VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN KIM OANH

TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI

CHẤP HÀNH XONG HÌNH PHẠT TÙ TỪ THỰC

TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN KIM OANH

TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI

CHẤP HÀNH XONG HÌNH PHẠT TÙ TỪ THỰC TIỄN

TỈNH BẮC NINH

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN KHẮC HẢI

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của

riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,

chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng

được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Kim Oanh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP

LUẬT VỀ TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI CHẤP HÀNH

XONG HÌNH PHẠT TÙ .......................................................................................... 6

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của tái hòa nhập cộng đồng ........................... 6

1.2 Những định hướng của Đảng và Pháp luật của nhà nước về tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt tù. ........................................... 16

1.3 Mô hình của một số nước về tái hòa nhập cộng đồng .................................. 22

Chương 2: THỰC TRẠNG TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐÔNG CỦA NGƯỜI

CHẤP HÀNH XONG HÌNH PHẠT TÙ TỈNH BẮC NINH GIAI ĐOẠN

TỪ NĂM 2015 -2019 ............................................................................................... 28

2.1. Đánh giá về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội tại tinh Bắc Ninh liên

quan đến hoạt động tái hòa nhập cộng đồng. ..................................................... 28

2.2. Những kết quả đạt được trong công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với

người chấp hành xong hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh ......................... 31

2.3. Những khó khăn , vướng mắc trong công tác tái hòa nhập cộng đồng

đối với người chấp hành xong hình phạt tù của tỉnh Bắc Ninh và các nguyên

nhân cơ bản. ........................................................................................................ 41

Chương 3: NHỮNG CƠ SỞ, GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN

PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG HOẠT ĐỘNG TÁI

HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG HÌNH

PHẠT TÙ TẠI TỈNH BẮC NINH ......................................................................... 56

3.1 Những cơ sở và định hướng hoàn thiện pháp luật về tái hòa nhập cộng

đồng của người chấp hành xong hình phạt tù ..................................................... 56

3.2 Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về hoạt động tái hòa nhập cộng

đồng của người chấp hành xong hình phạt tù. .................................................... 61

3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác tái hòa nhập cộng đồng

đối với người chấp hành xong hình phạt tù. ....................................................... 65

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Sổ liệu tái hòa nhập xã hội tại Bắc Ninh từ năm 2015-2019 ........ 32

Bảng 2.2 Bảng số liệu về đặc xá từ năm 2015 đến 2019 tại Bắc Ninh ........... 35

MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài

Pháp luật hình sự là một trong những công cụ quan trọng của Nhà

nước dùng để đấu tranh và phòng chống tội phạm góp phần bảo vệ bảo vệ

quyền và lợi ích của Nhà nước, của nhân dân, duy trì ổn định trật tự xã hội và

bảo vệ các quyền cơ bản của con người. Đảng và Nhà nước ta cũng rất trú tâm

đến hoạt động tái hòa nhập cộng đồng và cũng đã được thể chế hóa trong các

văn bản pháp luật liên quan đến công tác tái hòa nhập cộng đồng, đồng thời

các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong

án phạt tù cũng được quy định ở rất nhiều văn bản khác nhau. Hội nghị lần

thứ 8 của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII nhấn mạnh “ Đối xử

nhân đạo với người bị phạt tù. Có chương trình dạy nghề cho phạm nhân và

giới thiệu việc làm cho họ sau khi ra tù, giúp họ nhanh chóng tái hòa nhập

cộng đồng” [1]. Tái hòa nhập cộng đồng cũng liên quan đến nhiều cơ quan,

ban ngành và toàn xã hội. Khoản 2 điều 44 Luật thi hành án hình sự 2019 quy

định “Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp

huyện phối hợp với gia đình phạm nhân, chính quyền địa phương, cơ quan, tổ

chức, cá nhân quan tâm động viên phạm nhân tích cực học tập, lao động, rèn

luyện để được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước; hỗ trợ các hoạt động giáo

dục, dạy nghề cho phạm nhân và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để phạm

nhân tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù” [2]. Tuy

nhiên có thể nói đây vừa là quyền vừa là trách nhiệm của các cơ quan có thẩm

quyền nhằm góp phần đưa người phạm tội trở về cuộc sống lương thiện, ổn

định an ninh, trật tự địa phương là minh chứng cho đường lối đúng đắn của

Đảng và Nhà nước.

Từ các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động tái hòa nhập cộng

đồng được pháp luật quy định, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Đảng và chính

quyền địa phương đang vận động mọi nguồn lực có thể để giải quyết các vấn

1

đề xã hội trong đó có vấn đề tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành

xong hình phạt tù để khi quay về trở thành người có ích cho xã hội, cho cộng

đồng. Tuy nhiên, theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh từ

năm 2015 đến năm 2019 số người tái phạm, tái phạm nguy hiểm ngày càng

gia tăng với mức độ, tính chất ngày một tinh vi và nguy hiểm hơn.

Sau khi trở về với cuộc sống đời thường câu hỏi đặt ra là liệu người

mãn hạn tù có thực sự hòa nhập được với gia cộng đồng, trở thành người công

dân có ích cho xã hội và ổn định được cuộc sống hay không? Đây là vấn đề

mà toàn xã hội cùng quan tâm chứ không của riêng bất kì ai. Giai đoạn này là

giai đoạn sau của thi hành án phạt tù, kết quả của nó sẽ là thước đo sự hiệu

quả của việc giáo dục, cải tạo trong trại giam đối với người phạm tội. Bản

thân người chấp hành xong hình phạt tù trở về họ rất cần sự giúp đỡ của cộng

đồng để có thể nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng.

Đảng và Nhà nước, các cấp chính quyền, các cơ quan chức năng, gia

đình và cộng đồng xã hội rất chú trọng tới công tác giáo dục cải tạo, tạo mọi

điều kiện giúp cho quá trình tái hoàn lương của người mãn hạn tù với mục

đích đưa họ về cuộc sống bình thườngvà sống có ích nhưng trên thực tế vấn

đề này chưa thực sự được quan tâm. Vì vậy, khâu cuối cùng để thực hiện một

cách trọn vẹn và nói lên ý nghĩa của bản án nhằm mục đích cải tạo, giáo dục

phạm nhân, phòng ngừa tái phạm, góp phần ổn định an ninh, trật tự và phòng

chống tội phạm chính là hoạt động tái hòa nhập cộng đồng.

Xuất phát từ những lý do đó tôi đã lựa chọn đề tài “Tái hòa nhập cộng

đồng của người chấp hành xong hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”

làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Cho đến nay có nhiều công trình khoa học, sách giáo khoa, báo pháp lý

chuyên ngành trong nước nghiên cứu ở mức độ và bình diện khác nhau về tái

hòa nhập cộng đồng như:“Thực trạng và giải pháp trong công tác quản lý,

giúp đỡ người được đặc xá, mãn hạn tù trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn –

Đà Nẵng” của Nguyễn Lợi, “Thực tiễn tái hòa nhập xã hội của người mãn hạn

tù trên địa bàn quận Hai Bà Trưng”, của Đàm Thế Thành,Trần Thị Quang

Vinh (2005) Đại học luật Tp.HCM “Phòng ngừa tái phạm đối với người bị

kết án phạt tù”, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái hòa nhập cộng đồng

của công dân sau thời gian cải tạo, giam giữ” của tập thể tác giả Dương

Thanh Mai, Nguyễn Hữu Duyện, Ngô Văn Thâu, Nguyễn Hoàng Hà, Nguyễn

Văn Hiền, Nguyễn Quang Hưng.Võ Khánh Vinh và Cao Thị Oanh (2013)

“Giáo trình Luật Thi hành án hình sự Việt Nam”,Nguyễn Khắc Hải “tái hòa

nhập xã hội đối với người phạm tội” tạp chí nhân lực khoa học xã hội

(2019).Ngoài ra, còn một số bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Khắc Hải, Trần Hữu

Tráng, PGS.TS Võ Khánh Vinh, Hồ Sỹ Sơn… trên các tạp chí khoa học cùng

một số giáo trình giảng dạy ở các trường đại học chuyên ngành cũng đề cập

đến vấn đề này.

Tuy nhiên, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh tình hình tội phạm diễn ra ngày

càng nhiều, phức tạp, với tính chất mức độ ngày càng nguy hiểm, số người chấp

hành án phạt tù cao nhưng còn ít những nghiên cứu chuyên sâu nhằm nâng cao

hiệu quả áp dụng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động tái hòa nhập cộng đồng

tại tỉnh Bắc Ninh.

3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích của luận văn là làm rõmột số vấn đề về lý luận và những quy

định cụ thể của pháp luật Việt Nam đối với công tác tái hòa nhập cộng đồng.

Đánh giá thực trạng của hoạt động tái hòa nhập cộng đồng trên địa bàn tỉnh

Bắc Ninh trong giai đoạn từ năm 2015 đến 2019 nhằm làm rõ những hiệu quả

thực hiện, nguyên nhân tồn tại những hạn chế của hoạt động này. Đề xuất

những kiến nghị và giải pháp đểtiếp tục hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu

quả của hoạt động tái hòa nhập cộng đồng .

Để đạt được các mục tiêu trên, đề tài có những nhiệm vụ sau:

Một là, làm rõ hơn các vấn đề về lý luận và thực tiễn về công tác tái hòa

nhập xã hội như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa; các quy định của pháp luật hình

sự, tố tụng hình sự, thi hành án hình sự…và các văn bản pháp luật có liên quan

đến tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong hình phạt tù.

Hai là, đánh giá thực trạng công tác tái hòa nhập cộng đồng của người

chấp hành xong hình phạt tù trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong những năm gần

đây để tìm ra những thiếu sót, tồn tại và nguyên nhân của những thực trạng

trên từ đó xác định đúng đắn bản chất vấn đề. Đồng thời tác giả đưa ra một số

giải pháp phù hợp tiến tới hoàn thiện các quy định của pháp luật về tái hòa

nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong hình phạt tù.

4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề về lý luận và thực

tiễn của hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại tỉnh Bắc Ninh theo quy định

của pháp luật hiện hành: Hiến pháp, Thi hành án hình sự,Pháp luật hình sự,

Tố tụng hình sự. Luận văn nghiên cứu hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của

người chấp hành xong hình phạt tù trên cơ sở các những hoạt động tái hòa

nhập cộng đồng được tổ chứctrong và sau khi ra tù của phạm nhântrên địa

bàn.

Phạm vi nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh về số trường hợp mãn

hạn tù, đặc xá trở về với cộng đồng được tổng hợp từ năm 2015 đến 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp biện chứng khoa

học kết hợp với một số phương pháp phân tích, đối chiếu, tổng hợp, so sánh,

thống kê, khảo sát thực tế....cùng những luận điểm khoa học trong các công

trình nghiên cứu, các bài viết được đăng trên các tạp chí khoa học của một số

nhà khoa học Luật hình sự Việt Nam.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo

trong việc xây dựng và hoàn thiện Thi hành án hình sự,Luật hình sự, Tố tụng

hình sự về lĩnh vực tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình

phạt tù. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề

xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao

hiệu quả công tác tái hòa nhập xã hội đối với người mãn hạn tù trong giai

đoạn hiện nay .

Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống trên cơ sở lý luận

và thực tiễn hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình

phạt tù trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh tìm ra nguyên nhân của những hạn chế và

đưa ra giải pháp, kiến nghị góp phần khắc phục những hạn chế trong hoạt

động tái hòa nhập cộng đồng của tỉnh.

7. Kết cấu của luận văn

Nội dung của luận văn gồm 3 chương chính :

Chương 1. Một số vấn đề lý luận, chính sách và pháp luật về tái hòa

nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt tù.

Chương 2. Thực trạng về tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành

xong hình phạt tù tại tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019.

Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật hoạt động tái hòa nhập cộng

đồng của người chấp hành xong hình phạt tù.

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT VỀ

TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG

HÌNH PHẠT TÙ

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của tái hòa nhập cộng đồng

1.1.1 Khái niệm tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình

phạt tù

Quan niệm chung của Việt Nam hiện nay về vấn đề tái hòa nhập cộng

đồng chỉ đặt ra với những người vi phạm pháp luật hành chính, hình sự mà bị

cách ly khỏi cộng đồng trong một khoảng thời gian.Hệ thống chế tài của Việt

Nam quy địnhcác đối tượng bị cách ly khỏi xã hội gồm những đối tượng như:

Người bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân, người bị đưa cơ sở chữa bệnh,

cơ sở giáo dục, người bị đưa vào trường giáo dưỡng...Tái hòa nhập cộng đồng

là quá trình từ khi một người trở thành bị can, bị cáo, chấp hành án và mãn

hạn tù. Đề tài này tôi tập trung nghiên cứu về vấn đề tái hòa nhập cộng đồng

củangười chấp hành xong hình phạt tù vì họ cần một khoảng thời gian cụ thể

để có thể thích nghi lại với cuộc sống sau khi mãn hạn tù trở về với sự giúp

đỡ của gia đình, cộng đồng xã hội. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về

là một giai đoạn vô cùng khó khăn nhưng không phải quá khó nếu họ quyết

tâm làm lại cuộc đời, chuẩn bị tâm lý cùng với sự giúp đỡ của cộng động để

có thể tái hòa nhập.

Bộ luật hình sự không có khái niệm cụ thể về người chấp hành xong

hình phạt tù nhưng có thể hiểu nôm na người chấp hành hình phạt tù là người

đã bị kết tội và phải chịu hình phạt theo bản án đã có hiệu lực của pháp luật.

Còn người chấp hành xong hình phạt tù là đối tượng có hành vi phạm tội đã bị

tòa kết án bằng bản án, bị cách ly với xã hội một thời gian nay đã chấp hành

xong hình phạt tù hoặc được tha ra khỏi trại, được trở về với đời sống cộng

đồng.

Có rất nhiều quan điểm khác nhau về tái hòa nhập cộng đồng. Một số ý

kiến cho rằng tái hòa nhập cộng đồng là “tái hoàn lương” quay lại với cuộc

sống bình thường mà những người phạm tội đã mất đi. Cũng có quan điểm

cho rằng tái hòa nhập là các biện pháp quản lý của cộng đồng xã hội đối với

những người phạm tội. Bên cạnh đó, đa phần các quan điểm đều cho rằng tái

hòa nhập cộng đồng là quay lại một lần nữahòa nhập với cộng đồng xã hội

đối với những người có quá khứ lầm lỡ sau một thời gian cách ly khỏi cộng

đồng. Tuy nhiên, có thể hiểu tái hòa nhập cộng đồng như sau: Tái hòa nhập

cộng đồng là xóa đi những quá khứ tội lỗi, mặc cảm của người phạm tội, tạo

cơ hội, bình thường hóa các mối quan hệ để họ hội nhập với cộng đồng nơi cư

trú với tư cách một công dân, một thành viên gia đình, cộng đồng xã hội [3].

Hoặc cũng có thể hiểu hòa nhập là quá trình hòa nhập về mặt xã hội và tâm lý

với môi trường xã hội của một người. Tái hòa nhập xã hội đề cập cụ thể hơn

đến các chương trình và sáng kiến để giúp người phạm tội đang chấp hành

hình phạt trong cơ sở giam giữ.Mục đích giúp người phạm tội tái hòa nhập

cộng đồng thành công sau khi chấp hành xong bản án. Thông thường có hai

chương trình: các chương trình hỗ trợ ngay trong cơ sở giam giữ nhằm giúp

người phạm tội giải quyết các vấn đề,trang bị các kĩ năng cần thiết để thực

hiện tốt các chức năng của mình và chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng. Những

chương trình dựa trên cộng đồng, thường được gọi là “hậu chăm sóc” nguy cơ

trong các trường học là tình trạng quá đông, ngược đãi, phân biệt đối xử hoặc

chương trình giáo dục không đầy đủ mà có thể dẫn đến nghỉ học tràn lan hoặc

bỏ học giữa chừng [4]. Có thể thấy đây là các biện pháp tác động hướng thiện

từ bản thân đối tượng phấn đấu để có thể tái hòa nhập cộng đồng. Như vậy tái

hòa nhập cộng đồng được xét trên hai khía cạnh thứ nhất tự bản thân họ nhận

thức, tư duy điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với chuẩn mực đạo

đức, quy định của pháp luật; Thứ hai, công tác tái hòa nhập cộng đồng cho

người chấp hành xong hình phạt tù là quá trình tác động tích cực của cơ quan

nhà nước, tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư và gia đình đối với người đã chấp

hành xong án phạt tù và cùng sự cố gắng của họ nhằm giúp đỡ tạo điều kiện

thuận lợi để người mãn hạn tù sớm ổn định cuộc sống, hòa nhập với gia đình,

cộng đồng và phấn đấu trở thành công dân có ích cho xã hội.Theo PGS.TS

Nguyễn Quốc Nhật, tái hòa nhập cộng đồng cho người mãn hạn tù không chỉ

là đưa họ về với gia đình, cộng đồng xã hội nơi họ sinh sống mà còn phải tiếp

tục giáo dục, giúp đỡ tạo điều kiện, cơ hội cho họ trở lại cộng đồng[3]. Như

vậy có thể nói công tác tái hòa nhập cộng đồng phải luôn luôn có sự song

hành của gia đình, cơ quan, tổ chức, các cá nhân trong xã hội để người phạm

tội sau khi trở về không cảm thấy bị kỳ thị hay mặc cảm. Nghiên cứu về thực

tiễn công tác tái hòa nhập cộng đồng cho người mãn hạn tù cho thấy:

Về mặt tâm lý xã hội: Quan niệm của số đông hiện nay đối với người

chấp hành xong hình phạt tù là những người “không bình thường” vì họ là

người phạm tội đối với xã hội. Họ đã có nững hành vi phạm tội bị xử lý bằng

pháp luật đó là một vết nhơ trong quá khứ khiến họ trở nên mặc cảm, tự ti,

thiếu sự tin tưởng vào gia đình, cộng đồng. [5]

Có thể thấy, sự quan tâm của xã hội đối với người chấp hành xong hình

phạt tù vẫn còn những định kiến, khoảng cách nhất định. Trong một thời gian

ngắn xã hội và cộng đồng chưa thể xóa đi những mặc cảm về tội lỗi trước đây

của người phạm tội vì thế cần có thời gian để họ xóa đi những định kiến đó.

Hầu như những người chấp hành xong hình phạt tù trở về với địa phương là

những người có học lực thấp, cộng với tâm lý e dè, mặc cảm, không tìm được

công ăn việc làm ổn định là nguyên nhân khiến nguy cơ tái phạm tội ở mức

cao. Do đó, phòng ngừa tái phạm đối với người bị kết án tù, đặc biệt sau khi

họ chấp hành xong hình phạt tù là một yêu cầu thực tế khách quan trong cuộc

đấu tranh giữ gìn an ninh, trật tự, phòng, chống tội phạm.

Về mặt xã hội: Tái hòa nhập cộng đồng là quá trình những người chấp

hành xong hình phạt tù trở về với tư cách là một chủ thể và tham gia vào các

quan hệ xã hội đó. Người chấp hành xong hình phạt tù có thể gặp những khó

khăn nhất định về mặt chủ quan trong suy nghĩ về cách hành xử thiếu thiện

cảm, kỳ thị, xa lánh của cộng đồng xã hội với họ trong các mối quan hệ xã

hội, họ gần như mất hết lòng tự tin. Do đó, gia đìnhchính là chỗ dựa, ảnh

hưởng nhiều nhất đến kết quả cải tạo, giáo dục của người bị kết án; tiếp đó là

sự giúp đỡ của cộng đồng đây là sợi dây kết nối quan trọng đảm bảo sự hòa

nhập cộng đồng một cách nhanh chóng.

Về mặt pháp lý: tái hòa nhập cộng đồng là quá trình phục hồi tư cách

công dân, khôi phục các quyền và nghĩa vụ của công dân trên thực tế. Tái hòa

nhập cộng đồng là quá trình khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp của

người bị kết án đã bị pháp luật tước bỏ xét trên phương diện pháp lý. Khôi

phục quyền công dân tức là khôi phục các quyền năng của chủ thể pháp luật

để người đó tham gia vào các quan hệ pháp luật với đầy đủ các quyền, nghĩa

vụ như mọi công dân khác [5].

Hiện nay thực tế cho thấy những người sau khichấp hành án phạt tù trở

về với cộng đồng chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác nhau như tâm lý,

hành vi năng lực, tình cảm gia đình,nghị lực và sự nỗ lực của cá nhân, sự đón

nhận của gia đình và xã hội.Quan trọng hơn hết vẫn là sự cố gắng của chính

mình và sự chung tay của toàn xã hội. Trách nhiệm trước hết thuộc về cơ quan

Thi hành án hình sự, tiếp đến chính quyền địa phương, người thân và gia đình

nhằm giúp đỡ họ khôi phục lại các quan hệ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống

xã hội.

Mục đích của hình phạt không chỉ nhằm mục đích trừng trịmà còn cải

tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người lương thiện có ích cho gia đình

và xã hội, có ý thức tuân thủ, tôn trọng pháp luật và các quy tắc của xã hội,

ngăn ngừa việc tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Hiệu quả của việc giáo dục

trong thi hành án phạt tù thể hiện sự hiệu quả trong việc áp dụng pháp luật đối

với đối tượng chấp hàn hình phạt tù. Đây là thước đo sự hiểu quả của hoạt

động tái hòa nhập cộng đồng.

Theo các nghiên cứu cho thấy tái hòa nhập cộng đồng gôm 3 giai đoạn

chính :

- Giai đoạn chuẩn bị tái hòa nhập : Ở giai đoạn này người đang chấp hành

hình phạt tù trong trại giam được giáo dục về tư tưởng, pháp luật và đạo đức

cũng như rèn luyện ý thức lao động, đây là sự chuẩn bị cần thiết cho sự thích

ứng nhanh chóng của đối tượng khi ra ngoài môi trường bên ngoài cơ sở cải

tạo, giam giữ.

- Giai đoạn người chấp hành xong hình phạt tù tái hòa nhập cộng đồngGiai

đoạn này có thể chia nhỏ hơn thành một số bước Tái hoà nhập gia đình: Là

quá trình hòa nhập vào gia đình. Gia đình là môi trường đầu tiên và quan

trọng nhất mà đối tượng phải hòa nhập sau khi trở về với cuộc sống cộng

đồng. Kết thúc quá trình này là người thân chấp nhận họ trở thành một thành

viên bình thường của gia đình được yêu thương và đùm bọc. Tái hoà nhập

vào cộng đồng dân cư tại địa bàn mà đối tượng trở lại sinh sống. Đây là

giai đoạn tái lập lại các mối quan hệ xã hội ngoài gia đình mà trước tiên là

quan hệ với hàng xóm, láng giềng, với bạn bè thân quen, với chính quyền

cơ sở và các tổ chức xã hội, đoàn thểlà quá trình thích nghi và điều chỉnh

hành vi phù hợp với các quy định của pháp luật và các quy tắc đạo đức tại

địa phương. Kết quả của quá trình này là sự ghi nhận của toàn thể xã hội,

chính quyền địa phương và những người xung quanh đối với những tiến bộ

của họ

- Cuối cùng là thời kì khẳng định vị trí của mình trong xã hội vàổn định đời

sống: đây là quá trình thể hiện rõ sự nỗ lực thực sự của họ trong việchoàn

thiện nhân các, xây dựng một cuộc sống lương thiện, nâng cao kiến thức

văn hoá và năng lực, trách nhiệm trong lao động. Lúc này những đóng góp

của họ có tác động tích cực đến sự phát triển chung của cộng đồng.

Hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt

tù dù xét trên phương diện nào thì cũng nhằm mục đích bảo đảm quyền con

người. Thông qua đó họ được trang bị các điều kiện cần thiết để dần thích

nghi với đời sống sinh hoạt chung của cộng đồng, đồng thời xã hội tạo điều

kiện cho họ tạo dựng cuộc sống bình thường trong xã hội.

