ 52/54 vụ, mở rộng 3 vụ, đạt tỷ lệ 96,5%; bắt

294 vụ, 1355 đối tượng cờ bạc (so năm 2017 giảm 19 vụ), trong đó khởi tố

104 vụ, 646 bị can, còn lại xử lý hành chính…[37]

Theo Báo cáo sơ kết công tác công an 06 tháng đầu năm 2019 của

Công an tỉnh Bắc Ninh, trong 06 tháng đầu năm (tính từ ngày 16/12/2018 đến

15/6/2019) toàn tỉnh Bắc Ninh xảy ra 282 vụ phạm pháp hình sự, trong đó

điều tra làm rõ 215 vụ với 407 đối tượng, điều tra mở rộng 59 vụ, đạt tỷ lệ

điều tra 80,4%; phát hiện, bắt giữ 425 vụ, với 591 đối tượng mua bán, vận

chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy, trong đó khởi tố 345 vụ, với

382 bị can, còn lại xử lý hành chính[38].

Nhìn chung, trong những năm gần đây, tình hình kinh tế - xã hội tại

tỉnh Bắc Ninh phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng so với các tỉnh khác trong cả

40

nước. Bên cạnh mặt tích cực của nền kinh tế - xã hội phát triển của trên địa

bàn tỉnh Bắc Ninh thì luôn tồn tại mặt tiêu cực của xã hội đó là tình hình tội

phạm xảy ra khá nhiều. Trong nhiều vụ án hình sự, nhằm đảm bảo quyền và

lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội cần phải có luật sư tham gia tố tụng

với tư cách là người bào chữa. Trước tình hình đó, cần phải xem xét địa vị

pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, cụ thể

học viên sẽ nghiên cứu, phân tích tình hình luật sư tham gia tố tụng trong giới

hạn phạm vi tại tỉnh Bắc Ninh.

2.2.2. Thực trạng tham gia giải quyết vụ án hình sự của luật sư tại

tỉnh Bắc Ninh

Hiện nay, Đoàn luật sư tỉnh Bắc Ninh gồm có 57 luật sư thành viên; 10

Công ty luật TNHH, 09 Văn phòng luật sư và 07 chi nhánh Công ty luật đăng

ký hoạt động trên địa bàn tỉnh.

Trong nhiệm kỳ này, Đoàn luật sư tỉnh Bắc Ninh đã tham gia tổng số

vụ việc là 2953 vụ, tăng 783 vụ việc so với nhiệm kỳ trước. Các vụ việc Luật

sư tham gia thụ lý giải quyết đã tăng đều ở các lĩnh vực hình sự, dân sự, kinh

tế, lao động, hôn nhân gia đình, hành chính.

Đặc biệt là tham gia đầy đủ 537 vụ án hình sự chỉ định phải có luật sư

theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Nhiều vụ án hình sự có tính chất

tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, số lượng luật sư tham gia bào chữa theo chỉ

định có từ 5 đến 9 luật sư tham gia, thời gian xét xử liên tục kéo dài, nhưng

các luật sư đều thể hiện tinh thần trách nhiệm cao.

Ngoài ra, Đoàn luật sư tỉnh đã thực hiện 781 vụ việc trợ giúp pháp lý

lưu động; ký kết với Hội doanh nghiệp nhỏ và vừa về Quy chế hỗ trợ pháp lý

cho doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Phối hợp với Đài Phát thanh và

Truyền hình tỉnh tổ chức sản xuất chương trình Luật sư của bạn với 99

41

chương trình và hơn 2000 phút phát sóng mang hơi thở cuộc sống pháp luật,

được người dân đón nhận[39].

Nhìn chung, trong những năm gần đây, việc luật sư tham gia các vụ

việc nói chung và vụ án hình sự nói riêng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh là khá

nhiều, đặc biệt các vụ án hình sự chỉ định là 100% có sự tham gia của luật sư

theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Có thể thấy, địa

vị pháp lý của luật sư càng ngày càng được coi trọng. Để làm rõ hơn vấn đề

này, học viên xin được phân tích tình hình thực tiễn áp dụng các quy định về

địa vị pháp lý của Luật sư trong tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

trong giai đoạn 2015 – 2019.

2.2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định về địa vị pháp lý của Luật sư

trong tố tụng hình sự tại tỉnh Bắc Ninh

2.2.3.1. Kết quả đạt được

Trong những năm gần đây, số lượng các VAHS có luật sư tham gia bào

chữa có xu hướng ngày càng tăng, trong đó luôn đảm bảo 100% các vụ án

theo yêu cầu của Cơ quan tiến hành tố tụng đều có luật sư tham gia đầy đủ.

Tuy nhiên, hiện nay, với tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

luôn vận động, phát triển không ngừng, nhu cầu về dịch vụ pháp lý tăng cao,

bên cạnh đó, số lượng đội ngũ luật sư tại tỉnh Bắc Ninh cũng gia tăng nhanh

chóng, đồng thời đảm bảo về chất lượng tranh tụng, điều này khiến tỷ lệ số vụ

án mà luật sư tham gia bào chữa do được khách hàng mời, yêu cầu ngày càng

tăng so với số vụ án bào chữa chỉ định.

Để thấy được kết quả hoạt động tham gia bào chữa của luật sư trong

thời gian qua, học viên đã tiến hành thu thập, khảo sát, phân tích số liệu thống

kê thực tế tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn 2015 – 2019 như

sau:

42

Bảng 2.1. Số vụ án có luật sư tham gia bào chữa tại một số loại tội

phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2015-2019.

Số vụ án có Luật sư tham gia/tổng số vụ án

Tội danh Năm Năm Năm Năm Năm

2015 2016 2017 2018 2019

Các tội xâm phạm tính 32 29 42 40 40

mạng, sức khỏe, nhân

phẩm, danh dự của con

người

74 78 83 84 Các tội xâm phạm sở hữu 62

34 41 45 66 Các tội xâm phạm trật tự 36

quản lý kinh tế

Các tội xâm phạm an toàn 21 29 33 46 40

công cộng, trật tự công

cộng

Tổng số vụ án 151/298 166/331 194/377 214/400 230/484

Nguồn: Báo cáo tổng số vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh

qua các năm (2015-2019).

Từ bảng số liệu trên, có thể thấy, giai đoạn từ năm 2015 – 2019, số

lượng vụ án hình sự có chiều hướng tăng lên, đồng nghĩa với đó là tình hình

tội phạm gia tăng và có diễn biến ngày càng phức tạp. Sự gia tăng tình hình

43

tội phạm ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình trị an, an toàn xã hội. Trước tình

hình đó, số lượng luật sư tham gia các vụ án hình sự cũng ngày càng tăng. Cụ

thể: Năm 2015, có 151 vụ án có sự tham gia của luật sư trên tổng số 298 vụ

án hình sự. Năm 2016, có 166 vụ án có luật sư tham gia trên tổng số 331 vụ

án hình sự. Năm 2017, có 194 vụ án có luật sư tham gia trên tổng số 377 vụ

án hình sự. Năm 2018, có 214 vụ án có luật sư tham gia trên tổng số 400 vụ

án hình sự. Trong năm 2019, cũng có 230 vụ án hình sự có sự tham gia của

luật sư trên tổng số 484 vụ án hình sự. Đây là những con số khá ấn tượng, thể

hiện sự tham gia, có mặt luật sư trong các vụ án hình sự chiếm tới hơn 50%

tổng số vụ án hình sự của các năm. Có thể thấy, giai đoạn 2015 – 2019 có sự

tiến bộ vượt bậc, nhiều luật sư tham gia các vụ án hình sự, điều này thể hiện

sự nâng cao vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự.

Bảng 2.2. Bảng số liệu thống kê vụ án luật sư được mời và luật sư

tham gia bào chữa do chỉ định tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh

Năm xét xử Số lượng vụ án có Luật Số lượng vụ án có Luật

sư được mời tham gia sư tham gia bào chữa

bào chữa chỉ định

2015 69 82

2016 87 79

2017 125 69

2018 135 79

2019 152 78

44

Nguồn: Báo cáo tổng số vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh

qua các năm (2015-2019).

Qua bảng số liệu trên, nhìn chung, giai đoạn từ năm 2015 – 2019, tỷ lệ

số lượng các vụ án hình sự có luật sư tham gia tố tụng do được phía bị cáo

mời có xu hướng tăng dần qua các năm. Cụ thể:

Năm 2015, số vụ án có luật sư tham gia bào chữa do được phía bị cáo

mời là 69 vụ, còn luật sư tham gia bào chữa chỉ định chiếm 82 vụ. Tuy nhiên,

sang năm 2016, số vụ án có luật sư tham gia bào chữa do được mời là 87 vụ,

luật sư tham gia án chỉ định là 79 vụ. Năm 2017, số vụ án luật sư được mời

tham gia bào chữa tăng nhiều, chiếm 125 vụ án, còn luật sư tham gia án chỉ

định là 69 vụ án. Năm 2018, luật sư được mời tham gia bào chữa chiến 135

vụ án, luật sư tham gia án chỉ định là 79 vụ án. Trong năm 2019, số vụ án có

luật sư được mời tham gia vụ án chiếm 152 vụ án, còn luật sư tham gia án chỉ

định là 78 vụ án. Như vậy, có thể thấy các luật sư được mời tham gia bào

chữa trong vụ án hình sự ngày càng phổ biến hơn. Điều này chứng tỏ rằng vị

thế của luật sư trong tố tụng hình sự ngày càng được khẳng định và đóng vai

trò quan trọng trong quá tình giải quyết vụ án hình sự.

