BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Y SƠ MI NIÊ KĐĂM
THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
ĐẮK LẮK - NĂM 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Y SƠ MI NIÊ KĐĂM
THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI THỊ THANH THUÝ
ĐẮK LẮK - NĂM 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi
và được sự hướng dẫn khoa học của TS. Bùi Thị Thanh Thúy. Các số liệu sử
dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo đúng quy
định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích một
cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các kết
quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác. Tôi xin
cam đoan và chịu trách nhiệm về nội dung luận văn của mình.
.
HỌC VIÊN
Y Sơ Mi Niê Kđăm
LỜI CẢM ƠN
Em xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, tập thể quý thầy/cô giáo và toàn thể
cán bộ, viên chức đang công tác tại Học viện Hành chính Quốc gia đã giúp đỡ,
tạo điều kiện thuận lợi cho em học tập và nghiên cứu chương trình đào tạo Thạc
sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính trong suốt thời gian qua.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến TS. Bùi Thị Thanh
Thúy, cô đã dành nhiều thời gian và tâm huyết để truyền đạt cho em kinh
nghiệm, phương pháp nghiên cứu khoa học, trình bày một đề tài khoa học và
đã tận tình hướng dẫn, góp ý đề tài với tinh thần và trách nhiệm cao, luôn quan
tâm và tạo điều kiện tốt nhất để em hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ lãnh đạo, anh chị em đồng nghiệp
trong Cơ quan đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho em được nghiên cứu và
hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, anh em bạn bè đã luôn chia sẻ,
động viên và tích cực giúp đỡ, hỗ trợ em trong suốt quá trình học tập.
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp lý của thi hành pháp luật về biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ……..................................... 11
1.1 Khái quát về xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc……..11
1.2. Thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc…………………………………………………………….. 16
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ……………………………..……………………..36
Chương 2. Thực trạng thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk…….…….38
2.1. Đặc điểm tình hình tỉnh Đắk Lắk có ảnh hưởng thi hành pháp luật về biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc……….……38
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk…..….….43
2.3. Đánh giá tình hình pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk ……………..……52
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2…………………………………..………………...65
Chương 3. Phương hướng và giải pháp bảo đảm thi hành pháp luật về biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thị xã Buôn Hồ,
tỉnh Đắk Lắk ………………………………………………………..………66
3.1. Phương hướng bảo đảm thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc - từ thực tiễn tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk
Lắk………………………………………………….…………………….....66
3.2. Các giải pháp bảo đảm thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk……....70
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3…………………………………..………………...82
KẾT LUẬN………………………………………………..………………..83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………….………………….85
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DIỄN GIẢI KÝ HIỆU VIẾT TẮT
Xử lý hành chính XLHC
LĐ-TB&XH Lao động – Thương binh và xã hội
VPHC Vi phạm hành chính
GDTXPTT Giáo dục tại xã phường thị trấn
CNBB Cai nghiện bắt buộc
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Nội dung Tên bảng, biểu Trang
Bảng 2.1 43
Tổng hợp thống kê người nghiện ma túy tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
Bảng 2.2 46
Thống kê thiết lập hồ sơ cai nghiện bắt buộc Công an thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
Bảng 2.3 49
Tiếp nhận điều trị cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện ma túy giai đoan 2018-2020
Bảng 2.4 50
Tiếp nhận điều trị cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện giai đoạn 2020 đến tháng 12 năm 2022
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã và
đang thực hiện đường lối đổi mới và thu được những thành tựu quan trọng trên
nhiều phương diện khác nhau: kinh tế đất nước luôn tăng trưởng ở mức cao và
ổn định, đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện, chính trị ổn định, an
ninh quốc phòng được giữ vững, quan hệ với nước ngoài được mở rộng, an
sinh xã hội được thực hiện ngày một tốt hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
tựu đạt được, dưới tác động của mặt trái kinh tế thị trường, của việc mở cửa hội
nhập và xu hướng toàn cầu hóa đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp trong đời
sống xã hội, trong đó tệ nạn ma túy là một trong những vấn đề nhức nhối đang
được toàn xã hội quan tâm. Ma túy làm gia tăng tội phạm, khánh kiệt kinh tế,
phá hoại hạnh phúc gia đình, suy thoái nòi giống dân tộc, cầu nối cho căn bệnh
thế kỉ HIV/AIDS.
Để giải quyết vấn nạn ma túy, cần có nhiều giải pháp đồng bộ, kịp thời,
hiệu quả, trong đó việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật về phòng, chống ma túy, xử lý vi phạm pháp luật về ma
túy có vai trò đặc biệt quan trọng. Về phương diện xây dựng pháp luật, cùng
với Luật phòng, chống ma túy ngày 30 tháng 3 năm 2021; Luật xử lý vi phạm
hành chính ngày 20 tháng 6 năm 2012; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật xử lý vi phạm hành chính ngày 13 tháng 11 năm 2020 và nghị định số
116/2021/NĐ-CP ngày 21/12/2021 về việc quy định chi tiết một số điều của
luật phòng, chống ma túy, luật xử lý vi phạm hành chính về cai nghiện ma túy
và quản lý sau cai nghiện đã được ban hành, kèm theo các văn bản hướng dẫn
thi hành Luật này, với những quy định về các biện pháp xử phạt VPHC cũng
như biện pháp xử lý hành chính (XLHC) đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã
1
góp phần tích cực vào xác lập những cơ sở pháp lý quan trọng để phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong cuộc đấu tranh phòng, chống ma túy.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy Luật xử lý vi phạm hành chính ngày 20 tháng 6
năm 2012; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành
chính ngày 13 tháng 11 năm 2020 để bảo đảm thực thi hiệu quả việc thi hành
pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với những
người nghiện ma túy tại các văn bản hướng dẫn thi hành, rất nhiều khó khăn,
thách thức đã và đang đặt ra cho các cấp, các ngành ở Trung ương và địa
phương.
Thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk là tỉnh nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên,
trong những năm qua trước tác động của tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy ở
trong nước, khu vực và trên thế giới Thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk đã trở thành
địa bàn trọng điểm phức tạp về ma túy. Nguồn ma túy chủ yếu từ các tỉnh phía
Bắc (Cao Bằng, Nghệ An) và từ phía nam (thành phố Hồ Chí Minh, Bình
Dương, Đồng Nai) qua đường bộ chuyển vào địa bàn để tiêu thụ. Thống kê trên
địa thị xã năm 2018 có 61 người nghiện ma túy ở 12/12 xã, trong đó 09 người
nghiện trong cơ sở cai nghiện ma túy.
Tỉnh Đắk Lắk có 01 cơ sở cai nghiện ma túy công lập (Cơ sở điều trị,
cai nghiện ma túy Đắk Lắk, tiền thân là Trung tâm Giáo dục và giải quyết việc
làm được thành lập từ năm 1992) trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã
hội (LĐ-TB&XH), thực hiện thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Nghị định 116/2021/NĐ-CP (gọi tắt là cai nghiện
bắt buộc) theo Luật xử lý VPHC. Đây là cơ sở có chức năng cai nghiện bắt
buộc đóng góp tích cực cho công tác cai nghiện ma túy trên địa bàn thị xã Buôn
Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
Trong những năm qua, thực hiện công tác cai nghiện bắt buộc đối với
người nghiện ma túy gặp nhiều khó khăn đặt ra, cần các cấp, các ngành của tỉnh
2
Đắk Lắk tổ chức, triển khai thực hiện hoạt động này. Ngoài cai nghiện bắt buộc,
các hình thức cai nghiện khác theo quy định như: cai nghiện ma túy tự nguyện,
điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế. Dự báo trong
thời gian tới, với những diễn biến tình hình phức tạp về tệ nạn ma túy, đặc biệt
là các dạng ma túy tổng hợp có xu hướng tăng đột biến, người nghiện trên cả
nước nói chung và thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk nói riêng sẽ diễn biến phức
tạp hơn nữa.
Xuất phát từ thực tiễn đời sống, nhằm giúp cho hoạt động quản lý nhà
nước về công tác phòng, chống tệ nạn xã hội được hiệu quả cao. Thực hiện
Luật xử lý VPHC, áp dụng việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối
với người nghiện ma túy vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội
hiện nay là hết sức cần thiết.
Việc chọn đề tài: “Thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk” làm đề
tài Luận văn tốt nghiệp là cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối
với thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk, trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vi phạm hành chính (VPHC), xử lý VPHC nói chung và thi hành pháp
luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nói riêng là những
chủ đề được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Đến nay đã có khá nhiều công
trình nghiên cứu về những vấn đề này ở cả góc độ chung, trong các lĩnh vực cụ
thể trên phạm vi cả nước hay ở một địa phương cụ thể, trong đó tiêu biểu:
Các công trình nghiên cứu về XLHC
- Tác giả Vũ Thư với luận án Tiến sĩ luật học về “Chế tài hành chính lý
luận và thực tiễn”, bảo vệ thành công tại Viện Nhà nước và pháp luật, 2006
3
[35].
- Tác giả Nguyễn Trọng Bình với luận văn thạc sĩ luật học về “Hoàn
thiện các quy định pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính”,
bảo vệ thành công tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 2012 [7].
Tác giả Nguyễn Ngọc Bích với luận văn thạc sĩ luật học về “Hoàn thiện pháp
luật về XLHC với người chưa thành niên”, bảo vệ thành công tại Trường Đại
học Luật Hà Nội, 2013 [6].
- Tác giả Dương Thị Bích Hạnh (2014), với luận văn thạc sĩ “Bảo đảm
quyền con người trong quá trình áp dụng các biện pháp xử lý hành chính”, Đại
học quốc gia Hà Nội. Luận văn góp phần cung cấp các kiến thức khoa học cơ
bản mang tính lý luận về quyền con người trong quá trình áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính; hệ thống các văn bản pháp luật quan trọng về bảo đảm
quyền con người trong quá trình áp dụng các biện pháp xử lý hành chính; Nêu
lên thực trạng bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng các biện pháp
xử lý hành chính vẫn còn có những bất cập ở Việt Nam, từ đó nêu ra một số
phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện các biện pháp bảo đảm quyền con
người trong quá trình áp dụng các biện pháp xử lý hành chính [34].
- Tác giả Phạm Tiến Thành (2014), với đề tài luận văn thạc sĩ “Từ biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh đến biện pháp đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc” bảo vệ tại Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Công
trình tập trung nghiên cứu giữa lý luận và thực trạng pháp luật về biện pháp
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trước kia và biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc hiện nay. Luận văn cũng tập trung lý giải những nguyên nhân,
những cơ sở lý luận cho việc chuyển đổi biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh
thành biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Từ đó luận giải cho những
sửa đổi bổ sung này về mặt lý luận. Luận văn cũng phân tích thực trạng của
việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh cho đến trước khi Luật Xử lý
4
VPHC năm 2012 có hiệu lực và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
trong giai đoạn hiện nay. Mục đích của việc này là nhằm luận giải những thay
đổi của các biện pháp này từ vấn đề thực trạng tổ chức và thực hiện [22].
- Nhóm tác giả Cao Vũ Minh, Nguyễn Nhật Khanh (2016), Những bất
cập trong các quy định về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và các
kiến nghị hoàn thiện, Trường Đại học Luật Tp.HCM. Đã đưa ra các bất cập
như: Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 với Luật Cư trú năm 2006 sửa
đổi, bổ sung năm 2013 chưa có sự thống nhất về việc xác định “nơi cư trú ổn
định” của đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
quy định của pháp luật về “nơi thường xuyên sinh sống” để áp dụng biện pháp
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc không rõ ràng, cụ thể,… [42].
Tác giả Nguyễn Hoàng Việt (2019), Hoàn thiện quy định của pháp luật
về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc, đã nghiên cứu và đưa ra các vướng mắc liên quan đến việc triển khai các
quy định của pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở bắt buộc, qua đó đề xuất các
biện pháp: Đối với quy định về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính trước
khi áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và
quy định về việc áp dụng đồng thời biện pháp điều trị nghiện các chất dạng
thuốc phiện bằng thuốc thay thế trong quá trình bị áp dụng biện pháp xử lý
hành chính GDTXPTT; Để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc
phối hợp, chuyển hồ sơ giữa các cơ quan trong trình tự, thủ tục áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đề nghị Chính phủ
theo thẩm quyền hoặc báo cáo Quốc hội xem xét, sửa đổi, bổ sung các quy định
nhằm đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn tối đa các mốc thời gian thực hiện các công
việc liên quan đến trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, người có thẩm
5
quyền áp dụng biện pháp này trên thực tế [41].
Các công trình nghiên cứu trên đây, đã đưa ra một số vấn đề lý luận cũng
như thực tiễn của việc xử phạt VPHC đồng thời cũng đã đề cập đến một số khía
cạnh của các biện pháp XLHC khác như: đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc;
đưa vào trường giáo dưỡng; biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn…
Các công trình cứu về các biện pháp XLHC khác
Trực tiếp đề cập nội dung về các biện pháp XLHC khác có thể kể đến
một số bài viết, chuyên đề và công trình nghiên cứu của một số tác giả như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp “Các biện pháp
XLHC khác và việc bảo đảm quyền con người” do ThS. Đặng Thanh Sơn làm
chủ nhiệm đề tài cũng nhóm nghiên cứu.
- Tác giả Trần Thanh Hương với bài viết “Quyền công dân, quyền con
người và chỗ đứng của các biện pháp XLHC khác trong pháp luật về VPHC”
đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật.
- Tác giả Bùi Thị Xuân Mai, Nguyễn Tố Như (2013), Tham vấn điều trị
nghiện ma túy, NXB Lao đông – Xã hội, Hà Nội 2013.
Các công trình nghiên cứu về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc
Hiện nay, việc nghiên cứu về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc cũng đã được một số tác giả nghiên cứu, tuy nhiên, các công trình đã
công bố mới chỉ dừng lại ở mức độ các bài viết nghiên cứu đăng trên một số
tạp chí chuyên ngành, có thể kể đến một số công trình như:
- Tác giả Lê Văn Khánh với bài viết “Một số khó khăn bất cập trong
thực hiện biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” đăng trong
trang web Cục Phòng, chống tệ nạn xã hội, Bộ LĐ-TB&XH, ngày 06/01/2017.
- Tác giả Lê Đức Hiền với bài viết “Những khó khăn, vướng mắc trong
tổ chức cai nghiện ma túy và một số đề xuất, kiến nghị” đăng trong Tạp chí
6
Nghiên cứu lý luận, nghiệp vụ, khoa học của Học viện Cảnh sát nhân dân, ngày
15/3/2019.
- Tác giả Trần Anh Tuấn với bài viết “Tiếp tục trao đổi về những khó
khăn, vướng mắc khi thực hiện công tác kiểm sát việc thi hành Pháp lệnh
09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về
trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp XLHC tại Tòa án.
Những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức cai nghiện ma túy và một số đề xuất,
kiến nghị” đăng trên Website của Viện Kiểm soát nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh, bài viết đề cập cụ thể đến những vướng mắc phát sinh trong việc thi hành
pháp luật về biện pháp XLHC đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Tòa
án nhân dân trên thực tiễn, ngày 27/09/2018.
- Việc nghiên cứu về pháp luật trong lĩnh vực này còn rất hạn chế. Tất
cả các công trình nghiên cứu trên đây đã phần nào giải quyết được một số khía
cạnh của vấn đề lý luận và thực tiễn về biện pháp đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt
buộc, cũng như biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong giai đoạn
hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề liên quan đến lý luận và
thực trạng thi hành pháp luật về biện pháp áp dụng XLHC đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk, từ đó đề xuất các
giải pháp, bảo đảm thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc trong thời gian tới trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được các mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ phải thực hiện
như sau:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thi hành pháp luật về biện pháp
7
XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc gồm những quan niệm, đặc
điểm, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, các biện pháp …
Đánh giá thực trạng thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân.
Phân tích một số giải pháp bảo đảm thi hành pháp luật về biện pháp
XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk
Lắk.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2018 đến tháng 12 năm 2022.
