Luận văn Thạc sĩ ngành Quốc tế học: Hợp tác văn hoá Việt Nam-ASEAN từ 1995 đến nay
lượt xem 11
download
Mục đích của đề tài là tìm hiểu phân tích, sau hơn 10 năm quan hệ văn hóa Việt Nam-ASEAN đạt được những thành tựu và gặp trở ngại gì. Mối quan hệ này chính thức và bình đẳng, tự chủ từ năm 1995 nhưng do lịch sử để lại, Việt Nam vốn thuộc cơ tầng văn hóa Đông Nam Á nên mang nhiều giá trị văn hóa của khu vực Đông Nam Á. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ ngành Quốc tế học: Hợp tác văn hoá Việt Nam-ASEAN từ 1995 đến nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN HÀ NỘI ----------------------------------------------- PHẠM ĐÌNH THẮNG HỢP TÁC VĂN HOÁ VIỆT NAM - ASEAN TỪ 1995 ĐẾN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÀNH QUỐC TẾ HỌC Hà Nội - 2008
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN HÀ NỘI ----------------------------------------------- PHẠM ĐÌNH THẮNG HỢP TÁC VĂN HOÁ VIỆT NAM - ASEAN TỪ 1995 ĐẾN NAY Chuyên ngành : Quan hệ quốc tế Mã số : 60.31.40 LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÀNH QUỐC TẾ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Ngô Văn Doanh Hà Nội - 2008
- Các chữ viết tắt AC : ASEAN Community Cộng đồng ASEAN ACC : ASEAN Socio-Cultural Community Cộng đồng Văn hóa Xã hội ACF : ASEAN Cultural Fund Quỹ Văn hóa ASEAN AEC : ASEAN Economic Community Cộng đồng Kinh tế AFTA : ASEAN Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do ASEAN AMCA : ASEAN Ministers Responsible for Culture and Arts Hội nghị Bộ trưởng phụ trách Văn hoá và Nghệ thuật ASEAN AMM : ASEAN Ministerial Meeting Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN AMRI : ASEAN Ministers Responsible for Information Hội nghị Bộ trưởng Thông tin ASEAN ARF : ASEAN Regional Forum Diễn đàn khu vực ASEAN ASC : ASEAN Standing Committee Ủy ban Thường trực ASEAN ASC : ASEAN Security Community Cộng đồng An ninh ASEAN-COCI : ASEAN Committee on Culture and Information Ủy ban Văn hóa-Thông tin ASEAN
- ASEAN : Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á CEPT : Agreement On The Common Effective Preferential Tariff Chương trình thuế quan ưu đãi hiệu lực chung COC : Code of Conduct for South China Sea Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông IAI : Initiative for ASEAN Integration Sáng kiến liên kết ASEAN SCC : ASEAN Sub Committee on Culture Tiểu ban Văn hóa SCI : ASEAN Sub Committee on Information Tiểu ban Thông tin SOM : Senior Officials Meeting Hội nghị Viên chức Cấp cao SEANWFZ : Southeast Asia Nuclear Weapon Free Zone Khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân TAC : Treaty of Amity and Cooperation in Southeast Asia Hiệp ước thân thiện và hợp tác ZOPFAN : Zone of Peace, Freedom and Neutrality Khu vực hòa bình tự do trung lập
- MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu.............................................................................. 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 3 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ........................................ 3 5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 4 6. Dư kiến đóng góp của đề tài ................................................................... 4 7. Cấu trúc của đề tài nghiên cứu gồm có 3 phần thuộc 3 chương .............. 5 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VĂN HOÁ KHU VỰC ĐÔNG NAM Á .......... 6 1. Khái niệm văn hóa .................................................................................. 6 2. Văn hóa bản địa Đông Nam Á ................................................................ 9 3. Ảnh hưởng văn hoá Ấn Độ ................................................................... 13 3.1. Sự có mặt của Ấn Độ giáo ............................................................. 13 3.2. Sự có mặt của Phật giáo Tiểu thừa ................................................ 15 4. Ảnh hưởng văn hoá Trung Quốc .......................................................... 19 4.1. Sự ảnh hưởng của Nho giáo ........................................................... 21 4.2. Sự có mặt của Phật giáo Đại thừa .................................................. 23 CHƯƠNG 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VÀ NGUYÊN TẮC HỢP TÁC VĂN HOÁ VIỆT NAM-ASEAN NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ 21 ................................................ 26 1. Những vấn đề đặt ra cho ASEAN và Việt Nam .................................... 26 2. Nguyên tắc chung trong hợp tác văn hóa Việt Nam-ASEAN ................ 30 2.1. Thống nhất trong đa dạng .............................................................. 30 2.2. Tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ ....................................................................................... 32 3. Quá trình phát triển hợp tác văn hóa ASEAN ...................................... 33