Bảng 2.3. Số vụ án có luật sư tham gia bào chữa trong xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh

Năm xét xử Tổng số vụ án Số vụ án có Luật Tỷ lệ %

XXST sư tham gia

2015 195 92 47,17%

2016 223 111 49,77%

2017 261 131 50,19%

45

2018 288 158 54,86%

2019 396 176 44,44%

Nguồn: Báo cáo tổng số vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh

qua các năm (2015-2019).

Thông qua bảng số liệu trên, xét thấy, số vụ án xét xử sơ thẩm có luật

sư tham gia chiếm tỷ lệ khá cao. Cụ thể:

Năm 2015, có 92 vụ án xét xử sơ thẩm có luật sư tham gia tố tụng,

chiếm 47,17%.

Năm 2016, có 111 vụ án xét xử sơ thẩm có luật sư tham gia tố tụng,

chiếm 49,77%.

Năm 2017, có 131 vụ án xét xử sơ thẩm có luật sư tham gia tố tụng,

chiếm 50,19%.

Năm 2018, có 158 vụ án xét xử sơ thẩm có luật sư tham gia tố tụng,

chiếm 54,86%.

Trong năm 2019, có 396 vụ án xét xử sơ thẩm có luật sư tham gia tố

tụng, chiếm 44,44%.

Nhìn chung, từ năm 2015 cho đến năm 2018, tỷ lệ luật sư tham gia xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự tăng khoảng 7,69%. Đây là dấu hiệu tốt, chứng tỏ

rằng luật sư ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết

vụ án hình sự.

Bảng 2.4. Số vụ án có luật sư tham gia bào chữa trong xét xử phúc

thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh

Năm xét xử Tổng số vụ án Số vụ án có Luật Tỷ lệ %

46

XXPT sư tham gia

2015 103 59 57,28%

2016 108 55 50,92%

2017 116 63 54,51%

2018 112 56 50%

2019 88 54 61,36%

Nguồn: Báo cáo tổng số vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh

qua các năm (2015-2019).

Thông qua bảng số liệu trên, có thể thấy rằng:

Năm 2015, có 59 vụ án xét xử phúc thẩm có luật sư tham gia tố tụng,

chiếm 57,28%.

Năm 2016, có 55 vụ án xét xử phúc thẩm có luật sư tham gia tố tụng,

chiếm 50,92%.

Năm 2017, có 63 vụ án xét xử phúc thẩm có luật sư tham gia tố tụng,

chiếm 54,51%.

Năm 2018, có 56 vụ án xét xử phúc thẩm có luật sư tham gia tố tụng,

chiếm 50%.

Trong năm 2019, có 54 vụ án xét xử phúc thẩm có luật sư tham gia tố

tụng, chiếm 61,36%.

Nhìn chung, từ năm 2015 cho đến năm 2019, số lượng luật sư tham gia

tố tụng trong vụ án hình sự phúc thẩm chiếm tỷ lệ cao. Tỷ lệ luật sư tham gia

47

tố tụng ngày càng gia tăng, đảm bảo bảo vệ được cho các bị cáo, đảm bảo áp

dụng đúng pháp luật, bảo vệ Nhà nước và xã hội.

2.2.3.2. Hạn chế, vướng mắc

Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình áp dụng quy định

pháp luật hiện hành về quyền và nghĩa vụ của Luật sư nhằm khẳng định địa vị

pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự vẫn còn tồn tại khó khăn, hạn chế cơ

bản sau:

Thứ nhất, một số quyền của luật sư chưa thực sự được quy định cụ thể,

rõ ràng dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng trong thực tế. Do đó, hiện tại

vẫn tồn tại nhiều trường hợp cán bộ cơ quan tiến hành tố tụng gây khó khăn

cho luật sư trong việc tiếp cận chứng cứ, hay gặp, hỏi bị can, bị cáo... Việc

các cán bộ tiến hành tố tụng gây khó khăn cho luật sư trong quá trình tham

gia tố tụng ở mỗi giai đoạn sẽ gây mất thời gian, công sức cho luật sư để tiếp

cận sự thật khách quan của vụ án. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải

quyết vụ án hình sự.

Thứ hai, trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ nhằm đảm bảo

cho hoạt động bào chữa của luật sư, nhiều trường hợp luật sư vẫn chưa được

đảm bảo chủ động thu thập chứng cứ bởi nhiều khi các cơ quan, tổ chức có

liên quan không cung cấp chứng cứ cho luật sư, gây khó khăn trong quá trình

thu thập chứng cứ nhằm giải quyết triệt để vụ án. Bên cạnh đó, nhiều quyền

của người tham gia bào chữa vẫn còn bị hạn chế. Pháp luật tố tụng hình sự

Việt Nam quy định cho người tham gia bào chữa có quyền đề nghị triệu tập

người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng; Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập

chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;… Tuy nhiên,

nhiều trường hợp các đề xuất của luật sư không được chấp thuận.

48

Ví dụ vụ án:

Bị cáo Nguyễn Thị Tuyết Th trong vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

(Xét xử sơ thẩm tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh).

Nội dung vụ án:

Vợ chồng Doãn Hoàng G và Kiều Thị Thanh H đã thành lập Công ty

cổ phần dệt Q, Công ty cổ phần dệt may xuất khẩu C và sử dụng pháp nhân

của hai công ty này để lập dự án đầu tư xây dựng nhà máy dệt Q và làm hồ sơ

vay Quỹ hỗ trợ phát triển Bắc Ninh số tiền 45.000.000.000 (Bốn mươi lăm tỷ

đồng) rồi chiếm đoạt số tiền này. Đến nay, số tiền gốc bị chiếm đoạt là

28.374.241.000 (Hai mươi tám tỷ ba trăm bảy mươi tư triệu hai trăm bốn mốt

nghìn đồng).

Quá trình thực hiện, Doãn Hoàng G và Kiều Thị Thanh H đã thuê

Nguyễn Việt H làm giám đốc, Nguyễn Thị Tuyết Th làm kế toán trưởng,

Doãn Hoàng G chỉ đạo Nguyễn Việt H ký các hồ sơ dự án nhà máy dệt Q, hồ

sơ đề nghị vay vốn tín dụng đầu tư tại Quỹ hỗ trợ phát triển chi nhánh Bắc

Ninh và ký các thủ tục rút tiền của Quỹ hỗ trợ phát triển chi nhánh Bắc Ninh.

Thực hiện sự chỉ đạo của G, kế toán Nguyễn Thị Tuyết Th đã ký vào các văn

bản vay vốn và bảng kê rút vốn vay, đề nghị giải ngân để chuyển số tiền

45.000.000.000 (Bốn mươi lăm tỷ đồng) vay vốn của Quỹ hỗ trợ phát triển

chi nhánh Bắc Ninh về tài khoản của Công ty C giúp cho Doãn Hoàng G và

Kiều Thị Thanh H rút ra và chiếm đoạt toàn bộ số tiền này.

Bản cáo trạng số 18/VKSTCV3 ngày 13/4/2019 của Viện kiểm sát

nhân dân tối cao truy tố bị cáo Nguyễn Thị Tuyết Th phạm tội Lừa đảo chiếm

đoạt tài sản theo điểm a, khoản 4, điều 174 Bộ luật hình sự[6].

Đoàn Luật sư tỉnh Bắc Ninh cử luật sư T bào chữa chỉ định cho bị cáo

Nguyễn Thị Tuyết Th trong vụ án này. Trong quá trình giải quyết vụ án, Luật

49

sư T nhận thấy bị cáo Nguyễn Thị Tuyết Th chỉ thực hiện công việc do Doãn

Hoàng G và Kiều Thị Thanh H giao cho mà không được biết được ý định

chiếm đoạt tiền của Quỹ hỗ trợ phát triển chi nhánh Bắc Ninh của Doãn

Hoàng G và Kiều Thị Thanh H. Do đó, việc Viện kiểm sát chỉ truy tố bị cáo

Nguyễn Thị Tuyết Th phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chưa thực sự

khách quan, đúng sự thật.

Vì vậy, để giải quyết vụ án một cách khách quan toàn diện, đúng sự

thật của vụ án, luật sư đề nghị hoàn hồ sơ để điều tra bổ sung và bắt vợ chồng

Doãn Hoàng G và Kiều Thị Thanh H về mới làm rõ được vai trò đồng phạm

giúp sức của Nguyễn Việt H và Nguyễn Thị Tuyết Th.