- Phạm vi nghiên cứu: Tại địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
- Nội dung nghiên cứu: thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc là một vấn đề phức tạp; trong phạm vi nghiên cứu
của luận văn tập trung làm rõ các nội dung: i) Công tác chỉ đạo, thiết lập hồ sơ,
đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đối với người nghiện;
ii) Triển khai hoạt động cai nghiện ma túy; iii)Tổ chức kiểm tra và xử lý vi
phạm khi thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc; iv) Sơ kết, tổng kết báo cáo tình hình thi hành pháp luật về
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
– Lê nin, chủ trương của Đảng và Nhà nước, về thi hành pháp luật về XLHC
8
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu,
phương pháp lịch sử - logic, được sử dụng nhằm lý giải các vấn đề lý luận, giúp
cho mỗi vấn đề được nhìn nhận từ nhiều góc độ, thấy được những điểm hợp lý
và chưa hợp lý của các quan điểm, quan niệm đưa ra trong luận văn, từ đó đưa
ra được kết luận có tính khoa học và nổi bật của vấn đề.
Phương pháp thống kê, phương pháp tổng kết thực tiễn cũng được sử
dụng có hiệu quả để từ những số liệu, tình hình thực tế cụ thể thống kê được có
thể phân tích, tổng kết thấy được bức tranh toàn diện về thực trạng pháp luật và
thực tiễn thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc, đó là cơ sở chính xác nhất cho việc đề xuất các giải pháp hợp lý và khả
thi.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Làm rõ khái niệm, nội dung về thi hành pháp luật về biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. bên cạnh đó tác giả cũng đã hệ
thống khái quát đối với các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thi
hành pháp luật áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc đã được triển khai, qua đó để đánh giá toàn diện, cụ thể, chi tiết có cơ
sở nghiên cứu các tình huống từ thực tiễn góp phần hoàn thiện hệ thống pháp
lý chuyên ngành luật.
Đề tài góp phần làm phong phú thêm những tri thức lý luận liên quan
đến biện pháp XLHC và thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Các kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là nguồn tài liệu tham khảo cho
9
người làm công tác thực tiễn thi hành pháp luật về biện pháp áp dụng XLHC
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Một số kiến nghị, giải pháp của luận văn có
giá trị tham khảo đối với các cơ quan chức năng trong việc xây dựng, hoàn
thiện và tổ chức thực hiện pháp luật đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc, đảm bảo việc tổ chức thực hiện trong thực tiễn đạt kết quả
cao.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của thi hành pháp luật về biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Chương 2: Thực trạng thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm thi hành pháp luật về biện pháp xử
lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk
Lắk.
10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN
PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC
1.1. Khái quát về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc
1.1.1. Khái niệm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc
Chất gây nghiện và sự lệ thuộc vào chất gây nghiện đã trở thành vấn đề
nghiêm trọng, cần giải quyết của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó Việt Nam.
Một mặt chất gây nghiện có thể đem lại lợi ích kinh tế, mặt khác chất gây nghiện
khi lạm dụng sẽ có thể khiến con người bị lệ thuộc vào chúng từ đó mất kiểm soát
nhận thức hành vi, gây tác động tiêu cực tới bản thân, gia đình và xã hội. Nhà
nước có những biện pháp quản lý các chất gây nghiện bất hợp pháp (được luật
pháp quy định là ma túy) và cả hợp pháp (xét trong khuôn khổ pháp luật Việt
Nam), thực hiện các biện pháp can thiệp để ứng phó với những tác động tiêu cực
của chất gây nghiện.
Ma túy và tác hại của ma túy là mầm mống gây ra những hậu quả nguy hại
nghiệm trọng cho xã hội nói chung, bản thân ngườu nghiện ma túy và gia đình họ
nói riêng. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách, đưa ra nhiều biện pháp nhằm ngăn ngừa, phòng, chống ma
túy. Một trong những biện pháp đó là XLHC đưa người nghiện vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc, đây là biện pháp XLHC áp dụng đối với người nghiện ma túy để
chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện
bắt buộc.
Cai nghiện ma túy là quá trình thực hiện các hoạt động hỗ trợ về y tế, tâm
lý, xã hội, giúp người nghiện ma túy dừng sử dụng ma túy, thuốc gây nghiện,
11
thuốc hướng thần, phục hồi thể chất, tinh thần, nâng cao nhận thức, thay đổi hành
vi để chấm dứt việc sử dụng trái phép các chất này.
Cơ sở cai nghiện ma túy là cơ sở được thành lập để thực hiện đầy đủ quy
trình cai nghiện theo quy định Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ
sung năm 2020), bao gồm cơ sở cai nghiện ma túy công lập và cơ sở cai nghiện
ma túy tự nguyện. Tại Điều 28 Luật Phòng chống ma túy 2021 quy định về các
biện pháp cai nghiện ma túy bao gồm: Cai nghiện ma túy tự nguyện; Cai nghiện
ma túy bắt buộc. Biện pháp cai nghiện ma túy tự nguyện được thực hiện tại gia
đình, cộng đồng hoặc tại cơ sở cai nghiện ma túy; biện pháp cai nghiện ma túy
bắt buộc được thực hiện tại cơ sở cai nghiện ma túy công lập.
Biện pháp cai nghiện ma túy tự nguyện được thực hiện tại gia đình, cộng
đồng hoặc tại cơ sở cai nghiện ma túy; biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc được
thực hiện tại cơ sở cai nghiện ma túy công lập.
Luật xử lý VPHC năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), tại khoản 3, Điều
2 quy định: Biện pháp xử lý hành chính là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân
vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm,
bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng;
đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Từ khái niệm trên, có thể xem xét một số đặc điểm như sau:
- Biện pháp xử lý hành chính được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp
luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm
Khác với xử phạt hành chính, chỉ áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành
vi vi phạm quy định trong hệ thống các văn bản pháp luật về quản lý hành chính
thì việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính lại chỉ áp dụng đối với cá nhân
vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm.
Bắt nguồn từ bản bản chất của hoạt động này là nhằm mục đích răn đe, định hướng
hành vi con người và hy vọng có thể uốn nắn, cho họ trở thành người có ích cho
12
xã hội. Giới hạn của biện pháp xử lý hành chính rất hẹp khi áp dụng với những cá
nhân có nhiều lần vi phạm hành vi vi phạm hành chính về an ninh, trật tự. an toàn
xã hội nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính thuộc về cơ quan hành
chính Nhà nước và cơ quan tư pháp
Nếu như, việc áp dụng các hình thức xử phạt thuộc về những người có thẩm
quyền như các bộ, ban ngành quản lý trực tiếp và gián tiếp trong từng hoạt động
cụ thể được Nhà nước trao quyền thì với biện pháp xử lý hành chính chính thuộc
về cơ quan hành chính nhà nước như: Chủ tịch UBND cấp xã, phường, thị trấn
với biện pháp giáo dục thường xuyên tại xã, phường, thị trấn và cơ quan tư pháp
là Tòa án nhân dân đối với biện pháp hạn chế tự do như đưa vào trường giáo
dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Hầu hết, các đối tượng áp dụng những biện pháp này thường chủ yếu là
những người chưa thành niên, đặt dưới sự giám sát của chính quyền địa phương,
chỉ họ mới là người nắm rõ được bối cảnh, nhân thân và các hoạt động của những
đối tượng này và hạn chế ảnh hưởng đến mọi người xung quanh cho nên mới phải
áp dụng các biện pháp hạn chế quyền tự do.
- Đối tượng áp dụng chỉ với cá nhân là công dân Việt Nam.
Khác với biện pháp xử phạt áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành
chính trong các lĩnh vực khác nhau của quản lý hành chính nhà nước thì đặc trưng
của hoạt động này là chỉ áp dụng với cá nhân trong nước và không áp dụng đối
với người nước ngoài.
Các biện pháp xử lý hành chính bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc về cơ bản chỉ có thể áp dụng được với người Việt Nam.
Bởi vì đối với người nước ngoài, họ là chủ thể đặc biệt, là người có quốc tịch của
một quốc gia khác đang lao động, học tập, công tác, sinh sống trên lãnh thổ nước
13
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Họ có tư cách pháp lý và được Việt Nam
bảo hộ quyền, đồng thời với các hành vi của họ sẽ có đại sứ quán của nước họ
mang quốc tịch quản lý. Tránh ảnh hưởng đến quyền của cá nhân nước ngoài tại
Việt Nam và ảnh hưởng quan hệ ngoại giao thì biện pháp này chỉ được áp dụng
với công dân Việt Nam.
Bên cạnh đó, về hậu quả pháp lý, việc tiến hành áp dụng các biện pháp xử
lý hành chính căn cứ vào nhân thân và quá trình vi phạm của cá nhân đó. Do mục
đích chính là giáo dục và phòng ngừa xảy ra hành vi vi phạm tiếp theo. Hậu quả
pháp lý đối với biện pháp này là mang tính giáo dục là chính thì chung quy lại đều
mang tính hạn chế tự do của người vi phạm.
Từ khái niệm chung về biện pháp xử lý hành chính, theo quy định Luật Xử
lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi bổ sung năm 2020) và Luật Phòng chống ma
tuy: Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp XLHC được áp
dụng đối với người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên bị áp dụng biện pháp xử
lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định của Luật Xử lý vi
phạm hành chính khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: 1. Không đăng ký,
không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy tự nguyện; 2. Trong thời
gian cai nghiện ma túy tự nguyện bị phát hiện sử dụng trái phép chất ma túy; 3.
Người nghiện ma túy các chất dạng thuốc phiện không đăng ký, không thực hiện
hoặc tự ý chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế
hoặc bị chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế
do vi phạm quy định về điều trị nghiện; 4. Trong thời gian quản lý sau cai nghiện
ma túy mà tái nghiện.
1.1.2. Vai trò biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc
Tác hại của ma túy là vô cùng nguy hiểm, nó hủy hoại không chỉ cá nhân
những người nghiện mà còn phá hủy tất cả những gì ở nơi nó xuất hiện và tồn tại.
14
Càng gần ma túy thì càng xa cuộc đời, đến với ma túy là đến với sự hủy
diệt...Người nghiện sẽ mất dần sự nhận thức sáng suốt, có thể hủy hoại mọi thứ
chỉ để đáp ứng nhu cầu sử dụng ma túy, không còn cảm nhận được mọi hậu quả….
Do đó, công tác phòng, chống ma túy không chỉ là trách nhiệm của riêng một cá
nhân hay một cơ quan nào, mà cần có một phong trào quần chúng rộng khắp và
phải có tính xã hội cao. Nhằm phòng, chống và kiểm soát ma túy, góp phần kiềm
chế nạn ma túy trong đời sống; tạo môi trường lành mạnh, phục vụ phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm an ninh, trật tự và an toàn xã hội.
Việc áp dụng đối biện pháp XLHC đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc đối với những đối tượng này là cần thiết để ngăn chặn họ tái phạm và
tiếp tục đi vào con đường lầm lạc. Mục đích phòng ngừa ở đây bao gồm cả phòng
ngừa chung và phòng ngừa riêng, chú ý loại trừ những nguyên nhân thực hiện
hành vi trái pháp luật và tạo điều kiện cho người bị áp dụng tái hòa nhập cộng
đồng. Khả năng phòng ngừa chung của biện pháp XLHC đưa người nghiện vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc có mục đích nhằm răn đe, cảnh báo và ngăn ngừa sự vi
phạm của các đối tượng khác trong xã hội, khi đang có dấu hiệu vi phạm pháp
luật.
Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp XLHC đưa người nghiện vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc còn có vai trò to lớn trong việc đảm bảo an ninh trật tự, an toàn
xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức;
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, khôi phục trật tự quản lý hành chính nhà
nước, trật tự pháp luật.
1.2. Thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc
1.2.1. Khái niệm thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
15
Dựa vào cơ sở khoa học cũng như xét từ trong thực tiễn pháp luật tại Việt
Nam, khái niệm thi hành pháp luật được giải thích với nhiều nghĩa khác nhau.
Trong các văn bản pháp lý có thể xem xét, Hiến pháp năm 1946, khi quy
định về thẩm quyền của Chính phủ và cơ quan hành chính ở địa phương đã quy
định Chính phủ có quyền “thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện”
(Điều 52). Điều thứ 59 Hiến pháp năm 1946 quy định Ủy ban hành chính có trách
nhiệm “thi hành các mệnh lệnh của cấp trên”. Trong Hiến pháp năm 1959, Điều
50 có quy định Quốc hội có quyền “giám sát việc thi hành Hiến pháp”, Điều 73
quy định Hội đồng Chính phủ có quyền “kiểm tra việc thi hành những nghị định”,
Điều 74 quy định Hội đồng Chính phủ có quyền “đình chỉ việc thi hành những
nghị quyết không thích đáng của Hội đồng nhân dân tỉnh”, Điều 75 có sử dụng
cụm từ “thi hành pháp luật”. Hiến pháp năm 1980 có nhắc tới nội dung toàn thể
nhân dân Việt Nam “ra sức thi hành Hiến pháp”. Điều 98 Hiến pháp năm 1980
quy định Hội đồng nhà nước “giám sát việc thi hành Hiến pháp, các luật, pháp
lệnh”. Điều 107 Hiến pháp năm 1980 quy định Hội đồng Bộ trưởng có nhiệm vụ
“bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật”. Điều 112 (Khoản 2) Hiến pháp
năm 1992 quy định Chính phủ có trách nhiệm “bảo đảm việc thi hành Hiến pháp
và pháp luật”. Thêm vào đó, “thi hành pháp luật” cũng không phải chỉ là hành vi
của cơ quan công quyền mà còn là hành vi của người dân, doanh nghiệp bởi lẽ
Điều 9 Hiến pháp năm 1992 có quy định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… động
viên nhân dân… nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật” [trích dẫn Tài
liệu bồi dưỡng quản lý nhà nước ngạch chuyên viên chính năm 2022].
Từ sự phân tích trên, thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là việc các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm
quyền thực hiện theo trình tự thủ tục áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc đối
với đối tượng thuộc nhóm người nghiện ma túy theo các quy định của pháp luật.
Từ khái niệm trên có thể xem xét một số đặc điểm như sau:
16
Một là, chủ thể thi hành pháp luật về biện pháp đưa người nghiện vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc là cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành bằng biện
pháp cưỡng chế hành chính nhà nước. Nó có tính pháp lý, bởi vì biện pháp này
được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước, Luật,
Nghị định của Chính phủ… Biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc cũng do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng theo quy định của pháp luật.
Hai là, thi hành pháp luật về biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc chỉ áp dụng đối với công dân Việt Nam, được xác định là bị
nghiện và có những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Đối chiếu với Điều 32
Luật Phòng, chống ma túy năm 2021, đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên thuộc một trong
các trường hợp sau đây: i) Không đăng ký, không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt
cai nghiện ma túy tự nguyện; ii) Trong thời gian cai nghiện ma túy tự nguyện bị
phát hiện sử dụng trái phép chất ma túy; iii) Người nghiện ma túy các chất dạng
thuốc phiện không đăng ký, không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt điều trị nghiện
các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế hoặc bị chấm dứt điều trị nghiện
các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế do vi phạm quy định về điều trị
nghiện; iv) Trong thời gian quản lý sau cai nghiện ma túy mà tái nghiện.
Như vậy, theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy năm 2021 về đối
tượng thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc không căn cứ vào yếu tố có nơi cư trú ổn định hay không có nơi cư trú
ổn định để áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Việc không căn
cứ vào “có nơi cư trú ổn định” hay không để áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc sẽ khắc phục tình trạng xung đột về thẩm quyền, đồng thời hạn
chế tình trạng đùn đẩy trách nhiệm.
Khoản 2 Điều 118 Luật Xử lý VPHC quy định: “Trường hợp người thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bắt
17
buộc vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trường hợp người nghiện ma túy thuộc
loại “côn đồ hung hãn” thì áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.
Cơ sở giáo dục bắt buộc thực hiện việc cai nghiện cho đối tượng này”.
Đối với trường hợp người nước ngoài có hành vi nghiện ma túy mà bị cơ
quan chức năng phát hiện tại lãnh thổ Việt Nam thì tùy theo mức độ vi phạm có
thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Ba là, việc thi hành pháp luật về biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc được áp dụng theo những trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định
và đối tượng bị áp dụng phải chịu sự quản lý và hạn chế một số quyền tự do cá
nhân nhất định. Với nội dung hạn chế một số quyền tự do của con người khi áp
dụng các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nên các văn
bản hướng dẫn, thi hành đã quy định tương đối chặt chẽ trình tự, thủ tục thi hành
pháp luật về biện pháp này.
