intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong văn xuôi nghệ thuật Tự lực văn đoàn

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:125

141
lượt xem
32
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Dưới đây là luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong văn xuôi nghệ thuật Tự lực văn đoàn. Luận văn trình bày về Nhất Linh, Khái Hưng như là những nhà văn viết truyện ngắn hiện đại; nội dung truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong khuynh hướng tư tưởng của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn; các loại hình truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong tương quan với các loại hình tiểu thuyết Tự lực văn đoàn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong văn xuôi nghệ thuật Tự lực văn đoàn

  1. THƯ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM  NGUYỄN ĐĂNG VY TRUYỆN NGẮN NHẤT LINH, KHÁI HƯNG TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60 22 34 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THÀNH THI TP Hồ Chí Minh – 2010
  2. LỜI CẢM ƠN Thực hiện luận văn này, bản thân tôi đã thường xuyên nhận được sự hướng dẫn tận tình của PGS. TS Nguyễn Thành Thi. Với tư cách một chuyên gia văn học hiện đại Việt Nam 1930-1945, am hiểu tường tận về sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng, thầy đã giúp đỡ, chỉ dẫn khoa học rất cụ thể và đầy hiệu quả. Xin được gửi lời cảm tạ chân thành sâu sắc nhất đến thầy, không phải chỉ vì thầy đã giúp tôi hoàn thành luận văn mà còn vì đã cho tôi nhiều kinh nghiệm quý báu trong nghiên cứu văn học cũng như thưởng thức cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương. Nhân dịp luận văn hoàn thành, tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự giảng dạy tận tình của tất cả các thầy cô phụ trách chuyên đề Cao học; cảm ơn BCN khoa Ngữ văn, các thầy cô chuyên viên phòng Sau đại học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong học tập nghiên cứu. Cảm ơn bằng hữu đã nhiệt tình động viên cổ vũ tôi. Con xin chân thành cảm ơn ba má đã không ngừng động viên giúp đỡ con về vật chất lẫn tinh thần để có ngày hoàn tất và bảo vệ luận văn này. TP Hồ Chí Minh ngày 01/01/2011 NGUYỄN ĐĂNG VY
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Từ khi xuất hiện cho đến nay, sáng tác văn học của hai tác giả Nhất Linh, Khái Hưng đã thu hút được sự quan tâm của giới phê bình và độc giả. Ý kiến về các ông, tùy từng thời điểm, thiên về khen hay chê, phủ nhận hay khẳng định, tất thảy đều cho thấy đánh giá sự nghiệp văn chương của hai ông không hề đơn giản. Thời gian trôi qua, dường như khoảng cách đã đủ để cân nhắc thẩm định đầy đủ hơn, sáng tác của Nhất Linh và Khái Hưng là một trong nhiều hiện tượng văn học được nhìn nhận lại trong những năm gần đây. Trên tinh thần đổi mới, giờ là lúc cần có sự đánh giá khách quan khoa học để trả lại giá trị đích thực vốn có của các hiện tượng văn học ấy trong đó có sáng tác của Khái Hưng Nhất Linh và Tự Lực Văn Đoàn (TLVĐ). Nghiên cứu sáng tác của hai ông, các nhà nghiên cứu đã chú ý nhiều đến tiểu thuyết. Điều đó là đúng và cần thiết, song chưa đủ. Trong sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng, bên cạnh tiểu thuyết, còn có truyện ngắn. Có một thực tế không thể phủ nhận là trong sáng tác của hai ông, thành tựu sáng tác truyện ngắn không nổi bật bằng thành tựu sáng tác tiểu thuyết. Nhưng cũng có một giả thuyết, rằng: nếu không có các sáng tác truyện ngắn vừa như là một sự thể nghiệm, chuẩn bị ý tưởng và kinh nghiệm cho sáng tác tiểu thuyết, vừa như là một sự bổ sung, hòa phối với tiểu thuyết thì liệu tiểu thuyết của TLVĐ có được sức vang dội như thế không, và văn chương TLVĐ liệu có được nhữnh thành tựu như đã có hay không? Thiết tưởng, câu hỏi này chưa được đặt ra và trả lời thỏa đáng. Đó cũng là lý do chủ yếu thôi thúc chúng tôi chọn, nghiên cứu đề tài “Truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong văn xuôi nghệ thuật Tự Lực Văn Đoàn” để thực hiện luận văn thạc sĩ. 2. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu: Tìm hiểu về “Truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong văn xuôi nghệ thuật Tự Lực Văn Đoàn”, luận văn này nhằm hướng tới các mục đích sau: - Tìm hiểu truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng, để thấy được vai trò mở đường và phát triển nghệ thuật truyện ngắn, hiện đại hóa VXNT quốc ngữ Việt Nam của TLVĐ – một vấn đề mà trước đây thường bị bỏ qua hoặc chưa chú ý đúng mức.
  4. - Trên cơ sở miêu tả đặc điểm nội dung và hình thức của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong bối cảnh VXNT TLVĐ, khẳng định thêm về những giá trị, đóng góp của hai ông trong sáng tác tiểu thuyết và truyện ngắn. Với đối tượng nghiên cứu là truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong bối cảnh VXNT TLVĐ – được nhìn chủ yếu trong mối quan hệ tương tác giữa sáng tác truyện ngắn và tiểu thuyết – luận văn chủ yếu tập trung khảo sát các tập truyện ngắn của hai ông sáng tác thời TLVĐ. Cũng cần nói thêm rằng: Truyện ngắn của Nhất Linh và Khái Hưng có một khối lượng không nhỏ. Bên cạnh tập truyện ngắn Anh phải sống hai nhà văn viết chung với nhau, Nhất Linh có tất cả 7 tập truyện ngắn (tổng cộng 40 truyện ngắn). Trong đó, 5 tập sáng tác trước năm 1942 (từ 1927 đến 1937): 1) Người quay tơ (1927) 2) Anh phải sống (viết chung với Khái Hưng, 1934) 3) Tối tăm (1936) 4) Hai buổi chiều vàng (1937) 5) Thế rồi một buổi chiều (1937); 2 tập sáng tác sau 1942 (Mối tình chân: 1948-1950 và Thương chồng: 1949-1950). Khái Hưng cũng có hàng trăm truyện ngắn, phần lớn đã xuất bản thành tập. Đó là các tập: 1) Dọc đường gió bụi (1936) 2) Anh phải sống (viết chung với Nhất Linh, 1934) 3) Số đào hoa (1937) 4) Tiếng suối reo (1937) 5) Hạnh (1938) 6) Đợi chờ (1939) 7) Đội mũ lệch (1941) 8) Cái ve (1944) Ngoài ra, ông còn một số truyện ngắn khác mới chỉ đăng báo, chưa in thành tập. (Tổng cộng 67 truyện ngắn)