Đánh giá:

Như vậy, có thể thấy, trong vụ án này còn thiếu rất nhiều chứng cứ và

việc không bắt được hết các tội phạm thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản này cũng làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết

vụ án không được khách quan, đúng sự thật. Điều này dẫn đến tình trạng

nhiều vụ án bị trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Thứ ba, hiện tại tình hình tội phạm diễn ra có xu hướng gia tăng, tuy

nhiên, số lượng luật sư lại chưa thực sự có nhiều. Đồng thời, chất lượng và

đạo đức nghề nghiệp của các luật sư hiện nay cũng là một vấn đề nan giải cần

đề cập. Cụ thể:

Về số lượng luật sư tại Bắc Ninh: Hiện nay, tại Đoàn Luật sư tỉnh Bắc

Ninh chí có 57 luật sư thành viên. Trong khi đó, số lượng các vụ án hình sự từ

năm 2015 đến năm 2019 có dấu hiệu gia tăng nhanh chóng, đặc biệt trong

năm 2019 có đến 484 vụ án hình sự. Như vậy, bình quân, mỗi luật sư phải

đảm nhận tám (8) vụ hoặc có luật sư chín (9) vụ án hình sự. Bên cạnh đó, các

vụ án hình sự cũng tốn một khoảng thời gian nhất định từ khâu điều tra, truy

50

tố, xét xử. Do đó, cần phải có một khoảng thời gian nhất định thì mới giải

quyết xong một vụ án hình sự. Bên cạnh đó, còn có rất nhiều các vụ án dân

sự, hành chính, kinh doanh thương mại xảy ra. Do đó, số lượng 57 luật sư

hiện có tại Đoàn luật sư tỉnh Bắc Ninh chưa thực sự đáp ứng được khối lượng

công việc yêu cầu.

Về chất lượng của đội ngũ luật sư còn nhiều hạn chế, đặc biệt là chất

lượng tranh tụng tại phiên tòa. Hiện nay, trong số 57 luật sư thành viên tại

Đoàn Luật sư tỉnh Bắc Ninh, có tới một nửa số lượng luật sư là các luật sư trẻ

còn non kinh nghiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế, đặc biệt là

thiếu kinh nghiệm trong phần tranh tụng tại phiên tòa. Nhiều luật sư trẻ chưa

thực sự nắm vững, hiểu thấu đáo các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa

trong tố tụng hình sự, dẫn đến quá trình thực hiện hoạt động bào chữa không

hiệu quả, đặc biệt là tranh tụng tại phiên tòa đạt hiệu quả không cao. Điều này

ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo.

Về đạo đức nghề nghiệp của luật sư: Không chỉ luật sư thuộc Đoàn

Luật sư tỉnh Bắc Ninh nói riêng mà cả Luật sư Việt Nam nói chung đa số

chưa thực sự tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật hành nghề luật sư.

Thật vậy, có những luật sư có thái độ ứng xử nghề nghiệp chưa đúng mực

trong quan hệ với các CQTHTT, người tiến hành tố tụng và các luật sư đồng

nghiệp, làm ảnh hưởng đến uy tín của đội ngũ luật sư. Bên cạnh đó, thực tế

tồn tại trường hợp, luật sư thay vì nghiên cứu vụ án lại đi tìm gặp hết người

này người khác và hứa hẹn với bị cáo hay gia đình bị cáo những điều chưa

hẳn đã thực hiện được. Người Luật sư quá coi trọng lợi ích vật chất dẫn đến vi

phạm các quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư, thậm chí có luật sư vi phạm

pháp luật nghiêm trọng đến mức bị truy cứu TNHS. Chẳng hạn, Lê Anh Ngọc

(Bắc Ninh) bị xét xử về tội cưỡng đoạt tài sản theo Bản án số 71/2016/HSST

ngày 18/5/2016 của TAND thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Trường

51

hợp này, Lê Anh Ngọc bị thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư và xóa tên khỏi

danh sách Luật sư tại Đoàn luật sư tỉnh Bắc Ninh.

Ngoài ra, thực tế hiện nay, nhiều luật sư trong các vụ án chỉ định chưa

thực sự cố gắng làm tốt nhiệm vụ của mình. Các luật sư chỉ định thường dành

rất ít thời gian để nghiên cứu hồ sơ. Có vụ án hàng vạn bút lục nhưng luật sư

chỉ đến trụ sở Tòa án đọc vài ngày, chủ yếu là photocopy bản kết luận điều tra

và cáo trạng, nếu ở giai đoạn phúc thẩm thì photocopy thêm bản án sơ thẩm

và bút ký phiên tòa. Việc luật sư tiến hành thu thập thêm tài liệu, đồ vật cũng

rất hạn chế. Chính vì thế, việc đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các bị

cáo được đảm bảo một cách tối đa là rất khó.

Thực tiễn cho thấy, việc luật sư tham gia bào chữa chỉ định thường hời

hợt, luật sư không dành nhiều thời gian nghiên cứu, tìm ra nhiều tình tiết có

lợi cho bị cáo để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo một cách tối

đa.

2.2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc

Từ những hạn chế phân tích trên, học viên tìm ra nguyên nhân của

những hạn chế, vướng mắc đó, bao gồm:

Thứ nhất, nguyên nhân xuất phát từ hệ thống pháp luật hiện hành, cụ

thể là BLTTHS năm 2015 vẫn chưa có quy định để bảo đảm cho sự chủ động

thu thập chứng cứ của luật sư khi cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan

không cung cấp tài liệu, chứng cứ; hiện nay chưa quy định rõ trách nhiệm của

CQTHTT trong việc thông báo, tống đạt cho người bào chữa các quyết định,

văn bản tố tụng liên quan đến quyền và lợi ích của người bị tạm giữ, bị can, bị

cáo mà họ bào chữa, cũng như các văn bản về sự thay đổi trình tự tố tụng hình

sự; ….; quy định người bào chữa được tham gia vào các hoạt động điều tra

khác là chưa cụ thể; chưa rõ ràng, cụ thể quyền sao chụp hồ sơ, tài liệu vụ án

52

ở các giai đoạn tố tụng của người bào chữa; quy định người bào chữa chỉ

được hỏi người bị tạm giữ, bị can nếu được Điều tra viên đồng ý làm hạn chế

quyền của người bào chữa vì bị phụ thuộc nhiều vào ý kiến chủ quan của các

cán bộ điều tra; chưa quy định rõ trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng

(Điều tra viên, Kiểm sát viên…) phải thông báo về thời gian, địa điểm hỏi

cung để luật sư tham dự thực hiện quyền bào chữa; chưa có quy định về thủ

tục người bào chữa gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; quyền người bào

chữa được gặp riêng người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố

tụng, được bảo mật thông tin trao đổi giữa người bị tạm giữ, bị can, bị cáo với

người bào chữa; chưa có quy định về quyền miễn trừ trách nhiệm hình sự và

dân sự của người bào chữa; chưa quy định trách nhiệm của cơ quan và người

tiến hành tố tụng phải tôn trọng kết quả bào chữa; xem xét các tài liệu, đồ vật

do bên bào chữa cung cấp; các tình tiết và những lập luận do bên bào chữa

nêu ra. Chưa đặt ra vấn đề phía CQTHTT vi phạm các quyền của người bào

chữa thì có được xem là những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay

không ?... Nhìn chung, BLTTHS năm 2015 chưa có cơ chế bảo đảm thực hiện

các quyền của người bào chữa; chế tài xử phạt nếu có sự vi phạm các quyền

của người bào chữa, do đó nếu các cơ quan THTT có vi phạm thì người tham

gia tố tụng không phải gánh chịu hậu quả.

Thứ hai, chính vì pháp luật chưa có quy định rõ chế tài nghiêm ngặt để

rằng buộc trách nhiệm giữa các bên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự

như trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cơ quan điều tra, viện kiểm sát để tạo

điều kiện cho người bào chữa thu thập chứng cứ đầy đủ góp phần giải quyết

vụ án nhanh chóng… hay trách nhiệm của cá nhân người bào chữa phải nắm

bắt được quyền của mình để thực hiện cho đúng theo quy định của pháp luật

để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo… Hệ

lụy của vấn đề này dẫn đến sự việc nhiều cán bộ tiến hành tố tụng hay cán bộ

53

có liên quan trong giải quyết vụ án hình sự gây khó khăn cho người bào chữa

trong quá trình thu thập chứng cứ, tài liệu để bảo vệ cho người được bào

chữa.

Cụ thể như quy định tại điểm b Điều 73 BLTTHS 2015 là “Có mặt khi

lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có

thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt,

người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm

quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ,

bị can”. Theo chúng tôi quy định trên không phải là quyền của người bào

chữa, vì không có quy định nào về quyền mà lại phụ thuộc vào ý chí của

người khác. Chính vì quy định này mà hầu như khi lấy lời khai của người bị

bắt, người bị tạm giữ, bị can mặc dù có mặt nhưng Luật sư bào chữa không

thể hỏi gì được người bị buộc tội. Bởi lẽ, nếu hỏi khi Người có thẩm quyền

tiến hành tố tụng đang hỏi thì sẽ không được sự đồng ý của họ, nếu khi họ kết

thúc hỏi, nếu Luật sư muốn hỏi thì họ sẽ bảo là hết giờ!