1.2.2. Vai trò của thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Người nghiện ma túy không chỉ gây tác động lớn đến bản thân người
nghiện, mà còn vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Nhà nước thi
hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhằm quản
lý người nghiện để ngăn ngừa những vi phạm gây tác động xấu đến an ninh, trật
tự, an toàn xã hội:
Thứ nhất, thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc góp phần quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống ma túy. Đây
là biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh có hiệu quả với tệ nạn ma túy,
gây hiểm họa lớn cho toàn xã hội, gây tác hại cho sức khỏe, làm suy thoái nòi
18
giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia.
Biện pháp này thực hiện đối với người sử dụng chất ma túy, thuốc gây
nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào các chất này dẫn đến tình trạng nghiện
ma túy. Tệ nạn ma túy theo quy định vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, tội phạm hình sự liên quan đến tàng trữ, mua bán, phân phối, sử dụng,
nhập khẩu, xuất khẩu … và các hành vi trái phép khác gây nguy hiểm cho xã hội.
Thứ hai, thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc góp phần quan trọng vào việc giúp người cai nghiện cải thiện tình trạng
nghiện, cải thiện tình trạng sức khỏe, giáo dục ý thức đạo đức, giáo dục ý thức
tuân thủ pháp luật, tạo điều kiện giúp cho người nghiện có thể tái hòa nhập với
đời sống chung của cộng đồng.
Người nghiện ma túy là người bệnh “đặc biệt” bị biến đổi tâm sinh lý, mất
kiểm soát nhận thức, hành vi, gây tác động tiêu cực tới bản thân, gia đình dễ phát
sinh lây truyền các bệnh truyền nhiễm như HIV/AIDS cần chữa bệnh, giáo dục,
cải tạo lại tư tưởng và cần có biện pháp quản lý Nhà nước nhằm ổn định tình hình
an ninh, trật tự xã hội. Vì vậy, việc thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc góp phần quan trọng đối với việc cải thiện tình trạng
nghiện của người nghiện ma túy.
Thứ ba, thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc góp phần vào việc bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước
trong lĩnh vực an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Chất gây nghiện có thể đem lại lợi ích chung về kinh tế, có tác dụng khác
nhau để sử dụng vì mục đích y học vì vậy Nhà nước cần có biện pháp quản lý một
cách chặt chẽ các chất gây nghiện bất hợp pháp (ma túy), xét trong khuôn khổ
pháp luật Việt Nam. Thực hiện các biện pháp can thiệp để ứng phó với những tác
19
động tiêu cực của chất gây nghiện bởi tác hại rất lớn của các chất này đối với mọi
lứa tuổi trong cộng đồng xã hội.
Nhà nước trao quyền thực hiện thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đối
với người nghiện ma túy là thực hiện quyền lực của mình trong quản lý, kiểm tra,
kiểm soát hoạt động bất hợp pháp sử dụng các chất ma túy dẫn đến tình trạng
nghiện của các cá nhân làm phát sinh vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an
toàn xã hội mà không phải là tội phạm. Thông qua biện pháp XLHC đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc, thực hiện chức năng giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã
hội trong quy định pháp luật XLVPHC và điều chỉnh hành vi của người nghiện
ma túy vào trật tự pháp lý đó.
Biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc giúp cơ quan quản lý
Nhà nước trong việc củng cố và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thực thi
pháp luật. Chủ thể được pháp luật quy định mới có thể tiến hành thi hành pháp
luật về biện pháp xử lý này đảm bảo công bằng, minh bạch, xây dựng ý thức tự
giác chấp hành pháp luật về cai nghiện ma túy đối với người nghiện, nâng cao
tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện thi hành pháp luật
về biện pháp XLHC này.
1.2.3. Nội dung thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Nội dung thi hành pháp luật nói chung và thi hành pháp luật về biện pháp
xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc sẽ trả lời câu hỏi các chủ thể
có thẩm quyền thi hành pháp luật sẽ làm gì? Có nhiều cách tiếp cận khác nhau,
trong phạm vi nghiên cứu luận văn triển khai bao gồm những nội dung sau:
- Công tác chỉ đạo, thiết lập hồ sơ, đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp
xử lý hành chính đối với người nghiện;
- Triển khai hoạt động cai nghiện ma túy;
20
- Tổ chức kiểm tra và xử lý vi phạm khi thi hành pháp luật về biện pháp xử
lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
- Sơ kết, tổng kết báo cáo tình hình thi hành pháp luật về biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Việc triển khai những nội dung trên tiếp cận dưới góc độ chuỗi trình tự, thủ
tục (quy trình) các hoạt động cơ bản do các cơ quan nhà nước và người có thẩm
quyền tiến hành biện pháp xử lý hành chính đối với người nghiện ma tuý.
1.2.4. Đối tượng bị áp dụng, thẩm quyền, trình tự thủ tục
1.2.4.1. Đối tượng bị áp dụng
Theo khoản 1 Điều 96 Luật XLVPHC (sửa đổi bổ sung năm 2020); Điều
32 Luật Phòng chống ma túy, đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên bị
áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy
định của Luật Xử lý vi phạm hành chính khi thuộc một trong các trường hợp sau
đây:
- Không đăng ký, không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy tự
nguyện;
- Trong thời gian cai nghiện ma túy tự nguyện bị phát hiện sử dụng trái
phép chất ma túy;
- Người nghiện ma túy các chất dạng thuốc phiện không đăng ký, không
thực hiện hoặc tự ý chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc
thay thế hoặc bị chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc
thay thế do vi phạm quy định về điều trị nghiện;
- Trong thời gian quản lý sau cai nghiện ma túy mà tái nghiện.
Đối tượng áp dụng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mở rộng hơn rất nhiều
so với trước.
21
Căn cứ Điều 96 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ sung năm
2020) Không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với các
trường hợp sau đây:
+ Người không có năng lực trách nhiệm hành chính;
+ Người đang mang thai có chứng nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
từ tuyến huyện trở lên;
+ Phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được
Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.
1.2.4.2. Thẩm quyền quyết định thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
đối với người nghiện ma túy quy định tại Điều 96 của Luật XLVPHC (sửa đổi bổ
sung năm 2020) như sau:
- Đối với người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định thì Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc; đối với người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn
định thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó có hành vi vi phạm pháp
luật lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; Công
an cấp xã có trách nhiệm giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp thu thập các
tài liệu và lập hồ sơ đề nghị quy định.
- Trường hợp người nghiện ma túy do cơ quan Công an cấp huyện hoặc cơ
quan Công an cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, điều tra, thụ lý trong các vụ vi phạm
pháp luật mà thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc quy định tại Điều
96 của Luật XLVPHC thì cơ quan Công an đang thụ lý vụ việc tiến hành xác
minh, thu thập tài liệu và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc đối với người đó;
Cơ quan lập hồ sơ đề nghị quy định phải chịu trách nhiệm về tính pháp lý
22
của hồ sơ đề nghị. Như vậy, Luật không còn quy định Trưởng phòng Tư pháp cấp
huyện có trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nữa.
Đây là bước tiến mới trong việc đưa người nghiện ma túy vào cơ sở vai
nghiện bắt buộc.
Để Tòa án nhân dân cấp huyện có đủ căn cứ, cơ sở để ra quyết định thi hành
pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, pháp luật hiện hành
quy định, chi tiết thẩm quyền của các chủ thể có liên quan trong việc lập hồ sơ đề
nghị thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và
xem xét, quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện quyết
định thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
1.2.4.3. Hoạt động phối hợp giữa các cơ quan trong việc thi hành pháp luật
về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành các biểu mẫu về lập hồ sơ
đề nghị và thi hành quyết định thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc để thống nhất thực hiện.
Ngoài ra còn thực hiện xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy
hoạch mạng lưới các cơ sở cai nghiện bắt buộc. Chủ trì, phối hợp với Bộ Xây
dựng ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế kỹ thuật về
xây dựng đối với các cơ sở cai nghiện bắt buộc; phối hợp với Bộ Nội vụ hướng
dẫn chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, chức danh tiêu chuẩn cán bộ cơ sở cai
nghiện bắt buộc và trách nhiệm, quyền hạn của Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt
buộc; phối hợp với Bộ Y tế xây dựng tài liệu và tổ chức, hướng dẫn chuyên môn,
nghiệp vụ về cai nghiện phục hồi tại cơ sở cai nghiện bắt buộc; phối hợp với Bộ
Tài chính quy định chế độ tài chính cho việc thi hành pháp luật về biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng
chương trình học tập, giảng dạy xóa mù chữ cho người bị đưa vào cơ sở cai nghiện
23
bắt buộc. Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực cai nghiện ma túy.
Bộ Y tế có trách nhiệm ban hành tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện ma túy; chủ
trì, phối hợp Bộ Công an hướng dẫn trình tự, thủ tục xác định tình trạng nghiện
ma túy. Nghiên cứu các bài thuốc và phương pháp cai nghiện cho người nghiện
ma túy. Chỉ đạo tổ chức tập huấn cho cán bộ y tế các địa phương về xác định tình
trạng nghiện ma túy, điều trị hỗ trợ cắt cơn nghiện ma túy. Chủ trì, phối hợp với
Bộ LĐ-TB&XH hướng dẫn, chỉ đạo, quản lý các hoạt động y tế trong cơ sở cai
nghiện bắt buộc.
Bộ Y tế hướng dẫn việc tập huấn và cấp chứng chỉ đang làm việc tại: Các
cơ sở y tế quân dân y; các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của ngành công an; phòng
y tế của cơ sở cai nghiện bắt buộc; phòng y tế của các cơ sở có chức năng tiếp
nhận, quản lý người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định, trong thời gian
lập hồ sơ để Tòa án nhân dân xem xét quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc; trạm y tế xã, phường, thị trấn; phòng khám đa khoa khu vực; bệnh viện cấp
huyện trở lên và bệnh viện thuộc các bộ, ngành khác.
Bộ Công an hướng dẫn, chỉ đạo cơ quan Công an các cấp trong việc thu
thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc đối với đối tượng bị áp dụng. Thực hiện tổ chức đưa người đã có
quyết định vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; truy tìm đối tượng bỏ trốn; đảm bảo an
ninh trật tự của các cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 05/2018/TT-BCA ngày 07/2/2017 về
quy định việc thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp
XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngoài ra, trong lĩnh vực này thủ tục
XLHC thi hành pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Viện kiểm sát và Tòa án nhân tối cao chỉ đạo thực hiện Pháp lệnh
01/2022/UBTVQH15 quy định trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các
biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Tòa án nhân dân cấp thẩm
24
quyền; trình tự, thủ tục xem xét, quyết định việc hoãn, miễn chấp hành, giảm thời
hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp XLHC;
khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị; giải quyết khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị trong
việc thi hành pháp luật về biện pháp XLHC nói chung và biện pháp XLHC đưa
vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc nói riêng.
Ngoài ra, còn có các bộ, ngành liên quan, UBND các cấp theo chức năng
nhiệm vụ được phân công, phối hợp chỉ đạo, thực hiện biện pháp XLHC đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc này.
1.2.4.4. Trình tự thủ tục thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Khi phát hiện người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, cơ quan có
thẩm quyền tiến hành lập biên bản; đồng thời tiến hành kiểm tra xét nghiệm chất
ma túy; nếu có kết quả dương tính với ma túy heroin; cơ quan Công an gửi Giấy
đề nghị xác định tình trạng nghiện; Bản tóm tắt lý lịch người được đề nghị xác
định tình trạng nghiện cho Trạm y tế hoặc Trung tâm y tế có thẩm quyền. Cơ sở
y tế lập hồ sơ theo dõi, thực hiện ghi các phiếu theo dõi, căn cứ kết quả theo dõi
ra Phiếu kết quả xác định tình trạng nghiện và gửi cho cơ quan đã ra văn yêu cầu.
Sau khi có phiếu kết quả xác định tình trạng nghiện, chia làm các trường hợp sau:
- Đối với trường hợp chưa đăng ký cai nghiện tự nguyện thì Cơ quan có thẩm
quyền lập hồ sơ ra văn bản thông báo về kết quả xác định tình trạng nghiện, trong
đó nêu rõ: Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày được thông báo là nghiện
ma túy, người được thông báo phải đăng ký cai nghiện tự nguyện hoặc đăng ký
điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế theo quy định của
pháp luật và lập biên bản giao thông báo cho người được thông báo. Khi hết thời
hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày được thông báo mà người được thông báo đăng
ký cai nghiện tự nguyện và không đăng ký điều trị nghiện các chất dạng thuốc
phiện bằng thuốc thay thế theo quy định của pháp luật; căn cứ nội dung làm việc,
25
biên bản xác minh, cơ quan có thẩm quyền lập biên bản vi phạm về đăng ký cai
nghiện tự nguyện (Mẫu số 27 - Nghị định số 116/NĐ-CP).
- Trong trường hợp đã tiến hành đăng ký cai nghiện tự nguyện hoặc đăng
ký điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, nhưng trong
thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày có quyết định cai nghiện tự nguyện, quyết
định điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế của cơ quan
có thẩm quyền mà không thực hiện cai nghiện, điều trị theo đăng ký (Trường hợp
do sự kiện bất khả kháng không thể thực hiện đúng thời hạn trên thì thời hạn được
tính lại kể từ thời điểm sự kiện bất khả kháng chấm dứt theo quyết định của cơ
quan có thẩm quyền) thì lập biên bản vi phạm hành chính về việc không thực hiện
cai nghiện tự nguyện hoặc không thực hiện điều trị nghiện các chất dạng thuốc
phiện bằng thuốc thay thế.
- Trong trường hợp đã tiến hành đăng ký cai nghiện tự nguyện hoặc đăng
ký điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế và đã thực hiện
nhưng đang trong thời gian cai nghiện tự nguyện, thời gian điều trị nghiện các
chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế mà không tuân thủ các quy định chuyên
môn về cai nghiện ma túy; tự ý rời khỏi cơ sở cai nghiện từ 05 ngày làm việc trở
lên, không đến điều trị tại cơ sở điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng
thuốc thay thế từ 05 ngày làm việc trở lên hoặc không chấp hành 10 liệu trình điều
trị liên tục mà không có lý do thì lập biên bản vi phạm về việc tự ý chấm dứt cai
nghiện ma túy, chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc
thay thế.
- Đối với trường hợp đang trong thời hạn quản lý sau cai nghiện thì lập biên
bản vi phạm hành chính về quản lý sau cai nghiện ma túy.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày phát hiện người nghiện ma túy
thuộc đối tượng quy định tại Điều 32 Luật phòng chống ma túy, cơ quan có thẩm
quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo
26
quy định tại Điều 103 Luật xử lý vi phạm hành chính (được sửa đổi, bổ sung năm
2020).
Sau khi hoàn thành việc lập hồ sơ đề nghị, cơ quan lập hồ sơ phải thông
báo bằng văn bản cho người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc hoặc người đại diện hợp pháp của họ về việc lập hồ sơ. Những người
này có quyền đọc hồ sơ và ghi chép các nội dung cần thiết trong thời hạn 03 ngày
làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo.
Trong thời hạn 01 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn đọc hồ sơ, Công
an cấp tỉnh gửi hồ sơ cho Trưởng phòng Phòng Lao động - Thương binh và Xã
hội cấp huyện nơi người bị đề nghị áp dụng biện pháp có hành vi vi phạm; Công
an cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã gửi hồ sơ cho Trưởng phòng
Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện. Trong thời hạn 02 ngày làm
việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Trưởng phòng Phòng Lao động - Thương binh
và Xã hội cấp huyện quyết định chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện
áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trường hợp hồ sơ chưa đầy
đủ thì Trưởng phòng Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện chuyển
lại cơ quan đã lập hồ sơ để bổ sung hồ sơ; thời hạn bổ sung là 02 ngày làm việc,
kể từ ngày nhận lại hồ sơ. Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được
hồ sơ bổ sung, Trưởng phòng Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện
quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.”.
