VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN KIM OANH
TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI
CHẤP HÀNH XONG HÌNH PHẠT TÙ TỪ THỰC
TIỄN TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN KIM OANH
TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI
CHẤP HÀNH XONG HÌNH PHẠT TÙ TỪ THỰC TIỄN
TỈNH BẮC NINH
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN KHẮC HẢI
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Kim Oanh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP
LUẬT VỀ TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI CHẤP HÀNH
XONG HÌNH PHẠT TÙ .......................................................................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của tái hòa nhập cộng đồng ........................... 6
1.2 Những định hướng của Đảng và Pháp luật của nhà nước về tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt tù. ........................................... 16
1.3 Mô hình của một số nước về tái hòa nhập cộng đồng .................................. 22
Chương 2: THỰC TRẠNG TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐÔNG CỦA NGƯỜI
CHẤP HÀNH XONG HÌNH PHẠT TÙ TỈNH BẮC NINH GIAI ĐOẠN
TỪ NĂM 2015 -2019 ............................................................................................... 28
2.1. Đánh giá về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội tại tinh Bắc Ninh liên
quan đến hoạt động tái hòa nhập cộng đồng. ..................................................... 28
2.2. Những kết quả đạt được trong công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với
người chấp hành xong hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh ......................... 31
2.3. Những khó khăn , vướng mắc trong công tác tái hòa nhập cộng đồng
đối với người chấp hành xong hình phạt tù của tỉnh Bắc Ninh và các nguyên
nhân cơ bản. ........................................................................................................ 41
Chương 3: NHỮNG CƠ SỞ, GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG HOẠT ĐỘNG TÁI
HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG HÌNH
PHẠT TÙ TẠI TỈNH BẮC NINH ......................................................................... 56
3.1 Những cơ sở và định hướng hoàn thiện pháp luật về tái hòa nhập cộng
đồng của người chấp hành xong hình phạt tù ..................................................... 56
3.2 Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về hoạt động tái hòa nhập cộng
đồng của người chấp hành xong hình phạt tù. .................................................... 61
3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác tái hòa nhập cộng đồng
đối với người chấp hành xong hình phạt tù. ....................................................... 65
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Sổ liệu tái hòa nhập xã hội tại Bắc Ninh từ năm 2015-2019 ........ 32
Bảng 2.2 Bảng số liệu về đặc xá từ năm 2015 đến 2019 tại Bắc Ninh ........... 35
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ quan trọng của Nhà
nước dùng để đấu tranh và phòng chống tội phạm góp phần bảo vệ bảo vệ
quyền và lợi ích của Nhà nước, của nhân dân, duy trì ổn định trật tự xã hội và
bảo vệ các quyền cơ bản của con người. Đảng và Nhà nước ta cũng rất trú tâm
đến hoạt động tái hòa nhập cộng đồng và cũng đã được thể chế hóa trong các
văn bản pháp luật liên quan đến công tác tái hòa nhập cộng đồng, đồng thời
các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong
án phạt tù cũng được quy định ở rất nhiều văn bản khác nhau. Hội nghị lần
thứ 8 của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII nhấn mạnh “ Đối xử
nhân đạo với người bị phạt tù. Có chương trình dạy nghề cho phạm nhân và
giới thiệu việc làm cho họ sau khi ra tù, giúp họ nhanh chóng tái hòa nhập
cộng đồng” [1]. Tái hòa nhập cộng đồng cũng liên quan đến nhiều cơ quan,
ban ngành và toàn xã hội. Khoản 2 điều 44 Luật thi hành án hình sự 2019 quy
định “Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện phối hợp với gia đình phạm nhân, chính quyền địa phương, cơ quan, tổ
chức, cá nhân quan tâm động viên phạm nhân tích cực học tập, lao động, rèn
luyện để được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước; hỗ trợ các hoạt động giáo
dục, dạy nghề cho phạm nhân và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để phạm
nhân tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù” [2]. Tuy
nhiên có thể nói đây vừa là quyền vừa là trách nhiệm của các cơ quan có thẩm
quyền nhằm góp phần đưa người phạm tội trở về cuộc sống lương thiện, ổn
định an ninh, trật tự địa phương là minh chứng cho đường lối đúng đắn của
Đảng và Nhà nước.
Từ các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động tái hòa nhập cộng
đồng được pháp luật quy định, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Đảng và chính
quyền địa phương đang vận động mọi nguồn lực có thể để giải quyết các vấn
1
đề xã hội trong đó có vấn đề tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong hình phạt tù để khi quay về trở thành người có ích cho xã hội, cho cộng
đồng. Tuy nhiên, theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh từ
năm 2015 đến năm 2019 số người tái phạm, tái phạm nguy hiểm ngày càng
gia tăng với mức độ, tính chất ngày một tinh vi và nguy hiểm hơn.
Sau khi trở về với cuộc sống đời thường câu hỏi đặt ra là liệu người
mãn hạn tù có thực sự hòa nhập được với gia cộng đồng, trở thành người công
dân có ích cho xã hội và ổn định được cuộc sống hay không? Đây là vấn đề
mà toàn xã hội cùng quan tâm chứ không của riêng bất kì ai. Giai đoạn này là
giai đoạn sau của thi hành án phạt tù, kết quả của nó sẽ là thước đo sự hiệu
quả của việc giáo dục, cải tạo trong trại giam đối với người phạm tội. Bản
thân người chấp hành xong hình phạt tù trở về họ rất cần sự giúp đỡ của cộng
đồng để có thể nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng.
Đảng và Nhà nước, các cấp chính quyền, các cơ quan chức năng, gia
đình và cộng đồng xã hội rất chú trọng tới công tác giáo dục cải tạo, tạo mọi
điều kiện giúp cho quá trình tái hoàn lương của người mãn hạn tù với mục
đích đưa họ về cuộc sống bình thườngvà sống có ích nhưng trên thực tế vấn
đề này chưa thực sự được quan tâm. Vì vậy, khâu cuối cùng để thực hiện một
cách trọn vẹn và nói lên ý nghĩa của bản án nhằm mục đích cải tạo, giáo dục
phạm nhân, phòng ngừa tái phạm, góp phần ổn định an ninh, trật tự và phòng
chống tội phạm chính là hoạt động tái hòa nhập cộng đồng.
Xuất phát từ những lý do đó tôi đã lựa chọn đề tài “Tái hòa nhập cộng
đồng của người chấp hành xong hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”
làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay có nhiều công trình khoa học, sách giáo khoa, báo pháp lý
chuyên ngành trong nước nghiên cứu ở mức độ và bình diện khác nhau về tái
hòa nhập cộng đồng như:“Thực trạng và giải pháp trong công tác quản lý,
giúp đỡ người được đặc xá, mãn hạn tù trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn –
Đà Nẵng” của Nguyễn Lợi, “Thực tiễn tái hòa nhập xã hội của người mãn hạn
tù trên địa bàn quận Hai Bà Trưng”, của Đàm Thế Thành,Trần Thị Quang
Vinh (2005) Đại học luật Tp.HCM “Phòng ngừa tái phạm đối với người bị
kết án phạt tù”, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái hòa nhập cộng đồng
của công dân sau thời gian cải tạo, giam giữ” của tập thể tác giả Dương
Thanh Mai, Nguyễn Hữu Duyện, Ngô Văn Thâu, Nguyễn Hoàng Hà, Nguyễn
Văn Hiền, Nguyễn Quang Hưng.Võ Khánh Vinh và Cao Thị Oanh (2013)
“Giáo trình Luật Thi hành án hình sự Việt Nam”,Nguyễn Khắc Hải “tái hòa
nhập xã hội đối với người phạm tội” tạp chí nhân lực khoa học xã hội
(2019).Ngoài ra, còn một số bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Khắc Hải, Trần Hữu
Tráng, PGS.TS Võ Khánh Vinh, Hồ Sỹ Sơn… trên các tạp chí khoa học cùng
một số giáo trình giảng dạy ở các trường đại học chuyên ngành cũng đề cập
đến vấn đề này.
Tuy nhiên, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh tình hình tội phạm diễn ra ngày
càng nhiều, phức tạp, với tính chất mức độ ngày càng nguy hiểm, số người chấp
hành án phạt tù cao nhưng còn ít những nghiên cứu chuyên sâu nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động tái hòa nhập cộng đồng
tại tỉnh Bắc Ninh.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm rõmột số vấn đề về lý luận và những quy
định cụ thể của pháp luật Việt Nam đối với công tác tái hòa nhập cộng đồng.
Đánh giá thực trạng của hoạt động tái hòa nhập cộng đồng trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh trong giai đoạn từ năm 2015 đến 2019 nhằm làm rõ những hiệu quả
thực hiện, nguyên nhân tồn tại những hạn chế của hoạt động này. Đề xuất
những kiến nghị và giải pháp đểtiếp tục hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả của hoạt động tái hòa nhập cộng đồng .
Để đạt được các mục tiêu trên, đề tài có những nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ hơn các vấn đề về lý luận và thực tiễn về công tác tái hòa
nhập xã hội như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa; các quy định của pháp luật hình
sự, tố tụng hình sự, thi hành án hình sự…và các văn bản pháp luật có liên quan
đến tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong hình phạt tù.
Hai là, đánh giá thực trạng công tác tái hòa nhập cộng đồng của người
chấp hành xong hình phạt tù trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong những năm gần
đây để tìm ra những thiếu sót, tồn tại và nguyên nhân của những thực trạng
trên từ đó xác định đúng đắn bản chất vấn đề. Đồng thời tác giả đưa ra một số
giải pháp phù hợp tiến tới hoàn thiện các quy định của pháp luật về tái hòa
nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong hình phạt tù.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề về lý luận và thực
tiễn của hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại tỉnh Bắc Ninh theo quy định
của pháp luật hiện hành: Hiến pháp, Thi hành án hình sự,Pháp luật hình sự,
Tố tụng hình sự. Luận văn nghiên cứu hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong hình phạt tù trên cơ sở các những hoạt động tái hòa
nhập cộng đồng được tổ chứctrong và sau khi ra tù của phạm nhântrên địa
bàn.
Phạm vi nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh về số trường hợp mãn
hạn tù, đặc xá trở về với cộng đồng được tổng hợp từ năm 2015 đến 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp biện chứng khoa
học kết hợp với một số phương pháp phân tích, đối chiếu, tổng hợp, so sánh,
thống kê, khảo sát thực tế....cùng những luận điểm khoa học trong các công
trình nghiên cứu, các bài viết được đăng trên các tạp chí khoa học của một số
nhà khoa học Luật hình sự Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong việc xây dựng và hoàn thiện Thi hành án hình sự,Luật hình sự, Tố tụng
hình sự về lĩnh vực tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình
phạt tù. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao
hiệu quả công tác tái hòa nhập xã hội đối với người mãn hạn tù trong giai
đoạn hiện nay .
Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống trên cơ sở lý luận
và thực tiễn hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình
phạt tù trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh tìm ra nguyên nhân của những hạn chế và
đưa ra giải pháp, kiến nghị góp phần khắc phục những hạn chế trong hoạt
động tái hòa nhập cộng đồng của tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Nội dung của luận văn gồm 3 chương chính :
Chương 1. Một số vấn đề lý luận, chính sách và pháp luật về tái hòa
nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt tù.
Chương 2. Thực trạng về tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong hình phạt tù tại tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019.
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật hoạt động tái hòa nhập cộng
đồng của người chấp hành xong hình phạt tù.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT VỀ
TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG
HÌNH PHẠT TÙ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của tái hòa nhập cộng đồng
1.1.1 Khái niệm tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình
phạt tù
Quan niệm chung của Việt Nam hiện nay về vấn đề tái hòa nhập cộng
đồng chỉ đặt ra với những người vi phạm pháp luật hành chính, hình sự mà bị
cách ly khỏi cộng đồng trong một khoảng thời gian.Hệ thống chế tài của Việt
Nam quy địnhcác đối tượng bị cách ly khỏi xã hội gồm những đối tượng như:
Người bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân, người bị đưa cơ sở chữa bệnh,
cơ sở giáo dục, người bị đưa vào trường giáo dưỡng...Tái hòa nhập cộng đồng
là quá trình từ khi một người trở thành bị can, bị cáo, chấp hành án và mãn
hạn tù. Đề tài này tôi tập trung nghiên cứu về vấn đề tái hòa nhập cộng đồng
củangười chấp hành xong hình phạt tù vì họ cần một khoảng thời gian cụ thể
để có thể thích nghi lại với cuộc sống sau khi mãn hạn tù trở về với sự giúp
đỡ của gia đình, cộng đồng xã hội. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về
là một giai đoạn vô cùng khó khăn nhưng không phải quá khó nếu họ quyết
tâm làm lại cuộc đời, chuẩn bị tâm lý cùng với sự giúp đỡ của cộng động để
có thể tái hòa nhập.
Bộ luật hình sự không có khái niệm cụ thể về người chấp hành xong
hình phạt tù nhưng có thể hiểu nôm na người chấp hành hình phạt tù là người
đã bị kết tội và phải chịu hình phạt theo bản án đã có hiệu lực của pháp luật.
Còn người chấp hành xong hình phạt tù là đối tượng có hành vi phạm tội đã bị
tòa kết án bằng bản án, bị cách ly với xã hội một thời gian nay đã chấp hành
xong hình phạt tù hoặc được tha ra khỏi trại, được trở về với đời sống cộng
đồng.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về tái hòa nhập cộng đồng. Một số ý
kiến cho rằng tái hòa nhập cộng đồng là “tái hoàn lương” quay lại với cuộc
sống bình thường mà những người phạm tội đã mất đi. Cũng có quan điểm
cho rằng tái hòa nhập là các biện pháp quản lý của cộng đồng xã hội đối với
những người phạm tội. Bên cạnh đó, đa phần các quan điểm đều cho rằng tái
hòa nhập cộng đồng là quay lại một lần nữahòa nhập với cộng đồng xã hội
đối với những người có quá khứ lầm lỡ sau một thời gian cách ly khỏi cộng
đồng. Tuy nhiên, có thể hiểu tái hòa nhập cộng đồng như sau: Tái hòa nhập
cộng đồng là xóa đi những quá khứ tội lỗi, mặc cảm của người phạm tội, tạo
cơ hội, bình thường hóa các mối quan hệ để họ hội nhập với cộng đồng nơi cư
trú với tư cách một công dân, một thành viên gia đình, cộng đồng xã hội [3].
Hoặc cũng có thể hiểu hòa nhập là quá trình hòa nhập về mặt xã hội và tâm lý
với môi trường xã hội của một người. Tái hòa nhập xã hội đề cập cụ thể hơn
đến các chương trình và sáng kiến để giúp người phạm tội đang chấp hành
hình phạt trong cơ sở giam giữ.Mục đích giúp người phạm tội tái hòa nhập
cộng đồng thành công sau khi chấp hành xong bản án. Thông thường có hai
chương trình: các chương trình hỗ trợ ngay trong cơ sở giam giữ nhằm giúp
người phạm tội giải quyết các vấn đề,trang bị các kĩ năng cần thiết để thực
hiện tốt các chức năng của mình và chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng. Những
chương trình dựa trên cộng đồng, thường được gọi là “hậu chăm sóc” nguy cơ
trong các trường học là tình trạng quá đông, ngược đãi, phân biệt đối xử hoặc
chương trình giáo dục không đầy đủ mà có thể dẫn đến nghỉ học tràn lan hoặc
bỏ học giữa chừng [4]. Có thể thấy đây là các biện pháp tác động hướng thiện
từ bản thân đối tượng phấn đấu để có thể tái hòa nhập cộng đồng. Như vậy tái
hòa nhập cộng đồng được xét trên hai khía cạnh thứ nhất tự bản thân họ nhận
thức, tư duy điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với chuẩn mực đạo
đức, quy định của pháp luật; Thứ hai, công tác tái hòa nhập cộng đồng cho
người chấp hành xong hình phạt tù là quá trình tác động tích cực của cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư và gia đình đối với người đã chấp
hành xong án phạt tù và cùng sự cố gắng của họ nhằm giúp đỡ tạo điều kiện
thuận lợi để người mãn hạn tù sớm ổn định cuộc sống, hòa nhập với gia đình,
cộng đồng và phấn đấu trở thành công dân có ích cho xã hội.Theo PGS.TS
Nguyễn Quốc Nhật, tái hòa nhập cộng đồng cho người mãn hạn tù không chỉ
là đưa họ về với gia đình, cộng đồng xã hội nơi họ sinh sống mà còn phải tiếp
tục giáo dục, giúp đỡ tạo điều kiện, cơ hội cho họ trở lại cộng đồng[3]. Như
vậy có thể nói công tác tái hòa nhập cộng đồng phải luôn luôn có sự song
hành của gia đình, cơ quan, tổ chức, các cá nhân trong xã hội để người phạm
tội sau khi trở về không cảm thấy bị kỳ thị hay mặc cảm. Nghiên cứu về thực
tiễn công tác tái hòa nhập cộng đồng cho người mãn hạn tù cho thấy:
Về mặt tâm lý xã hội: Quan niệm của số đông hiện nay đối với người
chấp hành xong hình phạt tù là những người “không bình thường” vì họ là
người phạm tội đối với xã hội. Họ đã có nững hành vi phạm tội bị xử lý bằng
pháp luật đó là một vết nhơ trong quá khứ khiến họ trở nên mặc cảm, tự ti,
thiếu sự tin tưởng vào gia đình, cộng đồng. [5]
Có thể thấy, sự quan tâm của xã hội đối với người chấp hành xong hình
phạt tù vẫn còn những định kiến, khoảng cách nhất định. Trong một thời gian
ngắn xã hội và cộng đồng chưa thể xóa đi những mặc cảm về tội lỗi trước đây
của người phạm tội vì thế cần có thời gian để họ xóa đi những định kiến đó.
Hầu như những người chấp hành xong hình phạt tù trở về với địa phương là
những người có học lực thấp, cộng với tâm lý e dè, mặc cảm, không tìm được
công ăn việc làm ổn định là nguyên nhân khiến nguy cơ tái phạm tội ở mức
cao. Do đó, phòng ngừa tái phạm đối với người bị kết án tù, đặc biệt sau khi
họ chấp hành xong hình phạt tù là một yêu cầu thực tế khách quan trong cuộc
đấu tranh giữ gìn an ninh, trật tự, phòng, chống tội phạm.
Về mặt xã hội: Tái hòa nhập cộng đồng là quá trình những người chấp
hành xong hình phạt tù trở về với tư cách là một chủ thể và tham gia vào các
quan hệ xã hội đó. Người chấp hành xong hình phạt tù có thể gặp những khó
khăn nhất định về mặt chủ quan trong suy nghĩ về cách hành xử thiếu thiện
cảm, kỳ thị, xa lánh của cộng đồng xã hội với họ trong các mối quan hệ xã
hội, họ gần như mất hết lòng tự tin. Do đó, gia đìnhchính là chỗ dựa, ảnh
hưởng nhiều nhất đến kết quả cải tạo, giáo dục của người bị kết án; tiếp đó là
sự giúp đỡ của cộng đồng đây là sợi dây kết nối quan trọng đảm bảo sự hòa
nhập cộng đồng một cách nhanh chóng.
Về mặt pháp lý: tái hòa nhập cộng đồng là quá trình phục hồi tư cách
công dân, khôi phục các quyền và nghĩa vụ của công dân trên thực tế. Tái hòa
nhập cộng đồng là quá trình khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị kết án đã bị pháp luật tước bỏ xét trên phương diện pháp lý. Khôi
phục quyền công dân tức là khôi phục các quyền năng của chủ thể pháp luật
để người đó tham gia vào các quan hệ pháp luật với đầy đủ các quyền, nghĩa
vụ như mọi công dân khác [5].
Hiện nay thực tế cho thấy những người sau khichấp hành án phạt tù trở
về với cộng đồng chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác nhau như tâm lý,
hành vi năng lực, tình cảm gia đình,nghị lực và sự nỗ lực của cá nhân, sự đón
nhận của gia đình và xã hội.Quan trọng hơn hết vẫn là sự cố gắng của chính
mình và sự chung tay của toàn xã hội. Trách nhiệm trước hết thuộc về cơ quan
Thi hành án hình sự, tiếp đến chính quyền địa phương, người thân và gia đình
nhằm giúp đỡ họ khôi phục lại các quan hệ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội.
Mục đích của hình phạt không chỉ nhằm mục đích trừng trịmà còn cải
tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người lương thiện có ích cho gia đình
và xã hội, có ý thức tuân thủ, tôn trọng pháp luật và các quy tắc của xã hội,
ngăn ngừa việc tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Hiệu quả của việc giáo dục
trong thi hành án phạt tù thể hiện sự hiệu quả trong việc áp dụng pháp luật đối
với đối tượng chấp hàn hình phạt tù. Đây là thước đo sự hiểu quả của hoạt
động tái hòa nhập cộng đồng.
Theo các nghiên cứu cho thấy tái hòa nhập cộng đồng gôm 3 giai đoạn
chính :
- Giai đoạn chuẩn bị tái hòa nhập : Ở giai đoạn này người đang chấp hành
hình phạt tù trong trại giam được giáo dục về tư tưởng, pháp luật và đạo đức
cũng như rèn luyện ý thức lao động, đây là sự chuẩn bị cần thiết cho sự thích
ứng nhanh chóng của đối tượng khi ra ngoài môi trường bên ngoài cơ sở cải
tạo, giam giữ.
- Giai đoạn người chấp hành xong hình phạt tù tái hòa nhập cộng đồngGiai
đoạn này có thể chia nhỏ hơn thành một số bước Tái hoà nhập gia đình: Là
quá trình hòa nhập vào gia đình. Gia đình là môi trường đầu tiên và quan
trọng nhất mà đối tượng phải hòa nhập sau khi trở về với cuộc sống cộng
đồng. Kết thúc quá trình này là người thân chấp nhận họ trở thành một thành
viên bình thường của gia đình được yêu thương và đùm bọc. Tái hoà nhập
vào cộng đồng dân cư tại địa bàn mà đối tượng trở lại sinh sống. Đây là
giai đoạn tái lập lại các mối quan hệ xã hội ngoài gia đình mà trước tiên là
quan hệ với hàng xóm, láng giềng, với bạn bè thân quen, với chính quyền
cơ sở và các tổ chức xã hội, đoàn thểlà quá trình thích nghi và điều chỉnh
hành vi phù hợp với các quy định của pháp luật và các quy tắc đạo đức tại
địa phương. Kết quả của quá trình này là sự ghi nhận của toàn thể xã hội,
chính quyền địa phương và những người xung quanh đối với những tiến bộ
của họ
- Cuối cùng là thời kì khẳng định vị trí của mình trong xã hội vàổn định đời
sống: đây là quá trình thể hiện rõ sự nỗ lực thực sự của họ trong việchoàn
thiện nhân các, xây dựng một cuộc sống lương thiện, nâng cao kiến thức
văn hoá và năng lực, trách nhiệm trong lao động. Lúc này những đóng góp
của họ có tác động tích cực đến sự phát triển chung của cộng đồng.
Hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt
tù dù xét trên phương diện nào thì cũng nhằm mục đích bảo đảm quyền con
người. Thông qua đó họ được trang bị các điều kiện cần thiết để dần thích
nghi với đời sống sinh hoạt chung của cộng đồng, đồng thời xã hội tạo điều
kiện cho họ tạo dựng cuộc sống bình thường trong xã hội.
Những người được ra tù sau họ luôn khao khát làm lại cuộc đời sau một
thời gian họ bị cách ly khỏi đời sống xã hội, mong muốn trở thành người
lương thiện có ích cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên, những kiến thức, kỹ
năng nghề nghiệp được học trong trại giam, trại tam giam sau khi ra ngoài
thường bị lạc hậu so với thực tế, khiến họ khó khăn hơn để ổn định cuộc sống.