Những người được ra tù sau họ luôn khao khát làm lại cuộc đời sau một

thời gian họ bị cách ly khỏi đời sống xã hội, mong muốn trở thành người

lương thiện có ích cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên, những kiến thức, kỹ

năng nghề nghiệp được học trong trại giam, trại tam giam sau khi ra ngoài

thường bị lạc hậu so với thực tế, khiến họ khó khăn hơn để ổn định cuộc sống.

Từ những đánh giá, phân tích đã nêu trên tôi đưa ra khái niệm tái hòa

nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt tù như sau:

Tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt tù là quá

trình tác động tích cực hai chiều thông qua các chương trình giữa các cơ

quan Nhà nước, tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư và gia đình đối với người

chấp hành xong hình phạt tù nhằm giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để người

chấp hành xong hình phạt tù sớm ổn định cuộc sống, hòa nhập với cộng đồng

và trở thành người lương thiện có ích cho gia đình và xã hội.

1.1.2. Đặc điểm của tái hòa nhập cộng đồng

Tái hòa nhập cộng đồng là sự kết hợp tác động tích cực của xã hội và

nỗ lực của cá nhân để giúp cho phạm nhân đó nhanh chóng hòa nhập với cộng

đồng. hay nói cách khác đây là quá trình người chấp hành xong hình phạt tù

trở tái sinh về với xã hội cùng với sự chung tay, góp sức của gia đình và cộng

đồng để hoạt động này đạt hiểu quả cao nhất. Công tác này rất cần sự quan

tâm của toàn xã hội và gia đình của chính những người chấp hành xong hình

phạt tù, đặc biệt hơn nữa đối với những người chưa thành niên khi họ nhận

thức còn chưa đầy đủ.

Điều 46 Hiến pháp năm 2013 đã chỉ rõ: "Công dân có nghĩa vụ tuân

theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn

xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng” [7]. Do đó, những

người phạm tội nói chung và những đối tượng chấp hành xong hình phạt tù

nói riêng cần phải được quan tâm tạo điều kiện quản lý, giáo dục, giúp đỡ cho

họ thực hiện quyền công dân của mình.Thái độ của cộng đồng tích cực thể

hiện sự cởi mở, nhân đạo trong đời sống giúp đỡ người mãn hạn tù trong việc

hòa nhập vào cộng đồng. Vì vậy, nếu cả hai yêu tố tích cực từ hai phía được

phát huy thì quá trình tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình

phạt tù sẽ diễn ra một cách hiệu quả và tiết kiệm thời gian hơn .

Hòa nhập cộng đồng là quá trình hòa nhập về mặt xã hội và tâm lý với

môi trường xã hội của một con người. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tư pháp hình

sự, nó thường được đề cập tới những hình thức hỗ trợ khác nhau cho những

người phạm tội với nỗ lực nhằm ngăn cản họ tham gia vào hành vi phạm tội

hoặc làm giảm khả năng tái phạm của họ. Ngay khi ở trong cơ sở giam giữ,

người phạm tội đã phải đối mặt với những thử thách hòa nhập rất lớn vào thời

điểm họ được trả tự do.

Tái hòa nhập cộng đồng là một quá trình liên tục được hình thành từ

các giai đoạn nối tiếp nhau, đầu tiên từ việc chuẩn bị cho người phạm tội cái

nhìn đúng đắn về pháp luật, tâm lý và đào tạo một số kỹ năng lao động nghề

nghiệp trong quá trình cải tạo tại tại trại giam và chấm dứtkhi họ được hỗ trợ

những điều kiện cần thiết để có thể tái hòa nhập thành công.

Tái hòa nhập cộng đồng là sự kết hợp tổng thể của các biện pháp quản

lý hành chính – tư pháp, sự tác động về tư tưởng, tâm lý, giáo dục văn hóa

pháp luật, hướng nghiệp, với những biện pháp, hình thức, mức độ khác nhau.

Đây được coi là một trong những biện pháp giữ gìn an ninh trật tự xã

hội, phòng chống tội phạm. Có thể nói, việc tạo điều kiện cho người chấp

hành xong hình phạt tù tái hòa nhập với cộng đồng mang cả hai yếu tố phòng

ngừa tội phạm và yếu tố nhân đạo. Để hoạt động này mang lại ý nghĩa và hiệu

quả cao thì cần phải có những cơ chế phối hợp tổng thể của các biện pháp

quản lý hành chính- tư pháp.

Về mặt tâm lý, phạm nhân nói chung và người mãn hạn tù nói riêng

thường có hai cảm xúc đan xen giữa tiêu cực và tích cực. Họ vừa có mặc cảm

bị xã hội coi thường, bỏ rơi, thiếu niềm tin vào bản thân và mọi người xung

quanh, oán trách thậm chí hận thù, nhưng lại vừa mong muốn chuộc lỗi, lấy

lại niềm tin của mọi người xung quanh để làm lại cuộc đời. Rào cản lớn nhất

đối với quá trình tái hòa nhập chính là tâm lý tiêu cực xuất phát từ phía người

mãn hạn [5]. Do đó, ngay từ khi đang chấp hành hình phạt tù thì sự tác động

về mặt tỉnh cảm là vô cùng cần thiết, sự sẵn sàng yêu thương, chia sẻ, động

viên, đùm bọc, tha thứ từ phái người thân, gia đình và cộng đồng sẽ tạo cho

họ niềm tin, sự yên tâm giúp họ vượt qua mọi trở ngại, khó khăn trong cuộc

sống, giúp họ tự tin sống tích cực và có động lực hơn. Việc giáo dục pháp

luật, văn hóa cho phạm nhân là nội dung cần được chú trọng để trang bị và

nâng cao những kiến thức về pháp luật, những chuẩn mực đạo đức để họ có

nhận thức đúng đắn tự điều chỉnh hành vi, lối sống của mình trong xã hội.

Nhu cầu được lao động, tìm kiếm việc làm ổn định đây là một nhu cầu

chính đáng để người mãn hạn tù sau khi ra tù có thể tự nuôi sống bản thân và

gia đình sau khi trở với cộng đồng và đây cũng là động lực để họ đi theo con

đường đúng đắn, nỗ lực hòa nhập trở thành người có ích cho gia đình và cho

xã hội.

Tái hòa nhập cộng đồng cần phối hợp với sự tham gia của nhiều cơ

quan, tổ chức. Ngoài yếu tố quan trọng nhất thuộc về gia đình của phạm nhân,

là động lực lớn giúp họ xóa bỏ mặc cảm, tích cực học tập,rèn luyện, cải tạo

ngay từ giai đoạn đang chấp hành hình phạt tù thì sự tham gia của các cơ

quan, tổ chức cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng. Đây là nơi đề ra các

chương trình, sang kiến, tập hợp những nguồn từ nhân lực đến kinh phí giúp

người mãn hạn tù sớm hòa đồng với xã hội, xóa bỏ mặc cảm và đi lên làm lại

cuộc đời.

Thứ nhất,các cơ quan nhà nước trang bị đầy đủ cơ sở vật chất cho việc

đào tạo, giáo dục dạy nghề cho các đối tượng chính sách xã hội mới là yếu tố

quan trọng nhất.

Thứ hai, các biện pháp xã hội luôn luôn phù hợp với tâm lý của người

phạm tội hơn so với những biện pháp mang tính chất công quyền.

Thứ ba, sự hỗ trợ của các tổ chức xã hội và các tình nguyện viên sẽ góp

phần làm giảm áp lực tài chính cho nhà nước khi sử dụng quá nhiều các nhân

viên chuyên trách.

Tái hòa nhập cộng đồng là hoạt động mang tính xã hội hóa cao.

Cộng đồng là nơi tập hợp tất cả mọi người vừa là môi trường để người mãn

hạn tù hòa nhập, thiết lập các mối quan hệ xã hội của mình với các chủ thể

khác trong xã hội vừa là yếu tố tác động tích cực đến quá trình tái hòa nhập

cộng đồng. Sự nỗ lực, cố gắng của người chấp hành xong hình phạt tù sẽ đạt

được kết quả cao khi họ nhận được sự giúp đỡ, cảm thông, chia sẻ từ cộng

đồng dân cư.

1.1.3 Ý nghĩa của tái hòa nhập cộng đồng

Tái hòa nhập cộng đồng giúp người chấp hành xong hình phạt tù tăng

cường năng lực thích ứng với xã hội góp phần rút ngắn thời gian hòa nhập

vào cộng đồng.

Công tác tái hòa nhập cho người chấp hành xong hình phạt tù có ý

nghĩa quan trong ở nhiều mặt như phát triển kinh tế, giữ gìn an ninh xã

hội.Tái hòa nhập cộng đồng là quá trình bản thân họ tự cố gắng cộng với sự

tác động tích cực củatổ chức xã hội, cơ quan nhà nước, gia đình và cộng đồng

dân cư đối với người đã chấp hành xong hình phạt tù nhằm tạo điều kiện để

người mãn hạn tù sớm hòa nhập với gia đình,cộng đồng và phấn đấu trở thành

công dân có ích cho xã hội. Công tác này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong

việc đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ tính nhân đạovà bảo đảm việc phòng

ngừa tội phạm, trong các công tác trên công tác phòng ngừa tái phạm có ý

nghĩa quan trọng nhất.

Trong thời gian chấp hành án phạm nhân được sống trong môi trường

kỉ luật, được quản lý chặt chẽ theo quy định của pháp luật.Sau khi mãn hạn tù

họ trở về với cộng đồng sẽ gặp những khó khăn chủ yếu sau:

Thứ nhất, do sự thay đổi của môi trường sống, trong trại giam họ được

lao động và học tập theo chế độ cụ thể và chịu sự quản lý theo quy định của

pháp luật, những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống họ không cần phải tự mình

làm mà đều được đảm bảo.Điều này khó tránh khỏi việc cảm thấy ngợp,

không tìm được việc làm, hoang mang dễ dẫn đến lùi bước, nản lòng trước

những khó khăn, thử thách.

Thứ hai, những khó khăn do biến động xã hội đem lại. Có những người

trở về sau một thời gian cách ly với xã hội sẽ cảm thấy không bắt kịp với sự

thay đổi của thời đại hoặc cảm thấy xa lạ dẫn đến trạng thái lúng túng, không

biết phải bắt đầu từ đâu.

Thứ ba, khi họ trở về với xã hội mỗi người có một điều kiện, tâm trạng

riêng, đây chính là bất lợi tâm lý do cảm thấy mắc lỗi. Cảm thấy mọi người

như xa lánh, mặc cảm, tự ti về những tội lỗi trước kia mình đã gây ra.

Tái hòa nhập cộng đồng phát huy hiệu quả của việc áp dụng hình phạt,

Thước đo sự hiệu quả của việc áp dụng hiệu quả pháp luật chính là sự tái hòa

nhập thành công của việc tái hòa nhập cộng đồng. tái hòa nhập thành công tức

là việc áp dụng hình phạt là giáo dục, cải tạo người phạm tội đã thành công,

giúp họ trở thành những người lương thiện sống có ích cho bản thân, gia đình

và xã hội.

Tái hòa nhập cộng đồng là phương thức hữu hiệu trong công cuộc đấu

tranh phòng chống tội phạm và ngăn ngừa tình trạng tái phạm. Mục đích của

hình phạt không những để trừng trị mà còn nhằm giáo dục, ngăn chặn hành vi

phạm tội góp phần vào công cuộc phòng chống tội phạm.

Hoạt động tái hòa nhập cộng đồng có ý nghĩa rất quan trọng, vừa giúp

người chấp hành xong hình phạt tù thích ứng nhanh hơn với cộng đồng vừa

giúp nhà nước quản lý giúp họ trở thành công dân tốt, có điều kiện tạo lập

cuộc sống của bản thân. Nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng người chấp

hành xong hình phạt tù tái phạm, một trong những nguyên nhân đó là dosự

bất cập của hệ thống pháp luật vềchế tài áp dụng hình phạt tù không có tác

dụng, công tác quản lý xã hội còn yếu, do sự thiếu đồng bộ của các cơ quan

Thi hành án hình sự.

Thứ nhất là, nhiều người sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về

cộng đồng không tìm được việc làm, do trình độ học vấn thấp, kỹ năng lao

động, nghề nghiệp họ đã được học trong trại giam đã lạc hậu so với những

yêu cầu của thực tế đồng thời thái độ phân biệt kỳ thị của tổ chức, doanh

nghiệp đối với người đã từng ngồi tù, do cơ chế lao động hiện nay đối với

người có tiền án, tiền sự; cho nên tạo ra rất nhiều khó khăn cho người mãn

hạn tù khi họ muốn làm lại cuộc đời.

Thứ hai là, các biện pháp giáo dục trong trại giam còn chưa thực sự có

hiệu quả.Thực tế vẫn còn tình trạng đầu gấu, đại ca, bạo lực trong các trại

giam. Chính vì thế, Các hoạt động tái hòa nhập cộng đồng nếu được tổ chức

tốt sẽ góp phần quan trọng trong sự phát triển của đất nước.

Thứ ba là, việc quản lý người mãn hạn tù trở về hòa nhập với cộng

đồng không có hiệu quả, không nắm được hiện tại họ đang sinh sống, làm

việc ở đâu. Công tác kiểm tra, thăm hỏi sau khi ra tù còn nhiều hạn chế.

Thứ tư là, người chấp hành xong hình phạt tù không những không nhận

được sự giúp đỡ của xã hội thậm chí còn chịu sự bỏ mặc, xa lánh, kì thị của

chính những gia đình, người thân của chính mình.

Tái hòa nhập cộng đồng là cơ chế bảo đảm quyền con người trong tư

pháp hình sự. Giúp đỡ người phạm tội để họ có điều kiện tái hòa nhập, tôn

trọng và coi họ là một phần của cộng đồng, để họ tự tạo cơ hội cho chính

mình, thích ứng với cuộc sống bình thường tạo cơ hội để họ tìm kiếm việc

làm, có thu nhập ổn định để tự nuôi sống bản thân và gia đình bằng những

việc làm lương thiện, không vi phạm pháp luật đó là một chính sách lớn thể

hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta và là trách nhiệm của xã hội.

1.2 Những định hướng của Đảng và Pháp luật của nhà nước về tái hòa

nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt tù.

Chủ trương, Chính sách nói chung có thể hiểu là những tư tưởng,

những định hướng, những mong muốn cần hướng tới, cần đạt được. Quan

điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng “Chính sách là đường hướng của nhà

nước, là sự xác định các hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động nhà nước”

[8]. Theo GS.TS Võ Khánh Vinh định nghĩa “Chính sách pháp luật là hoạt

động có căn cứ khoa học, nhất quán và hệ thống cơ quan nhà nước và của các

thiết chế xã hội nhằm xây dựng cơ chế điều chỉnh pháp luật có hiệu quả, sử

dụng văn minh các phương tiện pháp luật để đạt được mục đích đảm bảo đầy

đủ các quyền và tự do của con người và của công dân, hình thành và phát

triển nhà nước pháp quyền, văn hóa pháp luật và đời sống pháp luật của cá

nhân” [9]. Như vậy có thể thấy chính sách pháp luật tái hòa nhập cộng đồng

là hoạt động có căn cứ hệ thống của các cơ quan nhà nước nhằm xây dựng và

điều chỉnh pháp luật sao cho có hiệu quả nhằm tạo điều kiện thuận lời cho

người phạm tội tái hòa nhập cộng đồng ổn định cuộc sống và phòng ngừa vi

phạm pháp luật.

Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về công tác tái

hòa nhập cộng đồng không chỉ xác định đường lối, hình thức, phương hướng

và các biện pháp thực hiện tái hòa nhập cộng đồng mà còn xác định trách

nhiệm của các cơ quan Nhà nước,chính quyền địa phương, tổ chức xã hội, các

tổ chức kinh tế, nhà trường và gia đình trong công tác, giúp đỡ, quản lý, giáo

dục những người chấp hành xong hình phạt tù tái hòa nhập cộng đồng.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa

VII: “Đối xử nhân đạo với người bị phạt tù. Có chương trình dạy nghề cho

phạm nhân và giới thiệu việc làm cho họ sau khi ra tù, giúp họ nhanh chóng

tái hòa nhập cộng đồng” [1].

Đề án hòa nhập cộng đồng và Chương trình khung giáo dục cải tạo

phạm nhân là hai văn bản quan trọng nhằm thực hiện nội dung, biện pháp,

hình thức giáo dục cải tạo phạm nhân trong các cơ sở giam giữ và nâng cao

hiệu quả thực hiện các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với

người chấp hành xong án phạt tù quy định tại Nghị định 80/2011/NĐ-CP của

Chính phủ[10].

Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 05/12/2018 của thủ tướng chính phủ về

tăng cường các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp

hành xong án phạt tù, đã giao nhiệm vụ cho bộ công an “tăng cường nguồn

lực đầu tư, nâng cao chất lượng công tác giáo dục, tư vấn, hướng nghiệp, dạy

nghề cho phạm nhân tại trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, trại viên trong

các cơ sở bắt buộc, học sinh trong các trường giáo dưỡng…”[11]

Thông tư liên tịch số 12/2013-TTLT-BCA-BQP-BTC ngày 02/12/2013

hướng dẫn về chế độ lao động và sử dụng kết quả lao động, học nghề của

phạm nhân trong trại giam đã quy định dành phần một kết quả lao động để

đầu tư cho hoạt động dạy nghề[11].

Hiện nay, nước ta đang thực hiện nhiều chương trình nhằm nâng cao

hiệu quả của quá trình tái hòa nhập cộng đồng.Chiến lược quốc gia phòng

chống tội phạm giai đoạn 2016-2025 và định hướng đến giai đoạn 2030 đã đề

ra một trong các nhiệm vụ và giải pháp là : “Chủ động thực hiện các biện

pháp giúp phạm nhân chuẩn bị tái hòa nhập ngay trong quá trình chấp hành

án, đồng thời thực hiện có hiệu quả các biện pháp giúp phạm nhân chuẩn bị

tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù. Tiếp tục đổi

mới công tác giáo dục dạy nghề, trại viên, học viên, học sinh” [12].

Mục tiêu của các dự án Nhà nước đã đề ra là hàng năm có ít nhất 80%

số đối tượng vi phạm pháp luật hình sự, đối tượngtù tha, đặc xáđược bảo lãnh

giúp đỡ, cảm hóa, giáo dục để tiến bộ tại cộng đồng dân cư và tăng cường

chất lượng dạy nghề cho phạm nhân trong trại giam đáp ứng được nhu cầu

của nền kinh tế thị trường sau khi họ ra tù. Nâng cao chất lượng giáo dục

trong các trại giam đáp ứng với các nhu cầu của xã hội là bước đệm giúp

người chấp hành xong hình phạt tù thích ứng nhanh chóng với môi trường,

hướng họ tới con đường lương thiện và hạn chế tái phạm nguy hiểm. Cần đầu

tư trang thiết bị, cơ sở vật chất chủ yếu cho việc dạy nghề đối với những

ngành nghề thuộc danh mục đào tạo nghề được nhà nước quy định để giúp

người mãn hạn tù sau khi ra tù nhanh chóng tìm được công ăn việc làm ổn

định.

Hoạt động tái hòa nhập cộng đồng là hoạt động mang tính xã hội hóa

cao, để hoạt động này đạt được hiệu quả cao đòi hỏi phải có sự hỗ trợ, giúp

sức của các tổ chức, cơ quan, đoàn thể, của cả gia đình và nỗ lực từ chính

những người chấp hành hình phạt tù…dựa trên những quy định của pháp luật

về cơ chế phối hợp thực hiện.

Có rất nhiều căn cứ pháp lý để áp dụng trong công tác tái hòa nhập đối

với người phạm tội nói chung và người chấp hành xong hình phạt tù nói

riêng, đầu tiên đó là Luật Thi hành án hình sự năm 2019, trong đó quy định về

nguyên tắc, trình tự, thủ tục, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan có

thẩm quyền trong thi hành bản án, quyết định về hình phạt tù,cảnh cáo,cải tạo

không giam giữ, tử hình,quản chế, tước một số quyền công dân,cấm cư

trú,cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất

định,trục xuất, án treo, biện pháp tư pháp; quyền hạn, nghĩa vụ của người

chấp hành án hình sự,trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan

trong thi hành án hình sự, biện pháp tư pháp.

Hiến pháp nước ta là cơ sở pháp lý quan trọng ghi nhận và quy định các

quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội,dân sựcủa công dân, của

con người trong đó cả quyền của người phạm tội. Trên cơ sở quy định của

Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật đặc xá năm 2018,

Luật Thi hành án hình sự năm 2019, Nghị định 80/2011/NĐ-CP ngày

16/9/2011 quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với

người chấp hành xong án phạt tù,Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 05/12/2018 của

thủ tướng Chính phủ quy định về tăng cường các biện pháp bảo đảm đối với

người chấp hành xong án phạt tù. 52/2019/NĐ-CP hướng dẫn vềtái hòa nhập

cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù; Chiến lược quốc gia

phòng chống tội phạm 2016-2025 và định hướng đến năm 2030 kèm theo

quyết định số 623/QĐ-TTg ngày 14/4/2016; Nghị định số 20/2012/NĐ-CP

ngày 20/3/2012 quy định cơ sở dữ liệu về Thi hành án hình sự,Thông tư số

39/2013/TT-BCA ngày 04/02/2013 của Bộ Công an quy định về giáo dục và

tư vấn cho phạm nhân sắp chấp hành xong án phạt tù,Thông tư liên tịch số

02/2013 ngày 15/5/2013 của Bộ Lao động Thương binh và xã hội – Bộ Công

an – Viện kiểm sát nhân dân Tối cao – Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn thi

hành các quy định về giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với phạm

nhân,Nghị định 117/2011/NĐ-CP ngày 15/12/2011 quy định về tổ chức quản

lý phạm nhân và chế độ ăn mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm

nhân.

Điều 16 hiến pháp 2013 “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn

hóa, xã hội.” [7] vì thế người chấp hành xong hình phạt tù cũng phải được

bình đẳng và bảo đảm các quyền và nghĩa vụ như tất cả công dân khác.

Nghị định số 80/2011/NĐ-CP ngày 16 tháng 9 năm 2011 của chính phủ

quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp

hành xong án phạt tù đã được xác định vào điều chỉnh là “…Quy định cụ thể

các điều kiện, biện pháp đảm bảo tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp

hành xong án phạt tù...” [13]

Bộ luật Hình sự năm năm 2015 đã thể hiện tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt

về vấn đề tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội, theo đó tại Điều 3 của

Bộ luật có quy định về nguyên tắc xử lý như sau: " Đối với người bị phạt tù

thì buộc họ phải chấp hành hình phạt tại các cơ sở giam giữ, phải lao động,

học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có đủ điều kiện do Bộ

luật này quy định, thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, tha

tù trước thời hạn có điều kiện" và “Người đã chấp hành xong hình phạt được

tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng, khi có

đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích” [14]

Chính sách pháp luật về tái hòa nhập cộng đồng liên quan đến lao động

và đào tạo nghề cho người đang bị cách ly khỏi xã hội được quy định trong

Luật thi hành án hình sự.Theo GS.TS Võ Khánh Vinh “Phương tiện của chính

sách pháp luật là các công cụ và các hành vi được sử dụng để đạt được các

mục tiêu và các nhiệm vụ chính sách pháp luật để thực hiện trên thực tế các

quan điểm pháp luật mang tính chiến lược” [15].Luật thi hành án hình sự đã

luật hóa các chủ chương , chính sách thành chính sách lao động và dạy nghề

cho người thi hành án phạt tù. Điều 31 luật thi hành án hình sự 2019 quy định

về chế độ, học nghề của phạm nhân quy định “ Phạm nhân…được học văn

hóa, học nghề …” [2]. Các điều 32, 33 cũng quy định cụ thể về thời gian, vấn

đề tài chính liên quan đến học nghề. Điều 45 quy định về tái hòa nhập cộng

đồng, theo đó trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an

cấp huyện có trách nhiệm tổ chức chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng trước khi

phạm nhân chấp hành xong án phạt tù, được đặc xá, tha tù trước thời hạn có

điều kiện.