* Tòa án xem xét, giải quyết
- Trong thời hạn 01 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ Tòa án thụ lý và
phân công Thẩm phán xem xét, giải quyết;
- Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý, Tòa án ban hành
Thông báo thụ lý bằng văn bản cho cơ quan đề nghị, Viện kiểm sát nhân dân cùng
cấp, người bị đề nghị hoặc người đại diện hợp pháp của người bị đề nghị;
27
- Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán
ra quyết định yêu cầu bổ sung tài liệu chứng cứ (trong thời hạn 02 ngày làm việc)
hoặc đình chỉ, tạm đình chỉ hoặc mở phiên họp (trong thời hạn 07 ngày làm việc);
- Trường hợp phải hoãn phiên họp không quá 05 ngày làm việc, có Thông
báo bằng văn bản gửi cho cơ quan đề nghị, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp,
người bị đề nghị hoặc người đại diện hợp pháp của người bị đề nghị;
- Quyết định của Tòa án được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và người
được quy định tại Điều 107 của Luật xử lý vi phạm hành chính trong thời hạn 02
ngày làm việc kể từ ngày công bố quyết định.
Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày quyết định áp dụng biện pháp xử lý
hành chính có hiệu lực, Tòa án nhân dân đã ra quyết định phải gửi quyết định cho
người bị áp dụng, cơ quan đã gửi hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành
chính hoặc cơ quan Công an cùng cấp trong trường hợp Công an cấp tỉnh lập hồ
sơ đề nghị, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú và các cơ quan hữu quan
để thi hành theo quy định của pháp luật.
* Các tài liệu trong hồ sơ
Theo điểm d khoản 3 Điều 103 Luật xử lý vi phạm hành chính (được sửa
đổi, bổ sung năm 2020), và các văn bản hướng dẫn thi hành có thể nói hồ sơ đề
nghị gồm có các tài liệu cơ bản như sau:
- Bản tóm tắt lý lịch của người bị đề nghị, tài liệu thể hiện về nhân thân của
người bị đề nghị: Lý lịch cá nhân, Giấy xác nhận thông tin nơi cư trú, căn cước
công dân, sổ hộ khẩu...; Phiếu tra cứu tiền án tiền sự, trường hợp người bị đề nghị
có tiền án, tiền sự cần phải xác minh làm rõ và thu thập đầy đủ: Quyết định xử lý
vi phạm hành chính hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính, giấy chứng nhận
chấp hành xong; bản án, Quyết định của Tòa án, giấy chứng nhận chấp hành xong
phần hình phạt và phần dân sự (nếu có)...các tài liệu chứng minh về việc chấp
hành án, thực hiện các nghĩa vụ dân sự.
28
- Tài liệu chứng minh tình trạng nghiện ma túy hiện tại của người bị đề
nghị: Biên bản sự việc; Biên bản xét nghiệm chất ma túy; hình ảnh kết quả xét
nghiệm, Giấy đề nghị xác định tình trạng nghiện; bản tóm tắt lý lịch người được
đề nghị xác định tình trạng nghiện; hồ sơ theo dõi của cơ sở y tế lập: Phiếu tổng
hợp theo dõi để xác định tình trạng nghiện ma túy (phụ lục số 03, 04) và Phiếu
kết quả xác định tình trạng nghiện; Giấy chứng nhận đã tham gia và hoàn thành
khóa tập huấn “chẩn đoán và hỗ trợ điều trị cai nghiện ma túy và các chất dạng
thuốc phiện và ma túy tổng hợp dạng AMPHETAMINE”;...
- Biên bản vi phạm và các tài liệu xác định hành vi vi phạm:
Đối với trường hợp không đăng ký cai nghiện tự nguyện hoặc không đăng
ký điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế: Thông báo về
kết quả xác định tình trạng nghiện, biên bản giao, Biên bản làm việc với người
nghiện, biên bản xác minh tại cơ sở y tế; biên bản vi phạm ...
Đối với trường hợp không thực hiện cai nghiện tự nguyện hoặc không thực
hiện điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế: Quyết định
cai nghiện tự nguyện, quyết định điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng
thuốc thay thế của cơ quan có thẩm quyền; tài liệu thể hiện quá trình điều trị, tài
liệu thể hiện không thực hiện cai nghiện, điều trị theo đăng ký...
Đối với trường hợp tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy, chấm dứt điều trị
nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế: Quyết định cai nghiện tự
nguyện, quyết định điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế
của cơ quan có thẩm quyền; tài liệu thể hiện quá trình điều trị, tài liệu thể hiện
không tuân thủ các quy định chuyên môn về cai nghiện ma túy; tự ý rời khỏi cơ
sở cai nghiện từ 05 ngày làm việc trở lên, không đến điều trị tại cơ sở điều trị
nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế từ 05 ngày làm việc trở lên
hoặc không chấp hành 10 liệu trình điều trị liên tục mà không có lý do.
29
Đối với trường hợp trong thời gian cai nghiện ma túy tự nguyện bị phát
hiện sử dụng trái phép chất ma túy: Quyết định cai nghiện tự nguyện, quyết định
điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế của cơ quan có thẩm
quyền;
Đối với trường hợp bị chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện
bằng thuốc thay thế do vi phạm quy định về điều trị nghiện; Quyết định điều trị
nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế của cơ quan có thẩm quyền;
tài liệu thể hiện quá trình điều trị, tài liệu thể hiện vi phạm quy định về điều trị
nghiện; quyết định chấm dứt điều trị nghiện.
Đối với trường hợp tái nghiện: Quyết định quản lý sau cai nghiện.
- Bản tường trình của người nghiện ma túy và các tài liệu khác có liên quan;
+ Bản tường trình của người bị đề nghị hoặc Biên bản lấy lời khai của người
bị đề nghị;
+ Bản xác nhận về việc quản lý người nghiện ma túy trong thời gian lập hồ
sơ; quyết định về việc quản lý người nghiện ma túy trong thời gian lập hồ sơ;
+ Thông báo về việc lập hồ sơ bằng văn bản và biên bản giao nhận Thông
báo đối với người bị đề nghị; Biên bản về việc không đến đọc hồ sơ (hoặc đọc hồ
sơ).
+ Biên bản họp xét của cơ quan đề nghị.
+ Văn bản đề nghị gửi Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội cấp huyện
nơi người bị đề nghị có hành vi vi phạm.
Công an cấp tỉnh gửi văn bản đề nghị kèm hồ sơ cho Trưởng phòng Lao
động - Thương binh và Xã hội cấp huyện nơi người bị đề nghị áp dụng biện pháp
có hành vi vi phạm; Công an cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã gửi văn
bản đề nghị kèm hồ sơ cho Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cấp
huyện nơi lập hồ sơ đề nghị.
30
Hồ sơ đề nghị phải đánh bút lục và lập thành hai bản, bản gốc gửi Trưởng
phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện, bản sao lưu tại cơ quan lập
hồ sơ theo quy định của pháp luật về lưu trữ
+ Văn bản đề nghị của Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội cấp huyện;
văn bản yêu cầu bổ sung tài liệu và tài liệu (nếu có).
- Các tài liệu trong giai đoạn Tòa án xem xét: Thông báo thụ lý, Thông báo
bổ sung tài liệu và tài liệu bổ sung (nếu có); Quyết định mở phiên họp, Thông báo
hoãn phiên họp (nếu có); Quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp xử
lý hành chính; các biên bản tống đạt.
1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Thứ nhất, mức độ hoàn thiện của pháp luật liên quan đến việc thi hành pháp
luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cai nghiện bắt buộc.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và pháp luật về biện pháp xử lý
VPHC là công cụ quan trọng để bảo đảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng
chống VPHC, bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước. Để thực hiện được mục đích đó,
có nhiều yếu tố chi phối, nhưng yếu tố chất lượng pháp luật về biện pháp xử lý
VPHC là yếu tố đầu tiên, quan trọng nhất, tạo cơ sở pháp lý cho toàn bộ quá trình
thi hành pháp luật về biện pháp XLHC, trong đó có lĩnh vực biện pháp XLHC đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Nếu các quy định pháp luật về thi hành pháp luật
về biện pháp XLVPHC ngày càng hoàn thiện thì việc thi hành pháp luật về biện
pháp XLHC nói chung và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nói riêng sẽ đạt hiệu
quả cao, góp phần giảm thiểu số vụ VPHC về an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Với
sự nỗ lực và cố gắng của các cấp, các ngành, công tác xây dựng pháp luật về biện
pháp XLHC đối với người nghiện ma túy đã có những chuyển biến tích cực, góp
31
phần xây dựng ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của cán bộ
và nhân dân, đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về XLVPHC nói
chung, thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
nói riêng là biện pháp quan trọng mang tính cơ sở nhằm tạo ra hành lang pháp lý
cho hoạt động XLHC. Theo đó, các cơ quan có thẩm quyền XLVPHC, thi hành
pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có căn cứ pháp
lý vững chắc để thực thi nhiệm vụ của mình.
Hệ thống pháp luật về xử lý VPHC nói chung, thi hành pháp luật về biện
pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nói riêng hiện nay đã dần đảm bảo
tính đồng bộ và tương đối toàn diện. Việc thực hiện đưa người nghiện đi cai
nghiện bắt buộc là một trong những chính sách được ưu tiên trong việc đẩy lùi tệ
nạn ma túy ngoài cộng đồng, đảm bảo trật tự trị an xã hội. Nên cần thiết phải có
những chính sách, pháp luật quy định cụ thể, chặt chẽ kèm theo những văn bản
hướng dẫn rõ ràng, phù hợp với điều kiện phát triển của địa phương cũng như tình
hình người nghiện ở địa phương đó. Như vậy mới đảm bảo thực hiện tốt việc đưa
người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Thứ hai, yếu tố kinh tế xã hội của địa phương.
Yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn đến VPHC, cũng như công tác thi hành
pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Sự phát triển
của nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập với các nước trong khu vực và trên
thế giới, hệ quả của nó đã kéo theo nhiều sự thay đổi cả về đời sống tư tưởng và
con người, đặc biệt là giới trẻ. Các tệ nạn xã hội phát triển ngày càng nhanh chóng,
tình trạng nghiện ma túy ngày càng nhiều. Do đó, hành vi sử dụng trái phép chất
ma túy dẫn đến gây nghiện diễn ra ngày càng nhiều và phức tạp hơn, làm cho
công tác quản lý cũng như thực hiện biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc gặp nhiều khó khăn. Mặc dù kinh tế phát triển song kinh phí đầu tư đảm
32
bảo an ninh, trật tự xã hội và công tác cai nghiện ma túy thực hiện thi hành pháp
luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện còn hạn chế, nhiều cơ sở cai
nghiện ma túy xuống cấp, do đó phải ưu tiên nguồn lực, phải có chiến lược đầu
tư trọng tâm trong khi hành vi vi phạm sử dụng trái phép chất ma túy ngày càng
nhiều và nghiêm trọng. Đặc biệt ma túy tổng hợp tác động lớn ảnh hưởng đến sức
khỏe bản thân, năng suất lao động, vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn
xã hội.
Việc thực hiện cai nghiện thành công hay không phù thuộc vào rất nhiều
yếu tố. Trong đó phải kể đến sự đầu tư bài bản, hợp lý về cơ sở vật chất, đội ngũ
cán bộ cũng như liệu pháp tâm lý, phác đồ điều trị nghiện, biện pháp quản lý phù
hợp. Bên cạnh đó, giáo dục, dạy nghề sau chữa trị cũng rất quan trọng, nó đảm
bảo cho người nghiện sau cai nghiện có công việc tối thiểu, tự nuôi sống bản thân
khi trở lại cộng đồng. Để làm được những điều trên, đòi hỏi cần phải có nguồn
ngân sách dồi dào, ổn định, đầu tư kinh tế đồng bộ về mọi mặt, có như vậy thì
việc thực hiện các biện pháp mới được tốt hơn, đáp ứng yêu cầu tối thiểu cũng
như hạn chế tối đa việc quá tải người nghiện ma túy trong các cơ sở cai nghiện
hiện nay.
Một khó khăn khi nhắc đến người nghiện ma túy, người ta thường gắn cho
nó một quan niệm theo lối mòn, với những suy nghĩ và hành động tiêu cực không
thể chữa trị được. Mặc dù các chính sách được đưa ra nhằm mục đích tuyên truyền,
bảo vệ những đối tượng bị nghiện, trước tác động từ dư luận kì thị với các đối
tượng trên vẫn đang là vấn đề nhức nhối. Một bộ phận không nhỏ từ cộng đồng
đã và đang có những hành động xa lánh, e sợ, ngại tiếp xúc với người nghiện, bộ
phận khác lại có những cử chỉ lăng mạ, xúc phạm chính gia đình có con em nghiện.
Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ, tác động đến tâm lý bản thân người nghiện và
gia đình của họ. Xuất phát từ những tư tưởng lạc hậu trong xã hội mà các gia đình
33
có con em bị nghiện thường che giấu tình trạng nghiện, không đưa đi cai, nên dẫn
tới việc bệnh ngày càng nặng và đe dọa đến tình hình trật tự xã hội trên địa bàn.
Thứ ba, ý thức pháp luật của cá nhân, tổ chức có liên quan trong thi hành
pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Yếu tố này có vai trò vô cùng quan trọng vì khi ý thức của các cán bộ, công
chức, các đương sự, các tổ chức, cá nhân có liên quan trong thực hiện biện pháp
XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc này có tốt thì hiệu quả thực hiện công
việc mới cao. Trong lĩnh vực này, ý thức pháp luật của cán bộ, công chức, người
tổ chức thực hiện pháp luật, đương sự và tổ chức cá nhân có liên quan có ý nghĩa
rất lớn, ảnh hưởng tới tình trạng tuân thủ thực thi pháp luật. Pháp luật chỉ có thể
được chấp hành nghiêm chỉnh và chính xác nếu như mọi người dân , trong đó có
cán bộ, công chức, người thực thi pháp luật hiểu và tôn trọng pháp luật. Khi mọi
người có hiểu biết pháp luật thì việc thực hiện cũng như tuân thủ pháp luật mới
đúng được.
Thứ tư, năng lực tổ chức thực hiện pháp luật về xử lý hành chính đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Cũng như yếu tố trên, yếu tố tổ chức thực hiện pháp luật là một nội dung
của yêu cầu pháp chế. Khi có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đầy đủ là vô
cùng cần thiết, nhưng pháp luật đó phải được thực hiện có hiệu quả trong đời sống
xã hội chứ không phải pháp luật chỉ nằm trên giấy tờ.
Việc thực hiện đúng các quy định của pháp luật chính là việc các cơ quan
nhà nước tổ chức triển khai để mọi người trong xã hội thực hiện các quy tắc theo
quy định của pháp luật. Muốn hoạt động này đạt hiệu quả cao thì công tác phòng
ngừa, can thiệp sớm đối với người sử dụng ma túy, tuyên truyền, phổ biến pháp
luật cần phải được thực hiện thường xuyên. Ngoài ra các cơ quan nhà nước, các
cấp, các ngành cần thường xuyên kiện toàn, củng cố tổ chức pháp chế để tạo điều
kiện nắm vững và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật.
34
Thứ năm, công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật trong tổ chức
thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc.
Kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật và xử phạt nghiêm minh những
vi phạm pháp luật là hoạt động không thể thiếu nhằm đảm bảo tính nghiêm minh
của pháp luật. Kiểm tra, giám sát tốt nhằm phát hiện kịp thời những vi phạm pháp
luật để từ đó có biện pháp uốn nắn, chấn chỉnh hoạt động chấp hành pháp luật,
hoạt động thực thi pháp luật nhằm đảm bảo cho pháp luật được thực hiện có hiệu
quả trong cuộc sống.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Ma túy và tác động tiêu cực của tình trạng nghiện ma túy ảnh hưởng đến
tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Nhà nước cần đưa ra các biện pháp quản
lý nhằm đảm bảo thực hiện theo Hiến pháp và pháp luật liên quan đến việc sử
dụng các chất ma túy dẫn đến gây nghiện. Để đảm bảo quản lý đối với cá nhân
người nghiện ma túy vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Luật
xử lý VPHC được ban hành, thi hành hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc có ý nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo an ninh, trật tự,
cũng như việc quản lý, đảm bảo quyền con người khi xác định người nghiện là
người bệnh “đặc biệt”. Do vậy việc tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc, bảo đảm chất
lượng của hoạt động thi hành pháp luật về biện pháp XLHC theo đúng quy định
pháp luật; đảm bảo tính hiệu lực của các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực cai
nghiện bắt buộc. Thực hiện đúng và đầy đủ các quy định pháp luật đối với người
nghiện ma túy, bảo đảm sự đồng bộ của hệ thống pháp luật và hệ thống pháp luật
khác liên quan đến người nghiện ma túy. Nghiên cứu cơ sở lý luận thi hành pháp
luật về biện pháp XLHC đưa người nghiện ma túy bắt buộc có ý nghĩa thúc đẩy
thực thi pháp luật, góp phần vào đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội và phát
triển nền kinh tế xã hội.