Từ những đánh giá, phân tích đã nêu trên tôi đưa ra khái niệm tái hòa
nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt tù như sau:
Tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt tù là quá
trình tác động tích cực hai chiều thông qua các chương trình giữa các cơ
quan Nhà nước, tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư và gia đình đối với người
chấp hành xong hình phạt tù nhằm giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để người
chấp hành xong hình phạt tù sớm ổn định cuộc sống, hòa nhập với cộng đồng
và trở thành người lương thiện có ích cho gia đình và xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của tái hòa nhập cộng đồng
Tái hòa nhập cộng đồng là sự kết hợp tác động tích cực của xã hội và
nỗ lực của cá nhân để giúp cho phạm nhân đó nhanh chóng hòa nhập với cộng
đồng. hay nói cách khác đây là quá trình người chấp hành xong hình phạt tù
trở tái sinh về với xã hội cùng với sự chung tay, góp sức của gia đình và cộng
đồng để hoạt động này đạt hiểu quả cao nhất. Công tác này rất cần sự quan
tâm của toàn xã hội và gia đình của chính những người chấp hành xong hình
phạt tù, đặc biệt hơn nữa đối với những người chưa thành niên khi họ nhận
thức còn chưa đầy đủ.
Điều 46 Hiến pháp năm 2013 đã chỉ rõ: "Công dân có nghĩa vụ tuân
theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng” [7]. Do đó, những
người phạm tội nói chung và những đối tượng chấp hành xong hình phạt tù
nói riêng cần phải được quan tâm tạo điều kiện quản lý, giáo dục, giúp đỡ cho
họ thực hiện quyền công dân của mình.Thái độ của cộng đồng tích cực thể
hiện sự cởi mở, nhân đạo trong đời sống giúp đỡ người mãn hạn tù trong việc
hòa nhập vào cộng đồng. Vì vậy, nếu cả hai yêu tố tích cực từ hai phía được
phát huy thì quá trình tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình
phạt tù sẽ diễn ra một cách hiệu quả và tiết kiệm thời gian hơn .
Hòa nhập cộng đồng là quá trình hòa nhập về mặt xã hội và tâm lý với
môi trường xã hội của một con người. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tư pháp hình
sự, nó thường được đề cập tới những hình thức hỗ trợ khác nhau cho những
người phạm tội với nỗ lực nhằm ngăn cản họ tham gia vào hành vi phạm tội
hoặc làm giảm khả năng tái phạm của họ. Ngay khi ở trong cơ sở giam giữ,
người phạm tội đã phải đối mặt với những thử thách hòa nhập rất lớn vào thời
điểm họ được trả tự do.
Tái hòa nhập cộng đồng là một quá trình liên tục được hình thành từ
các giai đoạn nối tiếp nhau, đầu tiên từ việc chuẩn bị cho người phạm tội cái
nhìn đúng đắn về pháp luật, tâm lý và đào tạo một số kỹ năng lao động nghề
nghiệp trong quá trình cải tạo tại tại trại giam và chấm dứtkhi họ được hỗ trợ
những điều kiện cần thiết để có thể tái hòa nhập thành công.
Tái hòa nhập cộng đồng là sự kết hợp tổng thể của các biện pháp quản
lý hành chính – tư pháp, sự tác động về tư tưởng, tâm lý, giáo dục văn hóa
pháp luật, hướng nghiệp, với những biện pháp, hình thức, mức độ khác nhau.
Đây được coi là một trong những biện pháp giữ gìn an ninh trật tự xã
hội, phòng chống tội phạm. Có thể nói, việc tạo điều kiện cho người chấp
hành xong hình phạt tù tái hòa nhập với cộng đồng mang cả hai yếu tố phòng
ngừa tội phạm và yếu tố nhân đạo. Để hoạt động này mang lại ý nghĩa và hiệu
quả cao thì cần phải có những cơ chế phối hợp tổng thể của các biện pháp
quản lý hành chính- tư pháp.
Về mặt tâm lý, phạm nhân nói chung và người mãn hạn tù nói riêng
thường có hai cảm xúc đan xen giữa tiêu cực và tích cực. Họ vừa có mặc cảm
bị xã hội coi thường, bỏ rơi, thiếu niềm tin vào bản thân và mọi người xung
quanh, oán trách thậm chí hận thù, nhưng lại vừa mong muốn chuộc lỗi, lấy
lại niềm tin của mọi người xung quanh để làm lại cuộc đời. Rào cản lớn nhất
đối với quá trình tái hòa nhập chính là tâm lý tiêu cực xuất phát từ phía người
mãn hạn [5]. Do đó, ngay từ khi đang chấp hành hình phạt tù thì sự tác động
về mặt tỉnh cảm là vô cùng cần thiết, sự sẵn sàng yêu thương, chia sẻ, động
viên, đùm bọc, tha thứ từ phái người thân, gia đình và cộng đồng sẽ tạo cho
họ niềm tin, sự yên tâm giúp họ vượt qua mọi trở ngại, khó khăn trong cuộc
sống, giúp họ tự tin sống tích cực và có động lực hơn. Việc giáo dục pháp
luật, văn hóa cho phạm nhân là nội dung cần được chú trọng để trang bị và
nâng cao những kiến thức về pháp luật, những chuẩn mực đạo đức để họ có
nhận thức đúng đắn tự điều chỉnh hành vi, lối sống của mình trong xã hội.
Nhu cầu được lao động, tìm kiếm việc làm ổn định đây là một nhu cầu
chính đáng để người mãn hạn tù sau khi ra tù có thể tự nuôi sống bản thân và
gia đình sau khi trở với cộng đồng và đây cũng là động lực để họ đi theo con
đường đúng đắn, nỗ lực hòa nhập trở thành người có ích cho gia đình và cho
xã hội.
Tái hòa nhập cộng đồng cần phối hợp với sự tham gia của nhiều cơ
quan, tổ chức. Ngoài yếu tố quan trọng nhất thuộc về gia đình của phạm nhân,
là động lực lớn giúp họ xóa bỏ mặc cảm, tích cực học tập,rèn luyện, cải tạo
ngay từ giai đoạn đang chấp hành hình phạt tù thì sự tham gia của các cơ
quan, tổ chức cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng. Đây là nơi đề ra các
chương trình, sang kiến, tập hợp những nguồn từ nhân lực đến kinh phí giúp
người mãn hạn tù sớm hòa đồng với xã hội, xóa bỏ mặc cảm và đi lên làm lại
cuộc đời.
Thứ nhất,các cơ quan nhà nước trang bị đầy đủ cơ sở vật chất cho việc
đào tạo, giáo dục dạy nghề cho các đối tượng chính sách xã hội mới là yếu tố
quan trọng nhất.
Thứ hai, các biện pháp xã hội luôn luôn phù hợp với tâm lý của người
phạm tội hơn so với những biện pháp mang tính chất công quyền.
Thứ ba, sự hỗ trợ của các tổ chức xã hội và các tình nguyện viên sẽ góp
phần làm giảm áp lực tài chính cho nhà nước khi sử dụng quá nhiều các nhân
viên chuyên trách.
Tái hòa nhập cộng đồng là hoạt động mang tính xã hội hóa cao.
Cộng đồng là nơi tập hợp tất cả mọi người vừa là môi trường để người mãn
hạn tù hòa nhập, thiết lập các mối quan hệ xã hội của mình với các chủ thể
khác trong xã hội vừa là yếu tố tác động tích cực đến quá trình tái hòa nhập
cộng đồng. Sự nỗ lực, cố gắng của người chấp hành xong hình phạt tù sẽ đạt
được kết quả cao khi họ nhận được sự giúp đỡ, cảm thông, chia sẻ từ cộng
đồng dân cư.
1.1.3 Ý nghĩa của tái hòa nhập cộng đồng
Tái hòa nhập cộng đồng giúp người chấp hành xong hình phạt tù tăng
cường năng lực thích ứng với xã hội góp phần rút ngắn thời gian hòa nhập
vào cộng đồng.
Công tác tái hòa nhập cho người chấp hành xong hình phạt tù có ý
nghĩa quan trong ở nhiều mặt như phát triển kinh tế, giữ gìn an ninh xã
hội.Tái hòa nhập cộng đồng là quá trình bản thân họ tự cố gắng cộng với sự
tác động tích cực củatổ chức xã hội, cơ quan nhà nước, gia đình và cộng đồng
dân cư đối với người đã chấp hành xong hình phạt tù nhằm tạo điều kiện để
người mãn hạn tù sớm hòa nhập với gia đình,cộng đồng và phấn đấu trở thành
công dân có ích cho xã hội. Công tác này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
việc đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ tính nhân đạovà bảo đảm việc phòng
ngừa tội phạm, trong các công tác trên công tác phòng ngừa tái phạm có ý
nghĩa quan trọng nhất.
Trong thời gian chấp hành án phạm nhân được sống trong môi trường
kỉ luật, được quản lý chặt chẽ theo quy định của pháp luật.Sau khi mãn hạn tù
họ trở về với cộng đồng sẽ gặp những khó khăn chủ yếu sau:
Thứ nhất, do sự thay đổi của môi trường sống, trong trại giam họ được
lao động và học tập theo chế độ cụ thể và chịu sự quản lý theo quy định của
pháp luật, những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống họ không cần phải tự mình
làm mà đều được đảm bảo.Điều này khó tránh khỏi việc cảm thấy ngợp,
không tìm được việc làm, hoang mang dễ dẫn đến lùi bước, nản lòng trước
những khó khăn, thử thách.
Thứ hai, những khó khăn do biến động xã hội đem lại. Có những người
trở về sau một thời gian cách ly với xã hội sẽ cảm thấy không bắt kịp với sự
thay đổi của thời đại hoặc cảm thấy xa lạ dẫn đến trạng thái lúng túng, không
biết phải bắt đầu từ đâu.
Thứ ba, khi họ trở về với xã hội mỗi người có một điều kiện, tâm trạng
riêng, đây chính là bất lợi tâm lý do cảm thấy mắc lỗi. Cảm thấy mọi người
như xa lánh, mặc cảm, tự ti về những tội lỗi trước kia mình đã gây ra.
Tái hòa nhập cộng đồng phát huy hiệu quả của việc áp dụng hình phạt,
Thước đo sự hiệu quả của việc áp dụng hiệu quả pháp luật chính là sự tái hòa
nhập thành công của việc tái hòa nhập cộng đồng. tái hòa nhập thành công tức
là việc áp dụng hình phạt là giáo dục, cải tạo người phạm tội đã thành công,
giúp họ trở thành những người lương thiện sống có ích cho bản thân, gia đình
và xã hội.
Tái hòa nhập cộng đồng là phương thức hữu hiệu trong công cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm và ngăn ngừa tình trạng tái phạm. Mục đích của
hình phạt không những để trừng trị mà còn nhằm giáo dục, ngăn chặn hành vi
phạm tội góp phần vào công cuộc phòng chống tội phạm.
Hoạt động tái hòa nhập cộng đồng có ý nghĩa rất quan trọng, vừa giúp
người chấp hành xong hình phạt tù thích ứng nhanh hơn với cộng đồng vừa
giúp nhà nước quản lý giúp họ trở thành công dân tốt, có điều kiện tạo lập
cuộc sống của bản thân. Nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng người chấp
hành xong hình phạt tù tái phạm, một trong những nguyên nhân đó là dosự
bất cập của hệ thống pháp luật vềchế tài áp dụng hình phạt tù không có tác
dụng, công tác quản lý xã hội còn yếu, do sự thiếu đồng bộ của các cơ quan
Thi hành án hình sự.
Thứ nhất là, nhiều người sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về
cộng đồng không tìm được việc làm, do trình độ học vấn thấp, kỹ năng lao
động, nghề nghiệp họ đã được học trong trại giam đã lạc hậu so với những
yêu cầu của thực tế đồng thời thái độ phân biệt kỳ thị của tổ chức, doanh
nghiệp đối với người đã từng ngồi tù, do cơ chế lao động hiện nay đối với
người có tiền án, tiền sự; cho nên tạo ra rất nhiều khó khăn cho người mãn
hạn tù khi họ muốn làm lại cuộc đời.
Thứ hai là, các biện pháp giáo dục trong trại giam còn chưa thực sự có
hiệu quả.Thực tế vẫn còn tình trạng đầu gấu, đại ca, bạo lực trong các trại
giam. Chính vì thế, Các hoạt động tái hòa nhập cộng đồng nếu được tổ chức
tốt sẽ góp phần quan trọng trong sự phát triển của đất nước.
Thứ ba là, việc quản lý người mãn hạn tù trở về hòa nhập với cộng
đồng không có hiệu quả, không nắm được hiện tại họ đang sinh sống, làm
việc ở đâu. Công tác kiểm tra, thăm hỏi sau khi ra tù còn nhiều hạn chế.
Thứ tư là, người chấp hành xong hình phạt tù không những không nhận
được sự giúp đỡ của xã hội thậm chí còn chịu sự bỏ mặc, xa lánh, kì thị của
chính những gia đình, người thân của chính mình.
Tái hòa nhập cộng đồng là cơ chế bảo đảm quyền con người trong tư
pháp hình sự. Giúp đỡ người phạm tội để họ có điều kiện tái hòa nhập, tôn
trọng và coi họ là một phần của cộng đồng, để họ tự tạo cơ hội cho chính
mình, thích ứng với cuộc sống bình thường tạo cơ hội để họ tìm kiếm việc
làm, có thu nhập ổn định để tự nuôi sống bản thân và gia đình bằng những
việc làm lương thiện, không vi phạm pháp luật đó là một chính sách lớn thể
hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta và là trách nhiệm của xã hội.
1.2 Những định hướng của Đảng và Pháp luật của nhà nước về tái hòa
nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt tù.
Chủ trương, Chính sách nói chung có thể hiểu là những tư tưởng,
những định hướng, những mong muốn cần hướng tới, cần đạt được. Quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng “Chính sách là đường hướng của nhà
nước, là sự xác định các hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động nhà nước”
[8]. Theo GS.TS Võ Khánh Vinh định nghĩa “Chính sách pháp luật là hoạt
động có căn cứ khoa học, nhất quán và hệ thống cơ quan nhà nước và của các
thiết chế xã hội nhằm xây dựng cơ chế điều chỉnh pháp luật có hiệu quả, sử
dụng văn minh các phương tiện pháp luật để đạt được mục đích đảm bảo đầy
đủ các quyền và tự do của con người và của công dân, hình thành và phát
triển nhà nước pháp quyền, văn hóa pháp luật và đời sống pháp luật của cá
nhân” [9]. Như vậy có thể thấy chính sách pháp luật tái hòa nhập cộng đồng
là hoạt động có căn cứ hệ thống của các cơ quan nhà nước nhằm xây dựng và
điều chỉnh pháp luật sao cho có hiệu quả nhằm tạo điều kiện thuận lời cho
người phạm tội tái hòa nhập cộng đồng ổn định cuộc sống và phòng ngừa vi
phạm pháp luật.
Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về công tác tái
hòa nhập cộng đồng không chỉ xác định đường lối, hình thức, phương hướng
và các biện pháp thực hiện tái hòa nhập cộng đồng mà còn xác định trách
nhiệm của các cơ quan Nhà nước,chính quyền địa phương, tổ chức xã hội, các
tổ chức kinh tế, nhà trường và gia đình trong công tác, giúp đỡ, quản lý, giáo
dục những người chấp hành xong hình phạt tù tái hòa nhập cộng đồng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
VII: “Đối xử nhân đạo với người bị phạt tù. Có chương trình dạy nghề cho
phạm nhân và giới thiệu việc làm cho họ sau khi ra tù, giúp họ nhanh chóng
tái hòa nhập cộng đồng” [1].
Đề án hòa nhập cộng đồng và Chương trình khung giáo dục cải tạo
phạm nhân là hai văn bản quan trọng nhằm thực hiện nội dung, biện pháp,
hình thức giáo dục cải tạo phạm nhân trong các cơ sở giam giữ và nâng cao
hiệu quả thực hiện các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với
người chấp hành xong án phạt tù quy định tại Nghị định 80/2011/NĐ-CP của
Chính phủ[10].
Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 05/12/2018 của thủ tướng chính phủ về
tăng cường các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp
hành xong án phạt tù, đã giao nhiệm vụ cho bộ công an “tăng cường nguồn
lực đầu tư, nâng cao chất lượng công tác giáo dục, tư vấn, hướng nghiệp, dạy
nghề cho phạm nhân tại trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, trại viên trong
các cơ sở bắt buộc, học sinh trong các trường giáo dưỡng…”[11]
Thông tư liên tịch số 12/2013-TTLT-BCA-BQP-BTC ngày 02/12/2013
hướng dẫn về chế độ lao động và sử dụng kết quả lao động, học nghề của
phạm nhân trong trại giam đã quy định dành phần một kết quả lao động để
đầu tư cho hoạt động dạy nghề[11].
Hiện nay, nước ta đang thực hiện nhiều chương trình nhằm nâng cao
hiệu quả của quá trình tái hòa nhập cộng đồng.Chiến lược quốc gia phòng
chống tội phạm giai đoạn 2016-2025 và định hướng đến giai đoạn 2030 đã đề
ra một trong các nhiệm vụ và giải pháp là : “Chủ động thực hiện các biện
pháp giúp phạm nhân chuẩn bị tái hòa nhập ngay trong quá trình chấp hành
án, đồng thời thực hiện có hiệu quả các biện pháp giúp phạm nhân chuẩn bị
tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù. Tiếp tục đổi
mới công tác giáo dục dạy nghề, trại viên, học viên, học sinh” [12].
Mục tiêu của các dự án Nhà nước đã đề ra là hàng năm có ít nhất 80%
số đối tượng vi phạm pháp luật hình sự, đối tượngtù tha, đặc xáđược bảo lãnh
giúp đỡ, cảm hóa, giáo dục để tiến bộ tại cộng đồng dân cư và tăng cường
chất lượng dạy nghề cho phạm nhân trong trại giam đáp ứng được nhu cầu
của nền kinh tế thị trường sau khi họ ra tù. Nâng cao chất lượng giáo dục
trong các trại giam đáp ứng với các nhu cầu của xã hội là bước đệm giúp
người chấp hành xong hình phạt tù thích ứng nhanh chóng với môi trường,
hướng họ tới con đường lương thiện và hạn chế tái phạm nguy hiểm. Cần đầu
tư trang thiết bị, cơ sở vật chất chủ yếu cho việc dạy nghề đối với những
ngành nghề thuộc danh mục đào tạo nghề được nhà nước quy định để giúp
người mãn hạn tù sau khi ra tù nhanh chóng tìm được công ăn việc làm ổn
định.
Hoạt động tái hòa nhập cộng đồng là hoạt động mang tính xã hội hóa
cao, để hoạt động này đạt được hiệu quả cao đòi hỏi phải có sự hỗ trợ, giúp
sức của các tổ chức, cơ quan, đoàn thể, của cả gia đình và nỗ lực từ chính
những người chấp hành hình phạt tù…dựa trên những quy định của pháp luật
về cơ chế phối hợp thực hiện.
Có rất nhiều căn cứ pháp lý để áp dụng trong công tác tái hòa nhập đối
với người phạm tội nói chung và người chấp hành xong hình phạt tù nói
riêng, đầu tiên đó là Luật Thi hành án hình sự năm 2019, trong đó quy định về
nguyên tắc, trình tự, thủ tục, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan có
thẩm quyền trong thi hành bản án, quyết định về hình phạt tù,cảnh cáo,cải tạo
không giam giữ, tử hình,quản chế, tước một số quyền công dân,cấm cư
trú,cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định,trục xuất, án treo, biện pháp tư pháp; quyền hạn, nghĩa vụ của người
chấp hành án hình sự,trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
trong thi hành án hình sự, biện pháp tư pháp.
Hiến pháp nước ta là cơ sở pháp lý quan trọng ghi nhận và quy định các
quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội,dân sựcủa công dân, của
con người trong đó cả quyền của người phạm tội. Trên cơ sở quy định của
Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật đặc xá năm 2018,
Luật Thi hành án hình sự năm 2019, Nghị định 80/2011/NĐ-CP ngày
16/9/2011 quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với
người chấp hành xong án phạt tù,Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 05/12/2018 của
thủ tướng Chính phủ quy định về tăng cường các biện pháp bảo đảm đối với
người chấp hành xong án phạt tù. 52/2019/NĐ-CP hướng dẫn vềtái hòa nhập
cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù; Chiến lược quốc gia
phòng chống tội phạm 2016-2025 và định hướng đến năm 2030 kèm theo
quyết định số 623/QĐ-TTg ngày 14/4/2016; Nghị định số 20/2012/NĐ-CP
ngày 20/3/2012 quy định cơ sở dữ liệu về Thi hành án hình sự,Thông tư số
39/2013/TT-BCA ngày 04/02/2013 của Bộ Công an quy định về giáo dục và
tư vấn cho phạm nhân sắp chấp hành xong án phạt tù,Thông tư liên tịch số
02/2013 ngày 15/5/2013 của Bộ Lao động Thương binh và xã hội – Bộ Công
an – Viện kiểm sát nhân dân Tối cao – Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn thi
hành các quy định về giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với phạm
nhân,Nghị định 117/2011/NĐ-CP ngày 15/12/2011 quy định về tổ chức quản
lý phạm nhân và chế độ ăn mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm
nhân.
Điều 16 hiến pháp 2013 “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội.” [7] vì thế người chấp hành xong hình phạt tù cũng phải được
bình đẳng và bảo đảm các quyền và nghĩa vụ như tất cả công dân khác.
Nghị định số 80/2011/NĐ-CP ngày 16 tháng 9 năm 2011 của chính phủ
quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp
hành xong án phạt tù đã được xác định vào điều chỉnh là “…Quy định cụ thể
các điều kiện, biện pháp đảm bảo tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp
hành xong án phạt tù...” [13]
Bộ luật Hình sự năm năm 2015 đã thể hiện tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt
về vấn đề tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội, theo đó tại Điều 3 của
Bộ luật có quy định về nguyên tắc xử lý như sau: " Đối với người bị phạt tù
thì buộc họ phải chấp hành hình phạt tại các cơ sở giam giữ, phải lao động,
học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có đủ điều kiện do Bộ
luật này quy định, thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, tha
tù trước thời hạn có điều kiện" và “Người đã chấp hành xong hình phạt được
tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng, khi có
đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích” [14]
Chính sách pháp luật về tái hòa nhập cộng đồng liên quan đến lao động
và đào tạo nghề cho người đang bị cách ly khỏi xã hội được quy định trong
Luật thi hành án hình sự.Theo GS.TS Võ Khánh Vinh “Phương tiện của chính
sách pháp luật là các công cụ và các hành vi được sử dụng để đạt được các
mục tiêu và các nhiệm vụ chính sách pháp luật để thực hiện trên thực tế các
quan điểm pháp luật mang tính chiến lược” [15].Luật thi hành án hình sự đã
luật hóa các chủ chương , chính sách thành chính sách lao động và dạy nghề
cho người thi hành án phạt tù. Điều 31 luật thi hành án hình sự 2019 quy định
về chế độ, học nghề của phạm nhân quy định “ Phạm nhân…được học văn
hóa, học nghề …” [2]. Các điều 32, 33 cũng quy định cụ thể về thời gian, vấn
đề tài chính liên quan đến học nghề. Điều 45 quy định về tái hòa nhập cộng
đồng, theo đó trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an
cấp huyện có trách nhiệm tổ chức chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng trước khi
phạm nhân chấp hành xong án phạt tù, được đặc xá, tha tù trước thời hạn có
điều kiện.
Cùng với tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của ở nước ta hiện nay
việc tổ chức tái hòa nhập cộng đồng tương đối cần thiết nhưng lại rất phức
tạp, đây là một trong bôn đề án chủ yếu của của chương trình Quốc gia phòng
chống tội phạm. Cho nên phải kiềm chế và làm giảm sự gia tăng của tội
phạm để không tạo áp lực cả về số lượng và ngân sách cho nhà nước.