Cùng với tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của ở nước ta hiện nay

việc tổ chức tái hòa nhập cộng đồng tương đối cần thiết nhưng lại rất phức

tạp, đây là một trong bôn đề án chủ yếu của của chương trình Quốc gia phòng

chống tội phạm. Cho nên phải kiềm chế và làm giảm sự gia tăng của tội

phạm để không tạo áp lực cả về số lượng và ngân sách cho nhà nước.

Đường lối, chính sách của Đảng ta về hoạt động tái hòa nhập cũng đã

được thể chế hóa trong tất cả các văn bản quy phạm pháp luật đã nêu được tổ

chức từ lúc người chấp hành hình phạt tù chấp hành án cho tới khi họ trở về

với địa phương.Đây là việc làm rất cần thiết và quan trọng thể hiện tính nhân

văn, nhân đạo của pháp luật nước ta.

Cùng với đó, việc phạm nhân được học tập, giáo dục trong môi trường

kỉ luật, được giác ngộ về pháp luật, văn hóa, tham gia các hoạt động cộng

đồng điều này giúp họ nhận thức được những hành vi của mình trước đây là

trái với pháp luật, biết ăn năn hối cải để trở thành người có ích cho gia đình và

xã hội . Tái hòa nhập cộng đồng luôn tồn tại song song với sự tồn tại của pháp

luật hình sự. Tuy nhiên, để đảm bảo hoàn thiện hơn về quyền con nguời đặc

biệt là của phạm nhân thì pháp luật về hoạt động tái hòa nhập cộng đồng cũng

phải có thay đổi theo từng thời kỳ, tùy theo theo tiến trình phát triển của kinh

tế- xã hội.

Mục đích chính của việc tái hòa nhập xã hội là nhằm cung cấp cho

những người phạm tội những hỗ trợ cũng như giám sát để giúp họ hoạt động

trong xã hội để trở thành người tuân thủ pháp luật và trách việc tái phạm tội

đồng thời trở thành những công dân tốt. Những chương trình này tạo cơ hội

cho người phạm tội liên kết với gia đình và cộng đồng, sống tốt và tuân thủ

pháp luật.

Tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù là hoạt

động mang tính cộng đồng đồng thời mang tính nghiệp vụ và pháp luật cao.

Do vậy vấn đề này luôn là vấn đề được Đảng và nhà nước ta rất quan tâm.

Nhà nước ta luôn luôn đề cao, tiếp tục nâng cao chất lượng của việc quản lý

giáo dục, cải tạo giúp người chấp hành hình phạt bằng nhiều hình thức khác

nhau. Thành lập ban chỉ đạo của chính phủ thực hiện chương trình phòng

chống tội phạm . Từng bước xây dựng nếp sống lành mạnh tại cộng đồng dân

cư, tuyên truyền, phổ biến pháp luật giúp họ hiểu được tầm quan trong của

công tác tái hòa nhập, giúp đỡ người mãn hạn tù quay trở về cộng đồng một

cách hiệu quả.

1.3 Mô hình của một số nước về tái hòa nhập cộng đồng

Vấn đề tái hòa nhập cộng đồng cho những người sau khi mãn hạn tù

không chỉ là điều mà Việt Nam quan tâm mà nó còn là vấn đề của nhiều nước

trên thế giới. Tái hòa nhập cộng đồng ở Việt Nam hiện nay đang đang là vấn

đề mà nhà nước và xã hội quan tâm. Tuy nhiên cũng nên nhìn vào công tác

này ở một số quốc gia trên thế giới để rút ra được những kinh nghiệm trong

việc tái hòa nhập cộng đồng tại Việt Nam.

Mô hình tái hòa nhập cộng đồng của Trung Quốc

Ở Trung Quốc, ngoài các nội dung đảm bảo công tác tái hòa nhập cho

người mãn hạn tù, chính phủ Trung Quốc còn thực hiện điều tra và đánh giá

tình hình tái hòa nhập cộng đồng của những người mãn hạn tù. Việc này góp

phần nâng cao chất lượng cải tạo. Trại giam không chỉ chịu trách nhiệm đối

với việc cải tạo của phạm nhân trong thời hạn chấp hành hình phạt mà chất

lượng cải tạo còn được còn phải được kiểm nghiệm bằng thực tế xã hội tiếp

nhận như thế nào [6]. Bên cạnh đó việc điều tra đánh giá tình hình tái hòa

nhập cộng đồng của những người mãn hạn tù còn chỉ ra những phương hướng

cho công tác này. Làm tốt công tác xã hội, bố trí việc làm chính là ổn định tư

tưởng cho những người mãn hạn tù, củng cố kết quả cải tạo, chính là biện

pháp quan trọng để phòng chống và giảm bớt hiện tượng tái phạm.

Ở Trung Quốc áp dụng các biện pháp kết hợp thăm hỏi định kỳ và phát

triển điều tra để nâng cao cải tạo, đồng thời động viên, khích lệ những người

có biểu hiện tốt, kịp thời giáo giục những người có biểu hiện xấu; khảo sát

trọng điểm, tiến hành khảo sát phân loại cách thức tổ chức, có kế hoạch , có

trình tự ở những người mãn hạn từ ở các độ tuổi khác nhau, hình phạt khác

nhau v.v…Thông qua đó để thu thập các thông tin phản hồi, có thể nghiên

cứu cải tiến công tác cải tạo, làm tốt công tác dự tính, chuẩn bị, tiến hành

phân tích các vấn đề như cơ sở tri thức, tố chất sức khỏe , sở thích nghề

nghiệp, nơi cư trú của những phạm nhân mới vào trại để có thể điều phối lao

động tương ứng, tiến hành bồi dưỡng đào tạo định hướng nghề nghiệp.

thường xuyên tìm hiểu xu hướng việc làm của xã hội, những biên động của

gia đình phạm nhân. Tái hòa nhập cộng đồng từ lâu đã là vấn đề được nhà

nước Trung Quốc rất quan tâm và chú trọng thực hiện [6].

Có thể thấy đây là một điểm khác so với Việt Nam bởi Trung Quốc đã

rất chú trọng vào quá trình tái hòa nhập, ngoài việc thường xuyên kiểm tra

khảo sát định kì ngay từ khi tiếp nhận phạm nhân, phân tích các vấn đề như

sức khỏe, sở thích, nghề nghiệp… của phạm nhân mới vào trạiđể điều phối

lao động, sau khi ra tù thì định hướng nghệ nghiệp cho họ. Ở Việt Nam hiện

nay, hoạt động nghiên cứu trước khi phạm nhân mới vào trại là chưa có và

các hoạt động giúp người chấp hành xong hình phạt tù tái hòa nhập cộng

đồng còn hạn chế, nhất là việc hướng nghiệp cho phạm nhân sau khi ra tù vẫn

còn chưa được sát sao. Đây là một vấn đề cần lưu ý bởi vì chỉ có củng cố

công tác xã hội, tạo điều kiện tái hòa nhập cho các phạm nhân mãn hạn tù thì

mới có thể phòng chống và giảm bớt tình hình tái phạm của phạm nhân.

Mô hình tái hòa nhập cộng đồng của Singapore

Mô hình tái hòa nhập cộng đồng của singapore quy định khá rõ về các

nội dung liên quan đến việc cho phép phạm nhân có thể chấp hành hình phạt

tù tại gia. Pháp luật Singapore quy định : Nếu phạm nhân đủ điều kiện được

giam giữ tại nhà thì giám thị sẽ ra lệnh cho người đó được thi hành hình phạt

tại nhà. Phạm nhân chỉ có thể được chấp hành hình phạt tại nhà khi phải chấp

hành án phạt tù tối thiểu 4 tuần và không nằm trong danh mục những tội

không được phép giam giữ tại nhà. Trong thời gian người đó chấp hành hình

phạt tại nhà vẫn bị giám sát thường xuyên do thiết bị điện tử mà phạm nhân

phải luôn mang theo trên người. Tuy vậy, dù chấp hành hình phạt tù tại nhà ở

giai đoạn đầu hay cuối thì cũng góp phần tạo những điều kiện thuận lợi lớn để

người đó tái hòa nhập cộng đồng. Cung với đó, pháp luật Singapore cũng quy

định các trường hợp không được chấp hành hình phạt tù tại nhà. Từ những

quy định đó đảm bảo cho việc tái hòa nhập diễn ra một cách nhanh chóng hơn

[5]

Đây là một điểm khá hay bởi gia đình là nơi quan trọng nhất và bước

đầu giúp cho người chấp hành xong hình phạt tù trở về với cộng đồng. Là nơi

bao dung, yêu thương, đùm bọc họ. Nhiều trường hợp khi quay trở lại với gia

đình vẫn mang đầy mặc cảm, tự ti, vì thế đối với những người phạm tội nhẹ

có thể cải tạo mà không giam giữ thì đây là một biện pháp giúp họ hòa nhập

nhanh chóng nhất.

Mô hình tái hòa nhập cộng đồng của Úc.

Với mục tiêu khuyến khích người chấp hành xong hình phạt tham gia tái hòa

nhập và không nhằm loại bỏ họ ra khỏi đời sống cộng đồng, giúp cộng động

tăng cao nhận thức của họ trong việc phòng chống tội phạm cũng như nâng

cao nhận thức của người chấp hành án về trách nhiệm đối với cộng đồng. Do

vậy, Úc áp dụng rất nhiều các hình thức quản chế tại nhà ngoài việc áp dụng

chế độ giam giữ do đó tạo ra sự liên mạch cho hoạt động tái hòa nhập cộng

đồng.

Việc giam giữ tài nhà cũng được giám sát chặt chẽ nhất và chỉ được áp

dụng vào khung thời gian nhất định. Người phạm tội vẫnđược phép ra khỏi

nhà trong một thời gian nhất định vào các ngày nghỉ cuối tuần để giao tiếp xã

hội hay đi dạo. Giám sát điện tử vẫn cho phép giám sát phạm nhân đối với các

điều kiện giam giữ tại nhà của người đó. Người chấp hành án vẫn phải được

phổ biến về nghĩa vụ của họ đối với thiết bị truyền phát tín mà họ mang theo

người. Thêm vào đó Úc có các biện pháp giáo dục tại cộng đồng cho trẻ chưa

thành niên phạm tội [6].

Cũng giống như mô hình của Singapore mô hình tái hòa nhập của Úc

cũng khá mới mẻ bởi ngoài sự giám sát chặt chẽ vào ngày cuối tuần phạm

nhân vẫn có thể giao tiếp xã hội hay đi dạo. Điều này sẽ khích lệ tinh thần của

người phạm tội, giúp họ yêu đời và tránh xa các tệ nạn, sớm hòa mình vào xã

hội. Đây là điều chưa có ở Việt Nam.Vì thế cần học hỏi những điểm mới, phù

hợp và tiến bộ ở các nước phát triển trên thế giới để áp dụng vào mô hình của

nước ta giúp cho công tác tái hòa nhập đạt hiệu quả cao hơn, tỉ lệ tái phạm, tái

phạm nguy hiểm không còn là vấn đề đáng ngại, hạn chế việc phạm nhân ra

tù không được xã hội chào đón, không có cơ hội để làm lại cuộc đời.

Tiểu kết chương 1

Kết quả nghiên cứu ở chương 1 là cơ sở khoa học cho việc đánh giá

thực trạng của việc tái hòa nhập cộng đồng ở chương 2 qua đótìm ra nguyên

nhân của những hạn chế, tồn tại trong công tác thực tiễn tái hòa nhập cộng

đồng trên địa bàn tỉnh Băc Ninh và đưa ra một số những giải pháp nhằmhoàn

thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của công tác này. Người chấp hành xong

hình phạt tù là một phần của xã hội, họ sinh hoạt trong cộng đồng và do vi

phạm pháp luật nên mới bị kết án, bị cách ly khỏi xã hội theo quy định của

pháp luật hình sự. Tái hoà nhập cộng đồng là một công việc tất yếu vàcần

thiết đối với nhà nước và toàn xã hội, nhất là trong thời điểm hiện tại khi cả

thế giới và Việt Nam đang rất quan tâm đến vấn đề quyền con người. Xuất

phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lývà

những quan niệm khác nhau của mọi người, những người phạm tội khi ra tù

họthiếu thốn phương tiện vật chất, điều kiện việc làm, mang nhiều mặc cảm

tự ti. Khoảng thời gian cách ly khỏi xã hội là khoảng thời gian mà họ mang

nhiều suy nghĩ tiêu cực, cần được cảm thông và hướng dẫn để khi trở về với

xã hội họ không bị bỡ ngỡ và có thể hoà nhập với xã hội trở thành người có

ích cho xã hội. Công tác giáo dục, tuyên truyền, giúp đỡ tạo điều kiện cho

người mãn hạn tù sớm tái hoà nhập cộng đồng là nhiệm vụ vô cùng quan

trọng, nó thểtính cộng đồng, tính xã hội sâu sắc. Trong số những người trở về

sau khi mãn hạn tù có những người lại tiếp tục đi theo con đường cũ trở thành

tái phạm tội. Điều này cho thấy việc thực hiện công tác tái hoà nhập còn

những bất cập mà trước hết đó là những quy định của pháp luật nằm rải rác ở

khá nhiều văn bản khác nhau bao gồm Bộ luật hình sự , bộ luật tố tụng hình

sự, luật thi hành án hình sự, các văn bản hướng dẫn và các văn bản khác... dẫn

đến nhiều khó khăn trong việc áp dụng . Từ các phân tích ở chương 1 có thể

khái quát được các vấn đề lý luận chung nhất về tái hoà nhập cộng đồng, đặc

điểm cũng như ý nghĩa của nó . Các chủ chương, chính sách của đảng và pháp

luật của nhà nước về tái hoà nhập cộng đồng đồng thời cùng với đó là sự so

sánh với mô hình tái hoà nhập cộng đồng của một số quốc gia trên thế giới.

Chương 2

THỰC TRẠNG TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐÔNG

CỦA NGƯỜICHẤP HÀNH XONG HÌNH PHẠT TÙ TỈNH BẮC NINH

GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2015 -2019

2.1. Đánh giá về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội tại tinh Bắc Ninh liên

quan đến hoạt động tái hòa nhập cộng đồng.

Bắc Ninh là tỉnh thuộc đồng bằng sông hồng, nằm trong vùng kinh tế

trọng điểm và là vùng đất giàu văn hóa truyền thống .Năm 2019, dân số Bắc

Ninh là 1.368.840 người, chỉ chiếm 1,4% dân số cả nước và đứng thứ 22/63

tỉnh, thành phố, trong đó nam 676.060 người và nữ 692.780 người; khu vực

thành thị 376.418 người, chiếm 27.5% dân số toàn tỉnh và khu vực nông thôn

992.422 người, chiếm 72,5% [16]. Bắc Ninh nằm ở vị trí thuận khá lợi về

giao thông, các tuyến đường huyết mạchnối liền Bắc Ninh với các trung tâm

kinh tế, văn hóa và thương mại của khu vực phía Bắc Việt Nam. Lợi thế về vị

trí địa lý cũng là một trong những thách thức về tình hình an ninh trật tự, là

điểm trú ngụ nhiều loại tội phạm. Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có trại tạm giam

Công an tỉnh Bắc Ninh đóng trên địa bàn huyện Quế Võ.

Các hoạt động chuẩn bị tái hòa nhập trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh vẫn

diễn ra hằng năm tuy nhiên không được diễn ra mạnh mẽ như các địa phương

khác nhưng cũng góp phần lớn trong công cuộc ổn định trật tự, an ninh xã

hội. Cả nước có khoản hơn 54 trại giam do Bộ công an quản lý, 83 trại tạm

Giam và 734 nhà tạm giữ , quản lý giam giữ khoảng 65.000 tù nhân.

Đối với công tác lao động, dạy nghề cho người phạm tội, hầu như các

trại đều thành lập trung tâm dạy nghề và đào tao cho hàng nghìn lượt phạm

nhân để khi ra tù họ có công ăn việc làm ổn để ổn định cuộc sống. Đối với

chế độ chính sách áp dụng cho phạm nhân, trại tạm giam công an tỉnh Bắc

Ninh thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật về ăn, mặc, thăm

gặp, chăm sóc y tế…

Đối với tình hình tội phạm qua các năm diễn ra ngày càng tăng nhanh với

tính chất mức độ ngày càng phức tạp. Đối tượng bị áp dụng các biện pháp giam

giữ và đối tượng tái phạm cũng ngày càng tăng. Vấn đề đặt ra ở đây là Đảng và

nhà nước cần quan tâm hơn nữa tới vấn đề nâng cao chất lượng của hoạt động

tái hòa nhập cộng đồng của người mãn hạn tù bởi chỉ có thực hiện tốt công tác

này mới giảm số người tái phạm, tái phạm nguy hiểm, tạo điều kiện để họ quay

về con đường lương thiện giúp ổn định và phát triển đất nước.

Qua những kết quả khảo sát thực tế cho thấy mặc dù luật thi hành án

hình sự năm 2019 Nghị định số 80/2011/NĐ ngày 16/9/2011 đã quy định các

biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình

phạt tù và trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên các cơ

quan, đoàn thể vẫn chưa thực sự quan tâm và thực hiện đầy đủ nhằm nâng

cao hiệu quả của công tác tái hòa nhập cộng đồng.Hằng năm số người bị kết

án tù trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đều gia tăng trong đó số người không có

nghề nghiệp ổn định và học vấn thấp chiếm tỉ lệ cao.Vấn đề này cũng tạo ra

áp lực rất lớn trong việc giam giữ phạm nhân bởi sự quá tải khi cơ sở vật chất

không đủ đáp ứng số lượng lớn phạm nhân và tiêu tốn một khoản ngân sách

rất lớn của nhà nước đồng thời cũng tạo áp lực cho hoạt động tái hòa nhập

cộng đồng trong giai đoạn hiện nay

Từ thực tiễn đó, chính quyền tỉnh Bắc Ninh cần xác định rõ đây là một

trong những nhiệm vụ trọng tâm và có ý nghĩa trong việc ổn định an ninh trật

tự địa phương và phòng chống tội phạm. Cơ quan Công an tỉnh Bắc Ninh

hướng dẫn Công an cấp dưới thực hiện công tác quản lý, giám sát người chấp

hành xong hình phạt tù bằng các biện pháp hành chính – tư pháp đồng thời

phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc cảm hóa, giáo dục, động viên

giúp đỡ về cả tinh thần lẫn giới thiệu công ăn việc làm để họ nhanh chóng ổn

định cuộc sống. Theo nghiên cứu cho thấy phần lớn người mãn hạn tù trở về

địa phươngcũng đều được tạo điều kiện, giúp đỡ, tích cực tự tìm việc làm

tham gia lao động để ổn định cuộc sống.

Theo báo cáo năm tháng 10 năm 2018 của Công an tỉnh Bắc Ninh về

việc làm cho người chấp hành xong án phạt tù, trong số nhữngngười chấp

hành xong hình phạt tù trở về: có 53% được giới thiệu việc làm trong đó có

người được các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp tiếp nhận vào làm việc tại khu

công nghiệp Quế võ ( huyện Quế Võ ), khu công nghiệp Yên Phong (huyện

Yên Phong) , khu công nghiệp Đại Đồng (huyện Tiên Du ), khu công nghiệp

Hạp Lĩnh (thành phố Bắc Ninh) , Khu công nghiệp Thuận Thành (huyện

Thuận Thành) và các cụm khu công nghiệp khác trên địa bàn tỉnh,có người

làm việc tại các cơ sở kinh tế vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh; 9,8% người chưa

có việc làm ổn định hoặc không có việc làm; 19,1% người được vay vốn từ

Ngân hàng chính sách, Quỹ an ninh trật tự, Quỹ “Hỗ trợ tái hòa nhập động

đồng” tự tạo được việc làm ổn định bằng các ngành nghề dịch vụ, nghề truyền

thống: Làm gốm, đồ mỹ nghệ, chăn nuôi, trồng cây ăn quả, 0,8% người được

giải quyết đất sản xuất; 18,1% tái phạm tội [17].

Tình hình phát triển chung do hình thành nhiều khu công nghiệp, cụm

công nghiệp mới làm thay đổi diện mạo kinh tế của tỉnh. Điều đó có ảnh

hưởng rất lớn đến hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của người mãn hạn tù vì

thế các cấp chính quyền, ban ngành, đoàn thể, các doanh nghiệp và lực lượng

Công an tạo điều kiện để người mãn hạn tù tìm được công việc phù hợp, sớm

hòa nhập với xã hội. Nhờ sự quan tâm đó, nhiều người đã vượt qua mặc cảm,

tự ti, khó khăn ban đầu để vươn lên thành công trong cuộc sống. Không

những tạo công ăn việc làm cho chính mình mà còn giúp đỡ nhiều người có

quá khứ lầm lỡ, quay trở về con đường lương thiện. Anh Trương Ngọc Bảo

trú tại Khu Sơn, phường Hạp Lĩnh, thành phố Bắc Ninh năm 2015 anh bị Tòa

án tuyên phạt 02 năm tù treo và 04 năm thử thách. Với sự khích lệ, động viên

của gia đình, chính quyền địa phương và lực lượng Công an trong thời gian

chấp hành án sau khi ra trại anh tích cực tham gia các hoạt động của cộng

đồng. Hiện tại anh đã là đội trưởng dân phòng, rất tích cực trong công tác

phòng, chống tội phạm cùng an hem vây bắt nhiều vụ trộm, cướp, thu hồi

nhiều tang vật góp phần giúp đỡ lực lượng Công an, giữ gìn an ninh trật tự

của địa phương. Được các cấp, các ngành trong ngoài tỉnh tặng giấy khen.

Anh Nguyễn Văn Sáng, khu 6, thị trấn Phố Mới, huyện Quế Võ, tỉnh

Bắc Ninh phải trả giá bằng việc 2 lần vướng vòng lao lý. Năm 2016, anh Sáng

mãn hạn tù trở về địa phương. Trăn trở làm để trở thành một công dân có ích

như bao người, anh đi tìm việc nhiều nơi với hy vọng lấy lại quãng thời gian

mình đã đánh mất nhưng không tìm được công việc lâu dài. Sau khi được gia

đình động viên, chính quyền hỗ trợ vốn anh đã tự tin vượt qua mặc cảm để đi

học về cơ khí. Ra nghề, anh đi làm thuê để lấy kinh nghiệm, sau khi thành

thạo với sự hỗ trợ xét cho vay từ quỹ doanh nhân với số tiền 80 triệu đồng để

có vốn làm ăn. Hiện nay xưởng cơ khí của anh đã làm ăn có lãi cùng rất nhiều

đơn đặt hàng mang lại nguồn thu nhập chính cho gia đình.

Bên cạnh đó, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cũng có nhiều cá nhân điển

hình tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong hình phạt tù đã tự tiến

bộ, vươn lên làm giàu như: anh Phan Thanh Hải chủ cơ sở sửa xe máy, đại lý

cấp 1 phụ tùng xe máy ở phường Suối Hoa, Tp.Bắc Ninh ; anh Nguyễn

Hoàng Minh chủ trang trại vịt xiêm ở xã Bình Dương, huyện Gia Bình ; …

Tuy nhiên, vẫn còn một vài địa phương còn thiếu sự quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ,

tạo điều kiện cho người mãn hạn tù trở về đồng thời gia đình và người thân

cũng không nhận thức được vai trò của mình trong việc giáo dục, uốn nắn

người mãn hạn tù trở về do cuộc sống gia đình còn quá khó khăn nên dẫn đến

tình trạng tái phạm tội.

2.2. Những kết quả đạt được trong công tác tái hòa nhập cộng đồng đối

với người chấp hành xong hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh

Hiện nay ở Bắc Ninh việc đưa người chấp hành xong hình phạt tù trở

lại hòa nhập với cộng đồng và trở thành những người có ích là nhiệm vụ của

nhiều chủ thể trước hết là Đảng ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân là

các cơ quan lãnh đạo cũng như chỉ đạo trực tiếp các chương trình và kế hoạch

tái hòa nhập cộng đồng.