35
Hoạt động quản lý nhà nước giải quyết mối quan hệ, hành vi của cá nhân
vi phạm sử dụng trái phép chất ma túy dẫn đến gây nghiện. Thi hành pháp luật về
biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ở nước ta và trên thế giới
luôn là vấn đề phức tạp, có ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Có thể
thấy được qua việc Nhà nước sử dụng pháp luật, để thực hiện tác động đến các
chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống ma túy nói chung và thực hiện
pháp luật xử lý VPHC đối với người nghiện ma túy. Biện pháp XLHC đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc sẽ góp phần rất lớn đến hiệu quả thực thi pháp luật. Hoạt
động này có vai trò to lớn cho việc đảm bảo phát triển bền vững kinh tế - xã hội,
bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội.
36
Chương 2
THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH
CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI THỊ XÃ
BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Đặc điểm tỉnh hình tỉnh Đắk Lắk có ảnh hưởng thi hành pháp luật
về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thị xã
Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
2.1.1. Tình hình tự nhiên, kinh tế - xã hội thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
Tỉnh Đắk Lắk với diện tích 13.125,4 km2 nằm trên địa bàn Tây Nguyên,
phía bắc giáp tỉnh Gia Lai, phía Nam giáp tỉnh Lâm Đồng, phía đông giáp tỉnh
Phú Yên và tỉnh Khánh Hòa, phía Tây giáp Vương quốc Campuchia và tỉnh Đắk
Nông. Là tỉnh có đường biên giới dài 70km chung với nước Campuchia, trên đó
có quốc lộ 14C chạy dọc theo biên giới hai nước rất thuận lợi cho việc phát triển
vùng biên kết hợp với bảo vệ an ninh quốc phòng.
Tỉnh Đắk Lắk có 49 dân tộc cùng sinh sống, trong đó đồng bào dân tộc
thiểu số chiếm 35,7% dân số. Giai đoạn 2021-2025, Đắk Lắk có 54 xã Khu vực
III, 5 xã Khu vực II, 71 xã, phường, thị trấn thuộc Khu vực I; 519 thôn Đặc biệt
khó khăn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Hiện toàn tỉnh có
496.387 hộ, trong đó có 154.144 hộ đồng bào dân tộc thiểu số (theo chương trình
thống kê khảo sát năm 2021 của Ban Dân tộc tỉnh Đắk Lắk).
Thị xã Buôn Hồ được thành lập vào ngày 23/12/2008 theo Nghị định số
07/NĐ-CP của Chính phủ, là đô thị trung tâm có vai trò là trung tâm kinh tế, chính
trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật của khu vực phía Bắc tỉnh Đắk Lắk, có vị trí an
ninh quốc phòng đặc biệt quan trọng nằm ở phía Đông Bắc của thành phố Buôn
Ma Thuột, cách trung tâm tỉnh Đắk Lắk 40km về phía Đông Bắc, chạy dọc theo
Quốc lộ 14: Phía Đông giáp huyện Krông Năng, Ea Kar; Phía Tây giáp huyện Cư
37
M’Gar; Phía Nam giáp huyện Krông Pắk; Phía Bắc giáp huyện Krông Búk. Bên
cạnh đó Thị xã Buôn Hồ còn có các tuyến quốc lộ huyết mạch nối liền các tỉnh
Gia Lai, Kon Tum với Thành phố Buôn Ma Thuột. Hệ thống giao thông thuận lợi,
đường ô tô đến hầu hết các trung tâm đông dân cư theo tuyến Quốc lộ 14, quốc lộ
29 và các tuyến đường liên xã, liên phường, thuận lợi cho việc đi lại và vận chuyển
hàng hóa, dịch vụ thương mại.
Thị xã Buôn Hồ có 28.205,89 ha diện tích tự nhiên và 101.554 nhân khẩu,
có 12 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm các phường: Đạt Hiếu, An Lạc, An
Bình, Thiện An, Đoàn Kết, Thống Nhất, Bình Tân và các xã: Ea Siên, Ea Drông,
Ea Blang, Bình Thuận, Cư Bao. Trên địa bàn thị xã có 22 dân tộc anh em cùng
sinh sống như Ê Đê, Gia Rai, Kinh, Tày, Nùng…đã tạo nên một nền văn hóa
phong tục đa dạng, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc.
Thị xã Buôn Hồ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, đặc trưng cho
vùng Cao nguyên Nam Trung Bộ, mỗi năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa
khô. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10, lượng mưa trung bình hàng năm
khoảng 1.700 mm, nhiệt độ trung bình là 23,4 độ C rất thuận lợi cho các loại cây
công nghiệp như cà phê, cao su, ca cao, tiêu và cây lương thực như ngô lai, đậu
tương và các loại cây ăn trái khác.
Hiện nay, Buôn Hồ đã là “tâm điểm” của vùng chuyên canh cây cà phê nổi
tiếng, được trải rộng ra các huyện lân cận, bao gồm huyện Cư M'gar, Krông Năng,
Ea H'Leo với diện tích gần 100.000 ha. Ðồng thời, đây cũng là vùng có hệ sinh
thái phong phú và đa dạng với các khu rừng đặc dụng, rừng phòng hộ tiêu biểu
như: đèo Hà Lan, rừng thông Buôn Tring... nên rất có tiềm năng trong việc phát
triển du lịch sinh thái, gắn với văn hóa truyền thống của người dân bản địa. Ở đó
Buôn Hồ được coi như một "địa chỉ đỏ" có sức lan tỏa, ảnh hưởng rộng khắp toàn
vùng. Với những đặc trưng đó, Buôn Hồ được xác định là đô thị kinh tế-sinh thái-
văn hóa cấp vùng của tỉnh.
38
Khai thác thế mạnh của thiên nhiên, điều kiện văn hóa, xã hội để phát triển
du lịch văn hóa - sinh thái, hướng dẫn người dân trong việc tạo việc làm, tham gia
các hoạt động dịch vụ du lịch, cải thiện đời sống cho đồng bào nhằm phát triển
kinh tế - xã hội địa phương, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ vững quốc phòng -
an ninh, là vấn đề đang được cấp ủy, chính quyền của tỉnh Đắk Lắk và thị xã Buôn
Hồ quan tâm thực hiện, góp phần phát triển một cách toàn diện hoạt động kinh tế
- xã hội của Thị xã.
Bên cạnh những thuận lợi như vậy thì thị xã Buôn Hồ cũng có một số khó
khăn nhất định như:
Đa số nhân dân trên địa bàn còn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp,
chiếm hơn 70 % dân số, còn lại là kinh doanh buôn bán, sản xuất công nghiệp -
tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Đời sống nhân dân trong các xã vùng sâu còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt
là các đồng bào dân tộc thiểu số, vì vậy nên có ảnh hưởng đến chất lượng cuộc
sống, trình độ dân trí trong vùng.
Địa hình khá phức tạp, độ dốc cao ảnh hưởng đến các vấn đề tưới tiêu trong
sản xuất và đời sống cũng như các hoạt động giao thông vận tải nội địa.
Dân số cơ học tăng nhanh trong khi đó diện tích đất tự nhiên cố định hiện
là áp lực đối với sự phát triển kinh tế xã hội là vấn đề đang cần giải quyết.
Với những đặc điểm kinh tế, xã hội của thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk có
thể thấy để đảm bảo tăng trưởng ổn định, đảm bảo an ninh trật tự, tạo môi trường
xã hội lành mạnh, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân. Thời gian gần đây, tình
hình tội phạm hình sự, tội phạm hoạt động có tổ chức, buôn lậu, ma túy, tín dụng
đen, tham nhũng… đang là những vấn đề nhức nhối trong xã hội, gây mất ổn định
về an ninh, trật tự.
Ở thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk, là tỉnh miền núi nên tình hình an ninh
nông thôn tiềm ẩn nhiều vấn đề bất ổn mà một trong những nguyên nhân chủ yếu
39
xuất phát từ các tệ nạn xã hội liên quan đến người nghiện ma túy. Phát sinh nhiều
nguy cơ đe dọa an ninh phi truyền thống, nhất là nguy cơ mất trật tự an toàn xã
hội... Những tác động thái phức tạp đó đan xen, tác động lẫn nhau có thể làm cho
những bức xúc, rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội tăng lên, thách thức trực tiếp
đến an ninh xã hội, an ninh con người…của thị xã Buôn Hồ nói riêng và của tỉnh
Đắk Lắk nói chung.
Trong thời gian tới có tệ nạn xã hội gây suy thoái, biến chất về tư tưởng,
đạo đức, lối sống của người nghiện và các hoạt động phạm pháp liên quan đến ma
túy diễn ra trong một bộ phận không nhỏ người dân địa phương, mà còn diễn biến
phức tạp ở cấp cao hơn, ảnh hưởng tiêu cực của các chất ma túy mới dễ tiếp cận
một bộ phận không nhỏ người dân. Trong khi đó, năng lực và tổ chức của bộ máy
nhà nước còn có hạn chế với những biểu hiện tinh vi, phức tạp của tệ nạn ma túy,
gây bức xúc trong dư luận. Cùng với đó, khoảng cách giàu - nghèo, phân hóa xã
hội ngày càng tăng, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại.
Từ việc xác định thúc đẩy sự phát triển và giữ vững sự ổn định xã hội, mỗi
quốc gia - dân tộc nói chung, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk nói riêng chủ động
thực hiện các chính sách pháp luật của Nhà nước trong việc thực thi pháp luật đối
với công tác phòng, chống ma túy và công tác cai nghiện và phục hồi sau cai
nghiện.
2.1.2. Thực trạng tình hình người nghiện ma túy
Theo số liệu thống kê từ năm 2018 đến nay của Ban Chỉ đạo của tỉnh Đắk
Lắk cho thấy tình trạng người sử dụng ma túy dẫn đến nghiện ma túy trên địa bàn
tỉnh có xu hướng khó kiểm soát, qua các năm và diễn biến ngày càng phức tạp, cụ
thể như sau:
40
Bảng 2.1: Tổng hợp thống kê người nghiện ma túy, tại thị xã
Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
ĐVT: người
Năm
Tổng số người nghiện Số người nghiện có mặt ngoài xã hội Tổng số xã phường có người nghiện ma túy Số người sử dụng ma túy nghi nghiện
70 50 10 90 2018
73 54 10 90 2019
60 49 11 70 2020
74 56 10 71 2021
70 55 10 70 2022
(Nguồn: thống kê của Ban chỉ đạo phòng, chống tội phạm tệ nạn xã hội và xây
dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc của tỉnh Đắk Lắk)
Qua tìm hiểu thực tế và nghiên cứu các số liệu người nghiện ma túy trên
địa bàn cho thấy, việc thống kê người nghiện ma túy gặp rất nhiều khó khăn, số
người sử dụng ma túy dẫn đến nghiện ma túy, người sau cai nghiện chưa tái
nghiện, số người nghiện đi làm ăn xa, số lưu tra tại các năm trước do đang chấp
hành án phạt tù, thời điểm báo cáo…việc xác định tình trạng nghiện ma túy trên
địa bàn thường thông qua tình trạng sử dụng chất ma túy trái phép gây ra tình
trạng nghiện.
Ngoài ra, còn rất nhiều người chưa được xác định tình trạng nghiện ma túy
tổng hợp, do tính chất của ma túy tổng hợp tác động trong thời gian dài khó đánh
giá, người nghiện dễ tái nghiện và chưa có cơ quan chức năng đánh giá độc lập
việc cai nghiện thành công. Người nghiện ma túy tại cộng đồng đa số không nghề
nghiệp hoặc có việc làm nhưng không ổn định thường thay đổi chỗ ở hoặc đi làm
ăn xa. Số thống kê người nghiện chỉ tập trung vào người nghiện có hồ sơ quản lý
41
tại địa bàn, ngoài ra còn nhiều người nghiện ma túy khó thống kê do không có
mặt tại địa phương nơi cư trú.
Việc không khai báo tình trạng nghiện các chất ma túy khi sử dụng trên địa
bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk còn phổ biến. Từ năm 2018 đến nay, các lực
lượng chức năng Công an thị xã, phòng Lao động – TB&XH đã cố gắng thu thập
hồ sơ quản lý người nghiện để thực hiện các biện pháp quản lý người nghiện thực
hiện các biện pháp kiềm chế nghiện ma túy trên địa bàn, cụ thể:
Năm 2018, toàn thị xã có 30 người nghiện ma túy.
Năm 2019, toàn thị xã có 32 người nghiện ma túy.
Năm 2020, toàn thị xã có 29 người nghiện ma túy.
Năm 2021, toàn thị xã có 30 người nghiện ma túy.
Tính đến năm tháng 12/2022, toàn thị xã có 31 người nghiện ma túy.
Công tác thống kê người nghiện ma túy nhằm thu thập số liệu, cập nhật
thường xuyên thông tin về người nghiện ma túy vào hệ thống cơ sở dữ liệu người
nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh để có biện pháp quản lý phù hợp.
2.2 Thực tiễn thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
Việc phân định thẩm quyền các sở, ngành thành viên theo chức năng, nhiệm
vụ được UBND tỉnh giao, phối hợp thực hiện thi hành pháp luật về biện pháp
XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk
Lắk. Các huyện, thành phố dưới sự chỉ đạo của Ban chỉ đạo tỉnh, từ việc thiết lập
hồ sơ đến đưa người nghiện ma túy bị thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (Cơ sở cai nghiện ma túy thuộc Sở LĐ-TB&XH
quản lý) theo quy định pháp luật hiện hành.
2.2.1. Công tác chỉ đạo, thiết lập hồ sơ, đề nghị thi hành pháp luật về biện
pháp xử lý hành chính đối với người nghiện
Chỉ đạo thực hiện
42
Luật Xử lý VPHC được Quốc hội thông qua đã thể hiện quan điểm mới, đề
cao tính nhân đạo, tôn trọng quyền con người đối với người nghiện ma túy. Chính
phủ và các Bộ, ngành liên quan đã ban hành các văn bản quy định chi tiết và tổ
chức thực hiện. Thực tiễn, áp dụng triển khai thực hiện trên địa bàn tỉnh đã bộc lộ
nhiều vướng mắc, khó khăn khi mới triển khai. Tỉnh Đắk Lắk (Ban chỉ đạo tỉnh)
đã chỉ đạo các Sở, ban, ngành, các tổ chức đoàn thể tổ chức thực hiện triển khai
từ thiết lập hồ sơ đến thực hiện đưa người nghiện ma túy vào các cơ sở cai nghiện
trên địa bàn.
Trên cơ sở Nghị quyết số 77/2014/QH13 ngày 10/11/2014 của Quốc hội về
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015, trong đó có nội dung về tháo gỡ
khó khăn, vướng mắc trong việc đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc; Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 26/12/2014 của Chính phủ về tăng cường
chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình
mới, trong đó Thủ tướng Chính phủ yêu cầu phải đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan chức năng và Tòa án để rút ngắn
thời gian lập hồ sơ đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc.
Sở LĐ – TB&XH tỉnh (cơ quan Thường trực Tiểu ban chỉ đạo 09, Tiểu ban
phòng, chống tệ nạn xã hội) đã tham mưu thể chế văn bản của Trung ương bằng
các Quyết định, Kế hoạch của UBND tỉnh, sau khi được thống nhất giữa các Sở,
ban, ngành, UBND các huyện, thành phố và chính quyền địa phương, tạo ra hệ
thống văn bản pháp lý trong chỉ đạo các cấp chính quyền triển khai đồng bộ. Trên
cơ sở chỉ đạo của tỉnh Đắk Lắk, các huyện, thành phố Buôn Ma Thuột nói chung
và thị xã Buôn Hồ nói riêng đã thể chế ban hành các văn bản triển khai thực hiện
chỉ đạo của tỉnh về công tác cai nghiện ma túy nói chung và thực hiện biện pháp
XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc theo quy định Luật xử lý VPHC
và các văn bản liên quan.