Theo chúng tôi, việc quy định tại khoản 2 Điều 81 là “Tùy từng giai

đoạn tố tụng khi thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc

bào chữa, người bào chữa phải kịp thời giao cho Cơ quan có thẩm quyền tiến

hành tố tụng để đưa vào hồ sơ vụ án...”, quy định như vậy là bất hợp lý và

không bình đẳng giữa chủ thể gỡ tội và buộc tội. Giả sử Luật sư thu thập được

những chứng cứ gỡ tội mà lại giao nộp cho Cơ quan có thẩm quyền tố tụng thì

liệu những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có tìm cách hợp pháp hóa

các tài liệu, chứng cứ khác để cố tình buộc tội người bị tình nghi không? Thực

tế quy định trên cũng không được tuân thủ, hầu như các Luật sư sẽ không bao

giờ giao nộp các chứng cứ, tài liệu chứng sự vô tội của thẩn chỉ mà mình bảo

vệ cho Cơ quan tiến hành tố tụng, mà chỉ khi ra trước phiên tòa họ mới giao

nộp cho Hội đồng xét xử.

54

Thứ ba, nguyên nhân xuất phát từ số lượng và chất lượng đội ngũ luật

sư của Đoàn luật sư tỉnh Bắc Ninh.

Như đã phân tích tại phần 2.2.2. Thực trạng tham gia giải quyết vụ án

hình sự của luật sư tại tỉnh Bắc Ninh, xét thấy, số lượng luật sư hiện đang

công tác tại Đoàn luật sư tỉnh Bắc Ninh là khá ít, cụ thể là chỉ có 57 luật sư.

Trong khi đó, số lượng các vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh

thì khá nhiều, trong năm 2019 có 484 vụ án hình sự, trong đó có 230 vụ án có

sự tham gia của luật sư bào chữa. Như vậy, trung bình mỗi luật sư giải quyết

4 VAHS, chưa kể trong cùng thời gian đó còn có các vụ án dân sự, hành

chính, kinh doanh thương mại hay các dịch vụ pháp lý khác khi khách có yêu

cầu… Bên cạnh đó, thời hạn giải quyết các VAHS khá lâu, tùy thuộc vào tính

chất nghiêm trọng của tội phạm và mức độ phức tạp của vụ án. Do đó, số

lượng luật sư hiện tại ở tỉnh Bắc Ninh là không nhiều.

Bên cạnh đó, chất lượng đội ngũ luật sư tại tỉnh Bắc Ninh không đồng

đều. Hiện nay, các lớp luật sư trẻ chiếm số đông. Các luật sư trẻ còn ít kinh

nghiệm thực tiễn khi tham gia giải quyết các vụ án hình sự. Điều này ảnh

hưởng không nhỏ đến quá trình giải quyết vụ án hình sự trên thực tiễn.

55

Tiểu kết chương 2

Tại chương 2, tác giả đã phân tích quy định của pháp luật hiện hành về

địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự, cụ thể là tác giả đã đi sâu

phân tích các quyền và nghĩa vụ của luật sư theo Bộ luật tố tụng hình sự năm

2015.

Tỉnh Bắc Ninh địa hình của vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ, tương

đối bằng phẳng, gồm địa hình đồng bằng và địa hình chuyển tiếp giữa đồng

bằng và trung du. Hướng dốc chính của địa hình theo hướng Đông Bắc - Tây

Nam. Tỉnh Bắc Ninh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ: Hà Nội, Hải

Phòng, Quảng Ninh, khu vực có mức tăng trưởng kinh tế cao. Trong những

năm trở lại đây, tỉnh Bắc Ninh có sự thay đổi vượt bậc về kinh tế - xã hội, các

khu dân cư mới liên tục được xây dựng, khu công nghiệp, khu chế xuất liên

tục phát triển đã khiến hàng nghìn lao động từ các địa phương lân cận và một

số tỉnh miền núi đổ về lao động kiếm sống. Ngoài ra, tỉnh Bắc Ninh có nhiều

chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Do đó, nhiều người lao động nước

ngoài về Bắc Ninh lưu trú và lao động. Điều này làm gia tăng tỷ lệ tội phạm

trên địa bàn tỉnh.

Thông qua việc phân tích thực tiễn áp dụng các quy định về địa vị pháp

lý của Luật sư trong tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, học viên đã

chỉ ra được những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong

việc áp dụng các quy định về địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự

trên thực tiễn. Đây là cơ sở quan trọng làm căn cứ triển khai các giải pháp

được trình bày tại chương 3 của Luận văn.

56

Chương 3

MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO ĐỊA VỊ PHÁP

LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về địa vị pháp lý của

luật sư

Luật sư thực hiện bào chữa cho bị cáo, tham gia tố tụng vào VAHS

không chỉ đơn thuần là người tham gia tố tụng để bào chữa cho bị cáo, mà

còn là người bảo vệ công lý, người giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt

động của cơ quan và người tiến hành tố tụng. Như vậy, để địa vị pháp lý của

luật sư trong tố tụng hình sự được thừa nhận rộng rãi về mặt pháp lý, người

luật sư có được chỗ đứng xứng đáng trong xã hội, cần phải hoàn thiện hệ

thống pháp luật hình sự nhằm nâng cao địa vị pháp lý của luật sư trong tố

tụng hình sự. Cụ thể:

Thứ nhất, cần xây dựng một chương riêng có tính hệ thống quy định

về bào chữa trong BLTTHS. Bởi lẽ, hiện nay các quy định liên quan đến bào

chữa không tập trung mà nằm rải rác ở nhiều chương khác nhau trong

BLTTHS, cụ thể là: Quy định về quyền bình đẳng trước Tòa án giữa Kiểm sát

viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại Điều

26 Chương I; quy định về người bào chữa; quyền, nghĩa vụ của người bào

chữa; lựa chọn, chỉ định, thay đổi hoặc từ chối người bào chữa và thủ tục cấp

giấy chứng nhận người bào chữa được quy định tại các Điều 72, 73, 75, 76,

77, 78 Chương V của BLTTHS; quy định về người có quyền kháng cáo tại

Điều 331 Chương XXII;... Việc sắp xếp rải rác các quy định về bào chữa

trong TTHS như này không thể hiện được vị trí quan trọng của người bào

chữa trong tố tụng hình sự; đồng thời các quy định rải rác, thiếu tính chặt chẽ

sẽ gây khó khăn cho quá trình áp dụng. Do đó, việc thể chế hóa quy định về

57

bào chữa trong tố tụng hình sự và những vấn đề liên quan đến bào chữa thành

một chương riêng là điều cần thiết nhằm đảm bảo tính thống nhất, khoa học,

quan trọng hơn là dễ dàng áp dụng trong thực tiễn.

Thứ hai, hoàn thiện các quy định về quyền, nghĩa vụ của người bào

chữa tại Điều 73 BLTTHS năm 2015. Theo đó, cần bổ sung một số quy định

sau:

Một là, về quyền gặp gỡ, hỏi người bị buộc tội (điểm a khoản 1 Điều

73 BLTTHS năm 2015):

Việc được gặp, hỏi người bị tạm giữ; bị can, bị cáo đang bị tạm giam

góp phần giúp người bào chữa có thể nắm đầy đủ hơn các tình tiết của vụ án,

các đặc điểm nhân thân, diễn biến tâm lý, nguyện vọng của người được bào

chữa. Trên cơ sở đó, người bào chữa có thể đưa ra định hướng tiến hành thu

thập các chứng cứ, tài liệu quan trọng để làm rõ các tình tiết gỡ tội hay giảm

nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội. Bên cạnh đó, việc người bào

chữa có quyền gặp người bị tội cũng là cơ hội tốt để người bào chữa giải thích

pháp luật, tác động đến người bị buộc tội để họ có thái độ, hành vi đúng trong

quá trình tố tụng, có khả năng góp phần giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho

người bị buộc tội thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn, hối cải. Tuy nhiên

thực tế hiện nay trong BLTTHS chưa có quy định cụ thể về việc thực hiện

quyền này như thế nào, cụ thể là thời điểm gặp, hỏi; cách thức gặp (được gặp

riêng tư hay có sự giám sát của cán bộ trại tạm giam), thời gian gặp, thực hiện

thủ tục để gặp như thế nào… Do đó, việc thực hiện quyền gặp, hỏi người bị

buộc tội trên thực tế người bào chữa gặp không ít khó khăn. Vì vậy, cần có

quy định cụ thể về việc người bào chữa có quyền gặp, hỏi người bị buộc tội

kể từ thời điểm tham gia tố tụng; quy định về thời gian gặp, các loại giấy tờ

cụ thể để gặp, cách thức gặp (có được phép gặp riêng hay không, nếu có thì

58

trong trường hợp nào). Đồng thời, phải có quy định về trách nhiệm của cơ

quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền gặp gỡ giữa người bào chữa

và người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

Hai là, về quyền của người bào chữa có mặt khi lấy lời khai của người

bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành

lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị

can (điểm b khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015).