Đường lối, chính sách của Đảng ta về hoạt động tái hòa nhập cũng đã
được thể chế hóa trong tất cả các văn bản quy phạm pháp luật đã nêu được tổ
chức từ lúc người chấp hành hình phạt tù chấp hành án cho tới khi họ trở về
với địa phương.Đây là việc làm rất cần thiết và quan trọng thể hiện tính nhân
văn, nhân đạo của pháp luật nước ta.
Cùng với đó, việc phạm nhân được học tập, giáo dục trong môi trường
kỉ luật, được giác ngộ về pháp luật, văn hóa, tham gia các hoạt động cộng
đồng điều này giúp họ nhận thức được những hành vi của mình trước đây là
trái với pháp luật, biết ăn năn hối cải để trở thành người có ích cho gia đình và
xã hội . Tái hòa nhập cộng đồng luôn tồn tại song song với sự tồn tại của pháp
luật hình sự. Tuy nhiên, để đảm bảo hoàn thiện hơn về quyền con nguời đặc
biệt là của phạm nhân thì pháp luật về hoạt động tái hòa nhập cộng đồng cũng
phải có thay đổi theo từng thời kỳ, tùy theo theo tiến trình phát triển của kinh
tế- xã hội.
Mục đích chính của việc tái hòa nhập xã hội là nhằm cung cấp cho
những người phạm tội những hỗ trợ cũng như giám sát để giúp họ hoạt động
trong xã hội để trở thành người tuân thủ pháp luật và trách việc tái phạm tội
đồng thời trở thành những công dân tốt. Những chương trình này tạo cơ hội
cho người phạm tội liên kết với gia đình và cộng đồng, sống tốt và tuân thủ
pháp luật.
Tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù là hoạt
động mang tính cộng đồng đồng thời mang tính nghiệp vụ và pháp luật cao.
Do vậy vấn đề này luôn là vấn đề được Đảng và nhà nước ta rất quan tâm.
Nhà nước ta luôn luôn đề cao, tiếp tục nâng cao chất lượng của việc quản lý
giáo dục, cải tạo giúp người chấp hành hình phạt bằng nhiều hình thức khác
nhau. Thành lập ban chỉ đạo của chính phủ thực hiện chương trình phòng
chống tội phạm . Từng bước xây dựng nếp sống lành mạnh tại cộng đồng dân
cư, tuyên truyền, phổ biến pháp luật giúp họ hiểu được tầm quan trong của
công tác tái hòa nhập, giúp đỡ người mãn hạn tù quay trở về cộng đồng một
cách hiệu quả.
1.3 Mô hình của một số nước về tái hòa nhập cộng đồng
Vấn đề tái hòa nhập cộng đồng cho những người sau khi mãn hạn tù
không chỉ là điều mà Việt Nam quan tâm mà nó còn là vấn đề của nhiều nước
trên thế giới. Tái hòa nhập cộng đồng ở Việt Nam hiện nay đang đang là vấn
đề mà nhà nước và xã hội quan tâm. Tuy nhiên cũng nên nhìn vào công tác
này ở một số quốc gia trên thế giới để rút ra được những kinh nghiệm trong
việc tái hòa nhập cộng đồng tại Việt Nam.
Mô hình tái hòa nhập cộng đồng của Trung Quốc
Ở Trung Quốc, ngoài các nội dung đảm bảo công tác tái hòa nhập cho
người mãn hạn tù, chính phủ Trung Quốc còn thực hiện điều tra và đánh giá
tình hình tái hòa nhập cộng đồng của những người mãn hạn tù. Việc này góp
phần nâng cao chất lượng cải tạo. Trại giam không chỉ chịu trách nhiệm đối
với việc cải tạo của phạm nhân trong thời hạn chấp hành hình phạt mà chất
lượng cải tạo còn được còn phải được kiểm nghiệm bằng thực tế xã hội tiếp
nhận như thế nào [6]. Bên cạnh đó việc điều tra đánh giá tình hình tái hòa
nhập cộng đồng của những người mãn hạn tù còn chỉ ra những phương hướng
cho công tác này. Làm tốt công tác xã hội, bố trí việc làm chính là ổn định tư
tưởng cho những người mãn hạn tù, củng cố kết quả cải tạo, chính là biện
pháp quan trọng để phòng chống và giảm bớt hiện tượng tái phạm.
Ở Trung Quốc áp dụng các biện pháp kết hợp thăm hỏi định kỳ và phát
triển điều tra để nâng cao cải tạo, đồng thời động viên, khích lệ những người
có biểu hiện tốt, kịp thời giáo giục những người có biểu hiện xấu; khảo sát
trọng điểm, tiến hành khảo sát phân loại cách thức tổ chức, có kế hoạch , có
trình tự ở những người mãn hạn từ ở các độ tuổi khác nhau, hình phạt khác
nhau v.v…Thông qua đó để thu thập các thông tin phản hồi, có thể nghiên
cứu cải tiến công tác cải tạo, làm tốt công tác dự tính, chuẩn bị, tiến hành
phân tích các vấn đề như cơ sở tri thức, tố chất sức khỏe , sở thích nghề
nghiệp, nơi cư trú của những phạm nhân mới vào trại để có thể điều phối lao
động tương ứng, tiến hành bồi dưỡng đào tạo định hướng nghề nghiệp.
thường xuyên tìm hiểu xu hướng việc làm của xã hội, những biên động của
gia đình phạm nhân. Tái hòa nhập cộng đồng từ lâu đã là vấn đề được nhà
nước Trung Quốc rất quan tâm và chú trọng thực hiện [6].
Có thể thấy đây là một điểm khác so với Việt Nam bởi Trung Quốc đã
rất chú trọng vào quá trình tái hòa nhập, ngoài việc thường xuyên kiểm tra
khảo sát định kì ngay từ khi tiếp nhận phạm nhân, phân tích các vấn đề như
sức khỏe, sở thích, nghề nghiệp… của phạm nhân mới vào trạiđể điều phối
lao động, sau khi ra tù thì định hướng nghệ nghiệp cho họ. Ở Việt Nam hiện
nay, hoạt động nghiên cứu trước khi phạm nhân mới vào trại là chưa có và
các hoạt động giúp người chấp hành xong hình phạt tù tái hòa nhập cộng
đồng còn hạn chế, nhất là việc hướng nghiệp cho phạm nhân sau khi ra tù vẫn
còn chưa được sát sao. Đây là một vấn đề cần lưu ý bởi vì chỉ có củng cố
công tác xã hội, tạo điều kiện tái hòa nhập cho các phạm nhân mãn hạn tù thì
mới có thể phòng chống và giảm bớt tình hình tái phạm của phạm nhân.
Mô hình tái hòa nhập cộng đồng của Singapore
Mô hình tái hòa nhập cộng đồng của singapore quy định khá rõ về các
nội dung liên quan đến việc cho phép phạm nhân có thể chấp hành hình phạt
tù tại gia. Pháp luật Singapore quy định : Nếu phạm nhân đủ điều kiện được
giam giữ tại nhà thì giám thị sẽ ra lệnh cho người đó được thi hành hình phạt
tại nhà. Phạm nhân chỉ có thể được chấp hành hình phạt tại nhà khi phải chấp
hành án phạt tù tối thiểu 4 tuần và không nằm trong danh mục những tội
không được phép giam giữ tại nhà. Trong thời gian người đó chấp hành hình
phạt tại nhà vẫn bị giám sát thường xuyên do thiết bị điện tử mà phạm nhân
phải luôn mang theo trên người. Tuy vậy, dù chấp hành hình phạt tù tại nhà ở
giai đoạn đầu hay cuối thì cũng góp phần tạo những điều kiện thuận lợi lớn để
người đó tái hòa nhập cộng đồng. Cung với đó, pháp luật Singapore cũng quy
định các trường hợp không được chấp hành hình phạt tù tại nhà. Từ những
quy định đó đảm bảo cho việc tái hòa nhập diễn ra một cách nhanh chóng hơn
[5]
Đây là một điểm khá hay bởi gia đình là nơi quan trọng nhất và bước
đầu giúp cho người chấp hành xong hình phạt tù trở về với cộng đồng. Là nơi
bao dung, yêu thương, đùm bọc họ. Nhiều trường hợp khi quay trở lại với gia
đình vẫn mang đầy mặc cảm, tự ti, vì thế đối với những người phạm tội nhẹ
có thể cải tạo mà không giam giữ thì đây là một biện pháp giúp họ hòa nhập
nhanh chóng nhất.
Mô hình tái hòa nhập cộng đồng của Úc.
Với mục tiêu khuyến khích người chấp hành xong hình phạt tham gia tái hòa
nhập và không nhằm loại bỏ họ ra khỏi đời sống cộng đồng, giúp cộng động
tăng cao nhận thức của họ trong việc phòng chống tội phạm cũng như nâng
cao nhận thức của người chấp hành án về trách nhiệm đối với cộng đồng. Do
vậy, Úc áp dụng rất nhiều các hình thức quản chế tại nhà ngoài việc áp dụng
chế độ giam giữ do đó tạo ra sự liên mạch cho hoạt động tái hòa nhập cộng
đồng.
Việc giam giữ tài nhà cũng được giám sát chặt chẽ nhất và chỉ được áp
dụng vào khung thời gian nhất định. Người phạm tội vẫnđược phép ra khỏi
nhà trong một thời gian nhất định vào các ngày nghỉ cuối tuần để giao tiếp xã
hội hay đi dạo. Giám sát điện tử vẫn cho phép giám sát phạm nhân đối với các
điều kiện giam giữ tại nhà của người đó. Người chấp hành án vẫn phải được
phổ biến về nghĩa vụ của họ đối với thiết bị truyền phát tín mà họ mang theo
người. Thêm vào đó Úc có các biện pháp giáo dục tại cộng đồng cho trẻ chưa
thành niên phạm tội [6].
Cũng giống như mô hình của Singapore mô hình tái hòa nhập của Úc
cũng khá mới mẻ bởi ngoài sự giám sát chặt chẽ vào ngày cuối tuần phạm
nhân vẫn có thể giao tiếp xã hội hay đi dạo. Điều này sẽ khích lệ tinh thần của
người phạm tội, giúp họ yêu đời và tránh xa các tệ nạn, sớm hòa mình vào xã
hội. Đây là điều chưa có ở Việt Nam.Vì thế cần học hỏi những điểm mới, phù
hợp và tiến bộ ở các nước phát triển trên thế giới để áp dụng vào mô hình của
nước ta giúp cho công tác tái hòa nhập đạt hiệu quả cao hơn, tỉ lệ tái phạm, tái
phạm nguy hiểm không còn là vấn đề đáng ngại, hạn chế việc phạm nhân ra
tù không được xã hội chào đón, không có cơ hội để làm lại cuộc đời.
Tiểu kết chương 1
Kết quả nghiên cứu ở chương 1 là cơ sở khoa học cho việc đánh giá
thực trạng của việc tái hòa nhập cộng đồng ở chương 2 qua đótìm ra nguyên
nhân của những hạn chế, tồn tại trong công tác thực tiễn tái hòa nhập cộng
đồng trên địa bàn tỉnh Băc Ninh và đưa ra một số những giải pháp nhằmhoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của công tác này. Người chấp hành xong
hình phạt tù là một phần của xã hội, họ sinh hoạt trong cộng đồng và do vi
phạm pháp luật nên mới bị kết án, bị cách ly khỏi xã hội theo quy định của
pháp luật hình sự. Tái hoà nhập cộng đồng là một công việc tất yếu vàcần
thiết đối với nhà nước và toàn xã hội, nhất là trong thời điểm hiện tại khi cả
thế giới và Việt Nam đang rất quan tâm đến vấn đề quyền con người. Xuất
phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lývà
những quan niệm khác nhau của mọi người, những người phạm tội khi ra tù
họthiếu thốn phương tiện vật chất, điều kiện việc làm, mang nhiều mặc cảm
tự ti. Khoảng thời gian cách ly khỏi xã hội là khoảng thời gian mà họ mang
nhiều suy nghĩ tiêu cực, cần được cảm thông và hướng dẫn để khi trở về với
xã hội họ không bị bỡ ngỡ và có thể hoà nhập với xã hội trở thành người có
ích cho xã hội. Công tác giáo dục, tuyên truyền, giúp đỡ tạo điều kiện cho
người mãn hạn tù sớm tái hoà nhập cộng đồng là nhiệm vụ vô cùng quan
trọng, nó thểtính cộng đồng, tính xã hội sâu sắc. Trong số những người trở về
sau khi mãn hạn tù có những người lại tiếp tục đi theo con đường cũ trở thành
tái phạm tội. Điều này cho thấy việc thực hiện công tác tái hoà nhập còn
những bất cập mà trước hết đó là những quy định của pháp luật nằm rải rác ở
khá nhiều văn bản khác nhau bao gồm Bộ luật hình sự , bộ luật tố tụng hình
sự, luật thi hành án hình sự, các văn bản hướng dẫn và các văn bản khác... dẫn
đến nhiều khó khăn trong việc áp dụng . Từ các phân tích ở chương 1 có thể
khái quát được các vấn đề lý luận chung nhất về tái hoà nhập cộng đồng, đặc
điểm cũng như ý nghĩa của nó . Các chủ chương, chính sách của đảng và pháp
luật của nhà nước về tái hoà nhập cộng đồng đồng thời cùng với đó là sự so
sánh với mô hình tái hoà nhập cộng đồng của một số quốc gia trên thế giới.
Chương 2
THỰC TRẠNG TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐÔNG
CỦA NGƯỜICHẤP HÀNH XONG HÌNH PHẠT TÙ TỈNH BẮC NINH
GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2015 -2019
2.1. Đánh giá về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội tại tinh Bắc Ninh liên
quan đến hoạt động tái hòa nhập cộng đồng.
Bắc Ninh là tỉnh thuộc đồng bằng sông hồng, nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm và là vùng đất giàu văn hóa truyền thống .Năm 2019, dân số Bắc
Ninh là 1.368.840 người, chỉ chiếm 1,4% dân số cả nước và đứng thứ 22/63
tỉnh, thành phố, trong đó nam 676.060 người và nữ 692.780 người; khu vực
thành thị 376.418 người, chiếm 27.5% dân số toàn tỉnh và khu vực nông thôn
992.422 người, chiếm 72,5% [16]. Bắc Ninh nằm ở vị trí thuận khá lợi về
giao thông, các tuyến đường huyết mạchnối liền Bắc Ninh với các trung tâm
kinh tế, văn hóa và thương mại của khu vực phía Bắc Việt Nam. Lợi thế về vị
trí địa lý cũng là một trong những thách thức về tình hình an ninh trật tự, là
điểm trú ngụ nhiều loại tội phạm. Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có trại tạm giam
Công an tỉnh Bắc Ninh đóng trên địa bàn huyện Quế Võ.
Các hoạt động chuẩn bị tái hòa nhập trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh vẫn
diễn ra hằng năm tuy nhiên không được diễn ra mạnh mẽ như các địa phương
khác nhưng cũng góp phần lớn trong công cuộc ổn định trật tự, an ninh xã
hội. Cả nước có khoản hơn 54 trại giam do Bộ công an quản lý, 83 trại tạm
Giam và 734 nhà tạm giữ , quản lý giam giữ khoảng 65.000 tù nhân.
Đối với công tác lao động, dạy nghề cho người phạm tội, hầu như các
trại đều thành lập trung tâm dạy nghề và đào tao cho hàng nghìn lượt phạm
nhân để khi ra tù họ có công ăn việc làm ổn để ổn định cuộc sống. Đối với
chế độ chính sách áp dụng cho phạm nhân, trại tạm giam công an tỉnh Bắc
Ninh thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật về ăn, mặc, thăm
gặp, chăm sóc y tế…
Đối với tình hình tội phạm qua các năm diễn ra ngày càng tăng nhanh với
tính chất mức độ ngày càng phức tạp. Đối tượng bị áp dụng các biện pháp giam
giữ và đối tượng tái phạm cũng ngày càng tăng. Vấn đề đặt ra ở đây là Đảng và
nhà nước cần quan tâm hơn nữa tới vấn đề nâng cao chất lượng của hoạt động
tái hòa nhập cộng đồng của người mãn hạn tù bởi chỉ có thực hiện tốt công tác
này mới giảm số người tái phạm, tái phạm nguy hiểm, tạo điều kiện để họ quay
về con đường lương thiện giúp ổn định và phát triển đất nước.
Qua những kết quả khảo sát thực tế cho thấy mặc dù luật thi hành án
hình sự năm 2019 Nghị định số 80/2011/NĐ ngày 16/9/2011 đã quy định các
biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình
phạt tù và trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên các cơ
quan, đoàn thể vẫn chưa thực sự quan tâm và thực hiện đầy đủ nhằm nâng
cao hiệu quả của công tác tái hòa nhập cộng đồng.Hằng năm số người bị kết
án tù trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đều gia tăng trong đó số người không có
nghề nghiệp ổn định và học vấn thấp chiếm tỉ lệ cao.Vấn đề này cũng tạo ra
áp lực rất lớn trong việc giam giữ phạm nhân bởi sự quá tải khi cơ sở vật chất
không đủ đáp ứng số lượng lớn phạm nhân và tiêu tốn một khoản ngân sách
rất lớn của nhà nước đồng thời cũng tạo áp lực cho hoạt động tái hòa nhập
cộng đồng trong giai đoạn hiện nay
Từ thực tiễn đó, chính quyền tỉnh Bắc Ninh cần xác định rõ đây là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm và có ý nghĩa trong việc ổn định an ninh trật
tự địa phương và phòng chống tội phạm. Cơ quan Công an tỉnh Bắc Ninh
hướng dẫn Công an cấp dưới thực hiện công tác quản lý, giám sát người chấp
hành xong hình phạt tù bằng các biện pháp hành chính – tư pháp đồng thời
phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc cảm hóa, giáo dục, động viên
giúp đỡ về cả tinh thần lẫn giới thiệu công ăn việc làm để họ nhanh chóng ổn
định cuộc sống. Theo nghiên cứu cho thấy phần lớn người mãn hạn tù trở về
địa phươngcũng đều được tạo điều kiện, giúp đỡ, tích cực tự tìm việc làm
tham gia lao động để ổn định cuộc sống.
Theo báo cáo năm tháng 10 năm 2018 của Công an tỉnh Bắc Ninh về
việc làm cho người chấp hành xong án phạt tù, trong số nhữngngười chấp
hành xong hình phạt tù trở về: có 53% được giới thiệu việc làm trong đó có
người được các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp tiếp nhận vào làm việc tại khu
công nghiệp Quế võ ( huyện Quế Võ ), khu công nghiệp Yên Phong (huyện
Yên Phong) , khu công nghiệp Đại Đồng (huyện Tiên Du ), khu công nghiệp
Hạp Lĩnh (thành phố Bắc Ninh) , Khu công nghiệp Thuận Thành (huyện
Thuận Thành) và các cụm khu công nghiệp khác trên địa bàn tỉnh,có người
làm việc tại các cơ sở kinh tế vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh; 9,8% người chưa
có việc làm ổn định hoặc không có việc làm; 19,1% người được vay vốn từ
Ngân hàng chính sách, Quỹ an ninh trật tự, Quỹ “Hỗ trợ tái hòa nhập động
đồng” tự tạo được việc làm ổn định bằng các ngành nghề dịch vụ, nghề truyền
thống: Làm gốm, đồ mỹ nghệ, chăn nuôi, trồng cây ăn quả, 0,8% người được
giải quyết đất sản xuất; 18,1% tái phạm tội [17].
Tình hình phát triển chung do hình thành nhiều khu công nghiệp, cụm
công nghiệp mới làm thay đổi diện mạo kinh tế của tỉnh. Điều đó có ảnh
hưởng rất lớn đến hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của người mãn hạn tù vì
thế các cấp chính quyền, ban ngành, đoàn thể, các doanh nghiệp và lực lượng
Công an tạo điều kiện để người mãn hạn tù tìm được công việc phù hợp, sớm
hòa nhập với xã hội. Nhờ sự quan tâm đó, nhiều người đã vượt qua mặc cảm,
tự ti, khó khăn ban đầu để vươn lên thành công trong cuộc sống. Không
những tạo công ăn việc làm cho chính mình mà còn giúp đỡ nhiều người có
quá khứ lầm lỡ, quay trở về con đường lương thiện. Anh Trương Ngọc Bảo
trú tại Khu Sơn, phường Hạp Lĩnh, thành phố Bắc Ninh năm 2015 anh bị Tòa
án tuyên phạt 02 năm tù treo và 04 năm thử thách. Với sự khích lệ, động viên
của gia đình, chính quyền địa phương và lực lượng Công an trong thời gian
chấp hành án sau khi ra trại anh tích cực tham gia các hoạt động của cộng
đồng. Hiện tại anh đã là đội trưởng dân phòng, rất tích cực trong công tác
phòng, chống tội phạm cùng an hem vây bắt nhiều vụ trộm, cướp, thu hồi
nhiều tang vật góp phần giúp đỡ lực lượng Công an, giữ gìn an ninh trật tự
của địa phương. Được các cấp, các ngành trong ngoài tỉnh tặng giấy khen.
Anh Nguyễn Văn Sáng, khu 6, thị trấn Phố Mới, huyện Quế Võ, tỉnh
Bắc Ninh phải trả giá bằng việc 2 lần vướng vòng lao lý. Năm 2016, anh Sáng
mãn hạn tù trở về địa phương. Trăn trở làm để trở thành một công dân có ích
như bao người, anh đi tìm việc nhiều nơi với hy vọng lấy lại quãng thời gian
mình đã đánh mất nhưng không tìm được công việc lâu dài. Sau khi được gia
đình động viên, chính quyền hỗ trợ vốn anh đã tự tin vượt qua mặc cảm để đi
học về cơ khí. Ra nghề, anh đi làm thuê để lấy kinh nghiệm, sau khi thành
thạo với sự hỗ trợ xét cho vay từ quỹ doanh nhân với số tiền 80 triệu đồng để
có vốn làm ăn. Hiện nay xưởng cơ khí của anh đã làm ăn có lãi cùng rất nhiều
đơn đặt hàng mang lại nguồn thu nhập chính cho gia đình.
Bên cạnh đó, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cũng có nhiều cá nhân điển
hình tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong hình phạt tù đã tự tiến
bộ, vươn lên làm giàu như: anh Phan Thanh Hải chủ cơ sở sửa xe máy, đại lý
cấp 1 phụ tùng xe máy ở phường Suối Hoa, Tp.Bắc Ninh ; anh Nguyễn
Hoàng Minh chủ trang trại vịt xiêm ở xã Bình Dương, huyện Gia Bình ; …
Tuy nhiên, vẫn còn một vài địa phương còn thiếu sự quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ,
tạo điều kiện cho người mãn hạn tù trở về đồng thời gia đình và người thân
cũng không nhận thức được vai trò của mình trong việc giáo dục, uốn nắn
người mãn hạn tù trở về do cuộc sống gia đình còn quá khó khăn nên dẫn đến
tình trạng tái phạm tội.
2.2. Những kết quả đạt được trong công tác tái hòa nhập cộng đồng đối
với người chấp hành xong hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
Hiện nay ở Bắc Ninh việc đưa người chấp hành xong hình phạt tù trở
lại hòa nhập với cộng đồng và trở thành những người có ích là nhiệm vụ của
nhiều chủ thể trước hết là Đảng ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân là
các cơ quan lãnh đạo cũng như chỉ đạo trực tiếp các chương trình và kế hoạch
tái hòa nhập cộng đồng.
Bảng 2.1: Sổ liệu tái hòa nhập xã hội tại Bắc Ninh từ năm 2015-2019
Phân loại
Thời gian Số người ra tù
Tiến Bộ (%)
Khó khăn (%)
Biểu hiện phạm pháp (%)
2015 368 333 (90.4%) 36 (9.7%) 17 (4.6%)
2016 279 242 (86.7%) 32 (11.4%) 23 (8.2%)
2017 332 287(86.4%) 23 (6.9%) 13 (3.9%)
2018 312 304(97.4%) 19 (6.0%) 8 (2,5%)
2019 267 255(95.5%) 13 (4,8%) 9 (3,3%)
Tổng số 1558 1421(91,2%) 123(7,8%) 65(4,1%)
Nguồn: Báo cáo số liệu về tái hòa nhập của tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh từ
năm 2015-2019
Số liệu thống kê tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh cho thấy tình hình
tái hòa nhập cộng đồng tại tỉnh Bắc Ninh những năm qua đã có những chuyển
biến tích cực, bước đầu cho thấy hiệu quả của việc áp dụng pháp luật tái hòa
nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù trên địa bàn tỉnh.