  5. Do số lượng truyện ngắn của hai nhà văn khá lớn, hiện nay, lại có những khó khăn đáng kể trong việc sưu tầm những tư liệu truyện ngắn do tình hình báo cũ bị mai một, thất lạc (ngay cả ở các thư viện lớn), nên tập hợp chưa thật đầy đủ. Trong khuôn khổ có hạn, luận văn chủ yếu tập trung khảo sát những tác phẩm truyện ngắn tiêu biểu của hai nhà văn, gần đây đã được tuyển in thành sách. Cụ thể là:  Khảo sát 40 tác phẩm truyện ngắn của Nhất Linh, chủ yếu in trong tập Nhất Linh truyện ngắn, Trịnh Bá Đĩnh (truyển chọn và giới thiệu) (2000), NXB Văn học, Hà Nội và tập truyện ngắn “Những ngày diễm ảo” (1993), NXB Văn học, Hà Bắc. (Xem Danh mục tham khảo, từ 95 đến 120)  Khảo sát 67 tác phẩm truyện ngắn của Khái Hưng, chủ yếu in trong tập Truyện ngắn Khái Hưng, Hoàng Bích Hà, Vương Trí Nhàn (sưu tầm, biên soạn) (2004), NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội, và một vài tập truyện ngắn khác của ông (có Danh mục tác phẩm kèm theo trong Danh mục tham khảo từ 72 đến 79 và Phụ lục của luận văn). Đồng thời, trong trường hợp cần thiết, luận văn cũng đối chiếu so ánh với một số tác phẩm tiểu thuyết của hai nhà văn trong xu hướng tiểu thuyết TLVĐ. 3. Lịch sử nghiên cứu đề tài: 3.1. Về việc đánh giá sự đóng góp của nhóm Tự Lực Văn Đoàn đối với tiến trình phát triển của văn học dân tộc Trước 1945, có thể kể đến bài viết về nhà văn TLVĐ của các tác giả: Trương Tửu, Đức Phiên, Trần Thanh Mại, Hà Văn Tiếp, Nguyễn Lương Ngọc, Vũ Ngọc Phan, Trương Chính,… Từ 1945 đến 1975 ý kiến đánh giá về TLVĐ ở miền Nam và miền Bắc có nhiều điểm khác nhau. Ở miền Nam có: Thanh Lãng, Thế Phong, Phạm Thế Ngũ, Doãn Quốc Sỹ, Bùi Xuân Bào, Lê Hữu Mục, Nguyễn Văn Xung, Đặng Tiến, Nguyễn Văn Trung, Dương Nghiệm Mậu, Thế Uyên, Nguyễn Vỹ, Nguyễn Thị Thế,… Xu hướng chung là đánh giá cao đóng góp của TLVĐ. Ở miền Bắc, có thể kể đến công trình bài viết của các tác giả: Nguyễn Đức Đàn, Vũ Đức Phúc, Nam Mộc, Phan Cự Đệ - Bạch Năng Thi. Nhìn chung trong một bối cảnh cụ thể của đất nước, các tác giả này phê phán TLVĐ khá nặng nề. Sau 1975 nhất là từ 1986 trở đi, việc đánh giá văn đoàn này càng ngày càng thỏa đáng, đúng mực hơn, kể cả một số nhà phê bình trước đây đã từng đánh giá khắt khe. Các nhà nghiên cứu phê bình văn học viết về TLVĐ khá đông đảo: Hoàng Xuân Hãn, Trương Chính, Trần Đình Hượu, Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Hoành Khung, Phan Cự Đệ, Nguyễn Trác – Đái Xuân Ninh, Trần Hữu Tá, Phong Lê, Lê Thị Đức Hạnh, Đỗ Đức Hiểu, Hà Minh Đức, Lê Thị Dục Tú, Trần Thị Mai Nhi, Nguyễn Hữu Hiếu, Nguyễn Thành
  6. Thi, Trịnh Bá Đĩnh, Vương Trí Nhàn,… Ở đây, có một sự vận động trong nhận thức đánh giá về văn đoàn. Đương thời, hoạt động văn học của TLVĐ tuy gây được tiếng vang lớn trong dư luận xã hội và đời sống văn học, tuy vậy đóng góp của TLVĐ vẫn chưa chính thức được giới nghiên cứu phê bình đặt vấn đề đánh giá đầy đủ, nghiêm túc. Phải mười mấy năm sau, vào năm 1957, với một tinh thần xã hội học trong đánh giá công và tội của bộ phận văn học công khai trước Cách mạng Tháng Tám 1945, trong đó có sáng tác của các nhà văn lãng mạn trong TLVĐ (như Khái Hưng, Nhất Linh) và ngoài tổ chức văn học này, Trường Chinh đã phát biểu ý kiến nhận định như sau: “Ngoài một số tác phẩm kể trên (Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, thơ Tố Hữu) các nhà phê bình của ta còn tránh nói đến những tác phẩm lãng mạn, vì chưa biết đánh giá thế nào cho đúng. Có khuynh hướng gạt bỏ chung những xu hướng lãng mạn ngày trước, coi tất cả đều là sa đọa thoát ly. Cần nhận rõ rằng văn nghệ cách mạng của chúng ta là kẻ thừa kế tất cả những giá trị văn nghệ do các thời trước tạo ra và truyền lại cho đến ngày nay. Chúng ta có nhiệm vụ giữ gìn và phát triển tất cả di sản của dân tộc và cũng chỉ có chúng ta mới có thể làm nổi công việc đó (…) Đối với trào lưu văn học lãng mạn, chúng ta không nên mạt sát và vơ đũa cả nắm…”. Ông còn gợi ý trong văn học lãng mạn, bên cạnh những mặt tiêu cực, còn có “nỗi đau khổ của người dân mất nước, sự quằn quại của tâm hồn bị bóp nghẹt, lòng khao khát một cuộc sống chân thật và tự do. (…) Việc uốn nắn lại những thái độ hẹp hòi máy móc đối với những giá trị văn nghệ cũ không những có tác dụng sửa chữa thái độ bất công đối với nhiều tác phẩm mà còn có tác dụng mở rộng con đường cho sáng tác văn nghệ hiện thời” (Bài nói tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai, 1957). Hơn một thập niên sau, trong khi do một hoàn cảnh riêng, ở miền Bắc, các sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng và TLVĐ cùng với trào lưu văn học lãng mạn bị xem là chứa nhiều “nọc độc”, “bạc nhược, suy dồi”, thì ở miền Nam, Hiếu Chân, trên Tạp chí Văn số 156, năm 1970, cũng đã khẳng định động cơ yêu nước, ý thức dân tộc của Nhất Linh, Khái Hưng và các cộng sự khi thành lập TLVĐ và điều hành hoạt động của tổ chức này: “Nhất Linh, Khái Hưng có nhiều mặt đồng điệu và tâm đắc. Đi Pháp về, Nhất Linh gặp Khái Hưng. Hai người cùng có một nguyện vọng là làm sao đóng góp vào sự phát triển văn hóa dân tộc, Họ muốn bảo vệ di sản văn hóa dân tộc (…) Nhất Linh và Khái Hưng đều có thể ra làm quan nhưng họ không thích cuộc đời quan trường. Họ thích tự do. Họ có hoài bão này từ hồi còn đi học. Đó là biểu hiện của lòng yêu nước, và họ đã biểu hiện lòng yêu nước qua hành động của họ. Tất nhiên là nó rất hạn chế và không nhất quán” [17]. Về vai trò hiện đại hóa văn học của TLVĐ, giáo sư Hoàng Xuân Hãn cũng đã có lần khẳng định: “Nhóm Tự Lực Văn Đoàn không phải là nhóm duy nhất nhưng là nhóm quan trọng nhất và là nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại” [dẫn theo theo Nguyễn Hữu Hiếu, 61, tr.74].
  7. Năm 2004, trong Lời giới thiệu tuyển tập Nhất Linh truyện ngắn, Trịnh Bá Đĩnh cho rằng TLVĐ là một phong trào văn học “có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học thế kỷ XX” [39, tr.5]; rằng, sáng tác của các nhà văn “trên các trang báo Phong Hóa sau 1934 đã thổi vào xã hội một luồng sinh khí tươi trẻ, nhẹ nhàng, giàu sinh lực phản ánh được cái khí thế của một thế hệ trẻ rất hăng hái cải tạo xã hội và văn hóa.” [39, tr.6]; rằng, “nhiều tài năng của nền văn học mới có lúc từng quần tụ trong TLVĐ” [39, tr.6]; và rằng, trong TLVĐ, Nhất Linh “là người chủ xướng và tổ chức quan trọng nhất” [39, tr.6]. 3.2. Việc đánh giá truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng: Trước hết, có thể thấy rằng có một thái độ thiên lệch ít nhiều mang tính lịch sử khi đánh giá sự nghiệp văn chương của Nhất Linh, Khái Hưng: tiểu thuyết được coi trọng, truyện ngắn có phần bị coi nhẹ. Thái độ thiên lệch này là có thực trong giới nghiên cứu, phát hành, ngay cả khi sáng tác của hai ông đã bắt đầu được khôi phục, đánh giá lại. Chẳng hạn, khi làm Tổng tập văn học Việt Nam những người tuyển tập chỉ dè dặt đưa vào vài truyện ngắn như truyện Bóng người trong sương mù (Nhất Linh) và truyện Người vợ mù (Khái Hưng), song lại rất tự tin, rộng rãi trong việc trích tuyển tiểu thuyết của hai nhà văn này. Thái độ này cũng đã khiến cho những người làm tuyển tập Truyện ngắn Khái Hưng phải thốt lên: “tiếc là lâu nay tiểu thuyết Khái Hưng vẫn có phần lấn át truyện ngắn của tác giả. Trong vòng 25 năm nay mới chỉ thấy có một tập truyện ngắn Khái Hưng in ra ở NXB Hải Phòng (1994) và một tập truyện thiếu nhi, in ở NXB Hải Phòng và Kim Đồng (2000)” [59, tr.5]. Như vậy, nếu không tính đến những tập truyện ngắn của hai ông in ở miền Nam trước 1975, thì mãi đến năm 1994, truyện ngắn của Khái Hưng mới được in lại, còn truyện ngắn của Nhất Linh, thì phải chờ đến năm 2000, đúng thời điểm chuyển giao giữa thế kỷ cũ và thế kỷ mới mới được tuyển in lại. Dầu sao, thời gian gần đây, thái độ coi nhẹ truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng đã được điều chỉnh đáng kể. Bằng chứng là có những bộ sưu tập truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng ra đời. Kèm theo là nhiều bài viết, công trình nghiên cứu. Có thể xem đây là những cố gắng nhằm tạo ra cách nhìn nhận thỏa đáng và khôi phục lại đóng góp thực sự của Nhất Linh, Khái Hưng trong lĩnh vực truyện ngắn. Đó là một sự điều chỉnh cần thiết, dù muộn màng thì có vẫn hơn không. Về tình hình nghiên cứu, tác giả, tác phẩm truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng, từ trước đến nay, đã có rất nhiều công trình, bài viết. Tuy nhiên, các công trình ấy, hầu như đều chủ yếu đi sâu nghiên cứu về tiểu thuyết. Các ý kiến bàn về truyện ngắn không nhiều. Dẫu vậy, vẫn có thể nhặt ra một số ý kiến đáng chú ý xung quanh vị trí, đặc điểm của truyện ngắn trong sáng tác của hai tác giả. Về vị trí của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong sáng tác của hai ông thời TLVĐ:
  8. Nhìn chung, so với sáng tác truyện ngắn của Nhất Linh, sáng tác truyện ngắn của Khái Hưng được chú ý hơn. Vũ Ngọc Phan khẳng định Khái Hưng là cây bút văn xuôi TLVĐ đã viết được “những truyện ngắn tuyệt hay” [141]. Phạm Thế Ngũ cũng cho rằng sức viết của Khái Hưng bộc lộ nhiều qua truyện ngắn và đây là thể loại không thể thiếu trong sự nghiệp văn chương của ông: “Ngoài những truyện dài, Khái Hưng còn viết rất nhiều truyện ngắn. Trên báo Phong Hóa rồi Ngày Nay những năm đầu, thường thường tuần nào ông cũng có một truyện (không kể tiểu thuyết dài ngắt kỳ). Đếm tất cả những truyện này của Khái Hưng trong gần mười năm có thể đi đến vài trăm” [136, tr.476]. Bên cạnh việc khẳng định tài viết truyện ngắn của Khái Hưng, Phan Cự Đệ còn khẳng định: “Nhất Linh cũng có tài viết truyện ngắn” [36, tr.907] Về vai trò mảng truyện ngắn trong sáng tác của Nhất Linh, Phạm Thế Ngũ đã viết: “Ra tờ Phong Hóa rồi, Nguyễn Tường Tam lại trở lại viết truyện. Ông bắt đầu đăng trên Phong Hóa 1932 – 1933 những truyện ngắn, thoạt đầu ký bút hiệu Bảo Sơn rồi Nhất Linh.” [136, tr.446] Còn về vai trò của mảng truyện ngắn trong sự nghiệp văn chương của Khái Hưng, Lê Dục Tú khẳng định: “Có thể nói truyện ngắn là thể loại đầu tiên Khái Hưng trình làng trước công chúng. Trên báo Phong Hóa và Ngày Nay những năm đầu hầu như tuần nào Khái Hưng cũng đăng một truyện ngắn. Trong vòng mười năm ông đã đăng đến hàng trăm truyện ngắn. Một số truyện ngắn đầu tay của Khái Hưng khi ra đời đã được coi là “món ăn ngon và lạ” cải thiện cho khẩu vị đọc của người dân thị thành. Truyện ngắn “Bên dòng Hương giang” được in lần đầu tiên trên báo Phong Hóa ngày 31/3/1932 và tập truyện ngắn “Dọc đường gió bụi” ra đời năm 1936 đã nhận được sự cổ vũ nồng nhiệt của công chúng” [189] Hai ý kiến trên (của Phạm Thế Ngũ và Lê Dục Tú) đã gặp nhau ở một điểm quan trọng: Cả Nhất Linh, Khái Hưng đều khởi nghiệp bằng việc viết truyện ngắn. Và trước, trong khi trở thành tác giả của những thiên tiểu thuyết nổi tiếng một thời, Nhất Linh, Khái Hưng đã và đang là những cây bút viết truyện ngắn có thứ hạng trên văn đàn công khai 1930-1945. Như thế xét từ một góc độ nào đó, với hai ông và độc giả đương thời, viết và đọc truyện ngắn có thể xem là một sự chuẩn bị, tập dượt cho viết và đọc tiểu thuyết. Về đặc điểm nổi bật của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng: Cùng thời với Nhất Linh, Khái Hưng, Vũ Ngọc Phan nhấn mạnh vẻ đẹp giản dị, sức chinh phục độc giả ở kĩ thuật dựng truyện, hành văn của Khái Hưng. Trong Nhà văn hiện đại, ông viết: “Về truyện ngắn, Khái Hưng viết tuyệt hay. Người ta thấy phần nhiều truyện ngắn của ông lại có vẻ linh hoạt và cảm người đọc hơn cả truyện dài của ông. Truyện ngắn của Thạch
  9. Lam và Đỗ Đức Thu ngả về mặt sầu cảm và kín đáo bao nhiêu thì truyện ngắn của Khái Hưng vui tươi và rộng mở thế ấy, nhưng không phải cái vui thái quá như những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan đâu. Ngay ở những truyện buồn của Khái Hưng, người ta cũng chỉ thấy một thứ buồn man mác, không bao giờ là cái buồn ủ rũ như ở những truyện của Thạch Lam (…). Đọc những truyện ngắn của Khái Hưng, tôi nhận thấy nghệ thuật của ông là tìm cho ra những ý nghĩ đau đớn hay khoái lạc của mọi việc trên đời, rồi ghi lại bằng những lời văn gọn gàng, sáng suốt, làm cảm người ta bởi những việc mình dàn xếp, mình làm cho khi nổi khi chìm, chứ không phải cám dỗ người ta bởi những thuyết mà mình tưởng là cao cả ”.[141, tr.770] Nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ còn chia truyện ngắn của Khái Hưng ra làm hai loại: “một loại nhẹ, truyện vui, truyện phiếm, đăng vừa một cột báo, in lên hai ba trang sách, không có ý nghĩa gì sâu xa” [136, tr.477] và “một loại nặng, đứng đắn, rộng kích thước hơn, viết công phu hơn, đặt ra một vấn đề luận lý, xã hội, đưa ra một mẩu tâm lý, một mảng sinh hoạt, bắt người ta phải suy nghĩ, đôi khi phải cảm động đau thương”. [136, tr.477] Trước khi hai tuyển tập truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng ra đời (2002; 2004), Có thể thấy rằng hầu như các công trình nghiên cứu của Vũ Ngọc Phan, Phan Cự Đệ, Phạm Thế Ngũ, Lê Thị Dục Tú,… đều ghi nhận những đóng góp về truyện ngắn của Nhất Linh và Khái Hưng cho sự tiến bộ của văn học nước nhà. Song, các nhà nghiên cứu vẫn chưa có điều kiện để thực sự đi vào nghiên cứu một cách chuyên sâu. Điều này có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có lẽ một phần là do truyện ngắn của hai ông bị chìm đi sau tiếng vang tiểu thuyết của họ. Sau 2000-2004 đáng chú ý trước hết là các Lời dẫn, Lời giới thiệu tuyển tập truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng. Trong Lời giới thiệu tuyển tập Nhất Linh truyện ngắn, Trịnh Bá Đĩnh cho rằng: “Về sáng tác, Nhất Linh từng viết ở nhiều thể loại: thơ, phóng sự, khảo luận, phê bình, tuy nhiên ngòi bút của ông chủ yếu vẫn là để sáng tạo văn xuôi – truyện ngắn và tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết. Nhất Linh thuộc vào số những nhà cách tân tiểu thuyết quan trọng của văn học ta” [39, tr.6-7]. Về ngôn ngữ nghệ thuật, Trịnh Bá Đĩnh khẳng định: “Nhất Linh viết văn theo các thể loại của văn học Âu Tây, xây dựng nhân vật, kết cấu truyện… theo lối của các nhà văn Châu Âu. Văn phong của ông là sự áp dụng lối tổ chức ngữ pháp Tây phương vào tiếng Việt: Lôgích chặt chẽ, sáng sủa và cực kỳ giản dị (…) Nhà văn đã sử dụng những phương tiện nghệ thuật phương Tây để xây dựng tâm hồn phương Đông” [39, tr.8]. Tuy vậy, “Chất thơ của Giấc mộng Từ Lâm, Lan rừng… là chất thơ của loại truyện truyền kỳ, truyện Liêu trai. Còn con bướm trắng trong hoài niệm của Trương cũng là con bướm trắng trong giấc mộng Trang Chu chất thơ đó chính là cái Đẹp, cái Đẹp hiện hữu nhưng khó nắm bắt, nó như con bướm trắng luôn chập chờn bay trong không gian và thời gian của thhế giới nghệ thuật Nhất Linh” [39, tr. 9].