- 3.1. Lịch sử phát triển và hợp tác văn hóa-thông tin ASEAN ............... 33 3.2. Một số lĩnh vực hợp tác văn hoá ASEAN tới đây .......................... 38 3.2.1. Hợp tác phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh văn hoá ... 38 3.2.2. Phát triển doanh nghiệp sản xuất sản phẩm văn hoá có quy mô vừa và nhỏ ........................................................................................ 39 3.2.3. Tăng cường, đẩy mạnh hợp tác song phương ASEAN ............. 40 3.2.4. Tăng cường liên kết, hợp tác văn hoá với các nước đối thoại của ASEAN ...................................................................................... 41 4. Quá trình phát triển quan hệ văn hoá Việt Nam-ASEAN ..................... 42 CHƯƠNG 3. NHỮNG DẤU MỐC VÀ THÀNH TỰU BAN ĐẦU TRONG QUAN HỆ VĂN HÓA VIỆT NAM-ASEAN......................................................................................47 1. Những dấu mốc hợp tác văn hoá........................................................... 47 2. Hợp tác văn hóa-thông tin Việt Nam-ASEAN ...................................... 54 3. Một số thành tựu ban đầu ..................................................................... 58 3.1. Hợp tác trong lĩnh vực văn hóa và nghiên cứu về ASEAN ........... 59 3.2. Hợp tác trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn và trưng bày .............. 61 3.3. Hợp tác trong lĩnh vực thông tin .................................................... 62 3.4. Hợp tác song phương với các nước ASEAN ................................. 66 KẾT LUẬN.................................................................................................... 71
- Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế Phạm Đình Thắng PHẦN MỞ ĐẦU 1, Tính cấp thiết của đề tài: Đông Nam Á trong lịch sử vốn là một khu vực từng bị chia rẽ bởi hệ tư tưởng, sự nghi kỵ và cả chiến tranh. Đã có lúc khu vực này được ví như “Thùng thuốc súng” của Châu Á. Ngày nay, 11 quốc gia trong khu vực Đông Nam Á đã liên kết thành một hiệp hội ASEAN và hướng tới hình thành cộng đồng ASEAN với ba “trụ cột” chính vào năm 2015: Cộng đồng Anh ninh- Chính trị, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hoá Xã hội (Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ IX họp tại Bali (Indonesia) tháng 10/2003, những người đứng đầu chính phủ và quốc gia thuộc ASEAN đã nhất trí thông qua Tuyên bố hoà hợp Bali II). Hướng đi của ASEAN là trở thành một tập thể hoà hợp các quốc gia Đông Nam Á gắn bó với nhau thông qua quan hệ đối tác trong sự phát triển năng động và trong một cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn nhau; cam kết gìn giữ sự đa dạng văn hoá và hoà hợp xã hội. Các nước ASEAN đang được đánh giá là một trong những khu vực phát triển năng động nhất thế giới. Tính tới ngày 6/3/2008, Việt Nam là thành viên thứ 5 (sau Singapore, Bruney, Malaysia, Lào, Campuchia) phê chuẩn Hiến chương ASEAN. Ngày 15/12/2008, Hiến chương ASEAN chính thức có hiệu lực sau khi được Ngoại trưởng các nước thành viên thông qua tại cuộc họp diễn ra tại trụ sở của Ban Thư ký ASEAN (Thủ đô Jakarta, Indonesia). Sự ra đời của Hiến chương ASEAN được xem như một bước tiến quan trọng: Thông qua Hiến chương này, tất cả các nguyên tắc, luật lệ và hành xử của ASEAN từ trước tới nay được cập nhật và pháp điển hoá một cách có hệ thống trong một văn kiện pháp lý (Trước khi có Hiến chương, ASEAN hoạt 1
- Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế Phạm Đình Thắng động trên cơ sở văn kiện chính trị nền là Tuyên bố Băng Cốc ra đời ngày 8/8/1967). Đây là một dấu mốc thể hiện quyết tâm của các nước thành viên ASEAN để hình thành cộng đồng ASEAN với ba trụ cột. Trong 3 trụ cột, cộng đồng văn hoá xã hội được đánh giá đóng vai trò quan trọng hàng đầu bởi đặc tính liên kết sâu sắc. Đặc điểm của văn hoá Đông Nam Á là tương đồng trong đa dạng. Do nằm ở vị trí giữa hai nền văn minh lớn-đồng thời là hai trung tâm kinh tế lớn là Ấn Độ và Trung Quốc, nên Đông Nam Á đã sớm hình thành điểm đến và hình thành trung tâm truyền tải các giá trị văn hoá của thế giới Phương Đông. Việt Nam là quốc gia trong khu vực Đông Nam Á nên cũng mang những nét đặc trưng của khu vực. Có thể khẳng định rằng, sự hợp tác trong lĩnh vực văn hoá giữa Việt Nam và ASEAN tạo đà phát triển cho các lĩnh vực hợp tác khác, cũng như góp phần không nhỏ trong việc hình thành cộng đồng văn hoá xã hội ASEAN. Xuất phát từ tầm quan trọng đó, tác giả đã lựa chọn để tài này nhằm đánh giá những thành tựu đạt được trong quan hệ hợp tác về văn hoá giữa Việt Nam và ASEAN trong 10 năm trở lại đây. Từ những nghiên cứu đánh giá này, tác giả đề xuất một số định hướng hợp tác về văn hoá nói riêng và các lĩnh vực khác như kinh tế; an ninh, chính trị. 2, Tình hình nghiên cứu: Đây là vấn đề mới và đang diễn ra, nên hầu như trong nước và quốc tế chưa có một công trình nào tổng hợp hoặc nghiên cứu một cách hoàn chỉnh; ngoài những bài viết nhỏ trên các báo, tạp chí nghiên cứu chuyên ngành hoặc lồng ghép vào các vấn đề khác trong những nghiên cứu về ASEAN. Trong khi đó, Việt Nam là nước đề xuất ý tưởng hình thành cộng đồng văn hoá-xã hội-một trong ba trụ cột chính hình thành Cộng đồng ASEAN. 2
- Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế Phạm Đình Thắng Đề tài nghiên cứu tập trung chủ yếu vào cơ sở hình thành văn hoá Đông Nam Á; hợp tác văn hoá giữa Việt Nam và ASEAN từ sau khi Việt nam gia nhập ASEAN; tác giả có xu hướng nghiên cứu vai trò quan trọng của hợp tác văn hoá như một mối quan hệ nền tảng tạo đà thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác khác. Đặc biệt, tác giả hướng đề tài gắn với việc hình thành một trong 3 cộng đồng chính để hình thành cộng đồng ASEAN: Đó là Cộng đồng Văn hoá. Đánh giá sự hợp tác văn hoá giữa Việt Nam và ASEAN như bước chuẩn bị đóng góp cho việc hình thành cộng đồng này vào năm 2015. Với lý do đó, đề tài này vừa có ý nghĩa khoa học, vừa mang ý nghĩa thực tiễn phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay. 3, Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: Mục đích của đề tài là tìm hiểu phân tích, sau hơn 10 năm quan hệ văn hóa Việt Nam-ASEAN đạt được những thành tựu và gặp trở ngại gì. Mối quan hệ này chính thức và bình đẳng, tự chủ từ năm 1995 nhưng do lịch sử để lại, Việt Nam vốn thuộc cơ tầng văn hóa Đông Nam Á nên mang nhiều giá trị văn hóa của khu vực Đông Nam Á. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng mang nhiều giá trị của cơ tầng văn hóa Đông Á. Từ những giá trị này, tác giả tìm hiểu và đánh giá quá trình quan hệ Việt Nam-ASEAN từ năm 1995 đến nay có đóng góp như thế nào cho đất nước nói riêng và ASEAN nói chung. Từ đây đưa ra một số đề xuất, dự báo cho mối quan hệ này phát triển trong thời gian tới. 4, Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cở sở hình thành nét đặc trưng văn hoá Đông Nam Á, một số hoạt động hợp tác văn hoá song phương và đa phương giữa Việt Nam và ASEAN. 3
- Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế Phạm Đình Thắng Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ giới hạn từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN (1995) tới nay. Bởi vì, trước thời điểm này, quan hệ hợp tác Việt Nam-ASEAN hình thành dưới góc độ tự nhiên như bị ảnh hưởng qua quá trình giao thương hoặc bị cưỡng bức văn hóa. Từ sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN, mối quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN chủ động và bình đẳng, tiến tới mục đích hòa hợp và thịnh vượng chung cho khu vực. 5, Phƣơng pháp nghiên cứu: - Đề tài nghiên cứu dựa trên Chủ nghĩa Duy vật biện chứng, đồng thời dựa trên những quan điểm và đường lối của Đảng và Nhà nước ta. - Sử dụng phương pháp phân tích chọn lọc, so sánh, đối chiếu và tổng hợp vấn đề. - Kết hợp phương pháp lịch sử lô-gích, cụ thể và khái quát. 6, Dự kiến đóng góp của đề tài: ASEAN được ví như “sân chơi” nhỏ để Việt Nam tạo lập các mối quan hệ ra với thế giới. Bản thân các nước ở khu vực Đông Nam Á đã chứa đựng nhiều điểm khác biệt về văn hóa, chính trị, kinh tế… Sự “cọ xát” ở một “sân chơi” mang tính khu vực sẽ giúp cho Việt Nam có thêm nhiều quan hệ, hơn nữa, ASEAN là một tổ chức mở khi có ASEAN cộng (+) nên từ đây vị thế của Việt Nam được nâng lên. Đề tài này chỉ nghiên cứu mối quan hệ văn hóa Việt Nam-ASEAN giai đoạn từ 1995 đến này (hơn 10 năm). Giai đoạn này ngắn nhưng là bước đầu Việt Nam tự chủ trong hợp tác văn hóa với ASEAN, với các nước thành viên ASEAN. Đây có thể xem như đánh giá một giai đoạn quan hệ văn hóa ở thời kỳ đương đại. Sự đánh giá, phân tích này sẽ gợi mở 4
- Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế Phạm Đình Thắng một hướng hợp tác hoàn thiện hơn cho Việt Nam với ASEAN trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự bùng nổ của công nghệ thông tin. Hơn nữa, nghiên cứu này đóng góp phần nào cho những nhà quản lý văn hóa cập nhật thêm thông tin tình hình hiện tại để có phương sách kịp thời khi tiến hành các hoạt động hợp tác văn hóa-thông tin với ASEAN. 7, Cấu trúc của đề tài nghiên cứu gồm có 3 phần thuộc 3 chƣơng: Chƣơng 1: Cở sở hình thành văn hoá khu vực Đông Nam Á Chƣơng 2: Một số vấn đề và nguyên tắc hợp tác văn hoá Việt Nam- ASEAN những năm đầu thế kỷ 21 Chƣơng 3: Hợp tác văn hoá Việt Nam-ASEAN từ 1995 đến nay 5
- Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế Phạm Đình Thắng CHƢƠNG 1 CƠ SỞ HÌNH THÀNH VĂN HOÁ KHU VỰC ĐÔNG NAM Á 1, Khái niệm văn hóa Trong tiếng Việt, văn hoá là danh từ có một nội hàm ngữ nghĩa khá phong phú và phức tạp. Người ta có thể hiểu văn hoá như một hoạt động sáng tạo của con người, nhưng cũng có thể hiểu văn hoá như là lối sống, thái độ ứng xử, lại cũng có thể hiểu văn hoá như trình độ học vấn. Ở phương Tây, từ văn hoá xuất hiện khá sớm trong đời sống ngôn ngữ. Nhà ngôn ngữ học người Đức W. Wundt cho rằng, Văn hoá là một từ có nguồn gốcLatinh: Colere, sau thành Cultura, nghĩa là cày cấy, gieo trồng. Từ nghĩa này, sau đó phát triển rộng hơn là sự hoàn thiện, vun trồng tinh thần, trí tuệ. Ở Trung Quốc, từ văn hoá được cho là xuất hiện từ thời Tây Hán (206 trước công nguyên - 25 năm sau công nguyên). Theo đó, sách Thuyết Uyển bài Chỉ Vũ có viết: “Thánh nhân cai trị thiên hạ, trước dùng văn đức rồi sau mới dùng vũ lực. Phàm dùng vũ lực là để đối phó kẻ bất phục tùng, dùng văn hoá không thay đổi được thì sau đó sẽ chinh phạt”. Theo cách hiểu này thì văn hoá là một cách giáo hoá đối lập với vũ lực. Mặc dù có mặt sớm trong đời sống ngôn ngữ phương Tây cũng như phương Đông nhưng phải đến thế kỷ XVIII, từ văn hoá mới được sử dụng như thuật ngữ khoa học. Năm 1774, từ này mới được xuất hiện trong thư tịch và năm 1783 từ điển ở Đức ghi có từ này. Nhiều giả thiết cho rằng, người đầu tiên sử dụng từ văn hoá trong khoa học là Pufendorf (Đức). Ông cho rằng, văn hoá là toàn bộ những gì được tạo ra do hoạt động xã hội, đối lập với trạng thái tự nhiên. Sau này, nhà triết học Herder (1744 - 1803), cho rằng: Văn hoá là sự hình thành lần thứ hai của con người. Theo ông, lần thứ nhất, con người xuất hiện với tư cách là một thực thể sinh vật tự nhiên; lần thứ hai hình thành như một thực thể xã hội, tức là một nhân cách văn hoá. 6
- Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế Phạm Đình Thắng Đến năm 1855, học giả Klemm công bố công trình Khoa học chung về văn hoá, người ta mới coi khoa học về văn hoá hình thành và thực sự phát triển. Năm 1871, E.B.Tylor công bố công trình Văn hoá nguyên thuỷ ở Lôn Đôn (Anh). Từ sự kiện này, ngành khoa học về văn hoá mới chính thức được khẳng định bởi E.B.Tylor đã xác lập được đối tượng nghiên cứu của ngành văn hoá học. Ông đã đưa ra định nghĩa văn hóa. Theo ông, văn hóa là một phức thể bao gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và mọi khả năng, thói quen mà con người với tư cách là thành viên xã hội, đạt được. Từ đây, khái niệm văn hoá được nhiều người đề cập. Năm 1952, trong công trình Văn hoá: Tổng luận phê phán các quan niệm và định nghĩa (Culture: A critical review of Concepts and definitions), hai nhà khoa học Mỹ là A.L.Kroeber và A.C.Kluckhohn đã thống kê và phân tích tới 164 định nghĩa về văn hoá, trong đó có 7 định nghĩa ra đời từ năm 1919 đến 1952. Năm 1967, nhà văn hoá học người Pháp Abraham Moles lại đưa ra 250 định nghĩa. Tại Hội nghị thế giới về chính sách văn hoá vì sự phát triển (ở Mehico) đã thông qua Tuyên bố ngày 6/8/1982 về chính sách văn hoá: Theo nghĩa rộng, ngày nay văn hoá có thể được coi là toàn bộ các đặc tính đặc biệt về tâm hồn, vật chất, trí tuệ và tình cảm đặc trưng cho một xã hội hay một nhóm xã hội. Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật và văn học, mà cả lối sống, các quyền cơ bản của nhân loại, các hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng. Việc có quá nhiều khái niệm khác nhau về văn hóa là do cách tiếp cận các nhà khoa học. Căn cứ vào cách tiếp cận, GS.TS Hoàng Vinh đã quy về 12 nhóm định nghĩa về văn hoá.. PGS, TSKH Trần Ngọc Thêm chia ra hai loại: Định nghĩa miêu tả và định nghĩa nêu đặc trưng. Trong loại định nghĩa nêu đặc trưng, ông lại chia ra 3 khuynh hướng: khuynh hướng coi văn hoá là kết quả (sản phẩm) nhất định; văn hoá như những quá trình; văn hoá như những quan hệ, những cấu trúc.. Nhìn chung, mọi định nghĩa đều thống nhất văn hoá có các đặc điểm sau: 7
- Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế Phạm Đình Thắng - Văn hoá là sáng tạo của con người, thuộc về con người, những gì không do con người làm nên không thuộc về khái niệm văn hoá. Từ đó, văn hoá là đặc trưng căn bản phân biệt con người với động vật, đồng thời cũng là tiêu chí căn bản phân biệt sản phẩm nhân tạo với sản phẩm tự nhiên. Văn hoá xuất hiện do sự thích nghi một cách chủ động và có ý thức của con người với tự nhiên, nên văn hoá cũng là kết quả của sự thích nghi ấy. - Sự thích nghi này là có ý thức và chủ động nên có sáng tạo, phù hợp với giá trị chân - thiện - mỹ. - Văn hoá bao gồm cả những sản phẩm vật chất và tinh thần. - Văn hoá không chỉ có nghĩa là văn học nghệ thuật như thông thường. Theo đó, văn học nghệ thuật là bộ phận cao nhất trong lĩnh vực văn hoá. Đông Nam Á là một khu vực có yếu tố địa lý đặc biệt. Khu vực này vừa có hải đảo, vừa có lục địa, nằm rải một vòng nhưng lọt giữa hai trung tâm văn hóa lớn là Ấn Độ và Trung Quốc. Trước khi có sự tiếp biến văn hóa với Ấn Độ và Trung Quốc, khu vực này đã có nền văn hóa riêng, đậm nét bản địa. Những yếu tố địa lý quan trọng ở Đông Nam Á: Ở Đông Nam Á có những yếu tố địa lý quan trọng là đất, sông, biển, gió mùa, khí hậu nhiệt đới. Năm yếu tố này tạo nên đặc điểm chung của văn hoá vùng. Đất đai ở Đông Nam Á do có nhiều mưa, nắng nên thích hợp với nông nghiệp, đặc biệt là cây lúa nước. Vùng đất ở khu vực này không có đồng cỏ nên chỉ có chăn nuôi nhỏ, ngoài ra chủ yếu là đất đai để trồng trọt. Sông nước có một vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống của cư dân Đông Nam Á. Con nguời thường sinh sống gần sông suối vì đây là nơi có thể trồng trọt, canh tác. Hai bên các con sông lớn thường phát hiện thấy các di chỉ của người xưa. Sông cũng là đường giao thông quan trọng ở Đông Nam Á và thuyền là phương tiện đi lại chủ yếu của cư dân. Lịch sử cho thấy, các cư dân Đông Nam Á không biết tạo ra bánh xe [4, tr.33]. 8
- Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế Phạm Đình Thắng Biển ở Đông Nam Á rộng nên các cư dân ven biển đều thạo nghề đi biển. Cư dân Đông Nam Á vùng biển có diện phân bố rộng lớn, và sớm có điều kiện tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế trên biển giữa Đông- Tây. Ở Đông Nam Á chỉ duy nhất có nước Lào là không có biển. Gió mùa là loại thổi theo hai chiều ngược nhau. Gió này cũng tạo thành mùa mưa tập trung, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Điều quan trọng nữa là, gió mùa tạo nên sức đẩy cho thuyền buồm đi lại theo mùa trên biển và tạo thành hai mùa mưa, nắng rõ rệt ở Đông Nam Á. Điều nổi bật nhất của gió mùa là một trong những yếu tố tạo nên sự tiếp biến văn hóa trong khu vực. Điều kiện nóng ẩm, mưa nhiều và gió mùa là hằng số tự nhiên của văn hóa Đông Nam Á và chính nó đã góp phần tạo nên đặc trưng văn hóa khu vực này-Nền văn minh thực vật hay nền văn minh lúa nước. 2, Văn hóa bản địa Đông Nam Á Văn hóa bản địa là văn hóa có nguồn gốc tại chỗ, do cư dân tại chỗ sáng tạo ra. Văn hóa Đông Nam Á tiếp xúc sớm nhất với văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa vào thời kỳ đầu Công nguyên. Phần lớn các nước Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, riêng Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Căn cứ vào thời điểm lịch sử, nhiều học giả đã xem văn hóa bản địa Đông Nam Á là văn hóa trước Ấn trước Hoa. Trong xu hướng toàn cầu hóa, sự giao thoa văn hóa rộng rãi đã có lúc, những người trẻ khó nhận ra những nét đặc trưng của văn hóa bản địa Đông Nam Á. Các nhà khoa học thường dựa vào khảo cổ, văn bản và tư liệu cổ, những tàn tích và di sản để lại...để nhận biết văn hóa bản địa: Khảo cổ: Qua khai quật những di sản trong lòng đất, các nhà khoa học có thể biết được văn hóa cổ xưa của Đông Nam Á trước Ấn, trước Hoa. Ở Việt Nam, các hiện vật đồ đồng của nền văn hóa Đông Sơn, những mộ chum của nền văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam, hay những hiện vật của 9
- Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế Phạm Đình Thắng nền văn hóa Đồng Nai. Ở Thái Lan, từ khảo cổ, các nhà khoa học đã xác thực được nền văn hóa trồng trọt trước lúa ở Hang Thẩm Phi, và nền văn hóa lúa nước ở Non Nốc Tha (Đồi Gà Gô). Ở Campuchia, khảo cổ phát hiện di chỉ Samrong Sen có nhiều khối vỏ ốc, nhiều vật dụng làm bằng tay, mảnh chén, đĩa. Những phát hiện khảo cổ gần đây, cho thấy: Niên đại sớm của đồ gốm từ 13.000-6.800 năm trước Công nguyên; trồng lúa là: 3.500 năm trước Công nguyên; luyện đồng là 2.700 năm trước Công nguyên; luyện sắt là 1.300 năm trước Công nguyên [4, tr.201]. Tư liệu cổ: Trung Quốc là nước có nhiều tài liệu cổ viết về Đông Nam Á. Theo tài liệu của Trung Quốc để lại, trong sớ của Tiết Tôn ở đời Tam Quốc (Tam Quốc chí, quyển 53) có ghi về một tập tục của người Việt cổ: Khi mới thuộc Hán, người Giao Chỉ ở huyện Mê Linh, Cửu Chân và Đô Lung nếu anh chết thì em lấy chị dâu [4, tr.202]. Tài liệu của một số học giả Châu Âu cũng nhắc tới việc, dân Văn Lang trước thế kỷ thứ II và thứ III còn sống trong chế độ gia đình mẫu hệ... Các tập tục: Người Việt vẫn giữ tục kết chạ giữa các làng. Những làng kết chạ không được lấy nhau. Người Miến Điện tuy thờ Phật theo Ấn Độ nhưng vẫn giữ tục thờ Nát là những vị thần bản địa có từ trước. Người Thái Lan, Lào tuy thờ Phật nhưng vẫn tiếp tục thờ Phi (ma nhà) [4, tr.203]. Học giả người phương Tây G.Coedès, chuyên nghiên cứu về Đông Nam Á đã nêu những đặc trưng văn hóa bản địa khu vực này. Về văn hóa vật chất, gồm có: Trồng lúa nước; thuần hóa gia cầm, gia súc (đặc biệt là trâu để cày, cấy); sử dụng thô sơ về kim khí; hiểu biết đi biển. Hệ thống xã hội coi trọng vai trò của phụ nữ (thông qua chế độ mẫu hệ); tổ chức xã hội do yêu cầu của nền nông nghiệp tưới nước. Tôn giáo gồm: Tín ngưỡng vạn vật hữu linh; thờ cúng tổ tiên, thổ thần, thổ địa; xây dựng nơi thờ cũng ở chỗ cao; chôn người chết trong chum và mộ cự thạch. Về thần thoại: Một vũ trụ quan nhị 10
- Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế Phạm Đình Thắng nguyên trong đó có sự đối lập giữa núi và biển, loài có cánh và loài ở nước, người ở trên đất cao và người ở ven biển. Ngôn ngữ: Sử dụng tiếng nói đơn lập với nhiều khả năng chuyển hóa các tiền tố, vị tố và trung tố. Một trong những nét đặc trưng của văn hóa bản địa Đông Nam Á là tín ngưỡng. Vạn vật hữu linh là tín ngưỡng đặc trưng đầu tiên, bởi vì các cư dân Đông Nam Á cho rằng vạn vật đều có linh hồn. Từ cây cối, con vật, đất đá...đều có linh hồn. Ví dụ người Thái Lan, người Lào vốn gọi hồn là Khuẩn; Miến Điện gọi là là Leip Bya; Campuchia gọi là Pralung; Malaysia gọi là Semangat; người Việt gọi là hồn, vía...[4, tr.221]. Thờ thổ thần là một tín ngưỡng vẫn phổ biến cho tới ngày nay. Cư dân Đông Nam Á thờ cúng thần đất. Hiện nay, dù ở Thái Lan, Lào hay Việt Nam... người dân vẫn có tập tục làm bàn thờ thiên ngoài trời, trên sân thượng để thờ thổ thần, thổ địa. Người dân Đông Nam Á còn có tín ngưỡng vật tổ. Cư dân khu vực này tin rằng, mình do một vật tổ sinh ra. Điển hình như người Việt Nam tin rằng, mình là con rồng cháu tiên, được sinh ra trong cái bọc có 100 trứng; hoặc, căn cứ vào trống đồng, các nhà khoa học còn cho rằng người Việt xem chim là vật tổ của mình. Người Campuchia tin rằng, mình là con của thần rắn. Người Lào, người Thái Lan có truyền thuyết cho rằng con người sinh ra từ quả bầu [4, tr.225]. Do cây lúa gắn bó trong đời sống nên người dân tin rằng có hồn lúa. Cây lúa được tôn thờ như một tôn giáo. Người Tagbanuwa ở Philippines cho rằng, lúa là cây thiêng, một tặng vật của thần linh, và là lương thực đích thực của con người và các thần linh. Ở Java, cây lúa nước gắn với nghi lễ phồn thực và thuộc về nữ tính, là hiện thân của nữ thần Devi Sri. Do vậy nên có nhiều cấm kỵ đối với đàn ông trong sự tiếp xúc với cây lúa. Đàn ông không được gần nữ thần lúa. Họ chỉ làm các công việc cày bừa, chuẩn bị đất…, còn các công việc gieo hạt, nhổ mạ, cấy lúa, chăm bón chỉ phụ nữ mới được làm. 11
- Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế Phạm Đình Thắng Người Malaysia, theo truyền thống; xem cây, đá, sông, lúa đều có hồn như một sức mạnh bảo hộ hoặc xem hồn như là sự sống đích thực của chính sự vật đó. Người Khơ-me xem mẹ lúa là một người đàn bà cưỡi trên mình cá, tay cầm bông lúa. Nhiều dân tộc thiểu số miền núi ở Việt Nam có tập quán thờ ông bà lúa. Dân tộc Katu ở Trường Sơn (Thừa Thiên-Huế) dành chỗ đẹp nhất trong bếp và làm rọ đựng lúa để thờ; người Dao quan niệm rằng mỗi một bông lúa và mỗi hạt thóc đều là sự sống và đều có hồn [4, tr.227]. Đời sống của cư dân bản địa gắn liền với việc cày cấy nên trông chờ vào thời tiết. Từ đây, các nghi lễ nông nghiệp là điều không thể thiếu trong đời sống. Người Chăm trước đây, từ khi mở luống cày đầu tiên cho đến khi gánh lúa về nhà phải làm nhiều nghi lễ: Lễ Padang Paday Tuan (Lễ dựng chòi cày); lễ Êu Po Bhum (Lễ cúng thần ruộng lúc lúa phát triển); lễ Dôk Tian (Lễ cúng lúa trổ đòng); lễ Trun Yuak (Lễ xuống gặt); lễ Tagok Di Lan (Lễ cúng sân); lễ Khoa Paday Da-a (Lễ mừng lúa về nhà); lễ mừng Cơm mới [4, tr.230]… Ở Indonesia, nghi lễ về nữ thần lúa được tiến hành trên cánh đồng vào thời gian đập lúa. Người Malaysia hình dung hồn lúa như một con người bé nhỏ, thanh mảnh, hay giận dỗi và dễ bị tổn thương. Cây lúa được gọi âu yếm, trìu mến khi vào vụ gặt đầu tiên: “Cậu bé chín tháng”, “công chúa mặt trời”, hoặc “công chúa pha lê” [4, tr.230]... Từ quan niệm về hồn lúa như vậy, người Malaysia có những nghi lễ phức tạp diễn ra trong chu trình trồng lúa. Ở Thái Lan, khi lúa ngậm đòng, nông dân ở tỉnh Ayutthay tổ chức lễ cầu chúc cho Nữ thần lúa... Cư dân nông nghiệp cũng mong muốn cho cấy trồng, vật nuôi và bản thân con người sinh sôi nảy nở nhanh chóng đông đúc nên đã hình những nghi lễ phồn thực để thúc đẩy sự sinh sôi nảy nở của vạn vật. Trong nhiều tài liệu cho thấy, ở Việt Nam từng có nghi lễ trong đó cho phép những nam thanh nữ tú dùng hành vi giao hợp, hay tạp giao để cây cối bắt chước sinh sôi, nảy nở. Đương nhiên, các cư dân Đông Nam Á quá quen thuộc với các nghi lễ cầu mưa vào những mùa hạn hán. Ở Việt Nam còn có tục thờ các thần Mây, Mưa, Sấm, Sét (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Điện, Pháp Lôi). 12
- Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế Phạm Đình Thắng 3, Ảnh hƣởng văn hoá Ấn Độ Khu vực Đông Nam Á, gồm cả lục địa và hải đảo, nằm trên đường biển thông thương giữa phương Đông và phương Tây, giữa hai nền văn mình lớn: Trung Quốc và Ấn Độ. Ngay từ những năm đầu Công nguyên, hai nền văn hoá này đã phát huy sự ảnh hưởng tới khu vực Đông Nam Á. Nhiều học giả cho rằng, văn hoá Trung Quốc ảnh hưởng bằng cách áp đặt, văn hoá Ấn Độ ảnh hưởng tới nơi này một cách hoà hiếu. Ngoài yếu tố địa lý, nông nghiệp, thì thương nghiệp là nền tảng hình thành nên văn hoá Đông Nam Á. Thương nghiệp chủ yếu bằng đường biển. Các lái buôn Ấn Độ đã hành hải theo gió mùa. Gió mùa thổi định kỳ qua những vĩ độ nhất định ở phía Nam Châu Á và trên Ấn Độ Dương. Gió mùa thổi hai chiều ngược nhau trong vòng một năm. Đây là một đặc trưng và là một tác nhân để văn hóa Ấn Độ ảnh hưởng tới Đông Nam Á. Ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ, đại diện là hai tôn giáo lớn: Ấn Độ giáo và Phật giáo đến Đông Nam Á có sức lan toả mạnh mẽ nhất. Những tôn giáo này theo các thương nhân Ấn Độ đến các điểm dừng ở Đông Nam Á. Từ đầu Công nguyên trở đi, hai tôn giáo này thay nhau chiếm vị trí chủ đạo trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau ở khu vực này. Từ hai tôn giáo này, đã dẫn tới sự ra đời của của kiến trúc, hội hoạ, ngôn ngữ, văn tự hay nền văn học mang những sắc thái đặc trưng. 3.1. Sự có mặt của Ấn Độ giáo Theo nghiên cứu của các học giả Phương Tây, sự có mặt của Ấn Độ giáo ở Đông Nam Á là từ những năm đầu Công nguyên. Vào giai đoạn này, các nước trong khu vực đã có các vị thần riêng. Trong dân gian, tục thờ cúng tổ tiên cũng đã rất phổ biến. Thương nghiệp trên biển đã mang theo các thầy tu Bà La Môn để cúng tế, cầu an cho những chuyến vượt biển. Sự có mặt của các thầy tu dần dần đã trở nên quen thuộc với các cư dân nơi các thương thuyền cập bến. Từ quen 13
- Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế Phạm Đình Thắng thuộc, những cư dân trong khu vực Đông Nam Á bắt đầu tiếp nhận bằng cách nhờ các thầy tu thực hiện các nghi lễ tôn giáo để cầu an hoặc chữa bệnh. Trong quá trình thông thương, các cuộc hôn nhân giữa những người Bà La Môn với người có địa vị trong xã hội, dân thường bản địa tạo điều kiện cho tôn giáo này “cắm rễ” [13, tr.54]. Uy tín của tôn giáo này ngày một lan toả khi giới quý tộc của nơi thương thuyền tới buôn bán sùng bái. Hơn nữa, Ấn Độ giáo không mâu thuẫn với tín ngưỡng bản địa. Điều này được chứng minh về sự tồn tại của nó trong nhiều giai đoạn lịch sử. Nhiều nhà nước cổ đại ở Đông Nam Á, như Phù Nam, Chămpa, Chân Lạp...đã thực sự chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Ấn Độ giáo. Sự hiện diện của các vị thần Shiva, Vishnu và Brahma có ở hầu hết các đền thờ của cư dân ở Đông Nam Á. Thần Shiva là hiện thân của sức mạnh tàn phá và là đấng sáng tạo thế giới. Thần Shiva thể hiện ở hai hình tượng: Người đàn ông tóc xoăn được búi lên cao, có con mắt thứ ba trên trán và một trong bốn cánh tay cầm đinh ba, cưỡi trên lưng bò Nan Đin (Bên cạnh thần Shiva thường có người vợ là nữ thần Parvati). Thần Shiva cũng được thờ phụng dưới biểu tượng Linga-Sinh thực khí nam luôn đi kèm với Yoni-sinh thực khí nữ). Các cư dân Đông Nam Á thờ phụng Linga và Yoni để cầu mong phồn thịnh và sự sinh sôi nảy nở như quyền năng của vị thần ban cho. Các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng, chỉ tới khi Ấn Độ giáo vào, việc thờ phụng này mới trở nên phổ biến. Vishnu là chúa tể của thế giới, thể hiện bằng hình tượng một người đàn ông đội trên đầu chiếc mũ hình trụ, có bốn cánh tay, mỗi cánh tay cầm nắm các vật dụng khác nhau (chiếc tù bằng vỏ ốc, cái đĩa, cây gậy và hoa sen). Thần Vishnu giữ vị trí chủ đạo trong việc sai khiến rắn thần Vasuki trong cuộc khuấy biển sữa tìm thuốc trường sinh bất tử. Thần cưỡi trên con chim thần Garuda. Vợ thần là nữ thần may mắn Lakshmi. Hiện thần của thần 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị marketing tại công ty cổ phần dệt Mùa đông trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
129 p | 457 | 200
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Chiến lược xây dựng thương hiệu VNPT trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
111 p | 456 | 80
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển du lịch sinh thái tại vườn quốc gia Tam Đảo
10 p | 270 | 76
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ ngành Khoa học máy tính: Nghiên cứu giải pháp công nghệ phân tán dữ liệu và ứng dụng quản lý nhân sự phân tán trong cơ quan nhà nước Lào
27 p | 344 | 68
-
Hướng dẫn chi tiết thực hiện luận văn thạc sĩ chuyên ngành kinh tế tài chính - ngân hàng - ĐH Kinh tế Luật
15 p | 309 | 58
-
Luận văn Thạc sĩ: Cách dùng chữ đặt tên của người Trung Quốc và hàm ý văn hoá của nó
76 p | 235 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học kinh tế: Hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Cục Thuế tỉnh Quảng Bình
120 p | 171 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học kinh tế: Phát triển dịch vụ thanh toán quốc tế tại ngân hàngThương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Quảng Bình
118 p | 100 | 20
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ ngành Quốc tế học: Kiến tạo sức mạnh mềm Trung Quốc qua ngoại giao thể thao trong những năm đầu thế kỷ 21
14 p | 76 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Nghệ thuật âm nhạc: Đưa hai tác phẩm viết cho đàn Bầu với dàn nhạc của nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân vào chương trình giảng dạy bậc Đại học tại Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam
76 p | 99 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ ngành Quốc tế học: Quan hệ văn hóa Việt Nam - Nhật Bản giai đoạn 1992–2013
19 p | 42 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ ngành Triết học: Xây dựng chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay
108 p | 44 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ ngành Âm nhạc: Dạy học Sli, Lượn trong giờ ngoại khóa cho sinh viên Sư phạm Tiểu học trường Cao đẳng Sư phạm Lạng Sơn
157 p | 88 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ ngành Quốc tế học: Tìm hiểu quan hệ giữa các dân tộc thiểu số ở vùng biên giới Trung-Việt qua quá trình giao lưu văn hóa (khu vực Vân Nam, Lào Cai, Hà Giang)
110 p | 50 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ ngành Quốc tế học: Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc thập niên đầu thế kỷ XXI
112 p | 80 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ: Đánh giá mức độ đáp ứng chuẩn đầu ra theo tiếp cận khung trình độ quốc gia việt nam của kỹ sư tốt nghiệp ngành an toàn phòng cháy của trường Đại học Phòng cháy chữa cháy
136 p | 28 | 6
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc điểm ký Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
26 p | 78 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn