ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA VĂN HỌC

NGUYỄN THU HÀ

TÌM HIỂU NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT

TRONG TRUYỆN NGẮN VÀ TIỂU THUYẾT CỦA

NGUYÊN HỒNG TRƯỚC CÁCH MẠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2004

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ________________

NGUYỄN THU HÀ

TÌM HIỂU NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT

TRONG TRUYỆN NGẮN VÀ TIỂU THUYẾT

CỦA NGUYÊN HỒNG TRƯỚC CÁCH MẠNG

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 5.04.33

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.HÀ VĂN ĐỨC

Haứ Noọi - 2004

MỤC LỤC

Trang

1

A. PHẦN MỞ ĐẦU

B. NỘI DUNG

CHƯƠNG I

NGUYÊN HỒNG - NHÀ VĂN CỦA LÒNG THƯƠNG CẢM THỐNG THIẾT ĐỐI

VỚI CON NGƯỜI.

1.1. Chủ nghĩa nhân đạo - Cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của Nguyên Hồng.

13

1.1.1. Nguyên Hồng viết văn vì lòng thương cảm những

kiếp người cùng khổ.

13

1.1.2. Nguồn gốc cảm hứng thương cảm đối với con người

của Nguyên Hồng. 16

1.2. Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng. 19

1.2.1. Con đường nghệ thuật nhất quán.

19

1.2.2. Bức tranh xã hội và nhân sinh

22

1.2.3. Những nhân vật cùng khổ:

24

1.3. Tình huống gợi lòng thương cảm

26

CHƯƠNG II

NGÒI BÚT HIỆN THỰC GIÀU CHẤT LÃNG MẠN

2.1. Nội dung tình cảm dạt dào sôi nổi:

32

2.1.1. Tấm lòng nồng nhiệt của nhà văn đối với nhân vật 32

2.1.2. Tình cảm mãnh liệt của kiểu "nhân vật trữ tình mang vẻ đẹp truyền thống”.

35

2.2. Ngòi bút hiện thực thấm đượm chất thơ.

37

37

2.2.1. Chất thơ toát lên từ đời sống cần lao: 2.2.2. Chất thơ toả ra từ cái nhìn và niềm tin của nhà văn đối với những người cùng khổ.

39

2.2.3. Chất thơ của bức tranh thiên nhiên miền của biển đầy nắng vàng và gió lộng.

44

CHƯƠNG III

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN VÀ TIỂU THUYẾT

NGUYÊN HỒNG TRƯỚC CÁCH MẠNG

3.1. Nhân vật đa dạng

49

3.1.1. Hạng người lưu manh, nghĩa khí mang dáng dấp

anh hùng hảo hán.

49

3.1.2. Nhân vật thuộc tầng lớp lao động nghèo ở thành thị 52

3.1.3. Nhân vật trẻ tuổi thuộc tầng lớp

tiểu tư sản nghèo.

55

3.2. Nhân vật "Chịu nạn"

56

3.3. Bút pháp xây dựng nhân vật

58

CHƯƠNG IV

NGÔN NGỮ - GIỌNG ĐIỆU

4.1. Giọng điệu sôi nổi, thiết tha và cấu trúc tầng tầng lớp lớp của lời văn nghệ thuật.

67

4.1.1. Giọng điệu chủ yếu: thương cảm thống thiết, sôi nổi. 67

72

4.1.2. Cấu trúc tầng tầng lớp lớp theo mạch cảm xúc của lời văn nghệ thuật.

76

4.2 Ngôn ngữ giàu giá trị biểu cảm.

78

4.2.1. Cách sử dụng thành ngữ, thán từ độc đáo gây ấn tượng 4.2.2. Ngôn ngữ trần thuật chân thành trong tiểu thuyết tự truyện.

88

82 C. KẾT LUẬN

D. PHỤ LỤC

1. Nguyên Hồng - thân thế và sự nghiệp (1918 - 1982)

94

2. Hai lần về mái nhà xưa của tác giả "Những ngày thơ ấu".

97

-THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ CHUYẾN ĐI THĂM GIA ĐÌNH NGUYÊN

HỒNG LẦN THỨ 3

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài và mục đích nghiên cứu (hay lý

do chọn đề tài).

Trước Cách mạng, Nguyên Hồng thuộc vào loại hiếm hoi, không nói là

duy nhất ở nước ta, từ trong đám đông người nghèo đói, đau khổ, lầm than

vươn lên thành nhà văn. Ông đi theo dấu chân của nhà văn vĩ đại, người mở

đường của nền văn học hiện thực XHCN trên đất nước Xô Viết: M.Gorki.

Chính vì vậy, độc giả Việt Nam đã yêu mến gọi Nguyên Hồng là "Gorki của

Việt Nam".

Điều này càng có giá trị khẳng định Nguyên Hồng là một nhà văn lớn,

có vị trí quan trọng trong lịch sử phát triển của văn học Việt Nam hiện đại.

Mà "Cuộc đời ấy thực sự là món quà tặng của lớp người cần lao cho văn học

Việt Nam hiện đại" (Vương Trí Nhàn).

Tuy cuộc đời của Nguyên Hồng bị khổ sở, cơ cực từ tấm bé nhưng ông

vẫn yêu cuộc sống, yêu thiết tha, yêu say đắm. Yêu tất cả mọi biểu hiện của

sự sống bằng tất cả tâm hồn và giác quan của mình. Ông nhiệt tâm với cuộc

sống: "Sống hiểu theo cái nghĩa phải viết nó ra thành sách". (Nguyễn Tuân).

Người ta dễ nhận thấy Nguyên Hồng là con người rất cởi mở, giàu khả năng

giao tiếp với thế giới xung quanh. Hình như trong Nguyên Hồng luôn có

những gì đầy ăm ắp, tràn dâng và nếu không vợi bớt ra ngoài thì nhà văn

không chịu nổi. Nguyên Hồng chen vai giữa mọi người, như mọi người: "Nhà

văn đi đường lẫn vào đám đông. Cái quần nâu, tấm áo cánh mồ hôi muối ăn

đã bạc cả hai vai, chiếc mũ lá cọ, đôi dép lốp chẳng khác chút nào với màu

sắc, dáng nét người đi chợ, người nghỉ quán hàng, người trên đường chứ

không có dáng ưu tư, đăm chiêu... vốn thường thấy ở nhà văn". (Tô Hoài).

Chính lối sống hồn nhiên, tự do ấy đã ảnh hưởng sâu sắc đến phong

cách văn chương của ông. Ông viết văn không nhờ học vấn vì ông phải sớm

vật lộn ở cuộc đời từ thuở nhỏ. Ông viết văn nhờ năng khiếu riêng nên văn

1

ông không cầu kì, khách sáo. Ông bước vào nghề văn do sự thôi thúc của nhu

cầu được giãi bày, được nói lên thật sâu sắc những nỗi thống khổ của loài

người, của chính bản thân mình, của chính gia đình mình. "Tôi viết văn và là

người viết văn trong đám những người nghèo đói, đau khổ, lầm than" (31 -

37).

Chính vì vậy, viết văn với Nguyên Hồng như là một đòi hỏi "nội tâm".

Ông viết khi thấy cực quá, khổ quá muốn được giãi bày tấm lòng của mình,

muốn được chia sẻ, cảm thông. Có lẽ bởi thế nên những trang viết của

Nguyên Hồng chứa chan xúc động, thấm đẫm nước mắt. Có thể nói, mỗi dòng

chữ ông viết ra là một dòng nước mắt nóng bỏng tình xót thương của một trái

tim vô cùng nhạy cảm.

Được viết là một khát khao mãnh liệt trong cuộc đời của Nguyên Hồng.

Nó luôn thôi thúc ông một cách mạnh mẽ, tha thiết đến mức Nguyên Hồng

cho rằng mình có thể chết dần, chết mòn nếu như vì một lý do nào đấy không

thể cầm bút được nữa. Ông làm việc nhọc nhằn và cần cù, tỉ mỉ, công phu và

đầy nhiệt huyết.

Nguyên Hồng luôn bị ám ảnh bởi công việc của mình. Bất cứ giây phút

nào, ông cũng sẵn sàng cống hiến cho công việc ấy với tất cả niềm say mê của

tâm hồn mình.

"Dường như bằng mỗi dòng văn của mình, ông muốn bảo vệ cái gì đó

sống thoát khỏi cái chết" (Nguyễn Tuân).

Khi viết về những người lao động cùng khổ, ông không nghiêng xuống

những người nghèo khổ để thương hại hoặc tô vẽ cho cuộc sống lao động cực

nhọc một vẻ dịu dàng nên thơ, mà ông đã xoáy sâu đến tận cùng những tấn bi

kịch của tầng lớp người dưới đáy.

Xuất phát từ tình yêu thương mênh mông với mọi kiếp người bất hạnh

mà Nguyên Hồng đã viết về họ một niềm tin "tin tưởng tha thiết" một "tình

yêu thương đắm đuối", một niềm đồng cảm sâu sắc của những con người

2

cùng một hoàn cảnh, cùng một đời sống thấp kém và tối tăm vì thiếu thốn mọi

thứ, vì phải chịu đựng đủ mọi thứ.

Những tác phẩm Nguyên Hồng để lại cho nền văn học nước nhà thật đồ

sộ, thành quả của cuộc đời lao động sáng tạo miệt mài của ông. Cùng với đó

là những công trình nghiên cứu những bài phê bình tiểu luận của các nhà văn,

nhà thơ, nhà lý luận phê bình, độc giả.... về con người và những tác phẩm của

ông. Và nhờ đó, văn chương của Nguyên Hồng ngày càng khẳng định được vị

trí vững vàng trong nền văn học hiện đại nước nhà. Tuy nhiên, việc tìm hiểu

những đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết của Nguyên

Hồng chưa phải là nhiều và có hệ thống, chủ yếu vẫn là những bài riêng lẻ, đi

sâu vào từng khía cạnh cụ thể trong đặc sắc nghệ thuật của ông.

Gần đây nhu cầu đổi mới và phát triển của văn học, nhu cầu nhận thức

đầy đủ hơn những giá trị văn học trong quá khứ đang được đặt ra một cách

nghiêm túc. Chính vì vậy, việc tiếp tục đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu một cách

toàn diện, sâu sắc thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng là việc làm thiết thực,

nhằm khẳng định những đóng góp của nhà văn với nền văn xuôi hiện đại Việt

Nam.

Xuất phát từ yêu cầu đó và với lòng yêu mến nhà văn thiết tha, chúng

tôi chọn đề tài: "Tìm hiểu những đặc điểm nghệ thuật trong truyện

ngắn và tiểu thuyết của Nguyên Hồng trước Cách mạng" - Với

mong muốn thấy được nguyên nhân tạo nên sự hấp dẫn của văn Nguyên

Hồng đối với độc giả nhiều thế hệ - Một nhà văn tràn đầy cảm hứng nhân đạo

chủ nghĩa.

2.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Với hơn một nửa thế kỷ làm việc nghiêm túc, miệt mài, Nguyên Hồng

đã để lại cho cuộc đời một sự nghiệp văn chương vô cùng đồ sộ. Sáng tác của

ông vô cùng phong phú và đa dạng, nhưng thành công hơn cả và có nhiều

đóng góp nhất là lĩnh vực truyện ngắn và tiểu thuyết. Do tiếp cận đề tài từ góc

3

độ văn học sử nên luận án không đi sâu vào các vấn đề lý luận mà chỉ đưa ra

những ý kiến đánh giá, nhận xét về đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn và

tiểu thuyết của Nguyên Hồng trước Cách mạng.

3. Lịch sử vấn đề:

Từ thế giới của người lao động lam lũ vất vả, từ cuộc đời đau khổ luôn

bị hắt hủi, bị đày đoạ trong xã hội cũ, Nguyên Hồng đã bước vào làng văn với

một sự khát khao mãnh liệt. Văn của Nguyên Hồng bao giờ cũng lấp lánh sự

sống bởi vì "Ông vươn lên mạnh mẽ như một mầm cây căng tràn nhựa sống,

cứ xuyên qua lớp lớp bùn đất nâu sẫm, xoè ngọn lá tươi xanh đón ánh sáng

mặt trời rực rỡ ” (Phan Cự Đệ).

Trong lịch sử văn học hiện đại Việt Nam, những nhà văn phải chịu

nhiều cơ cực, bất hạnh như Nguyên Hồng không phải là nhiều. Cuộc đời bất

hạnh của ông bắt đầu ngay từ thuở ấu thơ nên ông không còn lạ gì với những

cái xấu xa độc ác của người đời. Nhưng Nguyên Hồng bao giờ cũng tin vào

khả năng hướng thiện của con người. Vì thế khi đọc Nguyên Hồng, ta luôn

thấy tài và tâm, nhất là tâm nổi lên hàng đầu: "Nguyên Hồng viết văn như là

đặt luôn cái tâm nóng hổi của mình lên trang sách" ( Nguyễn Đăng Mạnh)

Điều này cắt nghĩa tại sao các tác phẩm của Nguyên Hồng toàn là

những cảnh đời tối tăm cực khổ, dữ dội nhưng không bao giờ tuyệt vọng. Đau

thương mịt mù đến đâu cũng vẫn thấy ấm áp tình người, loé lên những tia hy

vọng ở con người. Ông đã dâng hiến trọn vẹn cả thể xác lẫn linh hồn cho sự

nghiệp văn chương, vì cuộc sống, vì nhân dân, vì Cách mạng.Ông đã từng ao

ước:

"Tôi muốn ép mình trong khổ hạnh, sẵn sàng mai danh ẩn tích sống

như một kẻ vô danh để hiến dâng trọn vẹn mọi tâm huyết và sức lực cho đời".

4

Con đường nghệ thuật của Nguyên Hồng là con đường của nhà tư

tưởng hiện thực chủ nghĩa với chủ đề nhân đạo mãnh liệt và thống thiết.

Chính vì vậy mà Nguyên Hồng và những tác phẩm văn chương của ông luôn

sống trong lòng nhân dân, trong lòng bạn bè. Họ dành cho ông và tác phẩm

của ông những tình cảm yêu thương đằm thắm nhất. Hiếm có nhà văn nào

như Nguyên Hồng mà ngay trong những sáng tác đầu tay đã có đất đứng

vững, giành được giải cao. Nguyên Hồng thực sự thuộc hạng nghệ sĩ tạo ra sự

sống và trở thành nguồn cảm hứng cho rất nhiều nhà nghiên cứu phê bình văn

học và những người yêu văn từ xưa đến nay.

a.Tình hình nghiên cứu Nguyên Hồng trước Cách mạng

tháng Tám.

Tác phẩm đầu tay đưa Nguyên Hồng đến với làng văn là tiểu thuyết Bỉ

vỏ. Đây được coi như một sự kiện văn học nóng hổi thời bấy giờ. Tác giả là

một chàng trai 17 tuổi phải sống trong cảnh nghèo khó đến cùng cực đã dám

đề cập đến những vấn đề về cuộc sống, xã hội của những kẻ lưu manh, gái

điếm.... một cách khá sâu sắc. Nguyên Hồng đã viết Bỉ vỏ bằng tất cả những

khát khao được viết được dâng hiến cho đời những cảm xúc của mình: "Bỉ vỏ

đã viết xong trên một cái bàn kê bên khung cửa trông ra vũng nước đen ngầu

bọt của một bãi đất lấp dở dang và chuồng lợn ngập ngụa phân tro; Bỉ vỏ đã

viết xong trong một căn nhà cứ đến chập tối là ran lên tiếng muỗi và tiếng trẻ

khóc; Bỉ vỏ đã viết xong trong một đêm lạnh lẽo, âm thầm mà mọi vật như

đều rung lên cùng với lòng thương yêu của một đứa trẻ ham sống dạt dào

trong những bụi mưa thấm thía".(Lời đề tựa trong cuốn Bỉ vỏ - 1938).

Ngay từ tác phẩm đầu tiên ấy, Nguyên Hồng đã bộc lộ khá rõ tư tưởng

của nhà văn hiện thực chứa chan lòng nhân đạo cao cả. Nhà phê bình Vũ

Ngọc Phan đã đánh giá:

"Bỉ vỏ của Nguyên Hồng là một cuốn tiểu thuyết chứa chan tính nhân

đạo, nó làm cho ta thương xót đến cả những kẻ đầy tội lỗi, nhưng Bỉ vỏ lại

5

xây dựng một khuôn luân lý rất cao, nên dù ta thương xót họ mà ta vẫn

không thể nào không ghê tởm về hành vi của họ.

Đó là về những phương diện tâm lý và luân lý. Còn về đường xã hội,

Nguyên Hồng cho ta thấy trong Bỉ vỏ cả "một xã hội gian phi", một xã hội

ăn cắp, với những hành vi và tâm tính rất kỳ của chúng. Bỉ vỏ là một quyển

sách cho nhà xã hội học những tài liệu rất quí".

Đánh giá của nhà phê bình Vũ Ngọc Phan thể hiện sự trân trọng với tài

năng của Nguyên Hồng và sức sống của tác phẩm đối với dư luận xã hội. Bỉ

vỏ đã được nhận giải thưởng của "Tự lực văn đoàn": Đây là một minh chứng

cụ thể cho tài năng của Nguyên Hồng.

Còn về bút pháp sáng tác, Thạch Lam - người bạn thân thiết của nhà

văn đã công bằng và khích lệ khi nhận xét ưu và khuyết điểm của tác phẩm:

"Ông quan sát khéo, chỉ tả những cái gì đáng để ý. Những tình cảm

chân thật, những cảm giác đúng!".

Bỉ vỏ là sáng tác đầu tiên nên Nguyên Hồng cũng khó tránh khỏi những

nhược điểm của người mới cầm bút:"Nhiều chỗ còn vụng về và cẩu thả....

nhiều câu văn chưa gãy gọn. Rồi đây tất cả sẽ khác đi...".

Sau cuốn tiểu thuyết đầu tay ấy, Nguyên Hồng một lần nữa gây xôn

xao trong giới văn học bởi cuốn tự truyện Những ngày thơ ấu - Một hình

thức sáng tác lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam và mở ra trước mắt người đọc

một thế giới hầu như chưa từng được khám phá trong văn học của chúng ta

cho đến lúc bấy giờ.

Hai cuốn sách đầu tay đó bỗng chốc phát lộ hai khía cạnh đặc sắc,

dường như tương phản của tài năng Nguyên Hồng. Một bên là sự miêu tả môi

trường hoạt động của đám lưu manh, đĩ điếm, cảnh sát, mật thám với những

lời lừa lọc, phản bội, giết chóc dữ dằn, một bên lại là sự hồi tưởng lắng động

đầy cay đắng xót xa của một tâm hồn ấu thơ dễ cảm xúc trong nghịch cảnh

gia đình và xã hội. Nhưng sự tương phản ấy chỉ là cái vẻ bề ngoài vì có một

6

âm hưởng chủ đạo rung ngân trong cả hai tác phẩm: Đó là cảm hứng của chủ

nghĩa nhân đạo thống thiết.

Trong tập tự truyện này, lối miêu tả của Nguyên Hồng không những

tinh tế mà còn có khả năng làm thức dậy mọi giác quan của người đọc. Chính

vì vậy một lần nữa nhà văn Thạch Lam đã phát hiện trong Những ngày thơ

ấu: "Những rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại". Nguyên Hồng

đã cho ta biết rõ hẳn một quãng đời quá khứ của ông và kể cho người ta nghe

hết cả những cái cay đắng, cái truỵ lạc của mình và những người thân mình.

Nhận xét tinh tế của Thạch Lam thể hiện sự đồng cảm của hai nhà văn lớn.

Trong Những ngày thơ ấu, Nguyên Hồng gần gũi Thạch Lam ở lối phân tích

tâm lý tinh tế, lối viết đi sâu vào cảm giác, ở cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa, ở

màu sắc trữ tình lãng mạn nhưng lại chân thật vô cùng. Nhà phê bình Vũ

Ngọc Phan cũng đánh giá rất cao "cái tôi chân thật” ấy của Nguyên Hồng:

"Phải sống trong cảnh nghèo, phải luôn luôn gần gũi xã hội người nghèo,

mới có thể viết được những dòng thành thật và cảm động như Nguyên Hồng".

Qua những dòng hồi ký của Những ngày thơ ấu, chúng ta nhận thấy

ngay từ thuở ấu thơ, Nguyên Hồng đã rất say mê những truỵên kiếm hiệp, dã

sử của Trung Quốc với những nhân vật hảo hán, anh hùng nghĩa khí.... Điều

này có ảnh hưởng không nhỏ đến cảm hứng của nhà văn khi viết tập truyện

ngắn Bảy Hựu. Tập truyện phản ánh những cuộc đời bi đát của hạng người

sống trong vòng tội lỗi, nghèo nàn nhưng lại mang màu sắc lãng mạn vô

cùng.

Cách xây dựng nhân vật trong Bảy Hựu cũng khá đặc biệt. Mọi hành

động của nhân vật đều mang dáng vẻ phi thường, kì lạ khủng khiếp và ghê

gớm như Bảy Hựu, Chín Huyền... Những kẻ tội lỗi đối với pháp luật nhưng

đều là người có tấm lòng khảng khái và hy sinh, không khác nào những nhân

vật trong Thuỷ Hử.

Trong Nhà sư nữ chùa âm hồn, Nguyên Hồng đã xây dựng nội dung

như một truyện trinh thám với trí tưởng tượng vô cùng phong phú, thể hiện

7

mối tình thống thiết của đôi vợ chồng hủi, gây xúc động lớn cho người đọc.

Trong tập truyện này, Nguyên Hồng cũng dành phần không nhỏ cho những số

phận nghèo khổ, bất hạnh. Cuộc đời tối tăm Trong cảnh khốn cùng và Đây

bóng tối của Mũn, Nhân... cho ta thấy tình cảm thuỷ chung, son sắt của

những người nghèo thật đậm đà, sâu sắc và thiết tha. Lòng nhân đạo, sự thuỷ

chung, hy sinh của họ đều đạt tới mức "kỳ lạ"; "phi thường" hiếm thấy trong

đời thực.

Đánh giá về Bảy Hựu nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét: "Chỉ khi

nào lòng yêu nhân loại lên đến cực điểm, là người ta mới thiết tha đến những

người bị xã hội ruồng bỏ".

Dương Tử Anh trên tạp chí Tri tân số 6 (8-6-1941) cũng có những

phát hiện, đánh giá rất chính xác về tập truyện ngắn này:"Bảy Hựu là một tác

phẩm viết do một ngòi bút xuất sắc. Bảy Hựu, với những lời văn giản dị, trơn

tru, ta không phải tìm hiểu mà tự nhiên thấy vô hạn thương cảm những vai

chủ động.... không cầu kỳ, không sáo, đó là cái đặc điểm của văn Nguyên

Hồng”.

Qua những nhận xét, đánh giá về những tiểu thuyết, truyện, truyện

ngắn tiêu biểu của Nguyên Hồng trước Cách mạng, ta thấy "ở tập văn nào

của Nguyên Hồng tư tưởng nhân từ, bác ái của tác giả bao giờ cũng tràn lan"

(Vũ Ngọc Phan). Trước Cách mạng, các nhà nghiên cứu phê bình đều đánh

giá bút pháp của Nguyên Hồng là một nhà văn hiện thực mang tinh thần nhân

đạo chủ nghĩa cao cả. Đây cũng là định hướng cho toàn bộ cuộc đời sáng tác

của ông sau này.

b.Tình hình nghiên cứu Nguyên Hồng từ sau năm 1945 đến

khi nhà văn qua đời .(1982)

Sau Cách mạng tháng Tám, sự nghiệp văn chương của Nguyên Hồng

vẫn tiếp tục được khẳng định và ra đời nhiều tác phẩm đồ sộ. Đặc biệt ánh

sáng của quan điểm giai cấp và những nhận thức chính trị đã nâng cao chất

8

lượng nhiều truyện ngắn của Nguyên Hồng.Cảm hứng nhân đạo vẫn tiếp tục

được phát huy trong truyện ngắn, tiểu thuyết của ông nhưng giờ đây đã mang

màu sắc mới.Từ cái nhìn nhân đạo chung chung, Nguyên Hồng dần chuyển

sang một cái nhìn ít nhiều mang tính giai cấp bằng một bút pháp rất gần với

bút pháp của các nhà văn hiện thực chủ nghĩa. Ngòi bút của ông vẫn hướng

tình cảm của mình về phía người lao động đồng thời ca ngợi cuộc đấu tranh

kiên trì và tất thắng của họ như truyện Người đàn bà Tàu ( sau được đổi

thành Một người mẹ Trung Quốc ). Do đó sức tố cáo trong các tác phẩm

được tập trung, dồn nén hơn, kết cấu cũng chặt chẽ hơn . Một điều dễ nhận

biết bút pháp của Nguyên Hồng vẫn là chủ nghĩa nhân đạo thống thiết với

,một cốt lõi lạc quan vững chãi. Các nhà nghiên cứu phê bình đã nhận thấy

trong đó nhiều cái mới tiến bộ và càng được củng cố mạnh mẽ hơn khi nhà

văn tiếp nhận lý tưởng Cách mạng của giai cấp vô sản.

Chính vì vậy nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh tiếp tục viết về “tinh

thần khắc kỷ’’ của nhân vật; về “yếu tố trữ tình”; “tình cảm lạc quan say sưa

bồng bột”và trên hết vẫn là “tinh thần nhân đạo chủ nghĩa thiết tha”(1973).

Chu Nga thì nhận thấy Nguyên Hồng đã đem đến tiếng nói mới , tiếng

nói riêng biệt góp phần vào dòng văn học hiện thực phê phán. Về căn bản ông

nhận thấy đó là tiếng nói yêu thương, nhân đạo “sôi nổi, lạc quan, tràn đầy

một niềm tin ở một ngày mai tươi sáng” vì nhìn thấy được những phẩm chất

đẹp đẽ ở những con người nghèo khổ hôm nay.(1977)

Nhà văn Nguyễn Tuân- Người bạn cùng thời với Nguyên Hồng lại nói

về “Nhân tố chủ quan trong bố cục của tiểu thuyết Nguyên Hồng”. (1978)

c.Từ sau khi nhà văn qua đời đến nay:

Sự ra đi đột ngột của Nguyên Hồng vào ngày 02-05-1982 đã để lại biết

bao tiếc nuối, thương nhớ cho bạn bè đồng nghiệp, các lứa học trò và học giả

ở khắp mọi miền Tổ Quốc. Nhưng đúng như nhận xét của nhà thơ Xuân Diệu:

“Nguyên Hồng mất đi nhưng cái văn của anh ấy vẫn còn rên rỉ”. Đấy có thể

xem là một lời khẳng định Nguyên Hồng “không chết”. Và điều đó đã trở

9

thành đề tài cho rất nhiều bài viết đặc sắc đa dạng về con người và văn

chương của ông. Điều đó đã trở thành đề tài cho rất nhiều bài viết đặc sắc đa

dạng về con người và văn chương của ông.

Và một trong những người có công rất lớn trong việc nghiên cứu và

đưa tác phẩm của Nguyên Hồng đến với người đọc là GS Phan Cự Đệ . Ông

là người đã giới thiệu, tuyển chọn ba bộ tuyển tập của nhà văn Nguyên Hồng

cùng với nhiều bài nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn. GS

Phan Cự Đệ cho rằng cảm hứng chủ đạo của Nguyên Hồng "Dường như bắt

nguồn từ một chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc đối với những lớp người cùng khổ"

và khẳng định phong cách Nguyên Hồng là "Hiện thực giàu chất lãng mạn

Cách mạng và chất trữ tình say đắm" (1983)

Có rất nhiều bài viết nói về chất lao động trong văn Nguyên Hồng -

thực sự ông là nhà văn của quần chúng lao khổ.

Nguyễn Hoành Khung coi Nguyên Hồng là “nhà văn chân chính của

những người khốn khổ” và cũng thấy ở sáng tác Nguyên Hồng “một tình cảm

thiết tha đối với quần chúng lao động nghèo”(1983).

Đào Đức Doãn có một phát hiện khá mới mẻ đó là “cảm quan tôn giáo

trong sáng tác của Nguyên Hồng”(1991). Về bút pháp sáng tác, Linh Thi cảm

nhận cú pháp câu văn Nguyên Hồng bằng hình ảnh “Giọt lệ lớn và đoàn tàu

chợ”(1982).

Nguyễn Đăng Điệp nói về đặc sắc hồi kí Nguyên Hồng đó là “Hồi kí

tâm trạng”(1991).

Nhà phê bình Vương Trí Nhàn thì thấy cái Nguyên Hồng mang lại đối

với văn chương đương thời không chỉ là cái lạ trong đề tài và nhân vật. Ông

còn nhận thấy “Nó là một cái gì đó khỏe mạnh đặt bên cái yếu mềm phù

phiếm, cùng cái hoang dã dữ dằn bạo liệt, bên cạnh cái mơ mộng ngọt ngào”.

Nhà lý luận phê bình Hà Minh Đức gần đây đã nhận định “Nguyên

Hồng là nhà văn của những khát vọng sống” (2001). Tác phẩm của Nguyên

10

Hồng cũng được giới thiệu ở nước ngoài và được các nhà nghiên cứu phê

bình văn học đề cập đến ở những mức độ khác nhau như:

Niculin : Văn học Việt Nam (1971).

Tkachốp : Nam cao – Nguyên Hồng tuyển tập (1979).

Nguyễn Khắc Viện - Hữu Ngọc : Lịch sử văn học Việt nam (1979).

Trên đây là những bài viết và công trình nghiên cứu khá công phu đề

cập đến nhiều mặt sáng tác của Nguyên Hồng. Các tác giả đã có nhiều phát

hiện chính xác về một số đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết

của ông.

Tuy nhiên những nhận xét khái quát và tinh tế ấy mới được phát biểu

rải rác, chưa được trình bày trong những công trình chuyên sâu, lý giải vấn đề

một cách có hệ thống. Nhưng chính những bài viết và công trình nghiên cứu

trên đã giúp chúng tôi có một cái nhìn tổng thể về nhà văn Nguyên Hồng.

Đồng thời nó cũng giúp chúng tôi những vấn đề cần đi sâu, phat triển mới

trong luận án.

4.Đóng góp mới của luận án:

Tiếp thu những ý kiến bàn về đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn và

tiểu thuyết Nguyên Hồng của những người đi trước, luận án chọn cách trình

bày , lý giải đặc điểm nghệ thuật của Nguyên Hồng từ góc độ nghiên cứu cảm

hứng nghệ thuật của nhà văn bởi nghệ thuật có quan hệ chặt chẽ với cảm

hứng.

Nghệ thuật là tổng hợp các đặc điểm mang tính độc đáo, xuyên suốt nội

dung và hình thức tác phẩm. Vì vậy vận dụng khái niệm cảm hứng để nghiên

cứu đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết của Nguyên Hồng là

một điều phù hợp. Bởi lẽ cảm hứng là một yếu tố thuộc nội dung tác phẩm,

liên quan đến nhân tố chủ quan của sáng tạo nghệ thuật, đến các vấn đề tình

cảm trong nghệ thuật và có nguồn gốc từ trong hiện thực khách quan. Vận

dụng khái niệm cảm hứng để nghiên cứu những đặc điểm trong truyện ngắn

và tiểu thuyết Nguyên Hồng trước Cách mạng mang lại cho việc nghiên cứu

11

một cách tiếp cận mới. Việc vận dụng khái niệm này rất phù hợp với đặc điểm

của bản thân đối tượng nghiên cứu vì Nguyên Hồng là nhà văn của những xúc

cảm mãnh liệt, chứa chan khác vọng và tình thương. Cái độc đáo trong sáng

tác của Nguyên Hồng không phải ở chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo mà là ở trái

tim nồng nàn, ở cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa và tràn đầy chất thơ, chất lãng

mạn.

Trong quá trình nghiên cứu, người viết có ý thức khảo sát một cách

nhất quán những nét độc đáo trong đặc điểm nghệ thuật viết truyện ngắn và

tiểu thuyết Nguyên Hồng; từ những đặc điểm của cảm hứng đến những biểu

hiện cúa nội dung…Cách xem xét này giúp người đọc hình dung đặc điểm

nghệ thuật của Nguyên Hồng không phải như một số các đặc điểm rời rạc mà

như một chỉnh thể thống nhất các nét độc đáo xuyên suốt nội dung và hình

thức các tác phẩm của ông.

Bằng việc làm sáng tỏ những đặc điểm nghệ thuật của Nguyên Hồng,

luận án mong muốn góp thêm một tiếng nói khẳng định những đóng góp và vị

trí của nhà văn trong tiến trình phát triển của văn học Việt nam hiện đại đồng

thời, những kết quả của luận án còn góp phần vào việt nghiên cứu giảng dạy

và học tập về nhà văn Nguyên Hồng cũng như về văn xuôi Việt Nam hiện đại

trong các nhà trường hiện nay.

Đây cũng là tấm lòng đồng cảm và tri ân của người viết với một nhân

cách lớn - một chữ “Tâm” tràn đầy ở một con người bình dị.

5.Phương pháp nghiên cứu:

Trong quá trình nghiên cứu, luận án đã sử dụng những phương pháp

sau:

Phương pháp lịch sử - cụ thể , phương pháp loại hình học (loại hình về

tác giả, loại hình về tiểu thuyết và truyện ngắn).

6.Bố cục của luận án:

12

Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục luận án được tổ chức thành 4

chương:

Chương 1: Nguyên Hồng - Nhà văn của lòng thương cảm thống

thiết.

Chương 2: Nguyên Hồng – Ngòi bút hiện thực giàu chất lãng mạn.

Chương 3: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn và tiểu thuyết

Nguyên Hồng trước Cách mạng.

Chương 4: Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn và tiểu thuyết

Nguyên Hồng trước Cách mạng.

Cuối cùng là phần phụ lục và tư liệu tham khảo.

13

B. NỘI DUNG

Chương I.

Nguyên Hồng - Nhà văn của lòng thương cảm

thống thiết đối với con người.

1.1. Chủ nghĩa nhân đạo - Cảm hứng chủ đạo trong sáng

tác của Nguyên Hồng.

1.1.1. Nguyên Hồng viết văn vì lòng thương cảm những kiếp

người cùng khổ.

Nguyên Hồng có một khả năng đặc biệt là rất dễ gần người khác; mà

gần ai là dễ tin cậy, gây một thứ quan hệ ấm áp, cởi mở làm cho người ta dễ

thổ lộ những điều đang ấp ủ trong lòng. Có được điều ấy là vì ông có một tình

yêu thật sự sâu xa đối với con người. Nó làm cho ông luôn sẵn sàng thông

cảm, thâm nhập được vào những niềm vui, nỗi buồn, những công việc hàng

ngày và những ước mơ , khát vọng ở người khác.

Nguyên Hồng bước vào nghề văn do sự thôi thúc "nội tâm", muốn nói

lên nỗi thống khổ khôn cùng của con người; trước hết là người lao động, để

bênh vực họ. Đó là ý thức nghệ thuật đã trở thành cảm hứng, cuốn hút sự say

mê, sáng tạo của ông trong suốt cuộc đời cầm bút.

Đối với một người thanh niên thời đó, địa vị không có, gia đình suy tàn,

học thức tầm thường nhỏ nhoi, Nguyên Hồng nghĩ chỉ còn có một cách tồn tại

trong cuộc sống bằng cái cao quí, trong sạch của văn chương.

Sáng tác là niềm đam mê lớn nhất của cuộc đời Nguyên Hồng. Ông chỉ

có viết và viết. Viết từ trẻ cho đến già. Viết cả trong nhà tù và viết trong cái

đói thường trực. Tựa như ông dốc cạn cuộc đời ra mà viết, vắt kiệt mình ra

mà viết. Viết với tất cả tín niệm thiêng liêng, cao cả của nghề. Với Nguyên

Hồng, không viết không sống nổi, không viết không có gì minh chứng cho sự

hiện diện, sự tồn tại của bản thân mình. Quả thực Nguyên Hồng viết văn

14

trước hết là để khẳng định sự tồn tại của mình đối với cuộc đời. Cho nên ngay

từ ngày đầu cầm bút, Nguyên Hồng đã tự ý thức: "Cần thiết với tôi là việc

phải viết, viết ra thành chữ tất cả những gì chứa đựng nung nấu, quằn quại

và đau xót và bay bổng và bát ngát của tâm hồn, của suy nghĩ. Viết để mình

đọc trước nhất. Viết cho mình đọc trước nhất". (31 - 27). Nguyên Hồng đã

viết khi thấy cực quá, khổ quá muốn được giãi bày tấm lòng mình, muốn

được chia sẻ, cảm thông. Bởi vậy ông đã viết suốt ngày, suốt đêm, viết một

cách đau khổ, say mê, bất chấp "cái đói ê ẩm thấm thía vô cùng trong đêm

mưa lạnh hoang vắng". Bằng sáng tác của mình, Nguyên Hồng đã tiếp nối

xứng đáng dòng văn chương thương cảm của dân tộc và làm giàu có thêm

truyền thống nhân đạo của văn học Việt Nam.

Khác với những bạn văn cùng thời với mình như Ngô Tất Tố, Kim Lân

là nhà văn của nông thôn và nông dân, Nguyên Hồng có nguồn suối tinh thần

yêu thương của riêng mình. Ông chuyên viết về người dân nghèo thành thị,

đặc biệt là những kiếp người bị xã hội thực dân phong kiến giày đạp tàn nhẫn

và đẩy đến bước đường cùng. Tác phẩm của Nguyên Hồng cho ta thấy quá

trình bần cùng hoá, lưu manh hoá của những người dân nghèo thành thị.

Nhưng cái hướng chính, hướng thiện của họ theo Nguyên Hồng vẫn là niềm

khao khát vươn tới ánh sáng, những mong muốn có một sự thay đổi, một sự

chuyển biến mạnh mẽ nhằm tạo ra một cuộc sống công bằng hơn, đẹp đẽ hơn

với một đức tin mãnh liệt.

Nếu như các nhà văn khác hướng tới những người nghèo khổ mà viết

với tấm lòng thương cảm, thì Nguyên Hồng là người "Đứng trong lao khổ”,

là thành viên của đám đông nghèo khổ. Ông viết về họ như viết về cuộc sống

của chính bản thân mình, bằng tất cả sự đồng cảm, chia sẻ, thấm thía tự bề sâu

tấm lòng trước mọi nỗi buồn lo, xót đau, quằn quại của lớp người dưới đáy xã

hội. Ranh giới giữa nhà văn và cuộc đời dường như bị xoá nhoà:

"Tôi sẽ viết về những cảnh đói khổ, về những sự áp bức, về những nỗi

trái ngược bất công. Tôi sẽ đứng về những con người lầm than bị đày đoạ, bị

15

lăng nhục. Tôi sẽ vạch trần những vết thương xã hội, những việc làm bạo

ngược lộng hành của xã hội thời bấy giờ. Tôi sẽ giành nhận lấy mọi trách

nhiệm, chống đối cũng như bào chữa bảo vệ. Tôi sẽ chỉ tiến bước, chỉ có đi

thẳng. Tôi sẽ chỉ biết có ánh sáng và chính tôi là ánh sáng.... Chao ôi, thế thì

còn gì làm tôi đáng sống hơn nữa? Thế thì còn có hạnh phúc và sự giàu có

nào đánh đổi hay so sánh được". (31 - 29).

Nội dung cảm hứng thương cảm của Nguyên Hồng là tình thương và

niềm tin đối với người cùng khổ, trước hết là những người lao động.

Ngòi bút của Nguyên Hồng đã tạo dựng một thứ không khí riêng, một

thứ âm thanh màu sắc riêng cho những cảnh đời luôn luôn trở đi trở lại trên

các trang viết của ông. Đó chính là âm thanh của cuộc sống. Không tinh tế,

gạn lọc như Thạch Lam, văn Nguyên Hồng luôn ngồn ngộn chất sống, ông

chủ trương để cho cuộc sống ùa vào trang sách của mình với tất cả sự ồn ào,

náo nhiệt, hỗn độn của nó. Sống trong sự cùng cực, bị vắt kiệt. Sống trong sự

lo âu, khắc khoải, được hôm nay không biết ngày mai.

Tác phẩm của Nguyên Hồng đã làm sống dậy cuộc sống lam lũ cơ cực,

bần cùng của những người lao động nghèo khổ ở các vùng ngoại ô, ngõ hẻm

ở các thành phố lớn, như ngoại ô Bạch Mai, ô Yên Phụ, bãi Phúc Xá, bãi Nhà

Dầu ở Hà Nội hay xóm Cấm, xóm Chùa Đông Khê, xóm Chợ con, ngõ Hàng

Gà... của Hải Phòng. Họ sống trong những xóm nhà lá hoặc lợp tôn chen

chúc, úp súp với những ngọn đèn leo lét, những ngõ hẻm lầy lội, nhớp nháp vì

người ta gánh nước đổ rác, gánh rau đậu đi chợ... Và ở đó luôn ngập tràn

những âm thành hỗn độn của cuộc sống: Tiếng chửi bới của cảnh ăn uống,

mua bán, những tiếng kêu cướp giật hoặc một giọng cười khiêu khích của một

cô gái nhảy... Nhưng có điều rất đặc biệt là những con người quằn quại trong

sự đau khổ nhưng vẫn lạc quan, yêu đời, vẫn muốn "ngoi lên ánh sáng như

những mầm cây xanh" (Ngọn lửa).

Trong số họ có những cô gái quê bị mẹ gả bán, ép uổng hoặc bị đầy đoạ

bởi những hủ tục, luật lệ phong kiến khắc nghiệt, đã bỏ làng ra tỉnh rồi bị lừa

16

bịp, cưỡng hiếp biến thành lưu manh, gái điếm như nhân vật Tám Bính (Bỉ

Vỏ); hoặc bị rơi vào ổ của bọn cờ bạc bịp và buôn hàng lậu như Muống

(Quán Nải)... Nhưng ở những con người ấy lúc nào cũng chan chứa một lòng

thương yêu tha thiết và nỗi khát khao vượt ra khỏi cảnh tăm tối, muốn vươn

tới ánh sáng của một cuộc sống tốt đẹp hơn. Dường như Nguyên Hồng luôn

tìm thấy tất cả những cái có vẻ tầm thường của cuộc sống ấy, một chất đẹp,

một chất thơ mà người khác không nhìn thấy. Đằng sau cái vẻ lam lũ, xấu xí

là những tâm hồn rất cao đẹp, rất đáng quí. Đó là tình thương yêu, đùm bọc

lẫn nhau giữa những người cùng khổ. (Hơi thở tàn); tình nghĩa thuỷ chung và

hy sinh cho hạnh phúc của người khác (Đây bóng tối; Trong cảnh khốn

cùng); lòng tự trọng, dù đói khổ vẫn không chấp nhận lối sống truỵ lạc, bán rẻ

nhân phẩm để chạy theo đồng tiền và danh vọng (Cô gái quê, Nhà bố

Nấu...). Ngay ở cả những nhân vật "dưới đáy" của xã hội, như một gã ma cà

bông, một bỉ vỏ hay một tên trùm lưu manh cũng còn le lói những ánh sáng

lương thiện dưới vùng sâu tiềm thức.

Quả thực, Nguyên Hồng là một cây bút đôn hậu, luôn luôn hướng đến

cái cao đẹp, trong sáng với niềm tin yêu thắm thiết. Tình thương và niềm tin

ấy có quá trình bồi đắp, nâng cao từ triết lý sống của người bình dân đến tinh

thần nhân đạo Cách mạng gắn liền với sự chuyển biến thế giới quan của nhà

văn trong quá trình tham gia Cách mạng. Nhưng thực sự tính chất thống thiết,

mãnh liệt của cảm hứng trong sáng tác Nguyên Hồng ít thay đổi. Người ta

thường nói đến một chủ nghĩa nhân đạo chỉ riêng có trong sáng tác của

Nguyên Hồng, mà điểm cốt lõi của nó là một tấm lòng hướng về tầng lớp

cùng khổ, dưới đáy của xã hội, và một niềm tin không lay chuyển vào phần

tốt đẹp nơi tâm hồn con người. "Cảm hứng cần lao và tranh đấu của Nguyên

Hồng cũng chính là cảm hứng nhân đạo nơi ông" (58 - 36).

1.1.2. Nguồn gốc cảm hứng thương cảm đối với con người

của Nguyên Hồng.

17

Nguồn suối tình cảm yêu thương của Nguyên Hồng bắt nguồn từ cuộc

đời thực của ông và của những con người lam lũ bất hạnh ở trong hang cùng

ngõ hẻm, ngoại ô thành phố. Chưa đến mức phải đi bới rác, đi ở, phụ bếp trên

tàu thuỷ... như Gorki, nhưng cậu bé Nguyên Hồng cũng lớn lên trong sự thiếu

thốn đến cùng cực: Thiếu ăn, thiếu mặc và thiếu tình thương yêu chăm sóc

của người thân. Tuổi thơ của Nguyên Hồng là những ngày tháng lang thang

đầu đường xó chợ, đánh đáo kiếm ăn và chung đụng với mọi hạng trẻ hư hỏng

cặn bã. Đó là những đứa trẻ đi ở, bế con, bán nước; thậm chí cả những đứa

trẻ ăn mày ăn cắp từ con cá, lá rau. Có thể nói Nguyên Hồng đã sống và lớn

lên cùng với tầng lớp "dưới đáy" của xã hội, những con người nghèo khổ, cơ

cực nhất. Họ phải lam lũ kiếm sống mà vẫn không đủ ăn, không mấy khi có

được một bữa no. Nguyên Hồng trong những trang nhật ký của tập Hồi ký

Những ngày thơ ấu đã từng cay đắng thốt lên:

"Ngày 1.12.1931. Cậu ơi! Cậu sống khôn chết thiêng, cậu có biết cho

con không? Mà con cầu xin lẽ nào cạu lại không nhận lời con? Cậu phù hộ

cho con được lấy một hào thôi! Con đói lắm cậu ạ! Trời lại mưa rét quá".

Mất cha, mẹ lại đi bước nữa và phải đi làm ăn xa khiến bé Hồng phải

sống trong sự ghẻ lạnh, khinh miệt của gia đình, họ hàng, làng xóm, Người

bà, người cô ruột của Hồng muốn gieo rắc vào đầu cậu những ý nghĩa xấu xa

về mẹ mình. Với quan niệm của xã hội phong kiến thời ấy, họ không thể chấp

nhận một người đàn bà chưa đoạn tang chồng mà đã có con với người khác.

Điều đó làm cho trái tim vốn nhạy cảm của cậu bé Hồng càng đau đớn hơn.

Và ngay với Hồng, họ hàng cũng ghê sợ, rẻ rúng trước đứa con trai "mới một

dúm tuổi mà đã trải hết nhà lao này sang nhà lao khác". Trước sự hắt hủi xa

lánh của mọi người, mẹ con Hồng đã phải dắt díu nhau ra Hải Phòng tìm kế

sinh nhai. Lúc ấy Nguyên Hồng mới 16 tuổi. Và từ đó, Nguyên Hồng đã thực

sự nhập hẳn vào cuộc sống của hạng người "dưới đáy" của xã hội thành thị.

Chính cuộc sống thiếu tình thương và phải tự lập từ nhỏ ấy với những trải

nghiệm bản thân trong thế giới của những người cùng khổ khiến Nguyên

18

Hồng dễ cảm thông, chia sẽ những khổ đau, bất hạnh của con người. Và điều

đó cũng sớm hình thành ở nhà văn một cá tính riêng đặc biệt giàu xúc cảm, dễ

xúc động. Lòng ông thắt lại trước cuộc sống cùng cực của những con người

buôn thúng bán bưng, những thợ thuyền phu phen, những lưu manh, gái điếm

mạt hạng, những hình ảnh xác chết vô thừa nhận, những đám tù giải đi xử

án... Những cảnh ngộ buồn thảm đó và những ngày thất nghiệp kéo dài đã ám

ảnh, trĩu nặng xuống tâm hồn nhạy cảm của Nguyên Hồng khiến ông "nhiều

lúc thấy bối rối, lo sợ và tưởng mình sẽ chết ở tuổi 16".

Nhiều lúc tuyệt vọng quá sau những ngày lang thang không xin được

việc, Nguyên Hồng đã có ý định tự tử khi thấy ngày mai càng mịt mù, tối tăm.

Nhưng rồi, người thanh niên ấy lại thấy ham sống, thèm sống tha thiết khắc

khoải lạ thường. Anh nghĩ dù có chết đi cũng phải để lại cho cõi đời mà anh

yêu mến một cái gì vừa tinh khiết, trong sáng, vừa tha thiết, yêu thương nhất

của tâm hồn. Suy nghĩ đó đã đưa Nguyên Hồng đến với văn chương. Ông trở

thành nhà văn của lòng thương cảm thống thiết đối với con người trong một

giọng văn riêng, một bút pháp riêng độc đáo.

Hoàn cảnh ấy, cá tính ấy cũng đã định hướng cho ông khi tiếp thu

những yếu tố tư tưởng, văn hoá của dân tộc và của nhân loại. Đó là tình

thương, là tinh thần lạc quan của triết lý dân gian, là giá trị nhân đạo chủ

nghĩa của văn học dân tộc và thế giới. Đó là những cô Kiều "ba chìm bảy nổi

chín lênh đênh" những người đàn bà "đòn gánh tre chín dạn hai vai" trong

Văn chiêu hồn của Nguyễn Du; Những cô Cúc Hoa, Ngọc Hoa, Kiều

Nguyệt Nga đảm đang chung thuỷ và cả những bà vợ hiền "lặn lội thân cò khi

quãng vắng, eo sèo mặt nước buổi đò đông" trong thơ Tú Xương....

Thời đó Nguyên Hồng cũng có điều kiện tiếp xúc với những tác phẩm

mang truyền thống nhân đạo chủ nghĩa của Phương Tây như: "Những người

khốn khổ của V.Hugo; "Đavid copperfield" của Charles Dickens; "Thời thơ

ấu" của M.Gorki và một số truyện ngắn của Alphonse Daudet..

19

Sinh trưởng trong một gia đình theo đạo gốc với một bà mẹ rất sùng

đạo nên tư tưởng bác ái của Thiên chúa giáo đã có ảnh hưởng sâu sắc đến

niềm tin mãnh liệt vào thiện căn của con người và lòng yêu thương con người

tha thiết của ông. Sự ảnh hưởng của tôn giáo một cách tự nhiên khiến Nguyên

Hồng cảm nhận, lý giải hiện thực theo cách của riêng ông. "Cảm quan tôn

giáo được xác định như là ý thức nghệ thuật đạt đến độ chín muồi và thể hiện

ra một cách tự nhiên thông qua sự cảm nhận, cắt nghĩa hiện thực, qua cái

nhìn nghệ thuật đối với đời sống của nhà văn". (58 - 236).

Chính lòng yêu người, và tinh thần lạc quan yêu cuộc sống cùng với sự

ảnh hưởng của tôn giáo đã giúp Nguyên Hồng dù sống giữa đám người nghèo

khổ, lưu manh, ma cô, gái điếm như vậy mà ông vẫn không bị chìm ngập

trong cuộc sống tối tăm, tội lỗi. Nhưng mặc dù vậy, Nguyên Hồng lại phản

đối thái độ quì mọp trước tôn giáo để cầu xin sự thưởng phạt công bằng của

Chúa. Nguyên Hồng ca ngợi những đức tính tốt đẹp chịu thương, chịu khó,

giàu lòng hy sinh nhưng ông đã không lý tưởng hoá đức tính cam phận, nhẫn

nhục của họ. Ngược lại, Nguyên Hồng luôn chủ trương đánh thức dạy ở họ ý

thức đấu tranh cho một cuộc sống bình đẳng, công bằng hơn, hạnh phúc hơn.

Những yếu tố đó được bổ sung, nâng cao một cách đáng kể bởi tư

tưởng nhân đạo cộng sản chủ nghĩa khi Nguyên Hồng giác ngộ và đi theo

Cách mạng từ thời kỳ Mặt trận dân chủ. Chính ánh sáng của quan điểm giai

cấp và những nhận thức chính trị đúng đắn đã giúp Nguyên Hồng có được

những cách nhìn tiến bộ đó. Vì thế mà những nhân vật của Nguyên Hồng luôn

để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng rất sâu sắc, gợi cho chúng ta nhiều

suy nghĩa về số phận của những người phụ nữ trong xã hội cũ như Tám Bính,

Muốn, Mũn, Mợ Du.... Số phận của họ hình như đôi lúc vẫn thấp thoáng trong

cuộc sống đời thường hiện nay.

Đấy chính là sức sống mãnh liệt của ngòi bút Nguyên Hồng

1.2. Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng.

1.2.1. Con đường nghệ thuật nhất quán.

20

Trên con đường đến với văn chương ở những thuở ban đầu, Nguyên

Hồng có chịu ảnh hưởng của nhà thơ Thế Lữ. Hình ảnh thi nhân tác giả những

Cây đàn muôn điệu, Tiếng sáo Thiên thai và Nhớ rừng đã là "một

trong những hình ảnh lồng bằng hào quang và chiếu gợi vô cùng" đối với nhà

văn. Ông thấy có gì đó đồng cảm với thi nhân về gia cảnh mồ côi, nghèo

túng... Nhưng trên hết vẫn là những lời chỉ đạo tận tình, nâng niu những cảm

xúc ban đầu và khích lệ động viên Nguyên Hồng tiếp tục viết và có một định

hướng rõ ràng: "Khi thấy mình viết xoàng, viết nhạt, khi thấy chính mình cũng

không bằng lòng mình, thì không nên viết. Chỉ nên viết khi thấy cần viết, phải

viết, nghĩa là không viết được... viết phải là một sự cần thiết, một sự tất yếu..."

(31 - 39).

Ngay những bước đi chập chứng đầu tiên ấy, Nguyên Hồng đã muốn

viết về những chuyện xã hội. Con người ấy sẵn sàng chịu chết đói "chứ viết

tồi, viết dở, viết kém thì bẻ ngòi bút đi, xé bản thảo đi" (31 - 37). Và trước Thế

Lữ - Thi nhân, Nguyên Hồng thấy mình không chút ngượng ngập và đủ tự tin

nhìn thẳng vào Thế Lữ mà giới thiệu: "Tôi cũng viết văn! tôi cũng là một

người viết văn! tôi viết văn và là người viết văn trong đám những người

nghèo đói, đau khổ, lầm than! Tôi sẽ nói chuyện với anh thuần về văn

chương, thuần về những gì là tư tưởng, là tâm hồn, là cao quí của những con

người đang thương yêu và qúi trọng nó vô cùng". (31 - 37,38).

Không giống như một số cây bút khác cùng thời như Nguyễn Công

Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài, Nam Cao.. có sự lúng túng ở bước đi đầu

tiên, Nguyên Hồng đã xác định đúng ngay từ đầu con đường nghệ thuật của

mình.

Trước hết, ông không cho phép mình "viết những chuyện tình yêu phù

phiếm, bợm bãi, những truyện mơn trớn khêu gợi, những tình cảm thấp kém,

những truyện để mua vui, để chiều ý, để cầm lấy chút khen gợi hay nhắc nhở

của một bọn vô công rồi nghề phè phỡn, trơ tráo, - cái bọn giàu có sang trọng

21

gọi là thượng lưu xã hội lúc bấy giờ". Ông cũng không cho phép mình "viết

những cái gì là a - tòng, những cái gì để tô điểm cho lối sống và bộ mặt của

chúng" ; những bọn người mà ông "đã biết khinh bỉ, đã biết thù ghét, bởi vì

"sự chân chính và cao quí, đạo đức và nhân phẩm không thuộc về chúng mà

thuộc về những kẻ nghèo khổ, cùng cực đang bị chúng rẻ rúng (31 - 47)

Đó là con đường của một nhà văn hiện thực chân chính vì nhân dân lao

động mà viết, và mọi điều viết ra đều bắt nguồn từ những cảnh sống của

những người lao động. Đây cũng chính là điều mà chúng ta gọi là cảm hứng

cần lao trong sáng tác của Nguyên Hồng. Cả đời văn mình, Nguyên Hồng đã

viết hào hứng và say mê về số phận của những người lao động nghèo khổ, đặc

biệt là phụ nữ và trẻ em. Ông được xem là "nhà văn của phụ nữ và nhi đồng"

vì thế các tác phẩm của ông chứa đựng nội dung nhân đạo sâu sắc. Nội dung

ấy bao gồm hai khía cạnh đó là tình thương vô bờ bến và niềm tin sáng chói ở

thiện căn bền vững của người lao động.

Họ là những người dân nghèo khổ, lam lũ. Họ phải kiếm sống bằng đủ

thứ nghề phu phen thợ thuyền, buôn thúng bán bưng, khâu thuê vá mướn, di

ở.... Thậm chí nhiều kẻ đáng thương phải kiếm sống bằng nghề mạt hạng nhất

trong xã hội như ăn cắp, làm gái điếm....

Tố cáo, lên án với thái độ phẫn nộ cái xã hội thực dân phong kiến chưa

phải là cảm hứng chủ đạo của Nguyên Hồng. Đây là một đặc điểm khác của

Nguyên Hồng so với một số nhà văn hiện thực đương thời. Mục đích chính

của ông chưa phải là muốn lên án bọn địa chủ, tư sản, quan lại, muốn vạch

mặt trái những chính sách mị dân giả dối, lừa bịp và tố cáo những thủ đoạn

của cái xã hội thực dân phong kiến đương thời.

Chỉ có viết về đời sống thực của những người khổ đau với tất cả sự bất

hạnh và vẻ đẹp trong bất hạnh của họ, ngòi bút của Nguyên Hồng mới rung

lên thành những trang thống thiết nhất, nồng ấm nhất và cũng sâu sắc nhất.

Nguyên Hồng viết về họ với một tấm lòng yêu thương vô hạn, một trái tim

nhân hậu vô cùng. Mỗi trang viết ta thấy như có giọt nước mắt nóng bỏng, xót

22

thương của ông. Và những nhân vật ấy dù trong hoàn cảnh nào cũng bộc lộ rõ

đức tính chăm chỉ, chịu thương chịu khó, rất vị tha giàu đức hy sinh, và đặc

biệt luôn luôn hướng thiện.

Do vậy trong sáng tác của Nguyên Hồng cảm hứng chủ đạo không chỉ

nghiêng về phía đau đớn và xót thương mà còn nghiêng về phía thánh thiện,

ngợi ca và khẳng định. Ở Nguyên Hồng không có hiện tượng "sám hối" "phản

tỉnh" về những đứa con tinh thần của mình.

Những sáng tác của ông có sự nhất quán về tư tưởng nghệ thuật. Và

chính tư tưởng nghệ thuật trên đây đã như sợi chỉ đỏ xuyên suốt các tác phẩm

của Nguyên Hồng, kể từ những truyện ngắn, tiểu thuyết đầu tay như Linh

hồn, Cát bụi lầm, Bỉ vỏ, Bảy Hựu.... cho đến bộ Cửa biển đồ sộ sau này.

Đó là con đường nghệ thuật nhất quán, liền mạch từ một nhà văn hiện thực trở

thành nhà văn Cách mạng.

1.2.2. Bức tranh xã hội và nhân sinh

Sinh ra và lớn lên ở Nam Định, nhưng đối với Nguyên Hồng nhà văn -

thì Hải Phòng là nơi sinh, nơi dưỡng, là món nợ lòng và gần như ông đã dành

trọn đời mình để trang trải món nợ lòng đó.

Trong sáng tác của mình, Nguyên Hồng bao giờ cũng nhắc đến Hải

Phòng: "Cuộc sống của Hải Phòng và Hải Phòng đã mở ra những bước

đường cho tôi đi"; "Hải Phòng đã nuôi nấng tôi. Tôi đã lớn lên dưới đôi vú

mẹ đầy bụi than và vết đế quốc bóp xé" (33 - 97).

Rời ghế nhà trường ở Nam Định ra Hải Phòng là lập tức Nguyên Hồng

phải lo chuyện kiếm sống. Ông đã lang thang chầu chực ở Sáu kho, xi măng

rồi Cốt phát để xin việc làm. Thực sự Nguyên Hồng đã bị ném vào môi

trường của những người cùng khổ nhất trong xã hội cũ. Từ ngày đó "Người ta

thấy xuất hiện trên đường phố Hải Phòng một thanh niên thất nghiệp. Đó là

người có dáng nhỏ bé lom khom, áo chùng thâm dán lấy ngực, mũ trắng vành

to, gương mặt xanh xao mất máu. Ngày ngày cậu lang thang ở bến tàu to Sáu

kho, nhà máy xi măng, sở dầu Thượng Lý hoặc chầu chực ở cổng các nhà

23

máy Cốt phát, Máy tơ, Máy chỉ, Máy ống, các hãng chuyên chờ hàng hoá, các

bến ô tô, tàu thuỷ, các kho hàng cửa hiệu, lán củi hoặc lân la ở các xóm ngõ

đầu đường nơi đi về của phu phen thuyền thợ.... để nghe ngóng, thăm dò công

việc. Vườn - hoa - đưa - người là chặng nghỉ cuối cùng sau những buổi sáng,

buổi chiều đi chầu chực, xin xỏ các nơi không được việc gì cả, là nơi sau

những buổi tối cơm chiều không có đèn, nhà hết dầu, anh đến đứng lặng thẫn

thờ, trong lòng đau khổ, buồn bã vô cùng" (19- 10).

Trong những ngày gian nan khốn khó ấy, ông lại thấy cuộc sống có ý

nghĩa bởi vì ông đang được sống giữa những con người đáng mến và quí

trọng. Họ và những người "không được hưởng một chút sung sướng về vật

chất nhưng biết hy vọng vào một cuộc sống mới sẽ đến". (33- 97).

Chính vì thế ngòi bút của Nguyên Hồng sớm được tôi luyện trong mồ

hôi nước mắt của những kiếp sống lam lũ cùng khổ ấy - ngòi bút của một nhà

văn "Chân đất".

Trên những nét lớn, có thể nói rằng bức tranh xã hội và nhân sinh trong

tác phẩm Nguyên Hồng chủ yếu là bức tranh về cuộc sống, con người cần lao

của thành phố Hải Phòng trước Cách mạng tháng Tám với tất cả những nét

ngổn ngang thô nháp, sần sùi nhưng cũng đây chất thơ của nó. Bởi đó là thế

giới riêng của nhà văn, đó là thế giới mà Nguyên Hồng có sự am hiểu sâu sắc

nhất. Nguyên Hồng đã dành nhiều tình cảm yêu thương, trân trọng khi viết về

Hải Phòng. Bị đi đày ở trại tập trung Bắc Mê, Nguyên Hồng đã hoá thân vào

nhân vật Xuân để hơn một lần thổ lộ những lời nhớ thương da diết đối với Hải

Phòng:

"Minh ơi, tôi nhớ Hải Phòng quá lắm, chưa bao giời trước mắt tôi

những hình ảnh của nó rõ ràng như lúc này" (Cuộc sống).

Không chỉ viết cuộc sống cần lao của Hải Phòng, thiên nhiên trong tác

phẩm của ông cũng là hình ảnh của thiên nhiên thành phố cửa biển này.

Nguyên Hồng như có biệt tài tả nắng, một cái nắng "rất Hải Phòng": Một cái

nắng hoạt động, nó lồng lộng, phấp phới, có lúc như thật sự phát ra âm thanh.

24

"nắng không reo nữa mà hét lên trong thứ ánh vàng chói loà của nó".

Dưới cái nắng và gió ấy, đất cát, cỏ cây, sông nước cho đến phố xá, chợ

búa... tất cả đều tràn đầy sinh khí, sức sống mãnh liệt hơn, tấp nập hơn, náo

nhiệt hơn: 'Ngoài kia nắng vàng chợt rực lên. Mấy đám mây trắng muốt bừng

sáng theo. Dưới sông, những ngấn nước bạc chạy rào rào, chói loà.... Con

đường đất từ bến ô tô băng xuống bãi đã nhộn nhịp đi làm về. Quần nâu, áo

vá và nón, mũ dúm dó toát ra những làn hơi trắng mờ như chính vật này cũng

đã mệt mỏi, gắng gượng mà trở mặt mày, chân tay và da dẻ người ta nổi lên

với tất cả vẻ dầu dãi, nhẫn nhục giữa cái nền vàng ngời của nước phù sa và

đất nâu mịn trộn với nắng" . (Hơi thở tàn).

Đọc Nguyên Hồng ta thấy rõ điều này: "Dù ông viết về nơi đâu, thuộc

địa chỉ nào, người đọc cũng cảm thấy như mở ra trước mắt cảnh vật, con

người và không khí của thành phố Hải Phòng" (Nguyễn Đăng Mạnh).

Đó chính là thế giới nghệ thuật chủ yếu của Nguyên Hồng.

1.2.3. Những nhân vật cùng khổ:

Nhân vật trung tâm thể hiện tập trung, sâu sắc tư tưởng nghệ thuật của

Nguyên Hồng là những người cùng khổ. Họ thuộc đủ mọi thành phần trong

cái nhân loại cần lao của thành phố Hải Phòng trước Cách mạng: từ những kẻ

lưu manh, gái điếm đến những phu phen, thợ thuyền, những người buôn

thúng, bán bưng; những đứa trẻ mồ côi, lang thang, những người ăn mày, ăn

xin, những tù đàn bà, tù trẻ con; những nghệ sĩ, trí thức tiểu tư sản nghèo...

Nguyên Hồng thực sự là nhà văn của "Những người cùng khổ". Dưới ngòi

bút của ông, dường như họ đều có cuộc sống khổ đau và bất hạnh tối tăm"

(Nguyễn Đức Mạnh). Và chịu nhiều nỗi khổ đau, bất hạnh hơn cả là những

nhân vật trẻ em, nhất là những nhân vật phụ nữ. Đó là những người ít học,

sống nghèo khổ lam lũ. Và trong cái xã hội thực dân phong kiến mà "người

với người là chó sói ấy" thì họ là lớp người bị đày đoạ nhiều nhất và ít có khả

năng tự vệ nhất.

25

Nguyên Hồng không chỉ viết về họ mà còn dành cho họ những dòng

tâm huyết nhất, nóng bỏng nhất, trân trọng nhất. Có lẽ xuất phát từ chính năm

tháng phải sống trong côi cút tủi nhục, từ cuộc đời vất vả lam lũ, nhẫn nhục

chịu đựng nhưng đầy lòng vị tha của người mẹ, người vợ thân yêu đã ảnh

hưởng lớn đến sáng tác của Nguyên Hồng. Hình ảnh của họ đã làm cho trái

tim đầy ắp tình thương của ông luôn dạt dào cảm xúc. Nguyên Hồng có xu

hướng khẳng định, ca ngợi vẻ đẹp tinh thần của con người, nhất là tinh thần vị

tha, giàu đức hy sinh của người phụ nữ trong khổ đau và bất hạnh. Đó là

những cô Mũn, cô Muống, cô Vịnh, Mợ Du......... trong một loạt truyện ngắn

của Nguyên Hồng.

Từ thuở ấu thơ Mũn đã phải sống trong cảnh cơ cực, côi cút: "Mồ côi

cha mẹ, phải đi dắt thêu cho một bà lão ăn mày, chẳng bao giờ được miếng

ngon" (Đây bóng tối). Vì thế khi được ăn những "miếng thịt lẫn lộn cơm và

nước dãi" của người bạn nghèo khác cho thì Mũn đã cảm động và sung sướng

lắm rồi. Cho đến khi được làm vợ, làm mẹ Mũn vẫn tiếp tục phải sống cuộc

đời nghèo túng ấy. Và cũng vì miếng cơm manh áo cho chồng con mà Mũn

đã phải chịu chết "mất xác".

Cũng có lúc ta bắt gặp bóng dáng bà Tú "lặn lội thân cò khi quãng

vắng" qua hình ảnh người đàn bà trong "một trưa nắng" "Trưa nay, y đi chợ

này. Tinh sương gà gáy mai y đã đi chợ khác.... đi như thế đâu phải trên vai y

chỉ có một sức đè nén của thời tiết mà còn bao nhiêu nặng nề của những gánh

ngô, đỗ, thóc gạo, dây khoai, bèo lợn, gốc tre và bao nhiêu điều lo toan về

nuôi nấng chồng con, đóng góp cho họ hàng, làng mạc”. (20- 281).

Cũng giống như Mũn, Quyến - cô lái đò Trong cảnh khốn cùng sống

giữa một anh chàng ốm đau bệnh tật mà chị ta thì còn hơ hớ tuổi xuân. Chị

cảm thấy tủi thân, chị nghĩ đến anh chân sào đang lấm lét nhìn chị ở mạn

thuyền. Trái tim Quyến cũng thấy rạo rực: "cõi lòng nàng giống hệt một chiếc

đò cũ kỹ va mạnh vào mỏm đá là tan tành". Nhưng rồi cái cảnh đói khát, cải

cảnh nhường nhịn và nhịn nhục của một gia đình phu mỏ trong chuyến đò đã

26

làm cho chị lái hồi tâm. Chị kìm nén được lòng mình, đã "mất hết cả mọi sự

buồn bã chán nản, nàng thấy lòng nhẹ nhàng sáng sủa và đời êm đềm dễ chịu

như thế mấy năm xưa đầy đủ hạnh phúc " (29 - 137).

Hình ảnh bà mẹ trong Lớp học lẩn lút phải chăng chính là bóng dáng

của người mẹ Nguyên Hồng? Ông đã "hoá thân" vào nhân vật cậu giáo Tâm

để nói lên tấm lòng biết ơn đối với người mẹ kính yêu? Người mẹ đã hy sinh

tất cả cho con mình khiến "cậu giáo Tâm, vô cùng cảm động".

"Hỡi người mẹ hiền từ và chịu khổ, có phải lúc nào bà cũng thương yêu

người khác nên bà dồi dào và tràn đầy hạnh phúc. Lòng vị tha quí hoá ấy,

người ta chỉ tìm thấy trong những người nghèo, người bị bóc lột, người bị đè

ép, những người có bao nhiêu năng lực và đức tính bị dập tắt dưới cái chế độ

tàn ác này" (29 - 110). Cảm nhận của Nguyên Hồng là không có nhân vật nào

hoàn toàn xấu. Họ vẫn còn giữ vững những nét trong sáng ngay cả khi rơi vào

những cảnh ngộ bất hạnh (như Làm đĩ, Chạy vỏ....). Họ đẹp ngay cả khi hình

thù họ xấu xí nhất (Năm Sài gòn, Bà Phó, Bà Thưởng, Mụ Mão.....). Họ đều

có một đặc điểm chung là lòng nhân ái cho dù cuộc sống bị vùi dập đến cùng

cực của sự khổ đau. Và họ - Những con người cùng khổ ấy đã trở thành một

mảng không nhỏ trong thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng.

1.3. Tình huống gợi lòng thương cảm

Khi xây dựng tình huống truyện, Nguyên Hồng thường chú ý đến hai

yêu cầu: Một là để người đọc thấy hoàn cảnh của nhân vật là thật sự đáng

thương, hai là để người đọc cũng thấy nhân vật là thật sự đáng tin, đáng quí.

Truyện Hàng cơm đêm của Nguyên Hồng hơi giống với truyện Hai

đứa trẻ của Thạch Lam.

Thạch Lam viết về một phố huyện gần ga xép. Chợ họp giữa phố đã

vãn từ lâu, tiếng ồn ào đã lắng hẳn. Đêm xuống. Một mùi ẩm ẩm bốc lên, hơi

nóng của ban ngày lẫn với mùi rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, bã mía quen

thuộc quá, khiến hai đứa bé "tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này".

27

Phố huyện chìm sâu vào bóng tối của một vùng quê mênh mông. Chỉ

còn một vài chấm sáng lù mù quen thuộc xung quanh ngọn đèn của một

chõng hàng nước, cái bếp lửa của hàng phở khuya vắng khách và ngọn đèn

vặn nhỏ thưa thớt, từng hột sáng lọt qua phên nứa của một cửa hàng tạp hoá.

"Trong cái cảnh chìm chìm nhạt nhạt và vắng lặng đó, đêm nào cũng

có một đoàn tàu đi qua, mang theo những luống ánh sáng mạnh quét vào hai

bên và tiếng ồn ào làm xao động cả một phố huyện yên tĩnh" (13- 219).

Đoàn tàu như mang đến một thế giới khác hẳn với cái vầng sáng lù mù

của mấy ngọn đèn quanh quất nơi phố vắng của một phố huyện nhỏ. Một chút

ánh sáng ở một thế giới xa xăm, những ước mơ của hai đứa trẻ vụt đến và đi

qua. Phố huyện lại chìm sâu vào bóng tối hiu quạnh.

Câu chuyện đề lại trong tâm hồn ta những dư vị đằm thắm của quê

hương và một sự cảm thương man mác những cuộc đời thầm lặng như những

chấm sáng lù mù bị nhoè đi trong cái bóng tối dày đặc của một vùng quê tù

đọng.

Nguyên Hồng cũng viết về một phố nhỏ gần một cái chợ. Cũng một thứ

mùi nồng nực của rác rưởi quanh chợ chưa được quét dọn. Cũng những ngọn

đèn của các hàng cơm đêm, hàng phở, hàng tạp hoá, hàng mã, hàng thiếc, của

cái mái là tồi tàn những gia đình phu phen lao động. Và trong khung cảnh ấy

cũng hiện lên hình ảnh một cô thiếu nữ - Vịnh. Cô gái ấy đã từ bỏ hết những

thú vui của một thời con gái, âm thầm chịu đựng ngày nay qua ngày khác,

mòn mỏi trong quán ăn nhỏ giúp mẹ bán hàng. Vịnh không dám nghĩ đến bản

thân mình. Kết thúc một ngày là cảnh Vịnh phải thu xếp nồi niêu xoong chảo,

dao thớt. Và khi mọi người đu ngủ thì Vịnh cũng chưa được ngủ, mặc dù cái

mệt đã làm cho Vịnh tưởng chừng không chịu nổi nữa.

"Gió thổi mạnh, tát cái lạnh vào mặt Vịnh, Vịnh run run ủ hai tay vào

nách, nép sát người vào bức vách. Sự mỏi mệt đã đè nặng lên lưng Vịnh, Vịnh

thấy trên trán có một vật gì tôi tối trĩu xuống. Vịnh gục mặt lên đầu gối, nhắm

mắt lại" (19- 103). Cuộc đời tầm thường, đáng thương của những người dân

28

nghèo trong truyện ngắn của các nhà văn lãng mạn cứ lặng lẽ trôi đi trong sự

an phận, chịu đựng, cái thế giới tĩnh tại ấy không hề thay đổi (Chị em Liên).

Còn trong truyện ngắn của Nguyên Hồng, những người lao động thợ

thuyền, tự tin ở năng lực của mình, ở sự làm việc cần cù của mình đã bắt đầu

hy vọng một sự thay đổi, một cuộc đời mới. Vịnh - cô gái bán hàng cơm đêm

đã cảm thấy ngạt thở, tù túng trong cuộc đời cũ, hy vọng một sự "Phá bỏ rồi

thay đổi hẳn lại thì mới được thổ một bầu không khí trong lành, một nguồn

ánh sáng rực rỡ bên một cuộc đời mới, không đói rét, không đầu tắt mặt tối".

(Hàng cơm đêm).

Sự lật đổ và làm mới lại ấy, Vịnh chưa cảm thấy... "Nhưng có một cái

gì đó soi chiếu vào tâm trí nàng, một cái gì gợi dậy tất cả năng lực, tất cả lửa

lòng của Vịnh lên? (Hàng cơm đêm).

Rõ ràng cùng một tình huống truyện nhưng so với Liên thì cô Vịnh có

sức sống hơn nhiều, có nhận thức về cuộc sống cụ thể hơn để thấy cuộc đời

còn đang sống.

Đọc Nguyên Hồng, ta thường gặp hai tình huống éo le, bi đát và tình

huống bất hạnh chồng chất. Tạo dựng những tình huống truyện như thế,

Nguyên Hồng có thể nói được thật thoả thuê tình thương của mình với nhân

vật và khẳng định chắc chắn thiện căn bền vững của nhân vật.

Đó là cuộc đời của Tám Bính trong Bỉ vỏ. Tám Bính từ một cô gái quê,

tâm hồn trong sạch, ngây thơ giàu lòng tin người, đã bị cái xã hội đểu cáng

biến thành một gái nhà chứa, một Bỉ vỏ lành nghề. Tuy bị đẩy đến tận cùng

của sự khổ đau và những tình huống éo le buộc phải chọn lựa, người ta vẫn

thấy Bính hành động theo tấm lòng hướng thiện và khát khao trở lại cuộc đời

trong sạch. Điều này khác hẳn Thị Mịch trong Giông tố của Vũ Trọng Phụng.

Khi đã bị xã hội làm cho tha hoá, Thị Mịch không có ý muốn quay trở về

cuộc sống " chân lấm tay bùn" như trước nữa. Qua Bỉ vỏ ta thấy Nguyên

Hồng không bao giờ đánh mất lòng tin ở bản chất tốt đẹp của người lao động.

29

Họ nhân ái vị tha ngay cả với những kẻ đã bạc đãi, đối xử tàn tệ với họ.

Đó là những tình huống bi đát trong truyện Người mẹ không con . Mụ Mão

bị chính Kí Phát ruồng rẫy đuổi ra khỏi nhà. Thế nhưng khi nghe thấy "Kí

Phát chết rồi" thì mụ đã bất chấp cơn thịnh nộ của Mão Chột chạy xổ ra ngõ:

"Thoáng một cái mụ đưa mắt qua đám đông, trong đó Kí Phát nằm sõng sượt

dưới đất, mặt mày đẫm máu. Mũ Mão không nén được kêu giời một tiếng, rồi

lao người vào đám đông" (19- 252). Và người đàn bà bất hạnh ấy với lòng

thương người vô bờ đã gạt bỏ những thù hận cũ để cưu mang lấy bố mẹ và

các con của Kí Phát, trong khi mụ cũng chẳng giàu có sung sướng gì.

Thực sự, dù trong bất cứ tình huống nào mà nhân vật phải chịu đựng, ta

luôn nhận thấy một niềm tin mãnh liệt của Nguyên Hồng vào bản chất tốt đẹp

của con người.

30

Chương II

Ngòi bút hiện thực giàu chất lãng mạn

Sáng tác của Nguyên Hồng từ trong bản chất, từ trong ý đồ đã thuộc về

khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa

Thuở ban đầu, ngay từ trong ý nghĩ, Nguyên Hồng đã tự nhận mình là

nhà văn của quần chúng lao khổ: "Tôi viết văn và là người viết văn trong đám

những người nghèo đói, đau khổ, lầm than". (31 - 37)

Văn của Nguyên Hồng là sự chiêm nghiệm và thâu lượm được từ trong

cuộc đời thực của bản thân ông và gia đình trong những năm đói kém phải

phiêu bạt từ Nam Định ra kiếm sống ở Xóm Cấm, Xóm Chùa Đông Khê

thành phố Hải Phòng. Chính vì vậy, qua những tác phẩm tiêu biểu của mình,

Nguyên Hồng đã phản ánh sinh động, lý giải chính xác những vấn đề bản

chất, quy luật của cuộc sống. Nhưng văn học hiện thực chủ nghĩa Việt Nam

có một đặc điểm chung là không thuần nhất. Có những cây bút được coi là

lãng mạn nhưng trong sáng tác của họ vẫn có những tác phẩm hiện thực. Và

ngược lại, trong sáng tác của những cây bút hiện thực, ở những mức độ khác

nhau, lại có những tác phẩm lãng mạn. Sáng tác của Nguyên Hồng có sự đan

xen một cách hài hoà, tự nhiên và đậm nét chủ nghĩa hiện thực với những yếu

tố của chủ nghĩa lãng mạn. Chất lãng mạn hay cảm hứng lãng mạn trong sáng

tác của Nguyên Hồng gắn bó, hoà quyện với cảm hứng thương cảm và có cơ

sở từ chính tư tưởng nhân đạo của ông. Cho nên hiện thực trong tác phẩm của

31

Nguyên Hồng là hiện thực gắn chặt với xúc cảm mạnh mẽ của trái tim. Ta hãy

lắng nghe những xúc cảm trào dâng mãnh liệt của Nguyên Hồng khi Đứa con

đầu lòng - tức cuốn tiểu thuyết Bỉ Vỏ hoàn thành trong những giọt nước mắt

giàn giụa:

"Sự sống ơi! Cuộc đời ơi! Những ai là người cũng nghèo khổ cùng kiệt

đang sống cái cuộc đời lầm than khó khăn mà tủi nhục vô cùng nhưng vẫn

đáng yêu đáng tin vì nhất định một ngày mai đây những nỗi áp bức bất công,

những sự tàn bạo, độc ác sẽ được vạch ra và trừ bỏ đến tận nguồn ... nhưng

ai là người có cùng chung số kiếp với tôi ấy, vì Người, do Người mà tôi đã

viết xong được một thiên truyện đấy!... Người cho tôi gửi tặng nhá! Người

đánh giá việc làm của tôi nhá. Người hãy nhận cho tôi. Người hãy nhận cho

tôi. Người hãy lấy những trang chữ, hãy nhận lấy trọn vẹn trái tim và linh

hồn tôi, một đứa con xấu số chỉ có thể sống với cuộc đời của người, ăn ở với

Người cho đến trọn đời..." (31 - 83)

Thực sự Nguyên Hồng đã dâng hiến trọn vẹn cả linh hồn và trái tim của

mình cho cuộc sống. Vì cuộc sống mà ông viết với một niềm yêu thiết tha,

say đắm.

Tác phẩm của ông một mặt tái hiện một cách trung thực như chính bản

thân đời sống, mặt khác nó lại chứa đựng lòng mong muốn, khát khao về một

tương lai tốt đẹp hơn. Và cũng chính do nặng tình thương cảm với lớp người

cùng khổ, cho nên Nguyên Hồng chưa bao giờ đánh mất niềm tin vào bản tính

lương thiện của những con người đó.

Chính cái nhìn lạc quan đối với bản chất lương thiện của những người

cùng khổ và luôn ấp ủ khát vọng về một tương lai tươi sáng nên trong quá

trình sáng tạo, ngoài việc chủ yếu dùng nguyên tắc tái hiện khách quan của

chủ nghĩa hiện thực, Nguyên Hồng đã sử dụng đan xen những thủ pháp phóng

đại và lý tưởng hoá của chủ nghĩa lãng mạn. Những thủ pháp của chủ nghĩa

lãng mạn cần đến sự gia tăng vai trò của nhân tố chủ quan và đồng thời cho

phép tự do, phóng khoáng hơn về mặt tư duy và tưởng tượng.

32

Tuy nhiên cái nhân tố chủ quan của Nguyên Hồng lại rất đặc biệt. Đó là

tính chủ quan sâu sắc, rộng lớn mang tính nhân đạo. Tính chủ quan được tìm

thấy trong con người nghệ sĩ - một con người với trái tim nồng nhiệt, tâm hồn

chan chứa niềm thương cảm, xót xa với kiếp người bất hạnh.

Nhìn một cách bao quát, tổng thể, người ta sẽ thấy rằng, về cơ bản,

ngòi bút Nguyên Hồng vẫn là ngòi bút của hiện thực, nhưng đó là ngòi bút

hiện thực giàu chất lãng mạn.

Đọc Nguyên Hồng ta thấy chất lãng mạn đậm đà ở nội dung tình cảm

dạt dào, sôi nổi; ở chất thơ hào hùng, bay bổng và ở những hình tượng nhân

vật khác thường trong thế giới nghệ thuật của ông (tiêu biểu là tập truyện Bảy

Hựu - có nhiều yếu tố phóng đại và lý tưởng hoá, những yếu tố ly kỳ rùng

rợn...). Vậy nên độc giả yêu mến gọi ông là "Gorki của Việt Nam" cũng là

điều dễ hiểu.

2.1. Nội dung tình cảm dạt dào sôi nổi:

2.1.1. Tấm lòng nồng nhiệt của nhà văn đối với nhân vật

Lòng yêu cuộc sống và yêu con người là một động cơ lớn thúc giục

Nguyên Hồng cầm bút viết văn. Vì thiết tha yêu sự sống, vì muốn giữ lại mãi

những rung động say mê mà cuộc sống và con người đem lại cho mình, nên

Nguyên Hồng đã cố gắng viết: "Chao ôi! Làm sao tôi không thấy mình sung

sướng được? Mà thấy mình sung sướng như thế nào, lại có cả sách mà đọc,

giấy bút mà viết, bàn để ngồi, đèn thắp suốt đêm, thì làm sao tôi không đọc,

không viết. Không vì những con người ấy mà đọc, mà viết! Không vì vô vàn

những con người cũng đau đớn khổ cực như thế hay hơn thế sống ở chung

quanh đấy, ở khắp nơi, ở cả và mặt đất đầy rẫy những bất công này, mà đọc

mà viết?" (31-43).

Rõ ràng ngay từ những thuở ban đầu cầm bút, Nguyên Hồng đã có một

sự say mê nồng nhiệt với những "nhân vật tương lai" của mình. Nguyên

Hồng đã từng sống bên cạnh họ nên ông rất thấu hiểu và cảm thông với những

33

nỗi khổ của họ. Và những người hàng xóm nghèo ấy đã đi vào tác phẩm của

Nguyên Hồng với nhiều cảnh ngộ khác nhau.

Khi viết văn, Nguyên Hồng luôn có nhu cầu giãi bày tình cảm chân

thành, tha thiết của mình đối với những nhân vật cùng khổ. Nguyễn Như

Phong - người bạn từ thuở đôi mươi - đã từng thấy Nguyên Hồng "luôn có

những gì đầy ăm ắp, đầy tràn, nên anh không vợi bớt ra ngoài thì không chịu

nổi".

Nguyễn Minh Châu thì gọi Nguyên Hồng là "nhà văn của thập loại

chúng sinh" và từ trong lòng cái xã hội "thập loại chúng sinh" ấy bước ra,

cầm lấy cây bút sắt chấm vào mồ hôi, nước mắt và máu của mình mà viết ra

văn chương của riêng mình". Có khi nhà văn thể hiện tình cảm ấy một cách

gián tiếp qua cách dựng truyện, bố trí tình tiết tác phẩm, có khi trực tiếp bộc

lộ tình cảm của mình với nhân vật bằng những lời bình luận trữ tình phụ đề

sôi nổi, thiết tha. Chất hiện thực trong tác phẩm của Nguyên Hồng đã tái hiện

cuộc sống với những chi tiết ngồn ngộn đầy ắp. Những cuộc đời số phận được

miêu tả bị đẩy đến cùng cực của sự khổ đau, bất hạnh.

Truyện ngắn đầu tiên của Nguyên Hồng là Cát bụi lầm viết khi tác giả

đang bị giam trong tù. Câu chuyện kể về một bà cụ già nhà quê ốm yếu phải ở

tù mà không biết bị phạm tội gì.

Sau những ngày tháng kiệt sức, người đàn bà ấy đã chết. Và chính

Nguyên Hồng đã kéo xe đưa bà cụ đi chôn mà trong lòng luôn bị ám ảnh bởi

số phận bất hạnh của cụ:

"Tôi vừa đi vừa nghĩ như thế mà đã sống được, và một người như thế

thì còn sức đâu để hãm hại ai, để phạm tội mà chịu tù đày?” (31 - 49)

Và cậu tù trẻ con day dứt mãi: "giá tôi kiếm được miếng khăn mà liệm,

chắc linh hồn bà cũng đỡ lạnh lẽo tủi đau dưới suối vàng! Nhất là khăn và

chăn chiếu ấy lại là của tôi, một kẻ chỉ đáng tuổi cháu bà và là bạn tù của bà"

(31-49).

34

Nguyên Hồng từ những ngày đầu non nớt ấy cho đến lúc trưởng thành

trong nghề viết văn, thì tình cảm của ông dành cho nhân vật cùng khổ vẫn

không thay đổi. Mà ngược lại, nó càng thiết tha, da diết hơn.

Lời người con gái trong truyện Vực thẳm nghe sao như chính tiếng nói

của nhà văn đang giãi bày, xót xa khi nghĩ đến người mẹ lam lũ đáng thương

của mình. Đó là người đàn bà thờ chồng, rồi thờ anh chồng, nhất nhất vâng

theo cái cúi đầu chịu đựng như đối với thần thánh. Người con gái ấy cay đắng

thốt lên: "Không! Tôi không dám làm thơ mê say với con người này đâu.

Những nguồn cơn kia đều đẫm những mồ hôi, nước mắt của mẹ tôi, đã rút đi

từng mấy tuổi của mẹ tôi, sau tôi lại phạm tội ru những người đàn bà xấu số

khốn nạn chúng tôi vào đó. Những quang gánh thúng sọt nặng trĩu những ngô

khoai, rau muống, bèo kia, kĩu kịt trên những sống vai gầy rạc của cái kiếp

người tần tảo, lần hồi, nếu có thành điệu thơ thì phải là những tiếng kêu

thống thiết của sự đau đớn chua xót, đòi gọi sự thay đổi cho cuộc đời được

ấm no, yên vui, rất xứng đáng phần cho những người mẹ hiền từ chịu khó"

(19-283). Đặc biệt hơn cả là cuốn tiểu thuyết Bỉ vỏ. Hình ảnh Tám Bính,

con người Tám Bính, cuộc đời Tám Bính hiện lên với những bất hạnh liên

tiếp dồn dập xảy ra, đẩy Bính đến cùng cực của sự đau khổ. Từ một cô thôn

nữ thơ ngây trong trắng, cuộc đời xô đẩy Tám Bính trở thành một kẻ nhơ

nhớp, mạt hạng của xã hội như làm gái điếm, dân "chạy vỏ"... Mỗi lần Tám

Bính gặp nạn là mỗi lần nhà văn thấy tim mình như bị bóp nghẹt, nước mắt

giàn giụa khóc thương cho thân phận bất hạnh của cô:

"Đường xá vắng tanh, vắng ngắt, Bính rùng mình. Đêm nay đối với

Bính mới dài và cực nhục làm sao? Còn ê chề, cay đắng hơn cả một năm lam

lũ. Bính nép người bên góc tường, gục mặt vào bàn tay, tê tái những cảm xúc

đau xót sôi nổi trong lòng". (30 - 38)

Đó là nỗi sợ hãi, bơ vơ lạc lõng, xót thương cho thân phận của mình

trong ngày đầu tiên Bính đến Hải Phòng. Vì vậy, dù thể hiện trực tiếp hay

gián tiếp, tình cảm của nhà văn bao giờ cũng được thể hiện ở cường độ cao.

35

Đó chính là lòng tin yêu mãnh liệt đối với những người cùng khổ. Ở Nguyên

Hồng, thể hiện nỗi bất hạnh của con người là cốt để khẳng định niềm tin ở

con người. Về phương diện này, Nguyên Hồng đã tạo ra trong nhiều tác phẩm

của mình những tính cách lớn, không phải lớn về tư tưởng, về trí tuệ, về hành

động cải tạo thế giới mà lớn về trái tim sục sôi, mãnh liệt, lớn về niềm tin yêu

vô cùng đối với sự sống và lớn về sức gánh chịu phi thường những đau khổ

oan trái ở đời.

Người ta nói ở đây, ít nhiều có màu sắc của tinh thần khắc kỉ xả thân

của Chúa Cơ đốc. Điều này thể hiện rất rõ qua nhân vật Tám Bính.

Trong tác phẩm, Nguyên Hồng cho ta thấy quá trình bần cùng hoá, lưu

manh hoá của những người dân nghèo. Nhưng tuy bị sa chân vào vòng truỵ

lạc, Tám Bính vẫn mang một tâm hồn trong sạch và luôn khát khao trở về

cuộc đời lương thiện. Đó chính là nhân vật thể hiện đức tin mãnh liệt của nhà

văn vào bản chất thánh thiện của con người.

"Tám Bính là một sự sống để làm chứng cho một đời sống, Tám Bính

thay đổi để làm chứng cho khách quan hơn, thuyết phục hơn. Tám Bính là

một con người để tôi gửi gắm và tin cậy, và cũng là một con người để tôi đau

xót vô cùng. Phải! Chính vì có Tám Bính mà tôi càng thêm thương yêu, càng

thêm tin tưởng và có trách nhiệm với sự sống vậy! Hạnh phúc và tình nghĩa

biết bao cho tôi! Và cũng lo âu, vất vả, hồi hộp bao nhiêu cho tôi" (31 - 98)

2.1.2. Tình cảm mãnh liệt của kiểu "nhân vật trữ tình mang

vẻ đẹp truyền thống”.

Ai đã từng tiếp xúc với Nguyên Hồng đều thấy rõ ông rất hay khóc, dễ

xúc động. Con người ấy thiếu tình thương từ nhỏ nên luôn khao khát tình

thương và dễ cảm thông với những người bất hạnh. Từ một Nguyên Hồng

ngoài đời đến nhân vật trong tác phẩm không khác nhau là mấy. Nguyên

Hồng có những trang viết vừa hiện thực tỉnh táo vừa đằm thắm trữ tình về

cảnh huống sinh hoạt và tâm tình của những người thợ, những phu phen,

36

những phụ nữ buôn thúng bán bưng. Nhưng đọc văn ông cái ấn tượng nổi bật,

điều cảm nhận thấm sâu là ông đang sống thật sự với cuộc sống của chính họ,

mọi vui buồn của họ quyện lẫn làm một với những vui buồn của chính ông.

Những dằn vặt khổ đau mà ông phân tích trong tâm tư họ, dường như chính

ông đã từng nếm trải chứ không chỉ đơn thuần đứng cạnh như một chứng

nhân. Nguyên Hồng có một nhu cầu tự nhiên là phải xích lại đến mức hoà

nhập hẳn vào quần chúng, phải sống trong lòng cộng đồng, giữa những con

người bình thường, giữa người đời biết bao thân thiết, mến yêu. Ông chủ

động kéo gần lại, thậm chí xoá bỏ mọi khoảng cách dù là nhỏ nhất giữa con

người cùng cảnh. Sống tự nhiên giữa trần đời là một đòi hỏi cũng là một hứng

thú của Nguyên Hồng. Là nhà văn cắm rễ trong cuộc sống của những người

lao động, Nguyên Hồng chính là thân phận họ, là mảnh đời của họ.

Vì vậy ngòi bút Nguyên Hồng có xu hướng đi sâu khai thác thế giới nội

tâm kiểu "nhân vật truyền thống” nhằm bày tỏ thái độ đồng cảm, chia sẻ của

mình đối với nhân vật và ngợi ca những phẩm chất tinh thần tốt đẹp của họ.

Đó là nghĩa vợ chồng thuỷ chung, tình mẫu tử thiêng liêng, lòng vị tha nhân

hậu và cao hơn cả là niềm tin vào cuộc sống, tin ở tương lai, tin ở chính mình.

Có điều những phẩm chất ấy của nhân vật trong sáng tác của Nguyên Hồng

thường bộc lộ qua những trạng thái tâm lý rất căng thẳng và tình cảm nhân vật

cũng được biểu hiện ở cường độ cao, xuất phát từ trái tim, nhất là trái tim giàu

đức hy sinh của người phụ nữ. Những nhân vật của Nguyên Hồng khác hẳn

kiểu nhân vật hành động trong sáng tác của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng...

Trong cảnh khó khăn vất vả lần hồi kiếm ăn mà Mũn (trong truyện Đây

bóng tối) vẫn rất vui vẻ, ân cần chăm sóc chồng chu đáo. Nàng lại càng yêu

thương chồng hơn, dù khó khăn vất vả đến đâu Mũn cũng không hề kêu ca

phàn nàn. Nàng cố gắng làm mọi thứ để Nhân vui, Nhân không mặc cảm về

bệnh tật của mình:

"Từ ngày Nhân bị mù, gia đình không kém vẻ hoà thuận ấm cúng mà

còn vui vẻ êm đềm hơn. Mũn hàng ngày vẫn đi hai chiều bánh và nhận làm

37

cho nhiều hàng cơm có tiếng. Và, muốn làm cho chồng yên lòng, quên đi sự

buồn bã, Mũn cho thằng bé lớn nhất đi học tới khi xem cùng viết thông quốc

ngữ. Rồi Mũn sai nó đi các nhà mua bánh quen mượn truyện và báo chí về

đọc cho chồng nghe. Nàng không ăn cơm ở chợ nữa, dù xa dù gần, nắng hay

mưa, cứ đến tầm thợ thuyền về là nàng đã có mặt ở nhà, ăn uống với chồng

con" (19-121)

Cái cảnh Mũn chen lấn, mua bán ở bến tàu lại khiến ta gợi nhớ đến

hình ảnh bà Tú cũng vất vả buôn bán ở "mom sông" "eo sèo mặt nước buổi đò

đông" đầy bất trắc nguy hiểm. Mũn nhảy theo cố vớt mâm bánh để phải đổi

lấy cái chết thảm khốc - đó chẳn hải là cực điểm của tình yêu thương sâu nặng

đối đối với chồng với con ư? Mũn mang những vẻ đẹp truyền thống của

người mẹ, người vợ Việt Nam, cũng là hình ảnh những người phụ nữ ngoan

đạo "chịu nạn", chịu thương chịu khó, giàu lòng hy sinh. Trong truyện

Nguyên Hồng, nhân vật bị dồn nén đến tận cùng, bi kịch được đẩy lên đỉnh

điểm nên kết thúc thường đau đớn, xót xa không có cái dư vị ngọt ngào, man

mác như trong một số truyện ngắn lãng mạn của Thạch Lam (như Dưới bóng

hoàng lan, Bóng người xưa...)

Nói tóm lại, tấm lòng nồng nhiệt của nhà văn đối với nhân vật, những

tình cảm mãnh liệt kiểu nhân vật trữ tình đã tạo nên nội dung tình cảm dạt dào

trong tác phẩm Nguyên Hồng.

2.2. Ngòi bút hiện thực thấm đượm chất thơ.

Cùng đứng trong chủ nghĩa hiện thực phê phán nhưng Ngô Tất Tố,

Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng... mỗi người

có một phong cách riêng. Phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng cũng

mang những màu sắc thẩm mỹ độc đáo. Những ảnh hưởng lung linh, choáng

ngợp ban đầu của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hugo... có thể kéo cây bút Nguyên

Hồng về phía chủ nghĩa lãng mạn. Cả cái hưng phấn nội tâm, cái bút pháp

cường điệu cũng có thể hướng ông về phía đó. Nhưng cuộc đời đói khổ, lam

lũ đã giúp cho ngòi bút của ông ngày càng cắm sâu trên mảnh đất màu mỡ của

38

chủ nghĩa hiện thực và "tôi luyện" nên Nguyên Hồng - Ngòi bút hiện thực

thấm đượm chất thơ. Chất thơ ấy bắt nguồn từ cuộc sống cần lao của người

dân Hải Phòng với một cảm hứng lãng mạn cuồng nhiệt.

2.2.1. Chất thơ toát lên từ đời sống cần lao:

Văn Nguyên Hồng bao giờ cũng lấp lánh sự sống. Những dòng chữ đầy

chi tiết cứ cựa quậy, phập phồng. Một thứ văn bám riết lấy cuộc đời, quấn

quít lấy con người.

Chính vì vậy chất thơ trong văn của Nguyên Hồng được gợi lên không

phải từ mây, gió, trăng, hoa mà trước tiên và chủ yếu vút lên từ than bụi của

hầm lò, xưởng máy, từ những con người lao động cùng khổ nơi thành phố Hải

Phòng trước Cách mạng.

"Ơi! Những vòm đông, những chân mây, những đỉnh trời, những sương

gió, những mù khói, những bến bãi, những núi rừng, những chòm cây, những

ống khói, những tầng lò và những lớp người lao động tôi không được biết tên,

không được rõ tên tuổi đã sáng sáng cuốn hút bước tôi đi! Ơi những bình

minh đói khổ lam lũ nhưng rất trong lành dào dạt của Hải Phòng... làm sao

tôi có thể quên được rằng mười bảy tuổi xuân của tôi đã mở ra ở đây cùng

với những dòng chữ nảy sinh theo ánh mặt trời, và bước chân của các con

người mà tôi không thể không yêu thương vô cùng cũng như tin tưởng vô

cùng vậy" (31- 44)

Đó là chất thơ ca ngợi cuộc sống lao động và những con người lao

động. Chất thơ ấy là sự rung cảm trước cái đẹp của cuộc sống vất vả, ồn ào

của những người lao động. Trong cuộc sống, trong lao động có một vẻ đẹp,

một chất thơ riêng rất giàu màu sắc lãng mạn. "Có lẽ Nguyên Hồng là nhà văn

đầu tiên ở nước ta ca ngợi vẻ đẹp của lao động" (Phan Cự Đệ). Tác phẩm

Cuộc sống (năm 1942) là một thứ tuyên ngôn về chất thơ trong lao động.

Chất thơ lãng mạn chan chứa đậm đà trong từng trang sách khi Nguyên Hồng

ở căng Bắc Mê (Hà Giang) nhớ về thành phố cảng thân yêu của mình. Dù bị

bóc lột, bị cướp đoạt, bị đày đoạ, cuộc sống của những người lao động vẫn cứ

39

vươn lên với một sức mạnh, một vẻ đẹp không gì dập tắt nổi. Nguyên Hồng

đã ca ngợi lao động của thợ thuyền tràn đầy ánh sáng tương lai.

"Một thành phố chuyển động vì sự nhộn nhịp, huyên náo làm bằng

tiếng guốc khua vang, tiếng cười nói tràn lên như gió bão, tiếng xe bò chuyển

ầm ầm, tiếng chuông ran không ngớt của muôn ngàn người cùng chung một

đường đi, cùng dưới một bầu trời ngập ánh nắng rực rỡ này... Một ai đây cho

dù hoài nghi cũng phải tin rằng cái hình thức tối tăm, cằn cỗi và thối nát của

sự sống một phần nhân loại lầm than chỉ là một cái vỏ mỏng sắp sửa nổ vỡ.

Chính vì trong cái vỏ ấy, bao nhiêu mầm sống nảy nở đã chín muồi sắp chồm

dậy, sắp xé tung sự trùm lấn, đè ép để tự do thở hít ánh sáng và khí trời để

tràn lên mênh mông. Làn sóng người đã lan ra khắp hang cùng ngõ hẻm.

Người ta mong đợi một ngày kia làn sóng cuồn cuộn ngày hôm nay sẽ lôi

cuốn được tất cả những làn sóng rải rác để chồm lên và vượt qua những cản

trở, những tảng đá đè nén, những những hố sâu vùi dập, để đi tới một giải đất

rực rỡ, sán lạn như bầu trời xuân ngập tràn ánh nắng trong buổi trưa này"

(Những mầm sống).

Quả thực chất thơ trong văn của Nguyên Hồng khác với chất thơ nhẹ

nhàng man mác của những cảm giác tinh tế trước những rung động khẽ như

cánh bướm non trong thế giới tâm hồn những nhân vật của Thạch Lam, Thanh

Tịnh, Hồ Dzếnh. Nó cũng không dễ gì tìm thấy một kiểu chất thơ như vậy

trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng. Chất dân nghèo,

chất lao động đã thấm sâu vào văn chương . Nguyên Hồng hiện lên như một

tâm gương rất đẹp về sự gắn bó chặt chẽ giữa nghệ thuật và lao động. Con

người ấy sinh ra từ môi trường lao động nhọc nhằn, tự rèn đúc thành người

lao động, vì nhân dân lao động mà viết không ngừng không nghỉ, cho đến hơi

thở cuối cùng. Đây chính là điểm gặp gỡ giữa Nguyên Hồng với nhà văn Nga

vĩ đại M.Gorki. Cả hai nhà văn đều từng lăn lộn thật sự với những tầng lớp

dưới đáy của xã hội cũ, cùng viết với một trái tim thân thiết yếu tin con người.

Họ đều có tài viết về những đám đông, những đông người náo nhiệt: phu

40

phen, thợ thuyền đổ ra hè phố khi tan tầm các nhà máy, hay trong những cuộc

đình công, bãi công... Nhưng ở hai nhà văn ấy còn có sự gặp gỡ đáng tự hào

hơn cả đối với lịch sử văn học của hai dân tộc Nga - Việt là họ đều thuộc số

nhà văn dẫn đầu trong việc ca ngợi lao động, phát hiện ở lao động một đối

tượng thẩm mỹ đầy chất thơ.

2.2.2. Chất thơ toả ra từ cái nhìn và niềm tin của nhà văn

đối với những người cùng khổ.

Văn xuôi Nguyên Hồng có một chất thơ độc đáo và khoẻ khoắn như

vậy chính là do cái nhìn lạc quan, là niềm tin yêu cuộc sống và con người của

nhà văn.

Dường như cái sức sống tự bên trong tâm hồn nhà văn, một cái gì say

sưa, rạo rực, tha thiết, tin yêu đã in dấu lên mọi cảnh vật, mọi màu sắc. Nó

làm cho những cảnh sắc đó sôi động hẳn lên, rung lên, vang lên mạnh mẽ, thu

hút tình cảm của người đọc, khiến cho người ta không thể dửng dưng lạnh

nhạt trước một sự chân thành, nồng nhiệt đến thế. Đó chính là lòng ham sống,

tin yêu cuộc sống, là vẻ đẹp của lý tưởng, là những ước mơ lãng mạn về

tương lai. Và ông đã truyền tinh thần lạc quan cũng như niềm tin yêu cấy cho

những đứa con tinh thần của mình. Vì thế nhân vật đói nghèo nhưng vẫn luôn

mang trong mình một đức tin mãnh liệt: Tin ở cuộc sống, tin ở tương lai, tin ở

chính mình.

Còn ai khổ hơn mụ Mão trong truyện Người đàn bà không con. Mụ

xấu xí gầy còm, mồ côi phải lấy lẽ Ký Phát nhưng không có con. Mụ bị lão

đuổi ra khỏi nhà. Mụ lại lấy lão Mão Chột cũng không có con và tiếp tục sống

cuộc đời cơ cực. Nhưng khi Ký Phát chết thì người đàn bà vị tha ấy lại sẵn

sàng hy sinh tất cả để mong có một hạnh phúc bình dị là được chăm sóc nuôi

nấng những đứa con nhỏ và bố mẹ già của Ký Phát. Mặc dù cuộc sống của

mụ lúc này cũng vô cùng tăm tối:

41

"Tiền nghìn bạc vạn mụ không dám mơ tưởng, chứ cái cảnh gây dựng

êm đẹp kia, mụ chắc chắn có thể nên lắm. Vì những người chịu khổ mãi, dầu

khốn khổ đến đâu, nhưng được cái hạnh phúc ấy thì những người như mụ

chịu tất cả" (19 - 254). Và cái xóm Cấm ấy, trên thân hình chỉ còn da bọc

xương và đen sạm như cẳng gà hun khói, mụ lại lẽo đẽo gánh bún riêu, xôi

chè đi khắp Lạc Viên chợ con và rong phố năm xưa. Cực hơn nữa là là cảnh

vợ chồng Nhân - Mũn trong truyện Đây bóng tối. Hai kẻ khổ cực lam lũ ấy

sau 8 năm bị dòng đời xô đẩy lang thang kiếm ăn, lại gặp nhau và trở thành

vợ chồng. Cuộc sống lại càng túng quẫn, bi thảm hơn khi Nhân bị mù. Nhưng

trong cuộc sống đen tối ấy, Nhân vẫn lấp lánh một niềm tin vào cuộc sống:

"Không những thế, trong tình thương yêu ấy, Nhân còn cảm thấy đời

vui vẻ, Nhân ham thích sống, sống để làm chồng một người đàn bà yếu đuối

nhưng can đảm, để làm cha một bầy con lúc nào cũng nhởn nhơ vui cười".

(19-85)

Đó là cô Muống trong Quán Nải sống mỏi mòn trong cảnh "chồng

chung". Phận lẽ mọn lại không con, suốt ngày Muống đầu tắt mặt tối trong

việc lợn gà cám bã, xay thóc giã gạo mà vẫn bị vợ cả nhiếc móc chì chiết.

Quá cơ cực, Muống đã phải bỏ ngôi nhà ấy ra đi. Thoát khỏi cảnh địa ngục

đó, Muốn thấy: "Giữa cảnh vật đầy tươi sáng này, Muống càng thấy lòng

phơi phới, bước chân lướt như bay" (19-277).

Khác với phố chợ hiu hắt trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ở Hàng

cơm đêm của Nguyên Hồng, phố chợ trước khi chìm vào màn đêm thì ta đã

nghe mọi thứ tiếng ồn ào, huyên náo lúc hoàng hôn đang dần buông xuống.

Đó là tiếng chuông xe đạp bấm liên thanh của học sinh và công chức, tiếng

guốc khua, tiếng xe bò chuyển ầm ầm vì đường phố gồ ghề và tiếng va chạm

của xẻng, cuốc, ván gỗ trong thùng xe, tiếng mời chào mặc cả, cãi và ầm ĩ hai

bên đường... Và trong cửa hàng cơm là tiếng chuyện trò cười nói vui vẻ của

phu phen, thuyền thợ... Những người "Quần áo rách rưới và lấm láp của họ

thở ra những mùi khét lẹt của dầu mỡ, cát bụi và bùn lầy mà họ đã đầm đìa ở

42

những xưởng máy, những kho hàng, những hầm tàu, những lán gỗ, tiếng đùa

nghịch chòng ghẹo nhau của những chị phu hồ phu than ríu rít như bầy chim

sẻ" (Hàng cơm đêm).

Hàng cơm đêm có những nét giống Hai đứa trẻ khi miêu tả cảnh

chiều tối ở phố chợ, khi sử dụng tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Hai

đứa trẻ về cơ bản vẫn là một tác phẩm lãng mạn trong sự đối lập thế giới hiện

thực và thế giới lý tưởng; thế giới phố huyện tĩnh lặng và chìm trong bóng tối

với thế giới xa xăm mà đoàn tàu mang đến, đầy âm thanh và áng sáng, rộn rã

và tươi vui. Hàng cơm đêm chưa có cái bút pháp tinh tế của Hai đứa trẻ

nhưng ở đây chất sống đậm đặc hơn, ngồn ngộn hơn hơi thở của cần lao.

Đó là một hiện thực cuộc sống bề bộn, mọt sự sống ngùn ngụt, nóng

hổi, một lòng ham muốn sống dào dạt. Trong ấy mọi thứ đều như rung lên

cùng với một lòng yêu thương thắm thiết; “trong ấy như có một thứ tiếng

rùng rùng âm vang bát ngát. Cái sức sống bên trong đó là sự rung động đến

cực điểm của một quả tim trên 20 tuổi đẫm máu đỏ tươi và hơi thở nóng

nảy”.(Theo Phan Cự Đệ).

Đấy cũng là biệt tài mô tả đám đông của Nguyên Hồng, điều mà ta ít

thấy trong sáng tác của các nhà văn lúc bấy giờ.

Các nhà văn hiện thức khác như Nam Cao, Ngô Tất Tố thường chỉ

miêu tả nhân vật của mình trong một phạm vi hẹp về không gian, thời gian

(Chị Dậu, Lão Hạc chỉ quanh quẩn trong một làng quê nghèo...). Còn thời

gian, không gian nghệ thuật trong tác phẩm của Nguyên Hồng được mở rộng

hơn, nhiều chiều hơn từ nông thôn đến thành thị, nhà máy, bến tàu, bến xe...

Và nhân vật số lượng cũng nhiều hơn. Đấy chính là môi trường thuận lợi để

nhân vật bộc lộ được nhiều dạng tính cách đồng thời cũng thể hiện cái nhìn

của nhà văn toàn diện, sâu sắc hơn về hiện thực cuộc sống bề bộn qua từng

trang sách. Không chỉ thể hiện niềm tin vào bản chất tốt đẹp của người lao

động mà ngay cả khi nhân vật của ông bị ném vào môi trường tha hoá hoặc

43

đứng trước những cám dỗ ma quỷ vẫn có một khả năng tự vệ gan góc chống

trả lại tình trạng tha hoá để giữ vững thiện căn của mình.

Về nhân vật Tám Bính trong Bỉ vỏ, Nguyên Hồng đã làm cho ta thấy rõ

trạng thái của một tâm hồn. Một tâm hồn ngây thơ trong sạch, chan chứa tình

thương.

Sống bên Năm Sài Gòn, trùm lưu manh ở đất Cảng, nhưng tâm hồn

Tám Bính vẫn luôn hướng về một cuộc đời lương thiện, trong trắng. Bính

nuối tiếc cuộc đời trong sạch ngày xưa. Khi ấy Bính còn là một cô gái quê

ngày ngày đua đòi cùng với chị em đi các chợ gần, chợ xa, "đòn gánh trên vai

dẻo dai nhún nhẩy nhịp cùng những bước thoăn thoắt, những cánh tay mềm

mại rung tà áo nâu ra trước gió". (30-118).

Giờ đây Bính chỉ mong ước được sống trong một gia đình lương thiện:

"Một tia hy vọng bỗng thoáng chiếu vào tâm trí Bính như làn chớp vụt xé

vùng trời tối. Bằng sự lần hồi buôn bán tần tảo ở các chợ xa rồi đây Bính sẽ

nuôi được đứa con sắp đẻ, sẽ nuôi Năm để Năm khỏi làm điều gian ác. Dần

dà Bính sẽ trở về quê chuộc đứa con đầu lòng đày ải kia, và giúp đỡ cha mẹ

gây dựng lại cho hai em". (30-119).

Ở đây chúng ta thấy rõ sự khác nhau giữa Tám Bính và Thị Mịch trong

Giống Tố của Vũ Trọng Phụng. Hai nhân vật này dường như có những điểm

chung. Họ đều là những cô gái quê xinh đẹp, đảm đang hiền thục đã bị xã hội

tha hoá, đều bị xã hội dồn đến bước đường cùng. Nhưng Thị Mịch sau một

thời gian đã hoà nhập vào cuộc sống của tầng lớp thượng lưu và trở thành một

kẻ sa đoạ, bị cuốn vào vòng xoáy của những tội lỗi xấu xa nhơ nhớp. Còn

Tám Bính lại khác, cô luôn khao khát cuộc sống lương thiện. Tuy bị sa chân

vào vòng truỵ lạc nhưng Bính vẫn mang một tâm tồn trong sạch. Tám Bính đã

từng làm gái nhà chứa, rồi lại theo chồng hết ăn cắp đường đến ăn cắp trên

tàu, nhưng ai dám bảo Bính là một kẻ luôn luôn nghĩ đến những sự gian ác.

Bính đã không sờn lòng, lúc nào cũng đợi dịp khuyên chồng nên đổi nghề

lương thiện. Thái độ phản đối những hành vi của Năm Sài Gòn, cái sự chống

44

chọi ấy người ta đã thấy Bính có từ ngày mới theo Năm cho đến khi bị tra tay

vào còng. Nếu phải một tâm hồn nhu nhược, một tâm hồn nhơ nhớp sẵn thì tất

nhiên Bính sẽ quen nghề "chạy vỏ". Nhưng đằng này không, Tám Bính sở dĩ

quyến luyến Năm chỉ vì Năm là người yêu thương Bính thật lòng, yêu về nết

hơn là về sắc đẹp. Đối với Bính người ta chỉ thương chứ không ai có thể ghét

được. Người ta thương Bính chỉ vì một chút lỡ lầm, chỉ vì sự ruồng bỏ của gia

đình, chỉ vì cái hủ tục cay độc của xóm làng và cái xã hội đầy những đen tối

đã đẩy nàng phải sa chân vào những nghề xấu xa nhất trong xã hội, sa vào

những vũng bùn tội lỗi. Qua Bỉ vỏ ta thấy ở tầng lớp cặn bã nhất, chỉ biết có

chém giết lừa bịp, vẫn ánh lên những tia sáng nhân đạo, vẫn còn lòng yêu

thương chung thuỷ, lòng hy sinh, dám xả thân vì một nghĩa cử. Và đặc biệt

nhất là những thoáng khát vọng muốn thoát khỏi cuộc đời tội lỗi của họ.

Điều đó nói lên rằng nhân vật của ông không chấp nhận sự tha hoá,

đồng thời cũng chứng tỏ cái nhìn lãng mạn của nhà văn về cuộc sống và con

người. Cái nhìn đó có phần chịu ảnh hưởng của văn hóa, văn học trong và

ngoài nước. Cái nhìn của Nguyên Hồng ở đây cũng giống như cái nhìn của

Gorki khi viết về tầng lớp "dưới đáy", của xã hội Nga; Như V.Huygô khi viết

về tầng lớp cư dân nghèo của xã hội Pháp. Nó có cả niềm tin Cơ đốc giáo

tiềm ẩn trong con người nhà văn. Có thể nói Nguyên Hồng chỉ nhạy cảm với

những gì đau thương và thánh thiện. Nhưng ông không giống như một số nhà

văn hiện thực khác xót thương người nghèo, mà như có một sức mạnh tiềm ẩn

trong các sáng tác của ông, cảm hứng chủ đạo không phải nghiêng về phía

phê phán và xót thương mà nghiêng về phía thánh thiện, ngợi ca và khẳng

định.

Nhưng quan trọng hơn cả là cái nhìn ấy được xác lập trên cơ sở của

triết lý dân gian, từ cái trung hậu công bằng của truyện cổ tích, cái bát ngát

thắm tươi của ca dao,... mà Nguyên Hồng đã hấp thụ được từ trường học cuộc

đời. Và theo thời gian, nó ngày càng được bồi đắp, nâng cao bởi nhận thức

khoa học Cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và nhà văn giác ngộ trong

45

quá trình tham gia Cách mạng. Những ảnh hưởng của Đảng, của phong trào

Mặt trận dân chủ, mặt trận Việt Minh và sách báo Mác xít tiến bộ như thổi

một luồng sinh khí mới cho Nguyên Hồng có thêm cảm hứng sáng tác.

2.2.3. Chất thơ của bức tranh thiên nhiên miền của biển đầy

nắng vàng và gió lộng.

Cũng như một số nhà văn trẻ thời ấy, Nguyên Hồng đã bắt đầu cuộc

đời sáng tác của mình bằng "Một đôi mắt xanh non bằng một cái nhìn rất độc

đáo, tươi mới trẻ trung" (Phan Cự Đệ). Và không phải ngẫu nhiên mà thế

giới nghệ thuật của Nguyên Hồng từ phong cảnh thiên nhiên đến đời sống xã

hội "luôn luôn có nắng gió lao xao, phấp phới rực rỡ và bầu trời trong xanh

rất đẹp" (Phan Cự Đệ).

Vì vậy thiên nhiên là một yếu tố trữ tình không thể thiếu trong tác

phẩm Nguyên Hồng. Nó làm nền cho nhân vật hoạt động, bộc lộ tâm trạng,

thể hiện tính cách. Nó hòa quyện với đời sống tinh thần của con người, làm

đẹp thêm cuộc sống và cũng mang đậm cá tính, phong cách Nguyên Hồng.

Những bức tranh thiên nhiên của Nguyên Hồng nổi bật ở những gam

màu sáng và sống động. Nguyên Hồng như có một bản năng tự nhiên của cỏ

cây luôn hướng về ánh sáng. Một tâm hồn đầy ánh sáng, đầy nắng. "Dưới ánh

nắng ấy, mọi cảnh vật ông mô tả đều tươi tốt, nở nang, màu mỡ, tràn đầy sức

sống" (Nguyễn Đăng Mạnh).

Nắng vàng và gió lộng thường xuất hiện nhiều trong những trang văn

của ông và có giá trị tinh thần, mang ý nghĩa thẩm mỹ độc đáo.

Một thứ nắng của vùng cửa biển, phấp phới, lồng lộng. Một thứ nắng

có sức cống, có linh hồn, cũng hoạt động sôi nỏi như con người, thậm chí có

lúc như reo vang hoà với nhịp sống tưng bừng náo nhiệt của thành phố Hải

Phòng rực rỡ màu phượng vĩ.

Cái nắng ấy luôn gắn chặt với những cảm xúc lúc nào cũng tràn trề

trong lòng Nguyên Hồng. Ta có cảm giác nó không thể "đứng im", nó phải

46

"nhảy nhót" ra ngoài. Đây là cái nắng dưới cái nhìn của chàng thanh niên 17

bụng lúc nào cũng đói, nhà lúc nào cũng lo chạy ăn từng bữa. Nhưng khi

chàng mang tập truyện ngắn đầu tay để ra mắt ông chủ báo "Triết nhân" Hải

Phòng thì cuộc sống mới tươi đẹp làm sao:

"Tôi đi giữa lúc đường phố đang đông, đang vui, đang đẹp. Đông vui,

đẹp vì trời nắng và học trò đến trường. Cuối thu, không còn thứ hoa xoan tây

mà nhiều người làm thơ, làm văn và nhất là học sinh thường gọi là phượng vĩ.

Nhưng đã có nắng dưới trời mây trong sáng rực rỡ. Nắng trong những chòm

cây gió thổi phấp phới. Nắng theo những màu áo, như những cánh bướm, của

những học trò con gái. Nắng qua những tủ kính bày các thứ mẫu len, dạ,

nhung và các thứ áo. Nắng chiếu những sách bày nghiêng trên những giá mạ

kền lót mặt gương. Và đẹp nhất vẫn là nắng trong những tiếng reo cười, tiếng

guốc học trò, và nắng trên những giá bày các tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ

mới xuất bản đang lừng tiếng". (31 - 54, 55).

Và cái nắng ấy đã xua tan đi những mệt mỏi khiến anh thấy trong người

bừng bừng, bứt rứt và muốn bước ra đường, một mình bước đi trong sự rạo

rực, hân hoan. Nguyên Hồng khi tả nắng dường như cũng có một bút pháp

riêng - cách dùng từ rất đặc biệt. Nắng khi thì "phấp phới những bụi vàng bụi

bạc"(Những ngày thơ ấu) khi thì hồng nhạt "rắc phấn trên những mái ngói

xang mốc rồi dần tan trong màu tàn hương của chiều tàn" (Tết của tù đàn

bà); nắng chuyển đổi nhiều trạng thái "Ánh vàng ngùn ngụt. Cây cỏ chỉ gờn

gợn vài xao động", "Nắng vàng non đã bừng sáng. Những chòm long não lá

lăn tăn và những cụm cà phê um tùm bỗng ảnh cả lên với màu xanh tươi

mọng nhựa", một dải sông "bắt đầu lấp lánh những gợn vàng"...

Quả thực "nắng" trong những trang viết của Nguyên Hồng như có linh

hồn. Thứ ánh nắng có sức xua tan cả âm khí, tử khí trên những xác chết. Hãy

xem một đoạn văn kỳ lạ của Nguyên Hồng trong Hơi thở tàn (1943) tả một

ông già nghèo khổ vừa tắt thở trong một nhà thương làm phúc, một buổi sáng

hè:

47

"Khác hẳn lúc sống, mặt ông tươi và trắng hẳn lên. Mắt ông nhằm lim

dim và hai bên môi hơi nhếch như ông đã bằng lòng một sự gì rồi cười cái nụ

cười cuối cùng ấy sau mấy tiếng thì thầm. Hai chân ông dạng ra, hai cánh tay

ấp vào bụng, chẳng khác nào ông đã đón một người mà ông ôm vào lòng". Và

"Ánh nắng lại chào đón ông. Ánh nắng vàng ngời như lửa đốt của buổi sáng

mùa hè lúc đó gió còn mát dịu, thổi chờn vờn những lá cây, lá cỏ lấp lánh

sương...".

Có sự liên hệ nào không giữa những tia nắng ấy, với "những tia nắng

nảy lửa" của mấy người tù đàn bà trong đề lao Nam Định, hay những tia sáng

chợt loé lên trong lòng Tám Bính... Và hơn nữa, với "những tia sáng dọi vào

dòng đời tối tăm cháy nặng nề" của những người dân nghèo thành thị trong

Hai mẹ con để rồi thành cả "một nguồn ánh sáng rực rỡ bên một cuộc đời

mới" soi chiếu vào tận tâm trí Vịnh? (Hàng cơm đêm)

Xét về đặc điểm nghệ thuật, thì đó là biểu hiện chất lãng mạn của một

cây bút hiện thực. Xét trên bình diện tư tưởng, thì đó là biểu hiện của một tinh

thần lạc quan mãnh liệt trong tâm hồn người cầm bút.

Các trang viết của Nguyên Hồng đều tràn đầy chất trữ tình thắm thiết.

Đó là cái tuổi mà tâm hồn dễ xúc động. Các kỷ niệm để lại những ấn tượng

sâu sắc, mênh mang như cái ánh trăng bàng bạc của đêm thu đầy trăng, xao

xuyến như hương hoa cau, hoa lý thơm ngát cả một góc vườn, (truyện Mợ

Du). Đó cũng là tâm hồn ham mê thanh sắc, đắm mình trong những cảnh đẹp

rực rỡ, quyến rũ của thiên nhiên: Một bầu trời xanh trong bát ngát "với ánh

nắng rực rỡ phấp phới trên các cành lá óng ả, mượt nõn và những chòm xoan

xanh tươi hứa hẹn màu thắm của các vừng hoa đỏ" (Truyện Những ngày thơ

ấu)

Từ đâu mà Nguyên Hồng có một chủ nghĩa lạc quan mạnh mẽ và tươi

sáng như thế? Chính là lý tưởng Cách mạng mà nhà văn đã tiếp thu được từ

thời kỳ mặt trận dân tộc dân chủ Đông Dương. Cũng chính bản tính yêu đời,

yêu cuộc sống của nhân dân lao động đã thấm sâu vào máu thịt, tâm hồn ông.

48

Đó là sức mạnh tinh thần của một con người bao giờ cũng sống hết mình vì

cuộc sống, vì mọi người xung quanh.

49

Chương III.

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn và tiểu thuyết

Nguyên Hồng trước Cách mạng

Thế giới nhân vật bao giờ cũng là sự thể hiện tập trung và trực tiếp cảm

quan nghệ thuật của nhà văn. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật bao giờ cũng theo

cách hình dung và cảm nhận của riêng mình. Bởi vì sự sáng tạo nghệ thuật là

một sự thống nhất biện chứng giữa khách thể và chủ thể, hướng ngoại và

hướng nội. Tác phẩm làm hiện ra những nhân vật đang múa may, khóc cười

trên sân khấu cuộc đời, đồng thời cũng bộ lộ thế giới nội tâm của chủ thể sáng

tạo, mang dấu ấn phong cách của nhà văn.

"Nhà nghệ sĩ giỏi là nhà nghệ sĩ tạo ra những nhân vật thật và hoạt

động ngoài những tính cách và đặc điểm của các địa vị xã hội, tìm đến cái bí

mật không tả được ở trong mỗi con người" (71 - 288).

Quan điểm này của Thạch Lam thật phù hợp với văn chương và con

người Nguyên Hồng. Người ta thường nói Nguyên Hồng là nhà văn của

người nghèo. Điều đó là có lý không phải vì nhân vật của ông chủ yếu là

người nghèo mà đúng hơn chỉ có viết về đời sống thực của những người khổ

đau với tất cả sự bất hạnh và vẻ đẹp của họ, ngòi bút Nguyên Hồng mới rung

lên thành những trang thống thiết nhất, nồng ấm nhất và cũng sâu sắc nhất.

Chính vì vậy, thế giới nhân vật của Nguyên Hồng vô cùng phong phú

và đa dạng. Cái xã hội "cần lao”, thu nhỏ Hải Phòng bước vào trang sách của

Nguyên Hồng với đủ các hạng người, các sắc màu một cách chân thực và

sống động.

Trước Cách mạng, Nguyên Hồng viết văn bằng năng khiếu nên bút

pháp xây dựng nhân vật của ông cũng rất giản dị. Các nhân vật ấy được hình

thành bởi một trái tim say mê viết cuồng nhiệt và một trái tim nóng bỏng tình

thương - Nguyên Hồng muốn đưa vào tác phẩm tất cả những gì nghe thấy,

nhìn thấy và cảm nhận được từ hiện thực bề bộn của thành phố Hải Phòng.

50

3.1. Nhân vật đa dạng

3.1.1. Hạng người lưu manh, nghĩa khí mang dáng dấp anh hùng

hảo hán.

Đi vào thế giới nhân vật của Nguyên Hồng trước Cách mạng Tháng 8,

trước hết chúng ta bắt gặp những hạng người lưu manh, côn đồ. Đây là một

mảng đời sống vốn rất nổi tiếng ở Hải Phòng. Thuở ấu thơ Nguyên Hồng đã

rất sau mê với những nhân vật kiếm hiệp trong truyện Tàu như Đông Chu Liệt

Quốc, Tam quốc, Thuỷ Hử ...Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyên Hồng

chịu ảnh hưởng nhiều khuynh hướng văn học khác nhau. Ta tìm thấy trong tác

phẩm Nguyên Hồng những ảnh hưởng của Huygô lẫn Gorki, Romanh Rolăng,

của Tố Hữu lẫn Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Thạch Lam ... "Có dấu vết chủ nghĩa

xã hội không tưởng của Huy Gô, lối miêu tả nặng về cảm giác của Thạch

Lam, cái "tôi, trữ tình say đắm thiên nhiên, lối phóng đại và lý tưởng hoá

nhân vật, khuynh hướng nghiêng về những yếu tố rùng rợn kỳ lạ của chủ

nghĩa lãng mạn”(Nhà sư nữ chùa Âm hồn)( 19-37). Vì vậy thế giới lưu

manh với những con người có tính cách khác thường, hành vi khác thường,

ngôn ngữ khác thường và những chuyện ly kỳ đẫm máu, dễ gây cảm hứng

cho một cây bút trẻ giàu trí tưởng tượng pha chút lãng mạn như Nguyên

Hồng.Loại nhân vật này thể hiện rất rõ trong tiểu thuyết đầu tay Bỉ vỏ và tập

truyện ngắn Bảy Hựu.

Đời sống lưu manh, gái điếm vốn là một đề tài ưa thích đối với nhiều

cây bút phóng sự, tiểu thuyết tả chân trước Cách mạng Tháng 8.Những cây

bút khác thường đặc biệt chú ý đến những chuyện lạ giật gân, hay những trò

nhơ bẩn tục tĩu, khêu gợi trí tò mò. Còn với Nguyên Hồng qua nhân vật Tám

Bính ông lại nói về nỗi thống khổ ghê gớm đã nhấn chìm xuống tận bùn đen

một cô gái trắng trong lương thiện. Những đoạn đời gái điếm, lưu manh của

Tám Bính được vẽ ra như những cảnh hoả ngục trần gian mà cô gái bất hạnh

bị ném vào.

51

Tám Bính cũng đã từng có những ngày tháng tuy vất vả nhưng êm đềm

ở chốn thôn quê, hàng ngày theo chị em chúng bạn chợ gần chợ xa gánh gạo

đi bán. Và cô thôn nữ xinh đẹp ấy đã phải lòng ông "quan tham đạc điền”:

"Một ngày kia, phải một ngày thầm vụng, Bính đã buông phó cả thân thể cho

y". Nhưng rồi tên Tham Chung ấy đã bỏ Bính mà đi không một lời từ biệt.

"Chót đa mang thì phải đèo bòng", Bính đã phải âm thầm chịu đựng sự chửi

rủa, đay nghiến của cha mẹ. Hàng ngày cô sống trong sự lo sợ bị làng "phạt

vạ" - Một cảnh ghê sợ rùng rợn mà Bính đã được chứng kiến thời niên thiếu.

Trước những hủ tục nặng nề, trước những tai vạ lúc nào cũng có thể đổ

ập xuống đầu Bính và gia đình: " Bính gai hết cả da thịt và tâm trí Bính đau

đớn ... e ngại cho mình không biết có đủ sức chịu đựng những nỗi biêu riếu

nhục nhã như kia không ?” ... Bính lo sợ và tự nhủ có khi "đành phải bỏ cha

mẹ, bỏ 2 em, bế con đi tha hương cầu thực”. Nhưng rồi cái dự định ấy cũng

không thể thực hiện được trước sự đay nghiến của bố mẹ, trước " lệ làng

phép nước". Bính xót xa đau đớn cho thân phận mình, cho đứa con nhưng

Bính chẳng làm gì khác được, không thể cưỡng lại được những luật lệ hà khắc

ấy. Và cuối cùng, cô Bính xinh đẹp hiền lành đã bỏ làng ra đi và bị đẩy vào

cuộc sống nhơ bẩn, nhục nhã; Tám Bính trở thành gái điếm, trở thành một Bỉ

vỏ siêu hạng bên Năm Sài Gòn khét tiếng.

Lạ lùng, bên cạnh Năm Sài Gòn hung ác, lì lợm, Bính vẫn giữ được

trong tâm hồn những nét trong sạch, lương thiện. Là một người mộ đạo Thiên

Chúa nên trước tội ác của chồng mình, Bính nghĩ ngay tới các hình phạt có

thể xảy ra. Trong con người Bính luôn có sự dằn vặt, giằng xé nội tâm giữa

cái thiện - cái ác, giữa tội ác và sự trừng phạt. Điều này khác hẳn với Thị

Mịch trong Giông tố (Vũ Trọng Phụng) " Tuyết” trong Đời mưa gió ( Nhất

Linh - Khái Hưng), Huyền trong Làm đĩ (Vũ Trọng Phụng)…những con

người sớm bị tha hoá khi bị cuộc đời xô đẩy. Càng yêu thương Năm bao

nhiêu, Bính càng lo sợ khi mình càng ngày càng chìm sâu vào vòng luẩn

52

quẩn, tội lỗi bấy nhiêu. Và một kết thúc bi thảm đối với cuộc đời Bính là điều

tất yếu.

Qua Bỉ vỏ ta thấy Nguyên Hồng không bao giờ đánh mất lòng tin ở bản

chất tốt đẹp của người lao động dẫu rằng có lúc tưởng chừng Tám Bính đã

thực sự trở thành Bỉ vỏ. Niềm tin ấy đem đến cho Bỉ vỏ nhiều trang viết trữ

tình cảm động. Dưới ngòi bút của Nguyên Hồng, cả đến một cô gái điếm và

một tên lưu manh "chạy vỏ" cũng hiện lên như những con người có tình yêu

chân thành và có lòng nhân đạo.

Cảm hứng này tiếp tục được thể hiện rất rõ trong tập truyện ngắn Bảy

Hựu. Nguyên Hồng đã miêu tả một cách chân thật, đau đớn và dữ dội quá

trình bần cùng hoá và lưu manh hoá của đám dân nghèo thành thị. Nhưng

đằng sau những số phận ấy là những con người sống giàu tình nặng nghĩa,

lòng nhân ái và đức hy sinh cao cả của họ đạt tới mức lý tưởng.

Bảy Hựu có 12 truyện ngắn và trong số ấy Bảy Hựu, Chín Huyền,

Nhà sư nữ chùa Âm Hồn ,Trong cảnh khốn cùng và Đây bóng tối là

những truyện đáng chú ý nhất.

Bảy Hựu và Chín Huyền đều là những mụ đàn bà ăn cắp và du côn

ngoài vòng pháp luật. Nhưng tấm lòng nghĩa khí của họ thì thật phi thường ít

ai có được.

Khi đứng trước cảnh tượng hèn kém và nhục nhã của mấy tay mày râu

trong hội của mình, Bảy Hựu đã quyết rửa nhục bằng một thủ đoạn sát nhân

nhưng sự can đảm đã làm cho nàng không biết lượng sức, đến nỗi việc không

thành và thân mình bị hại. Bảy Hựu đã thể hiện cái nghĩa khí anh chị mà

không phải ai cũng dám làm.

Chín Huyền cũng là một anh chị du côn nhưng thật là nghĩa khí. Lòng

thương bạn đã làm cho nàng quên cả cái thân đang đau ốm, quên cả sự hiểm

nghèo sắp xảy ra trong giấy phút. Sự thuỷ chung của người đàn bà giang hồ

đã cho ta một tấm gương sáng láng

53

Nhà sư nữ chùa Âm Hồn lại là một câu chuyện cảm động về mối tình

thống thiết của đôi vợ chồng hủi. Nguyên Hồng đã xây dựng nên những tình

huống như truyện trinh thám về số phận của họ. Cô gái đã vượt qua tất cả rào

cản của gia đình, bỏ giàu sang đi theo một mối tình duy nhất mà người chồng

ấy lại bị hủi. Và để che mắt thế gian, cô đã xuống tóc đi tu sống cuộc đời khổ

hạnh, âm thầm lặng lẽ chăm sóc chồng với lòng thương yêu dạt dào. Lòng

nhân đạo và sự hy sinh của nhà sư nữ lên tới tột bực khi cô quyết định chọn

cái chết cho cả hai người khi bị phát hiện ra sự thật. Phải là một con người

trọng tình trọng nghĩa sâu nặng mới có thể hành động như vậy. Điều đó khiến

chúng ta cảm động.

Qua tiểu thuyết Bỉ vỏ và tập truyện ngắn Bảy Hựu, người đọc dễ nhận

thấy bút pháp xây dựng nhân vật lưu manh có tính nhất quán của Nguyên

Hồng. Ta không chấp nhận con đường lưu manh, giang hồ của Tám Bính,

Năm Sài Gòn, Bảy Hựu, Chín Huyền... nhưng bên cạnh đó, người đọc vô hạn

cảm thương những số phận bất hạnh bị cuộc đời xô đẩy vào con đường tội lỗi

và đều có kết thúc bi thảm.

3.1.2. Nhân vật thuộc tầng lớp lao động nghèo ở thành thị

Họ là những người dân nghèo lam lũ ở thành phố. Nguyên Hồng không

miêu tả trực tiếp quá trình những người nông dân bị phá sản, bị cướp đoạt, bỏ

làng quê ra tỉnh. Nhưng ông thấy rất rõ số đông dân nghèo ở Hải Phòng, Hà

Nội, Nam Định là những người đã lìa hẳn quê lên đây:

"Sau mấy năm lụt lội, đói khát, dịch tễ liên tiếp, họ đâu như đã bán nốt

miếng đất cuối cùng của ông cha cho bọn kỳ lý, cho nhà Chung để gỡ nợ, để

chạy kiện, để thoát vạ rượu, vạ cướp tiêu sưng, để khỏi nhìn những cảnh đau

tủi, uất ức mà đi tha hương cầu thực, thử xem ngoài những nơi chôn rau cắt

rốn của họ, đời họ có thay đổi được chút nào không?" (Ngọn lửa)

Và cái xã hội kim tiền thời đó đã biến họ thành những thứ hàng hóa. Ở

nông thôn họ là những người có lý lịch dù là xấu, là khổ. Nhưng nay ra thành

phố, họ trở thành đám người không tên, không tuổi. Sớm muộn thì cái đám

54

dân quê phiêu bạt ra thành phố này sẽ dần dần mất đi lịch sử riêng. Họ chỉ

còn là đám đông vô danh trong bộ đồng phục màu xám. Hàng ngày họ phải

lang thang đi kiếm ăn trong những điều kiện sống hết sức khắc nghiệt, vô tình

của những thành phố tư sản.

Trước hết đó là những người làm các nghề phu phen tạp dịch nặng nề

như: phu bến tàu, đội than, đội đá, đào đất, bốc vác hàng hóa, đun goòng, làm

đường sá... Họ lao động cực nhọc suốt ngày mà vẫn đói rách, lam lũ. Khi

không còn sức khoẻ nữa hay bị tàn phế vì tai nạn lao động thì có khi phải đi

ăn mày, ăn xin (Đây bóng tối). Họ là dân "tứ chiếng" gặp nhau nên trong

cuộc sống vẫn bộc lộ một nét tính cách "rất Hải Phòng": Phóng túng, táo tợn

lối "anh chị". Mặc dù vậy, dưới ngòi bút của Nguyên Hồng họ vẫn mang bản

chất tốt đẹp của người lao động nghèo.

Một loại người nữa mà mỗi khi viết về họ, ngòi bút Nguyên Hồng lại

rung lên niềm thương cảm nghẹn ngào: Đó là những người phụ nữ. Thân phận

của họ luôn bị rẻ rúng nhất, chịu nhiều tầng áp bức bóc lột nhất trong xã hội

cũ. Có thể nói, tác phẩm của Nguyên Hồng đã ghi lại được những nỗi khổ

điển hình của người đàn bà Việt Nam trong những năm dài tối tăm trước Cách

mạng tháng Tám.

Họ phải kiếm ăn bằng đủ thứ nghề: từ việc buôn thúng bán mẹt, bán

hàng cơm đêm, hàng nước cho đến những người khâu thuê vá mướn, những

người thợ... ấy là những người đàn bà dân nghèo suốt đời tần tảo nuôi chồng,

nuôi con, nuôi em như người vợ trong Nhà bố nấu Vịnh Hàng cơm đêm, Cô

Du Mợ Du, Mũn Đây bóng tối người mẹ trong Những ngày thơ ấu và Lệ

Hà Người con gái...

Chồng lên cái khổ vì nghèo túng, thiếu thốn, những người đàn bà này

còn phải chịu một nỗi khổ khác nữa đó là tập tục phong kiến đè nén, trói buộc

(Tam tòng tứ đức).

Chồng chết thì họ một lòng một dạ kính sợ anh chồng. Và dù có phải

ăn đói mặc rét cũng cố mua cho được "vài xu rượu" cho anh chồng. Để rồi khi

55

những đứa con lên tiếng phản đối sự ưu ái thì người mẹ đã khổ sở, đau đớn

thốt lên: "Ai cho phép chúng mày nói thế hở? Bác chúng mày đấy! Chúng

mày dám thế à? (Vực thẳm).

Chính vì cái "tam tòng tứ đức" ấy mà người đàn bà goá đã không được

quyền đi bước nữa, không được phép đi tìm hạnh phúc cho riêng mình. Chính

vì thế người mẹ trong Những ngày thơ ấu khi tái giá đã phải chịu bao sự

ruồng rẫy, khinh miệt của gia đình nhà chồng, của dân làng đến mức phải bỏ

con mình đi tha phương cầu thực. Xã hội ấy không chấp nhận một người đàn

bà chưa đoạn tang chồng mà đã chửa đẻ với người khác. Đó là một xã hội đầy

những thành kiến cổ hủ đã bóp nghẹt quyền sống của người phụ nữ. Vì thế họ

lại tiếp tục bị rơi vào bi kịch của nạn ép duyên, nạn vợ lẽ... Và nhiều trường

hợp người đàn bà lấy phải gã đàn ông vũ phu và trở thành vật hy sinh cho

những cơn giận cá chém thớt của hắn mỗi khi hắn bị số phận đẩy vào tình

trạng bế tắc, cùng quẫn như mụ Mão trong Người đàn bà không con, ...

Những người đàn bà ấy dù bị vùi dập đến đâu thì trong con người họ vẫn toát

lên một bản năng sống mãnh liệt, đó là tình mẫu tử thiêng liêng và những

khao khát hạnh phúc lứa đôi như Mợ Du, người mẹ trong Những ngày thơ

ấu Lệ Hà trong Người con gái... Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyên Hồng

là cây bút am hiểu hơn ai hết những nỗi khổ của người phụ nữ ở cả hai

phương diện giai cấp và giới tính. Và qua số phận của họ, ông cũng bộc lộ tư

tưởng hết sức tiến bộ trong tình yêu, hôn nhân, trong sự bình đẳng nam nữ...

Trong cái đám dân nghèo thành thị ấy chúng ta không thể không kể đến hình

ảnh cảm động của những trẻ em nhà nghèo. Đó là những sinh mệnh đáng

thương, những số phận tội nghiệp mà chính Nguyên Hồng đã trải qua thời thơ

ấu. Những hình tượng nhân vật này, dù được khắc hoạ đậm nét hay chỉ thấp

thoáng, đều hết sức ám ảnh đối với tâm tư người đọc. Những ngày thơ ấu là

tập hồi ký ghi lại "những rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại"

(Thạch Lam), Đàn chim non là tình cảm của những đứa trẻ mồ côi phải sớm

bước vào đời để kiếm sống; Bút ký Cuộc sống có những trang đầy rung cảm

56

vẽ lại chân dung của một loạt đứa trẻ nhà nghèo được gợi lên từ những tấm

ảnh. Trong Hơi thở tàn là hình ảnh những đứa bé hết sức đáng thương, bồng

bế nhau lê la trong cát bụi, lại bắt chước giọng van xin thê thảm của một

người đàn ông mù dắt con đi ăn mày, nghe "rợn cả tâm trí".

Bằng tất cả những tình cảm chân thành thống thiết nhất khi viết về họ,

Nguyên Hồng xứng đáng được gọi là nhà văn của phụ nữ và trẻ em thuộc tầng

lớp bị áp bức bóc lột trong xã hội cũ.

3.1.3. Nhân vật trẻ tuổi thuộc tầng lớp tiểu tư sản nghèo.

Phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương 1937 bị đàn áp vào cuối năm

1939 có ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyên

Hồng. Một lý do nữa là chế độ kiểm duyệt rất khắt khe của thực dân Pháp

khiến Nguyên Hồng không thể tiếp tục viết nhiều về người lao động, thợ

thuyền, công nhân - Thời kỳ này, trong truyện ngắn và tiểu thuyết Nguyên

Hồng xuất hiện nhiều hơn những nhân vật trí thức tiểu tư sản.

Nhân vật chính ở đây thường là một thanh niên tương đối có học và có

lý tưởng nhưng vì cùng túng mà phải lận đận, thậm chí cuối cùng chết trong

nghèo đói. Nhưng ở họ có điều đáng quý là tinh thần lạc quan, luôn tin tưởng

ở một ngày mai tươi sáng sẽ đến trong cuộc đời họ.Và chính tinh thần lạc

quan ấy đã giúp họ có đủ nghị lực để sống, và cao hơn, để hoà mình vào với

phong trào Cách mạng.

Nhân vật Huyền trong Hai giòng sữa là một nhạc sĩ có đủ điều kiện để

sống đầy đủ, thậm chí thừa thãi về vật chất. Nhưng thức tỉnh sau những ngày

tâm hồn bị băng hoại, anh ta khám phá ra rằng, cuộc đời anh cũng như nghệ

thuật của anh chỉ có thể hồi sinh khi biết gắn bó với nhân dân như gắn với

Hai giòng sữa mẹ:

"Không phải chỉ để cho riêng mình, mà âm nhạc nảy lên còn để cho

đoàn thể. Đó là cái âm nhạc đã tiêu biểu những đặc sắc của một dĩ vãng bất

hủ, một sức sống bất diệt của một dân tộc trong những chặng lịch sử nguy

nan, tối tăm, một làn sinh khí bốc trên những mặt đất đẫm mồ hôi nước mắt

57

của đám dân ấy. Đời Huyền bắt vào đời họ như rễ cây tơ bám diết lấy lòng

đất, càng lâu bao nhiêu càng vững chắc bấy nhiêu, nảy nở bấy nhiêu với

những màu mỡ không bao giờ cạn" (Hai giòng sữa)

Trong Hơi thở tàn, nhân vật Sinh là một thanh niên tiểu tư sản nghèo

tự nguyện lao động và sống giữa đời sống lam lũ của nhân dân. Anh thực sự

tham gia lao động chân tay, sống chan hoà với những anh chị em thợ thuyền

và dân nghèo thành thị. Đời sống thiếu thốn, bệnh tật nặng nề, nhưng Sinh

vẫn vui và tin ở sự sống, ở tương lai:

"Tương lai! Những người đau khổ và hết sức chiến đấu, thế nào cũng

giật lấy được tương lai".

Một loạt các tác phẩm như Ngọn lửa, Miếng bánh, Một trưa nắng,...

đều khắc họa rõ hơn chân dung những trí thức tiểu tư sản đang trên con đường

giác ngộ. Người đọc dễ dàng nhận thấy hình ảnh của chính bản thân Nguyên

Hồng qua hình ảnh của họ. Đấy là sự chuyển biến trong tư tưởng và con

người ông: từ chỗ gắn bó với người dân lao động do cảnh ngộ đói nghèo đẩy

tới đến chỗ ông đã có ý thức hoà nhập vào đời sống nhân dân, coi đấy mới là

cuộc sống chân chính.

Các tác phẩm Hai giòng sữa, Miếng bánh, Ngọn lửa, Một trưa nắng

ít hay nhiều có phản ánh sự chuyển biến tư tưởng của Nguyên Hồng thời kỳ

tham gia nhóm Văn hóa Cứu quốc bí mật, từ 1943 đến Cách mạng tháng

Tám.

3.2. Nhân vật "Chịu nạn"

Khía cạnh đau thương của con người là phần định hướng tự giác ban

đầu của ngòi bút Nguyên Hồng. Định hướng ấy dẫn ông đến với những nhân

vật "dưới đáy" của xã hội, trong đó đặc biệt khốn khổ là phụ nữ và trẻ em.

Nhưng với ông, đau thương không phải là phương tiện để thử thách đức tin.

Ông muốn chất lên vai nhân vật của mình thật nhiều đau thương để vạch trần

nỗi thống khổ của kiếp lầm than và qua đó cũng cốt để thử thách sức bền của

đức tin, để vĩnh cửu hóa vẻ đẹp thánh thiện trong tâm hồn họ.

58

Đó là kiểu nhân vật tự nguyện gánh chịu những những bất hạnh vì một

lý tưởng nào đó giống như sự hi sinh của Chúa Giê Su. Nhân vật của Nguyên

Hồng "Chịu nạn" vì lý tưởng đạo đức. (Sau Cách mạng tháng Tám nhân vật

của ông còn "chịu nạn" vì lý tưởng cộng sản). Cội nguồn tinh thần chịu nạn

của nhân vật trong sáng tác Nguyên Hồng là ở trái tim, nhất là trái tim giàu

đức hy sinh của người phụ nữ. Tiêu biểu cho kiểu nhân vật này là Tám Bính

trong Bỉ vỏ. Tám Bính bị lừa phản, chịu nhiều oan ức, bệnh tật phá hoại thể

xác, tội ác phá hoại tinh thần, con người cứ vùng lên dập xuống, dập xuống

lại vùng lên. Tám Bính phải trải qua bao nhiêu cảnh đau đớn tủi nhục, tối tăm,

tất cả trái tim và linh hồn bị xẻo, bị nướng, bị tan nát. Tất cả ước mơ trong

sáng, tươi thắm đẹp đẽ nhất của cả một đời bị tàn phá. Tất cả những gì lành

mạnh, cao quý thiêng liêng nhất, thể chất cũng như tinh thần đều bị thay đổi

ngoài ý muốn của Bính. Bính bị cuốn đi xiêu bạt bởi một sức mạnh tàn nhẫn

độc ác vô cùng.

Tám Bính thực sự là kiểu "nhân vật trái tim" của Nguyên Hồng. Trải

qua biết bao kiếp nạn và có những lúc là tự nguyện (như việc cứu Năm Sài

Gòn khỏi trại giam), tâm hồn Bính vẫn giữ được những nét trong sạch, lương

thiện. Và mỗi lần Bính thấy "ngùn ngụt sự thèm thuồng khao khát một cuộc

đời trong sạch, êm đềm" là mỗi lần lòng Bính lại thấy nhớ tiếc mọt cái gì đã

mất mát, một cái gì xót xa, đau khổ. Cuộc đời Bính đến lúc tra tay vào còng

có thể nói là chấm hết, tắt hết mọi hy vọng: "Thoáng phút giây, Bính thấy hết

cả mọi sự tuyệt vọng tối tăm từ nay trở đi không lúc nào không xâu xé tâm

can Bính và Bính sẽ sống một đời khốn nạn dài vô cùng tận... Thế là hết”(30-

285)

Nhân vật Tám Bính có hình ảnh của Đức Chúa Giê Su đứng lại an ủi

dân vùng Giê - ruy - da - lem giữa khi chính mình không được ai ngỏ một câu

ái ngại mà mà lại còn bị xỉ vả, lại còn phải vác cây thập ác nặng nề. Và Tám

Bính đã quyết noi theo tấm gương của Chúa.

59

Và tiếp theo Tám Bính, một loạt các nhân vật khác trong truyện ngắn

của Nguyên Hồng sau này cũng có cuộc đời bi thảm tương tự như Muống,

Mũn, Người con gái,...

Kiểu nhân vật "giàu lòng thương cảm" này của Nguyên Hồng khác

với kiểu nhân vật tư tưởng, nhân vật hành động, nhân vật cảm giác trong sáng

tác của các nhà văn cùng thời khác.

3.3. Bút pháp xây dựng nhân vật

Để có cá tính và nét riêng biệt, ngay từ khi viết những truyện ngắn đầu

tiên, Nguyên Hồng đã tự nhủ làm sao cái cá tính riêng biệt đó "toát lên ở tâm

hồn biết yêu thương của mình, ở màu sắc sự sống mà mình diễn tả, ở thái độ

trước cuộc đời mà mình suy nghĩ, ở sự gửi gắm của mình với người đọc, ở cái

mình đem lại chơngời đọc thật có một sự kết đọng cao quý và trân trọng vì

nhân sinh không?" (31 - 100). Và Nguyên Hồng nhận thấy văn của mình khác

của người ở điểm căn bản là "tính chất màu sắc và sự rung động, yêu

thương".

Chính vì vậy, Nguyên Hồng không có ý xây dựng nhân vật của mình

với tư cách đại diện cho tầng lớp, giai cấp, địa vị xã hội như một số nhà văn

hiện thực phê phán đương thời (Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng

Phụng). Nhân vật trong truyện ngắn và tiểu thuyết Nguyên Hồng hiện lên từ

nhiều cảnh ngộ khác nhau, nhưng dường như họ đều có một nét chung nhất về

phẩm chất làm người, luôn hướng tới ánh sáng của sự lương thiện. Hiện thực

cuộc sống khi vào tác phẩm Nguyên Hồng còn được thẩm thấu qua một cảm

quan lãng mạn, trên cơ sở niềm tin yêu mãnh liệt của nhà văn đối với cuộc

sống và con người. Vì thế khi xây dựng nhân vật, bên cạnh việc tuân theo

những nguyên tắc chung của chủ nghĩa hiện thực, Nguyên Hồng còn có một

yêu cầu riêng, thể hiện những tính cách nhân vật khác thường theo bút pháp

của chủ nghĩa lãng mạn.

Trong các tiểu thuyết của "Tự lực văn đoàn" nhân vật lãng mạn

thường bị tách rời khỏi hoàn cảnh và không chịu sự tác động của hoàn cảnh.

60

Tính cách của Loan, Dũng, Mai, Lộc... từ đầu đến cuối tác phẩm hầu như

không thay đổi mấy. Tuy tính cách cũng có phát triển chút ít, nhưng cái lôgíc

nội tại của nhân vật chỉ là cái lôgíc chủ quan của tác giả chứ không phải cái

lôgíc khách quan của cuộc sống.

Chủ nghĩa lãng mạn xây dựng những tính cách phi thường, đặt đối lập

với nhau để đạt đến một mục đích có sẵn của các tác giả và như thế là phủ

nhận khả năng phát triển tự thân của tính cách. Chủ nghĩa hiện thực phê phán

không những chứng minh tính cách phát triển mà còn chỉ ra rằng: tính cách

trong khi biến đổi vẫn giữ lại một số đặc điểm bền vững đầu tiên của nó. Nắm

được phép biện chứng giữa tính ổn định và tính biến đổi trong tính cách nhân

vật, đó là một thành tựu của chủ nghĩa hiện thực phê phán.

Mỗi tính cách đối lập với hoàn cảnh theo cách của mình, xuất phát từ

những bản chất bên trong của mình (tính ổn định bền vững). Nhưng mặt khác,

trong những hoàn cảnh, môi trường khác, nó lại thích nghi, phát triển (tính

biến đổi) hoàn cảnh mới, tính cách thay đổi mang thêm những đặc điểm mới

nhưng nó vẫn giữ lại những dấu vết của tính bền vững. Và Nguyên Hồng đã

làm nổi bật thành tựu này của chủ nghĩa hiện thực phê phán trong cuốn tiểu

thuyết đầu tay Bỉ vỏ của mình. Tính cách các nhân vật của Nguyên Hồng

trong truyện ngắn thường được đặt vào các tình huống có tính chất bị kịch. Và

tình huống bi kịch đó ngày càng bị đẩy lên cao, căng thẳng khiến cho người

đọc ngộp thở. Và trong những tình huống ấy, tính cách nhân vật được bộc lộ

một cách rõ nét nhất, toàn diện nhất. Điều nào có khác với bút pháp xây dựng

nhân vật của Thạch Lam. Tình huống truyện Thạch Lam không phải là những

tình thế để nhân vật bộc lộ tính cách qua những hành động quyết liệt mà chính

là những tình huống để nhân vật bộc lộ mình qua tâm trạng, cảm xúc, qua

những hành động có sắc thái trữ tình. Và so với những tình huống hài kịch

hoặc trào phúng của Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng lại càng thể hiện

những bút pháp riêng độc đáo.

61

Để tạo nên những tình huống bị kịch ấy trong tiểu thuyết, Nguyên

Hồng đã đặt nhân vật của mình trong một thời gian, không gian vô cùng rộng

lớn, trải dài suốt cuộc đời số phận của nhân vật

Khác với không gian chật hẹp tù túng trong một làng nhỏ, một xóm nhỏ

ngoại ô, một thành phố... mà thời gian ở đấy lúc nào cũng như ngưng đọng

với những con người nhỏ bé, cam chịu, âm thầm lặng lẽ... trong sáng tác của

Thạch Lam, không gian trong truyện của Nguyên Hồng lúc nào cũng ồn ã,

náo nhiệt với tất cả những âm thanh của cuộc sống. Và nhân vật thực sự bị

ném vào dòng thác của cuộc đời và bị nó cuốn đi hết nơi này đến nơi khác

Tám Bính (Bỉ vỏ) đã không thể cam chịu mãi cảnh đay nghiến chì chiết

của bố mẹ ngày này qua ngày khác, cô đã rời bỏ làng quê nghèo khổ ấy lên

thành phố, mong tìm một cuộc sống mới, với người tình hờ thuở trước.

Nhưng chưa thực hiện được mở ước của mình thì Bính lại tiếp tục bị lừa gạt

để rồi cuối cùng trở thành gái điếm mạt hạng trong nhà chứa.

Nhưng ở trong bất cứ hoàn cảnh nào từ lúc làm gái điếm, làm vợ Năm

Sài Gòn hay làm vợ tên mật thám, làm một Bỉ vỏ.... ta vẫn nhận ra một Tám

Bính lúc nào cũng ngơ ngác, đau đớn với câu hỏi không hiểu vì sao cuộc đời

lại đến nông nỗi này?

Biết đến bao giờ mới thoát ra khỏi vòng tội lỗi? Mỗi lần bị rơi vào một

hoàn cảnh bi kịch, Tám Bính lại càng thể hiện rõ hơn cái bản chất lương thiện

vốn có từ thuở ban đầu. Rõ ràng khi xây dựng tính cách nhân vật, Nguyên

Hồng không để nhân vật chịu sự tác động của hoàn cảnh, mà hoàn cảnh chỉ có

tác dụng làm nổi rõ hơn tính cách của nhân vật mà thôi. Vì vậy tính cách nhân

vật của Nguyên Hồng không phức tạp, khó hiểu và nhiều giằng xé nội tâm

như nhân vật của Nam Cao. Nhân vật của Nguyên Hồng hành động theo sự

mách bảo của trái tim nhạy cảm, tràn ngập tình thương

Tác giả diễn tả diễn biến tâm lý của Bính một cách khá tinh tế. Tuy đã

cùng Năm Sài Gòn làm nghề ăn cắp trên đường bộ rồi ăn cắp trên tàu nhưng

62

cứ mỗi lần Năm phạm một tội ác là mỗi lần lương tâm Bính bị dằn vặt, khổ

sở.

Có một câu chuyện cứ ám ảnh mãi tâm hồn Bính là chuyện Ba Bay bị

giết trong đêm trăng mờ. Lần đó Ba Bay, một người bạn của Năm Sài Gòn

"đỡ nhẹ" của vợ chồng Bính một món hàng đang theo dõi. Bắt gặp Ba Bay,

Năm Sài Gòn "hắt bắn vợ đi" đâm Ba Bay chết tươi. Bính sợ hãi chạy đến thì:

"Thây Ba cứng đờ, máu ở ngực, ở cổ họng cứ tuôn ra, Bính ríu lưỡi

nói: Thế này thì chết cả mất. Nghe Bính nói không lên tiếng, Năm cười rộ lên,

rồi lạnh lùng xốc Ba Bay lên vai, chạy lùi lũi về phía ruộng tận đằng xa.

Mảnh trăng vừa nhô khỏi đám mây xám, trút xuống cảnh vật một làn ánh

sáng xanh trong, xanh bóng lẫn với sắc xanh đặc của ruộng lúa rì rào. Tám

Bính chỉ chực khuỵu xuống. Bính hoa mắt trông thấy trong sương xác Ba Bay

rũ rượi trên vai Năm. Bính rợn cả người, sực nhớ tới bức tranh này treo trên

tường ở buồng ông cố đạo giải tội cho Bính dạo năm xưa. Phút chốc cái vắng

lặng êm đềm của đêm xuân trở lên lạnh lẽo, ghê gớm lạ thường. Bính thấy nó

báo trước cho Bính rồi đây những sự khủng khiếp thế nào cũng đến với Bính

không thể nào tránh được" (30 - 259)

Bên cạnh Năm Sài Gòn hung ác, lạnh lùng, Bính vẫn giữ được trong

tâm hồn những nét trong sạch, lương thiện.

Là một con chiên ngoan đạo nên trước tội ác của chồng mình, Bính

nghĩ ngay tới những hình phạt sắp tới có thể xảy ra. Vì thế sau đó, lắm đêm

ròng rã, Bính không sao chợp mắt ngủ được. Một năm sau, trong một đêm lén

lút đi trốn "Cớm", lúc qua một cái nghĩa địa vắng lạnh, Tám Bính lại bị hình

ảnh Ba Bay doạ nạt, Bính lại tưởng ra hắn "mình mẩy đẫm máu, tóc rũ rượi lơ

lửng trước mặt Bính".

Nhân vật Tám Bính tuy có phần được lý tưởng hoá nhưng về căn bản

đã thể hiện được quy luật tâm lý chính xác mà chủ nghĩa hiện thực yêu cầu,

tính cách phát triển theo lôgíc nội tại khách quan. Một trong những điểm nút

đầy kịch tính của tác phẩm là trường hợp Tám Bính bị đẩy vào tình thế phải

63

lựa chọn giữa hai con đường, và điều này sẽ quyết định một cách tàn nhẫn số

phận của cô. Sống yên ổn với thằng chồng mật thám hay mở cửa ngục cho

Năm Sài Gòn và cùng hắn trở về cuộc sống lưu manh đầy bất trắc?. Tám Bính

đã chọn con đường thứ hai, và điều ấy phù hợp với tính cách của cô. Con

người giàu lòng vị tha và tình nghĩa thủy chung ấy có thể sẵn sàng tha thứ,

thậm chí thương xót cả đến kẻ phản bội mình như Tham Chung, hay những

người đã từng hắt hủi mình một cách tàn nhẫn như cha mẹ cô. Chính vì thế

làm sao Bính có thể dửng dưng với số phận của Năm Sài Gòn, người duy nhất

đã yêu thương cô thật sự và cứu cô ra khỏi vũng bùn của nghề mãi dâm ô

nhục, mà có lúc cô đã muốn lấy cái chết để tự giải thoát.

Có thể nói Nguyên Hồng đã trình bày thành công mối quan hệ biện

chứng giữa tính ổn định và tính biến đổi trong tính cách Tám Bính. Khi xây

dựng nhân vật, Nguyên Hồng thường bộc lộ chất men say lãng mạn. Đây

chính là mặt mạnh nhưng đồng thời cũng làm cho tác phẩm của Nguyên Hồng

có những hạn chế nhất định. Trong một số trường hợp, nhà văn phải để cho

nhân vật trầm hơn, tự họ bộc lộ, chứ không phải đang say sưa nghiêng ngả

trong một xúc động, một sự hưng phấn cao độ. Những lúc đó Nguyên Hồng

thường gán cái chủ quan của mình cho nhân vật. Ông dường như đã nhập thân

vào nhân vật, vào đối tượng miêu tả nhưng không lùi lại một khoảng cách để

tỉnh táo nhận ra rõ ràng đường đi nước bước của nhân vật. Chính vì thế nhiều

khi ta có cảm tưởng dường như ngòi bút của nhà văn chìm sâu một cách triền

miên trong sự đau khổ, say sưa trong một thứ chủ nghĩa cùng khổ.

Ví dụ đoạn kết trong tiểu thuyết Bỉ vỏ tác giả đã cố ý làm cho cùng một

lúc có trên sân khấu: Năm Sài Gòn, Tám Bính, đứa con bị chết của nàng,

người mật thám mà nàng đã lấy ở thành Nam và mấy viên cảnh sát. Truyện

kết thúc. Đó là lối ta thường thấy trên màn ảnh ở đoạn kết cuối phim thời đó.

Đây cũng là lối kết thúc Lôi vũ của Tào Ngu, là cái cảnh các nhân vật trong

Giông tố của Vũ Trọng Phụng đồng thời có mặt ở đường Cát Dài Hải Phòng

chứng kiến cái cảnh vợ Nghị Hách ngủ với thằng Cung Văn và các bí mật

64

trong cuộc đời Nghị Hách bị "Bật mí". Nhưng đó là lối dàn cảnh lộ rõ bàn tay

bố trí không được tự nhiên lắm. Nó đã thể hiện sự can thiệp quá sâu của tác

giả vào sự phát triển tự thân của nhân vật.

Điều này còn liên quan đến kết cấu của tác phẩm. Tác giả đã xây dựng

cốt truyện trên cơ sở một tấn bi kịch trung tâm, tấn bi kịch hạ màn thì cuốn

tiểu thuyết cũng kết thúc. Ở đây, kết cấu của tác phẩm không chạy theo diễn

biến của các sự kiện mà chủ yếu xoay quanh sự phát triển của tính cách nhân

vật.

Những truyện ngắn của Nguyên Hồng cũng sử dụng nhiều bút pháp,

nhiều lối kết cấu và xây dựng nhân vật khác nhau. Tất cả các thủ pháp nghệ

thuật đó đều nhằm phản ánh cuộc sống của tầng lớp dân nghèo thành thị. Họ

thường xuất hiện trong một tình huống đơn giản, một phạm vi thời gian không

gian nhỏ hẹp: như cô Vịnh trong một buổi tối bán hàng (Hàng cơm đêm), cô

Mũn bán bánh ở bến tàu nuôi chồng con (Đây bóng tối), mụ Mão trong gia

đình lão Mão Chột với bao day dứt về tình xưa nghĩa cũ khi nghe tin Ký Phát

chết (Người đàn bà không con); cô Lựu với quán nước nhỏ biết chắt chiu

từng hào cho mẹ mà vẫn giữ được phẩm giá trong sạch của mình... (Cô gái

quê). Họ đều là những người đàn bà lam lũ chịu thương chịu khó, giàu đức hy

sinh với một trái tim nhân hậu vô cùng. Cuộc đời lương thiện của họ có khi bị

vùi dập tan nát nhưng tấm lòng yêu thương đùm bọc, nhân nghĩa thủy chung,

những khát khao ước mơ trong sáng, đẹp đẽ của họ luôn hướng về một thế

giới tràn đầy ánh sáng và lý tưởng.

Do vậy ta dễ nhận thấy "nhân vật của Nguyên Hồng có những tính cách

lớn nhưng không phải là lớn về tư tưởng, trí tuệ và hành động cải tạo thế giới

mà lớn về tái tim sôi sục mãnh liệt, lớn về niềm tin yêu vô cùng đối với sự

sống và lớn về sức gánh chịu phi thường những khổ đau oan trái ở đời".

(Nguyễn Đăng Mạnh).

Bút pháp xây dựng nhân vật của Nguyên Hồng dường như có ảnh

hưởng của cảm quan tôn giáo. Hành trình Giê Su trở thành thánh thiện gánh

65

chịu đau thương, khước từ sự cám dỗ của ma quỷ, khổ hạnh với một tinh thần

khắc kỷ nghiêm ngặt nhưng vẫn đầy tin tưởng có ảnh hưởng sâu sắc đến

Nguyên Hồng. Điều này khiến ông dựng lên được một hành trình nhất quán

của con người với đức tin: Đau thương - sức cám dỗ ma quỷ - tinh thần khắc

kỷ, niềm lạc quan tin tưởng (hành trình này vẫn còn tiếp tục với nhân vật Huệ

Chi trong bộ tiểu thuyết Cửa Biển sau này).

Có thể khẳng định chắc chắn rằng chính ý thức tự giác của một nhà văn

hiện thực luôn khẳng định chắc chắn rằng chính ý thức tự giác của một nhà

văn hiện thực luôn thúc giục Nguyên Hồng viết về tôn giáo với một cảm hứng

phê phán mạnh mẽ, để mong xoá đi những mê muội, thức tỉnh người nghèo.

Điều đó có ý nghĩa lớn trong việc giúp ông ngày càng đặt hẳn niềm tin của

mình vào những con người bằng xương bằng thịt, có máu và nước mắt trên

chính thế gian này. Song "ảnh hưởng của cảm quan tôn giáo lại luôn luôn

như một thứ ánh sáng ngầm, chi phối sự cảm nhận hiện thực của tác giả.

Phải nói rằng: nếu không có một thứ ánh sáng ấy, giá trị của văn phẩm

Nguyên Hồng, và đồng thời của chính con người ông, sẽ không phải như nó

vốn có - nhất là chiều sâu và độ bền chặt của đức tin ở sự thánh thiện của con

người" (58- 247)

Nguyên Hồng trong sự tiếp thu tôn giáo đã không bị cuốn đi bởi sự mê

muội, mà luôn chắt lọc một cách tự nhiên lấy phần nhân văn cao cả của nó.

Đó là tinh thần tôn giáo hiểu theo nghĩa như là đức tin tuyệt đối và sự hy sinh

cao cả. Trái tim ông lúc nào cũng chỉ một nhịp đập dành cho những rung cảm

cùng con người và lúc nào cũng tin ở con người.

Cách xây dựng nhân vật của Nguyên Hồng cũng phụ thuộc vào thể loại.

Khoảng khắc vào truyện ngắn của Nguyên Hồng thường là lúc bi kịch trong

cuộc đời nhân vật đã được đẩy lên cao độ và càng tiến nhanh đến phần kết

thúc. Còn trong tiểu thuyết thì các tấn bi kịch nối tiếp nhau, tấn bi kịch sau

lớn hơn tấn bi kịch trước, tính cách nhân vật được thử thách, được bộc lộ

ngày càng rõ nét qua những tình huống bi kịch đó. Điều đó cũng dễ hiểu vì

66

trong bản chất, truyện ngắn gần với kịch, trong khi tiểu thuyết chứa đựng

nhiều mô tuýp hãm phanh, không lan rộng hơn, nhân vật có thể đi qua nhiều

môi trường và hoàn cảnh tác giả có điều kiện hơn để bộc lộ những đoạn bình

luận trữ tình phụ đề.

Còn trong tiểu thuyết tự truyện Những ngày thơ ấu giàu chất trữ tình

thì “cái tôi” của chủ thể trữ tình lại bộc lộ toàn diện hơn. Có những người cho

rằng trong tiểu thuyết tự truyện, “cái tôi” kể những truyện thầm kín riêng tư

của mình ra trước công chúng. Nhưng cũng có những lý luận cho rằng, trong

tiểu thuyết tự truyện đó là một “cái tôi” trong sáng , một “cái tôi” ở trạng thái

thăng hoa. Do đó tiểu thuyết tự truyện cũng có tác dụng thanh lọc hóa

(Catharsis) tâm hồn như bi kịch.

Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng thuộc trường hợp thứ hai.

Những ngày thơ ấu có nhiều đoạn độc thoại nội tâm trong sáng và xúc động.

Đó là tác phẩm mang “vẻ đẹp tuổi dậy thì” của Nguyên Hồng trước Cách

mạng tháng Tám.

Sau này Nguyên Hồng có nhiều tác phẩm bề thế hơn, bộn bề chất sống

hơn ,già dặn và từng trải hơn nhưng không còn cái “vẻ đẹp dậy thì” trong sáng

và hồn nhiên đó.

67

Chương IV.

Ngôn ngữ - Giọng điệu

Tác phẩm văn học nào cũng nhằm thể hiện một thế giới nhân sinh. Ở

đó người đọc có thể nhận thấy những sự vật, hiện tượng của đời sống con

người. Đó là ý nghĩa khách quan. Nhưng điều quan trọng của tác phẩm văn

học không chỉ ở ý nghĩa khách quan mà còn là ý nghĩa chủ quan. Qua những

vấn đề, hiện tượng được nêu lên bao giờ tác giả cũng muốn thể hiện một phần

tâm tư khát vọng của mình trong tác phẩm. Bởi vì: "Viết văn không phải chỉ

phản ánh mà còn biểu hiện, không phải chỉ tái hiện mà còn thông báo, tâm

sự, tâm tình" (26 - 25). M.Gorki đã từng khuyên các nhà văn: “Bạn hãy giữ

lấy cái gì là của riêng mình làm sao cho nó phát triển tự do" (26- 26). Vì vậy

dấu ấn chủ quan của nhà văn được in đậm qua thế giới nghệ thuật của tác

phẩm. Thực tế cho thấy cùng một hiện thực phản ánh nhưng mỗi nhà văn lại

có cách nhìn hiện thực và lý giải hiện thực theo những chiều hướng tư tưởng

và quan điểm thẩm mỹ khác nhau, tạo nên những nét riêng độc đáo về phong

cách. Sự sáng tạo của nhà văn chính là cơ sở để đánh giá tài năng văn học:

"Cái quan trọng trong tài năng văn học mà tôi nghĩ rằng cũng có thể

trong bất kỳ một tài năng nào là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói riêng của

mình. Đúng thế, cái quan trọng là tiếng nói của mình, cái quan trọng là cái

giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kỳ

một người nào khác" (3-90). và Nguyên Hồng đã tạo ra cho mình một giọng

điều rất riêng biệt ấy. Nguyên Hồng viết văn chương như chỉ chịu áp lực của

một sự thôi thúc từ bên trong. Đó là niềm đam mê, khao khát cần phải viết

như để trút bỏ, giãi bày một điều gì, như cần phải lên tiếng trước con người và

cuộc đời. Và ngay từ ngày đầu cầm bút, ông đã ý thức:

"Trên cái võ đài văn chương nghệ thuật kia, tôi không thể chỉ không

nên bắt chước những ngòi bút mẫu mực có tiếng tăm của thứ văn thơ thời

thượng, mà ngay cả những ngòi bút cùng một khuynh hướng với tôi, đã đi

68

trước tôi, mở đường cho tôi, kích động tôi, tôi cũng phải không là nô lệ,

không là một cái bóng của sự quay cóp... Phải tự rèn, tự luyện cho mình... Sắt

thép của nó lấy ở quặng mỏ của sự sống, của cuộc đời. muôn màu nhiệm và

linh thiêng phải có máu thịt, máu thịt của con người, của chính mình. Muốn

sử dụng thật hiệu nghiệm thật có kết quả, thật là tuyệt với sự mầu nhiệm và

linh thiêng này, thì phải vừa học vừa xung trận. Thày dạy là tổ tiên, là ông

cha, là quần chúng, là nhân loại" (31-48).

Trong hàng ngũ các nhà văn hiện thực có tài thời bấy giờ cũng có nhiều

người viết về những người nghèo khổ bị đày đoạ, áp bức, và những nỗi ngang

trái của xã hội, đã đóng góp vào nền văn học hiện thực trước cách mạng

những tác phẩm đầy giá trị. Tuy vậy, ta vẫn thấy ít có ngòi bút nào đề cập đến

những con người ấy một cách da diết và thống thiết đến mức như ngòi bút

Nguyên Hồng.

"Người ta tưởng như nhà văn của "thập loại chúng sinh" ấy từ trong

lòng cái xã hội "thập loại chúng sinh" bước ra, cầm lấy cây bút sắt chấm vào

mồ hôi, nước mắt và máu của mình mà viết ra văn chương riêng của mình"

(58 - 103)

4.1. Giọng điệu sôi nổi, thiết tha và cấu trúc tầng tầng lớp

lớp của lời văn nghệ thuật.

4.1.1. Giọng điệu chủ yếu: thương cảm thống thiết, sôi nổi.

Hiếm thấy một nhà văn nào lại tự bộc lộ mình trong sáng tác một cách

hồn nhiên, sôi nổi và quá ư thành thật trong cảm xúc như Nguyên Hồng. Với

ông, văn đúng là người, hồn nhiên như con người nồng nhiệt như con người.

Cái nhìn cuộc sống, cảm hứng chủ đạo và cá tính nghệ sĩ làm nên chất giọng

riêng cho tác phẩm Nguyên Hồng. Đó là giọng cảm thương thống thiết và lạc

quan sôi nổi. So sánh với giọng điệu của một số nhà văn hiện thực cùng thời,

ta thấy giọng văn Nguyên Hồng không chạm trổ cầu kỳ như Nguyễn Tuân,

không đầy "lý sự" như Nam Cao, không nhẹ nhàng tinh tế như Thạch Lam, và

69

cũng không mỉa mai, cay độc và khinh bạc lạnh lùng giống Vũ Trọng Phụng,

Nguyễn Công Hoan... Giọng văn chủ yếu của Nguyên Hồng là giọng cảm

thương thống thiết và lạc quan sôi nổi, thường biểu hiện cảm xúc yêu thương

ở cường độ cao.

Ngay trong những trang viết đầu tiên của Bỉ vỏ, nhà văn 17 tuổi ấy đã

bộc lộ rõ lòng thương cảm thống thiết của mình về số phận của con người,

đặc biệt là người phụ nữ bị lầm lỡ. Và giọng văn tràn đầy thương cảm đó đã

theo suốt cuộc đời Tám Bính cho đến trang cuối cùng. Người đọc cảm thấy

xót xa cho Bính trước những giây phút cuối cùng được ở bên con, khi đứa bé

bị cha mẹ cô ác tâm bán đi:

"Bính lại ôm chặt lấy con, thương xót cho thân phận nó bị dằn hắt và

kèo nhèo mặc cả như một con trâu con lợn. Bính ghê sợ cho bố mẹ Bính và vợ

chồng nhà phó lý kia đang tay quyết cắt đứt tình yêu thương của mẹ con Bính

như một khúc dồi, một biếng phèo vậy. Dù sao Bính cũng không thể cưỡng lại

được. Bính đến phải nuốt nước mắt trao con cho bố mẹ bán đi thì mới tránh

thoát được những hình phạt quái ác không biết của ai, từ đời nào đã đặt ra để

trừng trị những đàn bà đẻ hoang, và Bính mới mong được yên thân với cha

mẹ" (30 - 26)

Trong truyện ngắn Mợ Du, giọng điều xót xa ấy lại toát lên từ cảnh ngộ

thương tâm của hai mẹ con lâu ngày được gặp nhau: "Giời ơi! Giời ơi! Mợ

chết mất! Dũng ơi! Dũng ơi!"

Ánh trăng vằng vặc đã gội tràn trề xuống hai gương mặt đầm đìa nước

mắt áp lên nhau và hai mái tóc ngắn dài trộn lẫn với nhau. Hương hoa cau và

hoa lý sáng và ấm đã xao xuyến lên bởi những tiếng khóc dồn dập vỡ lở ở một

góc vườn, rì rì tiếng dế" (19 - 191)

Có lẽ, xuất phát từ những năm tháng tuổi thơ sống trong sự cô đơn,

thiếu thốn tình yêu thương mẫu tử nên những trang viết về tình mẹ con,

Nguyên Hồng đều có một giọng điệu chan hoà nước mắt như vậy.

70

Giọng văn Nguyên Hồng đau đớn, phẫn nộ hơn trước những cảnh đời

bất hạnh, trước sự mong manh nhỏ bé của kiếp người:

"Tôi mù rồi! Tôi mù rồi! Mình ơi! Rồi không thể nén được sự chua xót,

Nhân ôm ngực, ngã gục xuống giường. Nhân thiếp đi trong tiếng vợ con khóc

như ri. Sao lại có thẻ như thế được? Sao lại có thể khốn nạn đau đớn cho hai

con người ấy như thế được? Sao hai người ấy đã cùng khổ mà lại còn phải

chịu nhiều sự cay đắng làm vậy? Sao lại chỉ trút lên đầu những kẻ hiền lành

chịu khó như vợ chồng Nhân những đoạ đầy khổ ải? Mà sao cái hạnh phúc bé

nhỏ gây dựng trên từng vũng mồ hôi, vũng nước mắt, vũng máu của vợ chồng

Nhân lại chóng bị phá tan đi?" (29 - 121).

Nhưng những giây phút tuyệt vọng ấy qua đi, Mũn và Nhân lại tìm thấy

niềm vui sống, niềm hạnh phúc trong nỗi đau khổ cùng cực ấy. Với Nguyên

Hồng, con người khi rơi vào cảnh ngộ bi thảm nhất thì khát vọng sống dường

như càng mạnh mẽ hơn.

Trong những ngày tháng lang thang tìm kiếm việc làm ở Hải Phòng,

với cái đói cồn cào, trong nỗi tuyệt vọng Nguyên Hồng tưởng "có thể chết ở

tuổi 16" - Tất cả những buồn thảm trĩu xuống tâm trí Nguyên Hồng mỗi ngày

như một đen đặc lại. Và càng đen đặc lại bao nhiêu lại càng làm cho Nguyên

Hồng khao khát cái khoảng trời sáng bấy nhiêu:

"A! Cái khoảng trời sáng trong những lúc tôi tưởng xác thịt và tâm trí

mình đã sập xuống, ngập đi, thì lại thấy nó trong ngần, tươi mát, thắm ngát

vời vợi... Cái khoảng trời chỉ có tinh thần là bay lên được, và chỉ có gội và

thở với khoảng trời này thì mới còn tình yêu, sức sống, mới thêm tình yêu, sức

sống" (31-99).

Rõ ràng với một trái tim chân thành nồng nhiệt, ham sống như vậy

Nguyên Hồng đã tạo ra trong tác phẩm của mình một giọng điệu nhất quán,

độc đáo riêng biệt từ tác phẩm đầu tiên Bỉ vỏ, đến bộ tiểu thuyết Cửa biển

sau này. Dường như cái sức sống tự bên trong tâm hồn nhà văn, một cái gì say

sưa, rạo rực, tha thiết, tin yêu đã in dấu lên mọi cảnh vật, mọi màu sắc. Nó

71

làm cho những cảnh sắc đó sôi động hẳn lên, rung lên, vang lên mạnh mẽ, thu

hút tình cảm người đọc, khiến cho người ta không thể dửng dưng lạnh nhạt:

"Một sự huyên náo như không bao giờ tắt. Tiếng guốc khua vang vang

trên bờ hè, những lớp sóng cười nói trào lên cuồn cuộn, rồi tràn lan, rồi tung

cao... Bánh xe bò chuyển rầm rầm, lăn loang loáng những vòng lửa trong

năng xuân chói loà... Những xẻng cuốc và ván gỗ đẩy trong hòm xe bắn ra

những trận như mưa rào rào... Và những tà áo, những nón lá, những chóp mũ

trắng thở ra những làn bụi li ti. Một sự sống mãnh liệt quá, đè lên, vượt qua

và cuốn theo tất cả những sự uỷ mị, những cái tối tăm, những cái gì có vẻ

chậm chạp" (19 - 166)

Hiện thực cuộc sống cứ ngồn ngộn lên sau từng con chữ. Thật khó có

thể tìm được một đoạn văn như thế trong những trang văn của Nam Cao,

Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng... Đó chỉ có thể là Nguyên Hồng, giọng văn

thống thiết của mọt tâm hồn nồng nhiệt muốn được giải bày trực tiếp trên

những trang sách.

Bên cạnh những trang viết với giọng lạc quan sôi nổi ấy, Nguyên Hồng

còn thể hiện giọng điệu trữ tình thiết tha khi đi sâu vào đời sống nội tâm của

nhân vật, đặc biệt là những bà mẹ, những cậu bé. Nó cũng khác với vẻ trữ tình

nhẹ nhàng, man mác dịu buồn của Thạch Lam, trữ tình triết lý nhuộm màu

chua chát của Nam Cao, giọng điệu trữ tình của Nguyên Hồng biểu hiện là sự

bùng nổ của cảm xúc.

Trong hồi ký Những ngày thơ ấu, dù phải sống khô héo, không hạnh

phúc bên người chồng già nghiện ngập, nhưng người mẹ vẫn luôn giữ được lễ

nghi phép tắc với mẹ chồng, với chồng, luôn tươi cười vui vẻ, thưa gửi dịu

dàng. Nhưng đồng thời, người đàn bà ấy lại mang trái tim khát khao tình yêu

cháy bỏng. Trái tim ấy mỗi khi nghe tiếng gọi của hạnh phúc lại đập rộn

ràng...

Mỗi lần khi nghe tiếng kèn của tốp lính có anh cai H đi qua thì người

đàn bà ấy lại rạo rực: "Đương nắm lấy tay tôi, tự nhiên mẹ tôi buông mạnh ra

72

bước xô xuống thêm gạch ra đường". Và đặc biệt tiếng kèn như là khát vọng

vươn tới chân trời xa, một sự khát khao hạnh phúc đến cháy bỏng:

"Tiếng kèn mỗi giây một dướn cao, một vang to, rung động cả làn

không khí êm ả một góc trời. Rồi nương tiếng gió lao xao trong những chòm

cây phấp phới, âm thanh náo nức, dồn dập của tiếng kèm càng cuốn lên cao,

tràn ra xa, rất xa, đến những vùng sáng tươi nào đó. Càng về sau tiếng kèn

lại càng niềm nở, ân cần như những lời thúc giục thống thiết... Hãy bước đi,

hãy bước đi, như làn lá nhỏ bay theo gió. Tiếng kèn vồn vã vẫn rõ ràng, trong

sáng và bầu trời mở rộng vẫn rung vang..." (19 - 193)

Người mẹ cảm thấy hạnh phúc biết bao sau những ngày tháng đều đều

trôi qua, sau những buổi chiều vàng lặng lẽ, lạnh lẽo của mùa đông: "Con mắt

của mẹ tôi sáng lên nhìn người thổi kèn và hai gò má mẹ tôi ửng hồng khi gặp

ánh mắt long lanh của người đàn ông nọ chiếu tới".

Và một chi tiết có lẽ là duy nhất, tinh tế nhất, sự bùng nổ của cảm xúc

đã lột tả rõ nhất tâm trạng của người mẹ mà đến trọn đời tác giả cũng không

quên được cái cảm giác ấy:

"Một bàn tay nhỏ nhắn run run bỗng từ đâu tuột xuống vai tôi và mọt

màng lành lạnh mong manh vương qua một cặp mắt lờ đờ... rồi đến một

giọng van lơn... Đừng quấn mãi lấy chân mợ mà" (19-194).

Hình ảnh bàn tay từ từ tuột xuống ấy như có gì nuối tiếc, bâng khuâng

thẫn thờ. Người đàn bà ấy dường như phải kìm nén những khát khao hạnh

phúc của mình bởi biết bao ràng buộc của lễ giáo, của những hủ tục phong

kiến lạc hậu.

Thế mới biết dù viết về bất cứ cảnh ngộ nào, Nguyên Hồng vẫn thể

hiện lòng thương cảm thống thiết những kiếp người cùng khổ dưới chế độ cũ

với thái độ trân trọng và luôn hướng họ đến những miền ánh sáng của tương

lai.

Quả thực, đọc văn Nguyên Hồng người ta dễ nhận ra giọng điệu không

có chừng mực của ông, nó cứ lấn lướt cuốn người đọc hoà chung với sự say

73

sưa của tác giả. Và cũng chính điều đó làm nên phong cách rất riêng của nhà

văn.

4.1.2. Cấu trúc tầng tầng lớp lớp theo mạch cảm xúc của lời

văn nghệ thuật.

Lời văn tự sự của Nguyên Hồng khi hướng tới chức năng thông tin

thường dễ bị rối bởi lối viết câu dài, rườm ý khiến người đọc thấy thiếu một

sự sáng tỏ, rạch ròi của tư duy, ý tưởng. Nhưng khi hướng tới chức năng biểu

cảm, câu văn Nguyên Hồng lại tỏ ra mạch lạc, sáng sủa để lại nhiều dư âm,

dư vị, dù đó là những câu dài, thậm chí rất dài. Vì thế đọc tác phẩm của

Nguyên Hồng, người ta thường có cảm giác hơi nặng nề. Đó là lối miêu tả

quá rườm rà, chi tiết về ngoại cảnh, một số nhân vật bị cường điệu về mặt tình

cảm hoặc bị chìm đi trong những hồi ức lan man về quá khứ.

Nhưng điều đó cũng không làm giảm sự lôi cuốn đặc biệt của truyện

ngắn và tiểu thuyết Nguyên Hồng với người đọc. Trước Cách mạng Nguyên

Hồng chủ yếu viết văn bằng năng khiếu bẩm sinh và một trái tim tràn trề,

sung mãn tình yêu với cuộc sống. Nguyên Hồng đặt bút viết câu nào là sự

sống tích tụ từ lâu trong tâm hồn khoẻ mạnh ấy đua nhau, chen nhau, xô đẩy

nhau mà ra. Chúng ta hãy lắng nghe lời tâm sự của Nguyên Hồng sau khi viết

xong cuốn tiểu thuyết đầu tay Bỉ vỏ:

"Bỉ vỏ đã viết xong trên một cái bàn kê bên khung cửa trông ra vũng

nước đen ngầu bọt của một bãi đất lấp dở dang và một chuồng lợn ngập ngụa

phân tro; Bỉ vỏ viết xong trong một căn nhà cứ chập tối là ran lên tiếng muỗi

và tiếng trẻ khóc; Bỉ vỏ đã viết xong trong một đêm lạnh lẽo, âm thầm mà mọi

vật như đều rung lên cùng với lòng thương yêu của một đứa trẻ ham sống dào

dạt trong những bụi mưa thấm thía" (30- 10).

Đúng là "câu văn Nguyên Hồng lúc nào cũng như con cá đang thở gấp,

lúc nào cũng quẫy cựa, phập phồng sự sống, lấp lánh sự sống" (Linh Thi).

74

Nguyên Hồng thích và thành công khi đặt câu, dựng đoạn theo kiểu văn

trữ tình. Ông hay mở rộng thành phần câu theo kiểu liệt kê, tăng cấp và dùng

nhiều thành phần đồng chức năng khiến cho câu văn của ông thường có tầng,

có lớp, nhiều khi rườm rà, bề bộn.

Những ngày đầu khi được Năm Sài Gòn cứu ra khỏi nhà chứa, Tám

Bính phải thuốc thang để chữa bệnh cho cái thể xác bị giày vò tàn tạ. Và khi

đối diện với chính mình:

"Bính đau xót, chán nản... Bính lại thương đến con thơ và nghĩ đến Hai

Liên tuyệt vọng vì không thể sinh nở được nên đành ở cho đến ngày trọn đời

nơi nhơ nhớp, Bính lại càng tê tái vì nỗi mẹ con phải lìa bỏ nhau mà Bính

thấy dù sao cảnh Bính bệnh tật khổ não ghê khiếp thế nào cũng không thấm

với cảnh đen tối mênh mông của một người đàn bà không thể nào có cái hạnh

phúc được làm mẹ" .(30-89)

Đoạn văn của ông cũng thường được tổ chức theo kết cấu chồng tầng

bằng biện pháp liệt kê gián tiếp, dồn dập, tăng cấp theo kiểu lặp cấu trúc câu:

Người đọc có cảm giác như đo được cả khối lượng, trọng lượng, nhiệt độ, thể

tích trong câu văn Nguyên Hồng, nó làm chúng ta như nghẹt thở.

"Thầy tôi lại lần ra đằng trước, mặt tôi càng tím lại, cổ họng càng

nghẹn ứ... Rồi tôi bật thét lên một tiếng khi bàn tay thầy tôi vừa chạm vào

mẩu dây buộc cọc tiền bỏ lòng thòng trong quần. Phựt... mẫu dây bị dứt đứt.

Một cảm giác thắt ruột tôi lại. Tôi nghiến răng nắm chặt lấy cạp quần và cọc

tiền, giậm thình thịch xuống nền nhà.." (Những ngày thơ ấu).

Người cha nghiện ngập trong lúc thèm thuốc đã định lấy số tiền cậu bé

Hồng trong những ngày lêu lổng "truỵ lạc" đã kiếm được nhờ mánh lới, liều

lĩnh:

"Môi thầy tôi càng mím chặt, hai lỗ mũi càng phập phồng phì phì. Tất

cả thớ thịt của người tôi run bắn lên. Những cảm giác đau đớn của từng

miếng thịt vặt ra dưới những ngọn roi mà tôi tưởng tượng dần đánh át cả

những ý luyến tiếc cọc tiền đi..." (20-212)

75

Trước mắt ta hiện lên hình ảnh một đứa bé run rẩy sợ hãi đến tội nghiệp

như con chim non trong cơn mưa bão làm đau thắt lòng người đọc. Bất cứ

một câu, một chữ nào cũng chứa một hình ảnh cụ thể đến mức như có thể sờ

mó được đến từng góc cạnh. Vì thế văn Nguyên Hồng lúc nào cũng gần gũi

với cuộc sống, dễ đi vào lòng người.

Người đọc khó kìm chế những cơn xúc động dâng trào trước tình cảnh

của một đứa trẻ 12 tuổi mất cha đã thể hiện những cảm xúc nội tâm mãnh liệt

đến thế. Nhiều cấu trúc câu được lặp lại trong đoạn văn trữ tình này:

"Gió càng mạnh. Khí lạnh đêm khuya càng thấm. Những mảnh lá chạy

xào xạc trên mặt đường chạy cả vào lòng tôi cùng với những âm thanh mơ hồ

như của tiếng chim rủ rỉ ở đâu đây - Ánh điện dần phơn phớt xám. Soi sáng

cho cảnh vật vắng lặng chìm đắm lúc bấy giờ là hơi sương bàng bạc, hơi

sương sữa một đêm trăng nặng mây. Trong lòng tôi, tiếng lá lao xao không

bao giờ tắt. Giá buốt quá. Trong lòng tôi xác lá vụn mãi ra, nhiều bao nhiêu

lại biến nhanh đi bấy nhiêu. Tôi đi, mê man, với hình ảnh một đám ma tẻ lạnh

không kèn không trống" (20-222)

Bên cạnh cấu trúc chồng tầng ấy, ta dễ bắt gặp trong sáng tác của

Nguyên Hồng nhiều cấu trúc câu bỏ lửng. Nó tạo ra một khoảng lặng sau câu

nói của nhân vật để người đọc cùng suy nghĩ, cảm thông cho cảnh ngộ của

nhân vật.

Những tháng ngày phải làm gái điếm trong nhà thổ là lúc những lúc

Tám Bính tuyệt vọng nhất. Khi nghĩ tới tương lai mờ mịt, tới những ngày cái

chết ập đến với những kiếp người như mình, Tám Bính càng sợ hãi. Vì vậy

khi được Năm Sài Gòn hỏi làm vợ, Bính cũng chẳng cần biết cuộc sống với

Năm rồi sẽ ra sao, chỉ cần thoát ra khỏi chốn ô nhục này, Bính đã hạnh phúc

lắm rồi. Tâm trạng Bính ngổn ngang, rối bời.

"Cảnh giấc mơ khủng khiếp hôm xưa lờ mờ bỗng lại hiện ra giữa

khoảng tối tăm: Một người đàn bà trơ trọi ở nơi bán trôn nuôi miệng... một

xác chết thối rữa trên chiếc giường mọt gãy... một cỗ áo quan mỏng mảnh đu

76

đi đu lại dưới chiếc đòn gánh chạy cót két ra một bãi tha ma. Bính rùng mình

vội bưng lấy mặt, nghẹn ngào, lay người Năm:

Anh Năm!... Anh có thực bụng với em không?..." (30-86). Tiếng thổn

thức của một cô gái điếm cầu xin một tên trùm lưu manh khiến người đọc

cảm động, day dứt về cuộc đời tủi nhục của họ, về sự mong manh của kiếp

người.

Qua những đoạn văn trên đây, ta càng thấy rõ Nguyên Hồng viết văn

bằng tình thương, một tình thương không kiềm chế được. Nguyên Hồng viết

bằng nước mắt, nước mắt không có giọt cuối cùng. Chìm dưới đáy mỗi câu

văn của Nguyên Hồng là một giọt nước mắt to lớn như thế. Nhà văn Linh Thi

đã từng nhận xét: "Văn Nguyên Hồng là những tiếng kêu nhỏ máu của con

chim đỗ quyên" chắc chắn không chỉ là vì quá yêu quý nhà văn.

Từ đặc điểm cấu trúc lời văn nghệ thuật của Nguyên Hồng, chúng tôi

cho rằng Nguyên Hồng viết văn theo mạch cảm xúc, nhiều khi không chịu

phụ thuộc vào những quy tắc diễn đạt của ngôn từ. Ở Nguyên Hồng, cảm xúc

giữ vai trò chủ yếu chi phối giọng điệu và cấu trúc lời văn, đoạn văn. Đọc văn

Nguyên Hồng, ta thấy có phần thiếu chất duy lý, nhưng bù lại, chúng ta lại

được đắm mình trong những trang văn dạt dào cảm xúc. Đây là mặt mạnh

nhưng cũng là mặt hạn chế của Nguyên Hồng. Đó là khi nội dung cảm xúc

không tương xứng với những ngôn từ quá dữ dội, dẫn đến những trang viết ồn

ào, quá hưng phấn chưa thật tự nhiên.

Tuy vậy chính sự "giàu có, hào phóng" đó mới làm nên một nét đặc

trưng, một phong cách rất Nguyên Hồng, và chỉ có ở Nguyên Hồng: "Câu văn

Nguyên Hồng như một đoàn tàu chợ" (58 - 255)

"Đoàn tàu ấy phải là đoàn tàu chợ. Đoàn tàu chất đầy, lủng củng, lẩm

cẩm bao nhiêu thứ, lấm láp, ồn ào, trên óc, trên lan can, trên cửa sổ còn bám

víu nhiều người, trên mỗi người ấy còn đèo thêm cả tay nải. Cả bị cói và ba lô

lộn nữa" (58 - 256).

77

Về điều này, Nguyên Hồng thật khác xa với người bạn văn khá thân

thiết Nguyễn Tuân. Ông không có sự cầu kỳ, chau chuốt chơi "ngông" như

Nguyễn Tuân bởi vì:

" Nguyên Hồng viết văn như một ông lão thợ đấu cứ lễ mễ vác từng

mảng thực tế sự đời mà huỳnh huỵch đắp lên mặt giấy" (theo Nguyễn Minh

Châu).

4.2 Ngôn ngữ giàu giá trị biểu cảm.

Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học. Đó là chất liệu, là phương

tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học. Nhưng không phải bất cứ

ngôn ngữ nào cũng trở thành ngôn ngữ của tác phẩm văn học. Ngôn ngữ của

tác phẩm chính là ngôn ngữ toàn dân đã được trau giồi, mài giũa, tinh luyện.

Hay nói cách khác nó đã được nâng lên đến trình độ nghệ thuật và trở thành

ngôn ngữ nghệ thuật. Nhà văn là nghệ sĩ của ngôn từ nên trong quá trình sáng

tạo nhà văn phải xây dựng được một kho ngôn ngữ chính xác giàu tính hàm

súc, tính biểu cảm và tính hình tượng.

Để xây dựng ngôn ngữ đạt đến trình độ nghệ nghệ thuật đó, các tác giả

thường khai thác các phương tiện biểu hiện vốn có của ngôn ngữ như vần,

điệu, nhịp, các phương thức tu từ, thành ngữ...

Các phương tiện này trong ngôn ngữ tự nhiên được sử dụng rải rác

ngẫu hứng, nhưng trong nghệ thuật chúng được vận dụng có ý thức với mục

đích nghệ thuật nhất định. Tuỳ vào vốn sống, tài năng và sự hiểu biết của

mình mà mỗi nhà văn có sự sáng tạo khác nhau trong việc sử dụng hệ thống

ngôn ngữ nghệ thuật cho mục đích sáng tác của mình, và tạo nên sự phong

phú đa dạng cho văn chương

Trước Cách mạng tháng Tám - 1945, các nhà văn Tự lực văn đoàn ban

đầu đã xây dựng được một thứ ngôn ngữ giản dị, trong sáng, có khả năng

phản ánh được những tâm lý phức tạp, tinh tế. Nhưng về sau, do xa rời đời

sống của quần chúng nhân dân nên văn của họ có lúc trở thành một thứ ngôn

ngữ kiểu cách, chải chuốt chạy theo nhạc điệu, nghèo nàn và sáo rỗng. Loại

78

tiểu thuyết tình Chàng và Nàng của họ bắt đầu trở nên nhàm chán với người

đọc vì cứ lặp đi lặp lại mãi một tư tưởng, một loại nhân vật, một số tình tiết và

một kiểu đặt câu, dùng từ. Nhiều lúc đó còn là ngôn ngữ khoa trương phóng

đại của chủ nghĩa lãng mạn:

"Vâng. Em thật là một thi sĩ. Kể cái đời em cũng đủ là một bài thơ tuyệt

tác rồi... Sáng hôm nay, trong lúc người ta vui mừng chờ đón xuân, trong lúc

người sum họp một nhà, cha mẹ, anh em đông đủ thì ngoài đường phố vắng,

lang thang thất thểu một tấm linh hồn phiêu lạc,... không cửa, không nhà,

không thân, không thích.... không một chúng tình thương để thầm an ủi..."

(Đời mưa gió).

Cùng lúc đó, dòng văn của một loạt những nhà văn hiện thực phê phán

như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao... ra đời

và phát triển gắn liền với đời sống của quần chúng nhân dân lao động đủ mọi

tầng lớp, trong thế đối chọi với thứ văn chương kiểu cách kia từ nội dung đến

hình thức.

Ngôn ngữ của quần chúng là kho của cải vô giá, là nguồn bổ sung vô

tận cho sự sáng tạo của họ. Vì vậy mỗi nhà văn lại có một thứ ngôn ngữ đặc

trưng riêng của mình. Ngôn ngữ trong tác phẩm của Ngô Tất Tố là ngôn ngữ

hàng ngày của quần chúng nhân dân đã được nghệ thuật hoá. Vũ Trọng Phụng

lại đẩy mạnh hơn quá trình cá thể hoá ngôn ngữ; Nam Cao thường hay sử

dụng một thứ ngôn ngữ đa thanh, nhiều âm hưởng; Nguyễn Công Hoan lại rất

thành công khi sử dụng ngôn ngữ châm biếm, trào phúng. Còn ngôn ngữ

trong văn Nguyên Hồng là thứ ngôn ngữ chắt lọc từ cuộc sống lam lũ đói

nghèo của đủ các hạng người, nhiều khi chưa rũ hết bùn đất bụi bặm nhưng

có khả năng diễn tả vô cùng mạnh mẽ những đau khổ của kiếp người. Đó là

những ngôn từ lấm láp cát, bụi và khói của phố phường phồn tạp, nhưng cũng

long lanh chất thơ nơi những tâm hồn bị vùi dưới cuộc sống ấy.

Viết văn với một sự say mê của trái tim, viết văn theo mạch cảm xúc

như Nguyên Hồng đã tạo nên một giọng điệu sôi nổi, thiết tha. Và với giọng

79

điệu ấy Nguyên Hồng đã chọn cho mình một loại ngôn ngữ tương đồng thích

hợp - ngôn ngữ giàu giá trị biểu cảm, bộc lộ cảm xúc ở cường độ cao với sự

sáng tạo phong phú và đa dạng vô cùng.

4.2.1. Cách sử dụng thành ngữ, thán từ độc đáo gây ấn

tượng.

Nguyên Hồng viết tiểu thuyết Bỉ vỏ khi chưa đầy 17 tuổi với ánh mắt

nhìn đời còn rất trẻ trung, tươi mới. Vậy mà khi đọc Bỉ vỏ, người đọc cứ có

cảm giác là tác giả phải là người am hiểu cuộc đời lắm vì cách sử dụng thành

ngữ rất độc đáo của Nguyên Hồng. Qua khảo sát tác phẩm Bỉ Vỏ (Có so sánh

với Vũ Trọng Phụng và Nam Cao) về tần số xuất hiện, nguồn gốc và đối

tượng miêu tả, phương thức cấu tạo nghĩa, sắc thái biểu cảm và màu sắc

phong cách, chúng tôi cho rằng Nguyên Hồng đã khai thác và vận dụng sáng

tạo khả năng biểu đạt có giá trị biểu cảm và gợi cảm cao của thành ngữ để

diễn tả nỗi khổ cùng cực của người lao động.

Người viết đã thống kê trong khoảng 50 trang của Bỉ vỏ một loạt những

thành ngữ khác nhau biểu đạt nỗi khổ nhục, đau đớn của Tám Bính khi còn ở

nhà và ngày đầu tiên bị lừa gạt khi đặt chân lên đất Hải Phòng.

- Đấy, con gái lớn ông đấy! Đã sung sướng mát lòng mát ruột cho tôi

chưa! Thật "Bôi gio chát trấu, vào mặt tôi” (Tr17).

- "Chót đa mang thì phải đèo bòng"

- Bố mẹ Bính đối với Bính thật "cạn tàu ráo máng" (Tr17)

- "Gọt gáy bôi vôi" (Tr22)

- Ôi giời, "nòi nào theo giống ấy" (Tr23)

- Thưa vâng, ông bà "ăn ở phúc đức”, thương người như thế con chắc

ông bà còn là "giàu sang vinh hiển". (Tr24)

- "Mua rẻ bán đắt" (Tr32)

- Đồ "voi giày ngựa xé" (Tr50)

- "Thối thây dày da" (Tr55)

80

- "Gái đĩ già mồm", "Bán trôn nuôi miệng" (Tr56)

- "Mặt dạn mày dày" (Tr58)

- "Vã mồ hôi rơi nước mắt" (Tr67)

- "Hai tay buông xuôi" (Tr70)

Dường như những thành ngữ mà Nguyên Hồng dùng trên đây "già

dặn" hơn cái tuổi 17 của anh nhiều. Đó là một thứ ngôn ngữ hết sức ấn tượng

khiến nhiều người phải giật mình. Nó tác động mạnh vào giác quan người

đọc. Mỗi thành ngữ như một làn roi quất mạnh xuống Tám Bính, tưởng chừng

như cô chỉ còn biết quằn quại trong sự đau khổ đến tả tơi không thể khóc

được nữa.

Để tạo nên thứ ngôn ngữ giàu ấn tượng này, Nguyên Hồng đã dùng

nhiều biện pháp. Một là dùng phép cường điệu hoặc lối nói có màu sắc ngoa

dụ. Người đọc thương cảm trào nước mắt trước lòng yêu thương bênh vực mẹ

trong sự cùng cực của bé Hồng:

"Cô tôi chưa dứt câu, cổ họng tôi đã nghẹn ứ khóc không ra tiếng. Giá

những cổ tục đã đày đoạ mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thuỷ tinh, đầu

mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai mà nghiến cho kỳ nát vụn mới

thôi". (20- 215). Nguyên Hồng cũng sử dụng linh hoạt các phép chuyển

nghĩa, từ tình thái để tả người, tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh xã hội.

Trong tác phẩm hay sử dụng các từ như "luống cuống' "đầm đìa" "ghê

sợ" "rầu rĩ" "tê mê" "đau xót".... diễn tả các trạng thái của nhân vật. Nhưng

người đọc dễ dàng nhận ra đằng sau những trang viết ấy là khuôn mặt đầm đìa

nước mắt của nhà văn xót thương cho số phận nhân vật của mình.

Nhiều khi Nguyên Hồng còn sử dụng một số từ lạ và những từ mang

màu sắc riêng khá độc đáo. Đó là thứ tiếng lóng của hạng lưu manh, gái điếm

mà không phải "trong nghề" thì khó lòng hiểu được như: Te (Đẹp); đi phiên

(khám bệnh) "lipphăngxe" (nơi giữ và chữa bệnh cho các gái mại

dâm)...Hiếc (lần lưng móc túi) khai (cắt túi xẻo đẫy), tễ bướu (nhiều tiền), vỏ

lỏi (ăn cắp còn nhỏ tuổi) tránh chợm (một chục), ngũ đị (chạy trốn)....

81

Nhưng khi sử dụng những thứ ngôn ngữ này ta lại thấy Nguyên Hồng tỏ ra

say sưa cao hứng khi sử dụng quá nhiều và không đúng chỗ. Tiếng lóng là

một hiện tượng không lành mạnh trong ngôn ngữ, nó thường làm sai lệch và

thậm chí bóp méo ý nghĩa và âm thanh của từ, làm giảm giá trị của đoạn văn

đi nhiều. Và đây là một ví dụ về đoạn văn tả cảnh bọn đàn em tụ tập tại nhà

Năm Sài Gòn để nộp tiền cho đàn anh sau mỗi vụ cướp giật:

- Trước hết tôi biếu anh Năm "trách chợm" (một chục), còn mỗi anh

"kẹo thạnh" (năm đồng).

Năm Sài gòn cười nhạt.

Thôi tôi không cần tiêu lắm, còn chú đương túng thì cứ giữ "trách

chợm" này mà tiêu.... Hắn vội nói:

Anh không cần nhưng em muốn anh cứ cầm lấy và đây em đưa thêm

"Chợm gập" (Mười lăm đồng) nữa để anh xe pháo. Tư - lập - lơ lấm lét chờ

Năm nhận lời mới hất hàm hỏi Chín:

- Thế "khánh vọt" (vàng) với "không bẹt" đâu? (khoá vòng bạc).

Và còn rất nhiều đoạn văn có kiểu dùng ngôn ngữ đối thoại như vậy

trong Bỉ vỏ. (Hạn chế này đã được Nguyên Hồng sửa chữa trong những sáng

tác sau Cách mạng của ông như Sóng gầm).

Ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyên Hồng cũng là ngôn ngữ đặc biệt giàu

cảm xúc. Ông sử dụng nhiều thán từ, ngữ thán từ và dấu cảm. Nguyên Hồng

thường sử dụng chúng trong những hoàn cảnh nhân vật ở trạng thái cảm xúc

cao độ: ngạc nhiên đến bàng hoàng, xót xa đến tê dại, đau đớn đến quằn quại,

sợ hãi đến hoảng hốt, vui mừng đến cuồng nhiệt, yêu thương đến nồng cháy

và tức giận đến bầm gan tím ruột. Số thán từ, ngữ thán từ Nguyên Hồng sử

dụng để diễn tả trạng thái cảm xúc đau buồn của nhân vật xuất hiện nhiều hơn

so với các trạng thái cảm xúc khác. Ví dụ: Trong truyện Con chó vàng tần

xuất thán từ, ngữ thán từ nhiều hơn truyện Chí Phèo, của Nam Cao, và Giông

tố của Vũ Trọng Phụng.

82

Tuy nhiên trong sáng tác Nguyên Hồng vẫn có một lớp từ ngữ đáng kể

biểu thị niềm tin yêu cuộc sống, con người và khát vọng mãnh liệt về một

tương lai tươi đẹp:

"Một ai đây dù hoài nghi đến đâu khi trông thấy cái rừng người chuyển

động này, cũng phải tin rằng cái hình thức tối tăm, cằn cỗi và như thối nát

của sự sống một phần nhân loại lầm than chỉ là một cái vỏ mỏng sắp nổ vỡ.

Vì trong cái vỏ ấy, bao nhiêu cái mầm sống nảy nở đã chín muồi sắp chồm

dậy, sắp xé tung sự trùm lấn đè ép để tự do hít thở ánh sáng và khí trời, để

được gieo rắc mênh mông". (19- 168).

Điều đó càng khẳng định văn Nguyên Hồng bên cạnh tiếng nói cảm

thương thống thiết là chủ đạo còn có tiếng nói lạc quan yêu đời của cảm hứng

lãng mạn.

Nguyên Hồng cũng sử dụng nhiều dấu cảm hơn rất nhiều nhà văn cùng

thời. Nhưng điểm độc đáo trong việc sử dụng dấu cảm của Nguyên Hồng là

cách dùng chệch chuẩn về ngữ pháp. Số lượng dấu cảm ông dùng trong câu

miêu tả xác tín - loại câu mà dấu chuyên dụng không phải là dấu cảm - lại

chiếm tỉ lệ cao hơn cả so với Vũ Trọng Phụng và Nam Cao. Ví dụ trong

truyện Con chó vàng có rất nhiều dấu cảm được sử dụng thay dấu chấm như

thế này:

"Tao chịu thôi. Mỏi chân lắm!' "Như thế làm gì mà chả lấy được!" "Nó

bỏ bả chết con Quít của tôi rồi!"....

Điều đó cho thấy (cũng giống như giọng điệu) Nguyên Hồng viết văn

theo qui luật của cảm xúc nhiều hơn là tuân thủ những qui tắc ngữ pháp tiếng

Việt. Và chính điều này đã tạo nên ngôn ngữ, giọng điệu rất đặc biệt của

riêng Nguyên Hồng, trở thành nghệ thuật nhất quán trong cuộc đời sáng tác

của nhà văn.

Ngôn ngữ giàu cảm xúc, đầy tình thương mến đối với những người

cùng khổ của Nguyên Hồng còn được biểu hiện ở cách gọi tên nhân vật và

cách đặt tên các tác phẩm. Hãy cứ đọc những tên sách như Bỉ vỏ ; Hơi thở

83

tàn ; Đây bóng tối ; Vực thẳm ; Trong cảnh khốn cùng ; Địa ngục và lò

lửa… với những cái tên gợi đến thân phận nhỏ bé thấp kém với Bính, Mũn,

Muống.... Ta như nghe thấy một cái gì đang sục sôi ở phía sau, "một cái gì

vừa thoát ra từ một trái tim rung động mãnh liệt và buồng phổi thở rất khoẻ"

(Nguyễn Minh Châu).

4.2.2. Ngôn ngữ trần thuật chân thành trong tiểu thuyết tự

truyện.

Ngôn ngữ trần thuật của Nguyên Hồng chưa có cái đa thanh giống Nam

Cao, "cái tôi" cũng không giống với cái tôi "khôn ngoan, tinh quái, thóc

mách, lọc lõi rất mực hiểu mình, hiểu người và có chút khinh bạc” như Tô

Hoài (Nguyễn Đăng Mạnh). Ngôn ngữ trần thuật trong hồi ký, tự truyện của

Nguyên Hồng là một kiểu "tự sự không giấu mình, thường đó là thái độ đồng

cảm, chia sẻ với nhân vật những nỗi buồn đau hay niềm vui trong cuộc đời".

Đây là một kiểu tự sự riêng giàu tình cảm, cảm xúc và in đậm cá tính

tâm hồn nhà văn. Đọc tác phẩm của Nguyên Hồng, ta thấy nhân tố chủ quan

của tác giả thường xuất hiện dưới dạng: một là tác giả trực tiếp bày tỏ thái độ

tình cảm của mình đối với sự kiện được miêu tả và nhân vật được nói tới bằng

những lời nhận xét, lời than, lời bình hoặc những lời trữ tình ngoại đề sôi nổi

thiết tha. Hai là tác giả nhập thân vào nhân vật để bày tỏ lòng mình, nhưng

ngôn ngữ vẫn thấm nhuần tình cảm và suy nghĩ của nhân vật. Đó là những lời

nửa trực tiếp. Qua cách trần thuật này, ta thấy ranh giới giữa người trần thuật

và đối tượng trần thuật thường bị xoá nhoà. Người đọc có cảm giác như đang

được nghe chính nhân vật tự kể về mình, đồng thời cũng như được nghe nhịp

đập của trái tim người cầm bút. Quan hệ giữa người trần thuật và nhân vật

như không còn khoảng cách mà gần gũi, hoà hợp, đồng cảm....

Nhờ cách trần thuật bằng những lời nửa trực tiếp, Nguyên Hồng có khả

năng thâm nhập vào thế giới nội tâm phong phú của nhân vật để đồng cảm,

84

chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn cũng như những suy nghĩ ước mong thầm

kín của họ.

Tiêu biểu cho kiểu tự sự này là tập hồi ký Những ngày thơ ấu. Thông

thường người ta chỉ viết hồi ký khi đã có tuổi, khi họ đã nếm trải đủ chát mặn,

ngọt bùi đời sống. Với Nguyên Hồng lại khác, Những ngày thơ ấu được in

trên sách báo khi nhà văn còn rất trẻ. Tác phẩm thu hút người đọc bởi những

cảm xúc tươi mới, trong sáng, dào dạt của một cây bút trẻ đang dễ xúc động,

dễ ngạc nhiên trước cuộc sống, bởi những kỷ niệm đau xót, những rung động

chân thành của một linh hồn trẻ dại lạc loài, bị vùi dập trong lòng một gia

đình cũ kỹ, sắp tàn.

Những ngày thơ ấu là những lời tâm sự thiết tha, thầm kín nhất, những

hồi ức của một "cái tôi, đau khổ tự trình bày cuộc đời riêng tư của mình lên

trang giấy một cách chân thành, tin cậy. "Lối tự truyện này ở các nước

phương tây như Anh, Mỹ, Nga rất thịnh hành như ở nước Việt Nam ta, viết

được, tôi cho là dũng cảm lắm". (Vũ Ngọc Phan).

Theo GS. Phan Cự Đệ trong tiểu thuyết nói chung, cái "tôi" của tác giả

đeo mặt nạ, không phải là cái tôi, mà là "nhân vật của tôi". Còn trong tiểu

thuyết tự truyện, cái "tôi" bộc bạch hết những điều thầm kín, thậm chí cả

những tội lỗi, phơi trần, mình ra trước ánh sáng. Có nhà văn lãng mạn cho

rằng trình bày tự truyện ra trước công chúng chẳng khác gì đem tư duy ra làm

điếm trên trang sách. Nhưng lại có nhà lý luận cho rằng tiểu thuyết tự truyện

cũng có tác dụng thanh lọc tâm hồn của bi kịch, ở đây nhà văn đem phần

trong sáng nhất của tâm hồn ra giãi bày trước công chúng. Những ngày thơ

ấu, của Nguyên Hồng thuộc trường hợp thứ hai này nên mới gọi là kiểu tự sự

không giấu mình.

Ngôn ngữ tự truyện mộc mạc, giản dị trút bỏ hết cả những thành kiến,

đặt mình trên những dư luận hẹp hòi, gột rửa lòng tự ái cá nhân. Nguyên

Hồng đã kể cho người ta nghe hết cả những cái cay đắng, cái truỵ lạc của

mình và những người thân mình trong quá khứ bằng thứ ngôn ngữ như thế:

85

"Thầy mẹ tôi lấy nhau không phải vì thương yêu nhau. Sự trái ngược

cay đắng đó tôi đã hiểu biết rõ rệt và thấm thía ngay từ năm tôi lên bảy, lên

tám... Những biểu chiều vàng lặng lẽ, lạnh lẽo của mùa đông, những biểu

chiều mà bụi mưa như có một tiếng van hơn thầm thì trong hơi gió vu vu, lửa

lò than rực rỡ vờn lên chân tường những ánh hồng lấp lánh hay rủ rê tâm trí

người ta vào những cõi buồn nhớ là những buổi chiều làm tê tái mẹ tôi hơn

hết".... (20-188).

Để viết lên được những dòng như vậy chắc hẳn Nguyên Hồng phải rất

nhạy cảm và thương yêu mẹ mình lắm. Cậu bé như ngầm hiểu cái nguyên

nhân khiến lòng mẹ cậu buồn tê tái chính vì bà mẹ phải đè nén, ép xuống cái

khát khao hạnh phúc để sống với một người chồng không có tình yêu. Trước

cảm xúc chân thành ấy người đọc cũng cảm thấy buồn tê tái trước sự hiu hắt

của cảnh vật và lòng người.

Trong tập hồi ký rất xúc động này, Nguyên Hồng đã lắng nghe được

những âm vang sâu lắng của tâm hồn, ghi nhận được những cảm giác tinh tế

tự bên trong và diễn tả chúng qua cái nhìn hồn nhiên, tươi sáng của tuổi thơ

khiến cho ta có cảm tưởng thú vị như được trở về "thời thơ ấu của nhân loại".

Đó là những đoạn rất nhẹ nhàng và cảm động về một đứa trẻ lâu ngày mới

được gần mẹ bằng ngôn ngữ dạt dào cảm xúc:

"..Tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi,

tôi thấy những cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da

thịt....Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của

người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm và gãi rôm ở sống

lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng" (20- 217)

Cậu bé Hồng vốn đã bé bỏng thật lại như thấy bé bỏng hơn, yếu mềm

hơn khi được mẹ ôm ấp, che chở. Nhà văn như sống lại tận cùng cái cảm giác

có thật ấy ngày nào. Những cảm giác tinh tế và sâu xa ấy đã hiện ra thật cụ

thể và sống động. Bao nhiêu tủi cực, bao nhiêu trách móc cũng tiêu tan hết chỉ

86

còn lại tình mẹ chở che và nỗi sung sướng cực độ của đứa trẻ sau bao nhiêu

năm xa cách nay lại ấm tròn "trong lòng mẹ"...

Bên cạnh ngôn ngữ trần thuật đầy xúc cảm của kiểu “tự sự không giấu

mình” ấy, Nguyên Hồng còn phát huy thế mạnh trong việc sử dụng ngôn ngữ

độc thoại nội tâm. Sử dụng độc thoại nội tâm như một thủ pháp thể hiện

những trạng thái tâm lý căng thẳng, những xúc động tình cảm mãnh liệt của

nhân vật. Nguyên Hồng đã sử dụng độc thoại nội tâm như một thủ pháp nghệ

thuật quan trọng để bộc lộ quá trình tự nhận thức của nhân vật nhằm thể hiện

thế giới tâm hồn bên trong của mình. Để thể hiện độc thoại nội tâm của nhân

vật, có khi ông dùng những động từ cảm nghĩ nói năng như "tự nhủ" "nhủ

thầm" "thầm nghĩ", "cười thầm", "tự hỏi rồi tự trả lời".... Đây là những đoạn

độc thoại đặc trưng của Tám Bính trong Bỉ vỏ.... Khi Bính lo sợ tới cái ngày

mình sẽ bị làng phạt vạ, như người con gái tên Minh: "Bính đau đớn cho

Minh và e ngại cho mình không biết có đủ sức chịu đựng những nỗi bêu riếu

nhục nhã như kia không. Chẳng cần suy nghĩ, Bính dằn giọng như thầm: Nếu

lâm phải bước này Bính đành bỏ cha bỏ mẹ, bỏ hai em, bế con đi tha hương

cầu thực cho xong" .(30-22).

Đây lại là một đoạn độc thoại bộc lộ những xúc động mãnh liệt khi bé

Hồng muốn bảo vệ người mẹ thân yêu của mình trước những rắp tâm ác độc

của người cô ruột:

"Hồng ! Mày có muốn vào Thanh Hoá chơi với mợ mày không? Tưởng

đến vẻ mặt rầu rầu và sự hiền từ của mẹ tôi, và nghĩ đến cảnh thiếu thốn một

tình yêu thương ủ ấp từng phen làm tôi rớt nước mắt, tôi toan trả lời có.

Nhưng nhận ra những ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi

cười rất kịch của cô tôi kia, tôi cúi đầu không đáp. Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ

tôi, cô tôi chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt

và ruồng rẫy mẹ tôi...." (20- 214)

Chỉ có thể là những đoạn độc thoại nội tâm như vậy mới có thể bộc lộ

hết những tình cảm thương yêu mãnh liệt của cậu bé Hồng với mẹ, một cậu bé

87

có trái tim sớm nhạy cảm, sớm phải chứng kiến những cảnh ngang trái của

cuộc đời. Có khi ông để lời nhân vật hoà lẫn với lời miêu tả tâm trạng nhân

vật của người trần thuật, tạo nên một thứ ngôn ngữ nửa trực tiếp. Trang kết

truyện ngắn Đây bóng tối ta thật khó phát hiện đó là giọng của Nhân hay của

người trần thuật: "Tuy đã phải làm cái nghề cùng mạt này mà Nhân vẫn còn

phải lo lắng. Nhân e sợ một ngày kia không còn đủ sức cất tiếng kêu rên, van

lơn thiên hạ trên con đường lầm cát bụi, con đường đã chứng kiến bao nhiêu

thây chết dưới những nanh vuốt của thiếu thốn, của khổ sở.... của đoạ đày..."

(19- 87)

Theo cách nào thì cái tôi chủ quan của nhà văn cũng bộc lộ một cách

thành thật không cần giấu giếm. Nhân vật của Nguyên Hồng thường độc thoại

nội tâm trong những hoàn cảnh tâm tư có nhiều nỗi day dứt, trăn trở và ở

trong trạng thái tinh thần xúc động mạnh mẽ.

Sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm là thế mạnh để nhà văn đi sâu vào

những tâm trạng, tâm tình cảm xúc, khám phá cái khôn cùng của thế giới nội

tâm con người. Từ đó nhà văn phát hiện nâng đỡ điều tốt, phòng ngừa chấn

chỉnh điều xấu, gạn đục khơi trong để cái chất người trong mỗi con người

không bao giờ bị mất đi.

Xưa kia danh sĩ Nguyễn Văn Siêu đã quan niệm: "Văn chương có loại

đáng thờ và loại không đáng thờ, loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú

ở văn chương, loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Nhận xét trên

thật phù hợp với Nguyên Hồng khi cả cuộc đời Nguyên Hồng đã dồn cả tinh

lực và bút lực của mình viết về những số phận con người, phục vụ con người

và niềm tin mãnh liệt vào con người.

Nguyên nhân chính dẫn đến độc thoại nội tâm là sự phát triển nội tại

của tính cách. Nội dung độc thoại nôi tâm ở nhân vật chính diện của Nguyên

Hồng thường thiên về khía cạnh tình cảm, làm nổi bật những tình cảm sâu

sắc, đẹp đẽ và mãnh liệt của kiểu "nhân vật trái tim", đặc biệt trái tim giàu

đức hy sinh của người phụ nữ. Nó khác với độc thoại nội tâm ở nhân vật của

88

Nam Cao, thường thiên về trí tuệ, nhiều màu sắc triết lý nhằm thể hiện tính

cách của kiểu nhân vật tư tưởng. Độc thoại nội tâm ở những nhân vật phản

diện của Nguyên Hồng nhằm bộc lộ những cái xấu xa nhơ nhuốc trong tâm

địa của chúng.

Qua việc sử dụng độc thoại nội tâm của Nguyên Hồng, chúng ta rút ra

nhận xét: Nguyên Hồng có xu hướng miêu tả, xây dựng tính cách nhân vật

bằng con đường hướng nội. Ông không chú tâm nhiều lắm vào việc miêu tả

hành động mà thường tập trung tạo dựng những tình huống trữ tình để nhân

vật bộ lộ cảm xúc, tâm trạng .Qua đó nhà văn có điều kiện để giãi bày thái độ

tình cảm của mình đối với nhân vật.

Và mặc dù không khảo sát kỹ nhưng chúng tôi vẫn có cảm giác cái

giọng điệu sôi nổi thiết tha có gì đó ảnh hưởng của cảm quan tôn giáo.

Nguyên Hồng với những trang hồi ký đầy tâm trạng, đã giãi bày, "tự kiểm

điểm" về những trang văn, trang đời mà ông đã sống. Phải chăng Nguyên

Hồng đã chịu ảnh hưởng của sự "sám hối" của con Chiên trước Chúa"? Do

vậy trong mạch văn của ông có một thứ văn nức nở, khát khao của những tâm

hồn trong đau thương chống lại sức cám dỗ ma quỉ của sự thấp hèn. Và bên

cạnh đó là một thứ văn xuôi đầy chất thơ bay bổng ngợi ca sự thánh thiện với

niềm tin mãnh liệt vào con người.

Có lẽ đây cũng là một sợi dây khá bền chặt đã gắn kết Nguyên Hồng

với độc giả bằng chính tấm lòng chân thành và trái tim tràn đầy tình thương

mọi kiếp người của ông. Nguyên Hồng đã làm phong phú hơn kho tàng ngôn

ngữ vốn đã rất đa dạng của văn học hiện thực phê phán đương thời.

89

C. KẾT LUẬN

Với quan niệm nghệ thuật là những nét độc đáo gắn liền với con người

nhà văn, toát ra từ toàn bộ sáng tác của họ, xuyên suốt các yếu tố nội dung,

hình thức tác phẩm, bộc lộ cả trong ý thức nghệ thuật và bút pháp của tác giả,

chúng tôi đã chọn cách nghiên cứu khảo sát đặc điểm nghệ thuật trong truyện

ngắn và tiểu thuyết của Nguyên Hồng trước Cách mạng, chủ yếu từ góc độ

cảm hứng và những phương tiện nghệ thuật gắn bó, diễn tả nội dung, đặc

điểm của cảm hứng ấy của nhà văn.

Luận văn xác định hai cảm hứng nổi bật trong sáng tác Nguyên Hồng là

thương cảm và lãng mạn, trong đó cảm hứng thương cảm là chủ đạo. Hai cảm

hứng này luôn đan xen, chuyển hóa lẫn nhau trong các tác phẩm của ông và

thể hiện bằng những phương tiện nghệ thuật tương hợp đảm bảo tính thống

nhất chỉnh thể của tác phẩm văn học.

Cảm hứng chủ đạo của sáng tác Nguyên Hồng là lòng thương cảm. Nội

dung cảm hứng thương cảm của ông có sự phát triển thuận chiều, nâng cao về

chất: từ triết lý tình thương dân gian đến tinh thần nhân đạo Cách mạng gắn

liền với sự chuyển biến thế giới quan của nhà văn trong quá trình tham gia

Cách mạng. Còn tính chất thống thiết, mãnh liệt của cảm hứng này lại là yếu

tố bền vững, ít thay đổi trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng.

Cảm hứng ấy có từ nhiều cội nguồn như hoàn cảnh gia đình, môi trường sống,

tư tưởng bác ái của Thiên Chúa giáo, tư tưởng nhân đạo Cộng sản chủ nghĩa

và cá tính nghệ sĩ của nhà văn. Cảm hứng ấy thể hiện ở con đường nghệ thuật

nhất quán của Nguyên Hồng, ở bức tranh xã hội, nhân sinh và những nhân vật

cùng khổ trong sáng tác của ông.

Nhà văn biểu hiện cảm hứng thương cảm thông qua việc tạo dựng

những tình huống éo le, bi đát, tình huống bất hạnh chồng chất nhằm gợi lòng

thương cảm và qua kiểu "nhân vật trái tim" mang tinh thần "chịu nạn". Ngòi

bút của Nguyên Hồng có thiên hướng khẳng định, ngợi ca những phẩm chất

90

tốt đẹp của người lao động, nhất là tinh thần vị tha, giàu đức hy sinh của

người phụ nữ trong đau khổ, bất hạnh.

Nguyên Hồng là nhà văn hiện thực nhưng sáng tác của ông lại có sự

đan kết tự nhiên giữa chủ nghĩa hiện thực và cảm hứng lãng mạn. Trong từng

trang viết của ông, một mặt, người ta nhận thức được hiện thực sần sùi, thô

nháp của cuộc sống, con người thành phố Hải Phòng trước Cách mạng; mặt

khác, người ta cũng dễ dàng nhận ra tình cảm dạt dào sôi nổi, chất thơ hào

hùng, bay bổng của cuộc sống cần lao, chất thơ của thiên nhiên miền cửa biển

đầy nắng vàng, gió lộng và thường bị ám ảnh, cuốn hút bởi những nhận vật

khác thường. Cơ sở tư tưởng của cảm hứng lãng mạn chính là niền tin, là cái

nhìn lạc quan của nhà văn đối với thiện căn bền vững của người lao động mà

Nguyên Hồng đã hấp thụ được từ trường học cuộc đời. Niềm tin ấy, cái nhìn

ấy càng được bồi đắp, nâng cao dưới ánh sáng của lý tưởng Cộng sản khi nhà

văn giác ngộ Cách mạng.

Cảm hứng thương cảm và cảm hứng lãng mạn trong sáng tác của

Nguyên Hồng còn thể hiện rõ nét qua thế giới nhân vật đa dạng với đủ các

tầng lớp: Từ hạng người lưu manh nhưng mang dáng dấp nghĩa khí anh hùng

hảo hán đến những nhân vật tầng lớp lao động nghèo ở thành thị. Và làm

phong phú thêm thế giới nhân vật ấy là những nhân vật trẻ tuổi thuộc tầng lớp

tư sản nghèo. Nổi bật hơn cả vẫn là những nhân vật "chịu nạn" với đức hy

sinh nhẫn nhục và những vẻ đẹp thánh thiện của tâm hồn.

Để tạo nên thế giới nhân vật đa dạng phong phú ấy Nguyên Hồng đã sử

dụng bút pháp xây dựng nhân vật đặc sắc. Nhân vật của Nguyên Hồng hiện

lên từ nhiều cảnh ngộ khác nhau nhưng họ đều có một nét chung nhất về

phẩm chất làm người, luôn hướng tới ánh sáng của sự lương thiện.

Nguyên Hồng luôn đặt nhân vật của mình vào những tình huống bi kịch

để thử thách đức tin và lòng kiên nhẫn của họ. Và cũng từ đó ông phát hiện ra

phép biện chứng giữa tính ổn định và tính biến đổi trong tính cách của nhân

vật. Những nhân vật của Nguyên Hồng ít chịu sự tác động của hoàn cảnh, mà

91

hoàn cảnh chỉ giúp nhân vật bộc lộ rõ hơn tính cách mà thôi. Và trong bút

pháp xây dựng nhân vật ấy, Nguyên Hồng có chịu ảnh hưởng của cảm quan

tôn giáo. Ông đã dựng nên được một hành trình nhất quán của con người với

đức tin: đau thương - sức cám dỗ ma quỷ - tinh thần khắc kỷ niềm lạc quan tin

tưởng.

Cảm hứng thương cảm và cảm hứng lãng mạn trong sáng tác của

Nguyên Hồng thể hiện rõ nhất ở phương diện giọng điệu và ngôn ngữ với

những thủ pháp trần thuật độc đáo.

Văn Nguyên Hồng không có giọng mỉa mai, độc địa khinh bạc hay

chừng mực, trung tính mà là giọng cảm thương thống thiết và lạc quan sôi nổi

với một chất men say. Đó là chất giọng của riêng ông.

Giọng điệu ấy đi liền với cấu trúc lời văn nghệ thuật. Câu văn của

Nguyên Hồng thường dài. Ông hay mở rộng thành phần câu theo kiểu tăng

cấp, liệt kê và dùng các kết cấu lặp khiến cho câu văn nhiều khi rườm rà, bề

bộn. Đoạn văn của ông cũng thường được tổ chức theo kết cấu tầng tầng lớp

lớp,kết cấu lửng theo kiểu lặp cấu trúc câu.

Từ đặc điểm cấu trúc lời văn nghệ thuật của Nguyên Hồng, chúng tôi

cho rằng Nguyên Hồng viết văn theo mạch cảm xúc, nhiều khi như không

chịu phụ thuộc vào những quy tắc diễn đạt của ngôn từ. Vì thế văn của ông

lúc nào cũng dồi dào cảm xúc, nhiều thi vị, gây xúc động lòng người.

Cùng với giọng điệu thương cảm thống thiết ấy là những ngôn ngữ giàu

sức biểu cảm. Nhà văn đã khai thác vận dụng sáng tạo khả năng biểu đạt của

nhiều loại hình ngôn ngữ để diễn tả nỗi đau khổ cùng cực và những phẩm

chất tinh thần tốt đẹp của người lao động. Đó là cách sử dụng những thành

ngữ, thán từ, ngữ thán từ, dấu cảm một cách linh hoạt. Ngôn ngữ nghệ thuật

của Nguyên Hồng là ngôn ngữ gây ấn tượng, tác động mạnh vào giác quan

người đọc. Nguyên Hồng đã dùng các biện pháp cường điệu hoặc cách nói có

màu sắc ngoa dụ, từ tình thái và một số từ ngữ không thuộc lớp từ toàn dân,

gây ấn tượng mạnh và hiệu quả thẩm mỹ cao nơi người đọc; sáng tạo những

92

kết hợp từ ngữ khá độc đáo làm tăng sức biểu cảm cho lời văn. Đây chính là

những đóng góp đáng trân trọng của ông cho ngôn ngữ văn học của dân tộc

và tăng thêm khả năng biểu đạt của tiếng Việt trên bước đường hiện đại hoá.

Ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyên Hồng còn là ngôn ngữ của những cảm xúc

mãnh liệt: nhiều thán từ và dấu cảm được ông khai thác triệt để.

Thống nhất trong mạch chung của ngôn ngữ giàu cảm xúc là cách đặt

tên nhân vật, tên tác phẩm đầy ấn tượng của nhà văn.

Ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyên Hồng góp phần chứng minh ông

không chỉ là nhà văn của niềm thương cảm thống thiết mà còn là nhà văn của

lòng tin yêu và niềm khát vọng mãnh liệt.

Thành công hơn cả với Nguyên Hồng là việc ông sử dụng ngôn ngữ

trần thuật tự sự và độc thoại nội tâm mang phong cách riêng. Nguyên Hồng

đã vận dụng khá linh hoạt nhiều cách trần thuật khác nhau trên cơ sở luân

phiên các điểm nhìn của người trần thuật. Tuy nhiên, dù trần thuật theo quan

điểm tác giả hay trần thuật có nhân vật tham dự, không mấy khi Nguyên

Hồng giữ được thái độ khách quan mà thường "xuất đầu lộ diện" ở những

mức độ khác nhau, khiến cho người đọc dễ dàng nhận thấy qua những lời trữ

tình ngoại đề và nhất là những lời nửa trực tiếp. Cách trần thuật này mang lại

cho người đọc cảm giác như đang được nghe chính nhân vật tự kể về mình,

đồng thời cũng như nghe được nhịp đập của trái tim người cầm bút. Tác phẩm

của ông vì thế rất giàu tình cảm và chất trữ tình. Nguyên Hồng đã sử dụng

độc thoại nội tâm như một thủ pháp quan trọng để bộc lộ quá trình tự nhận

thức của nhân vật và phản ánh thế giới tâm hồn sâu kín bên trong của nó. Nhà

văn có thể cho nhân vật độc thoại nội tâm theo lối "tự nhủ"; "nhủ thầm",

"thầm nghĩ"... hay hoà lẫn những lời độc thoại nội tâm của họ với lời thuyết

minh tâm lý, miêu tả tâm trạng nhân vật của người trần thuật bằng những lời

nửa trực tiếp, không có ranh giới tách bạch. Theo cách nào thì cái tôi chủ

quan của nhà văn cũng được bộc lộ một cách thành thật, không cần giấu giếm.

93

Nhân tố chủ yếu chi phối mọi phương tiện nghệ thuật cũng như phương

thức tự sự của Nguyên Hồng là tình cảm, cảm xúc. Khi viết, Nguyên Hồng

chịu sự tác động mạnh mẽ của trái tim. Đấy là sở trường đồng thời cũng hàm

chứa nhược điểm của ông và đều góp phần tạo nên phong cách nghệ thuật

Nguyên Hồng. Cách viết hồn nhiên theo mạch cảm xúc, giàu tình cảm, đôi

khi không tránh khỏi lỏng lẻo, dễ dãi và rườm rà, lan man trong kết cấu tác

phẩm cũng như mô tả sự việc, tâm trạng nhân vật. Điều đó cũng không có gì

ngạc nhiên vì trước Cách mạng, Nguyên Hồng chủ yếu viết văn nhờ năng

khiếu trời cho và một trái tim nhân hậu nồng nàn. Chính sự chân thật ấy đã

cuốn hút biết bao thế hệ độc giả và chúng ta dễ cảm thông hơn với những mặt

còn hạn chế trong tác phẩm của ông.

Từ những kết luận trên, chúng tôi khái quát đặc điểm nghệ thuật trong

truyện ngắn và tiểu thuyết của Nguyên Hồng trước Cách mạng gồm những

nét chính sau đây: Đó là một kiểu tự sự chân thật giàu cảm xúc, nhằm thể hiện

lòng cảm thương thống thiết những kiếp người cùng khổ và một niềm tin

mãnh liệt vào những phẩm chất tốt đẹp của người lao động; Một cái nhìn lãng

mạn về cuộc sống tinh thần của người lao động trong đau khổ và bất hạnh;

một giọng trần thuật sôi nổi, thiết tha với những hình thức ngôn ngữ giàu xúc

cảm, gây ấn tượng; một sự kết hợp hài hoà giữa chủ nghĩa hiện thực và chất

lãng mạn.

Có thể nói Nguyên Hồng là một trong những địa diện xuất sắc nhất của

nền văn học hiện thực tiến bộ Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.

Ngay từ khi mới xuất hiện trên văn đàn, Nguyên Hồng đã bộc lộ một

tài năng hiếm có và đem đến một luồng sinh khí mới, một tiếng nói mới mẻ

cho xu hướng văn học hiện thực. Đó là tiếng nói của những con người bị áp

bức và bị bóc lột cùng cực, bị dày xéo và đoạ đầy. Đó là tiếng nói căm uất và

phẫn nộ, đòi công lý và quyền sống làm người, tiếng nói chân chất và sinh

động lạ thường. Đó là tiếng nói tin yêu tha thiết những người lao động cùng

khổ trong xã hội thành thị Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Bằng

94

những sáng tác của mình, Nguyên Hồng đã đóng góp vào "Viện bảo tàng con

người Việt Nam" những chân dung người lao động không dễ gì thay thế. Tác

phẩm của Nguyên Hồng nhờ vậy thấm nhuần một chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc.

Nguyên Hồng đã sống 64 năm và đã viết 46 năm liên tục. Cả đời cầm

bút, ông đã sống hết mình, đã gắn bó đằm thắm, say sưa và chân thành với

nhân dân, mãi mãi hoà mình với nhân dân, vì nhân dân mà viết. Ở bất cứ đâu,

bất cứ lúc nào, ông cũng thể hiện lòng tin bền vững ở nhân dân. Ông đã vĩnh

biệt chúng ta vừa đúng 22 năm. Nhưng gia tài văn chương mà ông đã viết

bằng máu và nước mắt của mình và nhân dân mình thì vẫn còn lại mãi mãi

với thời gian.

" Nguyên Hồng mất đi, nhưng cái văn của anh ấy còn rên rĩ mãi"

(Xuân Diệu).

Thay cho lời kết và cho những niềm xúc động trào dâng trong lòng,

chúng tôi xin ghi lại những câu thơ của Ý Nhi hoạ lại bức chân dung về con

người và văn Nguyên Hồng biết bao thân thương:

"Nhà văn Nguyên Hồng đi trên các chuyến tàu

trán đẫm mồ hôi

tay khư khư chiếc túi cũ sờn

như một viên chức bậc trung giữa đường công vụ

một lão nông về quê sau chuyến đi xa

một kẻ lang thang suốt đời tìm đất mới

với giọt lệ lớn nằm dưới đôi mắt đang nheo cười..."

(Nhà văn Nguyên Hồng - Ý Nhi).

95

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

STT

TÊN TÁC GIẢ

TÊN TÁC PHẨM

NXB

NĂM

Hội nhà văn

1991

1

Bùi Hiển

Nhớ một đồng nghiệp

VHTT HN

2000

2

Bùi Việt Thắng

Bàn về tiểu thuyết

ĐHQG HN

2000

3

Bùi Việt Thắng

Truyện ngắn những vấn đề lý

thuyết và thực tiễn thể loại

Văn học

2004

4

Bùi Việt Thắng

Tuyển tập truỵện ngắn hiện

thực 1930-1945

Tạp chí Văn nghệ

3/199

5

Bùi Việt Thắng

Đôi điều về hiện trạng phê

Quân Đội

9

bình văn chương

KHKT HN

1977

6 Chu Nga

Nguyên Hồng và quá trình

sáng tác của anh-Tác gia văn

xuôi VN hiện đại

Tạp chí Văn học số

1971

7 Chu Nga

Đọc lại tác phẩm của Nguyên

6

Hồng

Giáo dục

1985

8 G.Npospelor

Dẫn luận nghiên cứu văn học

KHKT

1997

9 Hà Minh Đức

Khảo luận văn chương

Giáo dục

2001

10 Hà Minh Đức

Nguyên Hồng-Nhà văn của

những khát vọng sống

Giáo dục

2001

11 Hà Minh Đức

Một kỷ niệm nhỏ với nhà văn

Nguyên Hồng

Giáo dục

1997

12 Hà Minh Đức(C.

Lý luận văn học

biên)

Hà nội

1986

13 Hoàng Trinh

Đối thoại văn học

4/198

14 Huy Cận

Một kỷ niệm về Nguyên Hồng Báo Văn nghệ

8

số1274

TP.Mới-Hội nhà

1985

15

Ilia Êrenbua

Công việc của nhà văn

văn

Hội nhà văn

1999

16

J.P.Sartre

Văn học là gì ?

Tạp chí Văn học số

1982

17 Kim Lân

Nguyên Hồng-một nhà văn

3

Hải Phòng

1997

18 Kim Lân

ảnh hưởng của Nguyên Hồng

ĐHQG Hà Nội

2003

19 Lại Nguyên Ân

150 thuật ngữ văn học

T.P.Mới

1984

20 Lại Nguyên Ân

Văn học và phê bình

Hải Phòng

1997

21 Lê Lựu

Với nhà văn Nguyên Hồng

ĐH và THCN

1987

22 Lê Trí Viễn

Đặc điểm văn học Việt Nam

Hội nhà văn

1991

23 Linh Thi

Giọt lệ lớn và đoàn tàu chợ

T.P.Mới

1978

24 M.B.Khrapchencô Cá tính sáng tạo của nhà văn

và sự phát triển văn học

Trường viết văn

4/199

25 M.Bakhtin

Lý luận và thi pháp tiểu

Nguyễn Du

2

thuyết(Phạm Vĩnh Cư T.

chọn)

Văn hóa thông tin

2000

26 Mã Giang

Quá trình hiện đại hóa văn

HN

Lân(chủ biên)

hoá Việt Nam1900-1945

Matxcơva

1971

27 N.I.Niculin

Văn học Việt Nam

Hải Phòng

28 Ngô Thảo

Nhà văn Nguyên Hồng một

1997

cuộc đời sáng tạo

Hội nhà văn

2000

29 Ngô Văn Phú

Văn chương và người thưởng

thức

Hội văn học nghệ

1998

30 Nguyên Hồng

Bảy Hựu

thuật Hà bắc

Văn nghệ Tp Hồ

1999

31 Nguyên Hồng

Bỉ vỏ

chí Minh

Văn học Hà nội

1970

32 Nguyên Hồng

Bước đường viết văn- Hồi ký

Văn học

1961

33 Nguyên Hồng

Địa ngục và lò lửa-Tập truyện

ngắn

Văn học

1963

34 Nguyên Hồng

Sức sống của ngòi bút -Bút

ký,tiểu luận

Báo văn nghệ số

5/198

35 Nguyên Ngọc

Nguyên Hồng-một tấm gương

21

2

sống, lao động hết mình

VHTT HN

2002

36 Nguyễn ánh Ngân Nguyên Hồng tấm lòng qua

những trang viết

Hội nhà văn

1991

37 Nguyễn Đăng Điệp Đặc sắc hồi ký Nguyên Hồng

ĐHQG HN

2001

38 Nguyễn Đăng

Nhà văn tư tưởng và phong

Mạnh

cách

Hải Phòng

1983

39 Nguyễn Đăng

Nguyên Hồng-Con người và

Mạnh

sự nghiệp

Báo Nhân dân số

1982

40 Nguyễn Đăng

Thương tiếc nhà văn Nguyên

16, tháng 5

Mạnh

Hồng

Văn học

2003

41 Nguyễn Đăng

Nhà văn chân dung và phong

Mạnh

cách

Hải Phòng

42 Nguyễn Đăng

Mấy lần được gặp Nguyên

1997

Mạnh

Hồng

Hải Phòng

43 Nguyễn Đăng

Nguyên Hồng-Văn và người

1997

Mạnh

Hải Phòng

44 Nguyễn Đăng

Nguyên Hồng và Hải Phòng

1987

Mạnh-Đoàn Trọng

Huy-Trần Hạnh

Mai

Hải Phòng

45 Nguyễn Khoa

Kính tặng Nguyên Hồng

1997

Điềm

Giáo dục

1998

46 Nguyễn Lai

Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp

nhận văn học

Hải Phòng

47 Nguyễn Minh

Vô cùng thương tiếc nhà văn

1997

Châu

Nguyên Hồng

5-

48 Nguyễn Như

Vài kỷ niệm về Nguyên Hồng Tạp chí văn học số

3

6/198

Phong

2

Giáo dục

2000

49 Nguyễn Thái Hòa Những vấn đề thi pháp của

truyện

KLTN Cử nhân

2000

50 Nguyễn Thu Hà

Hình tượng người phụ nữ

trong truyện ngắn và tiểu

thuyết của Nguyên Hồng

trước CM-8

Văn học HN

2002

51 Nguyễn Trường

Con mắt tiếp nhận văn

Lịch

chương

Tạp chí văn học số

5-

52 Nguyễn Tuân

Anh bạn Nguyên Hồng của

6/198

3

tôi

2

Văn học

1983

53 Nguyễn Tuân

Con người Nguyên Hồng

ĐHQG HN

2000

54 Nguyễn Văn Dân

Lý luận văn học so sánh

Tạp chí Văn học số

1982

55 Như Phong

Người bạn từ thuở đôi mươi

2

Hội VHNT Bắc

2000

56 Nhiều tác giả

Tạp chí sông Thương

Giang số 3

Giáo dục

2001

57 Nhiều tác giả

Nguyên Hồng – Tô Hoài

Đà nẵng

2001

58 Nhiều tác giả

Lý luận phê bình văn học

miền Trung thế kỷ XX

Giáo dục

2001

59 Nhiều tác giả

Nguyên Hồng-Về tác gia và

tác phẩm

Hải Phòng

1997

60 Nhiều tác giả

Nguyên Hồng-Thân thế và sự

nghiệp

Hội nhà văn

1991

61 Nhiều tác giả

Nguyên Hồng-ánh sáng và cát

bụi

Giáo dục

2001

62 Nhiều tác giả

Giảng văn văn học Việt Nam

ĐH KH XH và NV

2001

63 Nhiều tác giả

45 năm khoa văn học

ĐHQG HN

Văn học

1998

64 Nhiều tác giả

Tuyển tập Thạch Lam

Giáo dục

2003

65 Nhiều tác giả

Tuyển tập mười năm văn học

và tuổi trẻ

KHXH

1987

66 Nhiều tác giả

Văn học cuộc sống nhà văn

T.P.Mới

1986

67 Nhiều tác giả

Các nhà văn nói về văn – Tập

1

T.P.Mới

1986

68 Nhiều tác giả

Các nhà văn nói về văn – Tập

2

T.P.Mới

1986

69 Nhiều tác giả

40 năm văn học

KHXH

1983

70 Nhiều tác giả

Tự điển văn học tập 1 + tập 2

Văn học Hà nội

2000

71 Phan Cự Đệ

Tuyển tập 1

Văn học Hà nội

2000

72 Phan Cự Đệ

Tuyển tập 2

Văn học Hà nội

2000

73 Phan Cự Đệ

Tuyển tập 3

Văn học Hà nội

2000

74 Phan Cự Đệ

Tuyển tập 4

Giáo dục

2000

75 Phan Cự Đệ

Tiểu thuyết Việt nam hiện đại

Tạp chí Văn học số

1969

76 Phan Cự Đệ

Những bước tiến mới về tiểu

3

thuyết của Nguyên Hồng sau

CM-8

Giáo dục

1997

77 Phan Cự Đệ

Văn học lãng mạn Việt Nam

30-45

Tạp chí Văn học số

1979

78 Phan Cự Đệ

Tiểu thuyết “Cửa biển” của

5

Nguyên Hồng

Văn học Hà nội

2000

79 Phan Cự Đệ (T

Tuyển tập Nguyên Hồng tập 1

chọn)

Văn học Hà nội

2000

80 Phan Cự Đệ (T

Tuyển tập Nguyên Hồng tập 2

chọn)

Văn học Hà nội

2000

81 Phan Cự Đệ (T

Tuyển tập Nguyên Hồng tập 3

chọn)

Giáo dục

2004

82 Phan Cự Đệ(C.

Văn học Việt Nam thế kỷ thứ

biên)

XX

Hội nhà văn HN

1995

83 Tô Hoài

Tính cách Nguyên Hồng-

Những gương mặt

Văn học

1959

84 Tô Hoài

Những kinh nghiệm viết văn

của tôi

T.P.Mới,Hội nhà

1988

85 Tô Hoài

Những gương mặt, Chân

văn

dung văn học

Hội nhà văn

1995

86 Tô Hoài

Nguyên Hồng trong đời sống

Hải Phòng

87 Thạch Lam

Đọc Những ngày thơ ấu

1997

1979

88 Tkachốp

Nam cao-Nguyên Hồng tuyển

tập

Hải Phòng

89 Tế Hanh

Làm báo Văn nghệ với

1997

Nguyên Hồng

5-

90 Trần Cát

Nguyên Hồng ở căng Bắc Mê Tạp chí Văn học số

3

6/198

2

ĐHQG

1999

91 Trần Ngọc Vương Loại hình học tác giả văn học

Tạp chí Cửa biển

9/199

92 Vũ Hoàng Lâm

Những gì còn lại của một nhà

2

văn không bao giờ chết

Vĩnh Thịnh

1951

93 Vũ Ngọc Phan

“Nguyên Hồng”, Nhà văn

hiện đại,quyển 4 tập 3

Hải Phòng

1997

94 Vũ Ngọc Phan

Tác phẩm Nguyên Hồng

trước CM-8

Văn nghệ Tp HCM 1999

95 Vũ Tiến Quỳnh

Phê bình bình luận văn học

Hải Phòng

96 Vũ Tú Nam

Trong tình cảm tiếc thương

1997

ấm áp

Văn học

1987

97 Xâytlin

Lao động và nhà văn- tập 1

Hải Phòng

98 Xuân Can

Nguyên Hồng

trong

lớp

1997

ngươìviếttrẻ

Hải Phòng

99

ý Nhi

Nhà văn Nguyên Hồng

1997

D. PHỤ LỤC

1. Nguyên Hồng - thân thế và sự nghiệp (1918 - 1982)

Nguyên Hồng họ Nguyễn, tên khai sinh cũng là bút hiệu duy nhất suốt

cuộc đời cầm bút của ông. Ông sinh ngày 05/11/1918 tại quê gốc ở phố Hàng

Cau, thành phố Nam Định trong một gia đình Công giáo đang sa sút. Mười

hai tuổi, cậu bé Nguyên Hồng mồ côi cha, chủ yếu sống với bà nội và người

mẹ tần tảo sớm hôm đầu chợ mom sông. Đã có lúc mẹ phải đi ở vú, mấy năm

sau đi bước nữa. Mười sáu tuổi Nguyên Hồng phải thôi học, từ giã quê hương

và người bà nội mộ đạo, cùng mẹ và bố dượng ra sinh sống ở xóm Cấm Hải

Phòng. Tại cái xóm thợ nghèo xơ xác ấy, Nguyên Hồng trở thành cậu giáo tư

của mấy trẻ nhỏ con em lao động. Ngay từ nhỏ, Nguyên Hồng đã sống hoà

đồng với cuộc đời của những người lao động nghèo phố thị và lại sớm tiếp

xúc với sách báo tiến bộ của thời kỳ Mặt trận Bình dân nên Nguyên Hồng

nhận rõ được cái tăm tối và bất công ngột ngạt của một xã hội thực dân,

thuộc địa

Cũng chính ở Hải Phòng, Nguyên Hồng được gặp Thế Lữ (1935), "nhà

thơ ngõ Nghè" đã nổi tiếng là chủ soái của phong trào Thơ mới. Từ đó,

Nguyên Hồng nuôi ước vọng đi vào con đường văn chương. Đặc biệt từ năm

1936, truyện ngắn đầu tay Linh hồn được in trên tờ Tiểu thuyết thứ bảy

càng củng cố hơn quyết tâm này của Nguyên Hồng. Chính trong căn nhà ổ

chuột của khu lao động xóm Cấm Hải Phòng, những trang đầu tiên của Bỉ vỏ

và Những ngày thơ ấu được hình thành. Bỉ vỏ được in dần trên báo rồi được

nhận giải thưởng "Tự lực văn đoàn" (1937) là giải thưởng đầu tiên của văn

đoàn này, cùng với vở kịch Kim tiền của Vi Huyền Đắc.Từ đó Nguyên Hồng

đã thực sự trở thành một nhà văn.

Ngoài những ảnh hưởng từ sách báo tiến bộ, ở Hải Phòng, Nguyên

Hồng còn được tiếp xúc với một số đảng viên cộng sản hoạt động ở thành phố

Cảng, trong đó có đồng chí Tô Hiệu (1939) là Bí thư thành uỷ lúc bấy giờ.

96

Nguyên Hồng ngày càng tham gia tích cực các hoạt động xã hội do Đảng

cộng sản Đông Dương chủ trương trong suốt thời kỳ Mặt trận Dân chủ.

Ngày 29/9/1939, Nguyên Hồng bị mật thám Pháp bắt tại Hải Phòng, bị

kết án sáu tháng tù giam vì tội "Viết truyện cổ động" truyền bá văn học Mác -

xít và tham dự những tổ chức phá cuộc trị an". Ông bị đày đi trại Bắc Mê (Hà

Giang) rồi lần lượt bị quản thúc tại Nam Định, Hải Phòng. Thời kỳ này, các

tập Qua những màn tối và Cuộc sống của Nguyên Hồng ra mắt bạn đọc đã

thể hiện bước chuyển biến mới về tư tưởng và phong cách nghệ thuật của tác

giả.

Năm 1943 cùng với Như Phong, Tô Hoài, Nam Cao... Nguyên Hồng là

một trong những nhà văn đầu tiên tiếp xúc với Đề cương Văn hoá Việt Nam

và sớm đứng vào tổ chức Văn hoá cứu quốc do Đảng lãnh đạo. Ngoài những

tác phẩm Quán Nải, Hơi thở tàn, Vực thẳm, Hai giòng sữa... lần lượt được

xuất bản. Thời kỳ tiền khởi nghĩa Nguyên Hồng đã tham gia biên tập tạp chí

Tiên phong dự định xuất bản bí mật. Cách mạng tháng Tám thành công,

Nguyên Hồng tham gia khởi nghĩa ở Hà Nội, thành viên ban biên tập tạp chí

Tiên Phong - cơ quan hoạt động văn hoá mới của Đảng. Thời gian này,

Nguyên Hồng in Ngọn lửa (truyện vừa); Miếng bánh (truyện ngắn); Địa

ngục và lò lửa (tập truyện ngắn), trong đó có một số truyện đã in trên Tiên

phong.

Sau đợt Nam tiến vào mặt trận Nha Trang, khi kháng chiến toàn quốc

bùng nổ, Nguyên Hồng cùng một số gia đình văn nghệ sĩ khác lên khai phá ấp

Kỳ Nhân (tức ấp Cầu Đen - Yên Thế), cạnh căn cứ của Nghĩa quân Đề thám

xưa. Ông tham gia hoạt động trong Hội văn nghệ Việt Nam, biên tập tạp chí

Văn nghệ của Hội và phụ trách trường Văn nghệ nhân dân Trung ương từ

những khoá đầu. Và sau này, cho đến cuối đời, "ông đốc Hồng" cũng là người

phụ trách nhiều khoá đào tạo nhà văn trẻ. Năm 1948, Nguyên Hồng được kết

nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (Nay là Đảng Cộng sản Việt Nam).

97

Hoà bình lập lại năm 1954, Nguyên Hồng cùng gia đình về Hà Nội,

ông công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam. Và năm 1957 khi Hội nhà văn Việt

Nam thành lập, ông làm thư ký toà soạn tuần Báo văn của Hội do nhà văn

Nguyễn Công Hoan, chủ tịch Hội làm chủ nhiệm. Sau đợt đấu tranh chống

nhóm Nhân văn - Giai phẩm, Nguyên Hồng về thực tế lao động tại nhà máy

xi măng Hải Phòng nhiều tháng. Chính thời gian này ông hình thành ý tưởng

và bắt tay xây dựng bộ Cửa biển, bộ tiểu thuyết đồ sộ bốn tập, tác phẩm tâm

huyết của cả một đời cầm bút của ông.

Từ năm 1962, Nguyên Hồng cùng gia đình trở lại Nhã Nam, Yên Thế

(nay là xã Quảng Tiến - Huyện Tân Yên - tỉnh Bắc Giang) sống cho đến lúc

mất. Có thể nói ấp Cầu Đen, đồi Nhã Nam, Yên Thế đã thành quê thứ hai của

Nguyên Hồng.Đó là nơi ông sống lâu nhất và là nơi ông xây dựng bộ tiểu

thuyết dài hơi còn dở dang của ông: Bộ Núi rừng Yên Thế dự định gồm 3

tập. Tập hai đang hoàn thành thì ông đột ngột từ trần ngày 02/05/1982. Nhà

văn Nguyên Hồng được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu tiên

(1996),là uỷ viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam khoá 1 và 2, là người

thầy trực tiếp dìu dắt nhiều thế hệ học trò đi vào con đường sáng tạo văn học.

46 năm lao động sáng tạo không mệt mỏi, ông đã để lại cho đời một số

lượng lớn các tác phẩm có giá trị:

- Bỉ vỏ (tiểu thuyết) – 1938.

- Bảy Hựu (truyện ngắn) – 1941.

- Những ngày thơ ấu (truyện) 1941.

- Qua những màn tối (truyện) – 1942.

- Cuộc sống (tiểu thuyết) – 1942.

- Quán nải (tiểu thuyết) – 1943.

- Hơi thở tàn (tiểu thuyết) – 1943.

- Hai giòng sữa (truyện ngắn) – 1943.

- Vực thẳm (truyện vừa) – 1944.

- Miếng bánh (truyện ngắn) – 1945.

98

- Ngọn lửa (truyện ngắn) – 1945.

- Địa ngục và lò lửa (truyện ngắn) – 1946.

- Đất nước yêu dấu (ký) 1949.

- Đêm giải phóng (truyện vừa) – 1951.

- Giữ thóc (truyện vừa) – 1951.

- Giọt máu (truyện ngắn) – 1956.

- Trời xanh (thơ) 1960.

* Bộ tiểu thuyết Cửa biển (bốn tập).

- Sóng gầm – 1961.

- Cơn bão đã đến – 1963.

- Thời kỳ đen tối - 1973.

- Khi đứa con ra đời – 1976.

- Sức sống của ngòi bút (bút ký - tiểu luận ) – 1963.

- Bước đường viết văn của tôi (Hồi ký) – 1971.

- Cháu gái người mãi võ họ Hoa (truyện thiếu nhi) – 1972.

- Một tuổi thơ văn (Hồi ký) – 1973.

- Những nhân vật ấy đã sống với tôi (Hồi ký) – 1978.

- Thù nhà nợ nước (tiểu thuyết) - tập I – 1981.

- Núi rừng Yên Thế (tiểu thuyết, di cảo - Tập II) – 1983.

- Người con gái họ Dương (di cảo).

- Tuyển tập (truyện ngắn) (3 tập) 1983 – 1985.

2. Hai lần về mái nhà xưa của tác giả "Những ngày thơ

ấu".

Ý nghĩ được về ấp Cầu Đen - Nhã Nam để viếng mộ nhà văn và tìm

hiểu thêm về tác giả Những ngày thơ ấu đã thôi thúc, nung nấu trong tôi từ

khi nhận đề tài nghiên cứu về Nguyên Hồng. Ngày 21/08/2000, một ngày thu

nắng vàng rực rỡ chúng tôi lên đường.

99

Trời rất nắng, con đường đất đỏ bụi mù mịt nhưng tôi chẳng thấy mệt.

Sau một hồi hỏi đường, thầy trò tôi đã tìm được ấp Cầu Đen, đường đến mộ

nhà văn. Trước mắt chúng tôi là hai ngôi mộ rất giản dị nằm thoai thoải ở

sườn núi. Ngôi mộ nhà văn bên cạnh người vợ thân yêu của ông.

Ôi! Tác giả của Những ngày thơ ấu - lúc còn sống cho đến khi trở về

với cỏ cây hoa lá vẫn rất Nguyên Hồng - mộc mạc, chân chất biết bao. Phía

dưới ngôi mộ là mọt con suối nhỏ nước chảy róc rách ngày đêm. Phía xa,

cánh đồng lúa xanh bát ngát thấp thoáng vài cánh cò trắng bay...

Rời khu mộ, chúng tôi tìm đến nhà Nguyên Hồng. Mở cửa cho tôi là

một cậu bé khoảng 16, 17 tuổi trông rất hiền. Em tên là Vũ, con bác Nguyễn

Vũ Giang. Nếu không biết trước đó là nhà của Nguyên Hồng thì ta sẽ nghĩ

đấy là nhà của một gia đình nông dân bậc trung ở vùng Trung du Bắc Bộ.

Trong nhà, ngoài sân có gì đó hơi bừa bộn. Chỗ này vài cái quần áo, quyển

sách, đồ dùng giản đơn, hai tủ sách kê ở giữa nhà. Đồ vật tôi nhìn thấy đáng

giá nhất là chiếc ti vi màu. Ngoài sân có vài con chó, con gà, một đàn vịt

khoảng chục con, cái nơm úp cá, rổ rau lợn... ngoài vườn, cây khế, cây me

Nguyên Hồng mang từ Nam Định - Hải Phòng lên đều rất sai quả.

Tiếp chúng tôi là bác Nguyễn Vũ Giang - con trai thứ hai của nhà văn.

Tôi chỉ được biết nhà văn qua ảnh và hình dung ông qua những trang sách.

Nhưng khi nhìn thấy bác Giang, tôi đã thấy bóng dáng của Nguyên Hồng như

đang đứng trước mặt mình. Bác trông rất hiền lành, giản dị, trông giống một

ông nông dân lúc nông nhàn hơn là giống một dược sĩ (đã nghỉ hưu). Một cái

gì cay cay nơi mắt tôi và rồi nụ cười hồn hậu thoải mái của Nguyên Hồng cứ

theo tôi suốt chặng đường về...

Lần thứ hai chúng tôi về Nhã Nam là ngày 01/09/2000. Lần này bác

Giang trò chuyện cởi mở, thân mật hơn. Bác kể về gia đình mình những ngày

đói khổ, hết gạo phải cầm thư của mẹ đi vay gạo, vay tiền nhà Nguyễn Huy

Tưởng, Kim Lân. Có lẽ Nguyên Hồng nghèo cũng một phần vì con đông.

Theo lời bác Giang thì bà nội bác chỉ có hai người con là nhà văn Nguyên

100

Hồng và bác Quế. (Hiện nay vẫn còn sống ở Lạng Giang - đã hơn 80 tuổi).

Nhưng nhà văn của chúng ta có đến 7 người con. (6 người tốt nghiệp Đại học

và 1 người tốt nghiệp Cao Đẳng. Nhiều người được đặt tên theo những vùng

đất kỷ niệm như bác Giang, cô Nguyễn Thị Nhã Nam, cô Nguyễn Thị Yên

Thế.....).

Bác Giang xúc động bồi hồi tưởng lại những ngày nhà văn còn sống:

"Ông cụ tôi là người rất chăm làm. Cụ bà nhà tôi yếu nên ông làm tất cả mọi

việc. Ông gánh nước ở suối về giặt quần áo cho mẹ tôi, nấu cơm, nấu cám

chăn lợn, gà….Tối đến ông cụ lại đi sinh hoạt chi bộ hoặc đi chơi nhà hàng

xóm. Có hôm mọi người tụ tập ở nhà tôi ngồi uống rượu suông. Cụ nhà tôi

rất thích uống rượu nhưng không hút thuốc. Ăn uống thì rất đơn giản, cụ ăn

khoẻ và nhanh. Cụ thích ăn thịt chó nhưng không bao giờ nuôi chó mà thích

nuôi gà và chim bồ câu. Khi cụ tôi bị cảm chỉ mình mẹ tôi ở nhà, may mà tôi

tình cờ ở quê ngoại Nam Định lên. Cụ tôi ra đi nhẹ nhàng lắm....".

Lần này bác Giang và em Vũ đưa chúng tôi ra mộ nhà văn. Khi đi qua

con suối nước chảy rất êm đềm, bác Giang bảo: "Đây là suối mơ đấy".

Tôi ngạc nhiên hỏi tại sao giống như ca khúc của nhạc sĩ Văn Cao vậy?

Đúng đấy! Ông Văn Cao, Đỗ Nhuận và nhà thơ Tố Hữu, nhà văn Nguyễn

Tuân đã từng tắm ở suối này. Con suối chảy từ núi rừng Yên Thế, giờ vẫn

ngày đêm bầu bạn với Nguyên Hồng. Tôi càng hiểu thêm lý do tại sao sinh

thời Nguyên Hồng lại muốn khi mình mất sẽ được đặt ở núi Án trông xuống

con suối hiền hoà kia. Và tình yêu đời, yêu người của ông sẽ mãi mãi như

dòng suối kia không bao giờ cạn...

Em Vũ, cháu nội của nhà văn, thì nói chẳng khác gì nhân vật trong

Cuộc sống của Nguyên Hồng:

"Cần phải tin chị ạ. Em tin là có một cái gì đó rất tốt đẹp đang đợi

mình ở phía trước. Nếu em không tin tưởng vào cuộc sống thì em không khỏi

bệnh và chắc chắn đã chết khi ngã từ cây me xuống rồi. Hãy cố gắng sống

thật tốt và thương yêu tất cả mọi người…".

101

(Bài đăng trên Tạp chí Văn học và tuổi trẻ NXB Giáo dục - số 2 (80)

tháng 2 – 2003 của học viên).

102