43
Thiết lập hồ sơ
Công an thị xã chỉ đạo thực hiện thiết lập hồ sơ cai nghiện bắt buộc thông
qua các hành vi vi phạm của người nghiện ma túy. Đây là lực lượng chủ chốt
trong việc phát hiện, truy lùng, tìm kiếm, thử và bắt người nghiện ma túy trên địa
bàn. Thống kê, từ năm 2018 đến nay, lực lượng Công an tỉnh đã bắt hơn 100 đối
tượng sử dụng trái phép chất ma túy ngoài cộng đồng, trong đó thiết lập hồ sơ thi
hành pháp luật về biện pháp XLHC cai nghiện bắt buộc cho 70 người tại thị xã
Buôn Hồ (năm 2018 lập 15 hồ sơ; năm 2019 lập 20 hồ sơ; năm 2020 lập 19 hồ
sơ; năm 2021 lập 11 hồ sơ; đến tháng 12/2022 lập 5 hồ sơ).
Bảng 2.2. Thống kê thiết lập hồ sơ cai nghiện bắt buộc công an thị xã
Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
ĐVT: hồ sơ
Tổng số Trong đó thực hiện năm
Đơn vị hồ sơ
2018 2019 2020 2021 12/2022 thiết lập
Thị xã Buôn Hồ 70 15 20 19 11 5
(Nguồn: Công an thị xã Buôn Hồ)
Ngoài ra, các vụ án đấu tranh, bắt giữ tội phạm liên quan đến ma túy từ năm
2018 đến nay, nhiều người nghiện ma túy vi phạm tội phạm hình sự và VPHC.
Đối với các trường hợp người nghiện ma túy VPHC liên quan đến thụ lý vụ án
được chuyển thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc. Thông qua các lực lượng chức năng Công an thị xã đã phát hiện bắt giữ 35
vụ, 40 đối tượng phạm tội (Năm 2018, phát hiện bắt 5 vụ, 10 đối tượng; Năm
2019, phát hiện bắt 8 vụ, 11 đối tượng; Năm 2020, phát hiện bắt 7 vụ, 6 đối tượng;
Năm 2021, phát hiện bắt 6 vụ, 8 đối tượng; năm 2022, phát hiện bắt 4 vụ, 5 đối
tượng). Tổng thụ lý điều tra 33 vụ, 34 bị can.
Việc thiết lập hồ sơ thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở
44
cai nghiện bắt buộc là cơ sở để thực hiện áp dụng đưa người nghiện ma túy theo
quy định.
Việc thiết lập hồ sơ đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp XLHC gửi hồ
sơ phòng Tư pháp và phòng LĐ- TB&XH đã phối hợp kiểm tra, phân loại đúng
đối tượng áp dụng, làm cơ sở đề nghị Tòa án quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc hay thi hành pháp luật về biện pháp khác theo hình thức pháp luật quy
định.
Đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính
Đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đối với người nghiện thuộc
thẩm quyền của ngành LĐ-TB&XH. Từ năm 2018 đến nay, ngoài các nhiệm vụ
được giao, ngành đã phát huy vai trò của mình trong công cuộc giảm thiểu số
người nghiện ngoài cộng đồng, từ việc đề nghị áp dụng các biện pháp cai nghiện,
phối hợp với đội cảnh sát Phòng chống ma túy, Công an thị xã Buôn hồ theo dõi
sát sao các đối tượng bị nghiện, cai nghiện, tái nghiện ngoài cộng đồng. Tổ chức
thực hiện công tác cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện ma túy. Có thể thấy đây là hoạt
động mang tính chất thường xuyên và liên tục tham mưu và thực hiện công tác
cai nghiện ma túy trên địa bàn.
Phòng Y tế (Thường trực tiểu ban phòng chống HIV/AIDS) thực hiện chỉ
đạo, hướng dẫn các cơ sở y tế phối hợp thực hiện trình tự, thủ tục xác định tình
trạng nghiện ma túy. Tổ chức tập huấn cho cán bộ y tế của các đơn vị liên quan
về việc thực hiện xác định tình trạng nghiện ma túy, điều trị hỗ trợ cắt cơn nghiện
ma túy. Phối hợp với Phòng LĐ-TB&XH, công an thị xã hướng dẫn chỉ đạo thực
hiện một số nội dung của Thông tư liên tịch số 17/TTLT- BYT- BLĐTBXH-BCA
của liên bộ Y tế, Công an, LĐ-TB&XH.
Công an thị xã trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn các lực lượng chức năng, cấp
xã xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; tổ chức đưa người đã có quyết định vào cơ sở
45
cai nghiện bắt buộc; truy tìm đối tượng bỏ trốn; phối hợp đảm bảo an ninh trật tự
tại các cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Viện Kiểm sát nhân dân huyện, Tòa án nhân dân huyện có kế hoạch phối
hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật đẩy mạnh công tác điều tra, truy
tố, xét xử tội phạm về ma túy và xem xét, quyết định thi hành pháp luật về biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định của Pháp lệnh số
01/2022/UBTVQH15. Các sở, ban, ngành, mặt trận tổ quốc và các tổ chức đoàn
thể tỉnh, UBND các huyện, thành phố thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối
với công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy theo chức năng, nhiệm
vụ được phân công. Tiếp tục rà soát tham mưu xây dựng, kiến nghị sửa đổi, bổ
sung các quy định thực hiện pháp luật về phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện
ma túy; chú trọng vào công tác phòng ngừa, quản lý và cai nghiện ma túy; đồng
thời xây dựng kế hoạch thực hiện phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của ngành,
đơn vị và địa phương mình.
Nhờ sự phối hợp giữa các cấp các ngành có liên quan chỉ đạo thực hiện
chấp hành pháp luật về biện pháp XLHC đối với người nghiện ma tuý, thi hành
pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của
các huyện, thành phố đã có chuyển biến tích cực. Vì vậy, số người nghiện ma tuý
đã được kiềm chế đáng kể về phát sinh người nghiện mới. Thực tế cho thấy rằng,
trong thời gian triển khai thực hiện thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa
người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại các đơn vị cấp xã, lực lượng công
an đã lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện các đơn vị địa phương thiết lập hồ
sơ, mở các đợt cao điểm kiểm soát và xử lý VPHC sử dụng trái phép chất ma túy,
trong đó tập trung vào việc xử lý các hành vi vi phạm thi hành pháp luật về biện
pháp XLHC giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Đồng thời thực hiện thi hành pháp
luật về biện pháp XLHC đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, tổ chức hướng
dẫn thực hiện đúng quy trình xử lý các vi phạm quy định về người nghiện ma tuý
46
sử dụng trái phép các chất ma tuý đã có chuyển biến tích cực, nhanh chóng, khách
quan, được nhân dân tin tưởng và ủng hộ trong đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.
Các ngành chức năng đã phát huy và hoàn thành đảm bảo vai trò của mình
trong công cuộc giảm thiểu số người nghiện ngoài cộng đồng từ việc đề nghị áp
dụng các biện pháp cai nghiện ma tuý, tổ chức thiết lập hồ sơ quản lý người nghiện
qua việc theo dõi sát sao của các ngành chức năng, cơ sở cai nghiện ma tuý.
2.2.2. Triển khai hoạt động cai nghiện ma túy
Tỉnh Đắk Lắk hiện có 01 trung tâm là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở
LĐ-TB&XH quản lý. Cơ cấu tổ chức bộ máy có 01 phòng nghiệp vụ chuyên môn;
Thực hiện chức năng tiếp nhận, tổ chức cai nghiện, chữa trị, giáo dục, phục hồi
sức khoẻ, hành vi nhân cách và dạy nghề cho người nghiện ma túy được đưa vào
cơ sở.
* Cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện
Giai đoạn 2018-2020:
Đối với Cơ sở cai nghiện ma túy, thực hiện tiếp nhận cai nghiện ma túy với
hai hình thức là cai nghiện bắt buộc và cai nghiện tự nguyện. Ngoài ra còn thực
hiện hình thức cắt cơn, giải độc cho công tác cai nghiện ma túy tại cộng đồng.
Bảng 2.3 Tiếp nhận điều trị cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện ma túy giai
đoạn 2018-2020
ĐVT: người
Hình thức cai nghiện ma túy đưa vào cơ sở Năm 2018 Năm 2019 Năm 2020
cai nghiện
1. Tổng số từ năm trước chuyển sang 30 29 32
- Cai nghiện bắt buộc 15 14 15
- Cai nghiện tự nguyện 15 15 17
2. Số được tiếp nhận mới trong năm 29 31 30
- Cai nghiện bắt buộc 13 14 14
47
- Cai nghiện tự nguyện 16 17 16
(Nguồn: Chi cục Phòng, chống tệ nạn xã hội tỉnh Đắk Lắk)
Bảng 2.4. Tổng hợp tiếp nhận điều trị cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện giai
đoạn 2020 đến tháng 11/2022
ĐVT: người
Hình thức cai nghiện ma túy đưa vào cơ sở Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022
cai nghiện
1. Tổng số từ năm trước chuyển sang 19 24 21
- Cai nghiện bắt buộc 9 13 11
- Cai nghiện tự nguyện 10 11 13
2. Số được tiếp nhận mới trong năm 10 11 13
- Cai nghiện bắt buộc 7 7 8
- Cai nghiện tự nguyện 3 4 5
(Nguồn: Chi cục Phòng, chống tệ nạn xã hội tỉnh Đắk Lắk)
Nằm trong tình trạng chung về công tác thi hành pháp luật về biện pháp
XLHC đưa người vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc của các tỉnh, thành phố
trong cả nước. Năm 2015, toàn tỉnh mới thực hiện đưa 13 người nghiện ma tuý
được thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Sau quá trình chỉ đạo triển khai, tổng kết, rút kinh nghiệm trong việc thực hiện
các quy định pháp luật thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc, từ công tác thiết lập hồ sơ theo quy định pháp luật, đến quyết
định của Toà án nhân dân cấp huyện còn nhiều vướng mắc trong tổ chức, thực
hiện.
Năm 2021 So với năm 2020, có 30 người thi hành pháp luật về biện pháp
XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên địa bàn tăng. Đây là thành quả nhờ
những nỗ lực của các lực lượng chức năng trong tổ chức thực hiện, giữa các ngành,
48
các cấp cũng như sự chuyển biến trong phối hợp thực hiện thi hành pháp luật về
biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy trên địa bàn.
Năm 2022, so với năm 2021, có 31 người đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc.
* Điều trị nghiện ma túy bằng thuốc methadol tại cộng đồng
Chương trình điều trị Methadol bắt đầu triển khai tháng 10/2012, đến nay
có 02 cơ sở điều trị Methadol tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk, điều trị 100 người
nghiện các chất dạng thuốc phiện.
* Cai nghiện ma túy tại cộng đồng
Cai nghiện tại cộng đồng được thực hiện tại Nghị định số 116/2021/NĐ-
CP ngày 21/12/2021. Kết quả đã tuyên truyền vận động, lập hồ sơ và tổ chức cai
nghiện tại gia đình và cộng đồng đến năm 2022 có 89 người nghiện ma túy tự
nguyện tham gia chương trình.
Chương trình thực hiện thí điểm cai nghiện ma túy tại cộng đồng do Sở
LĐ-TB&XH thực hiện từ năm 2011, đã thành lập. Việc tổ chức cho người nghiện
và gia đình họ khai báo và đăng ký các hình thức cai nghiện: Tổ chức các hoạt
động tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về công tác cai nghiện
ma túy tại gia đình và cộng đồng; giới thiệu các quy trình, thủ tục, các hình thức
cai nghiện để mọi người dân được biết, tự giác vận động tham gia chưa được hiệu
quả. Quá trình thực hiện, các đơn vị huyện, thị xã thành phố gặp rất nhiều khó
khăn trong việc tổ chức thực hiện hình thức cai nghiện này.
2.2.3. Tổ chức kiểm tra và xử lý vi phạm khi thi hành pháp luật về biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Công tác kiểm tra được thực hiện tại UBND các huyện, thành phố về tình
hình triển khai công tác thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc. Công tác phổ biến, hướng dẫn nghiệp vụ liên quan đến việc thi
hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của Phòng
49
LĐ- TB&XH trong việc thực hiện các quy định phối hợp trong thiết lập hồ sơ;
Phòng Y tế trong việc tham gia đào tạo chuẩn đoán tình trạng nghiện ma túy; công
an huyện, thành phố thực hiện thành lập các đội nghiệp vụ, tổ công tác thực hiện
nhiệm vụ trực tiếp phụ trách, hướng dẫn công an xã thực hiện nhiệm vụ lập hồ sơ
thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Kết quả đạt được đã có sự phối hợp, thống nhất giữa các đơn vị có liên quan
giữa Phòng LĐ-TB&XH, Phòng Y tế, Cơ quan công an, Tòa án cấp huyện trong
công tác lập, kiểm tra, đối chiếu và quyết định biện pháp XLHC đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc trên địa bàn.
2.2.4 Sơ kết, tổng kết báo cáo tình hình thi hành pháp luật về biện pháp
xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Trong những năm gần đây, các cơ quan tổ chức có liên quan, đặc biệt là
UBND thị xã đã từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước, sự
phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các cấp, các ngành và các tổ chức chính trị - xã
hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân
dân nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cai nghiện và hỗ trợ sau cai
nghiện, kìm hãm sự gia tăng số người nghiện mới, quản lý chặt chẽ người nghiện
ngoài cộng đồng, không để phát sinh tụ điểm phức tạp, góp phần xây dựng môi
trường xã hội an toàn, lành mạnh phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của
thị xã.
Xây dựng và triển khai thực hiện dự án “Xây dựng xã, phường, thị trấn
không có tệ nạn ma túy” đến 07 phường 05 xã trên địa bàn thị xã.
Kịp thời tham mưu xây dựng kế hoạch về việc mở đợt cao điểm triệt xóa
các điểm sử dụng ma túy và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đối với người nghiện ma túy trên địa bàn; chủ động xây dựng các kế hoạch các
đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm.
50
Xây dựng tờ trình đề nghị UBND thị xã xử phạt vi phạm hành chính đối
với một số cơ sở kinh doanh dịch vụ Karaoke; ngoài ra còn tham mưu, hướng dẫn
lực lượng công an các xã, phường lập hồ sơ giáo dục xã phường, cai nghiện bắt
buộc đối với các đối tượng nghiện trên địa bàn.
Về phối hợp tuyên truyền, phát động luật phòng, chống ma túy, tình hình
tội phạm và tệ nạn ma túy, cách phòng, chống ma túy; Kết quả triển khai công tác
tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống ma túy thông qua các phương tiện truyền
thông; tham gia hưởng ứng các đợt cao điểm về phòng, chống ma túy và xóa việc
trồng cây có chứa chất ma túy tại địa phương.
Về công tác phòng ngừa nghiệp vụ:
Phòng lao động – thương binh và xã hội phối hợp với Công an xã, phường
lập hồ sơ giáo dục xã phường về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo nghị
định 116/2021/NĐ-CP.
Công an thị xã phối hợp với Công an xã, phường quản lý đối tượng ra tù về
tội ma túy và quản lý đối tượng đã cai nghiện ma túy trở về địa phương trên địa
bàn thị xã.
2.3 Đánh giá tình hình thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
Thứ nhất, số người được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thi hành pháp
luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, sau khi tháo gỡ được
khó khăn khi thực hiện năm sau cao hơn năm trước. Đáp ứng được yêu cầu đề ra
trong việc phòng, chống tệ nạn xã hội của tỉnh, giải quyết được lượng lớn số người
nghiện còn tồn tại ngoài cộng đồng không thực hiện các biện pháp cai nghiện tự
nguyện, sử dụng thay thế các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadol.