Việc người bào chữa được hỏi người bị tạm giữ, bị can sẽ giúp làm

sáng tỏ hơn các tình tiết trong vụ án, đặc biệt là các tình tiết có lợi cho người

bị tạm giữ, bị can; giúp bảo vệ quyền lợi cho người mà họ bào chữa; góp phần

bảo đảm việc giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật. Theo đó, việc hỏi

của người bào chữa có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giải quyết vụ

án. Tuy nhiên, theo quy định hiện nay thì có sự ràng buộc khi nếu người có

thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì người bào chữa được

hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Như vậy, việc hỏi của người bào

chữa phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người có thẩm quyền tiến hành lấy lời

khai. Vậy, nếu trường hợp người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai không

đồng ý thì như thế nào? Quy định này gây không ít khó khăn cho người bào

chữa và rất dễ bị người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai lạm dụng để từ

chối cho người bào chữa được hỏi, xâm phạm đến quyền bào chữa của người

bị tạm giữ, bị can. Vì vậy, cần sửa đổi quy định trên theo hướng người bào

chữa có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và có

quyền hỏi người bị tạm giữ, bị can. Bên cạnh đó, cũng phải có quy định cụ thể

ràng buộc trách nhiệm của người bào chữa trong việc hỏi, tránh trường hợp

người bào chữa lạm dụng việc hỏi để tạo sự có lợi cho người được bào chữa

không đúng quy định, làm ảnh hưởng đến tính khách quan của vụ án. Do vậy,

cần bỏ quy định khi Luật sư muốn hỏi người bị buộc tội phải được sự đồng ý

59

của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo quy định tại Điều 73, mà cần

coi đây là quyền của Luật sư bào chữa và không bị phụ thuộc vào ý chí của

bất kỳ ai ngoài việc thương tôn pháp luật.

Ba là, về quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và

quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu có trong hồ sơ vụ án từ khi kết

thúc điều tra (điểm h, l khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015):

Theo quy định thì người bào chữa có quyền thu thập, đưa ra chứng cứ,

tài liệu, đồ vật, yêu cầu và quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu có

trong hồ sơ vụ án từ khi kết thúc điều tra để phục vụ bào chữa. Quy định này

đã tạo điều kiện cho người bào chữa chủ động hơn trong việc thu thập chứng

cứ, tài liệu, đồ vật phục vụ cho việc giải quyết vụ án nhằm bào chữa cho

người bị buộc tội; đồng thời giúp người bị buộc tội được bào chữa, bảo vệ

quyền của họ tốt hơn.

Tuy nhiên, hiện nay luật chưa có quy định cụ thể về hình thức, cách

thức thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu của người bào chữa, giá trị chứng

minh của những tài liệu và đồ vật mà người bào chữa thu thập, trách nhiệm

của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm cho người bào chữa thực

hiện quyền này. Thật vậy, thực tiễn cho thấy, việc thu thập chứng cứ của

người bào chữa cũng gặp khá nhiều khó khăn, hơn nữa, giá trị chứng minh

của các chứng cứ, tài liệu mà người bào chữa đưa ra chưa thực sự được cơ

quan tiến hành tố tụng coi trọng. Bởi lẽ, chứng cứ trong vụ án hình sự được

xác lập từ giai đoạn điều tra. Tuy nhiên việc thu thập chứng cứ của Cơ quan

điều tra trong một số trường hợp là chưa đầy đủ, thiếu khách quan; vì cơ quan

tiến hành tố tụng chỉ tập trung thu thập các chứng cứ buộc tội mà ít chú ý đến

các chứng cứ gỡ tội. Trong khi đó quyền thu thập, đưa ra tài liệu, chứng cứ

của người bào còn nhiều hạn chế gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc bào

60

chữa, khả năng tranh tụng tại phiên toà. Do đó, để bảo đảm sự công bằng, các

bên trong tố tụng hình sự phải có cơ hội ngang nhau trong việc thực thu thập

chứng cứ và trình bày, sử dụng chứng cứ.

Vì vậy, cần phải có quy định cụ thể liên quan đến việc thu thập, đưa ra

chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu như: hình thức, cách thức thu thập, loại tài

liệu chứng cứ được thu thập; việc sử dụng, giá trị chứng minh của các tài liệu,

đồ vật này. Ngoài ra, cần quy định cụ thể về trình tự, thủ tục và đảm bảo thực

hiện quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu có trong hồ sơ vụ án từ

khi kết thúc điều tra của người bào chữa. Cần bỏ quy định về nghĩa vụ của

Luật sư là phải có trách nhiệm giao nộp các tài liệu, chứng cứ liên quan đến

việc bào chữa mà họ đã thu thập được theo đúng trình tự, thủ tục mà Bộ luật

tố tụng hình sự quy định mà thay vào đó là họ có quyền sử dụng các tài liệu,

chứng cứ đó để tham gia tranh tụng tại Tòa án.

Nghiên cứu sâu hơn có thể thấy, Việc thừa nhận là chủ thể thực hiện

việc thu thập chứng cứ của Luật sư, tuy nhiên thực tiễn áp dụng có thể thấy

việc thu thập chứng cứ độc lập của Luật sư vẫn gặp phải vô vàn khó khăn, có

thể kể đến:

- Khoản 4 Điều 88 BLTTHS quy định: “Khi tiếp nhận chứng cứ, tài

liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do những người quy định tại

khoản 2 và khoản 3 Điều này cung cấp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố

tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định của Bộ

luật này”. Như vậy, sau khi thu thập được tài liệu, đồ vật…. thì việc đánh giá

xem đó có phải là chứng cứ hay không và việc quyết định có sử dụng hay

không lại phụ thuộc hoàn toàn vào cơ quan tiến hành tố tụng. Một bên gỡ tội

thực hiện thu thập các chứng cứ gỡ tội, khi thu thập được lại phải kịp thời

giao nộp cho bên buộc tội (cơ quan tiến hành tố tụng – Viện kiểm sát); dẫn

61

đến sự thiếu khách quan, trong nhiều trường hợp khi giao nộp những chứng

cứ quan trọng sẽ bị vô hiệu hóa làm sai lệch dẫn đến giá trị chứng minh không

còn; nên thực tiễn khi thu thập được chứng cứ quan trọng, quyết định việc có

tội hay không có tội của bị can, bị cáo thì thông thường luật sư sẽ không tiến

hành giao nộp ngay mà chỉ đợi đến khi phiên tòa được mở, thậm chí đến phần

tranh luận mới xuất trình, gây khó khăn trong quá trình xem xét đánh giá

chứng cứ của Tòa án.

- Họat động thu thập chứng cứ bằng việc đề nghị cơ quan, tổ chức, cá

nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa:

Quy định này rất hình thức bởi thực tiễn, rất hiếm trường hợp Luật sư đề nghị

các cơ quan, tổ chức, cá nhân đặc biệt là cơ quan, tổ chức Nhà nước cung cấp

được các tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa. Khi

nhận được sự bất hợp tác của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp

các tài liệu, đồ vật thì Luật sư lại phải quay sang “đề nghị cơ quan có thẩm

quyền tiến hành tố tụng” thu thập . Như vậy, hoạt động thu thập chứng cứ của

Luật sư vẫn trở lại bằng việc đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành thu

thập; việc xem xét có tiến hành theo đề nghị của luật sư hay không phụ thuộc

vào ý chí chủ quan của chủ thể tiến hành tố tụng trong việc đánh giá xem Luật

sư đã sử dụng mọi biện pháp cần thiết nhưng không thể thu thập chứng cứ

được hay chưa.

Nhận xét chung về quy định việc quy định Luật sư thu thập chứng cứ:

Mặc dù đã có nhiều quy định mới được sửa đổi bổ sung góp phần nâng cao vị

trí của luật sư trong việc thực hiện chức năng bào chữa của mình. Tuy nhiên,

thực tiễn hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư vẫn vô cùng khó khăn,

chưa có cơ chế bảo đảm thực hiện. Trong thời gian tới, cần có các văn bản

hướng dẫn chi tiết để các quy định này được thực hiện một cách nghiêm túc.

62

Bốn là, về quyền được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo

trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến

hành hoạt động điều tra khác (điểm d khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015):

Thật vậy, hiện nay, chưa quy định rõ về thời hạn mà Cơ quan có thẩm

quyền tiến hành tố tụng phải thông báo cho người bào chữa. Do đó, thực tế

nhiều trường hợp CQTHTT thông báo quá gấp khiến người bào chữa không

thể tham gia buổi lấy lời khai hoặc trường hợp không được CQTHTT thông

báo thì chưa có quy định xử lý vi phạm này. Vì vậy, cần có quy định cụ thể về

thời hạn thông báo, hình thức thông báo để việc áp dụng pháp luật được thống

nhất. Tránh trường hợp CQTHTT không thông báo; thông báo chậm trễ hoặc

trường hợp người bào chữa đã được thông báo nhưng không đến, hoặc đến

muộn và cơ quan điều tra vẫn tiến hành các hoạt động điều tra nên người bào

chữa cho rằng CQTHTT gây khó khăn cho họ.