Bảng 2.1: Sổ liệu tái hòa nhập xã hội tại Bắc Ninh từ năm 2015-2019

Phân loại

Thời gian Số người ra tù

Tiến Bộ (%)

Khó khăn (%)

Biểu hiện phạm pháp (%)

2015 368 333 (90.4%) 36 (9.7%) 17 (4.6%)

2016 279 242 (86.7%) 32 (11.4%) 23 (8.2%)

2017 332 287(86.4%) 23 (6.9%) 13 (3.9%)

2018 312 304(97.4%) 19 (6.0%) 8 (2,5%)

2019 267 255(95.5%) 13 (4,8%) 9 (3,3%)

Tổng số 1558 1421(91,2%) 123(7,8%) 65(4,1%)

Nguồn: Báo cáo số liệu về tái hòa nhập của tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh từ

năm 2015-2019

Số liệu thống kê tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh cho thấy tình hình

tái hòa nhập cộng đồng tại tỉnh Bắc Ninh những năm qua đã có những chuyển

biến tích cực, bước đầu cho thấy hiệu quả của việc áp dụng pháp luật tái hòa

nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù trên địa bàn tỉnh.

Bảng 2.1 số liệu điều tra xã hội học về biểu hiện tái hòa nhập cộng đồng của

những người ra tù hàng năm của tỉnh Bắc Ninh tại trại tạm giam Công an tỉnh

và trên cả nước. Từ bảng điều tra có thế thấy, từ năm 2015 đến năm năm

2019, trong khoảng thời gian 5 năm tổng số người mãn hạn tù từ các trại giam

trên cả nước và trại tạm giam trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh là 1558 người, trung

bình hàng năm ở Bắc Ninh đón nhận 320 người chấp hành xong án phạt tù về

tái hòa nhập cộng đồng. Trong số những người mãn hạn tù này được phân

loại thành những đối tượng sau: số người tiến bộ là 1.421 người chiếm

91.2%; số người gặp khó khăn trong việc tái hòa nhập xã hội là 123 người

chiếm 7,8% và số người có biểu hiện phạm pháp là 65 người chiếm 4,1% có

thể thấy tuy số gặp khó khăn và biểu hiện tái phạm vẫn còn nhưng nhìn chung

số người tiến bộ vẫn chiếm phần nhiều hơn.

Tính từ năm 2015 đến năm 2019trong số 1558 người mãn hạn tù về

Bắc Ninh có khả năng tiến bộ và hòa nhập được với cuộc sống tại địa phương

là 1.421, chiếm 91,2% số người mãn hạn tù trở về địa phương tái hòa nhập

cộng đồng. Như vậy có thể nói, công tác tái hòa nhập cộng đồng tại tỉnh Bắc

Ninhđã dần đạt những thành công nhất định và đưa những người mãn hạn tù

trở lại cộng đồng, làm ăn ổn định cuộc sống. Những người mãn hạn tù trở về

địa phương có lối sống lành mạnh, hướng thiện và có chiều hướng hòa nhập,

tiến bộ với cuộc sống chung và quên đi quá khứ lầm lỡ, điều này cho thấy

tỉnh đã khá thành công với công tác tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp

hành xong hình phạt tù.

Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan, tổ chức liên quan được Công an

tỉnh Bắc Ninh tham mưu, hướng dẫn trong việc tiếp nhận, quản lý, giúp đỡ

người được đặc xá về địa phương nhanh chóng hòa nhập cộng đồng, phối hợp

với các đơn vị liên quan rà soát những người được đặc xá tại địa bàn để thống

nhất kế hoạch tiếp nhận và quản lý.

Trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 số người ra tù chênh lệch

không đáng kể ở Bắc Ninh, tuy nhiên qua mỗi năm cần nhìn nhận lại công tác

tái hòa nhập cộng đồng từ những người mãn hạn tù trở về Bắc Ninh đểchuẩn

bị tốt hơn công tác này ở những năm sau. Năm 2015, số người ra tù ở Bắc

Ninh là 386 người, trong đó số người tiến bộ là 333 người, chiếm 90,4%

trong tổng số những người được mãn hạn tù ở địa bàn tỉnh, bên cạnh đó

những người ra tù tái hòa nhập xã hội còn gặp khó khăn là 36 người chiếm

9,7% và số người có biểu hiện phạm pháp là 17 ngườichiếm 4,6%. Năm

2016, số người ra tù ở Bắc Ninh là 297 người trong số đó có 242 người có

biểu hiện tiến bộ chiếm 86.7%, số người gặp khó khăn trong việc trở về sinh

sống tại địa phương là 32 người chiếm 11.4% và số người có biếu hiện phạm

pháp là 23 người chiếm 8.2%. Năm 2017, số người ra tù ở Bắc Ninh là 332

người, trong đó số người tiến bộ là 287 người chiếm 86.4%, trong tổng số

332người ra tù của năm 2018 có 23 người tái hòa nhập cộng đồng gặp khó

khăn chiếm 6.9% và số người có biểu hiện phạm pháp là 13 người chiếm

3.9%. Năm 2018, Bắc Ninh đón nhận 312 người mãn hạn tù trở về địa

phương, trong số đó có 304 người có biểu hiện tiến bộ chiếm 97.4%, bên

cạnh đó còn 19 người gặp khó khăn khi trở về sinh sống tại địa phương chiếm

6.0% và 8 người cỏ biểu hiện pháp phạm chiếm 2,5%. Năm 2019, số người

mãn hạn tù về Bắc Ninh là 267 người, sau khi trở về địa phương có 255 người

có biểu hiện tiến bộ chiếm 95.5%, số người còn gặp khó khăn trong việc tái

hòa nhập cộng đồng là 13 người, chiếm 4,8% và số người có biểu hiện phạm

pháp là 9 người chiếm 3,3%. Như vậy, thông qua bảng số thống kê về số

người phạm tội mãn hạn tù cần được tái hòa nhập cộng đồng ở Bắc Ninh có

thể thấy được số người có biểu hiện tiến bộ ở các năm là khá cao trong tổng

số những người ra tù, điều này cho thấy công tác tái hòa nhập cộng đồng ở

các giai đoạn là tương đối hiệu quả. Đầu tiên là các chế độ tại trại tạm giam

,các chương trình định hướng, giúp đỡ và chuẩn bị về mặt tâm lý cũng như về

các kỹ năng nghề nghiệp, xã hội để người phạm tội khi mãn hạn tù trở về địa

phương có thể tái hòa nhập cộng đồng thành công. Bắc Ninh đã xây dựng

nhiều mô hình như mô hình “ hướng nghiệp cho phạm nhân chấp hành xong

hình phạt tù” nhờ mô hình này anh Nguyễn Hồng Hải ở phường Suối Hoa

trước khi trở về rất tự ti, nhưng nhờ chương trình này anh đã được giới thiệu

công việc và tự tin hòa nhập cộng đồng. Cùng với đó việc trở về địa phương

người phạm tội có thể hòa nhập với cộng đồng được hay không lại do công

tác tổ chức hoạt động này của chính quyền địa phương cùng với sự giúp sức

của người thân, gia đình và cả cộng đồng. Từ năm 2015 đến năm 2019, trung

bình mỗi năm trong số những người chấp hành xong hình phạt tù trở về địa

phương, số người có biểu hiện tiến bộ là 284 người chiếm 70,3% tổng số

người phạm tội mãn hạn tù ở Bắc Ninh. Ngược lại số người gặp khó khăn

trong việc tái hòa nhập qua các năm có xu hướng giảm: Năm 2015 số người

gặp khó khăn trong việc tái hòa nhập cộng đồnglà 36 người chiếm 9,7%, năm

2016 là 32 người chiếm 11.4% và con số này giảm dần qua các năm đến năm

2017 là 23 người (6.9%), năm 2018 là 19 người (6.0%) và năm 2019 chỉ là 13

người chiếm 4.8%. Rõ ràng cùng với sự phát triền của tỉnh và sự quan tâm

của các cấp, các ngành thì người phạm tội sau mãn hạn tù được quay trở về

địa phương sinh sống và làm ăn ngày càng tiến bộ hơn. Đặc biệt số người có

biểu hiện phạm pháp đã có xu hướng giảm từ 13 người chỉ còn 9 người từ

năm 2017 trở lại đây. Kết quả này là một kết quả khả quan và cho thấy rõ sự

cố gắng của cả một hệ thống các cơ quan, tổ chức và cá nhân trên địa bàn tỉnh

Bắc Ninh trong việc tái hòa nhập cộng đồng cho người phạm tội, để họ có

một sống binh thường, trở thành những công dân có ích sau một thời gian bị

cách ly khỏi xã hội.

Các quy định của pháp luật về giảm án, tha tù, đặc xá và kết quả học

tập, lao động cải tạo của phạm nhân .Công tác này tại tỉnh Bắc Ninh được làm

thường xuyên, hằng năm..Các phạm nhân được giảm án, tha tù,đặc xá đều

được thực hiện một cách công khai, đúng quy định để đảm bảo tính công khai

từ đó tạo ra động lực để người chấp hành hình phạt tù tích cực cải tạo để

nhanh chóng được ra tù. Dưới đây là bảng thống kê về tình hình đặc xá tại

Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh và tỷ lệ tái phạm của tỉnh từ năm 2015

đến năm 2019

Bảng 2.2Bảng số liệu về đặc xá từ năm 2015 đến 2019 tại Bắc Ninh

Năm Tỷ lệ tái phạm

2015 Số người đặc xá tại trại tạm giam công an tỉnh Bắc Ninh 31 11.2%

2016 09 10.6%

2017 Không đặc xá 0%

2018 Không đặc xá 0%

2019 Không đặc xá 0%

40 10.9%

Tổng cộng

Nguồn: Số liệu Đặc xá của trại tạm giam công an tỉnh Bắc Ninh từ 2015-2019

Năm 2015 trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh có 31 phạm nhân được

đặc xá với tỉ lệ tái phạm trung bình là 11.2% . Năm 2016 chỉ có 9 phạm nhân

với tỉ lệ tái phạm là 10.6% . Tỷ lệ người tái phạm của 2 năm 2015 và 2016

trung bình dao động ở mức10.9%. Còn từ năm 2017 đến 2019 hầu như không

có đợt đặc xá nào nguyên nhân là do các phạm nhân tại trại chưa đáp ứng đủ

điều kiện đặc xá và luật đặc xá cũng có nhiều thay đổi trong các năm này .Tuy

nhiên thì nhìn chung công tác tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành

xong hình phạt tù của địa phương đạt hiệu quả chưa cao, nguyên nhân là họ

không tìm việc được làm để ổn định cuộc sống bởi công tác dạy nghề cho

phạm nhân trại tạm giam chủ yếu là dạy các nghề chế biến nông sản như

trồng hoa màu, chăn nuôi nhằm cải thiện đời sống.

Những gia đình có ruộng vườn sẵn có vươn lên làm lại cuộc đời từ

chính của cải đó, bằng mồ hôi nước mắt của mình như trồng lúa, trồng hoa

màu, chăn nuôi gia súc gia cầm . Phần lớn thực tế cho thấy các nghề mà phạm

nhân được học trong trai giam hầu như không đáp ứng được điều kiện phát

triển của kinh tế thị trường và không phát huy được sau khi họ ra tù, hiện nay

ruộng còn ít chưa đáp ứng được nhu cầu để họ có thể ổn định thu nhập và

cuộc sống. Thêm vào đó sau khi ra tù họ còn mang nặng mặc cảm, tự ti, cộng

đồng dân cư có những thái độ kì thị, xa lánh nên một bộ phận không nhỏ đã

rời bỏ địa phương mà đi để che giấu quá khứ tội lỗi của mình. Chính vì thế,

rất khó để kiểm soát thông tin của họ, khi họ gặp khó khăn trong cuộc sống

không có gia đình đùm bọc, cưu mang, không có sự chung tay giúp sức của

cộng đồng nên họ rất dễ bị các phần tử xấu lôi kéo, rủ rê và tiếp tục vi phạm

pháp luật.

Nhũng năm qua, tỉnh đã áp dụng nhiều biện pháp phục vụ cho công tác

tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong hình phạt tù trên địa

bàn và bước đầu mang lại những hiệu quả nhất định như: Thực hiện các thủ

tục tiếp nhận, nắm tình hình, tạo điều kiện và chủ động tiến hành các biện

pháp theo dõi giáo dục, quản lý đối tượng mãn hạn tù giúp đỡ họ trong việc

tái hòa nhập cộng đồng; kết hợp giữa các ban ngành, đoàn thể trong việc quản

lý, giáo dục, tạo điều điều kiện thuận lợi để các đối tượng mãn hạn tù tham

gia các hoạt động xã hội, xóa bỏ mặc cảm về tội lỗi, để có thể tái hòa nhập

một cách thành công; phân công cán bộ cơ sở, các tổ chức, ban ngành, đoàn

thế thưởng xuyên gặp gỡ, động viên, giáo dục, giúp đỡ các đối tượng mãn hạn

tù; thường xuyên vận động, tuyên truyền nhân dân tham gia giáo dục, quản

lýcác đối tượng ra tù tái hòa nhập cộng đồng; tiến hành các hoạt động thu thập

tài liệu, củng cố hồ sơ phục vụ việc quản lý, giáo dục, giúp đỡ đối tượng mãn

hạn tù đồng thời tiến hành các thủ tục xóa án tích cho các đối tượng mãn hạn

tù khi đủ điều kiện; thưởng xuyên giải quyết các chính sách xã hội có liên

quan đến người mãn hạn tù để tạo điều kiện cho các đối tượng này tái hòa

nhập cộng đồng.

Hoạt động tái hòa nhập trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh diễn ra cụ thể như :

Tái hòa nhập vào gia đình: Gia đình là một thứ tình cảm thiêng liêng

mà người phạm tội luôn hướng về khi họ phải trả giá cho những việc làm trái

pháp luật của mình trong trại giam. Trên thực tế, những người chấp hành án

thường có xuất than trong các gia đình phức tạp: Bố mẹ ly hôn, hoàn cảnh

kinh tế gia đình khó khăn vì vậy cha mẹ mải lo kiếm sống mà không có thời

gian chăm lo, dạy dỗ con cái, không có điều kiện ăn học đầy đủ trình độ văn

hóa thấp hoặc trong gia đình đã có người có tiền án tiền sự thì việc giúp người

đó tái hòa nhập sau khi trở lại cộng đồng hầu như khó khăn hơn rất nhiều so

với các gia đình có mối quan hệ không phức tạp. Ví dụ anh Nguyễn Thanh

Tùng Trú tại huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh, gia đình phức tạp bố mẹ ly hôn,

sau khi ra tù về anh không có nơi để về, không chịu làm ăn sau đó vào làm ở

xưởng sản xuất áo mưa lại quen thói cũ ăn trộm đồ đạc của xưởng và lại đi

vào con đường tái phạm trở lại.

Tái hòa nhập vào cộng đồng dân cư nơi mà người chấp hành xong hình

phạt tù trở về cư trú, sinh sống: Người Việt Nam luôn có một tấm long vị tha,

bao dung với đạo lý “đánh kẻ chạy đi, không đánh người chạy lại”. Chính vì

thế cộng đồng dân cư nơi người mãn hạn tù quay về luôn là yếu tố vô cùng

quan trọng trong sự thành công của hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của

người chấp hành xong hình phạt tù. Đây là một trong những hoạt động được

các cấp chính quyền địa phương rất quan tâm và được xem là một trong

những tiêu chí để đánh giá thi đua của từng địa phương. Bởi thế như anh

Hoàng Quang Tiến từng bị giam giữ tại trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh

chia sẻ: “Đối với tôi vấn đề công ăn việc làm không quan trọng, tôi có thể làm

công việc lao động chân tay, sửa xe máy để kiếm sống nhưng mong chính

quyền địa phương và mọi người hãy coi tôi là con người, quên đi quá khứ

lầm lỡ của mình chấp nhận tôi một lần nữa. Hãy tôn trọng quyền bình đẳng

của tôi”

Hoạt động tái hòa nhập vào gia đình là điều kiện đầu tiên, quan trọng

để việc tái hòa nhập cộng đồng diễn ra hiệu quả hơn. Việc tái hòa nhập sẽ trở

nên dễ thực hiện hơn khi có gia đình là chiếc cầu nối cho người mãn hạn tù

trở về và cộng đồng dân cư nơi họ sinh sống, là động lực để họ cố gắng quay

lại con đường hoàn lương, là chỗ dựa tinh thần để họ tự tin từng bước hòa

nhập vào cộng đồng sinh sống và dần thích nghi, điều chỉnh hành vi, tự điều

chỉnh sao ho phù hợp với các quy tắc, quy định của pháp luật. Đây là một quá

trình đầy khó khăn và thử thách đòi hỏi họ phải có thời gian, sự nỗ lực hết

mình và lòng kiên nhẫn để vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, hoàn

thiện bản thân và là quá trình hồi sinh, phục hồi nhân cách.Lực lượng Công

an là lực lượng đóng vai trò chính trong việc tiến hành giúp đỡ, giáo dục, thực

hiện các biện pháp quản lý người phạm tội mãn hạn tù tái hòa nhập cộng

đồng, các cán bộ chiến sĩ công an xác định rõ trách nhiệm của mình, có thái

độ nhiệt tình, trau dồi kiến thức, quan tâm đến công tác này.

Các biện pháp quản lý, giáo dục người phạm tội trở về với cộng đồng

của địa phương phải dựa trên những tiêu chuẩn, điều kiện riêng phù hợp với

điều kiện từng vùng miền theo, đặc thù từng địa phương. Quá trình quản lý,

giáo dục, giúp đỡ và tạo điều kiện cho người mãn hạn tù, người được đặc xá,

tha tù trở về địa phương tái hòa nhập cộng đồng ổn định cuộc sống, làm người

lương thiện là một quá trình phức tạp, đầy khó khăn, thách thức đối với các

ngành, các cấp chính quyền địa phương và toàn xã hội. Do đó, cần phải có sự

chung tay, đồng lòng, góp sức của toàn xã hội và cộng động dân cư nơi người

chấp hành án sinh sống.

Theo quy định của pháp luật hiện hành các hoạt động quản lý, giáo dục

đối với người chấp hành xong hình phạt tù trở về tái hòa nhập cộng đồng là

hoạt động quản lý hành chính – tư pháp. Đây được coi là mộtphần của các

biện pháp giữ gìn an ninh trật tự và phòng chống tội phạm. Do vậy, để có thể

làm tốt công tác này giúp đối tượng hòa nhập với cộng đồng vì vậy cần tạo điều

kiện để họ nhanh chóng hòa nhập vừa có tác dụng phòng ngừa, vừa mang yếu tố

nhân đạo. Các cơ quan tiếp nhận và sự trình diện của người mãn hạn tù, người

được đặc xá trở về địa phương là Công an, Ủy ban nhân dân nơi người chấp

hành xong hình phạt tù trở về cư trú.

Bước quan trọng trong quá trình phục hồi tư cách và các quyền công

dân chính là việc người mãn hạn tù đến trình diện tại chính quyền địa phương.

Trên cơ sở đó các cơ quan liên quan như Công an và Ủy ban nhân dân sẽ

hướng dẫn họ thực hiện các công việc như khái báo tạm trú, tạm vắng, các thủ

tục khác liên quan đến chứng minh nhân dân và hộ khẩu. Ủy ban cũng là nơi

khi người mãn hạn tù trở về cư trú có trách nhiệm có trách nhiệm năm bắt

thông tin về nhân thân, gia đình, quan tâm thăm hỏi động viên để giúp họ sớm

hòa nhập vào cộng đồng.Cùng với đó,tiến hành phân loại để có biện pháp

quản lý phù hợp với từng đối tượng chấp hành xong hình phạt tù. Cần phân

loại dựa trên các tiêu chí phù hợp về giới tính, hoàn cảnh gia đình, độ tuổi...

Các quy định của pháp luật hiện tại cũng đã đề cập cụ thể về việc tiếp

nhận quản lý, giáo dục và tạo điều kiểu để người mãn hạn tù trở về với cộng

đồng đó là trách nhiệm của tát cả các ngành không riêng gì bất cứ ngành nào.

Chính sách đặc xá, xóa án tích của Việt Nam là cơ sở góp phần lớn vào việc

tạo điều kiện cho người chấp hành án nyhanh chóng trở về với xã hội, có

động lực cải tạo tốt để được hưởng đặc xá và miễn giảm. Việc tòa án ra quyết

định miễn giảm, xóa án tích và cấp giấy chứng nhận là việc làm vô cùng ý

nghĩa trong việc xác định tiền án tiền sự của một người để người đó được xác

nhận là không còn án tích, lúc này hoạt động tái hòa nhập cộng đồng đã coi

như thật sự thành công.

Trên đài truyền hình tỉnh vào các tối thứ 6 hàng tuần đều có phát song các

chương trình về việc tử tế, tôn vinh những người ra tù vươn lên trong cuộc sống,

làm chủ cuộc đời quay về với cuộc sống lương thiện và làm giàu chính đáng qua

đó động viên họ để họ có thêm tự tin, xóa bỏ những định kiên của xã hội, cố

gắng để ổn định cuộc sống trở thành người có ích cho xã hội. Phần lớn những

người mãn hạn tù về có trình độ văn hóa thấp, không có nghề nghiệp, không có

việc làm hoặc có nghề nghiệp thì cũng chỉ là những nghề lao động giản đơn,

theo mùa vụ thu nhập không đảm bảo cuộc sống hàng ngày.Tuy nhiên, trong nền

kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay thì đa số các doanh nghiệp

cũng hạn chế tuyển dụng lao động là người đã có tiền án cho dù được giáo dục

rất tốt, bài bản trong trại giam nên họ vẫn khó khăn với việc mưu sinh và ổn định

cuộc sống.

2.3. Những khó khăn , vướng mắc trong công tác tái hòa nhập cộng đồng

đối với người chấp hành xong hình phạt tù của tỉnh Bắc Ninh và các

nguyên nhân cơ bản.

2.3.1 Những khó khăn, vướng mắc trong công tác tái hòa nhập cộng đồng

đối với người chấp hành xong hình phạt tù tại tỉnh Bắc Ninh

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tái hòa nhập cộng đồng của

tỉnh Bắc Ninh còn tồn tại những hạn chế chủ yêu sau:

Thứ nhất, các quy định của pháp luật về công tác tái hòa nhập còn

nhiều bất cập, chung chung chưa cụ thể và nằm rải rác ở nhiều văn bản dưới

luật của nhiều cơ quan khác nhau

Hiện tại có nhiều các văn bản khác nhau cùng các văn bản dưới luật của

nhiều cơ quan đều có quy định về vấn đề tái hòa nhập cộng đồng dẫn đến tình

trạng khó áp dụng và áp dụng không thống nhất. Các văn bản luật có quy định

về tái hòa nhập xã hội như : Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, luật

Thi hành án hình sự, Nghị định số 80/2011/NĐ-CP ngày 16/11/2011 của

chính phủ quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng của người

chấp hành xong án phạt tù, Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 05/12/2018 của Thủ

tướng chính phủ về tăng cường các biện pháp đảm bảo tái hòa nhập cộng

đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù, Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP

ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị định

số 117/NĐ-CP ngày 15/12/2011 của chính phủ quy định về tổ chức quản lý

phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân,

v.v…Những Quy định trong các văn bản mang tính khái quát cao, mới chỉ

dừng lại ở những vấn đề mang tính nguyên tắc. Chưa có những quy định cụ

thể về trách nhiệm của các cơ quan tổ chức hữu quan như trại giam, chính

quyền cơ sở, các tổ chức chính trị xã hội v.v…trong việc quản lý giáo dục

hoặc giúp đỡ phạm nhân tái hòa nhập cộng đồng. Các quy định còn mang tính

chung chung, hình thức không chỉ rõ cách thức, cơ chế thực hiện công tác này

cũng như quy định vai trò của từng cơ quan trong việc phối hợp thực hiện với

nhau như thế nào; các quy định về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể của

từng cơ quan, đoàn thể, các cá nhân tham gia vào công tác tái hòa nhập cho

người chấp hành xong hình phạt tù và cũng chưa quy định cụ thể xem nếu

như không thực hiện thì sẽ áp dụng những chế tài cụ thể nào.