  10. Về sức sống của tác phẩm Nhất Linh, nhà nghiên cứu, người làm tuyển tập truyện ngắn Nhất Linh quả quyết rằng sáng tác của nhà văn này “vừa là tiếng nói của một thời vừa là tiếng nói của không chỉ một thời” [39, tr.10]. Trong Lời dẫn của nhóm sưu tầm, biên soạn tuyển tập Truyện ngắn Khái Hưng, các tác giả khẳng định: “Bên cạnh cây bút tiểu thuyết tài hoa, Khái Hưng (1986-1947) đồng thời còn là một tác giả truyện ngắn dồi dào sức lực, thường xuyên có truyện in Phong Hóa, Ngày Nay, và ngay từ trước 1945, đã được tập hợp một phần trong các tập…” [59, tr.5]; truyện ngắn là “một lĩnh vực mà ngòi bút của ông liên tục làm việc và có nhiều thành tựu đáng ghi nhận” [59, tr.5]. Về việc phân loại, tác giả Lời dẫn cũng cho rằng sáng tác truyện ngắn của Khái Hưng “bao gồm truyện sinh hoạt, truyện lịch sử, truyện viết theo lối truyện kể dân gian và truyện viết bằng bút pháp hiện đại” [59, tr.5]. Trong một số bài viết gần đây, như “Chuyên nghiệp hóa sáng tác – một đòi hỏi tất yếu của công cuộc hiện đại hóa văn học Việt Nam trước 1945” [168], “Mấy ghi nhận về tương tác tiểu thuyết truyện ngắn và sự biến đổi nòng cốt của hai thể loại này” [169], “Tự Lực Văn Đoàn – những lằn ranh văn học” [170], Nguyễn Thành Thi cũng đề cập nhiều đến sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng, đặc biệt là sáng tác truyện ngắn. Trong đó có nhiều ý kiến, luận điểm rất đáng chú ý. Theo Nguyễn Thành Thi, nhìn chung, thế mạnh của truyện ngắn Nhất Linh là “khám phá, miêu tả tâm lý” và khả năng “lồng vào truyện những ý tưởng luận đề”; trong khi đó, Khái Hưng lại “thường chú trọng đặc biệt đến ngôn ngữ đối thoại và luôn có ý thức miêu tả giọng điệu, lời nói của các loại nhân vật, các hạng người trong xã hội” [168]; hoặc: “trong kĩ thuật truyện ngắn, Nhất Linh, với năng lực ưu trội trong việc đi sâu vào thế giới tinh thần cá nhân của con người, thường nghiêng về những tìm tòi thể nghiệm miêu tả tâm lý, kĩ thuật phô diễn tiếng nói nội tâm của nhân vật (ngay cả khi ông dùng đến các chất liệu kì ảo)”[168], và: “Khái Hưng, với năng lực ngữ cảm và các nhận xét tinh tế ít nhiều mang tính chất “siêu ngôn ngữ” [168]. Nhà nghiên cứu còn phân tích, minh chứng thêm: Khái Hưng “hay để cho người kể chuyện trong truyện ngắn của ông nhận xét về nhạc tính, âm hưởng riêng trong ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Trong truyện Cô hàng nước chẳng hạn, nhân vật xưng tôi tên Ban nhận thấy qua những mẩu đối thoại của nhân vật “cô hàng nước” “tiếng nói vùng bể rất nặng và đầy những tiếng thanh ngang, khiến Ban phải mỉm cười”. Hơn thế, cũng như nhân vật tôi, “cô hàng nước” nơi thôn dã này còn phân biệt rạch ròi cách dùng từ cô hay bà trong “cô tú” (bản thân người phụ nữ đã thi đỗ tú tài) với “bà tú” (người phụ nữ là vợ của người thi đỗ tú tài)” [169, tr.70] Về mặt loại hình và đặc điểm thể tài của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng, trong Tự Lực Văn Đoàn – những lằn ranh văn học, bài viết gần đây nhất [170], Nguyễn Thành Thi đề xuất phân loại tiểu thuyết Nhất Linh Khái Hưng thành ba loại hình thể tài: 1) tiểu thuyết luận đề, 2) tiểu thuyết phân tích xã hội, 3) tiểu thuyết phân tích tâm lý và, theo đó, ông phân truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng thành bốn khuynh hướng thể tài: 1) truyện ngắn thiên về
  11. kuynh hướng luận đề; 2) truyện ngắn thiên về khuynh hướng phân tích xã hội; 3) truyện ngắn thiên về khuynh hướng phân tích tâm lý và 4) truyện ngắn có khuynh hướng tổng hợp loại hình [170]. Về tính quá trình và sự tương tác thể loại trong sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng, đặc biệt là Nhất Linh, Nguyễn Thành Thi, cho rằng: “hành trình hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa truyện ngắn của Nhất Linh không có đứt đoạn. Từ Người quay tơ (1927), qua Anh phải sống (1934), đến Tối tăm (1936), Hai buổi chiều vàng (1937), Mối tình chân (1948-1950) là một hành trình liên tục. Hành trình tiểu thuyết của Nhất Linh từ Nho phong qua Đoạn tuyệt, đến Bướm trắng đã vận động trong sự tương tác với hành trình liên tục nói trên ở lĩnh vực truyện ngắn”. [168, tr.69]. Các ý kiến trên đây, nhất là của Vũ Ngọc Phan, Phạm Thế Ngũ, Lê Thị Dục Tú, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thành Thi,… thực sự là những gợi ý quan trọng đối với tác giả luận văn khi thực hiện đề tài “Truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong văn xuôi nghệ thuật Tự Lực Văn Đoàn”. Chung quy, theo tổng hợp chúng tôi, từ các công trình, ý kiến đề cập đến truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng mà luận văn đã lược thuật trên đây, có thể rút ra mấy điểm quan trọng, rất có ý nghĩa đối với việc định hướng và tiếp tục nghiên cứu của luận văn này: Thứ nhất: truyện ngắn là một bộ phận sáng tác có giá trị trong sáng tác văn chương của Nhất Linh, Khái Hưng, đáng được tiếp tục nghiên cứu một cách đầy đủ sâu sắc hơn; Thứ hai: truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng đều có những nét đặc sắc riêng, khá nhất quán, tương hợp với lối viết tiểu thuyết của hai ông; Thứ ba: nghiên cứu truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng không thể và không nên tách rời khỏi bối cảnh không khí chung trong sáng tác tiểu thuyết của hai ông, cũng như bối cảnh, không khí sáng tác VXNT của TLVĐ. Tất nhiên, việc tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, khoa học hơn về truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng là hết sức cần thiết. Trên tinh thần tiếp thu thành quả của người đi trước, tác giả luận văn hy vọng rằng với việc hoàn thành đề tài Truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong văn xuôi nghệ thuật Tự Lực Văn Đoàn, việc nghiên cứu truyện ngắn của hai ông sẽ được đẩy xa thêm một bước nữa. 4. Phương pháp nghiên cứu  Phương pháp loại hình  Phương pháp hệ thống  Phương pháp so sánh
  12.  Phương pháp thi pháp học Sử dụng thao tác thống kê… 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Luận văn cố gắng nghiên cứu một cách có hệ thống những đóng góp cùng hạn chế của Nhất Linh, Khái Hưng về truyện ngắn, đặt trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Tiếp thu ý kiến bàn về truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng của những người đi trước, chọn cách trình bày từ góc độ nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn và những đóng góp quan trọng trong nội dung và nghệ thuật viết truyện ngắn của hai nhà văn đối với tiến trình phát triển của văn học hiện đại Việt Nam nói chung và truyện ngắn nói riêng. Người viết có ý thức khảo sát một cách nhất quán đặc điểm nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng. Cách xem xét này giúp ta hình dung được toàn bộ đặc điểm truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng không phải như một tổng số các đặc điểm rời rạc mà như một chỉnh thể thống nhất các nét độc đáo xuyên suốt nội dung và hình thức các tác phẩm của hai ông. Bằng việc nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng, luận văn góp thêm một tiếng nói khẳng định những đóng góp và vị trí của nhà văn trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam hiện đại. 6. Cấu trúc của luận văn: Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, nội dung cơ bản của luận văn được trình bày theo ba chương, với các nội dung chủ yếu sau đây: Chương 1 với nhan đề NHẤT LINH, KHÁI HƯNG NHƯ LÀ NHỮNG NHÀ VĂN VIẾT TRUYỆN NGẮN HIỆN ĐẠI, sau khi giới thuyết một số khái niệm công cụ, tập trung xác định vị trí, tầm vóc của truyện ngắn trong sáng tác VXNT của Nhất Linh, Khái Hưng nói riêng, TLVĐ nói chung. Chương 2 với nhan đề NỘI DUNG TRUYỆN NGẮN NHẤT LINH, KHÁI HƯNG TRONG KHUYNH HƯỚNG TƯ TƯỞNG CỦA TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN, luận văn tập trung miêu tả đặc điểm nội dung, cảm hứng, xu hướng tư tưởng của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong khuynh hướng tư tưởng của tiểu thuyết TLVĐ. Chương 3, với nhan đề CÁC LOẠI HÌNH TRUYỆN NGẮN NHẤT LINH, KHÁI HƯNG TRONG TƯƠNG QUAN VỚI CÁC LOẠI HÌNH TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN, luận văn vận dụng phương pháp nghiên cứu loại hình, lý thuyết tự sự học để xác định, miêu tả đặc điểm cấu trúc truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng theo các khuynh hướng thể tài chủ yếu cũng như đặc điểm diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn của hai ông.