Ngoài ra, cần phải bổ sung một số quy định về cơ chế bảo đảm thực

hiện các quyền của người bào chữa và chế tài cần thiết đối với cơ quan, người

tiến hành tố tụng có hành vi vi phạm; xây dựng chế tài nghiêm ngặt để ràng

buộc trách nhiệm cá nhân của người bào chữa ... Bên cạnh đó, BLTTHS nên

bổ sung quy định phải bắt buộc có sự tham gia của luật sư bào chữa trong lần

lấy lời khai đầu tiên của người bị tạm giữ hoặc bị can để đảm bảo tính khách

quan, chính xác khi lấy lời khai.

Thứ ba, đảm bảo nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc cơ bản trong tố

tụng hình sự. Việc đảm bảo nguyên tắc tranh tụng sẽ là cơ sở pháp lý để các

bên trong TTHS tiến hành các hoạt động một cách bình đẳng với chức năng

buộc tội, bào chữa, xét xử được phân định rõ ràng. Điều này góp phần bảo

đảm xét xử công bằng và bảo đảm quyền con người trong tố tụng.

63

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị cũng đã

khẳng định: “Hoàn thiện cơ chế để nâng cao chất lượng và hiệu quả tranh

tụng tại phiên tòa, coi đây là khâu đột phá của cải cách tư pháp”. Cơ chế

tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW là vấn đề

mới mẻ, rất được quan tâm trong cơ quan tiến hành tố tụng và giới luật sư.

Bởi việc ghi nhận tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của BLTTHS là hết sức cần

thiết. Vấn đề bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự ghi nhận

đầy đủ nội dung của nguyên tắc tranh tụng với phân định rõ các chức năng cơ

bản trong TTHS; quy định nhiệm vụ và quyền hạn của các bên trong tố tụng

phù hợp với chức năng tố tụng của các chủ thể đó theo quy định của pháp

luật; quy định đầy đủ các điều kiện cần thiết để các chủ thể bên buộc tội và

bên gỡ tội bình đẳng với nhau trong quá trình tham gia giải quyết vụ án hình

sự, điển hình như: Bình đẳng trong quá trình chứng minh như thu thập, kiểm

tra, đánh giá chứng cứ, bình đẳng trong việc bày tỏ quan điểm, đưa ra các yêu

cầu và tranh luận tại phiên tòa.

3.2. Cần nhận thức đúng đắn vai trò của luật sư trong tố tụng hình

sự

Cùng với sự phát triển chung của xã hội, địa vị pháp lý của Luật sư

ngày càng được tôn trọng và nâng cao, nhất là trong tố tụng hình sự. Điều này

cũng đồng nghĩa với việc xã hội ngày càng thừa nhận vai trò của Luật sư với

tư cách là người bào chữa. Tuy nhiên chỉ khi quyền và nghĩa vụ của Luật sư

được pháp luật xác định rõ ràng, minh bạch, cụ thể và được các cơ quan tiến

hành tố tụng thực sự tôn trọng thì luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người

bào chữa mới có thể tận tâm cống hiến hết mình cho xã hội, bảo vệ quyền và

lợi ích chính đáng cho người bị buộc tội. Nhằm đảm bảo việc xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì không thể thiếu sự đồng hành của lực

lượng luật sư - một lực lượng mà ở đó cá nhân người dân, tổ chức mong

64

muốn thông qua họ để phần nào cân bằng được sự tương quan giữa cơ quan

quyền lực nhà nước với các cá nhân, tổ chức trong việc bảo vệ quyền lợi hợp

pháp của mình khi cần thiết. Để thực hiện được điều này, trước hết địa vị

pháp lý của Luật sư trong tố tụng hình sự cần phải thực sự được thừa nhận và

tôn trọng.

Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành ghi nhận quyền và nghĩa

vụ của luật sư khi tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa.

Qua đó, luật sư thực hiện các hoạt động thu thập thông tin, tài liệu có

liên quan đến vụ án thông qua việc tiếp xúc với bị cáo, những người có liên

quan… Luật sư phải nắm được các tình tiết khách quan của vụ án như: bị cáo

có thực hiện hành vi vi phạm pháp luật không, hành vi đó có dấu hiệu cấu

thành tội phạm không, nếu có thì cấu thành tội gì; động cơ, mục đích của

hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị

cáo… Trên cơ sở đó, luật sư đưa ra các ý kiến đề xuất đối với các CQTHTT

và người THTT nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Luật sư đưa

ra quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án liên quan đến việc xác định

tội danh và quyết định hình phạt đối với bị cáo, giúp cho việc giải quyết vụ án

được nhanh chóng, chính xác, tránh làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội

phạm…

Như vậy, có thể thấy, luật sư đóng vai trò quan trọng trong quá trình

giải quyết vụ án hình sự. Do đó, cần phải có giải pháp nhằm nâng cao địa vị

pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự để luật sư có thể phát huy hết vai trò

của mình đối với hoạt động tố tụng hình sự.

3.3. Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành

tố tụng.

65

Thực tế hiện nay, một số cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành

tố tụng có hành vi gây khó khăn cho luật sư thực hiện nhiệm vụ bào chữa của

mình như quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ; gặp, hỏi người bị buộc tội...

Do đó, cần phải có biện pháp nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố

tụng và người tiến hành tố tụng nhằm đảm bảo cho luật sư bào chữa được

thực hiện nhiệm vụ của mình một cách tốt nhất, góp phần đảm bảo cho việc

bào chữa cho thân chủ của mình. Theo đó, cần thực hiện các biện pháp sau:

Thứ nhất, cần xoá bỏ tư tưởng hạ thấp vai trò của Luật sư trong nhận

thức của những người tiến hành tố tụng, thay đổi nhận thức “việc Luật sư

tham gia chỉ là hình thức”. Việc đổi mới cách nhìn về mối quan hệ giữa luật

sư và cơ quan tiến hành tố tụng là cần thiết. Bởi từ trước đến nay, những trục

trặc, vấn đề phát sinh trong quan hệ giữa luật sư với cơ quan tiến hành tố tụng

chủ yếu là do nhận thức khác nhau về công việc của hai bên. Cơ quan điều

tra, Viện kiểm sát, Toà án luôn cho rằng, luật sư bào chữa gây khó khăn cho

công tác điều tra, truy tố, xét xử. Còn luật sư thì cho rằng, Cơ quan điều tra,

Viện kiểm sát, Toà án luôn cho mình quan trọng hơn và coi thường hoạt động

của luật sư. Do vậy, quan hệ giữa luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng

luôn có sự xung đột nhất định. Đây là nhận thức hoàn toàn không đúng. Hoạt

động của luật sư trong tố tụng hình sự cũng như hoạt động của các cơ quan

tiên hành tố tụng đều hướng tới nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, pháp chế xã hội

chủ nghĩa. Mỗi bên đều có trách nhiệm tuân thủ pháp luật do nhà nước ban

hành để cùng xác định sự thật khách quan của vụ án. Cho nên đối trọng nhau,

gây khó khăn cho nhau trong hoạt động tố tụng là đi ngược lại tinh thần của

Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng nền tư pháp trong sạch,

vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục

vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư

pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực

66

cao. Cơ quan tiến hành tố tụng cần tạo điều kiện cho luật sư giám sát hoạt

động điều tra, phòng ngừa những trường hợp ép cung, mớm cung của điều tra

viên; cho phép luật sư thực hiện những biện pháp hợp pháp để thu thập chứng

cứ như cho phép luật sư gặp gỡ bị can đang bị tạm giam, gặp gỡ những người

tham gia tố tụng khác v.v...

Thứ hai, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần phải tự trau dồi

những kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, nắm chắc các văn bản

pháp luật, đặc biệt các văn bản pháp luật chuyên ngành để từ đó nâng cao

năng lực chuyên môn, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới; cơ quan tiến hành

tố tụng cũng cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng về kiến

thức pháp luật, nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tế cho những người tiến hành tố

tụng; người tiến hành tố tụng phải tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp

trong quá trình thực thi nhiệm vụ và cơ quan tiến hành tố tụng phải đặt ra các

yêu cầu cụ thể về việc thường xuyên trau dồi đạo đức nghề nghiệp và chế tài

áp dụng đối với những trường hợp vi phạm. Các cơ quan tiến hành tố tụng

cần xây dựng cơ chế thu hút người có năng lực vào ngành tư pháp; phối hợp

với những cơ sở đào tạo các chức danh tư pháp xây dựng các chương trình

đào tạo chức danh tư pháp chất lượng cao đáp ứng đòi hỏi của thực tế.