Sau 8 năm đi vào thực hiện, đến nay Luật thi hành án hình sự năm 2010

đã bộc lộ một số điểm hạn chế cần sửa đổi, bổ sung mà trước đây hoạt động

thi hành án hình sự vẫn chủ yếu theo luật thi hành án hình sự 2010 ví dụ:

“Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện

phối hợp với gia đình phạm nhân, chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức,

cá nhân quan tâm động viên phạm nhân tích cực học tập, lao động, rèn luyện

đế được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước; hỗ trợ các hoạt động giáo dục,

dạy nghề cho phạm nhân và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để phạm nhân tái

hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù” Các quy định như

vậy còn rất chung chung, mang tính hình thức mà không chi rõ phương thức,

cơ chế thực hiện công tác tái hòa nhập cho người phạm tội như thế nào, trách

nhiệm, vai trò của từng cơ quan như thế nào, đồng thời chưa tập trung chú

trọng vào quy định nhiệm vụ của chính quyền cấp cơ sở đối với việc tái hòa

nhập xã hội cho người phạm tội. Bởi đây mới là đầu mối trong việc thực thi

công tác tái hòa nhập xà hội cho người phạm tội tại địa phương.

Tuy nhiên, Luật thi hành án hình sự 2019 đã bổ sung Điều 45 quy định

về tái hòa nhập cộng đồng, theo đó trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành

án hình sự công an cấp huyện có trách nhiệm tổ chức chuẩn bị tái hòa nhập

cộng đồng trước khi phạm nhân chấp hành xong án phạt tù, được đặc xá, tha

tù trước thời hạn có điều kiện. Nội dung chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng bao

gồm: Tư vấn tâm lý, hỗ trợ các thủ tục pháp lý; định hướng nghề nghiệp, tìm

kiếm việc làm; hỗ trợ một phần kinh phí từ Quỹ hòa nhập cộng đồng của trại

giam; kinh phí bảo đảm cho việc thực hiện tái hòa nhập cộng đồng do ngân

sách nhà nước cấp; quỹ hòa nhập cộng đồng của trại giam và các quỹ khác

theo quy định của pháp luật; nguồn đóng góp tự nguyện của cơ quan, tổ chức,

cá nhân và các nguồn thu hợp pháp khác. Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ

chức, đơn vị, cá nhân tạo điều kiện, giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù,

người được đặc xá, người được tha tù trước thời hạn có điều kiện tái hòa nhập

cộng đồng bằng các biện pháp như thông tin, truyền thông, giáo dục về tái

hòa nhập cộng đồng; dạy nghề, giải quyết việc làm; trợ giúp về tâm lý và hỗ

trợ các thủ tục pháp lý; các biện pháp hỗ trợ khác. Đây cũng là một quy định

cụ thể hơn đối với vấn đề tái hòa nhập cộng đồng cho người phạm tội hơn các

quy định trước đây. Trên thực tế địa bàn Bắc Ninh cũng chưa có sự phân công

rõ ràng, chưa lôi kéo được nhiều người dân tham gia, họ vẫn còn thờ ơ thậm

chí xa lãnh những người chấp hành xong hình phạt tù.

Đối với mặt tổ chức, chưa có cơ quan đầu mối chuyên trách để thống

nhất trong việc quản lý hoạt động tái hòa nhập cộng đồng từ trại giam về với

địa phương do đó kết quả của những hoạt động này không cao và chủ yêu phụ

thuộc nhiều vào sự quan tâm, sâu sát và tính sáng tạo của từng địa phương,

trên thực tế việc tổ chức thực hiện công tác này cũng không có được sự thống

nhất trên phạm vi. Quản lý nhà nước về công tác này còn nhiều thiết sót, hạn

chế, chưa có sự thống nhất liền mạch từ giai đoạn chuẩn bị đến giai đoạn tái

hòa nhập cộng đồng tại địa phương nơi họ trở về sinh sống.

Việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với chính quyền địa

phương trong việc quản lý người mãn hạn tù tại địa phương nơi họ cư trú

chưa được chặt chẽ, không nhanh nhẹn kịp thời. Trên thực tế nhiều địa

phương chưa nắm bắt được đầy đủ thông tin, có nhiều trường hợp sai địa chỉ,

có trường hợp không nắm bắt được chỗ ở của người mãn hạn tù trở về bởi sau

khi ra tù họ không trở về để trình diện nên địa phương không biết họ đi đâu

làm gì. Việc đào tạo, chỉ đạo công tác cho Công an các cấp xã tuy đã được

tiến hành nhưng còn nhiều bất cập, vướng mắc chưa kịp giải quyết, tháo gỡ.

Sự chỉ đạo cho cơ quan Công an cấp dưới trong việc làm các thủ tục đề nghị

Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định xóa án tích cho các đối tượng còn

chưa được tốt.

Đối với công tác tiếp nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã còn nhiều hạn

chế chưa đúng theo quy định vẫn thực hiện theo lối mòn. Công an các cấp vẫn

còn chưa thật sự sâu sát trong việc nắm bắt tình hình, thông tin, hoàn cảnh của

đối tượng thêm vào đó việc hướng dẫn đối tượng trở về sau khi chấp hành án

làm thủ tục xóa án tích còn chưa làm hết trách nhiệm trong công tác này. Việc

phối hợp giữa các ngành chưa đồng bộ, chưa thực sự huy động được đông đảo

sự tham gia của cộng đồng. Đối với công tác giúp đỡ các đối tượng mãn hạn

tù tìm việc làm chưa được quan tâm, chủ yếu họ vẫn phải chật vật tìm việc

làm với cơ hội ít ỏi, cho vay vốn đối với các đối tượng còn khó khăn, nhiều

thủ tục và hầu như không được hỗ trợ nhiều, chủ yếu là nhận sự hỗ trợ, giúp

đỡ từ gia đình để có thể vươn lên trong cuộc sống đây chính là nhu cầu cần

nhất đối với người chấp hành xong hình phạt tù khi trở về với cộng đồng. Do

vậy, thực chất việc giải quyết việc làm cho đối tượng tái hòa nhập cộng đồng

hiệu quả không cao là do phần lớn những người mãn hạn tù không có chuyên

môn nghề nghiệp, yếu kém về trình độ văn hóa nên nếu được nhận vào làm

việc thì họ làm cũng không hiệu quả, mất nhiều chi phí đào tạo gây tốn kém

cho doanh nghiệp. Bắc Ninh tuy đã xây dưng được trung tâm giới thiệu việc

làm tuy nhiên người chấp hành xong hình phạt tù trở về họ vẫn không tìm

được việc làm ôn định hầu như chỉ là các công việc như phụ hồ, bôc vác, thêu

thùa, ve chai, đa số là các công việc mang tính chất thời vụ không lâu dài với

thu nhập bấp bênh, không nuôi sống được gia đình. Cơ sở vật chất cho hoạt

động tái hòa nhập còn chưa được đầu tư, càng ngày số phạm nhân trên địa bàn

tỉnh Bắc Ninh nói riêng và cả nước nói chung ngày càng gia tăng tạo áp lực

rất lớn lên các trại giam, tạm giam trên cả nước, thêm vào đó kinh phí để xây

dựng trung tâm dạy nghề vẫn chưa được triển khai thực hiện.

Do điều kiện cơ sở vật chất trên địa bàn tỉnh còn hạn chế, số lượng

phạm nhân ngày càng gia tăng tuy nhà nước ta rất quan tâm tới việc tái hòa

nhập cộng động cho người chưa thành niên phạm tội rất được quan tâm nhưng

vẫn diễn ra tình trạng giam người chưa thành niên chung với người thành

niên. Công tác giáo dục phạm nhân cần phải có sự đổi mới để đáp ứng được

nhu cầu trong giai đoạn hiện nay để đáp ứng yêu cầu của công tác tái hòa

nhập cộng đồng góp phần tích cực phòng, chống tội phạm nhằm đảm bảo

quyền con người nói chung và quyền của phạm nhân nói riêng. Hoạt động tái

hòa nhập cho phạm nhân trong trại giam còn mang nặng hình thức, đơn giản

là tách phạm nhân với xã hội bên ngoài nhừm tước đi quyền tự do của họ. Đối

với lực lượng Công an tuy là lực lượng nòng cốt nhưng không phải là lực

lượng chuyên trách thực hiện công tác tái hòa nhập cộng đồng.

Thứ hai, các vấn đề mang tính xã hội trong hoạt động tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt tù cả nước nói chung và trên

địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng còn hạn chế

Luật thi hành án hình sự 2010 đã quy định rất rõ về chế độ học tập, chế

độ lao động tuy nhiên chất lượng giáo giục pháp luật, văn hóa, về trách

nhiệmcông dân cho người chấp hành án phạt tù còn nhiều bất cập. Các cấp,

các ngành còn thờ ơ chưa sâu sát. Nhà nước chưa có các chính sách cụ thể,

riêng biệt về việc quản lý các đối tượng tái hòa nhập cộng đồng. Cơ sở vật

chất giảng dạy của tỉnh Bắc Ninh cònsơ sài hơn nữa số phạm nhân luôn luôn

vượt quá quy mô của trại. Do đó việc tái hòa nhập cộng đồng chưa làm

chuyển biến cơ bản tư tưởng phạm nhân để họ quyết tâm tránh xa tội lỗi khi

ra tù và chưa đạt được hiệu quả cao. Việc đào tạo nghề tại các trại giam chưa

đáp ứng được yêu cầu của xã hội, một phần do cơ sở vật chất, điều kiện dạy

nghề tại các trại giam, trại tạm giam còn hạn chế, các kỹ năng được học còn

chưa bắt kịp với xu thế ngoài xã hội nên nhiều phạm nhân sau khi ra tù chưa

có được một nghề nghiệp ổn định để kiếm sống mà vẫn phải sống dựa vào gia

đình, đây cũng là một khó khăn cho phạm nhân khi tái hòa nhập cộng đồng

thứ ba, điều kiện của người phạm tội sau khi rời khỏi trại giam không thuận

lợi.

Sau một thời gian cách ly khỏi xã hội người mãn hạn tù trở về gặp rất

nhiều khó khăn bởi họ có tâm lý mặc cảm và không có công ăn việc làm ổn

địnhkhiến họ khó có thể hòa nhập với cộng đồng ngay được, do vậy công tác

tái hòa nhập cộng đồng đóng một vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên trên thực

tế, do trình độ văn hóa của người phạm tội hầu như còn thấp hầu đa phần

chưa học hết cấp ba, không có kỹ năng nghề nghiệp nên không thể có cơ hội

tìm việc làm và xin được những công việc ổn định. Hơn nữa với một bộ phận

không nhỏ doanh nghiệp và người dân vẫn mang nặng tư tưởng kì thị, xa lánh

khiến người phạm tội mãn hạn tù rất khó trong việc hòa nhập trở lại với cộng

đồng. Sau khi ra tù nhiều người tuổi tác đã lớn không còn trong độ tuổi lao

động nữa hoặc không quen với sự thay đổi của môi trường bên ngoài trại

giam, điều này cũng gây khó khăn cho việc họ tái hòa nhập cộng đồng. Khi ra

tù, gia đình là nơi người phạm tội có thể trở về, tuy nhiên đa phần các gia

đình thân nhân của người phạm tội là khó khăn, không có sự hỗ trợ, họ không

có vốn để làm ăn, đầu tư sản xuất, kinh doanh gây cản trở rất lớn để họ có

được một cuộc sống bình thường như baongười dân khác. Đa sốmọi người

vẫn còn nhiều định kiếnnhững người phạm tội khi được mãn hạn tù và coi

công tác tái hòa cộng đồng hội chỉ là trách nhiệm của chính quyền và của gia

đình người phạm tội.Vai trò của cộng đồng là rất quan trọng không thể phủ

nhận do đó việc tuyên truyền để công dân hiểu được tầm quan trọng của công

tác tái hòa nhập cộng đồng để tất cả các thành viên trong xã hội chung tay

giúp đỡ những người mãn hạn tù trở về với cộng đồng. Nhiều người có hoàn

cảnh một mình không có nơi để về, không có điều kiện để sinh sống họ

đãquay trở lại với con đường phạm pháp, có nhiều người sau khi ra tù hầu

như không gặp gỡ bạn bè, tránh tiếp xúc với mọi người vì tâm lý mặc cảm và

sợ sệt. Một số người phạm tội là lao động chính của gia đình, là người duy

nhất có đủ sức khỏe kiếm tiền để nuôi cả gia đình, do đó khi họ phải chấp

hành án, cả một gia đình bị ảnh hưởng và khó khăn về kinh tế, thậm chí tan

nát.Có nhiều trường hợp khi vẫn đang chấp hành án thì ở bên ngoài vợ hoặc

chồng làm thủ tục ly dị, điều đó dẫn đến người phạm tội có tâm lý thất vọng,

bất cần.Đa phần các yếu tố dẫn đến hiện tượng tái phạm sau khi ra tù đều xuất

phát từ nguyên nhân của việc không vượt quá được những khó khăn, thử

thách sau khi trở lại với cuộc sống .

Thứ ba, những tác động từ các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, đoàn

thể và gia đình là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác tái

hòa nhập xã hội cho người phạm tội.

Công tác tái hòa nhập cộng đồng có rất nhiều cơ quan cùng tham gia và

mỗi nơi có một chức năng riêng biệt thế nhưng nhiều khi việc phối hợp vẫn

chưa thực sự thường xuyên nhằm đảm bảo tốt hiệu quả của công tác này. Các

tổ chức chưa phân bổ nguồn ngân sách một cách hợp lý cho công tác tái hòa

nhập cộng đồng, cơ sở vật chất còn sơ sài cộng với đó là sự tham gia đóng

góp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với người chấp hành xong hình

phạt tù còn hạn chế, chưa được quan tâm. Sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ

chức đối với gia đình người chấp hành án xong còn rất ít. Người phạm tội

chấp hành xong án phạt tù được trở về địa phương, gia đình là nơi đầu tiên để

họ trở về và cũng là nơi duy nhất chấp nhận quá khứ lầm lỗi của họ.Do đó

nếu như gia đình không có điều kiện hoặc bản thân gia đình cũng không có

cái nhìn thiện cảm đối với họ thì làm sao họ có thể hòa nhập cộng đồng.Hoàn

cảnh kinh tế gia đình khó khăn là một trong số những nguyên nhân cản trở

quá trình tái hòa nhập cộng đồng, gia đình không thể hỗ trợ gì cho họ, đối

tượng khi mãn hạn tù không có công ăn việc làm để tự nuôi sống bản thân

mình, bên cạnh đó họcòn là trụ cột phải gánh vác nuôi sống những thành viên

khác trong gia đình mà các tổ chức, doanh nghiệp trong xã hội thường rất có

định kiến với những người vừa ra tù, đây là một trong những nguy cơ dẫn đến

những trường hợp tái phạm và ảnh hưởng tiêu cực tới công tác tái hòa nhập xã

hội đối với những người phạm tội. Ngoài ra, việc gia đình buông lỏng, thiếu

quan tâm trong việc quản lý những đối tượng đã từng có thời gian trong tù sẽ

rất dễ xảy ra những trường hợp tiêu cực như bị đồng bọn, bạn bè lôi kéo đi

theo con đường phạm pháp trước đây.Thực trạng đối tượng mãn hạn tù trên

địa bàn tỉnh cho thấy đa số đối tượng mãn hạn tù hàng năm gia đình có hoàn

cảnh kinh tế khó khăn hoặc hoàn cảnh đặc biệt. Vì vậy, đời sống kinh tế của

gia đình và bản thân những đối tượng này thường khó khăn, chính điều này đã

ảnh hưởng không nhỏ đến công tác tái hòa nhập xã hội đối với họ. Một số đối

tượng khi ra tù lại gia định lại gặp nhiều biến cố, xảy ra mâu thuẫn hoặc bị

chính người thân của mình ruồng bỏ khiến những người phạm tội đã mặc cảm

lại càng tự ti hơn trong việc hòa nhập với cộng đồng xã hội.

Thứ tư, chưa được sự quan tâm đúng mực và sâu sắc của các cơ quan

có thẩm quyển và các ban ngành, đoàn thể của tỉnh Bắc Ninh, chưa có một cơ

quan đầu mối thống nhất để quản lý.

Công tác tái hòa nhập cộng đồngluôn bị xem đó như là trách nhiệm của

riêng ngành Công an cho nên mọi người vẫn có thái độ dửng dưng mặc kệ,

chưa nhận được sự quan tâm sâu sắc của các cơ quan, các ban ngành, đoàn thể

có thẩm quyền của tỉnh, trong khi thực tế công tác này đòi hỏi sự quan tâm và

cùng thực hiện của cả toàn dân và toàn xã hội trên cả nước nói chung và tỉnh

Bắc Ninh nói riêng.Các cơ quan có thẩm quyền còn chưa được phổbiến, tuyên

truyền sâu rộng về việc triển khai các chương trình, biện pháp tái hòa nhập

cộng đồng của dẫn đến tình trạng chưa tạo được sự quan tâm của đông đảo

người dân vào công tác.Đây là một công tác có ý nghĩa quan trọng với toàn xã

hội nhưng hiện nay xét về mặt tổ chức thì thiếu một cơ quan chuyên trách

thực hiện làm nhiệm vụ đầu mối giữa các bộ, ban ngành có liên quan, đồng

thời giúp Chính phủ hoạch định chính sách, dự thảo các văn bản quy phạm

pháp luật điều chỉnh công tác tái hòa nhập xã hội. Do thiếu cơ quan đầu mối

nên việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, thực hiện tái hòa nhập cộng

đồng chưa có sự thống nhất.Mặc dù hiện nay lực lượng Công an được coi như

lực lượng nòng cốt trong công tác này nhưng xét cho cùng thì lực lượng công

an chỉ có nhiệm vụ quản lý đối tượng phạm tội mãn hạn tù về mặt hành chính

nhằm ổn định trật tự, an ninh trên địa bàn và những hoạt động họ thực hiện

cũng chỉmang tính nghiệp vụ. Trên địa bàn tỉnh hiện nay vẫn chưa có một lực

lượng chuyên trách để thực hiện công tác tái hòa nhập cộng đồng. Bên cạnh

đó, ý thức trách nhiệm của các cơ quan, đoàn thể và công dân trong vấn đề

này còn kém, thông thường mọi người đều cho rằng công tác giúp đỡ, quản lý

đối tượng phạm tội mãn hạn tù là trách nhiệm của riêng ngành Công an và gia

đình người phạm tội, từ đó gây ra tình trạng mang nặng định kiến, xa lánh, né

tránh và có phần không quan tâm trước sự nỗ lực tái hòa nhập cộng đồng của

người phạm tội sau khi mãn hạn tù. Có rất nhiều trường hợp đối tượng mãn

hạn tù được thả về địa phương nhưng lại không được sự quan tâm kịp thời của

chính quyền, đoàn thể cấp cơ sở dẫn đến tâm lý chán nản, buông xuôivà họ dễ

lại bị lôi kéo hoặc tự tìm đến con đường phạm pháp trở lại. Thực tế cho thấy

bản thân đối tượng đã rất mặc cảm với quá khứ tội lỗi của mình rồi nhưng

những người sống xung quanh lại có tư tưởng xa lánh, ruồng bỏ khiến họ

càng mặc cảm và sống khép mìnhhơn. Tuy nhiên các đoàn thể, chính quyền

địa phương lại không có biện pháp giúp đỡ họ về cuộc sống và tâm lý, chưa

có các cuộc tuyên truyền, vận động để thu hút đông đảo người dân hiểu được

và thông cảm không còn thái độ kì thị với người phạm tội nữa. Các hoạt động

của các địa phương hiện nay vẫn còn mang nặng tính hình thức, chưa đi sâu

tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của người mãn hạn tù để họ có thể trở thành

những người bình thường như những công dân khác, đồng thời có những biện

pháp và chính sách hỗ trợ kịp thời để họ an tâm, ổn định cuộc sống. Điều này

đa phần các địa phương chưa làm được hoặc có làm nhưng hiệu quả chưa cao

do chỉ mang tính hình thức, qua loa. Ngoài ra, như một sự công nhận chính

thứcvề mặt pháp lý cho người phạm tội để những người này không bị coi là

có tiền án mang ý nghĩ mặc cảm tội lỗi với mọi người xung quanh thì các cơ

quan có thẩm quyền cần chú trọng đến việc xóa án tích cho người phạm tội.

Công tác này ở tỉnh Bắc Ninhvẫn chưa thực sự được quan tâm và phổ biến

rộng rãi đến người dân để thu hút sự tham gia đông đảo của nhân dân, góp

phần giúp đỡ người phạm tội tái hòa nhập xã hội và mang đến hiệu quả cao

cho công tác này trên địa bàn tỉnh. Các cấp chính quyền địa phương còn tỏ ra

khá thờ ơ với việc vận động, tuyên truyền người dân có cái nhìn thiện cảm

hơn với người mãn hạn tù.Nhiều địa phương khi đề cập đến chính sách dành

cho người mãn hạn tù trở về địa phương mình chỉ đưa ra chung chung mà

không có cơ chế thực thi cũng như không có sự trợ giúp nào cụ thể cho người

phạm tội khi mãn hạn tù để họ tái hòa nhập với cộng đồng, có những địa

phương còn không nắm được số lượng người ra tù trên địa bàn của mình,

thậm chí còn không biết họ ra tù khi nào và hiện đang làm công việc gì tại địa

phương. Hiện nay chưa có một cơ quan nào chịu trách nhiệm quản lý thống

nhất đối với công tác tái hòa nhập xã hội cho người phạm tội, đó là một khó

khăn cho công tác tái hòa nhập của cả nước nói chung và của tỉnh Bắc Ninh

nói riêng. Trên địa bàn tỉnh, ngoài cơ quan Công an thường xuyên thực hiện

các hoạt động nghiệp vụ của mình đồng thời đó cũng là các hoạt động phục

vụ cho công tác tái hòa nhập cộng đồng của tỉnh thì các cơ quan, đoàn thể và

tổ chức khác chỉ tham gia khi có sự đôn đốc, chỉ đạo của ủy ban nhân dân tỉnh

và lãnh đạo tỉnh. Các địa phương dù quản lý nhân khẩu, hộ tịch những chưa

có những biện pháp giúp đỡ, hỗ trợ cho người phạm tội tái hòa nhập cộng

đồng tại địa phương. Công tác tái hòa nhập cộng đồng trên địa bàn tỉnh hiện

nay còn thiếu một cơ quan đầu mối để thống nhất các hoạt động và hơn nữa

đó là chưa được sự quan tâm một cách sâu sắc của các cấp chính quyền tỉnh.

Thứ năm, các trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm vẫn ở mức cao

và có xu hướng ngày càng phức tạp.

Hiện nay trên địa bàn tỉnhcác trưởng hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm

ở mức khá cao và có xu hướng ngày càng phức tạp hơn. Nếu như công tác tái

hòa nhập xã hội được Nhà nước quan tâm thực hiện và xã hội cùng tham gia

thì việc tái hòa nhập có đạt được kết quả cao hay không còn xuất phát đầu tiên

từ sự cố gắng từ bản thân người phạm tội. Các yếu tố tác động bên ngoài chỉ

mang tính chất hỗ trợ, tác động bên ngoài đến sự hòa nhập của người phạm

tội còn bản thân người phạm tội lại đóng vai trò chủ động và quyết định đến

quá trình hòa nhập cộng đồng của họ, có thể trở thành những người có ích cho

xã hội hay không phụ thuộc nhiều vào chính ý trí của bản thân. Các loại vụ

việc do đối tượng tù tha vi phạm trở lại, tái phạm rất phức tạp và đa dạng cả

về phạm vi và mức độ. Các đối tượng tái phạm thường kết nối với nhau thành

lập băng nhóm để hoạt động phạm tội. Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh số

trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm có diễn biến ngày một phức tạp khó

kiểm soát. Đây là khó khăn trong công tác tái hòa nhập cộng đồng của tỉnh

nói riêng và cả nước nói chung. Tái phạm, tái phạm nguy hiểm là một trong

những biểu hiện rõ nhất của việc tái hòa nhập không hiệu quả đối với người

mãn hạn tù.