  13. CHƯƠNG I NHẤT LINH, KHÁI HƯNG NHƯ LÀ NHỮNG NHÀ VĂN VIẾT TRUYỆN NGẮN HIỆN ĐẠI 1.1. Truyện ngắn và nhìn chung về truyện ngắn hiện đại Việt Nam trước 1945 1.1.1. Truyện ngắn – khái niệm, đặc trưng 1.1.1.1. Truyện ngắn là một khái niệm quen thuộc nhưng cách hiểu về nó không đơn giản. Nhiều nhà nghiên cứu lý luận phê bình (trên thế giới như Antônốp, Gulaiép, D.Grojnowski, Pospelốp; ở Việt Nam như Lê Bá Hán, Vương Trí Nhàn, Trần Đình Sử, Bùi Việt Thắng,…) đã đưa cách hiểu và đề xuất định nghĩa riêng của mình. Tuy vậy, dù cách diễn đạt khác nhau thì hầu hết, nói đến truyện ngắn, người ta đều dễ dàng thừa nhận cái lõi, cái nòng cốt của thể loại này: - Truyện ngắn là tác phẩm thuộc loại hình tự sự cỡ nhỏ. - Phạm vi phản ánh của truyện ngắn khá rộng (có thể bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi nhưng cái độc đáo là ngắn). Một trong những xác định súc tích và khá chuẩn về truyện ngắn là định nghĩa của Lại Nguyên Ân: “Một thể loại tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các phương diện của đời sống con người và xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là dung lượng; tác phẩm truyện ngắn thích hợp với việc người tiếp nhận (độc giả) đọc nó liền một mạch không nghỉ”. [51, tr.1846-1847] Có chung tính chất là tự sự, ranh giới giữa truyện ngắn và tiểu thuyết khá mong manh. Nhiều người ghi nhận hiện tượng này: truyện ngắn “ít nhiều mang những đặc tính của tư duy tiểu thuyết” (Lại Nguyên Ân), là “một bộ phận của tiểu thuyết” (Bùi Việt Thắng), hay là “một dạng tiểu thuyết đặc biệt” (Vương Trí Nhàn). Các nhà văn, với trải nghiệm thực tế của mình, đã đưa ra những cảm nhận cụ thể và một số đúc kết đa dạng. Pautopxki đã phát biểu: “Truyện ngắn là truyện viết ngắn gọn, trong đó cái không bình thường hiện ra như một cái bình thường và cái gì bình thường hiện ra như một cái không bình thường” [137]. Aimatov chú ý đến đặc trưng lao động nghệ thuật: “Truyện ngắn giống như một thứ tranh khắc gỗ, lao động nghệ thuật ở đây đòi hỏi chặt chẽ, cô đúc, các phương tiện phải được tính toán một cách tinh tế, nét vẽ phải chính xác. Đây là một việc vô cùng tinh tế. Xoay xỏa trên một mảnh đất chật hẹp, đó chính là chỗ để cho truyện ngắn phân biệt với các thể tài khác”. [137, tr.146]. Nhấn mạnh đến chi tiết, Nguyễn Công Hoan cho rằng “Truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết” [159, tr.186]. Xuất phát từ những quan niệm tương đối thống nhất về truyện ngắn, chúng ta có thể nêu ra một số đặc trưng cơ bản của thể loại này.
  14. Truyện ngắn thuộc một kiểu tư duy mới mang cá tính sáng tạo, một cách nhìn cuộc đời, nắm bắt đời sống riêng mang tính chất thể loại. Đặc trưng đầu tiên, dễ thấy nhất của truyện ngắn là dung lượng nhỏ. Thế nào là nhỏ? Có thể nói, dung lượng thông thường của một truyện ngắn co dãn khoảng từ 3 đến 50 trang. Dưới con số 3 trang, người ta gọi là “truyện ngắn mini”, hoặc “truyện ngắn trong lòng bàn tay”; trên con số 50 trang, người ta gọi là truyện vừa, trên 100 trang là tiểu thuyết. Những cách gọi này tương ứng với các khái niệm đoản thiên tiểu thuyết (truyện ngắn) trung thiên tiểu thuyết (truyện vừa) trường thiên tiểu thuyết (truyện dài) vốn phổ biến ở Việt Nam vào thời kỳ đầu của văn xuôi tự sự hiện đại. Tuy nhiên tính chất “nhỏ” của truyện ngắn không chỉ nằm ở dung lượng, mà quan trọng hơn là những quy luật cấu tạo đặc thù của truyện ngắn. Do tính chất ngắn gọn, truyện ngắn được tổ chức bằng các phương thức và chất liệu đặc biệt. Về “cách nắm bắt cuộc sống của thể loại”, truyện ngắn không có tham vọng ôm vào mình một hiện thực rộng lớn, hoành tráng. “Ngắn ở đây đồng nghĩa với hàm súc, tinh lọc và hay” (Bùi Việt Thắng). Nguyên tắc chung nhất của truyện ngắn không cho phép“dồn ép” hoặc “nhồi nhét” rút gọn nội dung của một truyện dài, hoặc một hình thức tương đương như thế, thành truyện ngắn. Nếu ta đem cắt tỉa, gọt đẽo một tiểu thuyết vài ba trăm trang xuống chỉ còn vài chục trang thì cái thành phẩm đặc biệt này cũng không phải và không thể trở thành một truyện ngắn. Như vậy, ngắn gọn trong truyện ngắn là cái ngắn gọn tinh lọc và chặt chẽ. Sekhov, một bậc thầy truyện ngắn thế giới đã ví: Truyện ngắn cũng y như trên boong tàu quân sự, ở đó tất cả phải đâu vào đấy, không có cái gì được thừa. Khác với truyện dài và truyện vừa, truyện ngắn phải là “một lát cắt gọn ghẽ”, “toàn truyện là một cái vòng khép kín không dài quá, không ngắn quá, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào”. [153, tr.365]. Để đạt tới tầm cao và chiều sâu của ý tưởng mà vẫn sống động tự nhiên, truyện ngắn “phải lựa chọn được một cách nhìn và một điểm nhìn tập trung, giống như cái tiêu điểm của thấu kính, tập trung ánh sáng mặt trời để có thể đốt cháy đám bùi nhùi” [1, tr.42]. Các tác giả truyện ngắn thường hướng tới việc khắc hoạ một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay trong đời sống tâm hồn con người. Về tác động của truyện ngắn, do tính chất cô đúc, truyện ngắn có sức nén. Đỗ Chu cho rằng: “một truyện ngắn hay có thể làm cho người ta cười lớn hoặc ứa nước mắt” bởi vì “sức chứa trong truyện có thể rất nhiều, sức nổ rất lớn”. Thomas Mann khẳng định: Truyện ngắn tuy bé nhỏ, nhưng “những cái bé nhỏ đó cũng có sức chứa nội tại lớn lao, cũng có thể bao quát được toàn bộ đời sống, có thể đạt được kích thước anh hùng ca và có được tác dụng nghệ thuật chẳng khác gì một sáng tác đồ sộ khác”[146]. Tính nhanh nhạy, cập nhật cũng là một đặc trưng của truyện ngắn. Với đặc thù ngắn gọn, súc tích, dễ đọc, truyện ngắn thường gắn liền với hoạt động báo chí, có tác động mạnh mẽ, kịp thời tới cuộc sống. Để đạt được điều này, điều cốt yếu của truyện ngắn là phải “nhạy bén trước những đổi thay của cuộc sống” [137], truyện ngắn cần bắt nhịp nhanh với cuộc sống thời hiện tại. Truyện ngắn là thể loại thích hợp giúp nhà văn tìm hiểu về những vấn đề mới đang được đặt ra trong cuộc sống. Người ta có thể cho phép tiểu thuyết trở về khái quát