Ngay sau khi phát hiện đối tượng nghiện ma túy và xem xét, thu thập thông
tin để xác định đối tượng thuộc diện cai nghiện bắt buộc để hoàn tất lập hồ sơ đề
51
nghị thi hành pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ quan
Công an cho người nghiện bị đề nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ đọc và
ký vào thông báo về việc bị lập hồ sơ thi hành pháp luật về biện pháp đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc (đảm bảo theo thủ tục của Tòa). Đồng thời, làm việc với
người thân trong gia đình của người bị đề nghị theo 2 hướng: nếu gia đình cam
kết có đủ điều kiện và quản lý được người nghiện trong thời gian cho bảo lãnh thì
tiến hành cho gia đình bảo lãnh; nếu gia đình không có điều kiện quản lý đối tượng
hoặc có đơn từ chối tiếp nhận thì chuyển người đó vào cơ sở cai nghiện trên địa
bàn để quản lý lưu trú tạm thời.
Thứ hai, quá trình phát hiện và lập hồ sơ đề nghị, việc thi hành pháp luật
về biện pháp đưa người nghiện đi cai cơ bản được thực hiện đúng quy trình theo
luật định, không bỏ sót các giai đoạn nên hầu hết các đối tượng sau khi phát hiện
ra đã và đang có hành vi tái nghiện đều bị cơ quan có thẩm quyền thi hành pháp
luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trong quá trình tiếp
nhận hồ sơ và xử lý, các cơ quan chức năng đã gặp không ít vướng mắc và bất
cập trong việc giải quyết các đối tượng để đưa đi cai nghiện. Nếu không giải quyết
kịp thời thì số người nghiện trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk ngày càng
diễn biến phức tạp, tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, ảnh hưởng đến an ninh, đe
dọa đến cuộc sống của người dân xung quanh.
Qua triển khai thực hiện tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk, Phòng LĐ-
TB&XH đã tổng hợp khó khăn, vướng mắc trong triển khai thực hiện, kiến nghị
lên Sở, Ngành để tiếp tục đề nghị lên cấp cao hơn như Bộ, ngành Trung ương sớm
ban hành các văn bản hướng dẫn; rà soát sửa đổi, thay thế những quy định liên
quan đến công tác cai nghiện ma túy cho phù hợp với tình hình hiện nay theo quy
định của Luật Phòng chống ma túy; Luật xử lý VPHC, xem xét đề nghị Chính phủ
sửa đổi giảm thủ tục hành chính, hồ sơ đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Nghị định số 116/2021/NĐ-
52
CP, đồng thời rút ngắn công đoạn chuyển hồ sơ từ UBND cấp xã đến Tòa án
nhân dân cấp huyện để sớm xem xét, quyết định đảm bảo tính kịp thời những khó
khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện.
Thứ ba, việc phối hợp của các cơ quan liên quan trong công tác đưa người
đi cai nghiện bắt buộc về cơ bản có những chuyển biến tích cực. Ngoài việc họ
phải tuân thủ theo đúng trình tự, thủ tục, đội ngũ này cần phải linh hoạt, sáng tạo
trong việc tháo gỡ những vướng mắc và đề ra những biện pháp giải quyết phù
hợp. Ngoài ra, ở các cuộc họp nâng cao chuyên môn cũng như trong việc tiếp xúc,
làm việc trực tiếp ở thực tiễn, đội ngũ này luôn là người nắm bắt được tình hình
thực tế, thấy rõ những ưu điểm, bất cập, hay những vướng mắc xảy ra nên trình
độ chuyên môn đần được đảm bảo, quy trình thực hiện đúng thẩm quyền, không
chồng chéo, bị động, không phụ thuộc mà linh động thực hiện công việc một cách
hiệu quả nhất.
Theo đó, các ngành như: Công an, LĐ-TB&XH các huyện, thị xã, thành
phố phải thống nhất lập hồ sơ, chuyển qua Tòa án cấp huyện. Toà án cấp huyện
ra quyết định có đưa người nghiện thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào
cơ sở cai nghiện hay không. Việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
với rất nhiều thủ tục hành chính theo quy định thì cần 13-17 loại giấy tờ, rất rườm
rà và trái với tinh thần cải cách hành chính. Thời gian từ khi bắt được một đối
tượng nghiện ma túy, xử phạt hành chính, thi hành pháp luật về biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn, đến thiết lập hồ sơ thi hành pháp luật về biện pháp
XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có quy trình từ đến gần 60-75 ngày, là
quá dài và gây thêm phức tạp trong việc quản lý người nghiện.
Bên cạnh đó, đối với người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định thì
giao cho tổ chức xã hội quản lý trong thời gian chờ lập thủ tục thi hành pháp luật
về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tuy nhiên, không thể đòi hỏi các
tổ chức này phải có chuyên môn để đi điều trị, cắt cơn, giải độc. Thị xã Buôn Hồ,
53
Tỉnh Đắk Lắk cũng quy định chuyển người không có nơi cư trú ổn định trong thời
gian chờ lập hồ sơ vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do các cơ sở này có đầy đủ chức
năng về y tế, trang thiết bị, chế độ hỗ trợ cho người bị quản lý và đội ngũ cán bộ
tại cơ sở cai nghiện.
Nguyên nhân
Trước đây, các chế tài quản lý mới chỉ áp dụng cho người được xác định là
nghiện ma túy. Trong khi đó, hành vi sử dụng trái phép chất ma túy chỉ bị xử phạt
hành chính cao nhất là 01 triệu đồng nên không đủ sức răn đe. Một số trường hợp
sử dụng ma túy dẫn đến loạn thần, “ngáo đá” gây ra một số vụ án nghiêm trọng,
làm mất an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Luật xử lý vi phạm hành chính năm (sửa đổi bổ sung năm 2020), Luật
phòng chống ma túy năm 2021 và các Nghị định: 105/2021/NĐ-CP ngày
04/12/2021, Nghị định 116/2021/NĐ-CP ngày 21/12/2021; Pháp lệnh số
01/2022/UBTVQH15… ra đời đã cơ bản giải quyết được những bất cập nêu ra ở
trên. Cụ thể:
Luật Phòng, chống ma túy năm 2021 đã quy định rõ các biện pháp quản lý
người sử dụng ma túy. Đây là biện pháp phòng ngừa, không phải xử phạt hành
chính, không liên quan đến lý lịch, nhân thân của người đó. Việc quy định như
vậy thể hiện rõ tinh thần giáo dục nhằm giúp họ tránh xa ma túy. Đồng thời, pháp
luật đã có những quy định mới so với trước đây về các đối tượng từ đủ 18 tuổi trở
lên thuộc trường hợp phải đưa đi cai nghiện bắt buộc.
Bên cạnh đó, một trong những nội dung mới của Luật Phòng, chống ma túy
năm 2021 là quy định về đưa vào cơ sở CNBB đối với người nghiện ma túy từ đủ
12 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Tiếp đó, ngày 24/3/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp
lệnh số 01/2022/UBTVQH15 quy định về trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem
54
xét, quyết định việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào
cơ sở CNBB.
Ngoài ra, một số khó khăn, vướng mắc khác cũng đã được các văn bản quy
phạm pháp luật mới giải quyết như việc hiện nay đã thống nhất được mẫu văn bản
sử dụng trong hồ sơ đề nghị; thời gian lập hồ sơ và xem xét đề nghị áp dụng đã
được rút ngắn đáng kể…
Ngoài ra những kết quả đạt được do công tác phối hợp của các cơ quan ban
ngành trên địa bàn như:
Ngành Công an quản lý ngày càng tốt hơn các đối tượng đã cai nghiện ma
tuý, từng bước nắm bắt và quản lý chặt chẽ những người nghiện tái nghiện nhiều
lần, có tiền án, tiền sự với tư cách là những người vi phạm pháp luật và tội phạm.
Tại Công an phường, xã đã thành lập Tổ Cảnh sát phòng, chống ma túy tập
trung vào phát hiện các đường dây, ổ nhóm mua bán ma tuý, đấu tranh chống tổ
chức sử dụng và sử dụng ma túy, giám sát việc cai nghiện ma túy tại cộng đồng
và gia đình, quản lý sau cai nghiện;
Phòng lao động thương binh và xã hội làm tốt công tác lập hồ sơ cai nghiện
và đưa người nghiện ma tuý vào các Cơ sở chữa bệnh theo quy định của Luật xử
lý vi phạm hành chính. Phân công cán bộ Công an phối hợp với Trạm Y tế, tổ
trưởng dân phố, trưởng bản, trưởng thôn, trưởng xóm, gia đình và các đoàn thể xã
hội giám sát quản lý từng người nghiện ma túy và các đối tượng phạm tội về ma
tuý tại cộng đồng.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Thứ nhất, theo quy định của Luật Xử lý VPHC năm 2012, việc thi hành
pháp luật về biện pháp XLHC đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc phải trải
qua nhiều tầng rất rườm rà, gây khó khăn cho các cấp, ngành trong quá trình thực
hiện.
Việc thi hành pháp luật về biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối
55
với người nghiện ma túy rất khó khăn do sự lệ thuộc vào chất gây nghiện, người
nghiện buộc phải tìm kiếm sử dụng, vừa là tiền đề để có biện pháp cai nghiện (cai
nghiện tự nguyện) và tiếp tục thực hiện các trình tự, thủ tục tiếp theo để lập hồ sơ
cai nghiện bắt buộc đạt hiệu quả. Thực tiễn vẫn còn tồn tại một số khó khăn,
vướng mắc khi triển khai tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về thi hành pháp
luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cụ thể là:
Chưa có biện pháp XLHC thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đối với
người nghiện dưới 18 tuổi, có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; đối với người
không có nơi cư trú ổn định thì đưa vào cơ sở cai nghiện để quản lý và thi hành
pháp luật về biện pháp giáo dục, cai nghiện đối với họ.
Thực tế quản lý các đối tượng nghiện ma túy tại xã, phường, thị trấn rất khó
khăn, theo quy định khoản 1, Điều 3 Nghị định 221/2013/NĐ-CP “người nghiện
ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định, đã bị thi hành pháp luật về biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy mà vẫn còn nghiện thì bị
thi hành pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”. Nhiều người
nghiện ma túy dù đang chấp hành Quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn vẫn
tiếp tục hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng chưa hết thời hạn chấp hành
quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn nên không thể lập hồ sơ thi hành pháp
luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Việc truy tìm đối tượng bị thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc bỏ trốn, theo Điều 17, Nghị định 221/2013/NĐ-CP.
Trong đó quy định về trường hợp bị thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc bỏ trốn trước khi vào cơ sở và các trường hợp đang
chấp hành tại cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc bỏ trốn. Tuy nhiên tại Thông tư
14/2014/TT- BLĐTBXH chưa có hướng dẫn biểu mẫu đối với trường hợp bỏ trốn
trước khi thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc, việc đó gây khó khăn, lúng túng cho cơ quan công an thực hiện khi truy tìm
56
đối tượng. Việc thông báo bằng văn bản về việc lập hồ sơ cho người đề nghị thi
hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc người
đại diện có thẩm quyền của họ trên thực tế gây không ít khó khăn cho cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền do người nghiện khi nhận được thông báo sẽ bỏ trốn
khỏi nơi cư trú.
Quy định người nghiện thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc, đối với người có nơi cư trú ổn định theo khoản 1, Điều 9,
Nghị định 221/2013/NĐ-CP, trong đó yêu cầu: Quyết định của UBND cấp xã giao
cho gia đình quản lý người bị đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc. Thực tế, chưa có quy định xử lý như thế nào đối với trường
hợp người nghiện có nơi cư trú ổn định nhưng không có gia đình hoặc gia đình
không còn ai tại địa phương.
Nhiều trường hợp lợi dụng quy định tại khoản 2, 3 Nghị định 221/2013/NĐ-
CP, đang tham gia hoặc xin tham gia chương trình điều trị nghiện bằng thuốc thay
thế methadol, gây không ít khó khăn trong thẩm quyền thi hành thực thi công vụ.
Thứ hai, các biện pháp thực thi còn chưa phù hợp với tình hình kinh tế, xã
hội và trình độ quản lý của chính quyền cấp xã tại Việt Nam hiện nay nói chung
và thị xã Buôn Hồ, Đắk Lắk nói riêng, do cơ sở vật chất hiện có tại địa phương,
cụ thể là trạm y tế cấp xã về cơ sở vật chất, trang thiết bị và nguồn nhân lực chưa
bảo đảm được nhiệm vụ, thiết kế của các trạm y tế cấp xã không phù hợp để cắt
cơn và hỗ trợ y tế cho quy trình cai nghiện. Việc đầu tư xây dựng mới cơ sở điều
trị cắt cơn trên địa bàn xã hoặc liên xã rất khó khăn về vốn và năng lực vận hành,
đồng thời không bảo đảm tính hiệu quả thực hiện Đề án đổi mới công tác cai
nghiện trên địa bàn.
Việc liên kết với các xã khác hoặc kết hợp với các cơ sở cai nghiện và các
cơ sở khác được phép điều trị cắt cơn, rất khó thực hiện do cơ chế phối hợp chưa
rõ ràng và các cơ sở thường cách xa khu tập trung dân cư, hiện tại địa bàn tỉnh
57
Đắk Lắk chỉ có một cơ sở công lập. Biện pháp này không phù hợp, vì những
trường hợp phải áp dụng cai nghiện bắt buộc thường là những người có ý thức
tuân thủ không tốt và quyết tâm cai nghiện không cao, sau khi tập trung cắt cơn ít
ngày, nếu họ được đưa trở lại ngay môi trường xã hội thì rất có thể sẽ tái sử dụng
ma túy.
Chưa có những hướng dẫn cụ thể xác định tình trạng nghiện, thuốc, phác
đồ điều trị, cai nghiện các loại ma túy mới.
Các đối tượng hoạt động phạm tội về ma túy ngày càng có nhiều thủ đoạn
hoạt động, tinh vi, xảo quyệt, manh động để đối phó, chống đối lực lượng Cảnh
sát điều tra tội phạm về ma túy. Quá trình đấu tranh bắt quả tang các đối tượng
không khai nhận hành vi gây khó khăn trong công tác điều tra. Bắt quả tang các
đối tượng hoạt động phạm tội về ma túy có khả năng lây nhiễm HIV cho lực lượng
bắt. Hiện chưa có sẵn thuốc phơi nhiễm và xét nghiệm định kỳ cho lực lượng
Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy.
Việc xét nghiệm ma túy các đối tượng gặp nhiều khó khăn do các đối tượng
thường chống đối, né tránh. Việc tạm giữ các đối tượng để xác định tình trạng
nghiện ma túy phục vụ cho công tác lập hồ sơ chưa được pháp luật quy định. Đa
số việc xác định tình trạng nghiện ma túy còn thực hiện mang tính hình thức.
Việc đưa đối tượng đi cơ sở cai nghiện bắt buộc gặp khó khăn và nguy
hiểm. Việc triển khai thực hiện dự án “Xây dựng xã, phường thị trấn không có tệ
nạn ma túy” tuy có triển khai thực hiện nhưng chưa được các ban ngành đoàn thể
quan tâm, chưa thực hiện đồng bộ nên kết quả không cao.
Sau khi có quyết định của Tòa án đối tượng thường bỏ trốn dẫn đến phát
sinh thông báo truy tìm. Chưa có quy định cụ thể về việc tạm giữ hành chính đối
tượng có quyết định của Tòa án, về áp giải các đối tượng trong trường hợp tìm
thấy đối tượng bỏ trốn, chưa có quy định về thời hiện đối với các đội tượng đã bị
áp dụng biện pháp đưa vào ơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng trốn không thi hành.
58
Chưa có kinh phí chủ động cho công tác xét nghiệm ma túy đối với người nghi sử
dụng ma túy.
Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy chưa được cấp các trang
thiết bị, dụng cụ để thử chất ma túy, thử nhanh nước tiểu tìm chất ma túy. Chưa
được cấp các trang bị để bảo vệ cơ thể để phòng tránh lây nhiễm HIV.
Tình trạng sử dụng ma túy tổng hợp tại các cơ sở kinh doanh có điều kiện
về an ninh trật tự như: Karaoke, Nhà trọ, Nhà nghỉ, Khách sạn rất khó kiểm soát,
phát hiện. Các vụ sử dụng trái phép chất ma túy được phát hiện, xử lý đa phần là
do thực hiện các biện pháp nghiệp vụ. Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về
ma túy chưa được luật hóa để tiến hành các biện kiểm tra định kỳ công khai để
ngăn ngừa hoạt động tệ nạn và phạm tội về ma túy.