Bảng 2.1 số liệu điều tra xã hội học về biểu hiện tái hòa nhập cộng đồng của
những người ra tù hàng năm của tỉnh Bắc Ninh tại trại tạm giam Công an tỉnh
và trên cả nước. Từ bảng điều tra có thế thấy, từ năm 2015 đến năm năm
2019, trong khoảng thời gian 5 năm tổng số người mãn hạn tù từ các trại giam
trên cả nước và trại tạm giam trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh là 1558 người, trung
bình hàng năm ở Bắc Ninh đón nhận 320 người chấp hành xong án phạt tù về
tái hòa nhập cộng đồng. Trong số những người mãn hạn tù này được phân
loại thành những đối tượng sau: số người tiến bộ là 1.421 người chiếm
91.2%; số người gặp khó khăn trong việc tái hòa nhập xã hội là 123 người
chiếm 7,8% và số người có biểu hiện phạm pháp là 65 người chiếm 4,1% có
thể thấy tuy số gặp khó khăn và biểu hiện tái phạm vẫn còn nhưng nhìn chung
số người tiến bộ vẫn chiếm phần nhiều hơn.
Tính từ năm 2015 đến năm 2019trong số 1558 người mãn hạn tù về
Bắc Ninh có khả năng tiến bộ và hòa nhập được với cuộc sống tại địa phương
là 1.421, chiếm 91,2% số người mãn hạn tù trở về địa phương tái hòa nhập
cộng đồng. Như vậy có thể nói, công tác tái hòa nhập cộng đồng tại tỉnh Bắc
Ninhđã dần đạt những thành công nhất định và đưa những người mãn hạn tù
trở lại cộng đồng, làm ăn ổn định cuộc sống. Những người mãn hạn tù trở về
địa phương có lối sống lành mạnh, hướng thiện và có chiều hướng hòa nhập,
tiến bộ với cuộc sống chung và quên đi quá khứ lầm lỡ, điều này cho thấy
tỉnh đã khá thành công với công tác tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp
hành xong hình phạt tù.
Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan, tổ chức liên quan được Công an
tỉnh Bắc Ninh tham mưu, hướng dẫn trong việc tiếp nhận, quản lý, giúp đỡ
người được đặc xá về địa phương nhanh chóng hòa nhập cộng đồng, phối hợp
với các đơn vị liên quan rà soát những người được đặc xá tại địa bàn để thống
nhất kế hoạch tiếp nhận và quản lý.
Trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 số người ra tù chênh lệch
không đáng kể ở Bắc Ninh, tuy nhiên qua mỗi năm cần nhìn nhận lại công tác
tái hòa nhập cộng đồng từ những người mãn hạn tù trở về Bắc Ninh đểchuẩn
bị tốt hơn công tác này ở những năm sau. Năm 2015, số người ra tù ở Bắc
Ninh là 386 người, trong đó số người tiến bộ là 333 người, chiếm 90,4%
trong tổng số những người được mãn hạn tù ở địa bàn tỉnh, bên cạnh đó
những người ra tù tái hòa nhập xã hội còn gặp khó khăn là 36 người chiếm
9,7% và số người có biểu hiện phạm pháp là 17 ngườichiếm 4,6%. Năm
2016, số người ra tù ở Bắc Ninh là 297 người trong số đó có 242 người có
biểu hiện tiến bộ chiếm 86.7%, số người gặp khó khăn trong việc trở về sinh
sống tại địa phương là 32 người chiếm 11.4% và số người có biếu hiện phạm
pháp là 23 người chiếm 8.2%. Năm 2017, số người ra tù ở Bắc Ninh là 332
người, trong đó số người tiến bộ là 287 người chiếm 86.4%, trong tổng số
332người ra tù của năm 2018 có 23 người tái hòa nhập cộng đồng gặp khó
khăn chiếm 6.9% và số người có biểu hiện phạm pháp là 13 người chiếm
3.9%. Năm 2018, Bắc Ninh đón nhận 312 người mãn hạn tù trở về địa
phương, trong số đó có 304 người có biểu hiện tiến bộ chiếm 97.4%, bên
cạnh đó còn 19 người gặp khó khăn khi trở về sinh sống tại địa phương chiếm
6.0% và 8 người cỏ biểu hiện pháp phạm chiếm 2,5%. Năm 2019, số người
mãn hạn tù về Bắc Ninh là 267 người, sau khi trở về địa phương có 255 người
có biểu hiện tiến bộ chiếm 95.5%, số người còn gặp khó khăn trong việc tái
hòa nhập cộng đồng là 13 người, chiếm 4,8% và số người có biểu hiện phạm
pháp là 9 người chiếm 3,3%. Như vậy, thông qua bảng số thống kê về số
người phạm tội mãn hạn tù cần được tái hòa nhập cộng đồng ở Bắc Ninh có
thể thấy được số người có biểu hiện tiến bộ ở các năm là khá cao trong tổng
số những người ra tù, điều này cho thấy công tác tái hòa nhập cộng đồng ở
các giai đoạn là tương đối hiệu quả. Đầu tiên là các chế độ tại trại tạm giam
,các chương trình định hướng, giúp đỡ và chuẩn bị về mặt tâm lý cũng như về
các kỹ năng nghề nghiệp, xã hội để người phạm tội khi mãn hạn tù trở về địa
phương có thể tái hòa nhập cộng đồng thành công. Bắc Ninh đã xây dựng
nhiều mô hình như mô hình “ hướng nghiệp cho phạm nhân chấp hành xong
hình phạt tù” nhờ mô hình này anh Nguyễn Hồng Hải ở phường Suối Hoa
trước khi trở về rất tự ti, nhưng nhờ chương trình này anh đã được giới thiệu
công việc và tự tin hòa nhập cộng đồng. Cùng với đó việc trở về địa phương
người phạm tội có thể hòa nhập với cộng đồng được hay không lại do công
tác tổ chức hoạt động này của chính quyền địa phương cùng với sự giúp sức
của người thân, gia đình và cả cộng đồng. Từ năm 2015 đến năm 2019, trung
bình mỗi năm trong số những người chấp hành xong hình phạt tù trở về địa
phương, số người có biểu hiện tiến bộ là 284 người chiếm 70,3% tổng số
người phạm tội mãn hạn tù ở Bắc Ninh. Ngược lại số người gặp khó khăn
trong việc tái hòa nhập qua các năm có xu hướng giảm: Năm 2015 số người
gặp khó khăn trong việc tái hòa nhập cộng đồnglà 36 người chiếm 9,7%, năm
2016 là 32 người chiếm 11.4% và con số này giảm dần qua các năm đến năm
2017 là 23 người (6.9%), năm 2018 là 19 người (6.0%) và năm 2019 chỉ là 13
người chiếm 4.8%. Rõ ràng cùng với sự phát triền của tỉnh và sự quan tâm
của các cấp, các ngành thì người phạm tội sau mãn hạn tù được quay trở về
địa phương sinh sống và làm ăn ngày càng tiến bộ hơn. Đặc biệt số người có
biểu hiện phạm pháp đã có xu hướng giảm từ 13 người chỉ còn 9 người từ
năm 2017 trở lại đây. Kết quả này là một kết quả khả quan và cho thấy rõ sự
cố gắng của cả một hệ thống các cơ quan, tổ chức và cá nhân trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh trong việc tái hòa nhập cộng đồng cho người phạm tội, để họ có
một sống binh thường, trở thành những công dân có ích sau một thời gian bị
cách ly khỏi xã hội.
Các quy định của pháp luật về giảm án, tha tù, đặc xá và kết quả học
tập, lao động cải tạo của phạm nhân .Công tác này tại tỉnh Bắc Ninh được làm
thường xuyên, hằng năm..Các phạm nhân được giảm án, tha tù,đặc xá đều
được thực hiện một cách công khai, đúng quy định để đảm bảo tính công khai
từ đó tạo ra động lực để người chấp hành hình phạt tù tích cực cải tạo để
nhanh chóng được ra tù. Dưới đây là bảng thống kê về tình hình đặc xá tại
Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh và tỷ lệ tái phạm của tỉnh từ năm 2015
đến năm 2019
Bảng 2.2Bảng số liệu về đặc xá từ năm 2015 đến 2019 tại Bắc Ninh
Năm Tỷ lệ tái phạm
2015 Số người đặc xá tại trại tạm giam công an tỉnh Bắc Ninh 31 11.2%
2016 09 10.6%
2017 Không đặc xá 0%
2018 Không đặc xá 0%
2019 Không đặc xá 0%
40 10.9%
Tổng cộng
Nguồn: Số liệu Đặc xá của trại tạm giam công an tỉnh Bắc Ninh từ 2015-2019
Năm 2015 trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh có 31 phạm nhân được
đặc xá với tỉ lệ tái phạm trung bình là 11.2% . Năm 2016 chỉ có 9 phạm nhân
với tỉ lệ tái phạm là 10.6% . Tỷ lệ người tái phạm của 2 năm 2015 và 2016
trung bình dao động ở mức10.9%. Còn từ năm 2017 đến 2019 hầu như không
có đợt đặc xá nào nguyên nhân là do các phạm nhân tại trại chưa đáp ứng đủ
điều kiện đặc xá và luật đặc xá cũng có nhiều thay đổi trong các năm này .Tuy
nhiên thì nhìn chung công tác tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong hình phạt tù của địa phương đạt hiệu quả chưa cao, nguyên nhân là họ
không tìm việc được làm để ổn định cuộc sống bởi công tác dạy nghề cho
phạm nhân trại tạm giam chủ yếu là dạy các nghề chế biến nông sản như
trồng hoa màu, chăn nuôi nhằm cải thiện đời sống.
Những gia đình có ruộng vườn sẵn có vươn lên làm lại cuộc đời từ
chính của cải đó, bằng mồ hôi nước mắt của mình như trồng lúa, trồng hoa
màu, chăn nuôi gia súc gia cầm . Phần lớn thực tế cho thấy các nghề mà phạm
nhân được học trong trai giam hầu như không đáp ứng được điều kiện phát
triển của kinh tế thị trường và không phát huy được sau khi họ ra tù, hiện nay
ruộng còn ít chưa đáp ứng được nhu cầu để họ có thể ổn định thu nhập và
cuộc sống. Thêm vào đó sau khi ra tù họ còn mang nặng mặc cảm, tự ti, cộng
đồng dân cư có những thái độ kì thị, xa lánh nên một bộ phận không nhỏ đã
rời bỏ địa phương mà đi để che giấu quá khứ tội lỗi của mình. Chính vì thế,
rất khó để kiểm soát thông tin của họ, khi họ gặp khó khăn trong cuộc sống
không có gia đình đùm bọc, cưu mang, không có sự chung tay giúp sức của
cộng đồng nên họ rất dễ bị các phần tử xấu lôi kéo, rủ rê và tiếp tục vi phạm
pháp luật.
Nhũng năm qua, tỉnh đã áp dụng nhiều biện pháp phục vụ cho công tác
tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong hình phạt tù trên địa
bàn và bước đầu mang lại những hiệu quả nhất định như: Thực hiện các thủ
tục tiếp nhận, nắm tình hình, tạo điều kiện và chủ động tiến hành các biện
pháp theo dõi giáo dục, quản lý đối tượng mãn hạn tù giúp đỡ họ trong việc
tái hòa nhập cộng đồng; kết hợp giữa các ban ngành, đoàn thể trong việc quản
lý, giáo dục, tạo điều điều kiện thuận lợi để các đối tượng mãn hạn tù tham
gia các hoạt động xã hội, xóa bỏ mặc cảm về tội lỗi, để có thể tái hòa nhập
một cách thành công; phân công cán bộ cơ sở, các tổ chức, ban ngành, đoàn
thế thưởng xuyên gặp gỡ, động viên, giáo dục, giúp đỡ các đối tượng mãn hạn
tù; thường xuyên vận động, tuyên truyền nhân dân tham gia giáo dục, quản
lýcác đối tượng ra tù tái hòa nhập cộng đồng; tiến hành các hoạt động thu thập
tài liệu, củng cố hồ sơ phục vụ việc quản lý, giáo dục, giúp đỡ đối tượng mãn
hạn tù đồng thời tiến hành các thủ tục xóa án tích cho các đối tượng mãn hạn
tù khi đủ điều kiện; thưởng xuyên giải quyết các chính sách xã hội có liên
quan đến người mãn hạn tù để tạo điều kiện cho các đối tượng này tái hòa
nhập cộng đồng.
Hoạt động tái hòa nhập trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh diễn ra cụ thể như :
Tái hòa nhập vào gia đình: Gia đình là một thứ tình cảm thiêng liêng
mà người phạm tội luôn hướng về khi họ phải trả giá cho những việc làm trái
pháp luật của mình trong trại giam. Trên thực tế, những người chấp hành án
thường có xuất than trong các gia đình phức tạp: Bố mẹ ly hôn, hoàn cảnh
kinh tế gia đình khó khăn vì vậy cha mẹ mải lo kiếm sống mà không có thời
gian chăm lo, dạy dỗ con cái, không có điều kiện ăn học đầy đủ trình độ văn
hóa thấp hoặc trong gia đình đã có người có tiền án tiền sự thì việc giúp người
đó tái hòa nhập sau khi trở lại cộng đồng hầu như khó khăn hơn rất nhiều so
với các gia đình có mối quan hệ không phức tạp. Ví dụ anh Nguyễn Thanh
Tùng Trú tại huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh, gia đình phức tạp bố mẹ ly hôn,
sau khi ra tù về anh không có nơi để về, không chịu làm ăn sau đó vào làm ở
xưởng sản xuất áo mưa lại quen thói cũ ăn trộm đồ đạc của xưởng và lại đi
vào con đường tái phạm trở lại.
Tái hòa nhập vào cộng đồng dân cư nơi mà người chấp hành xong hình
phạt tù trở về cư trú, sinh sống: Người Việt Nam luôn có một tấm long vị tha,
bao dung với đạo lý “đánh kẻ chạy đi, không đánh người chạy lại”. Chính vì
thế cộng đồng dân cư nơi người mãn hạn tù quay về luôn là yếu tố vô cùng
quan trọng trong sự thành công của hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong hình phạt tù. Đây là một trong những hoạt động được
các cấp chính quyền địa phương rất quan tâm và được xem là một trong
những tiêu chí để đánh giá thi đua của từng địa phương. Bởi thế như anh
Hoàng Quang Tiến từng bị giam giữ tại trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh
chia sẻ: “Đối với tôi vấn đề công ăn việc làm không quan trọng, tôi có thể làm
công việc lao động chân tay, sửa xe máy để kiếm sống nhưng mong chính
quyền địa phương và mọi người hãy coi tôi là con người, quên đi quá khứ
lầm lỡ của mình chấp nhận tôi một lần nữa. Hãy tôn trọng quyền bình đẳng
của tôi”
Hoạt động tái hòa nhập vào gia đình là điều kiện đầu tiên, quan trọng
để việc tái hòa nhập cộng đồng diễn ra hiệu quả hơn. Việc tái hòa nhập sẽ trở
nên dễ thực hiện hơn khi có gia đình là chiếc cầu nối cho người mãn hạn tù
trở về và cộng đồng dân cư nơi họ sinh sống, là động lực để họ cố gắng quay
lại con đường hoàn lương, là chỗ dựa tinh thần để họ tự tin từng bước hòa
nhập vào cộng đồng sinh sống và dần thích nghi, điều chỉnh hành vi, tự điều
chỉnh sao ho phù hợp với các quy tắc, quy định của pháp luật. Đây là một quá
trình đầy khó khăn và thử thách đòi hỏi họ phải có thời gian, sự nỗ lực hết
mình và lòng kiên nhẫn để vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, hoàn
thiện bản thân và là quá trình hồi sinh, phục hồi nhân cách.Lực lượng Công
an là lực lượng đóng vai trò chính trong việc tiến hành giúp đỡ, giáo dục, thực
hiện các biện pháp quản lý người phạm tội mãn hạn tù tái hòa nhập cộng
đồng, các cán bộ chiến sĩ công an xác định rõ trách nhiệm của mình, có thái
độ nhiệt tình, trau dồi kiến thức, quan tâm đến công tác này.
Các biện pháp quản lý, giáo dục người phạm tội trở về với cộng đồng
của địa phương phải dựa trên những tiêu chuẩn, điều kiện riêng phù hợp với
điều kiện từng vùng miền theo, đặc thù từng địa phương. Quá trình quản lý,
giáo dục, giúp đỡ và tạo điều kiện cho người mãn hạn tù, người được đặc xá,
tha tù trở về địa phương tái hòa nhập cộng đồng ổn định cuộc sống, làm người
lương thiện là một quá trình phức tạp, đầy khó khăn, thách thức đối với các
ngành, các cấp chính quyền địa phương và toàn xã hội. Do đó, cần phải có sự
chung tay, đồng lòng, góp sức của toàn xã hội và cộng động dân cư nơi người
chấp hành án sinh sống.
Theo quy định của pháp luật hiện hành các hoạt động quản lý, giáo dục
đối với người chấp hành xong hình phạt tù trở về tái hòa nhập cộng đồng là
hoạt động quản lý hành chính – tư pháp. Đây được coi là mộtphần của các
biện pháp giữ gìn an ninh trật tự và phòng chống tội phạm. Do vậy, để có thể
làm tốt công tác này giúp đối tượng hòa nhập với cộng đồng vì vậy cần tạo điều
kiện để họ nhanh chóng hòa nhập vừa có tác dụng phòng ngừa, vừa mang yếu tố
nhân đạo. Các cơ quan tiếp nhận và sự trình diện của người mãn hạn tù, người
được đặc xá trở về địa phương là Công an, Ủy ban nhân dân nơi người chấp
hành xong hình phạt tù trở về cư trú.
Bước quan trọng trong quá trình phục hồi tư cách và các quyền công
dân chính là việc người mãn hạn tù đến trình diện tại chính quyền địa phương.
Trên cơ sở đó các cơ quan liên quan như Công an và Ủy ban nhân dân sẽ
hướng dẫn họ thực hiện các công việc như khái báo tạm trú, tạm vắng, các thủ
tục khác liên quan đến chứng minh nhân dân và hộ khẩu. Ủy ban cũng là nơi
khi người mãn hạn tù trở về cư trú có trách nhiệm có trách nhiệm năm bắt
thông tin về nhân thân, gia đình, quan tâm thăm hỏi động viên để giúp họ sớm
hòa nhập vào cộng đồng.Cùng với đó,tiến hành phân loại để có biện pháp
quản lý phù hợp với từng đối tượng chấp hành xong hình phạt tù. Cần phân
loại dựa trên các tiêu chí phù hợp về giới tính, hoàn cảnh gia đình, độ tuổi...
Các quy định của pháp luật hiện tại cũng đã đề cập cụ thể về việc tiếp
nhận quản lý, giáo dục và tạo điều kiểu để người mãn hạn tù trở về với cộng
đồng đó là trách nhiệm của tát cả các ngành không riêng gì bất cứ ngành nào.
Chính sách đặc xá, xóa án tích của Việt Nam là cơ sở góp phần lớn vào việc
tạo điều kiện cho người chấp hành án nyhanh chóng trở về với xã hội, có
động lực cải tạo tốt để được hưởng đặc xá và miễn giảm. Việc tòa án ra quyết
định miễn giảm, xóa án tích và cấp giấy chứng nhận là việc làm vô cùng ý
nghĩa trong việc xác định tiền án tiền sự của một người để người đó được xác
nhận là không còn án tích, lúc này hoạt động tái hòa nhập cộng đồng đã coi
như thật sự thành công.
Trên đài truyền hình tỉnh vào các tối thứ 6 hàng tuần đều có phát song các
chương trình về việc tử tế, tôn vinh những người ra tù vươn lên trong cuộc sống,
làm chủ cuộc đời quay về với cuộc sống lương thiện và làm giàu chính đáng qua
đó động viên họ để họ có thêm tự tin, xóa bỏ những định kiên của xã hội, cố
gắng để ổn định cuộc sống trở thành người có ích cho xã hội. Phần lớn những
người mãn hạn tù về có trình độ văn hóa thấp, không có nghề nghiệp, không có
việc làm hoặc có nghề nghiệp thì cũng chỉ là những nghề lao động giản đơn,
theo mùa vụ thu nhập không đảm bảo cuộc sống hàng ngày.Tuy nhiên, trong nền
kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay thì đa số các doanh nghiệp
cũng hạn chế tuyển dụng lao động là người đã có tiền án cho dù được giáo dục
rất tốt, bài bản trong trại giam nên họ vẫn khó khăn với việc mưu sinh và ổn định
cuộc sống.
2.3. Những khó khăn , vướng mắc trong công tác tái hòa nhập cộng đồng
đối với người chấp hành xong hình phạt tù của tỉnh Bắc Ninh và các
nguyên nhân cơ bản.
2.3.1 Những khó khăn, vướng mắc trong công tác tái hòa nhập cộng đồng
đối với người chấp hành xong hình phạt tù tại tỉnh Bắc Ninh
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tái hòa nhập cộng đồng của
tỉnh Bắc Ninh còn tồn tại những hạn chế chủ yêu sau:
Thứ nhất, các quy định của pháp luật về công tác tái hòa nhập còn
nhiều bất cập, chung chung chưa cụ thể và nằm rải rác ở nhiều văn bản dưới
luật của nhiều cơ quan khác nhau
Hiện tại có nhiều các văn bản khác nhau cùng các văn bản dưới luật của
nhiều cơ quan đều có quy định về vấn đề tái hòa nhập cộng đồng dẫn đến tình
trạng khó áp dụng và áp dụng không thống nhất. Các văn bản luật có quy định
về tái hòa nhập xã hội như : Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, luật
Thi hành án hình sự, Nghị định số 80/2011/NĐ-CP ngày 16/11/2011 của
chính phủ quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng của người
chấp hành xong án phạt tù, Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 05/12/2018 của Thủ
tướng chính phủ về tăng cường các biện pháp đảm bảo tái hòa nhập cộng
đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù, Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP
ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị định
số 117/NĐ-CP ngày 15/12/2011 của chính phủ quy định về tổ chức quản lý
phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân,
v.v…Những Quy định trong các văn bản mang tính khái quát cao, mới chỉ
dừng lại ở những vấn đề mang tính nguyên tắc. Chưa có những quy định cụ
thể về trách nhiệm của các cơ quan tổ chức hữu quan như trại giam, chính
quyền cơ sở, các tổ chức chính trị xã hội v.v…trong việc quản lý giáo dục
hoặc giúp đỡ phạm nhân tái hòa nhập cộng đồng. Các quy định còn mang tính
chung chung, hình thức không chỉ rõ cách thức, cơ chế thực hiện công tác này
cũng như quy định vai trò của từng cơ quan trong việc phối hợp thực hiện với
nhau như thế nào; các quy định về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể của
từng cơ quan, đoàn thể, các cá nhân tham gia vào công tác tái hòa nhập cho
người chấp hành xong hình phạt tù và cũng chưa quy định cụ thể xem nếu
như không thực hiện thì sẽ áp dụng những chế tài cụ thể nào.