  15. một giai đoạn đã qua, nhưng truyện ngắn thì không thể làm thế. Truyện ngắn phải trực tiếp đả động đến điều mọi người đang suy nghĩ trong cuộc sống ngày hôm nay, cho dù chất liệu sử dụng trong tác phẩm là những điều xưa cũ. 1.1.1.2. Có thể rút ra một số nét riêng của các yếu tố cấu thành tác phẩm truyện ngắn trong sự đối chiếu với tác phẩm văn xuôi tự sự nói chung như sau: Cốt truyện: là yếu tố hết sức quan trọng của thể tự sự nói chung và truyện ngắn nói riêng. Song, khác với tiểu thuyết, cốt truyện của truyện ngắn “thường tự giới hạn về thời gian, không gian” (Lại Nguyên Ân). Nếu tiểu thuyết dõi theo cả một hay nhiều số phận nhân vật, và tái hiện một bức tranh xã hội rộng lớn, thì truyện ngắn, tập trung vào một khoảnh khắc, trong đó xây dựng một tình huống truyện. Tình huống chính là điểm giao cắt của nhiều yếu tố cùng một lúc, qua đó tính cách của nhân vật tức thì hiện ra và vấn đề đột nhiên được phơi mở. Nếu tiểu thuyết là cuộc đời trong sự trọn vẹn của nó thì truyện ngắn lại là một “mặt cắt của dòng đời”. Nếu tiểu thuyết “diễn tả một quá trình vận động của cuộc sống” thì truyện ngắn lại “tập trung vào một tình thế thể hiện một bước ngoặt, một trường hợp hay một tâm trạng nhân vật”, nếu tiểu thuyết “mở ra một diện” thì truyện ngắn “tập trung xoáy vào một điểm”.[159] Về cách thức tiếp cận cuộc sống, truyện ngắn cũng có những khác biệt, nó “khái quát cuộc sống theo chiều sâu, lấy điểm nối diện, lấy cái khoảnh khắc để nối cái vĩnh cửu”. [160] Về tính chất, điều đặc biệt ở truyện ngắn là cốt truyện của nó nhiều khi rất rõ nét, rất li kì, hấp dẫn nhưng cũng có khi không có, hoặc mờ nhạt. Thạch Lam là một nhà văn có nhiều tác phẩm có cốt truyện mơ hồ, “truyện mà không có chuyện” như thế. Vậy các yếu tố nào khác khiến cho truyện ngắn vẫn được chấp nhận khi thiếu vắng cốt truyện? Có lẽ, yếu tố đó chính là chi tiết, kết cấu, nhân vật của “hình thức nhỏ”. Ở truyện ngắn, chi tiết đóng vai trò rất quan trọng. Nó góp phần tạo dựng cảnh trí, không khí, tình huống và khắc họa tính cách, hành động, tâm tư, nhân vật. Nhận xét về điều này, nhà văn Nguyên Ngọc khẳng định: “Truyện ngắn có thể có cốt truyện, thậm chí cốt truyện li kì, gay cấn, kể được. Truyện ngắn cũng có thể chẳng có cốt truyện gì cả, không kể được nhưng truyện ngắn không thể nghèo chi tiết. Nó sẽ như nước lã”. [57, tr.33] Như vậy, vai trò của chi tiết trong truyện ngắn là hết sức quan trọng. Không chỉ vậy, nhiều chi tiết đắt giá có thể nâng tác phẩm lên đến “cấp độ tượng trưng, tạo sức ám ảnh” [159, tr. 84]. Là thể loại tự sự đòi hỏi một kết cấu chặt chẽ, kết cấu truyện ngắn cũng có những nét đặc thù riêng. Theo Nguyễn Minh Châu, “Cũng như kịch ngắn, truyện ngắn đòi hỏi người viết một công việc tổ chức và cấu trúc truyện hết sức nghiêm ngặt. Quả thực có một thứ kĩ thuật tinh xảo – kỹ thuật viết truyện ngắn. Nó cũng giống như kĩ thuật của người làm pháo,
  16. dồn nén tư tưởng vào trong một cốt truyện thật ngắn gọn, tự nhiên” [18, tr.251]. Nhiệm vụ của kết cấu là phải tổ chức tác phẩm sao cho chủ đề tập trung, tư tưởng thống nhất và thấm sâu vào toàn bộ các bộ phận của tác phẩm, kể cả những chi tiết nhỏ nhất. Nhân vật là một phương diện rất quan trọng của truyện ngắn. Ở các truyện ngắn đặc sắc, bao giờ các tác giả cũng xây dựng được những nhân vật điển hình. Nếu tiểu thuyết theo dõi, mô tả tỉ mỉ sự thăng trầm của số phận con người thì truyện ngắn chỉ tập trung ống kính vào một vài khoảnh khắc của đời người. Do ngắn, gọn, truyện ngắn thường “không có mấy nhân vật” [137, tr.25], “một hoặc hai nhân vật chính, kèm theo đôi ba nhân vật phụ” [137, tr.125], họ “chỉ cần có mặt với đôi đường nét mờ chìm như cảnh núi, cảnh sông” [137, tr.26]. Là một hình thức tự sự cỡ nhỏ, truyện ngắn thường hướng tới việc “thể hiện một bước ngoặt, một trường hợp, một trạng thái nhân vật” [159, tr. 73]. Một đặc điểm nữa của truyện ngắn là gắn liền với báo chí. Khuôn khổ báo chí quy định tính chất ngắn gọn của truyện ngắn. Vương Trí Nhàn cho rằng: “chỉ có một nơi thích ra lệnh cho tác giả về khuôn khổ và rất nghiệt ngã trong mệnh lệnh mình là báo chí”. Chính vì giới hạn trong một khuôn khổ như thế nên, truyện ngắn hiện đại “đòi hỏi người viết một sự lựa chọn dồn nén các chi tiết, sự kiện, nhân vật và cả những tư tưởng, tình cảm của tác giả lẫn sự biểu đạt ngôn ngữ văn bản nghệ thuật một cách nghiêm ngặt”. Từ những đặc trưng trên, có thể nói truyện ngắn là một thể loại dân chủ gần gũi với đời sống hàng ngày, súc tích, dễ đọc, có tác dụng ảnh hưởng kịp thời trong đời sống… Ngoài khái niệm then chốt là truyện ngắn, đã được giới thuyết như trên, có một và khái niệm khác cũng cần được giới thuyết với một nội hàm xác định: tiểu thuyết, văn xuôi nghệ thuật, văn hư cấu,… Văn xuôi nghệ thuật (đôi khi được gọi vắn tắt là văn xuôi): là khái niệm chỉ một tập hợp thể loại được sáng tạo một cách nghệ thuật (có tính nghệ thuật, đặc biệt là tính hư cấu và tính hình tượng) nói chung. Văn xuôi nghệ thuật sử dụng chung một loại chất liệu làm ngôn ngữ công cụ (văn xuôi). Văn xuôi nghệ thuật bao gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự (văn học), tự truyện, hồi kí, tùy bút, bút kí, tản văn,…Trong văn xuôi nghệ thuật, có những thể loại không hư cấu (non fiction) như bút kí, tùy bút,…; có những thể loại hư cấu (fiction), trong đó quan trọng nhất là tiểu thuyết và truyện ngắn. Đây là hai thể loại có “nòng cốt” gần gũi nhau nhất và cũng luôn nắm giữ vị trí chủ đạo của nền văn xuôi nghệ thuật. Vị thế tương tác giữa chúng cũng phổ biến, tinh tế và có tác dụng thúc đẩy văn học phát triển rõ hơn cả. Nếu truyện ngắn thuộc loại hình tự sự cỡ nhỏ thì tiểu thuyết thuộc loại hình tự sự cỡ lớn. Đây thực sự là hai thể loại chủ đạo của văn xuôi nghệ thuật. Tuy nhiên sự phân biệt ở đây chỉ có ý nghĩa tương đối, và điều đáng nói hơn là khi nghiên cứu hai thể loại văn học này, người ta không thể không quan tâm đến sự tương tác thể loại giữa truyện ngắn và tiểu thuyết. Nhà nghiên cứu trong khi nghiên cứu khảo sát các tác phẩm truyện ngắn hoàn toàn có thể tìm thấy ở đây những dấu hiệu kĩ thuật, thi pháp của tiểu thuyết và ngược lại, đúng như