Cần phải có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa Liên đoàn Luật sư Việt

Nam với các Cơ quan tiến tố tụng. Hiện chỉ có quy chế phối hợp số 01 ký

ngày 14/4/2011 giữa Liên đoàn Luật sư Việt Nam với Viện kiểm sát nhân dân

tối cao theo đó, VKSND tối cao có trách nhiệm chỉ đạo các đơn vị trong

ngành tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm quyền cho các Luật sư tham gia bào

chữa, cũng như thực hiện các hoạt động nghề nghiệp ở giai đoạn điều tra, truy

tố. Liên đoàn Luật sư Việt Nam chỉ đạo và giám sát các Đoàn Luật sư và cá

nhân các Luật sư trong việc tuân thủ các nghĩa vụ của người bào chữa, người

bảo vệ quyền lợi của đương sự. Giữa Liên đoàn Luật sư Việt Nam và

67

VKSNDTC thường xuyên có sự trao đổi để xem xét, giải quyết kịp thời

những kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của người bào chữa nói chung và các Luật

sư nói riêng. Theo chúng tôi để bảo đảm về địa vị pháp lý của Luật sư cần có

văn bản phối hợp liên ngành bao gồm Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Viện

kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Tòa án nhân dân tối cao, như vậy

mới tạo cơ sở vững chắc về địa vị pháp lý của Luật sự trong Tố tụng hình sự

Việt Nam.

Trong quá trình hoạt động nghiệp vụ chuyên môn của Luật sư, thì ngoài

các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, thì Luật sư cũng phải tiến hành

làm việc với rất nhiều các cơ quan khác có thể liên quan đến việc xác định sự

thật khách quan của vụ án như sao lưu tài liệu, giấy tờ, làm việc về giám định

xem hồ sơ bệnh án lưu giữ tại Bệnh viện... Nhưng việc tiếp cận các cơ quan

này là rất khó khăn. Vì vậy, đề nghị Chính phủ cũng cần phải có Nghị định

riêng về vấn đề quyền bào chữa của người bị buộc tội, trong đó cũng quy định

rõ về trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ quan trong việc cung cấp tài liệu,

chứng cứ mà mình lưu giữ cho Luật sư bảo chữa.

3.4. Tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng đội ngũ luật

Tại Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch,

vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục

vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư

pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu

lực cao...”. Có thể thấy, vấn đề đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số

lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn đã được quan

tâm từ lâu và cho đến nay, đây vẫn là một vấn đề được chú trọng không chỉ

68

đối với cơ quan nhà nước mà cả đội ngũ luật sư và người dân Việt Nam. Việc

xây dựng đội ngũ Luật sư theo hướng nắm vững luật pháp, giỏi về chuyên

môn nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng góp

phần bảo vệ chân lý, đảm bảo xây dựng Nhà nước pháp quyền; nhanh chóng

xây dựng đội ngũ Luật sư với số lượng và chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu

cầu tham gia hoạt động tố tụng tư pháp trên tất cả các lĩnh vực nói chung và

tố tụng hình sự nói riêng. Do đó, cần hoàn thiện cơ chế bảo đảm đề luật sư

thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên toà, đồng thời xác định rõ chế độ trách

nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ

tự quản của tổ chức luật sư, đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối với

thành viên của mình. Để thực hiện được điều này, học viên đưa ra một số biện

pháp sau:

Thứ nhất, cần nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ luật sư, cụ thể là

nâng cao chất lượng của các khoá đào tạo luật sư đặc biệt chú trọng đào tạo

về kỹ năng hành nghề nói chung và kỹ năng tranh tụng tại phiên toà nói riêng

và tạo điều kiện để Luật sư được thử thách trong thực tiễn; thu hút chuyên gia

giỏi về pháp luật tham gia đội ngũ Luật sư; hoàn thiện thể chế về luật sư và

hành nghề luật sư. Bên cạnh đó, hiện nay, Học viện Tư pháp là cơ sở duy nhất

đào tạo nghề luật sư. Trong khi đó, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã thành lập

và đang từng bước để khẳng định vị trí của mình. Theo học viên, cần mở rộng

cơ sở đào tạo luật sư không chỉ tập trung tại Học viện tư pháp mà còn mở

rộng ra cả Liên đoàn Luật sư Việt Nam và một số các cơ sở đào tạo uy tín

khác trên các tỉnh có nhiều luật sư hoạt động. Theo quy định của pháp luật về

luật sư thì thời hạn đào tạo luật sư hiện nay là 12 tháng đảm bảo cập nhật đầy

đủ lượng kiến thức cho học viên tham gia khóa đào tạo nghiệp vụ luật sư. Và

như hiện nay, thời gian tập sự luật sư cũng là 12 tháng. Theo học viên nhận

thấy, thời gian tập sự luật sư cần phải tăng thêm thành 18 tháng hoặc 24 tháng

69

nhằm đảm bảo cho phép những người tập sự luật sư có thể tham dự các phiên

toà tranh tụng và chuẩn bị các tài liệu, hồ sơ phục vụ tranh tụng tại các phiên

toà. Bởi việc tập sự 12 tháng nhiều khi lượng công việc nhiều và quá trình

tham gia giải quyết các vụ án kéo dài thì không đảm bảo cho người tập sự

tham gia hết được các vụ án, chưa đúc kết được nhiều kinh nghiệm thực tiễn.

Do đó, học viên đề xuất tăng thời gian tập sự hành nghề luật sư. Chỉ có như

vậy mới có thể đào tạo được đội ngũ luật sư có đủ số lượng và ngày càng

nâng cao về chất lượng, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ bào chữa trong

tổ tụng hình sự.

Thứ hai, cần phải có cơ chế bắt buộc luật sư phải thường xuyên cập

nhật kiến thức pháp luật và được bồi dưỡng nghiệp vụ, kiểm tra giám sát về

đạo đức nghề nghiệp để có thể đáp ứng yêu cầu thực tiễn thực hiện nhiệm vụ

bào chữa cho bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Việc cập

nhật kiến thức pháp luật và được bồi dưỡng nghiệp vụ, kiểm tra giám sát về

đạo đức nghề nghiệp của luật sư cần được giao cho Liên đoàn luật sư Việt

Nam và các đoàn luật sư tại các tỉnh thành trên cả nước. Đây là việc làm cần

thiết và phải được làm thường xuyên theo từng năm để nâng cao trình độ

nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cho luật sư. Bên cạnh đó, thông qua hoạt

động này cũng nhằm thanh loại và đưa ra khỏi đội ngũ luật sư những người

không đủ năng lực, trình độ, đạo đức nhằm xây dựng đội ngũ luật sư có đủ

phẩm chất đạo đức, trình độ theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ

Chính trị: “Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất

chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn”. Chỉ có như vậy mới có thể xây

dựng được đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức

danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và

cụ thể hoá tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ

70

và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ; tiến tới thực hiện

chế độ thi tuyển với một số chức danh.

Thứ ba, để tăng cường về số lượng đội ngũ luật sư trên thực tiễn, cần

phải ban hành chính sách thu hút nguồn nhân lực tham gia hoạt động hành

nghề luật sư; có phương thức cung cấp thông tin và tiếp cận thông tin dễ

dàng, thuận lợi giữa công dân, cơ quan, tổ chức với tổ chức, hoạt động luật

sư; có chính sách ưu đãi đối với tổ chức, hoạt động luật sư ở các địa phương;

nâng cao vị thế, vai trò của đội ngũ luật sư trong việc tham gia hoạch định

chính sách, xây dựng, giám sát thực thi pháp luật, thực hiện trách nhiệm xã

hội, góp phần bảo đảm thực hiện chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của công dân, cơ quan, tổ chức, bảo vệ công lý, xây dựng xã hội dân chủ,

công bằng, văn minh; đồng thời về chế độ đãi ngộ đối với luật sư, nhất là luật

sư chỉ định cần được quan tâm; cho phép người tập sự hành nghề luật sư được

tham gia một số hoạt động tố tụng hình sự dưới sự kèm cặp, giám sát của luật

sư hướng dẫn để tránh tình trạng thiếu vắng việc thực hành kỹ năng thực tế

trong quá trình tập sự…

Thứ tư, cần tăng cường hiệu quả công tác quản lý về luật sư và hành

nghề luật sư, nâng cao năng lực bộ máy cơ quan quản lý nhà nước, đội ngũ

cán bộ tư pháp thực hiện công tác quản lý luật sư và hành nghề luật sư; có

chính sách kích thích nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của cá nhân, cơ quan,

tổ chức. Ngoài ra, cần phải có kế hoạch thanh tra, kiểm tra giám sát hoạt động

của các tổ chức hành nghề luật sư tại đoàn luật sư các tỉnh thành. Cần có biện

pháp, chế tài cụ thể khi kiểm tra phát hiện thấy có những luật sư vi phạm đạo

đức nghề nghiệp hoặc không đủ trình độ, năng lực, hoặc thiếu trách nhiệm

trong thực hiện nhiệm vụ bào chữa... Một trong những hình thức xử lý

nghiêm khắc đó là tước giấy phép hành nghề của luật sư có hành vi vi phạm

71

nhằm tránh để luật sư đó có hành vi ảnh hưởng đến toàn thể đội ngũ luật sư và

ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án.

3.5. Tăng cường tuyên truyền giáo dục pháp luật

Việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật là một trong những

phương pháp hiệu quả để nâng cao nhận thức cho người dân về kiến thức

pháp luật nói chung, trong đó có quy định về bào chữa trong tố tụng hình sự.