Sau 8 năm đi vào thực hiện, đến nay Luật thi hành án hình sự năm 2010
đã bộc lộ một số điểm hạn chế cần sửa đổi, bổ sung mà trước đây hoạt động
thi hành án hình sự vẫn chủ yếu theo luật thi hành án hình sự 2010 ví dụ:
“Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện
phối hợp với gia đình phạm nhân, chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức,
cá nhân quan tâm động viên phạm nhân tích cực học tập, lao động, rèn luyện
đế được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước; hỗ trợ các hoạt động giáo dục,
dạy nghề cho phạm nhân và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để phạm nhân tái
hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù” Các quy định như
vậy còn rất chung chung, mang tính hình thức mà không chi rõ phương thức,
cơ chế thực hiện công tác tái hòa nhập cho người phạm tội như thế nào, trách
nhiệm, vai trò của từng cơ quan như thế nào, đồng thời chưa tập trung chú
trọng vào quy định nhiệm vụ của chính quyền cấp cơ sở đối với việc tái hòa
nhập xã hội cho người phạm tội. Bởi đây mới là đầu mối trong việc thực thi
công tác tái hòa nhập xà hội cho người phạm tội tại địa phương.
Tuy nhiên, Luật thi hành án hình sự 2019 đã bổ sung Điều 45 quy định
về tái hòa nhập cộng đồng, theo đó trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành
án hình sự công an cấp huyện có trách nhiệm tổ chức chuẩn bị tái hòa nhập
cộng đồng trước khi phạm nhân chấp hành xong án phạt tù, được đặc xá, tha
tù trước thời hạn có điều kiện. Nội dung chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng bao
gồm: Tư vấn tâm lý, hỗ trợ các thủ tục pháp lý; định hướng nghề nghiệp, tìm
kiếm việc làm; hỗ trợ một phần kinh phí từ Quỹ hòa nhập cộng đồng của trại
giam; kinh phí bảo đảm cho việc thực hiện tái hòa nhập cộng đồng do ngân
sách nhà nước cấp; quỹ hòa nhập cộng đồng của trại giam và các quỹ khác
theo quy định của pháp luật; nguồn đóng góp tự nguyện của cơ quan, tổ chức,
cá nhân và các nguồn thu hợp pháp khác. Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ
chức, đơn vị, cá nhân tạo điều kiện, giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù,
người được đặc xá, người được tha tù trước thời hạn có điều kiện tái hòa nhập
cộng đồng bằng các biện pháp như thông tin, truyền thông, giáo dục về tái
hòa nhập cộng đồng; dạy nghề, giải quyết việc làm; trợ giúp về tâm lý và hỗ
trợ các thủ tục pháp lý; các biện pháp hỗ trợ khác. Đây cũng là một quy định
cụ thể hơn đối với vấn đề tái hòa nhập cộng đồng cho người phạm tội hơn các
quy định trước đây. Trên thực tế địa bàn Bắc Ninh cũng chưa có sự phân công
rõ ràng, chưa lôi kéo được nhiều người dân tham gia, họ vẫn còn thờ ơ thậm
chí xa lãnh những người chấp hành xong hình phạt tù.
Đối với mặt tổ chức, chưa có cơ quan đầu mối chuyên trách để thống
nhất trong việc quản lý hoạt động tái hòa nhập cộng đồng từ trại giam về với
địa phương do đó kết quả của những hoạt động này không cao và chủ yêu phụ
thuộc nhiều vào sự quan tâm, sâu sát và tính sáng tạo của từng địa phương,
trên thực tế việc tổ chức thực hiện công tác này cũng không có được sự thống
nhất trên phạm vi. Quản lý nhà nước về công tác này còn nhiều thiết sót, hạn
chế, chưa có sự thống nhất liền mạch từ giai đoạn chuẩn bị đến giai đoạn tái
hòa nhập cộng đồng tại địa phương nơi họ trở về sinh sống.
Việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với chính quyền địa
phương trong việc quản lý người mãn hạn tù tại địa phương nơi họ cư trú
chưa được chặt chẽ, không nhanh nhẹn kịp thời. Trên thực tế nhiều địa
phương chưa nắm bắt được đầy đủ thông tin, có nhiều trường hợp sai địa chỉ,
có trường hợp không nắm bắt được chỗ ở của người mãn hạn tù trở về bởi sau
khi ra tù họ không trở về để trình diện nên địa phương không biết họ đi đâu
làm gì. Việc đào tạo, chỉ đạo công tác cho Công an các cấp xã tuy đã được
tiến hành nhưng còn nhiều bất cập, vướng mắc chưa kịp giải quyết, tháo gỡ.
Sự chỉ đạo cho cơ quan Công an cấp dưới trong việc làm các thủ tục đề nghị
Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định xóa án tích cho các đối tượng còn
chưa được tốt.
Đối với công tác tiếp nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã còn nhiều hạn
chế chưa đúng theo quy định vẫn thực hiện theo lối mòn. Công an các cấp vẫn
còn chưa thật sự sâu sát trong việc nắm bắt tình hình, thông tin, hoàn cảnh của
đối tượng thêm vào đó việc hướng dẫn đối tượng trở về sau khi chấp hành án
làm thủ tục xóa án tích còn chưa làm hết trách nhiệm trong công tác này. Việc
phối hợp giữa các ngành chưa đồng bộ, chưa thực sự huy động được đông đảo
sự tham gia của cộng đồng. Đối với công tác giúp đỡ các đối tượng mãn hạn
tù tìm việc làm chưa được quan tâm, chủ yếu họ vẫn phải chật vật tìm việc
làm với cơ hội ít ỏi, cho vay vốn đối với các đối tượng còn khó khăn, nhiều
thủ tục và hầu như không được hỗ trợ nhiều, chủ yếu là nhận sự hỗ trợ, giúp
đỡ từ gia đình để có thể vươn lên trong cuộc sống đây chính là nhu cầu cần
nhất đối với người chấp hành xong hình phạt tù khi trở về với cộng đồng. Do
vậy, thực chất việc giải quyết việc làm cho đối tượng tái hòa nhập cộng đồng
hiệu quả không cao là do phần lớn những người mãn hạn tù không có chuyên
môn nghề nghiệp, yếu kém về trình độ văn hóa nên nếu được nhận vào làm
việc thì họ làm cũng không hiệu quả, mất nhiều chi phí đào tạo gây tốn kém
cho doanh nghiệp. Bắc Ninh tuy đã xây dưng được trung tâm giới thiệu việc
làm tuy nhiên người chấp hành xong hình phạt tù trở về họ vẫn không tìm
được việc làm ôn định hầu như chỉ là các công việc như phụ hồ, bôc vác, thêu
thùa, ve chai, đa số là các công việc mang tính chất thời vụ không lâu dài với
thu nhập bấp bênh, không nuôi sống được gia đình. Cơ sở vật chất cho hoạt
động tái hòa nhập còn chưa được đầu tư, càng ngày số phạm nhân trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh nói riêng và cả nước nói chung ngày càng gia tăng tạo áp lực
rất lớn lên các trại giam, tạm giam trên cả nước, thêm vào đó kinh phí để xây
dựng trung tâm dạy nghề vẫn chưa được triển khai thực hiện.
Do điều kiện cơ sở vật chất trên địa bàn tỉnh còn hạn chế, số lượng
phạm nhân ngày càng gia tăng tuy nhà nước ta rất quan tâm tới việc tái hòa
nhập cộng động cho người chưa thành niên phạm tội rất được quan tâm nhưng
vẫn diễn ra tình trạng giam người chưa thành niên chung với người thành
niên. Công tác giáo dục phạm nhân cần phải có sự đổi mới để đáp ứng được
nhu cầu trong giai đoạn hiện nay để đáp ứng yêu cầu của công tác tái hòa
nhập cộng đồng góp phần tích cực phòng, chống tội phạm nhằm đảm bảo
quyền con người nói chung và quyền của phạm nhân nói riêng. Hoạt động tái
hòa nhập cho phạm nhân trong trại giam còn mang nặng hình thức, đơn giản
là tách phạm nhân với xã hội bên ngoài nhừm tước đi quyền tự do của họ. Đối
với lực lượng Công an tuy là lực lượng nòng cốt nhưng không phải là lực
lượng chuyên trách thực hiện công tác tái hòa nhập cộng đồng.
Thứ hai, các vấn đề mang tính xã hội trong hoạt động tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt tù cả nước nói chung và trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng còn hạn chế
Luật thi hành án hình sự 2010 đã quy định rất rõ về chế độ học tập, chế
độ lao động tuy nhiên chất lượng giáo giục pháp luật, văn hóa, về trách
nhiệmcông dân cho người chấp hành án phạt tù còn nhiều bất cập. Các cấp,
các ngành còn thờ ơ chưa sâu sát. Nhà nước chưa có các chính sách cụ thể,
riêng biệt về việc quản lý các đối tượng tái hòa nhập cộng đồng. Cơ sở vật
chất giảng dạy của tỉnh Bắc Ninh cònsơ sài hơn nữa số phạm nhân luôn luôn
vượt quá quy mô của trại. Do đó việc tái hòa nhập cộng đồng chưa làm
chuyển biến cơ bản tư tưởng phạm nhân để họ quyết tâm tránh xa tội lỗi khi
ra tù và chưa đạt được hiệu quả cao. Việc đào tạo nghề tại các trại giam chưa
đáp ứng được yêu cầu của xã hội, một phần do cơ sở vật chất, điều kiện dạy
nghề tại các trại giam, trại tạm giam còn hạn chế, các kỹ năng được học còn
chưa bắt kịp với xu thế ngoài xã hội nên nhiều phạm nhân sau khi ra tù chưa
có được một nghề nghiệp ổn định để kiếm sống mà vẫn phải sống dựa vào gia
đình, đây cũng là một khó khăn cho phạm nhân khi tái hòa nhập cộng đồng
thứ ba, điều kiện của người phạm tội sau khi rời khỏi trại giam không thuận
lợi.
Sau một thời gian cách ly khỏi xã hội người mãn hạn tù trở về gặp rất
nhiều khó khăn bởi họ có tâm lý mặc cảm và không có công ăn việc làm ổn
địnhkhiến họ khó có thể hòa nhập với cộng đồng ngay được, do vậy công tác
tái hòa nhập cộng đồng đóng một vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên trên thực
tế, do trình độ văn hóa của người phạm tội hầu như còn thấp hầu đa phần
chưa học hết cấp ba, không có kỹ năng nghề nghiệp nên không thể có cơ hội
tìm việc làm và xin được những công việc ổn định. Hơn nữa với một bộ phận
không nhỏ doanh nghiệp và người dân vẫn mang nặng tư tưởng kì thị, xa lánh
khiến người phạm tội mãn hạn tù rất khó trong việc hòa nhập trở lại với cộng
đồng. Sau khi ra tù nhiều người tuổi tác đã lớn không còn trong độ tuổi lao
động nữa hoặc không quen với sự thay đổi của môi trường bên ngoài trại
giam, điều này cũng gây khó khăn cho việc họ tái hòa nhập cộng đồng. Khi ra
tù, gia đình là nơi người phạm tội có thể trở về, tuy nhiên đa phần các gia
đình thân nhân của người phạm tội là khó khăn, không có sự hỗ trợ, họ không
có vốn để làm ăn, đầu tư sản xuất, kinh doanh gây cản trở rất lớn để họ có
được một cuộc sống bình thường như baongười dân khác. Đa sốmọi người
vẫn còn nhiều định kiếnnhững người phạm tội khi được mãn hạn tù và coi
công tác tái hòa cộng đồng hội chỉ là trách nhiệm của chính quyền và của gia
đình người phạm tội.Vai trò của cộng đồng là rất quan trọng không thể phủ
nhận do đó việc tuyên truyền để công dân hiểu được tầm quan trọng của công
tác tái hòa nhập cộng đồng để tất cả các thành viên trong xã hội chung tay
giúp đỡ những người mãn hạn tù trở về với cộng đồng. Nhiều người có hoàn
cảnh một mình không có nơi để về, không có điều kiện để sinh sống họ
đãquay trở lại với con đường phạm pháp, có nhiều người sau khi ra tù hầu
như không gặp gỡ bạn bè, tránh tiếp xúc với mọi người vì tâm lý mặc cảm và
sợ sệt. Một số người phạm tội là lao động chính của gia đình, là người duy
nhất có đủ sức khỏe kiếm tiền để nuôi cả gia đình, do đó khi họ phải chấp
hành án, cả một gia đình bị ảnh hưởng và khó khăn về kinh tế, thậm chí tan
nát.Có nhiều trường hợp khi vẫn đang chấp hành án thì ở bên ngoài vợ hoặc
chồng làm thủ tục ly dị, điều đó dẫn đến người phạm tội có tâm lý thất vọng,
bất cần.Đa phần các yếu tố dẫn đến hiện tượng tái phạm sau khi ra tù đều xuất
phát từ nguyên nhân của việc không vượt quá được những khó khăn, thử
thách sau khi trở lại với cuộc sống .
Thứ ba, những tác động từ các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, đoàn
thể và gia đình là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác tái
hòa nhập xã hội cho người phạm tội.
Công tác tái hòa nhập cộng đồng có rất nhiều cơ quan cùng tham gia và
mỗi nơi có một chức năng riêng biệt thế nhưng nhiều khi việc phối hợp vẫn
chưa thực sự thường xuyên nhằm đảm bảo tốt hiệu quả của công tác này. Các
tổ chức chưa phân bổ nguồn ngân sách một cách hợp lý cho công tác tái hòa
nhập cộng đồng, cơ sở vật chất còn sơ sài cộng với đó là sự tham gia đóng
góp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với người chấp hành xong hình
phạt tù còn hạn chế, chưa được quan tâm. Sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ
chức đối với gia đình người chấp hành án xong còn rất ít. Người phạm tội
chấp hành xong án phạt tù được trở về địa phương, gia đình là nơi đầu tiên để
họ trở về và cũng là nơi duy nhất chấp nhận quá khứ lầm lỗi của họ.Do đó
nếu như gia đình không có điều kiện hoặc bản thân gia đình cũng không có
cái nhìn thiện cảm đối với họ thì làm sao họ có thể hòa nhập cộng đồng.Hoàn
cảnh kinh tế gia đình khó khăn là một trong số những nguyên nhân cản trở
quá trình tái hòa nhập cộng đồng, gia đình không thể hỗ trợ gì cho họ, đối
tượng khi mãn hạn tù không có công ăn việc làm để tự nuôi sống bản thân
mình, bên cạnh đó họcòn là trụ cột phải gánh vác nuôi sống những thành viên
khác trong gia đình mà các tổ chức, doanh nghiệp trong xã hội thường rất có
định kiến với những người vừa ra tù, đây là một trong những nguy cơ dẫn đến
những trường hợp tái phạm và ảnh hưởng tiêu cực tới công tác tái hòa nhập xã
hội đối với những người phạm tội. Ngoài ra, việc gia đình buông lỏng, thiếu
quan tâm trong việc quản lý những đối tượng đã từng có thời gian trong tù sẽ
rất dễ xảy ra những trường hợp tiêu cực như bị đồng bọn, bạn bè lôi kéo đi
theo con đường phạm pháp trước đây.Thực trạng đối tượng mãn hạn tù trên
địa bàn tỉnh cho thấy đa số đối tượng mãn hạn tù hàng năm gia đình có hoàn
cảnh kinh tế khó khăn hoặc hoàn cảnh đặc biệt. Vì vậy, đời sống kinh tế của
gia đình và bản thân những đối tượng này thường khó khăn, chính điều này đã
ảnh hưởng không nhỏ đến công tác tái hòa nhập xã hội đối với họ. Một số đối
tượng khi ra tù lại gia định lại gặp nhiều biến cố, xảy ra mâu thuẫn hoặc bị
chính người thân của mình ruồng bỏ khiến những người phạm tội đã mặc cảm
lại càng tự ti hơn trong việc hòa nhập với cộng đồng xã hội.
Thứ tư, chưa được sự quan tâm đúng mực và sâu sắc của các cơ quan
có thẩm quyển và các ban ngành, đoàn thể của tỉnh Bắc Ninh, chưa có một cơ
quan đầu mối thống nhất để quản lý.
Công tác tái hòa nhập cộng đồngluôn bị xem đó như là trách nhiệm của
riêng ngành Công an cho nên mọi người vẫn có thái độ dửng dưng mặc kệ,
chưa nhận được sự quan tâm sâu sắc của các cơ quan, các ban ngành, đoàn thể
có thẩm quyền của tỉnh, trong khi thực tế công tác này đòi hỏi sự quan tâm và
cùng thực hiện của cả toàn dân và toàn xã hội trên cả nước nói chung và tỉnh
Bắc Ninh nói riêng.Các cơ quan có thẩm quyền còn chưa được phổbiến, tuyên
truyền sâu rộng về việc triển khai các chương trình, biện pháp tái hòa nhập
cộng đồng của dẫn đến tình trạng chưa tạo được sự quan tâm của đông đảo
người dân vào công tác.Đây là một công tác có ý nghĩa quan trọng với toàn xã
hội nhưng hiện nay xét về mặt tổ chức thì thiếu một cơ quan chuyên trách
thực hiện làm nhiệm vụ đầu mối giữa các bộ, ban ngành có liên quan, đồng
thời giúp Chính phủ hoạch định chính sách, dự thảo các văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh công tác tái hòa nhập xã hội. Do thiếu cơ quan đầu mối
nên việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, thực hiện tái hòa nhập cộng
đồng chưa có sự thống nhất.Mặc dù hiện nay lực lượng Công an được coi như
lực lượng nòng cốt trong công tác này nhưng xét cho cùng thì lực lượng công
an chỉ có nhiệm vụ quản lý đối tượng phạm tội mãn hạn tù về mặt hành chính
nhằm ổn định trật tự, an ninh trên địa bàn và những hoạt động họ thực hiện
cũng chỉmang tính nghiệp vụ. Trên địa bàn tỉnh hiện nay vẫn chưa có một lực
lượng chuyên trách để thực hiện công tác tái hòa nhập cộng đồng. Bên cạnh
đó, ý thức trách nhiệm của các cơ quan, đoàn thể và công dân trong vấn đề
này còn kém, thông thường mọi người đều cho rằng công tác giúp đỡ, quản lý
đối tượng phạm tội mãn hạn tù là trách nhiệm của riêng ngành Công an và gia
đình người phạm tội, từ đó gây ra tình trạng mang nặng định kiến, xa lánh, né
tránh và có phần không quan tâm trước sự nỗ lực tái hòa nhập cộng đồng của
người phạm tội sau khi mãn hạn tù. Có rất nhiều trường hợp đối tượng mãn
hạn tù được thả về địa phương nhưng lại không được sự quan tâm kịp thời của
chính quyền, đoàn thể cấp cơ sở dẫn đến tâm lý chán nản, buông xuôivà họ dễ
lại bị lôi kéo hoặc tự tìm đến con đường phạm pháp trở lại. Thực tế cho thấy
bản thân đối tượng đã rất mặc cảm với quá khứ tội lỗi của mình rồi nhưng
những người sống xung quanh lại có tư tưởng xa lánh, ruồng bỏ khiến họ
càng mặc cảm và sống khép mìnhhơn. Tuy nhiên các đoàn thể, chính quyền
địa phương lại không có biện pháp giúp đỡ họ về cuộc sống và tâm lý, chưa
có các cuộc tuyên truyền, vận động để thu hút đông đảo người dân hiểu được
và thông cảm không còn thái độ kì thị với người phạm tội nữa. Các hoạt động
của các địa phương hiện nay vẫn còn mang nặng tính hình thức, chưa đi sâu
tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của người mãn hạn tù để họ có thể trở thành
những người bình thường như những công dân khác, đồng thời có những biện
pháp và chính sách hỗ trợ kịp thời để họ an tâm, ổn định cuộc sống. Điều này
đa phần các địa phương chưa làm được hoặc có làm nhưng hiệu quả chưa cao
do chỉ mang tính hình thức, qua loa. Ngoài ra, như một sự công nhận chính
thứcvề mặt pháp lý cho người phạm tội để những người này không bị coi là
có tiền án mang ý nghĩ mặc cảm tội lỗi với mọi người xung quanh thì các cơ
quan có thẩm quyền cần chú trọng đến việc xóa án tích cho người phạm tội.
Công tác này ở tỉnh Bắc Ninhvẫn chưa thực sự được quan tâm và phổ biến
rộng rãi đến người dân để thu hút sự tham gia đông đảo của nhân dân, góp
phần giúp đỡ người phạm tội tái hòa nhập xã hội và mang đến hiệu quả cao
cho công tác này trên địa bàn tỉnh. Các cấp chính quyền địa phương còn tỏ ra
khá thờ ơ với việc vận động, tuyên truyền người dân có cái nhìn thiện cảm
hơn với người mãn hạn tù.Nhiều địa phương khi đề cập đến chính sách dành
cho người mãn hạn tù trở về địa phương mình chỉ đưa ra chung chung mà
không có cơ chế thực thi cũng như không có sự trợ giúp nào cụ thể cho người
phạm tội khi mãn hạn tù để họ tái hòa nhập với cộng đồng, có những địa
phương còn không nắm được số lượng người ra tù trên địa bàn của mình,
thậm chí còn không biết họ ra tù khi nào và hiện đang làm công việc gì tại địa
phương. Hiện nay chưa có một cơ quan nào chịu trách nhiệm quản lý thống
nhất đối với công tác tái hòa nhập xã hội cho người phạm tội, đó là một khó
khăn cho công tác tái hòa nhập của cả nước nói chung và của tỉnh Bắc Ninh
nói riêng. Trên địa bàn tỉnh, ngoài cơ quan Công an thường xuyên thực hiện
các hoạt động nghiệp vụ của mình đồng thời đó cũng là các hoạt động phục
vụ cho công tác tái hòa nhập cộng đồng của tỉnh thì các cơ quan, đoàn thể và
tổ chức khác chỉ tham gia khi có sự đôn đốc, chỉ đạo của ủy ban nhân dân tỉnh
và lãnh đạo tỉnh. Các địa phương dù quản lý nhân khẩu, hộ tịch những chưa
có những biện pháp giúp đỡ, hỗ trợ cho người phạm tội tái hòa nhập cộng
đồng tại địa phương. Công tác tái hòa nhập cộng đồng trên địa bàn tỉnh hiện
nay còn thiếu một cơ quan đầu mối để thống nhất các hoạt động và hơn nữa
đó là chưa được sự quan tâm một cách sâu sắc của các cấp chính quyền tỉnh.
Thứ năm, các trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm vẫn ở mức cao
và có xu hướng ngày càng phức tạp.
Hiện nay trên địa bàn tỉnhcác trưởng hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm
ở mức khá cao và có xu hướng ngày càng phức tạp hơn. Nếu như công tác tái
hòa nhập xã hội được Nhà nước quan tâm thực hiện và xã hội cùng tham gia
thì việc tái hòa nhập có đạt được kết quả cao hay không còn xuất phát đầu tiên
từ sự cố gắng từ bản thân người phạm tội. Các yếu tố tác động bên ngoài chỉ
mang tính chất hỗ trợ, tác động bên ngoài đến sự hòa nhập của người phạm
tội còn bản thân người phạm tội lại đóng vai trò chủ động và quyết định đến
quá trình hòa nhập cộng đồng của họ, có thể trở thành những người có ích cho
xã hội hay không phụ thuộc nhiều vào chính ý trí của bản thân. Các loại vụ
việc do đối tượng tù tha vi phạm trở lại, tái phạm rất phức tạp và đa dạng cả
về phạm vi và mức độ. Các đối tượng tái phạm thường kết nối với nhau thành
lập băng nhóm để hoạt động phạm tội. Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh số
trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm có diễn biến ngày một phức tạp khó
kiểm soát. Đây là khó khăn trong công tác tái hòa nhập cộng đồng của tỉnh
nói riêng và cả nước nói chung. Tái phạm, tái phạm nguy hiểm là một trong
những biểu hiện rõ nhất của việc tái hòa nhập không hiệu quả đối với người
mãn hạn tù.
Thứ sáu, trình độ năng lực và trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ cán
bộ trong công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong hình
phạt tù còn hạn chế
Đội ngũ cán bộ nghiệp vụ và các cán bộ chuyên trách là những người
trực tiếp quản lý phạm nhân tuy nhiên ngoài những điều kiện về trình độ, tiêu
chuẩn theo quy định pháp luật thì việc trau dồi nghiệp vụ, nâng cao kiến thức
vẫn chưa được chú trọng. Bên cạnh đó, ngoài những cán bộ làm công tác tái
hòa nhập cho người phạm tội thì các cán bộ khác tham gia vào công tác tái
hòa nhập chưa thật sự được quan tâm, bồi dưỡng nhiều về nghiệp vụ, kiến
thức,chưa có thái độ hết mình tham gia vào công tác tái hòa nhập cho người
mãn hạn tù. Các cán bộ công an tham gia vào công tác tái hòa nhập cộng đồng
họ thực hiện nghiệp vụ đồng thời cũng là hoạt động để tái hòa nhập cho người
phạm tội. Tuy nhiên, do đó họ không đảm bảo được tính hiệu quả và chưa
thực sự chú trọng đến công tác sau khi người phạm tội chấp hành án xong tại
trại giam. Công tác giảng dạy, tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đối
với người phạm tội chưa thực sự hiệu quả, chưa khiến người phạm tội nhận
thức đầy đủ về hành vi của mình, vẫn còn nhiều trường hợp tái phạm, tái
phạm nguy hiểm . Việc thăm hỏi, khảo sát sau khi người chấp hành xong hình
phạt tù trở về với xã hội hầu nhưng không có. Hiện nay Bắc Ninh còn thiếu
đội ngũ chuyên trách để thực hiện công tác tái hòa nhập cộng đồng. Đặc biệt
là trong tình hình tội phạm diễn ra ngày càng phức tạp và những tác động của
nền kinh tế thị trường gây ảnh hưởng rất nhiều đến an ninh, trật tự an toàn của
Bắc Ninh nói riêng và đất nước nói chung.
2.3.2 Nguyên nhân của những hạn chế của hoạt động tái hòa nhập cộng đồng
Dù pháp luật đã quy định nhiều biện pháp đảm bảo tái hòa nhập khác
nhau đối với người chấp hành xong hình phạt tù điển hình như nghị định số
80/NĐ-CP ngày 16/9/2011 của chính phủ. Nhưng các đối tượng lại có những
hoàn cảnh, đặc trưng khác nhau như vùng miền, điều kiện kinh tế, giới tính,
dân tộc…cho nên hoạt động này đòi hỏi phải có các chính sách cụ thể thêm
vào đó là tính sáng tạo, linh hoạt tùy theo từng đối tượng.
Việc tuyên truyền, giáo dục, phổ biến đường lối của Đảng và chính
sách pháp luật của nhà nước về công tác tổ chức tái hòa nhập cho người chấp
hành xong hình phạt tù vẫn chưa thực sự được phổ biến rộng rãi đến cộng
đồng mà mới chỉ dừng lại ở những người làm luật và một số cá nhân liên
quan. Hầu như mọi người đều có tâm lý thờ ơ, không quan tâm. Tại các địa
phương các mô hình giúp đỡ người mãn hạn tù sớm hòa nhập cộng đồng của
các cơ quan, đoàn thể và gia đình chưa được triển khai, nhân rộng nhiều nơi
còn chưa có để áp dụng.
Để góp phần vào sự thành công của công tác tái hòa nhập thì đội ngũ
cán bộ làm công tác cải tạo, giáo dục, hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân
đóng vai trò vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng làm nghề
nhưng thiếu nhiệt tình, chưa quan tâm nhiều đến dạy họ kỹ năng sống, đào tạo
nghề còn lạc hậu không đáp ứng được nhu cầu thực tế của xã hội, chưa tư vấn
cho họ các kỹ năng để vượt qua khó khăn, thử thách cho nên kết quả của việc
tái hòa nhập còn kém, họ rất khó khăn trong việc trở lại với cộng đồng dân cư
. Trên thực tế, gia đình vẫn là nhân tố ảnh hưởng lớn nhất đến hiệu quả của
hoạt động tái hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên, trên thực tế không ít người sau
khi ra tù không có nơi để về cũng như không được quan tâm, giúp đỡ từ gia
đình vì đa phần họ đều có hoàn cảnh gia đình phức tạp, nhiều gia đình còn bỏ
mặc họ từ đó dẫn đến tâm lý chán nản dễ sa ngã vào con đường xấu và có
nguy cơ tái phạm cao.
Từ những hành động thiếu cụ thể dẫn đến việc chính quyền địa phương,
doanh nghiệp, cộng đồng dân cư không mấy mặn mà, giúp đỡ người mãn hạn
tù. Từ đó khiến người mãn hạn tù không thoát ra khỏi cảm giác tội lỗi, không
được tha thứ, lạc long tiếp tục quay lại con đương lầm lỗi. Mặt khác người
mãn hạn tù sau khi trở về địa phương nhiều trường hợp không về hoặc không
đến trình diện, chuyển đi nơi khác nhằm che giấu quá khứ của mình nên xảy
ra tình trạng địa phương không biết họ đang làm gì? Và cư trú tại đâu, đây
cũng là bất cập trong việc quản lý cư trú của địa phương.
Những quy định về tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp
hành xong hình phạt tù còn nhiều bất cập. Hệ thống pháp luật về hình sự và
thi hành án hình sự còn chung chung chưa cụ thể. Thêm vào đó số lượng
người phạm tội trên địa bàn tỉnh ngày càng gia tăng và nhiều trường hợp tái
phạm tái phạm, nguy hiểm đòi hỏi làm tốt hai công tác tổ chức thi hành án
phạt tù và hoạt động tái hòa nhập cộng đồng là vấn đề cấp bách nhằm ổn định
trật tự an toàn xã hội. Đối với các quy định pháp luật hiện hành dù đã có quy
định trách nhiệm của một số cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện tái
hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù nhưng cũng chưa
quy định cụ thể cơ quan đầu mối, cơ chế phối hợp cũng như chưa đặt ra các
chế tài nhằm răn đe, xử lý trong trường hợp các chủ thể không thực hiện quy
định mà pháp luật đặt ra.
Trách nhiệm và nhận thức của một số bộ phận trong các cơ quan nhà nước
còn chưa thực sự đầy đủ, trình độ,chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ còn hạn
chếtrong công tác tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong
hình phạt tù và phòng ngừa tội phạm. Hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của
Việt Nam còn chưa có sự thu hút, kêu gọi các nguồn lực sẵn có trong xã hội để
đầu tư cho công tác tái hòa nhập và cũng mới chỉ dừng lại ở việc nêu ý kiến cho
hoạt động tù tại gia chứ chưa áp dụng được thành công như Trung Quốc,
Singapore hay Australia.
Nguồn kinh phí không nhiều dẫn đến cơ sở vật chất và trang thiết bị phục
vụ cho hoạt động tái hòa nhập cộng đồng vì thế dẫn đến chưa đáp ứng được nhu
cầu giam giữ, cải tạo, giáo dục và dạy nghề với số lượng phạm nhân ngày càng
tăng tạo áp lực lớn cho các trại giam, tạm giam trên địa bàn tỉnh nói riêng và cả
nước nói chung. Nhà nước cũng chưa có những quan tâm đúng mức và nguồn
ngân sách đầu tư vào các cơ sở giam giữ hay trung tâm dạy nghề còn rất hạn chế.
Cho nên hoạt động tái hòa nhập cho phạm nhân trong trại giam hầu như còn rất
lạc hậu và không đáp ứng được như cầu của xã hội. Vì hầu hết hiện nay các cơ
sở kinh doanh đều đòi hỏi công nhân có tay nghề cao, có kinh nghiệm làm việc
lâu năm và có khả năng sử dụng được các máy móc kĩ thuật tiên tiến để đáp ứng
được như cầu sản xuất. Hơn nữa họ cũng có ánh nhìn rất xấu đối với người mãn
hạn tù trở về bởi họ chưa thật sự tin tưởng vào con người của những người đã
mắc quá khứ lầm lỡ cho nên khi tuyển dụng họ đều yêu cầu người chưa có tiền
án tiền sự. Đối với bản thân những người chấp hành xong hình phạt tù đều là
những người có học thức thấp ( trung bình là lớp 8), không có trình độ chuyên
môn cũng như chưa từng có kinh nghiệm trong lao động. Có thể thấy, đây là
một vấn đề tương đối nan giải không chỉ riêng Bắc Ninh mà còn trên Cả nước.
Nhà nước ta chưa có những chính sách khuyến khích sự tham gia của các doanh
nghiệp trong việc hướng nghiệp, đào tạo nghề hay các chính sách hỗ trợ vốn, ưu
đãi thuế…
Tiểu kết chương 2
Hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt
tù là hoạt động xuyên suốt toàn bộ quá trình tái hòa nhập cộng đồng từ khi
chấp hành án đến khitrở về với cộng đồng. Giai đoạn chuẩn bị tái hòa nhập là
một bước đệm quan trọng để sau khi ra tù người bị kết án có khả năng thích
ứng với cuộc sống bình thường, không bị bỡ ngỡ hay lạc hậu so với xã hội.
Hoạt động này cũng không thể thành công được nếu thiếu sự quan tâm, tạo
điều kiện cũng như tổ chức các chương trình giúp đỡ người mãn hạn tù trở về
hòa nhập nhanh chóng với cộng đồng hơn của các cấp, các ngành có thẩm
quyền. Nếu ta tổ chức tốt hoạt động tái hòa nhập cộng đồng thì những công
sức, chi phí trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử người phạm tội cũng
như toàn bộ hoạt động giáo dục, cải tạo người bị kết án tại trại cải tạo mới có
hiệu quả, người chấp hành xong án phạt tù trở thành người lương thiện, có ý
thức tuân thủ pháp luật, không tiếp tục phạm tội mới và hoạt động này mới
thực sự có ý nghĩa.Vì vậy, tái hòa nhập cộng đồng là khâu cuối cùng của toàn
bộ quá trình thực hiện trọn vẹn bản án hình sự. Chỉ có làm tốt công tác này thì
ta mới giảm được lượng phạm nhân tái phạm tội giúp ổn định trật tự an ninh
xã hội.
Hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại tỉnh Bắc Ninh trong những năm
qua đã cũng đã đạt được những kết quả đáng khen ngợi, góp phần giữ vững
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương nói riêng và cả nước nói
chung. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên thì hoạt động tái
hòa nhập cộng đồng trên địa bàn tỉnh vẫn còn hạn chế, khó khăn bởi nguyên
nhân khách quan và chủ quan; những hạn chế trong hệ thống các quy định của
pháp luật điều chỉnh về tái hòa nhập cộng đồng. Từ nững lý do đó ta hướng
tới chương 3 về hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả trong
công tác tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù.
Chương 3
NHỮNG CƠ SỞ, GIẢI PHÁP TIẾP TỤCHOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀNÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG HOẠT ĐỘNG TÁI HÒA NHẬP
CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG HÌNH PHẠT TÙ
TẠI TỈNH BẮC NINH
3.1 Những cơ sở và định hướng hoàn thiện pháp luật về tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt tù
Hiện nay các quy định về việc tái hòa nhập cộng đồng cho người phạm
tội mãn hạn tù thường được phân tán ở các văn bản pháp luật khác nhau như:
Bộ luật Hình sự; Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Thi hành án hình sự;Nghị định
số 80/2011/NĐ-CP ngày 16/11/2011 của chính phủ quy định các biện pháp
bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong án phạt tù, Chỉ thị
số 33/CT-TTg ngày 05/12/2018 của Thủ tướng chính phủ về tăng cường các
biện pháp đảm bảo tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án
phạt tù, Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị định số 117/NĐ-CP ngày 15/12/2011 của
chính phủ quy định về tổ chức quản lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh
hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân... hoặc trong các văn bản chỉ thị, nghị
quyết của Đảng, Nhà nước và ngành Công an như các Chương trình Quốc gia
phòng chống tội phạm, các chương trình phòng chống và kiểm soát ma túy,
các chương trình hỗ trợ người mãn hạn tù tại địa bàn cơ sở v.v... Những quy
định cụ thể giúp các cơ quan chức năng, các cấp chính quyền chủ động quản
lý, giáo dục, giúp đỡ các đối tượng tù tha. Các văn bản quy phạm pháp luật
của Nhà nước cũng đã có những sự tác động nhất định trong việc huy động
các ngành, các cấp và tầng lớp nhân dân tham gia vào hoạt động tái hòa nhập
cho người mãn hạn tù. Trên cơ sở đó tạo điều kiện thuận lợi cho các đối
tượng tù tha tái hòa nhập cộng đồng. Các quy định về tái hòa nhập xã hội đối
với người phạm tội hiện nay đang phân tán ở rất nhiều văn bản khác nhau dẫn
đến thực tế việc áp dụng còn khó khăn, chưa thống nhất và khả thi. Bên cạnh
đó, mặc dù có nhiều văn bản quy định về tái hòa nhập xã hội nhưng các văn
bản quy định này chỉ mang tính chất qua loa, chưa có những chỉ dẫn cụ thể,
thiếu những chỉ dẫn về quy trình thực hiện và chưa có sự phân công trách
nhiệm rõ ràng ở từng cấp, từng lực lượng chuyên trách và các tổ chức chính
trị, các đoàn thể quần chúng.
Quyền con người, nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định là một
trong những cơ sở có ý nghĩa rất quan trọng về nhiều mặt. Con người là vị trí
trung tâm trong mọi chính sách kinh tế xã hội, là mục tiêu và là động lực để
phát triển kinh tế vì thế nó phải được hiến định và phải được thể hiện trong
chính sách và pháp luật nước ta. Trong 120 điều cơ bản của Hiến pháp có đến
36 điều ghi nhận quyền và nghĩa vụ công dân. Việc phục hồi của người phạm
tội và tái hòa nhập cũng đã được thừa nhận trong các tiêu chuẩn về quyền con
người trên toàn thế giới như “ những nguyên tắc cơ bản về đối xử với tù nhân
của Liên Hợp Quốc”, “Công ước về quyền trẻ em”, “Công ước về quyền của
người khuyết tật”, “Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa”…Tầm quan trọng của việc quan tâm đến người phạm tội sau khoảng
thời gian họ hoàn thành xong án phạt tù đáng lẽ không nên bị đánh giá thấp.
Những chuẩn mực quốc tế về tư pháp hình sự tuy không đề cập nhiều những
vẫn có ghi nhận ở một số văn kiện quốc tế.Một trong những căn cứ để quy
định chế độ chấp hành các hình phạt nói chung, quyền và nghĩa vụ của người
chấp hành án nói riêng được quy định trong Luật thi hành án hình sự, khái
quát các quyền cơ bản thành 6 nhóm quyền. Tuy nhiên nhìn từ góc độ thi
hành án cũng rất khó để xác định quyền, lợi ích nào bị tước bỏ, bị hạn chế đối
với việc chấp hành từng hình phạt. Vì thế, trong quá trình xây dựng Luật thi
hành án hình sự để phù hợp quyền và nghĩa vụ của người chấp hành án là
không dễ.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình trong nước và quốc tế có nhiều biến
động, diễn biến phức tạp, Việt Nam tiếp tục phải đối diện với nhiều khó khăn,
thách thức. Trong đó, chú trọng các vấn đề như: Hoàn thiện pháp luật về
quyền tự do kinh doanh; pháp luật về quyền sở hữu; pháp luật về doanh
nghiệp; pháp luật về việc tạo lập đồng bộ cho các thị trường…Đây cũng là cơ
sở quan trọng để hoàn thiện các quy định pháp luật đối với việc tái hòa nhập
cộng đồng đối với người chấp hành xong hình phạt tù. Trong bối cảnh tỷ lệ
thất nghiệp ngày càng cao, nhiều lao động có trình độ đại học ra trường vẫn
không xin được việc. Điều này cho thấy mặc dù có sự chuẩn bị nhưng vấn đề
việc làm cho người tái hòa nhập là không dễ dàng thêm vào đó nhiều người
không có tiền đầu tư ban đầu để lập nghiệp, việc cho vay vốn hỗ trợ với người
mãn hạn tù còn rất hạn chế. Thêm vào đó chưa có các chính sách khuyến
khích, hỗ trợ động viên các doanh nghiệp, tổ chức giúp đỡ người chấp hành
xong hình phạt tù tái hòa nhập cộng đồng.
Những mâu thuẫn xã hội phát sinh trong điều kiện phát triển nền kinh
tế thị trường do được điều tiết thông qua pháp luật, chính sách và các công cụ
khác của nhà nước nên ít có nguy cơ trở thành các mâu thuẫn đối kháng và
tạo ra các xung đột có tính chất chia rẽ xã hội. Đây là một trong những điều
kiện đảm bảo ổn định chính trị, đoàn kết các lực lượng xã hội vì các mục tiêu
chung của sự phát triển và hoàn thiện pháp luật Việt Nam.Tuy nhiên một
trong những nguyên nhân cản trở quá trình tái hòa nhập cộng đồng là do
những định kiến xã hội, kì thị đối với những người từng mắc sai lầm. Nhiều
trường hợp không chỉ xã hội có định kiến, kì thị mà còn bị chính người thân
quay lưng. Đây chính là rào cản rất lớn gây trở ngại cho việc tái hòa nhập của
người đã hết thời gian cách ly khỏi xã hội. Đồng thời Pháp luật vẫn chưa có
các chế tài cụ thể cho những thành phần khác nhau trong xã hội như người
khuyết tật, người già, người chưa thành niên…phạm tội hay những vùng
miền, dân tộc khác nhau.
Từ những cơ sở trên có thể đưa ra một số định hướng hoàn thiện pháp
luật về tái hòa nhập cộng đồng như sau :
Trên thực tế công tác tái hòa nhập cộng đồng muốn được áp dụng có
hiệu quả cần phải có văn bản riêng trong đó quy định cụ thể nhiệm vụ, biện
pháp, mục tiêu tái hòa nhập cộng đồng cho những người mãn hạn tù, đồng
thời quy định rõ trách nhiệm cho các cấp, các ngành và các tổ chức xã hội
cũng như mọi công dân, kể cả những người thân trong gia đình và người mãn
hạn tù khitrở về nơi cư trú. Đồng thời, cần quy định rõ nhiệm vụ quản lý đối
tượng mãn hạn tù về mặt hành chính là của Công an cơ sở, còn việc giúp đỡ,
giáo dục đối tượng là nhiệm vụ của toàn xã hội đặc biệt là công dân tại địa
phương, thôn, xóm hoặc khu phố nơi người chấp hành án cư trú và sự chung
tay của các cơ quan, đoàn thể, tổ chức trên địa bàn. Nhà nước và các cơ quan
chức năng vẫn chưa có một văn bản chung nào quy định riêng biệt, rõ ràng về
việc tái hòa nhập xã hội cho người chấp hành xong hình phạt tù để lấy đó làm
căn cứ cho việc tiến hành thống nhất giữa các cơ quan, đơn vị và các đoàn thể
trong cả nước mặc dùcông tác này là công tác mang tính xã hội hóa cao và đã
có được thực hiện từ rất lâu. Trong hệ thống các văn bản về tái hòa nhập xã
hội đối với người phạm tội cần xác định rõ phạm vi trách nhiệm của từng cấp,
từng ngành. Sự phân công, phân cấp giữa các ngành, các cấp, các lực lượng
trong quá trình tiến hành cần đồng bộ, thống nhất, tránh sự chồng chéo. Để
tránh trường hợp áp dụng mang tính chung chung và hình thức thì Nhà nước
cần quy định cụ thể hơn về các cơ chế đảm bảo cho việc quản lý, giáo dục,
giúp đỡ đối tượng mãn hạn tù đồng thời các văn bản quy phạm pháp luật quy
định về quản lý, giáo dục, giúp đỡ đối tượng phạm tội mãn hạn tù ngoài việc
đề cập đến quản lý đối tượng thì nên quy định về nội dung các biện pháp
trong giáo dục, giúp đỡ đối tượng cải tạo, tiến bộ tái hòa nhập cộng đồng.
Do Bộ luật hình sự không quy định đầy đủ, cho nên trong luật thi hành
án hình sựtrong phần thuật ngữ hay chế độ thi hành từng loại hình phạt cần
quy định cụ thể các quyền, lợi ích của người chấp hành án bị tước bỏ; các
quyền, lợi ích gì bị hạn chế, sau khi họ ra tù thì cần có những chế tài khuyến
khích giúp họ sớm hòa nhập cộng đồng. Quá trình tái hòa nhập xã hội cũng
cần phải thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm các phẩm giá và quyền cơ bản của
con người theo pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế mà Việt Nam là thành
viên. Cần nghiêm túc xem lại những hạn chế về một số quyền con người liên
quan đến người chấp hành án và người đã chấp hành xong án phạt tù. Pháp luật
phải cụ thể hóa thành các giải pháp tái hòa nhập không thể mãi quy định chung
chung như thế rất khó để thực hiện có hiệu quả việc tái hòa nhập cộng đồng.
Các chương trình tái hòa nhập xã hội phải đa dạng và cần được thiết kế
dựa trên nhu cầu của từng nhóm người như trẻ em, người khuyết tật, người
già, người nước ngoài, người có bệnh...phải có các chương trình phù hợp với
điều kiện, đặc điểm riêng của từng địa phương, từng vùng miền về kinh tế,
văn hóa, xã hội, tôn giáo... ví dụ người chấp hành xong hình phạt tù ở vùng
đồng bằng, miền biển, vùng núi hay người có hoàn cảnh đặc biệt...Bên cạnh
đó cũng cần thiết lập trên cơ sở kết hợp nhà nước và xã hội thông qua các
chương trình hỗ trợ, can thiệp các đối tượng tái hòa nhập. Pháp luật cần mở
rộng hơn huy động nhiều nguồn lực xã hội tham gia vào công tác tái hòa nhập
cộng đồng.
Cần tuyên truyền đầy đủ để mọi người nhận thức được người chấp
hành xong hình phạt tù cũng là một phần của xã hội. Để mọi người xóa bỏ
những định kiến, kì thị góp phần giúp người phạm tội, vi phạm pháp luật có
cơ hội làm lại cuộc đời. Cùng với đó, để đảm bảo cho người chấp hành xong
hình phạt tù tái hòa nhập thành công đó là việc tạo công ăn, việc làm cho họ
bởi đa số họ là những người trình độ học vấn thấp vì vậy nhà nước cần có
nhiều quy định hơn để đảm bảo chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho họ. Cần có
các cơ chế hữu hiệu huy động nguồn vốn, giúp giải quyết khó khăn về nguồn
vốn. Kêu gọi nhiều hơn các doanh nghiệp, tổ chức giúp đỡ người tái hòa nhập
bằng cách tạo công ăn việc làm hoặc hỗ trợ vay vốn giúp họ ổn định cuộc
sống. Pháp luật phải yêu cầu việc tổ chức đào tạo nghề thêm nhiều nghề mới
phù hợp với nhu cầu xã hội, nhu cầu thị trường, sở thích và năng lực của
người bị cách ly thì sau khi tái hòa nhập mới đem lại kết quả cao.
Hoàn thiện pháp luật về tái hòa nhập cộng đồng là rất quan trọng,
không chỉ đem lại lợi ích cho những người tái hòa nhập mà còn đem lại lợi
ích cho cả cộng đồng và nhà nước khi họ trở thành những công dân tốt và có
ích. Thực hiện tốt chính sách pháp luật sẽ hạn chế được người phạm tội, bảo
vệ trật tự, an ninh mà còn góp phần không nhỏ phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
3.2 Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về hoạt động tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt tù.
Nhằm nâng cao hiệu quả của công tác tái hòa nhập cộng đồng thì cần
có các giải pháp mang tính đồng bộ, liên hệ mật thiết và chặt chẽ với nhau.
Gồm có các giải pháp hoàn thiện về pháp luật nói chung và các giải pháp
khác để hiệu quả của việc tái hòa nhập được cao hơn góp phần vào công cuộc
đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn ngừa tái phạm và khuyến khích người
mãn hạn tù quay trở về con đường lương thiện, trở thành người có ích, xây
dựng đất nước giàu mạnh.