  17. nhận định của Nguyễn Thành Thi trong Mấy ghi nhận về tương tác giữa tiểu thuyết và truyện ngắn và sự biến đổi nòng cốt của hai thể loại này [169, tr.49]. 1.1.2. Vài nét về truyện ngắn Việt Nam hiện đại trước 1945 Trong bức tranh chung của văn học hiện đại Việt Nam trước 1945, truyện ngắn là thể loại khá phát triển và có một diện mạo riêng, một tiến trình vận động khá rõ nét. Khi nhận định rằng truyện ngắn là “thể loại khá phát triển”, tác giả luận văn không chỉ căn cứ cả vào số lượng tác giả, tác phẩm mà còn căn cứ vào chất lượng và tính đa dạng về khuynh hướng tư tưởng thẩm mĩ của thể loại này. Có khuynh hướng lãng mạn chủ nghĩa (chủ yếu thuộc khu vực văn xuôi lãng mạn), có khuynh hướng hiện thực (chủ yếu thuộc khu vực văn học hiện thực phê phán); có khuynh hướng thuyết lý đạo đức, khuynh hướng luận đề, khuynh hướng hiện thực xã hội, khuynh hướng hiện thực tâm lý,… Về hình thức kĩ thuật tự sự, có khuynh hướng viết ngắn, có khuynh hướng viết dài, tiếp cận với truyện vừa, có tổng hợp kĩ thuật của tiểu thuyết, có yếu tố huyền thoại kì ảo, có yếu tố lịch sử, có yếu tố đồng thoại (truyện loài vật),… Sự phong phú của truyện ngắn cũng tương ứng với sự phong phú của tiểu thuyết, thậm chí sáng tác truyện ngắn đều hơn so với sáng tác tiểu thuyết. Và, sẽ là không quá lời khi cho rằng, trong nền văn xuôi Việt Nam, thể loại truyện ngắn có bề dày truyền thống và đạt nhiều thành tựu hơn thể loại tiểu thuyết. Quan sát sự hình thành và phát triển của truyện ngắn hiện đại Việt Nam, thấy có hai chặng đường chính sau đây: 1) Chặng sinh thành: cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX đến 1930 2) Chặng phát triển: từ 1930 đến 1945 Trong chặng “sinh thành” truyện ngắn Việt Nam hiện đại, phải kể đến vai trò nổi bật của các nhà văn Nguyễn Trọng Quản, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Tường Tam… Truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản là đoản thiên tiểu thuyết (truyện ngắn) Việt Nam hiện đại đầu tiên viết theo kiểu Tây phương. Vì Nguyễn Trọng Quản đã có điều kiện tiếp xúc với văn học Pháp từ trước 1890. Xuất hiện vào cuối những năm 80 của thế kỉ XIX, Truyện Thầy Lazaro Phiền là một hiện tượng quá mới mẻ đối với công chúng văn học miền Nam. “Truyện Thầy Lazaro Phiền có phần nào trở thành “con chim lạ từ phương Tây đáp xuống một vùng đất còn vắng bóng đồng loại” và “nổi lên như một ốc đảo chơi vơi vào nửa sau thế kỷ XIX không riêng ở Nam Kì mà ở cả Việt Nam” [45, tr.303]. Từ 1917 đến 1924, trên Nam Phong nổi lên chùm đoản thiên tiểu thuyết của Nguyễn Bá Học (9 truyện ), Phạm Duy Tốn (3 truyện), Mân Châu Nguyễn Mạnh Bổng (Vì nghĩa
  18. quên tình: 7 truyện, năm 1921; Anh hàng phở lấy cô đầu: 8 truyện, năm 1928). Đây là những truyện ngắn thời kì đầu của các khuynh hướng hiện thực phê phán, lãng mạn thoát ly (Phạm Duy Tốn, Tản Đà). Nguyễn Bá Học vốn là một nhà nho, văn chương của ông dùng nhiều chữ Hán, đầy rẫy tính chất biền ngẫu, du dương. Những tác phẩm của ông mang khuynh hướng hiện thực đôi khi lẫn với khuynh hướng đạo đức. Một cảnh gia đình nêu cao lòng yêu thương đùm bọc giữa vợ chồng; Câu chuyện gia tình đả kích thói cờ bạc rượu chè; Cô Chiêu Nhì chỉ trích tính xa hoa, lười biếng, ỷ lại; truyện ngắn có giá trị nhất của Nguyễn Bá Học là Câu chuyện một tối của người tân hôn (1921). Phạm Duy Tốn ảnh hưởng của văn Pháp nhiều, ông viết những truyện ngắn như: Con người Sở Khanh, Bực mình, Nước đời lắm nỗi… Nổi tiếng nhất là Sống chết mặc bay (1918). Tác phẩm thuật về một chuyện vỡ đê: quan huyện và nha lại đi hộ đê đóng trong một ngôi đình kiên cố và ung dung nhàn nhã đánh tổ tôm. Trong lúc đó, nhân dân đói khát đang ra sức vật lộn với nước. Nhưng sức nước quá mạnh, đê vỡ. Có người vào báo, quan cứ mặc kệ vì quan đang mê mải theo ván bài. Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) trước khi thành lập Tự lực Văn đoàn và chủ trương Phong Hóa, Ngày Nay đã viết cả tiểu thuyết và truyện ngắn. Riêng về truyện ngắn, thời gian này ông có hơn chục tác phẩm, sau được in chung trong tập Người quay tơ. Về tư tưởng, tập truyện vừa có khuynh hướng hiện thực (Nô lệ), vừa có khuynh hướng lãng mạn (Giấc mộng Từ Lâm), lại có cả khuynh hướng yêu nước (Người quay tơ). Xét trên nhiều phương diện, nhất là về kĩ thuật, hình thức, tác giả luận văn xem đây là một hiện tượng và là bước chuẩn bị quan trọng cho nội dung, phương thức tự sự của Nhất Linh và Tự lực văn đoàn sau đó không lâu. (Tiếc rằng nhiều người đánh giá chưa thích đáng về ý nghĩa lịch sử các truyện ngắn này, từ phương diện xây dựng thể tài.) Trong chặng “phát triển” của truyện ngắn Việt Nam trước 1945, phải kể đến vai trò của các nhà văn thuộc cả hai khuynh hướng lãng mạn chủ nghĩa và hiện thực phê phán. Giữ vai trò nổi bật ở khuynh hướng thứ nhất của quá trình phát triển truyện ngắn – khuynh hướng lãng mạn chủ nghĩa – là các nhà văn: Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Thế Lữ, Nguyễn Tuân, Hồ Dzếnh, Đỗ Tốn, Thanh Tịnh, Thanh Châu, Ngọc Giao, Xuân Diệu… Giữ vai trò nổi bật ở khuynh hướng thứ hai – khuynh hướng hiện thực phê phán – là các nhà văn: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao, Bùi Hiển, Tô Hoài, Kim Lân, … Năm 1930, Tản Đà mở mục Việt Nam nhị thập thế kỉ Xã hội ba đào kí trên Annam tạp chí. Từ 1930 đến 1932, Nguyễn Công Hoan viết 24 truyện ngắn, trong đó có 20 truyện đăng trên mục Xã hội ba đào kí (chiếm hơn một nửa tổng số truyện ngắn đăng trên mục này). “Nguyễn Công Hoan trở thành một nhà văn sáng giá những năm đầu thập niên 30 thế kỉ