Qua đó giúp cho người dân tự ý thức và tuân thủ pháp luật, tự mình bảo vệ

những lợi ích chính đáng của bản thân và lợi ích chung của xã hội, đồng thời

giúp cơ quan tiến hành tố tụng nhanh chóng phát hiện và có biện pháp xử lý

kịp thời đối với những hành vi phạm tội. Việc tuyên truyền pháp luật về quy

định bào chữa trong tố tụng hình sự là cách tốt nhất để trang bị cho người bị

buộc tội những phương tiện, biện pháp giúp họ bảo vệ mình trước nguy cơ bị

xâm phạm hoặc đe dọa bị xâm phạm các quyền tố tụng từ phía những người

tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng; cho họ nhận thức được họ có thể

tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp

của mình.

Bên cạnh đó, cần xây dựng thói quen sống và làm việc theo pháp luật

của công dân; nâng cao trình độ dân trí; phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp

hoặc thông qua phương tiện thông tin đại chúng bằng các hình thức đơn giản,

dễ tiếp cận, lôi cuốn được sự chú ý của nhiều người như xây dựng những bộ

phim trong đó đề cao vai trò của luật sư bảo vệ có hiệu quả cho người bị

buộc.

72

Tiểu kết chương 3

Từ thực trạng được phân tích tại chương 2 của luận văn, học viên đã

chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại, trên cơ sở đó,

tại chương 3 của luận văn học viên đã đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm

nâng cao địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự, cụ thể là các giải

pháp sau: Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về địa vị pháp lý của luật sư;

quy định về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố

tụng; Tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng đội ngũ luật sư;

Tăng cường tuyên truyền giáo dục pháp luật;... Đặc biệt, học viên nhấn mạnh

vào các biện pháp nhằm nâng cao địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình

sự, đó là: cần phải hoàn thiện quy định của pháp luật về các quyền và nghĩa

vụ của luật sư nhằm bảo đảm pháp lí để thực hiện nghiêm chỉnh quy định về

địa vị pháp lí của luật sư trên thực tiễn, đồng thời phải đẩy mạnh chủ trương

tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng đội ngũ luật sư nhằm đảm

bảo nguồn nhân lực đáp ứng thực hiện tham gia hoạt động tố tụng của luật sư

đồng thời làm cơ sở phát huy tốt nhất địa vị pháp lý của người luật sư trong tố

tụng hình sự.

73

KẾT LUẬN

Địa vị pháp lí của Luật sư trong tố tụng hình sự Việt Nam là tổng thể

những quyền năng và nghĩa vụ pháp lí của người luật sư theo pháp luật tố

tụng hình sự. Trong những năm gần đây, địa vị pháp lí của luật sư ngày càng

được nhìn nhận đúng mực hơn, vì thế, vị thế của người luật sư ngày càng

được nâng cao hơn và đóng vai trò quan trọng trong hoạt động tố tụng. Trong

tố tụng hình sự, vai trò của luật sư được thể hiện trước hết ở việc bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, người bị tạm giam, tạm giữ.

Trong mỗi vụ án hình sự, có sự tham gia của Luật sư đã góp phần bảo đảm

tính chính xác, khách quan trong quá trình giải quyết vụ án bên cạnh đó, bảo

đảm cho quá trình tố tụng diễn ra khách quan, dân chủ, công bằng.

Địa vị pháp lý của luật sư được thể hiện qua từng giai đoạn điều tra,

truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên, trong luận văn này, học

viên chỉ phân tích địa vị pháp lý của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm từ

thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Ninh. Từ việc phân tích

tình hình thực tiễn, nhận thấy hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn

xét xử sơ thẩm hiện nay thực sự mang lại hiệu quả, do đó, vị thế của người

luật sư ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt

được thì vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, vướng mắc. Những tồn tại, hạn chế

này đều xuất phát từ nguyên nhân chủ quan là từ phía đội ngũ Luật sư và

nguyên nhân khách quan là từ phía CQTHTT và từ quy định của pháp luật...

Trước tình hình đó, học viên đã đề xuất một số kiến nghị và giải pháp

nhằm nâng cao địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự: Hoàn thiện hệ

thống pháp luật hình sự về địa vị pháp lý của luật sư; quy định về trách nhiệm

của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng; Tăng cường về số

lượng và nâng cao về chất lượng đội ngũ luật sư; Tăng cường tuyên truyền

giáo dục pháp luật;... Học viên hy vọng rằng đây sẽ là những giải pháp hữu

74

hiệu góp phần nâng cao địa vị pháp lý của luật sư nếu được triển khai áp dụng

trên thực tiễn.

75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo tổng số vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh năm

2015.

2. Báo cáo tổng số vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh năm

2016.

3. Báo cáo tổng số vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh năm

2017.

4. Báo cáo tổng số vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh năm

2018.

5. Báo cáo tổng số vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh năm

2019.

6. Bản án xét xử hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thị Tuyết Th phạm tội “Lừa

đảo chiếm đoạt tài sản” – tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh.

7. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005

của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

8. Bộ Tư pháp (2010), Quy chế tập sự hành nghề luật sư – Ban hành kèm theo

Thông tư số 21/2010/TT-BTP ngày 01/12/2010 của bộ trưởng bộ tư

pháp, Hà Nội.

9. Bộ Tư pháp (2013), Thông tư số 19/2013/TT-BTP ngày 28 tháng 11 năm

2013 của Bộ Tư pháp hướng dẫn tập sự hành nghề luật sư.

10. Chính phủ (2009), Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 Quy

định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp, Hà Nội.

11. Chính phủ (2013), Nghị định 123/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số

điều và biện pháp thi hành luật luật sư, Hà Nội.

76

12. Đỗ Đình Nghĩa, “Địa vị pháp lý của người bào chữa trong Luật tố tụng

hình sự Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn tiến sĩ

Luật học.

13. Đỗ Ngọc Thi ̣nh (2011), Những vấn đề chung trong quy tắc đạo đức và

ứng xử nghề nghiệp luật sư, Tài liệu Khoá bồi dưỡng Quy tắc đạo đức

và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, Trọng tài thương mại và kỹ

năng tham gia vụ án hình sự, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Hà Nội.

14. Giáo trình Luật sư và nghề luật sư, Học viện tư pháp.

15. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội,

NXB Tư pháp;

16. Hồ sơ lưu vụ án Phạm Minh Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”,

Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh.

17. Học viện Tư pháp (2011), Giải pháp đào tạo luật sư phục vụ hội nhập

kinh tế quốc tế, Đề tài khoa học cấp cơ sở.

18. Lê Văn Cao (2010), Nghề luật sư ở Việt Nam - Thực trạng và giải

pháp,Tiểu luận môn học, Học viện Tư pháp, Hà Nội.

19. Ngô Thị Ngọc Vân, Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luật án tiến sĩ luật học trường Đại học luật Hà

Nội năm 2016.

20. Nguyễn Ngọc Khanh, Nâng cao vị thế của người bào chữa tại phiên tòa

hình sự, Tạp chí Luật học, Số 7/2008;

21. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá

thông tin, Hà Nội.

77

22. Nguyễn Như Chính (2011), Pháp luật về dịch vụ thương mại pháp lý –

những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sỹ luật học. Trường Đại

học Luật Hà Nội.

23. Nguyễn Sỹ Giao (2011), Vai trò của luật sư trong quá trình giải quyết

khiếu nại hành chính hiện nay, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Viện khoa học

Thanh tra

24. Phan Đăng Thanh – Trương Thị Hòa, Lịch sử nghề luật sư ở Việt Nam,

Nxb. Tổng hợp, TP. Hồ Chí Minh;

25. Phan Trung Hoài (2008), Bàn về khái niệm và đặc điểm nghề luật sư, Tạp

chí khoa học pháp lý số 7/2008, Thành phố Hồ Chí Minh

26. PGS.TS Nguyễn Hòa Bình, Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2015 (sách chuyên khảo), Nxb. Chính trị quốc gia, năm

2016.

27. Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam của Liên Đoàn

luật sư Việt Nam;

28. Quốc hội (2006), Luật Luật sư;

29. Quốc hội (2012), Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012;

30. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự;

31. Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng, Bình luận khoa học BLTTHS 2015,

Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2016;

32. Trần Văn Bảy (2001), Người bào chữa trong tố tụng hình sự, Tạp chí

khoa học pháp luật;

33. Viện khoa học pháp lý, Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm

2003, NXB. Tư pháp, Hà Nội, 2005;

78

34. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa

và Nxb Tư pháp, Hà Nội.

35. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, “Pháp lệnh luật sư năm 2001”, số

37/2001/UB-TVQH10

36. https://vi.wikipedia.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt_s%C6%B0

37. http://snv.bacninh.gov.vn/news/-/details/57424/cong-an-tinh-trien-khai-

nhiem-vu-nam-2019

38. http://baobacninh.com.vn/web/bbn/chi-tiet-an-ninh-va-quoc-phong/-

/details/20182/cong-an-tinh-so-ket-cong-tac-6-thang-au-nam-2019

39. http://lsvn.vn/luat-su-va-cong-dong/hoat-dong-luat-su/luat-su-nguyen-the-

uyen-tiep-tuc-duoc-bau-lam-chu-nhiem-doan-luat-su-tinh-bac-ninh-

31261.html

79