Từ những bật cập ở chương 2 cho thấy việc cần tiếp tục hoàn thiện
pháp luật là vô cùng cần thiết nhất là hoàn thiện luật thi hành án hình sự liên
quan đến hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình
phạt tù từ cả nhu cầu chủ quan và khách quan trong giai đoạn phát triển hiện
nay của đất nước. Đây cũng là sự cụ thể hóa các quy định của Hiến Pháp
2013 về việc đề cao các quyền của con người và cả các quyền của người
phạm tội.
Căn cứ vào quan điểm, định hướng, chính sách, sự chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước ta để hoàn thiện các quy định pháp luật về tái hòa nhập. có cái nhìn
đúng đắn, thẳng thắn về trách nhiệm của từng cơ quan nhà nước trong hoạt
động tổ chức tái hòa nhập xã hội cho người chấp hành xong hình phạt tù.
Đồng thời kiểm điểm, khắc phục những hạn chế trong công tác cán bộ như
còn chưa thực sự nhiệt huyết, trình dộ chuyên môn yếu kém, năng lực hạn
chế…
Công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với người phạm tội luôn đòi hỏi
tính tổ chức cao và tính xã hội rộng. Công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với
người phạm tội luôn đòi hỏi tính tổ chức cao và tính xã hội rộng. Do đó, để
công tác này thực sự hiệu quả đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền, người có
thẩm quyền tăng cường lãnh đạo, trau dồi trình độ nghiệp vụ của mình . Hiện
nay, công tác tái hòa nhập xã hội đối với người chấp hành xong hình phạt tù
thực hiện dưới chỉ đạo chung của các cấp ủy Đảng và chính quyền. Ngoài các
tổ chức Đảng, chính quyền địa phương cũng phải lên kế hoạch chỉ đạo các
ban ngành, đoàn thể tại địa phương mình hỗ trợ, giúp đỡ và thực hiện các biện
pháp, chương trình huy động nguồn lực, tạo công ăn việc làm và động viên về
mặt tâm lý để giúp người mãn hạn tù ổn định làm ăn và sinh sống. Luật Thi
hành án hình sự năm 2019 đã quy định rõ về trách nhiệm của các cơ quan có
thẩm quyền trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác tái hòa nhập xã hội đối với
người phạm tội; "Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tố quốc Việt Nam
giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức trong thi hành án hình sự và các cơ
quan, tổ chức khác liên quan đến hoạt động thi hành án hình sự theo quy định
của pháp luật" [2].
Nhiệm vụ trọng tâm của thi hành án hình sự là cách ly người phạm tội
ra khỏi xã hội trong một khoảng thời gian nhất định, để cải tạo,dạy dỗ, giao
dục họ trở về làm con người lương thiện có ích cho gia đình, cho xã hội và
cho đất nước. Trong thời gian này họ được học về văn hóa, pháp luật, các kỹ
năng cần thiết mà trước đây khi chưa chấp hành án họ đã có cái nhìn sai lệch
dẫn đến con đường phạm pháp. Qua đó có thêt thấy được bản chất nhân đạo
của Đảng và Nhà nước ta trong việc xử lý người phạm tội.
Tuy nhiên, có thể nhận thấy hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh
công tác này còn hạn chế, chưa thống nhất, đồng bộ, thiếu tính sang tạo và
chưa có giá trị pháp lý cao. Vì thế, chưa tạo được hành lang pháp lý để các cơ
quan, đoàn thể và mọi người chấp hành theo, chưa phát huy được sự chung
tay, góp sức trong công tác tái hòa nhập cộng đồng giúp người mãn hạn tù
nhanh chóng tạo lập cuộc sống ổn định. Cho nên, việc xây dựng và tiếp tục
hoàn thiện các văn bản hướng dẫn trong công tác tái hòa nhập cộng đồng sẽ
tạo môi trường thuận lợi để mọi người chung tay góp sức giúp đỡ người mãn
hạn tù trở về với cộng đồng hơn thế nữa còn giúp họ thiết lập những điều kiện
cần thiết để khôi phục lại quyền tự do mà mình đã bị tước bỏ trong một
khoảng thời gian nhất định. Cùng với sự hoàn thiện việc học hỏi, tham khảo,
chọn lọc những mô hình hay, những kinh nghiệm quý báu từ các nước trong
khu vực và trên thế giới sẽ giúp hoạt động tái hòa nhập cộng đồng cho người
chấp hành án phạt tù của Việt Nam gặt hái được nhiều thành công.
Từ những định hướng nêu trên bản thân tôi có những kiến nghị sau :
Trong thời gian tới để công tác này đạt kết quả tốt hơn thì Ủy ban nhân
dân tỉnh cần phải chỉ đạo cơ quan chuyên môn nghiên cứu ban hành quy trình
tiếp nhận, quản lý giáo dục người chấp hành xong án phạt tù về địa
phương;chỉ đạo việc thành lập các quỹ xã hội, quỹ từ thiện theo quy định tại
Điều 23 Nghị định 80 và xem xét dành một phần kinh phí từ ngân sách nhà
nước theo Điều 5 Nghị định 80; chỉ đạo tăng cường kiểm tra việc thực hiện
Nghị định; định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện; chỉ đạo xây dựng các giải
pháp để huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội trong công tác giúp
đỡ người chấp hành xong án phạt tù về địa phương tái hòa nhập cộng đồng.
Công an cấp huyện phối hợp chặt chẽ với các ban ngành xó liên quan
xây dựng quy chế để thực hiện nghị định, có những công tác chỉ đạo chuyên
môn với cơ quan cấp thấp hơn. Các cơ quan liên quan cũng phải xác định rõ
nhiệm vụ và các hành động cụ thể của mình để góp phần thực hiện pháp luật
một cách có hiệu quả. Đối với những nguyên nhân, hạn chế còn tồn tại trên
địa bản Ủy ban nhân dân các cấp cần tập trung làm rõ, đảm bảo thực hiện
nhiệm vụ theo đúng quy định, minh bạch và hiệu quả.
Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về tái hòa nhập cộng đồng
của người chấp hành xong hình phạt tù luôn phải gắn liền với pháp luật hình
sự và thi hành án hình sự. Do đó, để hoàn thiện pháp luật về thi hành án hình
sự phải đặt trong mối quan hệ với pháp luật hình sự mà cụ thể ở đây Bộ luật
hình sự. Bộ luật hình sự 2015 về vấn đề xóa án tích cần phải quy định rõ ràng
cụ thể hơn, trình tự thủ tục của những loại giấy tờ cần thiết cho việc xóa án
tích cũng nên linh động tạo điều kiện thuận lợi để đối tượng chấp hành xong
an phạt tù có thể nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng.
Cần quy định một cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm chính trong công
tác này, phải quy định rõ nội dung, trách nhiệm,nghĩa vụ của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong việc tái hòa nhập cộng đồng . Đồng thời cần có những
chế tài xử phạt đối với các đối tượng không làm đúng chức trách, nhiệm vụ
theo quy định của pháp luật từ đó mà vai trò của các chủ thể liên quan mới
được phát huy. Cần có các chương trình khuyến khích chính quyền địa
phương, các cơ quan tổ chức , các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư xây
dựng các chương trình, mô hình giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù
quay về địa phương làm ăn sinh sống. Nâng cao nhận thức của người dân và
nhân rộng các mô hình để đạt hiệu quả cao.
Nhà nước cần phải tập trung tuyên truyền, khuyến khích, động viên các
cở kinh doanh, doanh nghiệp xóa bỏ mặc cảm tạo công ăn việc làm cho người
mãn hạn tù và đề xuất nhiều chính sách như: Ưu đãi về nguồn vốn, thuế, …để
các chủ thể chung tay giúp đỡ tạo cơ hội cho mình cũng là cho người khác.
Cần quy định rõ về nhiệm vụ, quyền hạn của người mãn hạn tù về địa
phương; cụ thể các quyền hạn được hưởng, các chính sách hỗ trợ và giải
quyết việc làm, đồng thời có nghĩa vụ báo cáo về việc tái hòa nhập của mình
với chính quyền địa phương để có những phương án hỗ trợ kịp thời.Nhiệm vụ
quyền hạn của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn trong việc tiếp nhận
người phạm tội mãn hạn tù, quản lý và thực hiện các chính sách tái hòa nhập
như hỗ trợ về việc làm, tuyên truyền vận động người dân xóa bỏ mặc cảm với
người mãn hạn tù và phối hợp với cơ quan công an trong việc quản lý người
mãn hạn tù tại địa phương và xóa án tích cho họ. Trách nhiệm và cơ chế thực
hiện của các cơ quan đoàn thể cơ sở như Mặt trận Tố quốc, Hội Phụ nữ, Hội
Nông dân v.v... các hội có trách nhiệm vận động người mãn hạn tù tham gia
sinh hoạt hội và tiến tới là thành viên của Hội, đồng thời hỗ trợ về tinh thần và
việc làm cho họ để họ xóa bỏ dần mặc cảm với cộng đồng, Cảm thấy mình
cũng là một phần của xã hội, có mục tiêu phấn đấu và dần trở thành người có
ích, góp phần thực hiện có hiệu quả công tác tái hòa nhập xã hội đối với
người chấp hành xong hình phạt tù.
3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác tái hòa nhập cộng
đồng đối với người chấp hành xong hình phạt tù.
3.3.1 Các giải pháp mang tính xã hội nâng cao hiệu quả hoạt động tái hòa
nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt tù .
Quản lý, giáo dục người mãn hạn tù tái hòa nhập cộng đồng là nhiệm
vụ chung không chỉ riêng ngành Công an, mà các cấp, các ngành, các đoàn
thể và toàn xã hội cùng chung tay góp phần đưa người phạm tội sửa chữa
những sai lầm trở thành người có ích cho xã hội. Ngoài các giải pháp mang
tính nghiệp vụ của cơ quan công an các giải pháp mang tính xã hội đóng vai
trò không thể thiếu trong công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp
hành xong hình phạt tù.
Một là, tập trung giải quyết các chính sách liên quan đến người phạm
tội để tạo ra môi trường lành mạnh, tiến hành xã hội hóa công tác tái hòa
nhập cộng đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù.Quá trình tiến hành
các bước không những bao gồm các công việc như theo dõi, giám sát, quản
lý. Trong đó quy định rõ trách nhiệm cụ thể của từng cấp, từng ngành và các
chủ thể tham gia, có như vậy mới đảm bảo căn cứ pháp lý vững chắc cho việc
tổ chức thực hiện thống nhất và có hiệu quả công tác tái hòa nhập cộng đồng.
Chính quyền nên tạo ra những hoạt động giúp đỡ nhau trong cộng đồng, xây
dựng và thực hiện hình thức tự quản phát huy vai trò cộng đồng xóa đi những
mặc cảm đối với người chấp hành hình phạt tù, tạo cho họ ý thức tự giác,
mạnh dạn hơn trong hòa nhập cộng đồng.
Hai là, giáo dục, nâng cao nhận thức xã hội bằng những biện pháp
tuyên truyền, vận động toàn dân tham gia vào công tác tái hòa nhập cộng
đồng, xóa bỏ dần mặc cảm cho những người phạm tội. Vai trò của cộng đồng
xã hội trong việc tái hòa nhập là rất quan trọng. Do đó công quản lý giáo dục,
quản lý, giúp đỡ đối tượng mãn hạn tù hòa nhập với xã hội cần được tuyên
truyền để công dân hiểu được tầm quan trọng của công tác này đối với xã hội
nói chung, vì vậy tất các các thành viên trong xã hội đều phải chung tay vì
một xã hội ổn định và trật tự. Các cấp, các ngành cần quan tâm giáo dục
người phạm tội để họ tự có ý thức trách nhiệm với bản thân họ, giúp họ có ý
thức muốn hòa nhập, xóa bỏ mặc cảm tủi thân về bản thân; Chính quyền cơ
sở cần phối hợp, chỉ đạo các ban ngành, đoàn thể để tuyên truyền về chính
sách của đảng, nhà nước và địa phương liên quan đến công tác tái hòa nhập
cho người chấp hành xong hình phạt tù. Tổ chức các buổi sinh hoạt tại cộng
đồng dân cư, các buổi sinh hoạt hội, nhóm của địa phương và tạo điều kiện để
người mãn hạn tù tham gia để họ không còn cảm thấy mặc cảm về tội lỗi của
mình, thông qua đó động viên các đối tượng trong diện quản lý tự giác và yên
tâm phấn đấu cải tạo, giúp đỡ các đối tượng khó khăn về kinh tế, ổn định cuộc
sống, động viên khen thưởng kịp thời khi họ có thành tính, có biểu hiện tích
cực. Từng bước thay đổi tâm lý, suy nghĩ của người mãn hạn tù để họ nhanh
chóng hòa nhập với cộng đồng. ví dụ Ở Bắc Ninh vào các buổi tối thứ 6 trên
đài phát thanh truyền hình Bắc Ninh có tuyên truyền về tái hòa nhập cộng
đồng để cộng đồng nâng cao nhận thức của mình trong việc tham gia tích cự
vào hoạt động tái hòa nhập cộng đồng.
Thứ ba, chính quyền địa phương, ban ngành đoàn thể, các tổ chức kinh
tế xã hội giúp đỡ, hỗ trợ, công ăn việc làm cho người chấp hành xong hình
phạt tù để tạo điều kiện cho họ sớm hòa nhập cộng đồng. Thực tế hiện nay, số
người mãn hạn tù về địa phương được quan tâm, bố trí, giúp đỡ, hỗ trợ tạo
công ăn việc làm còn rất hạn chế, các địa phương hầu như chưa quan tâm về
vấn đề này. Nhà nước và các cơ quan liên quan hiện nay vẫn chưa có một chế
độ , chính sách quy định cụ thể về việc bố trí công ăn việc làm cho những
người chấp hành xong án phạt tù. Đây là một trong những vấn đề ảnh hưởng
đến hiệu quả, chất lượng của việc giáo dục, quản lý các đối tượng mãn hạn tù
trở về địa phương. Các địa phương cần cụ thể giao cho một cơ quan chịu
trách nhiệm chính về việc giúp đỡ công ăn việc làm cho người mãn hạn tù.
Cần ban hành một văn bản quy định cụ thể về việc giáo dục, quản lý đối với
đối tượng mãn hạn tù. Tiến tới thành lập một cơ quan chuyên trách để thực
hiện công tác tái hòa nhập cộng đồng cho người phạm tội. Ở thành phố Bắc
Ninh đã có những mô hình như “Mô hình cảm hóa người mãn hạn tù”, mô
hình “ vượt khó” của huyện Tiên Du hay mô hình “Quản lý, giúp đỡ,giáo dục
người mới ra tù” của huyện Lương tài đã từng bước khiến cho công cuộc tái
hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong hình phạt tù của tỉnh đạt
nhiều thành tích đang khen ngợi.
Gia đình là một thứ tình cảm vô cùng thiêng liêng, cao quý, là nơi con
người ta tìm về khi mệt mỏi, bế tắc. Sự quan tâm, cưu mang, đùm bọc của gia
đình là yếu tố quan trọng nhất chính vì thế mà nhiều quốc gia trên thế giới
luôn luôn đề cao vai trò của gia đình nên đã áp dụng vào mô hình tái hòa nhập
cho người chấp hành án phạt tù của nước họ là tù tại gia. Ở Việt Nam tuy đã
có những đề xuất đối với việc giam giữ tại nhà tuy nhiên còn nhiều bất cấp và
phải phân loại theo tội chứ không thể áp dụng cho tất cả các đối tượng. Vì thế,
cần có những nghiên cứu chuyên sâu hơn, những chính sách phù hợp với
hoàn cảnh, điều kiện của nước ta trong việc áp dụng mô hình này. Vì vậy,
người thân, gia đình cần gần gũi, quan tâm, thường xuyên hỗ trợ, khuyến
khích cả về vật chất lẫn tinh thần để người chấp hành xong hình phạt tù xóa
bỏ mặc cảm, tự tin vào chính bản thân mình để họ ổn định cuộc sống, trở
thành người có ích cho gia đình và xã hội.
3.3.2 Các giải pháp phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền với
doanh nghiệp, đoàn thể và gia đình trong hoạt động tái hòa nhập cộng
đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù.
Trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với người chấp hành xong hình
phạt tù có rất nhiều cơ quan cùng tham gia, mỗi giai đoạn có sự tham gia của
nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau và mỗi cơ quan thực hiện một nhiệm vụ
riêng biệt nhưngtrong hoạt động của các cơ quan, tổ chức này vẫn phải
thường xuyên,liên tục phối hợp với nhau để đảm bảo tốt hơn nữa hiệu quả của
công tác tái hòa nhập xã hội.
Đầu tiên, Chính phủ là cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án hình sự
nói chung và công tác tác tái hòa nhập cộng đồng nói riêng. Bộ Công an là cơ
quan trực tiếp chỉ đạo lực lượng Cảnh sát hỗ trợ tư pháp thực hiện các biện
pháp nghiệp vụ đồng thời phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu,
xây dựng, ban hành các chế độ, chính sách quy định cụ thể về tái hòa nhập
cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù. Các cơ quan tổ chức có
liên quan khác chung tay giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp tổ chức thực hiện
các biện pháp, chương trình bảo đảm tái hòa nhập đối với người chấp hành
xong an phạt tù.Phối hợp với cơ quan chức năng ban hành quy định cụ thể về
nội dung, chương trình giáo dục, hướng nghiệp, dạy nghề cho các phạm nhân
và quy định chi tiết việc quản lý, sử dụng quỹ hòa nhập cộng đồng tại các trại
giam.Bộ Quốc phòng tiến hành phối hợp với Bộ Công an, Bộ giáo dục đào
tạo chỉ đạo các trại giam các cấp quân khu hỗ trợ các hoạt động giáo dục, dạy
nghề, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để phạm nhân sắp chấp hành xong án
phạt tù tái hòa nhập cộng đồng và hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, giám sát và
báo cáo tình hình, kết quả thực hiện các biện pháp tái hòa nhập cộng đồng đối
với người chấp hành xong hình phạt tù. Bộ tư pháp trong việc xây dựng
chương trình giáo dục pháp luật cho công dân, phối hợp với Bộ Công an trong
việc thống kê, báo cáo chính phủ về công tác thi hành án hình sự đồng thời
phối hợp với các đơn vị vũ trang nhân dân khác và chính quyền địa phương
để chủ động triển khai hỗ trợ lực lượng thi hành án hình sự.
Tiếp tục củng cố, kiện toàn cơ cấu tổ chức, bộ máy cơ quan Thi hành
án hình sự các cấp, nhất là cơ quan Thi hành án hình sự cấp huyện bảo đảm
tinh gọn, hoạt động hiệu quả; thường xuyên quan tâm đào tạo, tập huấn, bồi
dưỡng nghiệp vụ nhằm nâng cao năng lực, trình độ về mọi mặt và bảo đảm tốt
mọi chế độ, chính sách cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ để bảo đảm thực hiện có
hiệu quả công tác tiếp nhận, theo dõi, quản lý, giáo dục, cảm hóa và công tác
điều tra, khảo sát, đánh giá, phân loại, cập nhật thông tin và tham mưu, đề
xuất các biện pháp tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án
phạt tù, người được đặc xá đang cư trú tại địa phương. Tổ chức phân bổ hợp
lý nguồn ngân sách nhà nước cho công tác tái hòa nhập cộng đồng, chú trọng
đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng và thực hiện có hiệu quả các đề án, dự án về
đào tạo, dạy nghề, giới thiệu việc làm, thành lập và duy trì hiệu quả quỹ tái
hòa nhập cộng đồng, quỹ hoàn lương, quỹ khác theo quy định của pháp luật,
huy động tối đa sự tham gia đóng góp tự nguyện của cơ quan, tổ chức, cá
nhân và các nguồn hợp pháp khác nhằm kịp thời hỗ trợ cho người chấp hành
xong án phạt tù, người được đặc xá được vay vốn ưu đãi để sản xuất, kinh
doanh, tạo thu nhập ổn định, sớm hòa nhập cộng đồng.
UBND các quận, huyện, thị xã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo
dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đoàn thể xã
hội và nhân dân trong công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp
hành xong án phạt tù, đề xuất nhiều chương trình thiết thực xóa bỏ định kiến
của người dân, thu hút nguồn vốn cho các quỹ tái hòa nhập. Chú trọng quan
tâm công tác tư vấn, giải quyết việc làm, đào tạo nghề nghiệp, xây dựng, nhân
rộng các mô hình, cá nhân điển hình, các loại hình Quỹ xã hội để quản lý, hỗ
trợ, giáo dục, giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng
đồng.Ủy ban nhân dân cấp xã vận động cộng đồng dân cư và gia đình tham
gia vào việc giúp đỡ người mãn hạn tù tái hòa nhập cộng đồng như gần gũi
giúp đỡ về vật chất, động viên về tinh thần, để họ xóa dần mặc cảm, tạo điều
kiện để họ lao động, hướng dẫn cách thức làm kinh tế, cho vay vốn làm kinh
tế để họ sớm ổn định cuộc sống hòa nhập cộng đồng.
Các sở ban ngành chỉ đạo các Phòng phối hợp, tham mưu cho cấp ủy
hoàn thiện chính sách dạy nghề, cung cấp cơ hội về việc làm cho người chấp
hành xong án phạt tù trở về với cộng đồng. Phối hợp với lực lượng Công an,
Quân đội triển khai định hướng, tư vấn nghề nghiệp, nâng cao khả năng tìm
kiếm việc làm cho phạm nhân sắp chấp hành xong án phạt tù. Phối hợp với
các cơ quan chức năng ở địa phương tổ chức những cuộc đào tạo, giới thiệu
giải quyết việc làm cho người chấp hành xong hình phạt tù, quan tâm giúp đỡ
về mặt tinh thần, bởi họ còn mang nhiều mặc cảm tự ti, hỗ trợ vật chất cho
người chấp hành xong hình phạt tù đối với những trường hợp có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn sớm ổn định cuộc sống. Phải căn cứ vào điều kiện kinh tế,
vị trí địa lý miền núi hay miền biển, tôn giáo, dân tộc mà có các chương trình,
mô hình hỗ trợ khác nhau . Hiện nay, trên cả nước nói cung đã có các cơ sở
dạy nghề những ngành nghề thiết thực và phù hợp như: cơ khí, điện công
nghiệp, sửa chữa xe máy…Tuy nhiên, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh các ngành
nghề còn lạc hậu như thêu thùa, mây tre đan hay các nghề thủ công không đáp
ứng được nhu cầu của xã hội. Ví vậy, cần phải cập nhật, cải tiến để giáo dục,
đào tạo những người phạm tội những công việc có tính áp dụng cao hơn khi
họ ra khỏi trại thì có thể tự mình kiếm sống mà không quay lại con đường
phạm pháp nữa.
Bộ thông tin và truyền thông cần chỉ đạo các cơ quan thông tấn, Cơ
quan báo chí tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức của các cấp,
các ngành cũng như cộng đồng dân cư trong vấn đề tái hòa nhập. Đài phát
thanh tỉnh, huyên tăng cường tuyên truyền pháp luật, đặc biệt là Nghị định 80
của chính phủ để người dân hiểu đầy đủ và biết về quyền và nghĩa vụ của họ
đối với các công tác cộng đồng. Cần vinh danh những tấm gương người tốt
việc tốt, các mô hình tiên tiến, hoat động nổi bật trong công tác tái hòa nhập
cộng đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù đồng thời kêu gọi toàn dân
chung tay góp sức giúp đỡ xóa bỏ kì thị, mặc camrnhanh chóng trở lại với
cuộc sống bình thường. Tuyên truyền vận động các cơ quan, tổ chức xã hội
kết hợp với gia đình nhân rộng mô hình điển hình tiên tiến trong quản lý, giáo
dục, giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng.
Tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra và
sơ kết, tổng kết theo định kỳ, đột xuất hoặc khi có yêu cầu để tổng hợp tình
hình, số liệu, đánh giá thực trạng kết quả đã thực hiện, khắc phục những hạn
chế, tồn tại, khó khăn, vướng mắc, bất cập và tìm ra những kinh nghiệm hay,
cách làm mới có hiệu quả trong công tác tiếp nhận, theo dõi, quản lý, giáo
dục, cảm hóa, giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù, người được đặc xá
tái hòa nhập cộng đồng; đẩy mạnh việc xây dựng, nhân rộng các mô hình điển
hình tiên tiến, thường xuyên tổ chức các buổi giao lưu, gặp mặt và biểu
dương, khen thưởng đối với người chấp hành xong án phạt tù, người được đặc
xá là những tấm gương tiêu biểu trong sản xuất, kinh doanh và những tập thể,
cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác tái hòa nhập cộng đồng để kịp
thời khuyến khích, động viên họ, đồng thời tạo sức lan tỏa cho những người
khác có quá khứ lầm lỗi noi theo.
Thực hiện tốt việc phối hợp hoạt động giữa ngành Công an với các tổ
chức, doanh nghiệp, gia đình và cộng đồng trong hoạt động tái hòa nhập cộng
đồng đối với người chấp hành xong hình phạt tù để giúp công tác này đạt
hiệu quả cao hơn, và dễ dàng hơn trong việc quản lý, giáo dục, dễ dàng nắm
bắt tâm lý của phạm nhân, hướng nghiệp, giúp người phạm tội xóa đói giảm
nghèo, giúp họ sớm ổn định cuộc sống, việc phối hợp như vậy sẽ giúp cơ
quan Công an nắm rõ hơn các thông tin của phạm nhân, cùng gia đình và
doanh nghiệp định hướng giúp họ lấy lại sự tự tin, nỗ lực vươn lên trong cuộc
sống.
Trong mối quan hệ phối hợp này tôi thấy rằng cần quy định rõ ràng một
cơ quan đầu mối mà ở đây Sở lao động thương binh và xã hội tỉnh Bắc Ninh
là cơ quan phù hợp hơn cả, là cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức phối hợp giữa
các cơ quan, đoàn thể khác, xây dựng đề án hỗ trợ, đào tạo việc làm cho
người mãn hạn tù trở về. Cần quy về một cơ quan đầu mối chuyên trách trong
việc giúp đỡ người chấp hành xong hình phạt tù trở về với cộng đồng và cần
phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà nước với các tổ chức, doanh nghiệp ,
gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư. Ở Nhiều huyện trên địa bàn tỉnh hầu
như không có cơ quan chuyên trách ví dụ nhu thị xã Từ Sơn không có cơ
quan chuyên trách đối với việc tái hòa nhập cho người chấp hành xong hình
phạt tù về địa phương nên thực hiện rất chung chung về quản lý nhân khẩu và
không thực hiện các biện pháp, chương trình cho đối tượng này. Vì vậy cần
quy định cụ thể rõ ràng hơn, chức năng nhiệm vụ củng từng cơ quan. Dẫn đến
việc công tác tái hòa nhập cộng đồng trên địa bàn tỉnh nói riêng và cả nước
nói chung còn nhiều hạn chế.
3.3.3 Các giải pháp nâng cao trình độ, năng lực và trách nhiệm nghề
nghiệp của đội ngũ cán bộ trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với người
chấp hành xong hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
Hiện nay, công tác tái hòa nhập tại trại giam do đội ngũ giám thị trại
giam, những người làm công tác quản lý, giảng dạy chuyên nghiệp
ngoàinhững điều kiện về trình độ, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật thì
giám thị trại giam là những người thực hiện công tác giảng dạy,quản lý tại trại
giam phải luôn hoàn thiện mình để đáp ứng yêu cầu của công tác đồng thời
trau dồi nghiệp vụ, không ngừng nâng cao kỹ năng và kiến thức để thực hiện
tốt công tác tái hòa nhập cho người chấp hành xong hình phạt tù. Cần có
những quy định cụ thể hơn về tiêu chuẩn, điều kiện của giám thị các trại
giam, những người thực hiện nhiệm vụ quản lý phạm nhân và những người
thực hiện công tác tuyên truyền, giảng dạy, giáo dục và phổ biến pháp luật
cho phạm nhân trong các trại giam. Giám thị trại giam ngoài đáp ứng những
yêu cầu của pháp luật thì cũng luôn luôn cần được tập huấn để nâng cao kỹ
năng trong công tác tái hòa nhập cho người phạm tội.
Thường xuyên tổ chức các Hội nghị tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho
các cán bộ làm công tác tái hòa nhập cho người phạm tội mang tính nghiệp vụ
tại địa phương nơi người mãn hạn tù được tha về, các cán bộ thực hiện các
biện pháp, chương trình tái hòa nhập cộng đồng của các ban ngành, đoàn thể
của cơ quan nhà nước các cấp; nhằm nâng cao hiệu quả của công tác tái hòa
nhập xã hội cho người chấp hành xong hình phạt tù.
Ngoài những cán bộ làm công tác tái hòa nhập cho người phạm tội
mang tính nghiệp vụ thuộc các cơ quan công an thì các cán bộ khác tham gia
vào công tác tái hòa nhập cũng cần được bồi dưỡng, tập huấn, nâng cao trình
độ nghiệp vụ thường xuyên để công tác tái hòa nhập xã hội cho người chấp
hành xong hình phạt tù đạt hiệu quả cao nhất.
Bên cạnh những đội ngũ chủ thể nêu trên hiện nay rõ ràng còn thiếu đội
ngũ chuyên trách để thực hiện công tác tái hòa nhập xã hội đối với người
chấp hành xong hình phạt tù. Các cán bộ Công an tham gia vào công tác tái
hòa nhập cộng đồng họ chủ yếu thực hiện nghiệp vụ đồng thời cũng là những
hoạt động để tái hòa nhập cho người phạm tội. Tuy nhiên do đây là hoạt động
nghiệp vụ của họ nên chưa thực sự được chú trọng đến công tác sau khi người
phạm tội chấp hành án xong tại trại giam và cũng chưa thực sự hiệu quả. Do
vậy, cần tạo ra một hệ thống đơn vị chuyên biệt với một lực lượng chuyên
trách để thực hiện công tác tái hòa nhập cho người chấp hành xong án phạt tù
xuyên suốt từ trung ương tới các địa phương. Đào tạo riêng các cán bộ
chuyên trách cho công tác tái hòa nhập với người mãn hạn tù khi chấp hành
xong án tại trại giam. Có như vậy mới đảm bảo thống nhất, quy củ mang lại
hiệu quả cao trong việc giúp đỡ, quản lý và giáo dục người mãn hạn tù.Đặc
biệt là trong tình hình hiện nay tội phạm ngày càng phức tạp và những tác
động tiêu cực của nền kinh tế thị trường thì việc nâng cao nhận thức của một
bộ phận không nhỏ gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự an toàn của
đất nước có một vai trò rất quan trọng .
Công tác tái hòa nhập cộng đồng phải được đào tạo một cách toàn diện
về phẩm chất đạo đức, tấm lòng bao dung, lòng yêu nghề, hết mình vì công
việc để họ nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình trong việc giáo dục,
cảm hóa phạm nhân. Đồng thời, nên xây dựng đội ngũ tình nguyện viên (am
hiểu pháp luật, nhà tâm lý, nhà quản lý, doanh nhân, người có kinh nghiệm,
kỹ năng nghề nghiệp) trong hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong hình phạt tù để tư vấn, giúp đỡ, hướng nghiệp dạy nghề và giới
thiệu việc làm cho người chấp hành xong hình phạt tù.
3.3.4 Các giải pháp xây dựng các điều kiện chuẩn bị tái hòa nhập cộng
đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù tại cơ sở giam giữ.
Để nâng cao chất lượng giáo dục, cải tạo phạm nhân tại cơ sở giam giữ
như đa dạng hóa nghề đào tạo, giáo dục pháp luật, văn hóa, lao động, dạy
nghề phù hợp theo hướng bắt kịp với nhu cầu của xã hội và phù hợp điều kiện
của từng vùng miền như miền núi khác với vùng biển hay đồng bằng, nâng
cao kỷ luật lao động thì cần phải trang bị tốt cho phạm nhân các kỹ năng sống
cần thiết: Tôn trọng người khác cũng như biết tôn trọng chính bản thân mình,
trang bị kiến thức và kỹ năng giải quyết các vấn đề phát sinh trong cuộc sống
thường ngày, giúp họ lập kế hoạch cụ thể để chuẩn bị tái hòa nhập.
Điều 33 Luật thi hành án hình sự năm 2019 quy định “Phạm nhân được
tổ chức lao động phù hợp với độ tuổi, sức khỏe và đáp ứng yêu cầu quản lý,
giáo dục, hòa nhập cộng đồng …”. Có thể thấy, lao động là một hình thức bắt
buộc đối với tất cả các phạm nhân trong cơ sở giam giữ. Bởi lao động giúp họ
vừa rèn luyện sức khỏe, tinh thần, làm việc có ích trong quá trình cải tạo. Để
nâng cao hiệu quả của công tác này phải đặt mục đích giáo dục lên hàng đầu,
để phạm nhân hiểu được tầm quan trong của việc lao động vừa đảm bảo công
tác quản lý và tạo điều kiện để họ sớm có cơ hội hòa nhập, sau khi ra trại
không bị bỡ ngỡ. Tóm lại lao động vừa là nghĩa vụ vừa là quyền lợi của họ.
Hầu như trình độ văn hóa của phạm nhân chấp hành án trong trại giam
trên địa bàn tỉnh có học vấn trung bình là lớp 8 với hoàn cảnh gia đình phức
tạp. Do đó, để cho công tác tái hòa nhập đạt hiệu quả cao thì hơn hết chúng ta
cần phải đảm bảo về chất lượng giáo dục văn hóa và pháp luật trong cơ sở
giam giữ đối với các đối tượng cần có ít nhất là trình độ trung học cơ sở thì
mới có cơ hội tìm nghề, tìm việc thuận lợi sau khi chấp hành xong án phạt tù.
Ngoài ra cân tư vấn và dạy cho phạm nhân các kỹ năng sống cần thiết, để
giúp họ ổn định về tâm lý, nhận thức được hành vi của họ trước đây, biết ăn
năn hối cải, cố gắng sửa chữa lỗi lầm, cải tạo tốt để sớm được trở về với gia
đình, trở thành người có ích cho quê hương đất nước.
Thời gian tới, Bắc Ninh cần chú trọng đến việc phân bổ ngân sách đầu
tư cho cơ sở vật chất và công tác đào tạo nghề cho phạm nhân trong trại tạm
giam bởi công tác dạy nghề trên địa bàn tỉnh chưa đáp ứng được nhu cầu của
xã hội, mới chỉ dừng lại ở dạy và đào tạo nhưng chưa có tính áp dụng cao.
Đông thời cần tiếp tục mở những lớp đào tạo nghề như may gia công, cơ khí,
sửa chữa xe máy, tổ chức các kì thi cấp chứng chỉ hành nghề cho họ để khi ra
ngoài xã hội họ đáp ứng được yêu cầu của các nhà tuyển dụng, có nhiều cơ
hội tìm kiếm việc làm hơn, hoặc có thể tận dụng những gì đã học trong trại
giam để tự mình kiếm sống.
Các khu cải tạo, giam giữ cần đảm bảo đầy đủ các điều kiện như ánh
sáng, theo yêu cầu của chính phủ về chế độ ăn ở, sinh hoạt, y tế cho phạm
nhân. Trên địa bàn tỉnh do số lượng phạm nhân đông, vẫn còn trường hợp
giam giữ chung người chưa thành niên và người thành niên. Cần phải hạn chế
tối đa tình trạng này bởi tránh tình trạng sau khi ra tù họ bị lưu manh hóa các
mối quan hệ và trở thành tội phạm nguy hiểm hơn và chuyên nghiệp hơn .Duy
trì và phát triển các quỹ hòa nhập cộng đồng nhằm hỗ trợ hoặc cho vay vốn
đối với người mãn hạn tù, giúp họ có nhiều cơ hội để lập nghiệp, làm ăn chân
chính góp phần phát triển quê hương đất nước.
Tóm lại, việc nâng cao hiệu quả dạy nghề và đảm bảo việc làm cho
người chấp hành xong hình phạt tù là một vấn đề vừa mang tính cấp bách,
vừa mang tính lâu dài trong chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm.Với
những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại tỉnh
Bắc Ninh hy vọng rằng hoạt động này sẽ có nhiều khởi sắc trong những năm
tiếp theo.
Tiểu kết chương 3
Kết quả của chương 3 đã nêu lên những cơ sở, định hướng để hoàn
thiện pháp luật, đưa ra một số đề xuất để thực hiện có hiệu quả công tác tái
hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù. Việc đánh giá và
đưa ra các giải pháp dựa trên thực tế địa bàn tỉnh Bắc ninh là rất cần thiết để
tạo ra các chương trình giúp đỡ người mãn hạn tù sớm hòa nhập cộng đồng.
Hiệu quả của công tác này chính là sự khẳng định rõ ràng về chất lượng của
việc thực hiện pháp luật. Giúp cho địa bàn tỉnh nói riêng và cả nước nói
chung giảm tỉ lệ tái phạm, tái phạm nguy hiểm góp phần vào công cuộc gìn
giữ, xây dựng và phát triển đất nước.
Tóm lại, việc cần làm hiện nay là quy định rõ trách nhiệm của cơ quan
đầu mối, chuyên trách và có cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, gia
đình và cộng đồng dân cư khi người chấp hành xong hình phạt tù trở về với
địa phương để giúp họ tự tin, xóa bỏ mặc cảm quay trở về với cuộc sống bình
thường, dễ dàng quản lý, giáo dục, hướng nghiệp giúp họ có những điều kiện
thuận lợi để nhanh chóng tái hòa nhập thành công. Hòa nhập cộng đồng là
một hành trình đầy khó khăn và thử thách đòi hỏi người phạm tội phải cố
gắng nỗ lực hết mình vươn lên làm lại cuộc đời để trở thành người có ích cho
gia đình và cho xã hội vì thế đòi hỏi bản thân họ phải có tư tưởng đúng đắn,
luôn luôn vươn lên vượt qua khó khăn, hoàn thiện bản thân để hòa nhập vào
cuộc sống cộng đồng.
Tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong hình phạt tù là
công tác đã và đang được các cấp, các ngành rất quan tâm. Pháp luật nước ta
hiện nay quy định các biện pháp đảm bảo tái hòa nhập cộng đồng tuy nhiên
vẫn cần quy định rõ trách nhiệm của cơ quan đầu mooischiuj trách nhiệm
chính trong việc phối hợp đó và quy định rõ rang chế tài xử lý đối với các chủ
thể cố tình không thực hiện đúng chức trách của mình. Làm tốt nhiệm vụ của
một cơ quan đầu mối có đủ tầm lực kết nối và phát huy được tất cả nguồn lực
trong xã hội chính là một vũ khí quan trọng giúp công tác tái hòa nhập cộng
đồng đạt được hiệu quả cao nhất.
KẾT LUẬN
Hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình hình
phạt tù là một trong những hoạt động mang tính xã hội hóa cao ảnh hưởng
đến an ninh trật tự trên cả nước và mang nghĩa nhân văn sâu sắc. Đa phần
người chấp hành xong hình phạt tù là nguồn lực không nhỏ góp phần cho sự
phát triển của xã hội vì phần lớn họ đều đang trong độ tuổi lao động vì thế
nếu chúng ta làm tốt hoạt động tái hòa nhập cộng đồng nhưng nếu chúng ta
làm không tốt hoạt động này thì chính những đối tượng này có nguy cơ tái
phạm tội rất cao từ đó gây mất an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.Để
hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình phạt tù đạt
hiệu quả cao phải huy động được sự tham gia của toàn xã hội để người mãn
hạn tù có gạt bỏ mọi rào cản, thêm nghị lực, quyết tâm trở thành người lương
thiện có ích cho gia đình và xã hội.
Tái hòa nhập cộng đồng đang là hoạt động tất cả các cấp, các ngành
quan tâm ,chú trọng hiện nay. Kết quả nghiên cứu đã làm rõ các cơ sở lý luận,
căn cứ pháp lý, các chương trình sau khi người mãn hạn tù trở về với địa
phương.. cũng như nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước, tổ chức, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân trong công tác tái hòa nhập
cộng đồng. Đề tài đã đánh giá thực trạng của công tác tái hòa nhập cộng đồng
cho người chấp hành xong hình phạt tù trên địa bàn với những mặt làm được
và chưa làm được, trên cơ sở đó đưa ra một số nhóm giải pháp cơ bản. Trên
cơ sở đó, để đưa ra một số kiến nghị đề xuất để nâng cao hiệu quả công tác
này.
Nhằm mục đích nghiên cứu các vấn đề lý luận đồng thời phân tích và
đánh giá về thực trạng đang diễn ra trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ
2015-2019 để tìm ra những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế từ đó
đưa ra các giải pháp hoàn thiện về pháp luật cũng như các giải pháp nâng cao
hiệu quả của công tác này trên thực tế. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng kết
quả nghiên cứu của đề tài những giải pháp, kiến nghị, đề xuất nêu trong đề tài
chưa thực sự đầy đủ và toàn diện. Do phạm vi, thời gian nghiên cứu cũng như
trình độ nhận thức của tôi còn hạn chế nên luận văn không thể tránh khỏi
những thiếu sót, hạn chế nhất định. Rất mong nhận được sự giúp đỡ tận tình
của Giảng viên hướng dẫn, sự đóng góp phê bình chân thành của quý Thầy
Cô. Em xin chân thành cảm ơn !
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ban chấp Hành trung ương Đảng, Nghị Quyết hội nghị lần 8 của BCH
trung ương đảng khóa VII.
[2] Quốc hội, Luật thi hành án hình sự 2019, Hà Nội.
[3] Nguyễn Quốc Nhật,Phạm Trung Hòa, Trần Hải Âu,Giáo dục, giúp đỡ,
người tùa tha tái hòa nhập cộng đồng ở Việt Nam, Nxb Công an nhân
dân.
[4] Nguyễn Khắc Hải, Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội, tạp chí
nhân lực khoa học xã hội, chuyên đề số 1, chuyên đề 1, 5/2019.
[5] Vũ Văn Hòa , Tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành
xong án phạt tù theo chức năng của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong
phòng ngừa tội phạm ở Việt Nam, Học Viện cảnh sát nhân dân, 2013.
[6] Dương Thanh Mai, Nguyễn Hữu Duyên, Ngô Văn Thủy, Nguyễn Hoàng
Hà, Nguyễn Văn Hiền, Nguyễn Quang Hưng,Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về tái hòa nhập cộng đồng của công dân sau thời gian cải tạo
giam giữ, tạp chí khoa học pháp lý ( chuyên đề số).
[7] Quốc hội, Hiến pháp 2013, Hà Nội.
[8] V.I.Lenin, Toàn tập, tập 35, Nxb tiện bộ Maxcova.
[9] Võ Khánh Vinh, chính sách pháp luật: khái niệm và các dấu hiệu(tiếp
theo bài số 03(34)/2016, tạp chí nhân lực khoa học xã hội, 11(30)/2016.
[10] Thủ Tướng Chính Phủ, Chỉ thị 33/CT-TTg của thủ tướng chính phủ về
tăng cường biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người
chấp hành xong án phạt tù, 05/12/2018.
[11] Bộ Công an, Bộ Quốc Phòng, Bộ Tài ChínhThông tư liên tịch số
12/2013-TTLT-BCA-BQP-BTC, 02/12/2013.
[12] Chính phủ, Nghị định số 117/2011/NĐ-CP , quy định về tổ chức quản lý
phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt và chăm sóc y tế đối với
phạm nhân, 2011.
[13] Chính Phủ, Nghị định 80/2011/NĐ-CP quy định các biện pháp bảo đảm
tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù,
16/9/2011.
[14] Quốc hội, Bộ luật hình sự 2015, Hà Nội.
[15] Võ Khánh Vinh , Các phương tiện chính sách pháp luật, số 03(34)/2016,
tạp chí nhân lực khoa học xã hội.
[16] Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh, Vị trí, địa lý, điều kiện tự nhiên
của tỉnh Bắc Ninh.
[17] Công an tỉnh Bắc Ninh, Báo cáo thống kê việc làm của người chấp hành
xong án phạt tù trên địa bàn tỉnh, 10/2018.
[18] Chính Phủ,Nghị định số 20/2012/NĐ-CP , Quy định cơ sở dữ liệu về thi
hành án hình sự, 20/3/2012.
[19] Châu Anh, Hỗ trợ việc làm cho người chấp hành xong hình phạt tù, Tạp
chí bảo hiểm xã hội, 10/9/2019.
[20] Trần Hữu Tráng , Chính sách pháp luật về tái hòa nhập cộng đồng, tạp
chí nhân lực khoa học xã hội, chuyên đề số 1 (5/2019).
[21] Quốc hội, Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Hà Nội.
[22] Quốc hội, Bộ luật hình sự 2015, Hà Nội.
[23] Huỳnh Thị Kim Anh, Thi hành án phạt tù có thời hạn- giải pháp nâng
cao hiệu quả thi hành án phạt tù có thời hạn ở Việt Nam, Đại học luật
thành phố Hồ Chí Minh, 2010.
[24] Bộ lao động thương binh và xã hội, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT
ngày hướng dẫn việc thu nhập, quản lý, cung cấp và sử dụng số liệu về
người chưa thành niên vi phạm pháp luật, 2013.
[25] Bộ lao động thương binh và xã hội, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT
hứơng dẫn việc hướng dẫn thi hành các quy định về giảm thời hạn chấp
hành án phạt tù đối với phạm nhân, 2013.
[26] Chính Phủ, Nghị định số 10/2012/NĐ-CP, Quy định việc thi hành biện
pháp giáo dục tại xã, Phường, Thị trấn đối với người chưa thành niên .
[27] Chính phủ, Chiến lược quốc gia phòng tội phạm giai đoạn 2016-2025 và
định hướng đến năm 2030 ban hành kèm theo quyết định 623/QĐ-TTg,
14/4/2016.
[28] Đảng cộng sản Việt Nam, Chỉ thị 48/CT-TW ngày 22/10/2010 về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phòng, chống tội phạm
trong tình hình mới, 2010.
[29] Hồ Sỹ Sơn , Hình phạt tù và vấn đề tái hòa nhập cộng đồng ở Việt Nam
hiện nay, Kỷ yếu hội thảo khoa học Pháp luật và thực tiễn tái hòa nhập
của những người mãn hạn tù ở Việt Nam và Na Uy, Viện Nhà nước và
pháp luật, 2008.
[30] Đỗ Tiến Dũng , Hình phạt tù có thời hạn và công tác tái hòa nhập với
người mãn hạn tù ở nước ta, Luận văn thạc sĩ luật hoc, Khoa luật, Đại
học Quốc gia, 2015.
[31] Võ Khánh Vinh, Cao Kim Oanh, Giáo trình Luật thi hành án hình sự,
Nxb Khoa học xã hội, 2013.
[32] Nguyễn Trí Trung, Tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành án
phạt tù từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Viện khoa học xã hội, 2014.
[33] Báo điện tử chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, Đảm bảo tái hòa nhập
cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù, 2018.
[34] Hệ thống phân tích nghiên cứu Luật Việt, Quy định về việc quản lý, giáo
dục, giúp đỡ người chấp hành xong hình phạt tù tái hòa nhập cộng đồng,
2019.
[35] Hà Phương, RadioCAND, Hà Nam " Giúp đỡ người tái hòa nhập cộng
đồng nhờ các mô hình thiết thực, 28/12/2018.
[36] Tòa án tỉnh Bắc Ninh, Báo cáo thống kê số liệu tái hòa nhập cộng đồng
tại tỉnh Bắc Ninh, 2015-2019.
[37] Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh, Thống kê số liệu đặc xá phạm
nhân tại trại giam Công an tỉnh Bắc Ninh, 2015-2019.
1