Thứ sáu, trình độ năng lực và trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ cán

bộ trong công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong hình

phạt tù còn hạn chế

Đội ngũ cán bộ nghiệp vụ và các cán bộ chuyên trách là những người

trực tiếp quản lý phạm nhân tuy nhiên ngoài những điều kiện về trình độ, tiêu

chuẩn theo quy định pháp luật thì việc trau dồi nghiệp vụ, nâng cao kiến thức

vẫn chưa được chú trọng. Bên cạnh đó, ngoài những cán bộ làm công tác tái

hòa nhập cho người phạm tội thì các cán bộ khác tham gia vào công tác tái

hòa nhập chưa thật sự được quan tâm, bồi dưỡng nhiều về nghiệp vụ, kiến

thức,chưa có thái độ hết mình tham gia vào công tác tái hòa nhập cho người

mãn hạn tù. Các cán bộ công an tham gia vào công tác tái hòa nhập cộng đồng

họ thực hiện nghiệp vụ đồng thời cũng là hoạt động để tái hòa nhập cho người

phạm tội. Tuy nhiên, do đó họ không đảm bảo được tính hiệu quả và chưa

thực sự chú trọng đến công tác sau khi người phạm tội chấp hành án xong tại

trại giam. Công tác giảng dạy, tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đối

với người phạm tội chưa thực sự hiệu quả, chưa khiến người phạm tội nhận

thức đầy đủ về hành vi của mình, vẫn còn nhiều trường hợp tái phạm, tái

phạm nguy hiểm . Việc thăm hỏi, khảo sát sau khi người chấp hành xong hình

phạt tù trở về với xã hội hầu nhưng không có. Hiện nay Bắc Ninh còn thiếu

đội ngũ chuyên trách để thực hiện công tác tái hòa nhập cộng đồng. Đặc biệt

là trong tình hình tội phạm diễn ra ngày càng phức tạp và những tác động của

nền kinh tế thị trường gây ảnh hưởng rất nhiều đến an ninh, trật tự an toàn của

Bắc Ninh nói riêng và đất nước nói chung.

2.3.2 Nguyên nhân của những hạn chế của hoạt động tái hòa nhập cộng đồng

Dù pháp luật đã quy định nhiều biện pháp đảm bảo tái hòa nhập khác

nhau đối với người chấp hành xong hình phạt tù điển hình như nghị định số

80/NĐ-CP ngày 16/9/2011 của chính phủ. Nhưng các đối tượng lại có những

hoàn cảnh, đặc trưng khác nhau như vùng miền, điều kiện kinh tế, giới tính,

dân tộc…cho nên hoạt động này đòi hỏi phải có các chính sách cụ thể thêm

vào đó là tính sáng tạo, linh hoạt tùy theo từng đối tượng.

Việc tuyên truyền, giáo dục, phổ biến đường lối của Đảng và chính

sách pháp luật của nhà nước về công tác tổ chức tái hòa nhập cho người chấp

hành xong hình phạt tù vẫn chưa thực sự được phổ biến rộng rãi đến cộng

đồng mà mới chỉ dừng lại ở những người làm luật và một số cá nhân liên

quan. Hầu như mọi người đều có tâm lý thờ ơ, không quan tâm. Tại các địa

phương các mô hình giúp đỡ người mãn hạn tù sớm hòa nhập cộng đồng của

các cơ quan, đoàn thể và gia đình chưa được triển khai, nhân rộng nhiều nơi

còn chưa có để áp dụng.

Để góp phần vào sự thành công của công tác tái hòa nhập thì đội ngũ

cán bộ làm công tác cải tạo, giáo dục, hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân

đóng vai trò vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng làm nghề

nhưng thiếu nhiệt tình, chưa quan tâm nhiều đến dạy họ kỹ năng sống, đào tạo

nghề còn lạc hậu không đáp ứng được nhu cầu thực tế của xã hội, chưa tư vấn

cho họ các kỹ năng để vượt qua khó khăn, thử thách cho nên kết quả của việc

tái hòa nhập còn kém, họ rất khó khăn trong việc trở lại với cộng đồng dân cư

. Trên thực tế, gia đình vẫn là nhân tố ảnh hưởng lớn nhất đến hiệu quả của

hoạt động tái hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên, trên thực tế không ít người sau

khi ra tù không có nơi để về cũng như không được quan tâm, giúp đỡ từ gia

đình vì đa phần họ đều có hoàn cảnh gia đình phức tạp, nhiều gia đình còn bỏ

mặc họ từ đó dẫn đến tâm lý chán nản dễ sa ngã vào con đường xấu và có

nguy cơ tái phạm cao.

Từ những hành động thiếu cụ thể dẫn đến việc chính quyền địa phương,

doanh nghiệp, cộng đồng dân cư không mấy mặn mà, giúp đỡ người mãn hạn

tù. Từ đó khiến người mãn hạn tù không thoát ra khỏi cảm giác tội lỗi, không

được tha thứ, lạc long tiếp tục quay lại con đương lầm lỗi. Mặt khác người

mãn hạn tù sau khi trở về địa phương nhiều trường hợp không về hoặc không

đến trình diện, chuyển đi nơi khác nhằm che giấu quá khứ của mình nên xảy

ra tình trạng địa phương không biết họ đang làm gì? Và cư trú tại đâu, đây

cũng là bất cập trong việc quản lý cư trú của địa phương.

Những quy định về tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp

hành xong hình phạt tù còn nhiều bất cập. Hệ thống pháp luật về hình sự và

thi hành án hình sự còn chung chung chưa cụ thể. Thêm vào đó số lượng

người phạm tội trên địa bàn tỉnh ngày càng gia tăng và nhiều trường hợp tái

phạm tái phạm, nguy hiểm đòi hỏi làm tốt hai công tác tổ chức thi hành án

phạt tù và hoạt động tái hòa nhập cộng đồng là vấn đề cấp bách nhằm ổn định

trật tự an toàn xã hội. Đối với các quy định pháp luật hiện hành dù đã có quy

định trách nhiệm của một số cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện tái

hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù nhưng cũng chưa

quy định cụ thể cơ quan đầu mối, cơ chế phối hợp cũng như chưa đặt ra các

chế tài nhằm răn đe, xử lý trong trường hợp các chủ thể không thực hiện quy

định mà pháp luật đặt ra.

Trách nhiệm và nhận thức của một số bộ phận trong các cơ quan nhà nước

còn chưa thực sự đầy đủ, trình độ,chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ còn hạn

chếtrong công tác tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong

hình phạt tù và phòng ngừa tội phạm. Hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của

Việt Nam còn chưa có sự thu hút, kêu gọi các nguồn lực sẵn có trong xã hội để

đầu tư cho công tác tái hòa nhập và cũng mới chỉ dừng lại ở việc nêu ý kiến cho

hoạt động tù tại gia chứ chưa áp dụng được thành công như Trung Quốc,

Singapore hay Australia.

Nguồn kinh phí không nhiều dẫn đến cơ sở vật chất và trang thiết bị phục

vụ cho hoạt động tái hòa nhập cộng đồng vì thế dẫn đến chưa đáp ứng được nhu

cầu giam giữ, cải tạo, giáo dục và dạy nghề với số lượng phạm nhân ngày càng

tăng tạo áp lực lớn cho các trại giam, tạm giam trên địa bàn tỉnh nói riêng và cả

nước nói chung. Nhà nước cũng chưa có những quan tâm đúng mức và nguồn

ngân sách đầu tư vào các cơ sở giam giữ hay trung tâm dạy nghề còn rất hạn chế.

Cho nên hoạt động tái hòa nhập cho phạm nhân trong trại giam hầu như còn rất

lạc hậu và không đáp ứng được như cầu của xã hội. Vì hầu hết hiện nay các cơ

sở kinh doanh đều đòi hỏi công nhân có tay nghề cao, có kinh nghiệm làm việc

lâu năm và có khả năng sử dụng được các máy móc kĩ thuật tiên tiến để đáp ứng

được như cầu sản xuất. Hơn nữa họ cũng có ánh nhìn rất xấu đối với người mãn

hạn tù trở về bởi họ chưa thật sự tin tưởng vào con người của những người đã

mắc quá khứ lầm lỡ cho nên khi tuyển dụng họ đều yêu cầu người chưa có tiền

án tiền sự. Đối với bản thân những người chấp hành xong hình phạt tù đều là

những người có học thức thấp ( trung bình là lớp 8), không có trình độ chuyên

môn cũng như chưa từng có kinh nghiệm trong lao động. Có thể thấy, đây là

một vấn đề tương đối nan giải không chỉ riêng Bắc Ninh mà còn trên Cả nước.

Nhà nước ta chưa có những chính sách khuyến khích sự tham gia của các doanh

nghiệp trong việc hướng nghiệp, đào tạo nghề hay các chính sách hỗ trợ vốn, ưu

đãi thuế…

Tiểu kết chương 2

Hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt

tù là hoạt động xuyên suốt toàn bộ quá trình tái hòa nhập cộng đồng từ khi

chấp hành án đến khitrở về với cộng đồng. Giai đoạn chuẩn bị tái hòa nhập là

một bước đệm quan trọng để sau khi ra tù người bị kết án có khả năng thích

ứng với cuộc sống bình thường, không bị bỡ ngỡ hay lạc hậu so với xã hội.

Hoạt động này cũng không thể thành công được nếu thiếu sự quan tâm, tạo

điều kiện cũng như tổ chức các chương trình giúp đỡ người mãn hạn tù trở về

hòa nhập nhanh chóng với cộng đồng hơn của các cấp, các ngành có thẩm

quyền. Nếu ta tổ chức tốt hoạt động tái hòa nhập cộng đồng thì những công

sức, chi phí trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử người phạm tội cũng

như toàn bộ hoạt động giáo dục, cải tạo người bị kết án tại trại cải tạo mới có

hiệu quả, người chấp hành xong án phạt tù trở thành người lương thiện, có ý

thức tuân thủ pháp luật, không tiếp tục phạm tội mới và hoạt động này mới

thực sự có ý nghĩa.Vì vậy, tái hòa nhập cộng đồng là khâu cuối cùng của toàn

bộ quá trình thực hiện trọn vẹn bản án hình sự. Chỉ có làm tốt công tác này thì

ta mới giảm được lượng phạm nhân tái phạm tội giúp ổn định trật tự an ninh

xã hội.

Hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại tỉnh Bắc Ninh trong những năm

qua đã cũng đã đạt được những kết quả đáng khen ngợi, góp phần giữ vững

an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương nói riêng và cả nước nói

chung. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên thì hoạt động tái

hòa nhập cộng đồng trên địa bàn tỉnh vẫn còn hạn chế, khó khăn bởi nguyên

nhân khách quan và chủ quan; những hạn chế trong hệ thống các quy định của

pháp luật điều chỉnh về tái hòa nhập cộng đồng. Từ nững lý do đó ta hướng

tới chương 3 về hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả trong

công tác tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù.

Chương 3

NHỮNG CƠ SỞ, GIẢI PHÁP TIẾP TỤCHOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VÀNÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG HOẠT ĐỘNG TÁI HÒA NHẬP

CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG HÌNH PHẠT TÙ

TẠI TỈNH BẮC NINH

3.1 Những cơ sở và định hướng hoàn thiện pháp luật về tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt tù

Hiện nay các quy định về việc tái hòa nhập cộng đồng cho người phạm

tội mãn hạn tù thường được phân tán ở các văn bản pháp luật khác nhau như:

Bộ luật Hình sự; Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Thi hành án hình sự;Nghị định

số 80/2011/NĐ-CP ngày 16/11/2011 của chính phủ quy định các biện pháp

bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong án phạt tù, Chỉ thị

số 33/CT-TTg ngày 05/12/2018 của Thủ tướng chính phủ về tăng cường các

biện pháp đảm bảo tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án

phạt tù, Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị định số 117/NĐ-CP ngày 15/12/2011 của

chính phủ quy định về tổ chức quản lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh

hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân... hoặc trong các văn bản chỉ thị, nghị

quyết của Đảng, Nhà nước và ngành Công an như các Chương trình Quốc gia

phòng chống tội phạm, các chương trình phòng chống và kiểm soát ma túy,

các chương trình hỗ trợ người mãn hạn tù tại địa bàn cơ sở v.v... Những quy

định cụ thể giúp các cơ quan chức năng, các cấp chính quyền chủ động quản

lý, giáo dục, giúp đỡ các đối tượng tù tha. Các văn bản quy phạm pháp luật

của Nhà nước cũng đã có những sự tác động nhất định trong việc huy động

các ngành, các cấp và tầng lớp nhân dân tham gia vào hoạt động tái hòa nhập

cho người mãn hạn tù. Trên cơ sở đó tạo điều kiện thuận lợi cho các đối

tượng tù tha tái hòa nhập cộng đồng. Các quy định về tái hòa nhập xã hội đối

với người phạm tội hiện nay đang phân tán ở rất nhiều văn bản khác nhau dẫn

đến thực tế việc áp dụng còn khó khăn, chưa thống nhất và khả thi. Bên cạnh

đó, mặc dù có nhiều văn bản quy định về tái hòa nhập xã hội nhưng các văn

bản quy định này chỉ mang tính chất qua loa, chưa có những chỉ dẫn cụ thể,

thiếu những chỉ dẫn về quy trình thực hiện và chưa có sự phân công trách

nhiệm rõ ràng ở từng cấp, từng lực lượng chuyên trách và các tổ chức chính

trị, các đoàn thể quần chúng.

Quyền con người, nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định là một

trong những cơ sở có ý nghĩa rất quan trọng về nhiều mặt. Con người là vị trí

trung tâm trong mọi chính sách kinh tế xã hội, là mục tiêu và là động lực để

phát triển kinh tế vì thế nó phải được hiến định và phải được thể hiện trong

chính sách và pháp luật nước ta. Trong 120 điều cơ bản của Hiến pháp có đến

36 điều ghi nhận quyền và nghĩa vụ công dân. Việc phục hồi của người phạm

tội và tái hòa nhập cũng đã được thừa nhận trong các tiêu chuẩn về quyền con

người trên toàn thế giới như “ những nguyên tắc cơ bản về đối xử với tù nhân

của Liên Hợp Quốc”, “Công ước về quyền trẻ em”, “Công ước về quyền của

người khuyết tật”, “Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn

hóa”…Tầm quan trọng của việc quan tâm đến người phạm tội sau khoảng

thời gian họ hoàn thành xong án phạt tù đáng lẽ không nên bị đánh giá thấp.

Những chuẩn mực quốc tế về tư pháp hình sự tuy không đề cập nhiều những

vẫn có ghi nhận ở một số văn kiện quốc tế.Một trong những căn cứ để quy

định chế độ chấp hành các hình phạt nói chung, quyền và nghĩa vụ của người

chấp hành án nói riêng được quy định trong Luật thi hành án hình sự, khái

quát các quyền cơ bản thành 6 nhóm quyền. Tuy nhiên nhìn từ góc độ thi

hành án cũng rất khó để xác định quyền, lợi ích nào bị tước bỏ, bị hạn chế đối

với việc chấp hành từng hình phạt. Vì thế, trong quá trình xây dựng Luật thi

hành án hình sự để phù hợp quyền và nghĩa vụ của người chấp hành án là

không dễ.

Trong giai đoạn hiện nay, tình hình trong nước và quốc tế có nhiều biến

động, diễn biến phức tạp, Việt Nam tiếp tục phải đối diện với nhiều khó khăn,

thách thức. Trong đó, chú trọng các vấn đề như: Hoàn thiện pháp luật về

quyền tự do kinh doanh; pháp luật về quyền sở hữu; pháp luật về doanh

nghiệp; pháp luật về việc tạo lập đồng bộ cho các thị trường…Đây cũng là cơ

sở quan trọng để hoàn thiện các quy định pháp luật đối với việc tái hòa nhập

cộng đồng đối với người chấp hành xong hình phạt tù. Trong bối cảnh tỷ lệ

thất nghiệp ngày càng cao, nhiều lao động có trình độ đại học ra trường vẫn

không xin được việc. Điều này cho thấy mặc dù có sự chuẩn bị nhưng vấn đề

việc làm cho người tái hòa nhập là không dễ dàng thêm vào đó nhiều người

không có tiền đầu tư ban đầu để lập nghiệp, việc cho vay vốn hỗ trợ với người

mãn hạn tù còn rất hạn chế. Thêm vào đó chưa có các chính sách khuyến

khích, hỗ trợ động viên các doanh nghiệp, tổ chức giúp đỡ người chấp hành

xong hình phạt tù tái hòa nhập cộng đồng.

Những mâu thuẫn xã hội phát sinh trong điều kiện phát triển nền kinh

tế thị trường do được điều tiết thông qua pháp luật, chính sách và các công cụ

khác của nhà nước nên ít có nguy cơ trở thành các mâu thuẫn đối kháng và

tạo ra các xung đột có tính chất chia rẽ xã hội. Đây là một trong những điều

kiện đảm bảo ổn định chính trị, đoàn kết các lực lượng xã hội vì các mục tiêu

chung của sự phát triển và hoàn thiện pháp luật Việt Nam.Tuy nhiên một

trong những nguyên nhân cản trở quá trình tái hòa nhập cộng đồng là do

những định kiến xã hội, kì thị đối với những người từng mắc sai lầm. Nhiều

trường hợp không chỉ xã hội có định kiến, kì thị mà còn bị chính người thân

quay lưng. Đây chính là rào cản rất lớn gây trở ngại cho việc tái hòa nhập của

người đã hết thời gian cách ly khỏi xã hội. Đồng thời Pháp luật vẫn chưa có

các chế tài cụ thể cho những thành phần khác nhau trong xã hội như người

khuyết tật, người già, người chưa thành niên…phạm tội hay những vùng

miền, dân tộc khác nhau.

Từ những cơ sở trên có thể đưa ra một số định hướng hoàn thiện pháp

luật về tái hòa nhập cộng đồng như sau :

Trên thực tế công tác tái hòa nhập cộng đồng muốn được áp dụng có

hiệu quả cần phải có văn bản riêng trong đó quy định cụ thể nhiệm vụ, biện

pháp, mục tiêu tái hòa nhập cộng đồng cho những người mãn hạn tù, đồng

thời quy định rõ trách nhiệm cho các cấp, các ngành và các tổ chức xã hội

cũng như mọi công dân, kể cả những người thân trong gia đình và người mãn

hạn tù khitrở về nơi cư trú. Đồng thời, cần quy định rõ nhiệm vụ quản lý đối

tượng mãn hạn tù về mặt hành chính là của Công an cơ sở, còn việc giúp đỡ,

giáo dục đối tượng là nhiệm vụ của toàn xã hội đặc biệt là công dân tại địa

phương, thôn, xóm hoặc khu phố nơi người chấp hành án cư trú và sự chung

tay của các cơ quan, đoàn thể, tổ chức trên địa bàn. Nhà nước và các cơ quan

chức năng vẫn chưa có một văn bản chung nào quy định riêng biệt, rõ ràng về

việc tái hòa nhập xã hội cho người chấp hành xong hình phạt tù để lấy đó làm

căn cứ cho việc tiến hành thống nhất giữa các cơ quan, đơn vị và các đoàn thể

trong cả nước mặc dùcông tác này là công tác mang tính xã hội hóa cao và đã

có được thực hiện từ rất lâu. Trong hệ thống các văn bản về tái hòa nhập xã

hội đối với người phạm tội cần xác định rõ phạm vi trách nhiệm của từng cấp,

từng ngành. Sự phân công, phân cấp giữa các ngành, các cấp, các lực lượng

trong quá trình tiến hành cần đồng bộ, thống nhất, tránh sự chồng chéo. Để

tránh trường hợp áp dụng mang tính chung chung và hình thức thì Nhà nước

cần quy định cụ thể hơn về các cơ chế đảm bảo cho việc quản lý, giáo dục,

giúp đỡ đối tượng mãn hạn tù đồng thời các văn bản quy phạm pháp luật quy

định về quản lý, giáo dục, giúp đỡ đối tượng phạm tội mãn hạn tù ngoài việc

đề cập đến quản lý đối tượng thì nên quy định về nội dung các biện pháp

trong giáo dục, giúp đỡ đối tượng cải tạo, tiến bộ tái hòa nhập cộng đồng.

Do Bộ luật hình sự không quy định đầy đủ, cho nên trong luật thi hành

án hình sựtrong phần thuật ngữ hay chế độ thi hành từng loại hình phạt cần

quy định cụ thể các quyền, lợi ích của người chấp hành án bị tước bỏ; các

quyền, lợi ích gì bị hạn chế, sau khi họ ra tù thì cần có những chế tài khuyến

khích giúp họ sớm hòa nhập cộng đồng. Quá trình tái hòa nhập xã hội cũng

cần phải thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm các phẩm giá và quyền cơ bản của

con người theo pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế mà Việt Nam là thành

viên. Cần nghiêm túc xem lại những hạn chế về một số quyền con người liên

quan đến người chấp hành án và người đã chấp hành xong án phạt tù. Pháp luật

phải cụ thể hóa thành các giải pháp tái hòa nhập không thể mãi quy định chung

chung như thế rất khó để thực hiện có hiệu quả việc tái hòa nhập cộng đồng.

Các chương trình tái hòa nhập xã hội phải đa dạng và cần được thiết kế

dựa trên nhu cầu của từng nhóm người như trẻ em, người khuyết tật, người

già, người nước ngoài, người có bệnh...phải có các chương trình phù hợp với

điều kiện, đặc điểm riêng của từng địa phương, từng vùng miền về kinh tế,

văn hóa, xã hội, tôn giáo... ví dụ người chấp hành xong hình phạt tù ở vùng

đồng bằng, miền biển, vùng núi hay người có hoàn cảnh đặc biệt...Bên cạnh

đó cũng cần thiết lập trên cơ sở kết hợp nhà nước và xã hội thông qua các

chương trình hỗ trợ, can thiệp các đối tượng tái hòa nhập. Pháp luật cần mở

rộng hơn huy động nhiều nguồn lực xã hội tham gia vào công tác tái hòa nhập

cộng đồng.

Cần tuyên truyền đầy đủ để mọi người nhận thức được người chấp

hành xong hình phạt tù cũng là một phần của xã hội. Để mọi người xóa bỏ

những định kiến, kì thị góp phần giúp người phạm tội, vi phạm pháp luật có

cơ hội làm lại cuộc đời. Cùng với đó, để đảm bảo cho người chấp hành xong

hình phạt tù tái hòa nhập thành công đó là việc tạo công ăn, việc làm cho họ

bởi đa số họ là những người trình độ học vấn thấp vì vậy nhà nước cần có

nhiều quy định hơn để đảm bảo chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho họ. Cần có

các cơ chế hữu hiệu huy động nguồn vốn, giúp giải quyết khó khăn về nguồn

vốn. Kêu gọi nhiều hơn các doanh nghiệp, tổ chức giúp đỡ người tái hòa nhập

bằng cách tạo công ăn việc làm hoặc hỗ trợ vay vốn giúp họ ổn định cuộc

sống. Pháp luật phải yêu cầu việc tổ chức đào tạo nghề thêm nhiều nghề mới

phù hợp với nhu cầu xã hội, nhu cầu thị trường, sở thích và năng lực của

người bị cách ly thì sau khi tái hòa nhập mới đem lại kết quả cao.

Hoàn thiện pháp luật về tái hòa nhập cộng đồng là rất quan trọng,

không chỉ đem lại lợi ích cho những người tái hòa nhập mà còn đem lại lợi

ích cho cả cộng đồng và nhà nước khi họ trở thành những công dân tốt và có

ích. Thực hiện tốt chính sách pháp luật sẽ hạn chế được người phạm tội, bảo

vệ trật tự, an ninh mà còn góp phần không nhỏ phát triển kinh tế - xã hội của

đất nước.

3.2 Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về hoạt động tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt tù.

Nhằm nâng cao hiệu quả của công tác tái hòa nhập cộng đồng thì cần

có các giải pháp mang tính đồng bộ, liên hệ mật thiết và chặt chẽ với nhau.

Gồm có các giải pháp hoàn thiện về pháp luật nói chung và các giải pháp

khác để hiệu quả của việc tái hòa nhập được cao hơn góp phần vào công cuộc

đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn ngừa tái phạm và khuyến khích người

mãn hạn tù quay trở về con đường lương thiện, trở thành người có ích, xây

dựng đất nước giàu mạnh.