  19. trước, là người cắm ngọn cờ đầu của chủ nghĩa hiện thực phê phán trong lĩnh vực truyện ngắn.” [37, tr.289]. Nguyễn Công Hoan được xem là người đầu tiên viết truyện ngắn theo khuynh hướng hiện thực phê phán và sớm đạt được thành tựu đáng được ghi nhận. Các tập truyện ngắn có giá trị của ông là Ngựa người người ngựa (1934), Kép tư bền (1935)… Nhìn thẳng vào hiện thực, bằng tiếng cười trào phúng, Nguyễn Công Hoan phơi ra mặt trái của xã hội đầy bất công thối nát, kẻ giàu phè phỡn, vô đạo, còn người nghèo thì bị ức hiếp và đói khổ cùng cực. Riêng tập Kép tư bền, gồm 15 truyện ngắn sáng tác trong khoảng 1929 – 1935, đã gây tiếng vang lớn, được Hải Triều biểu dương nhiệt liệt, coi tập truyện này là “tác phẩm thuộc về trào lưu tả thực xã hội của nước ta”. Tiếp đó là đóng góp của hàng loạt tác giả hiện thực phê phán. Vũ Trọng Phụng tuy chủ yếu là cây bút tiểu thuyết, song các truyện ngắn của ông cũng đặc sắc và giàu ý nghĩa phê phán hiện thực (Bộ răng vàng, Một đồng bạc, Bà lão lòa…). Nguyên Hồng cũng có nhiều truyện ngắn viết theo cảm quan hiện thực xuất sắc, cảm động (Mợ Du, Con chó vàng, Miếng bánh,…). Bùi Hiển viết nhiều truyện ngắn đặc sắc về hiện thực đời sống dân quê ở một làng chài thuộc dải đất miền trung (Nằm vạ, Ma đậu, Chiều sương). Ở trên, luận văn đã nói đến sự phong phú đa dạng về tính khuynh hướng và liệt kê cá khuynh hướng ấy. [“Có khuynh hướng lãng mạn chủ nghĩa (chủ yếu thuộc khu vực văn xuôi lãng mạn), có khuynh hướng hiện thực (chủ yếu thuộc khu vực văn học hiện thực phê phán); có khuynh hướng thuyết lý đạo đức, khuynh hướng luận đề, khuynh hướng hiện thực xã hội, khuynh hướng hiện thực tâm lý,… Về hình thức kĩ thuật tự sự, có khuynh hướng viết ngắn, có khuynh hướng viết dài, tiếp cận với truyện vừa, có tổng hợp kĩ thuật của tiểu thuyết, có yếu tố huyền thoại kì ảo, có yếu tố lịch sử, có yếu tố đồng thoại (truyện loài vật),…”] . Đến đây phải nói rõ hơn rằng, sự phong phú đa dạng về khuynh hướng này chủ yếu bộc lộ ở chặng “phát triển” của truyện ngắn quốc ngữ Việt Nam (1930-1945). Và, trong sự tương tác thể loại, còn đáng ghi nhận sự phong phú về mặt loại hình của truyện ngắn: truyện ngắn “trữ tình hóa” (tiêu biểu là truyện của Thạch Lam, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh), truyện ngắn “kịch hóa” (tiêu biểu là truyện của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Pụng), truyện ngắn “tiểu thuyết hóa” (tiêu biểu là các truyện của Nam Cao như Đời thừa, Trăng sáng, Chí Phèo, Nửa đêm,…). Trong khuynh hướng “trữ tình hóa”, các truyện ngắn trong tập Chân trời cũ của Hồ Dzếnh lại có một dòng chảy riêng: truyện ngắn tự truyện. Nhịp độ phát triển về lượng của truyện ngắn quốc ngữ cũng mau lẹ khẩn trương. Theo thống kê trong Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (Vũ Tuấn Anh – Bích Thu, Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam; NXB Văn học, H., 2001) thì trong khoảng từ 1933 đến 1945, truyện ngắn xuất bản trên phạm vi cả nước có 51 tập (540 đơn vị tác phẩm).
  20. Riêng sáng tác của Tự lực văn đoàn đã có 16 tập truyện ngắn (151 đơn vị tác phẩm). Thạch Lam xuất bản 3 tập (33 truyện) và khoảng 17 truyện ngắn mới chỉ đăng báo. Nhất Linh xuất bản 6 tập, và Khái Hưng xuất bản 7 tập cùng rất nhiều truyện ngắn đăng báo khác. 1.2. Truyện ngắn – một bộ phận sáng tác quan trọng và có thành tựu đáng ghi nhận trong sự nghiệp văn học của Nhất Linh, Khái Hưng 1.2.1. Tự Lực Văn Đoàn như là một tổ chức văn học Tự Lực Văn Đoàn là một tổ chức văn học hiện đại, được thành lập và hoạt động khá hiệu quả, trong vòng một thập niên (1932-1942), có thành tựu và ảnh hưởng lớn sự phát triển của văn học hiện đại Việt Nam, nửa đầu thế kỉ XX. Tự Lực Văn Đoàn có tôn chỉ, mục đích riêng, có nhà in riêng (Đời Nay) cùng cơ quan ngôn luận riêng (Phong Hóa, Ngày Nay). Tự Lực Văn Đoàn gồm 7 thành viên chính thức: Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo), Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam), Trần Khánh Giư (Khái Hưng), Ngô Xuân Diệu (Xuân Diệu), Nguyễn Thứ Lễ (Thế Lữ), Hồ Trọng Hiếu (Tú Mỡ). Cùng với các thành viên chính thức nói trên, Tự Lực Văn Đoàn tập hợp được cả một đội ngũ cộng tác viên chọn lọc, có uy tín trên nhiều lĩnh vực sáng tác nghệ thuật: văn, thơ, nhạc, họa. Cho đến nay, các nghiên cứu về TLVĐ của các nhà Việt học đã có bề dày và khá thống nhất. Luận văn này không nhắc lại nữa, chỉ xin lưu ý mấy điểm sau: Thứ nhất. Cần phải nói ngay rằng, hoạt động của TLVĐ trên thực tế đã vượt ra ngoài khuôn khổ, phạm vi văn học. Về thực chất là một tổ chức văn hóa xã hội, hoạt động văn học của TLVĐ vừa là phương tiện, vừa là nội dung. Mặc dầu khó lòng tách bạch hoạt động văn hóa xã hội và hoạt động văn học của nhóm – cũng như khó lòng mà tách bạch được trong các sáng tác văn học của các nhà văn trụ cột, các thành viên chính thức của TLVĐ, đâu là phương tiện, đâu là nội dung hoạt động. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, tác giả sẽ cố gắng tập trung vào hoạt động sáng tác của tổ chức này từ góc độ một tổ chức văn học. Nói cách khác, sẽ chỉ nhìn Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, như là những người sáng tác văn học, những nhà văn. Thứ hai. Các đánh giá về đóng góp của văn chương LLVĐ trước đây vì nhiều lý do khách quan và chủ quan còn có nhiều điểm bất hợp lý, thậm chí bất công. Về sau có được điều chỉnh. Nhà văn TLVĐ được nhìn nhận từ phương diện giai cấp, thế giới quan tiểu tư sản: “Họ là những nhà văn tiểu tư sản thức thời, có tinh thần dân tộc, có một lý tưởng thực tiễn, là dựa vào những điều kiện cụ thể để hoạt động và làm ăn bằng văn học. Hoạt động và làm ăn bằng văn học có nghĩa là viết lách được thường xuyên về đề tài xã hội, và xuất bản được, để có thể lự lực sống bằng lao động nghệ thuật của mình, không phải ngửa tay lĩnh lương hằng tháng của chính quyền Pháp. Muốn thế, phải biết thị hiếu của lớp độc giả mới,
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0