Từ những bật cập ở chương 2 cho thấy việc cần tiếp tục hoàn thiện

pháp luật là vô cùng cần thiết nhất là hoàn thiện luật thi hành án hình sự liên

quan đến hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình

phạt tù từ cả nhu cầu chủ quan và khách quan trong giai đoạn phát triển hiện

nay của đất nước. Đây cũng là sự cụ thể hóa các quy định của Hiến Pháp

2013 về việc đề cao các quyền của con người và cả các quyền của người

phạm tội.

Căn cứ vào quan điểm, định hướng, chính sách, sự chỉ đạo của Đảng và

Nhà nước ta để hoàn thiện các quy định pháp luật về tái hòa nhập. có cái nhìn

đúng đắn, thẳng thắn về trách nhiệm của từng cơ quan nhà nước trong hoạt

động tổ chức tái hòa nhập xã hội cho người chấp hành xong hình phạt tù.

Đồng thời kiểm điểm, khắc phục những hạn chế trong công tác cán bộ như

còn chưa thực sự nhiệt huyết, trình dộ chuyên môn yếu kém, năng lực hạn

chế…

Công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với người phạm tội luôn đòi hỏi

tính tổ chức cao và tính xã hội rộng. Công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với

người phạm tội luôn đòi hỏi tính tổ chức cao và tính xã hội rộng. Do đó, để

công tác này thực sự hiệu quả đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền, người có

thẩm quyền tăng cường lãnh đạo, trau dồi trình độ nghiệp vụ của mình . Hiện

nay, công tác tái hòa nhập xã hội đối với người chấp hành xong hình phạt tù

thực hiện dưới chỉ đạo chung của các cấp ủy Đảng và chính quyền. Ngoài các

tổ chức Đảng, chính quyền địa phương cũng phải lên kế hoạch chỉ đạo các

ban ngành, đoàn thể tại địa phương mình hỗ trợ, giúp đỡ và thực hiện các biện

pháp, chương trình huy động nguồn lực, tạo công ăn việc làm và động viên về

mặt tâm lý để giúp người mãn hạn tù ổn định làm ăn và sinh sống. Luật Thi

hành án hình sự năm 2019 đã quy định rõ về trách nhiệm của các cơ quan có

thẩm quyền trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác tái hòa nhập xã hội đối với

người phạm tội; "Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tố quốc Việt Nam

giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức trong thi hành án hình sự và các cơ

quan, tổ chức khác liên quan đến hoạt động thi hành án hình sự theo quy định

của pháp luật" [2].

Nhiệm vụ trọng tâm của thi hành án hình sự là cách ly người phạm tội

ra khỏi xã hội trong một khoảng thời gian nhất định, để cải tạo,dạy dỗ, giao

dục họ trở về làm con người lương thiện có ích cho gia đình, cho xã hội và

cho đất nước. Trong thời gian này họ được học về văn hóa, pháp luật, các kỹ

năng cần thiết mà trước đây khi chưa chấp hành án họ đã có cái nhìn sai lệch

dẫn đến con đường phạm pháp. Qua đó có thêt thấy được bản chất nhân đạo

của Đảng và Nhà nước ta trong việc xử lý người phạm tội.

Tuy nhiên, có thể nhận thấy hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh

công tác này còn hạn chế, chưa thống nhất, đồng bộ, thiếu tính sang tạo và

chưa có giá trị pháp lý cao. Vì thế, chưa tạo được hành lang pháp lý để các cơ

quan, đoàn thể và mọi người chấp hành theo, chưa phát huy được sự chung

tay, góp sức trong công tác tái hòa nhập cộng đồng giúp người mãn hạn tù

nhanh chóng tạo lập cuộc sống ổn định. Cho nên, việc xây dựng và tiếp tục

hoàn thiện các văn bản hướng dẫn trong công tác tái hòa nhập cộng đồng sẽ

tạo môi trường thuận lợi để mọi người chung tay góp sức giúp đỡ người mãn

hạn tù trở về với cộng đồng hơn thế nữa còn giúp họ thiết lập những điều kiện

cần thiết để khôi phục lại quyền tự do mà mình đã bị tước bỏ trong một

khoảng thời gian nhất định. Cùng với sự hoàn thiện việc học hỏi, tham khảo,

chọn lọc những mô hình hay, những kinh nghiệm quý báu từ các nước trong

khu vực và trên thế giới sẽ giúp hoạt động tái hòa nhập cộng đồng cho người

chấp hành án phạt tù của Việt Nam gặt hái được nhiều thành công.

Từ những định hướng nêu trên bản thân tôi có những kiến nghị sau :

Trong thời gian tới để công tác này đạt kết quả tốt hơn thì Ủy ban nhân

dân tỉnh cần phải chỉ đạo cơ quan chuyên môn nghiên cứu ban hành quy trình

tiếp nhận, quản lý giáo dục người chấp hành xong án phạt tù về địa

phương;chỉ đạo việc thành lập các quỹ xã hội, quỹ từ thiện theo quy định tại

Điều 23 Nghị định 80 và xem xét dành một phần kinh phí từ ngân sách nhà

nước theo Điều 5 Nghị định 80; chỉ đạo tăng cường kiểm tra việc thực hiện

Nghị định; định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện; chỉ đạo xây dựng các giải

pháp để huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội trong công tác giúp

đỡ người chấp hành xong án phạt tù về địa phương tái hòa nhập cộng đồng.

Công an cấp huyện phối hợp chặt chẽ với các ban ngành xó liên quan

xây dựng quy chế để thực hiện nghị định, có những công tác chỉ đạo chuyên

môn với cơ quan cấp thấp hơn. Các cơ quan liên quan cũng phải xác định rõ

nhiệm vụ và các hành động cụ thể của mình để góp phần thực hiện pháp luật

một cách có hiệu quả. Đối với những nguyên nhân, hạn chế còn tồn tại trên

địa bản Ủy ban nhân dân các cấp cần tập trung làm rõ, đảm bảo thực hiện

nhiệm vụ theo đúng quy định, minh bạch và hiệu quả.

Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về tái hòa nhập cộng đồng

của người chấp hành xong hình phạt tù luôn phải gắn liền với pháp luật hình

sự và thi hành án hình sự. Do đó, để hoàn thiện pháp luật về thi hành án hình

sự phải đặt trong mối quan hệ với pháp luật hình sự mà cụ thể ở đây Bộ luật

hình sự. Bộ luật hình sự 2015 về vấn đề xóa án tích cần phải quy định rõ ràng

cụ thể hơn, trình tự thủ tục của những loại giấy tờ cần thiết cho việc xóa án

tích cũng nên linh động tạo điều kiện thuận lợi để đối tượng chấp hành xong

an phạt tù có thể nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng.

Cần quy định một cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm chính trong công

tác này, phải quy định rõ nội dung, trách nhiệm,nghĩa vụ của các cơ quan, tổ

chức, cá nhân trong việc tái hòa nhập cộng đồng . Đồng thời cần có những

chế tài xử phạt đối với các đối tượng không làm đúng chức trách, nhiệm vụ

theo quy định của pháp luật từ đó mà vai trò của các chủ thể liên quan mới

được phát huy. Cần có các chương trình khuyến khích chính quyền địa

phương, các cơ quan tổ chức , các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư xây

dựng các chương trình, mô hình giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù

quay về địa phương làm ăn sinh sống. Nâng cao nhận thức của người dân và

nhân rộng các mô hình để đạt hiệu quả cao.

Nhà nước cần phải tập trung tuyên truyền, khuyến khích, động viên các

cở kinh doanh, doanh nghiệp xóa bỏ mặc cảm tạo công ăn việc làm cho người

mãn hạn tù và đề xuất nhiều chính sách như: Ưu đãi về nguồn vốn, thuế, …để

các chủ thể chung tay giúp đỡ tạo cơ hội cho mình cũng là cho người khác.

Cần quy định rõ về nhiệm vụ, quyền hạn của người mãn hạn tù về địa

phương; cụ thể các quyền hạn được hưởng, các chính sách hỗ trợ và giải

quyết việc làm, đồng thời có nghĩa vụ báo cáo về việc tái hòa nhập của mình

với chính quyền địa phương để có những phương án hỗ trợ kịp thời.Nhiệm vụ

quyền hạn của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn trong việc tiếp nhận

người phạm tội mãn hạn tù, quản lý và thực hiện các chính sách tái hòa nhập

như hỗ trợ về việc làm, tuyên truyền vận động người dân xóa bỏ mặc cảm với

người mãn hạn tù và phối hợp với cơ quan công an trong việc quản lý người

mãn hạn tù tại địa phương và xóa án tích cho họ. Trách nhiệm và cơ chế thực

hiện của các cơ quan đoàn thể cơ sở như Mặt trận Tố quốc, Hội Phụ nữ, Hội

Nông dân v.v... các hội có trách nhiệm vận động người mãn hạn tù tham gia

sinh hoạt hội và tiến tới là thành viên của Hội, đồng thời hỗ trợ về tinh thần và

việc làm cho họ để họ xóa bỏ dần mặc cảm với cộng đồng, Cảm thấy mình

cũng là một phần của xã hội, có mục tiêu phấn đấu và dần trở thành người có

ích, góp phần thực hiện có hiệu quả công tác tái hòa nhập xã hội đối với

người chấp hành xong hình phạt tù.

3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác tái hòa nhập cộng

đồng đối với người chấp hành xong hình phạt tù.

3.3.1 Các giải pháp mang tính xã hội nâng cao hiệu quả hoạt động tái hòa

nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt tù .

Quản lý, giáo dục người mãn hạn tù tái hòa nhập cộng đồng là nhiệm

vụ chung không chỉ riêng ngành Công an, mà các cấp, các ngành, các đoàn

thể và toàn xã hội cùng chung tay góp phần đưa người phạm tội sửa chữa

những sai lầm trở thành người có ích cho xã hội. Ngoài các giải pháp mang

tính nghiệp vụ của cơ quan công an các giải pháp mang tính xã hội đóng vai

trò không thể thiếu trong công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp

hành xong hình phạt tù.

Một là, tập trung giải quyết các chính sách liên quan đến người phạm

tội để tạo ra môi trường lành mạnh, tiến hành xã hội hóa công tác tái hòa

nhập cộng đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù.Quá trình tiến hành

các bước không những bao gồm các công việc như theo dõi, giám sát, quản

lý. Trong đó quy định rõ trách nhiệm cụ thể của từng cấp, từng ngành và các

chủ thể tham gia, có như vậy mới đảm bảo căn cứ pháp lý vững chắc cho việc

tổ chức thực hiện thống nhất và có hiệu quả công tác tái hòa nhập cộng đồng.

Chính quyền nên tạo ra những hoạt động giúp đỡ nhau trong cộng đồng, xây

dựng và thực hiện hình thức tự quản phát huy vai trò cộng đồng xóa đi những

mặc cảm đối với người chấp hành hình phạt tù, tạo cho họ ý thức tự giác,

mạnh dạn hơn trong hòa nhập cộng đồng.

Hai là, giáo dục, nâng cao nhận thức xã hội bằng những biện pháp

tuyên truyền, vận động toàn dân tham gia vào công tác tái hòa nhập cộng

đồng, xóa bỏ dần mặc cảm cho những người phạm tội. Vai trò của cộng đồng

xã hội trong việc tái hòa nhập là rất quan trọng. Do đó công quản lý giáo dục,

quản lý, giúp đỡ đối tượng mãn hạn tù hòa nhập với xã hội cần được tuyên

truyền để công dân hiểu được tầm quan trọng của công tác này đối với xã hội

nói chung, vì vậy tất các các thành viên trong xã hội đều phải chung tay vì

một xã hội ổn định và trật tự. Các cấp, các ngành cần quan tâm giáo dục

người phạm tội để họ tự có ý thức trách nhiệm với bản thân họ, giúp họ có ý

thức muốn hòa nhập, xóa bỏ mặc cảm tủi thân về bản thân; Chính quyền cơ

sở cần phối hợp, chỉ đạo các ban ngành, đoàn thể để tuyên truyền về chính

sách của đảng, nhà nước và địa phương liên quan đến công tác tái hòa nhập

cho người chấp hành xong hình phạt tù. Tổ chức các buổi sinh hoạt tại cộng

đồng dân cư, các buổi sinh hoạt hội, nhóm của địa phương và tạo điều kiện để

người mãn hạn tù tham gia để họ không còn cảm thấy mặc cảm về tội lỗi của

mình, thông qua đó động viên các đối tượng trong diện quản lý tự giác và yên

tâm phấn đấu cải tạo, giúp đỡ các đối tượng khó khăn về kinh tế, ổn định cuộc

sống, động viên khen thưởng kịp thời khi họ có thành tính, có biểu hiện tích

cực. Từng bước thay đổi tâm lý, suy nghĩ của người mãn hạn tù để họ nhanh

chóng hòa nhập với cộng đồng. ví dụ Ở Bắc Ninh vào các buổi tối thứ 6 trên

đài phát thanh truyền hình Bắc Ninh có tuyên truyền về tái hòa nhập cộng

đồng để cộng đồng nâng cao nhận thức của mình trong việc tham gia tích cự

vào hoạt động tái hòa nhập cộng đồng.

Thứ ba, chính quyền địa phương, ban ngành đoàn thể, các tổ chức kinh

tế xã hội giúp đỡ, hỗ trợ, công ăn việc làm cho người chấp hành xong hình

phạt tù để tạo điều kiện cho họ sớm hòa nhập cộng đồng. Thực tế hiện nay, số

người mãn hạn tù về địa phương được quan tâm, bố trí, giúp đỡ, hỗ trợ tạo

công ăn việc làm còn rất hạn chế, các địa phương hầu như chưa quan tâm về

vấn đề này. Nhà nước và các cơ quan liên quan hiện nay vẫn chưa có một chế

độ , chính sách quy định cụ thể về việc bố trí công ăn việc làm cho những

người chấp hành xong án phạt tù. Đây là một trong những vấn đề ảnh hưởng

đến hiệu quả, chất lượng của việc giáo dục, quản lý các đối tượng mãn hạn tù

trở về địa phương. Các địa phương cần cụ thể giao cho một cơ quan chịu

trách nhiệm chính về việc giúp đỡ công ăn việc làm cho người mãn hạn tù.

Cần ban hành một văn bản quy định cụ thể về việc giáo dục, quản lý đối với

đối tượng mãn hạn tù. Tiến tới thành lập một cơ quan chuyên trách để thực

hiện công tác tái hòa nhập cộng đồng cho người phạm tội. Ở thành phố Bắc

Ninh đã có những mô hình như “Mô hình cảm hóa người mãn hạn tù”, mô

hình “ vượt khó” của huyện Tiên Du hay mô hình “Quản lý, giúp đỡ,giáo dục

người mới ra tù” của huyện Lương tài đã từng bước khiến cho công cuộc tái

hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong hình phạt tù của tỉnh đạt

nhiều thành tích đang khen ngợi.

Gia đình là một thứ tình cảm vô cùng thiêng liêng, cao quý, là nơi con

người ta tìm về khi mệt mỏi, bế tắc. Sự quan tâm, cưu mang, đùm bọc của gia

đình là yếu tố quan trọng nhất chính vì thế mà nhiều quốc gia trên thế giới

luôn luôn đề cao vai trò của gia đình nên đã áp dụng vào mô hình tái hòa nhập

cho người chấp hành án phạt tù của nước họ là tù tại gia. Ở Việt Nam tuy đã

có những đề xuất đối với việc giam giữ tại nhà tuy nhiên còn nhiều bất cấp và

phải phân loại theo tội chứ không thể áp dụng cho tất cả các đối tượng. Vì thế,

cần có những nghiên cứu chuyên sâu hơn, những chính sách phù hợp với

hoàn cảnh, điều kiện của nước ta trong việc áp dụng mô hình này. Vì vậy,

người thân, gia đình cần gần gũi, quan tâm, thường xuyên hỗ trợ, khuyến

khích cả về vật chất lẫn tinh thần để người chấp hành xong hình phạt tù xóa

bỏ mặc cảm, tự tin vào chính bản thân mình để họ ổn định cuộc sống, trở

thành người có ích cho gia đình và xã hội.

3.3.2 Các giải pháp phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền với

doanh nghiệp, đoàn thể và gia đình trong hoạt động tái hòa nhập cộng

đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù.

Trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với người chấp hành xong hình

phạt tù có rất nhiều cơ quan cùng tham gia, mỗi giai đoạn có sự tham gia của

nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau và mỗi cơ quan thực hiện một nhiệm vụ

riêng biệt nhưngtrong hoạt động của các cơ quan, tổ chức này vẫn phải

thường xuyên,liên tục phối hợp với nhau để đảm bảo tốt hơn nữa hiệu quả của

công tác tái hòa nhập xã hội.

Đầu tiên, Chính phủ là cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án hình sự

nói chung và công tác tác tái hòa nhập cộng đồng nói riêng. Bộ Công an là cơ

quan trực tiếp chỉ đạo lực lượng Cảnh sát hỗ trợ tư pháp thực hiện các biện

pháp nghiệp vụ đồng thời phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu,

xây dựng, ban hành các chế độ, chính sách quy định cụ thể về tái hòa nhập

cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù. Các cơ quan tổ chức có

liên quan khác chung tay giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp tổ chức thực hiện

các biện pháp, chương trình bảo đảm tái hòa nhập đối với người chấp hành

xong an phạt tù.Phối hợp với cơ quan chức năng ban hành quy định cụ thể về

nội dung, chương trình giáo dục, hướng nghiệp, dạy nghề cho các phạm nhân

và quy định chi tiết việc quản lý, sử dụng quỹ hòa nhập cộng đồng tại các trại

giam.Bộ Quốc phòng tiến hành phối hợp với Bộ Công an, Bộ giáo dục đào

tạo chỉ đạo các trại giam các cấp quân khu hỗ trợ các hoạt động giáo dục, dạy

nghề, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để phạm nhân sắp chấp hành xong án

phạt tù tái hòa nhập cộng đồng và hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, giám sát và

báo cáo tình hình, kết quả thực hiện các biện pháp tái hòa nhập cộng đồng đối

với người chấp hành xong hình phạt tù. Bộ tư pháp trong việc xây dựng

chương trình giáo dục pháp luật cho công dân, phối hợp với Bộ Công an trong

việc thống kê, báo cáo chính phủ về công tác thi hành án hình sự đồng thời

phối hợp với các đơn vị vũ trang nhân dân khác và chính quyền địa phương

để chủ động triển khai hỗ trợ lực lượng thi hành án hình sự.

Tiếp tục củng cố, kiện toàn cơ cấu tổ chức, bộ máy cơ quan Thi hành

án hình sự các cấp, nhất là cơ quan Thi hành án hình sự cấp huyện bảo đảm

tinh gọn, hoạt động hiệu quả; thường xuyên quan tâm đào tạo, tập huấn, bồi

dưỡng nghiệp vụ nhằm nâng cao năng lực, trình độ về mọi mặt và bảo đảm tốt

mọi chế độ, chính sách cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ để bảo đảm thực hiện có

hiệu quả công tác tiếp nhận, theo dõi, quản lý, giáo dục, cảm hóa và công tác

điều tra, khảo sát, đánh giá, phân loại, cập nhật thông tin và tham mưu, đề

xuất các biện pháp tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án

phạt tù, người được đặc xá đang cư trú tại địa phương. Tổ chức phân bổ hợp

lý nguồn ngân sách nhà nước cho công tác tái hòa nhập cộng đồng, chú trọng

đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng và thực hiện có hiệu quả các đề án, dự án về

đào tạo, dạy nghề, giới thiệu việc làm, thành lập và duy trì hiệu quả quỹ tái

hòa nhập cộng đồng, quỹ hoàn lương, quỹ khác theo quy định của pháp luật,

huy động tối đa sự tham gia đóng góp tự nguyện của cơ quan, tổ chức, cá

nhân và các nguồn hợp pháp khác nhằm kịp thời hỗ trợ cho người chấp hành

xong án phạt tù, người được đặc xá được vay vốn ưu đãi để sản xuất, kinh

doanh, tạo thu nhập ổn định, sớm hòa nhập cộng đồng.

UBND các quận, huyện, thị xã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo

dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đoàn thể xã

hội và nhân dân trong công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp

hành xong án phạt tù, đề xuất nhiều chương trình thiết thực xóa bỏ định kiến

của người dân, thu hút nguồn vốn cho các quỹ tái hòa nhập. Chú trọng quan

tâm công tác tư vấn, giải quyết việc làm, đào tạo nghề nghiệp, xây dựng, nhân

rộng các mô hình, cá nhân điển hình, các loại hình Quỹ xã hội để quản lý, hỗ

trợ, giáo dục, giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng

đồng.Ủy ban nhân dân cấp xã vận động cộng đồng dân cư và gia đình tham

gia vào việc giúp đỡ người mãn hạn tù tái hòa nhập cộng đồng như gần gũi

giúp đỡ về vật chất, động viên về tinh thần, để họ xóa dần mặc cảm, tạo điều

kiện để họ lao động, hướng dẫn cách thức làm kinh tế, cho vay vốn làm kinh

tế để họ sớm ổn định cuộc sống hòa nhập cộng đồng.

Các sở ban ngành chỉ đạo các Phòng phối hợp, tham mưu cho cấp ủy

hoàn thiện chính sách dạy nghề, cung cấp cơ hội về việc làm cho người chấp

hành xong án phạt tù trở về với cộng đồng. Phối hợp với lực lượng Công an,

Quân đội triển khai định hướng, tư vấn nghề nghiệp, nâng cao khả năng tìm

kiếm việc làm cho phạm nhân sắp chấp hành xong án phạt tù. Phối hợp với

các cơ quan chức năng ở địa phương tổ chức những cuộc đào tạo, giới thiệu

giải quyết việc làm cho người chấp hành xong hình phạt tù, quan tâm giúp đỡ

về mặt tinh thần, bởi họ còn mang nhiều mặc cảm tự ti, hỗ trợ vật chất cho

người chấp hành xong hình phạt tù đối với những trường hợp có hoàn cảnh

đặc biệt khó khăn sớm ổn định cuộc sống. Phải căn cứ vào điều kiện kinh tế,

vị trí địa lý miền núi hay miền biển, tôn giáo, dân tộc mà có các chương trình,

mô hình hỗ trợ khác nhau . Hiện nay, trên cả nước nói cung đã có các cơ sở

dạy nghề những ngành nghề thiết thực và phù hợp như: cơ khí, điện công

nghiệp, sửa chữa xe máy…Tuy nhiên, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh các ngành

nghề còn lạc hậu như thêu thùa, mây tre đan hay các nghề thủ công không đáp

ứng được nhu cầu của xã hội. Ví vậy, cần phải cập nhật, cải tiến để giáo dục,

đào tạo những người phạm tội những công việc có tính áp dụng cao hơn khi

họ ra khỏi trại thì có thể tự mình kiếm sống mà không quay lại con đường

phạm pháp nữa.

Bộ thông tin và truyền thông cần chỉ đạo các cơ quan thông tấn, Cơ

quan báo chí tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức của các cấp,

các ngành cũng như cộng đồng dân cư trong vấn đề tái hòa nhập. Đài phát

thanh tỉnh, huyên tăng cường tuyên truyền pháp luật, đặc biệt là Nghị định 80

của chính phủ để người dân hiểu đầy đủ và biết về quyền và nghĩa vụ của họ

đối với các công tác cộng đồng. Cần vinh danh những tấm gương người tốt

việc tốt, các mô hình tiên tiến, hoat động nổi bật trong công tác tái hòa nhập

cộng đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù đồng thời kêu gọi toàn dân

chung tay góp sức giúp đỡ xóa bỏ kì thị, mặc camrnhanh chóng trở lại với

cuộc sống bình thường. Tuyên truyền vận động các cơ quan, tổ chức xã hội

kết hợp với gia đình nhân rộng mô hình điển hình tiên tiến trong quản lý, giáo

dục, giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng.

Tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra và

sơ kết, tổng kết theo định kỳ, đột xuất hoặc khi có yêu cầu để tổng hợp tình

hình, số liệu, đánh giá thực trạng kết quả đã thực hiện, khắc phục những hạn

chế, tồn tại, khó khăn, vướng mắc, bất cập và tìm ra những kinh nghiệm hay,

cách làm mới có hiệu quả trong công tác tiếp nhận, theo dõi, quản lý, giáo

dục, cảm hóa, giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù, người được đặc xá

tái hòa nhập cộng đồng; đẩy mạnh việc xây dựng, nhân rộng các mô hình điển

hình tiên tiến, thường xuyên tổ chức các buổi giao lưu, gặp mặt và biểu

dương, khen thưởng đối với người chấp hành xong án phạt tù, người được đặc

xá là những tấm gương tiêu biểu trong sản xuất, kinh doanh và những tập thể,

cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác tái hòa nhập cộng đồng để kịp

thời khuyến khích, động viên họ, đồng thời tạo sức lan tỏa cho những người

khác có quá khứ lầm lỗi noi theo.

Thực hiện tốt việc phối hợp hoạt động giữa ngành Công an với các tổ

chức, doanh nghiệp, gia đình và cộng đồng trong hoạt động tái hòa nhập cộng

đồng đối với người chấp hành xong hình phạt tù để giúp công tác này đạt

hiệu quả cao hơn, và dễ dàng hơn trong việc quản lý, giáo dục, dễ dàng nắm

bắt tâm lý của phạm nhân, hướng nghiệp, giúp người phạm tội xóa đói giảm

nghèo, giúp họ sớm ổn định cuộc sống, việc phối hợp như vậy sẽ giúp cơ

quan Công an nắm rõ hơn các thông tin của phạm nhân, cùng gia đình và

doanh nghiệp định hướng giúp họ lấy lại sự tự tin, nỗ lực vươn lên trong cuộc

sống.

Trong mối quan hệ phối hợp này tôi thấy rằng cần quy định rõ ràng một

cơ quan đầu mối mà ở đây Sở lao động thương binh và xã hội tỉnh Bắc Ninh

là cơ quan phù hợp hơn cả, là cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức phối hợp giữa

các cơ quan, đoàn thể khác, xây dựng đề án hỗ trợ, đào tạo việc làm cho

người mãn hạn tù trở về. Cần quy về một cơ quan đầu mối chuyên trách trong

việc giúp đỡ người chấp hành xong hình phạt tù trở về với cộng đồng và cần

phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà nước với các tổ chức, doanh nghiệp ,

gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư. Ở Nhiều huyện trên địa bàn tỉnh hầu

như không có cơ quan chuyên trách ví dụ nhu thị xã Từ Sơn không có cơ

quan chuyên trách đối với việc tái hòa nhập cho người chấp hành xong hình

phạt tù về địa phương nên thực hiện rất chung chung về quản lý nhân khẩu và

không thực hiện các biện pháp, chương trình cho đối tượng này. Vì vậy cần

quy định cụ thể rõ ràng hơn, chức năng nhiệm vụ củng từng cơ quan. Dẫn đến

việc công tác tái hòa nhập cộng đồng trên địa bàn tỉnh nói riêng và cả nước

nói chung còn nhiều hạn chế.

3.3.3 Các giải pháp nâng cao trình độ, năng lực và trách nhiệm nghề

nghiệp của đội ngũ cán bộ trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với người

chấp hành xong hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh

Hiện nay, công tác tái hòa nhập tại trại giam do đội ngũ giám thị trại

giam, những người làm công tác quản lý, giảng dạy chuyên nghiệp

ngoàinhững điều kiện về trình độ, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật thì

giám thị trại giam là những người thực hiện công tác giảng dạy,quản lý tại trại

giam phải luôn hoàn thiện mình để đáp ứng yêu cầu của công tác đồng thời

trau dồi nghiệp vụ, không ngừng nâng cao kỹ năng và kiến thức để thực hiện

tốt công tác tái hòa nhập cho người chấp hành xong hình phạt tù. Cần có

những quy định cụ thể hơn về tiêu chuẩn, điều kiện của giám thị các trại

giam, những người thực hiện nhiệm vụ quản lý phạm nhân và những người

thực hiện công tác tuyên truyền, giảng dạy, giáo dục và phổ biến pháp luật

cho phạm nhân trong các trại giam. Giám thị trại giam ngoài đáp ứng những

yêu cầu của pháp luật thì cũng luôn luôn cần được tập huấn để nâng cao kỹ

năng trong công tác tái hòa nhập cho người phạm tội.

Thường xuyên tổ chức các Hội nghị tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho

các cán bộ làm công tác tái hòa nhập cho người phạm tội mang tính nghiệp vụ

tại địa phương nơi người mãn hạn tù được tha về, các cán bộ thực hiện các

biện pháp, chương trình tái hòa nhập cộng đồng của các ban ngành, đoàn thể

của cơ quan nhà nước các cấp; nhằm nâng cao hiệu quả của công tác tái hòa

nhập xã hội cho người chấp hành xong hình phạt tù.

Ngoài những cán bộ làm công tác tái hòa nhập cho người phạm tội

mang tính nghiệp vụ thuộc các cơ quan công an thì các cán bộ khác tham gia

vào công tác tái hòa nhập cũng cần được bồi dưỡng, tập huấn, nâng cao trình

độ nghiệp vụ thường xuyên để công tác tái hòa nhập xã hội cho người chấp

hành xong hình phạt tù đạt hiệu quả cao nhất.

Bên cạnh những đội ngũ chủ thể nêu trên hiện nay rõ ràng còn thiếu đội

ngũ chuyên trách để thực hiện công tác tái hòa nhập xã hội đối với người

chấp hành xong hình phạt tù. Các cán bộ Công an tham gia vào công tác tái

hòa nhập cộng đồng họ chủ yếu thực hiện nghiệp vụ đồng thời cũng là những

hoạt động để tái hòa nhập cho người phạm tội. Tuy nhiên do đây là hoạt động

nghiệp vụ của họ nên chưa thực sự được chú trọng đến công tác sau khi người

phạm tội chấp hành án xong tại trại giam và cũng chưa thực sự hiệu quả. Do

vậy, cần tạo ra một hệ thống đơn vị chuyên biệt với một lực lượng chuyên

trách để thực hiện công tác tái hòa nhập cho người chấp hành xong án phạt tù

xuyên suốt từ trung ương tới các địa phương. Đào tạo riêng các cán bộ

chuyên trách cho công tác tái hòa nhập với người mãn hạn tù khi chấp hành

xong án tại trại giam. Có như vậy mới đảm bảo thống nhất, quy củ mang lại

hiệu quả cao trong việc giúp đỡ, quản lý và giáo dục người mãn hạn tù.Đặc

biệt là trong tình hình hiện nay tội phạm ngày càng phức tạp và những tác

động tiêu cực của nền kinh tế thị trường thì việc nâng cao nhận thức của một

bộ phận không nhỏ gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự an toàn của

đất nước có một vai trò rất quan trọng .

Công tác tái hòa nhập cộng đồng phải được đào tạo một cách toàn diện

về phẩm chất đạo đức, tấm lòng bao dung, lòng yêu nghề, hết mình vì công

việc để họ nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình trong việc giáo dục,

cảm hóa phạm nhân. Đồng thời, nên xây dựng đội ngũ tình nguyện viên (am

hiểu pháp luật, nhà tâm lý, nhà quản lý, doanh nhân, người có kinh nghiệm,

kỹ năng nghề nghiệp) trong hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong hình phạt tù để tư vấn, giúp đỡ, hướng nghiệp dạy nghề và giới

thiệu việc làm cho người chấp hành xong hình phạt tù.

3.3.4 Các giải pháp xây dựng các điều kiện chuẩn bị tái hòa nhập cộng

đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù tại cơ sở giam giữ.

Để nâng cao chất lượng giáo dục, cải tạo phạm nhân tại cơ sở giam giữ

như đa dạng hóa nghề đào tạo, giáo dục pháp luật, văn hóa, lao động, dạy

nghề phù hợp theo hướng bắt kịp với nhu cầu của xã hội và phù hợp điều kiện

của từng vùng miền như miền núi khác với vùng biển hay đồng bằng, nâng

cao kỷ luật lao động thì cần phải trang bị tốt cho phạm nhân các kỹ năng sống

cần thiết: Tôn trọng người khác cũng như biết tôn trọng chính bản thân mình,

trang bị kiến thức và kỹ năng giải quyết các vấn đề phát sinh trong cuộc sống

thường ngày, giúp họ lập kế hoạch cụ thể để chuẩn bị tái hòa nhập.

Điều 33 Luật thi hành án hình sự năm 2019 quy định “Phạm nhân được

tổ chức lao động phù hợp với độ tuổi, sức khỏe và đáp ứng yêu cầu quản lý,

giáo dục, hòa nhập cộng đồng …”. Có thể thấy, lao động là một hình thức bắt

buộc đối với tất cả các phạm nhân trong cơ sở giam giữ. Bởi lao động giúp họ

vừa rèn luyện sức khỏe, tinh thần, làm việc có ích trong quá trình cải tạo. Để

nâng cao hiệu quả của công tác này phải đặt mục đích giáo dục lên hàng đầu,

để phạm nhân hiểu được tầm quan trong của việc lao động vừa đảm bảo công

tác quản lý và tạo điều kiện để họ sớm có cơ hội hòa nhập, sau khi ra trại

không bị bỡ ngỡ. Tóm lại lao động vừa là nghĩa vụ vừa là quyền lợi của họ.

Hầu như trình độ văn hóa của phạm nhân chấp hành án trong trại giam

trên địa bàn tỉnh có học vấn trung bình là lớp 8 với hoàn cảnh gia đình phức

tạp. Do đó, để cho công tác tái hòa nhập đạt hiệu quả cao thì hơn hết chúng ta

cần phải đảm bảo về chất lượng giáo dục văn hóa và pháp luật trong cơ sở

giam giữ đối với các đối tượng cần có ít nhất là trình độ trung học cơ sở thì

mới có cơ hội tìm nghề, tìm việc thuận lợi sau khi chấp hành xong án phạt tù.

Ngoài ra cân tư vấn và dạy cho phạm nhân các kỹ năng sống cần thiết, để

giúp họ ổn định về tâm lý, nhận thức được hành vi của họ trước đây, biết ăn

năn hối cải, cố gắng sửa chữa lỗi lầm, cải tạo tốt để sớm được trở về với gia

đình, trở thành người có ích cho quê hương đất nước.

Thời gian tới, Bắc Ninh cần chú trọng đến việc phân bổ ngân sách đầu

tư cho cơ sở vật chất và công tác đào tạo nghề cho phạm nhân trong trại tạm

giam bởi công tác dạy nghề trên địa bàn tỉnh chưa đáp ứng được nhu cầu của

xã hội, mới chỉ dừng lại ở dạy và đào tạo nhưng chưa có tính áp dụng cao.

Đông thời cần tiếp tục mở những lớp đào tạo nghề như may gia công, cơ khí,

sửa chữa xe máy, tổ chức các kì thi cấp chứng chỉ hành nghề cho họ để khi ra

ngoài xã hội họ đáp ứng được yêu cầu của các nhà tuyển dụng, có nhiều cơ

hội tìm kiếm việc làm hơn, hoặc có thể tận dụng những gì đã học trong trại

giam để tự mình kiếm sống.

Các khu cải tạo, giam giữ cần đảm bảo đầy đủ các điều kiện như ánh

sáng, theo yêu cầu của chính phủ về chế độ ăn ở, sinh hoạt, y tế cho phạm

nhân. Trên địa bàn tỉnh do số lượng phạm nhân đông, vẫn còn trường hợp

giam giữ chung người chưa thành niên và người thành niên. Cần phải hạn chế

tối đa tình trạng này bởi tránh tình trạng sau khi ra tù họ bị lưu manh hóa các

mối quan hệ và trở thành tội phạm nguy hiểm hơn và chuyên nghiệp hơn .Duy

trì và phát triển các quỹ hòa nhập cộng đồng nhằm hỗ trợ hoặc cho vay vốn

đối với người mãn hạn tù, giúp họ có nhiều cơ hội để lập nghiệp, làm ăn chân

chính góp phần phát triển quê hương đất nước.

Tóm lại, việc nâng cao hiệu quả dạy nghề và đảm bảo việc làm cho

người chấp hành xong hình phạt tù là một vấn đề vừa mang tính cấp bách,

vừa mang tính lâu dài trong chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm.Với

những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại tỉnh

Bắc Ninh hy vọng rằng hoạt động này sẽ có nhiều khởi sắc trong những năm

tiếp theo.

Tiểu kết chương 3

Kết quả của chương 3 đã nêu lên những cơ sở, định hướng để hoàn

thiện pháp luật, đưa ra một số đề xuất để thực hiện có hiệu quả công tác tái

hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù. Việc đánh giá và

đưa ra các giải pháp dựa trên thực tế địa bàn tỉnh Bắc ninh là rất cần thiết để

tạo ra các chương trình giúp đỡ người mãn hạn tù sớm hòa nhập cộng đồng.

Hiệu quả của công tác này chính là sự khẳng định rõ ràng về chất lượng của

việc thực hiện pháp luật. Giúp cho địa bàn tỉnh nói riêng và cả nước nói

chung giảm tỉ lệ tái phạm, tái phạm nguy hiểm góp phần vào công cuộc gìn

giữ, xây dựng và phát triển đất nước.

Tóm lại, việc cần làm hiện nay là quy định rõ trách nhiệm của cơ quan

đầu mối, chuyên trách và có cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, gia

đình và cộng đồng dân cư khi người chấp hành xong hình phạt tù trở về với

địa phương để giúp họ tự tin, xóa bỏ mặc cảm quay trở về với cuộc sống bình

thường, dễ dàng quản lý, giáo dục, hướng nghiệp giúp họ có những điều kiện

thuận lợi để nhanh chóng tái hòa nhập thành công. Hòa nhập cộng đồng là

một hành trình đầy khó khăn và thử thách đòi hỏi người phạm tội phải cố

gắng nỗ lực hết mình vươn lên làm lại cuộc đời để trở thành người có ích cho

gia đình và cho xã hội vì thế đòi hỏi bản thân họ phải có tư tưởng đúng đắn,

luôn luôn vươn lên vượt qua khó khăn, hoàn thiện bản thân để hòa nhập vào

cuộc sống cộng đồng.

Tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong hình phạt tù là

công tác đã và đang được các cấp, các ngành rất quan tâm. Pháp luật nước ta

hiện nay quy định các biện pháp đảm bảo tái hòa nhập cộng đồng tuy nhiên

vẫn cần quy định rõ trách nhiệm của cơ quan đầu mooischiuj trách nhiệm

chính trong việc phối hợp đó và quy định rõ rang chế tài xử lý đối với các chủ

thể cố tình không thực hiện đúng chức trách của mình. Làm tốt nhiệm vụ của

một cơ quan đầu mối có đủ tầm lực kết nối và phát huy được tất cả nguồn lực

trong xã hội chính là một vũ khí quan trọng giúp công tác tái hòa nhập cộng

đồng đạt được hiệu quả cao nhất.

KẾT LUẬN

Hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình hình

phạt tù là một trong những hoạt động mang tính xã hội hóa cao ảnh hưởng

đến an ninh trật tự trên cả nước và mang nghĩa nhân văn sâu sắc. Đa phần

người chấp hành xong hình phạt tù là nguồn lực không nhỏ góp phần cho sự

phát triển của xã hội vì phần lớn họ đều đang trong độ tuổi lao động vì thế

nếu chúng ta làm tốt hoạt động tái hòa nhập cộng đồng nhưng nếu chúng ta

làm không tốt hoạt động này thì chính những đối tượng này có nguy cơ tái

phạm tội rất cao từ đó gây mất an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.Để

hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt tù đạt

hiệu quả cao phải huy động được sự tham gia của toàn xã hội để người mãn

hạn tù có gạt bỏ mọi rào cản, thêm nghị lực, quyết tâm trở thành người lương

thiện có ích cho gia đình và xã hội.

Tái hòa nhập cộng đồng đang là hoạt động tất cả các cấp, các ngành

quan tâm ,chú trọng hiện nay. Kết quả nghiên cứu đã làm rõ các cơ sở lý luận,

căn cứ pháp lý, các chương trình sau khi người mãn hạn tù trở về với địa

phương.. cũng như nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà

nước, tổ chức, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân trong công tác tái hòa nhập

cộng đồng. Đề tài đã đánh giá thực trạng của công tác tái hòa nhập cộng đồng

cho người chấp hành xong hình phạt tù trên địa bàn với những mặt làm được

và chưa làm được, trên cơ sở đó đưa ra một số nhóm giải pháp cơ bản. Trên

cơ sở đó, để đưa ra một số kiến nghị đề xuất để nâng cao hiệu quả công tác

này.

Nhằm mục đích nghiên cứu các vấn đề lý luận đồng thời phân tích và

đánh giá về thực trạng đang diễn ra trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ

2015-2019 để tìm ra những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế từ đó

đưa ra các giải pháp hoàn thiện về pháp luật cũng như các giải pháp nâng cao

hiệu quả của công tác này trên thực tế. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng kết

quả nghiên cứu của đề tài những giải pháp, kiến nghị, đề xuất nêu trong đề tài

chưa thực sự đầy đủ và toàn diện. Do phạm vi, thời gian nghiên cứu cũng như

trình độ nhận thức của tôi còn hạn chế nên luận văn không thể tránh khỏi

những thiếu sót, hạn chế nhất định. Rất mong nhận được sự giúp đỡ tận tình

của Giảng viên hướng dẫn, sự đóng góp phê bình chân thành của quý Thầy

Cô. Em xin chân thành cảm ơn !

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Ban chấp Hành trung ương Đảng, Nghị Quyết hội nghị lần 8 của BCH

trung ương đảng khóa VII.

[2] Quốc hội, Luật thi hành án hình sự 2019, Hà Nội.

[3] Nguyễn Quốc Nhật,Phạm Trung Hòa, Trần Hải Âu,Giáo dục, giúp đỡ,

người tùa tha tái hòa nhập cộng đồng ở Việt Nam, Nxb Công an nhân

dân.

[4] Nguyễn Khắc Hải, Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội, tạp chí

nhân lực khoa học xã hội, chuyên đề số 1, chuyên đề 1, 5/2019.

[5] Vũ Văn Hòa , Tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành

xong án phạt tù theo chức năng của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong

phòng ngừa tội phạm ở Việt Nam, Học Viện cảnh sát nhân dân, 2013.

[6] Dương Thanh Mai, Nguyễn Hữu Duyên, Ngô Văn Thủy, Nguyễn Hoàng

Hà, Nguyễn Văn Hiền, Nguyễn Quang Hưng,Một số vấn đề lý luận và

thực tiễn về tái hòa nhập cộng đồng của công dân sau thời gian cải tạo

giam giữ, tạp chí khoa học pháp lý ( chuyên đề số).

[7] Quốc hội, Hiến pháp 2013, Hà Nội.

[8] V.I.Lenin, Toàn tập, tập 35, Nxb tiện bộ Maxcova.

[9] Võ Khánh Vinh, chính sách pháp luật: khái niệm và các dấu hiệu(tiếp

theo bài số 03(34)/2016, tạp chí nhân lực khoa học xã hội, 11(30)/2016.

[10] Thủ Tướng Chính Phủ, Chỉ thị 33/CT-TTg của thủ tướng chính phủ về

tăng cường biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người

chấp hành xong án phạt tù, 05/12/2018.

[11] Bộ Công an, Bộ Quốc Phòng, Bộ Tài ChínhThông tư liên tịch số

12/2013-TTLT-BCA-BQP-BTC, 02/12/2013.

[12] Chính phủ, Nghị định số 117/2011/NĐ-CP , quy định về tổ chức quản lý

phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt và chăm sóc y tế đối với

phạm nhân, 2011.

[13] Chính Phủ, Nghị định 80/2011/NĐ-CP quy định các biện pháp bảo đảm

tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù,

16/9/2011.

[14] Quốc hội, Bộ luật hình sự 2015, Hà Nội.

[15] Võ Khánh Vinh , Các phương tiện chính sách pháp luật, số 03(34)/2016,

tạp chí nhân lực khoa học xã hội.

[16] Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh, Vị trí, địa lý, điều kiện tự nhiên

của tỉnh Bắc Ninh.

[17] Công an tỉnh Bắc Ninh, Báo cáo thống kê việc làm của người chấp hành

xong án phạt tù trên địa bàn tỉnh, 10/2018.

[18] Chính Phủ,Nghị định số 20/2012/NĐ-CP , Quy định cơ sở dữ liệu về thi

hành án hình sự, 20/3/2012.

[19] Châu Anh, Hỗ trợ việc làm cho người chấp hành xong hình phạt tù, Tạp

chí bảo hiểm xã hội, 10/9/2019.

[20] Trần Hữu Tráng , Chính sách pháp luật về tái hòa nhập cộng đồng, tạp

chí nhân lực khoa học xã hội, chuyên đề số 1 (5/2019).

[21] Quốc hội, Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Hà Nội.

[22] Quốc hội, Bộ luật hình sự 2015, Hà Nội.

[23] Huỳnh Thị Kim Anh, Thi hành án phạt tù có thời hạn- giải pháp nâng

cao hiệu quả thi hành án phạt tù có thời hạn ở Việt Nam, Đại học luật

thành phố Hồ Chí Minh, 2010.

[24] Bộ lao động thương binh và xã hội, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân

tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT

ngày hướng dẫn việc thu nhập, quản lý, cung cấp và sử dụng số liệu về

người chưa thành niên vi phạm pháp luật, 2013.

[25] Bộ lao động thương binh và xã hội, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân

tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT

hứơng dẫn việc hướng dẫn thi hành các quy định về giảm thời hạn chấp

hành án phạt tù đối với phạm nhân, 2013.

[26] Chính Phủ, Nghị định số 10/2012/NĐ-CP, Quy định việc thi hành biện

pháp giáo dục tại xã, Phường, Thị trấn đối với người chưa thành niên .

[27] Chính phủ, Chiến lược quốc gia phòng tội phạm giai đoạn 2016-2025 và

định hướng đến năm 2030 ban hành kèm theo quyết định 623/QĐ-TTg,

14/4/2016.

[28] Đảng cộng sản Việt Nam, Chỉ thị 48/CT-TW ngày 22/10/2010 về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phòng, chống tội phạm

trong tình hình mới, 2010.

[29] Hồ Sỹ Sơn , Hình phạt tù và vấn đề tái hòa nhập cộng đồng ở Việt Nam

hiện nay, Kỷ yếu hội thảo khoa học Pháp luật và thực tiễn tái hòa nhập

của những người mãn hạn tù ở Việt Nam và Na Uy, Viện Nhà nước và

pháp luật, 2008.

[30] Đỗ Tiến Dũng , Hình phạt tù có thời hạn và công tác tái hòa nhập với

người mãn hạn tù ở nước ta, Luận văn thạc sĩ luật hoc, Khoa luật, Đại

học Quốc gia, 2015.

[31] Võ Khánh Vinh, Cao Kim Oanh, Giáo trình Luật thi hành án hình sự,

Nxb Khoa học xã hội, 2013.

[32] Nguyễn Trí Trung, Tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành án

phạt tù từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Viện khoa học xã hội, 2014.

[33] Báo điện tử chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, Đảm bảo tái hòa nhập

cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù, 2018.

[34] Hệ thống phân tích nghiên cứu Luật Việt, Quy định về việc quản lý, giáo

dục, giúp đỡ người chấp hành xong hình phạt tù tái hòa nhập cộng đồng,

2019.

[35] Hà Phương, RadioCAND, Hà Nam " Giúp đỡ người tái hòa nhập cộng

đồng nhờ các mô hình thiết thực, 28/12/2018.

[36] Tòa án tỉnh Bắc Ninh, Báo cáo thống kê số liệu tái hòa nhập cộng đồng

tại tỉnh Bắc Ninh, 2015-2019.

[37] Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh, Thống kê số liệu đặc xá phạm

nhân tại trại giam Công an tỉnh Bắc Ninh, 2015-2019.

1