Bệnh viện đa khoa cấp huyện toàn tỉnh Đăk Lăk nói chung và Bệnh viện
đa khoa thị xã Buôn Hồ nói riêng chưa xét nghiệm và xác định tình trạng nghiện
được số đối tượng sử dụng các loại ma túy mới xuất hiện trên địa bàn thị xã như:
Cỏ mỹ, bóng cười, nước vui. Dẫn tới chưa xử lý các đối tượng sử dụng các loại
ma túy mới.
Tâm lí bao che, bảo vệ thành viên gia đình của người nhà các đối tượng
nghiện. Thực tế nhiều gia đình bao che cho thành viên gia đình đến mức người
nghiện nặng, có biểu hiện ăn trộm thì mới báo cơ quan Công an. Chưa có chế tài
pháp luật xử lý hành vi không chấp hành xét nghiệm ma túy, hành vi bao che đối
tượng liên quan đến ma túy. Công tác hỗ trợ các vấn đề xã hội sau cai nghiện ma
tuý còn nhiều hạn chế, số người sau cai nghiện được học nghề, dạy nghề, tạo việc
làm, hỗ trợ vay vốn tín dụng ưu đãi… chưa đạt chỉ tiêu so với kế hoạch đề ra. Chủ
yếu là người đang cai nghiện được bố trí lao động trị liệu, dạy nghề và cấp chứng
chỉ sơ cấp đối với những nghề giản đơn tại Cơ sở điều trị, cai nghiện ma túy tỉnh
Đắk Lắk.
59
Công tác tuyên truyền phòng chống các tệ nạn về ma túy đã được chú trọng
thực hiện thường xuyên liên tục. Nhưng phải nhìn thẳng thực tế biện pháp phòng
ngừa xã hội này có hai mặt tích cực và tiêu cực. Nếu tuyên truyền đến công dân
chấp hành tốt pháp luật thì hiệu quả tích cực. Trường hợp tuyên truyền đến một
bộ phận nhỏ công dân không có ý thức chấp hành pháp luật sẽ dẫn tới tò mò về
chất ma túy, coi sử dụng ma túy để thể hiện bản thân, coi phạm tội về ma túy là
biện pháp để mưu sinh, kiếm sống và một số đối tượng phạm tội sẽ hoạt động tinh
vi hơn.
Qua giám sát, Ban Pháp chế hội đồng nhân dân thị xã Buôn Hồ cũng đã chỉ
ra nhiều hạn chế về công tác cai nghiện và quản lý sau cai nghiện ma túy, đó là:
Hệ thống văn bản quy định liên quan đến công tác phòng, chống ma túy và cai
nghiện ma túy được ban hành tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, quá trình triển khai
thực hiện, phát sinh những bất cập, chưa phù hợp với tình hình thực tế ở địa
phương; công tác cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng hiệu quả chưa cao.
Cấp ủy, chính quyền địa phương ở một số nơi chưa thật sự coi trọng trong công
tác cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện, địa phương chưa đề ra những
biện pháp, giải pháp cụ thể, khả thi để thực hiện có hiệu quả mặt công tác này;
còn hiện tượng khoán trắng cho ngành Công an. Công tác quản lý, giám sát các
đối tượng còn lỏng lẻo, chưa chú trọng giúp đỡ, giáo dục người nghiện ma túy tái
hòa nhập cộng đồng, tình trạng kỳ thị vẫn còn diễn ra trong cộng đồng, đây là một
trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tái nghiện. Các chương trình an sinh
xã hội như xóa đói, giảm nghèo, học nghề, tạo việc làm, hỗ trợ vay vốn cho các
đối tượng này còn hạn chế... dẫn đến, tỷ lệ người tái nghiện còn cao.
Thứ ba, hiệu quả công tác điều trị nghiện ma túy khi thực hiện cai nghiện
ma túy tại các cơ sở cai nghiện với các biện pháp tổ chức cai nghiện bắt buộc, cai
nghiện tự nguyện, cai nghiện tại gia đình, cộng đồng khi trở về cộng đồng tỷ lệ
tái nghiện rất cao. Đối với nhiều trường hợp điều trị nghiện bằng thuốc thay thế
60
methadol vẫn đồng thời vi phạm vì sử dụng ma túy khác. Thậm chí đối với người
nghiện ma túy chấp hành án phạt tù nhiều năm khi trở về địa phương vẫn tái
nghiện.
Việc chữa trị tình trạng nghiện ma túy chưa có biện pháp hiệu quả áp dụng
đối với từng loại chất ma túy do người sử dụng. Điều trị nghiện ma túy còn phụ
thuộc vào thể trạng từng người (gen, sức khỏe, tâm lý, môi trường ...) nên gặp rất
nhiều khó khăn trong điều trị hiệu quả. Đây là lý do giải thích tại sao rất khó bỏ
ma túy và việc tái nghiện thường xảy ra sau quá trình điều trị, quản lý bắt buộc;
người nghiện có thể phải mất nhiều thời gian cố gắng mới từ bỏ được ma túy.
Thứ tư, chính sách đầu tư, nguồn nhân lực phát triển hệ thống trợ giúp xã
hội cho người sau cai, người có tiền sử nghiện ma túy còn hạn chế, thi hành pháp
luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện chưa chú trọng đầu tư cho công
tác dự phòng. Nguồn lực tài chính rất hạn chế, chưa tương xứng với nhiệm vụ
được giao, trong tổ chức thực hiện và cơ sở cai nghiện ma túy trên địa bàn có một
số hạng mục đã xuống cấp, còn nhiều hạng mục cần được đầu tư để thực hiện các
hoạt động chuyên môn cai nghiện cũng như nhu cầu văn hóa, giải trí của người
cai nghiện phù hợp với lộ trình chuyển đổi theo Đề án “Đổi mới công tác cai
nghiện ma túy” thực hiện nhiệm vụ cai nghiện.
Kinh phí cho công tác phòng chống ma túy tuy đã được quan tâm nhưng
còn thiếu so với thực tế. Kinh phí xét nghiệm chất ma túy, kinh phí đưa đối tượng
đi cai nghiện bắt buộc, kinh phí cho cán bộ quản lý giáo dục đối tượng nghiện về
quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường chưa
sẵn nguồn bố trí.Kinh phí đảm bảo thực hiện theo Thông tư số 148/2014/TT-BTC-
BLĐTB&XH với nhiều mức chi còn thấp hoặc chưa được quy định. Thực tế, công
tác lập hồ sơ, truy tìm đối tượng để đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện
được trích từ kinh phí chi thường xuyên của đơn vị nên còn gặp rất nhiều khó
khăn tổ chức, triển khai thực hiện.
61
Nguyên nhân
Do hệ thống văn bản pháp luật về phòng, chống ma túy và xử lý VPHC
hiện nay còn có những bất cập nhất định. Tính thực tiễn là yêu cầu cao nhất của
pháp luật. Nếu pháp luật không xuất phát từ yêu cầu thực tiễn hoặc nói cách khác
là không điều chỉnh những quan hệ thực tiễn mà xã hội đòi hỏi, thì pháp luật tự
nó không thể đi vào cuộc sống.
Ngoài Nghị định 116/2021/NĐ-CP đã được đề cập, Luật xử lý vi phạm
hành chính (Sửa đổi, bổ sung) đã kéo theo việc ra đời Nghị định 140/2021/NĐ-
CP ngày 31/12/2021 về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo
dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, thay thế cho các Nghị định cũ. Hai Nghị định
được ra đời trong cùng một bối cảnh nhưng nội dung về việc lập biên bản giao
nhận có sự khác nhau. Cụ thể tại khoản 4, Điều 13 Nghị định 140/2021/NĐ-CP
quy định rõ: “Việc giao, nhận hồ sơ phải được lập biên bản”, tuy nhiên tại Nghị
định 116/2021/NĐ-CP hoàn toàn không có quy định này. Nếu không có sự ràng
buộc giữa các cơ quan trong việc lập biên bản giao nhận hồ sơ đề nghị áp dụng
CNBB thì sẽ dẫn đến khi hồ sơ CNBB bị quá thời hạn giải quyết sẽ không làm rõ
được trách nhiệm cụ thể.
CNBB là một biện pháp xử lý hành chính, do đó các quy định điều chỉnh
việc xem xét áp dụng biện pháp xử lý hành chính nói chung cũng đồng thời điều
chỉnh việc xem xét áp dụng biện pháp CNBB.
Luật phòng, chống ma túy còn chưa có sự phù hợp và đồng bộ với Luật xử
lý VPHC. Nhiều quy định sửa đổi, bổ sung quy định về thi hành pháp luật về biện
pháp XLHC đối với người nghiện ma túy bằng thi hành pháp luật về biện pháp
XLHC đối với người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Nhiều quy định
trình tự, thủ tục đưa vào cai nghiện bắt buộc không phù hợp với thực tiễn: thủ tục
đưa vào cai nghiện quá phức tạp, qua nhiều cơ quan xét duyệt, mất nhiều thời
gian, người nghiện có nhiều cơ hội bỏ trốn.
62
Nguyên nhân của tệ nạn ma túy ở nước ta có rất nhiều, nhưng một trong
những nguyên nhân đầu tiên và quan trọng, đó là việc phân công quản lý nhà nước
về phòng, chống ma túy chưa hợp lý và điều này cần được tháo gỡ ở tầm quốc
gia, Chính phủ. Thời gian qua, tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn
cả nước nói chung và thị xã Buôn Hồ nói riêng có nhiều diễn biến phức tạp, tội
phạm không chỉ tập trung ở thành thị mà đã phát triển ở hầu hết các địa bàn nông
thôn; loại ma túy thẩm lậu vào nước ta chủ yếu là Heroin, các loại ma túy tổng
hợp và các loại chất gây nghiện. Nhiều vụ ma túy được phát hiện, bắt giữ với số
lượng ma túy lớn, nhiều đối tượng.
Người nghiện gia tăng, tạo ra nhu cầu sử dụng ma tuý rất lớn, càng kích
thích số đối tượng mua bán, vận chuyển ma tuý từ nước ngoài vào nước ta. Tệ
nạn ma túy cũng là nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng tệ nạn xã hội và lây nhiễm
HIV/AIDS, gây ra những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, xã hội và sức khỏe
cộng đồng; trở thành hiểm họa lớn, đe dọa giống nòi, gây mất ổn định chính trị -
xã hội… Gần đây là hiện tượng “ngáo đá” gây lo lắng cho xã hội.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Nghiên cứu thực tiễn, các số liệu thực hiện thi hành pháp luật về biện pháp
XLHC đưa người nghiện ma túy bắt buộc trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk
Lắk, giai đoạn 2018-2022 cho thấy tình hình nghiện ma túy trên địa bàn thị xã
Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk đang diễn ra theo xu hướng phức tạp, đòi hỏi các ngành,
các cấp chính quyền có các biện pháp, kế hoạch, giải pháp cơ bản làm giảm hành
vi sử dụng các chất ma túy trái phép tạo sự ổn định về an ninh, trật tự xã hội và
phát triển kinh tế địa phương.
Cùng với sự nỗ lực cố gắng của các lực lượng chức năng trong việc giữ gìn
ổn định an ninh, trật tự, an toàn xã hội, trong thời gian qua, tỉnh Đắk Lắk đã tích
cực làm tốt công tác đưa người nghiện đi cai. Trong đó phải kể đến là việc ban
63
hành các văn bản hướng dẫn quy trình từ khâu lập hồ sơ, phối hợp thực hiện nhằm
đạt được hiệu quả trong xác định đối tượng nghiện cũng như trình tự thủ tục đưa
người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Bên cạnh đó, Tỉnh Đắk Lắk đã linh hoạt tháo
gỡ những vướng mắc trong thực tiễn, có sự đầu tư ban đầu về cơ sở vật chất, chủ
động đưa ra các biện pháp áp dụng với những đối tượng chưa xác định được nơi
cư trú ổn định để góp phần vào giảm tác hại của ma túy đến tình hình an ninh, trật
tự xã hội địa phương. Tuy nhiên, rất nhiều khó khăn, bất cập còn tồn tại, đòi hỏi
phải có những giải pháp cụ thể bảo đảm hiệu quả thi hành pháp luật về biện pháp
XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
64
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH PHÁP LUẬT
VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN
BẮT BUỘC TẠI THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Phương hướng bảo đảm thi hành pháp luật về biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc – từ thực tiễn thị xã Buôn Hồ,
tỉnh Đắk Lắk
3.1.1. Thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc phải đúng quy định của pháp luật
Để bảo đảm việc biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có
hiệu quả, cần phải xây dựng cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy nhà nước chặt chẽ,
đầy đủ, hoạt động có hiệu quả, thực hiện thi hành pháp luật về biện pháp XLHC
này phải đúng quy định của pháp luật:
Tiếp tục tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh chỉ đạo các cấp, các ngành,
các cơ quan, đoàn thể và nhân dân thực hiện hiệu quả các quy định pháp Luật xử
lý VPHC, pháp luật phòng, chống ma túy, các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng,
Chính phủ và của tỉnh Đắk Lắk về công tác phòng, chống ma túy nói chung và
thực hiện các biện pháp cai nghiện ma túy (trong đó có cai nghiện bắt buộc) nói
chung và thị xã Buôn Hồ nói riêng. Nâng cao vai trò pháp luật trong quản lý nhà
nước pháp luật phòng, chống ma túy, các biện pháp quản lý người nghiện ma túy
theo quy định pháp luật. Trên cơ sở cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng
và Nhà nước và thực tế công tác phòng, chống ma túy, cai nghiện ma túy, làm
giảm ma túy trên 3 mục tiêu (giảm cung, giảm cầu, giảm tác hại), góp phần đảm
bảo trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, cụ thể: tiếp tục xây dựng, kiến nghị đề xuất
hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống ma túy, xử lý VPHC;
triển khai thực hiện đảm bảo tính khả thi khi thi hành pháp luật về biện pháp
65
XLHC đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên cơ sở pháp luật; tiếp tục thực
hiện xây dựng và đề xuất các ngành chức năng hoàn thiện các văn bản quy phạm
pháp luật về biện pháp giáo dục theo hướng can thiệp sớm đối với người sử dụng
ma túy dẫn đến tình trạng nghiện ma túy.
3.1.2. Thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc phải thực sự đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ
chức, cá nhân có liên quan
Việc thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa người vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc, phải thực sự đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân
có liên quan và đây chính là yêu cầu bảo đảm quyền con người, quyền công dân
đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Các cá nhân, tổ chức tham gia vào
hoạt động thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc này không những hiểu phải rõ hơn quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình mà
còn hiểu rõ hơn quyền và nghĩa vụ pháp lý của cơ quan quản lý nhà nước, người
có thẩm quyền trong mối quan hệ pháp luật này để lựa chọn hành vi xử sự phù
hợp theo nguyên tắc, thẩm quyền được giao. Nghiêm cấm những hành vi trái với
các quy định pháp luật như: có dấu hiệu tội phạm để xử lý VPHC; lợi dụng chức
vụ, quyền hạn để sách nhiễu, đòi, nhận tiền, tài sản của người vi phạm; dung túng,
bao che, hạn chế quyền của người VPHC khi xử phạt VPHC hoặc thi hành pháp
luật về biện pháp XLHC; không xử phạt VPHC, không thi hành pháp luật về biện
pháp biện pháp XLHC đối với đối tượng người nghiện theo quy định...
Pháp luật về Xử phạt VPHC thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa
vào cơ sở cai nghiện phải thể hiện đầy đủ, đúng đắn ý chí và nguyện vọng của
nhân dân trong công tác phòng ngừa, ngăn chặn những vi phạm. Công tác xây
dựng, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này cần lấy ý kiến sâu rộng trong Nhân
dân và lực lượng chuyên môn trong công tác điều trị nghiện. Qua đó tiếp thu và
cụ thể hóa sâu sắc ý chí và nguyện vọng của nhân dân ở các quy định pháp luật
66
cụ thể về biện pháp XLHC đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong lĩnh
vực cai nghiện ma túy nói chung và cai nghiện bắt buộc nói riêng, đồng thời thể
hiện được đầy đủ quan điểm của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước.
3.1.3. Bảo đảm công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện thi hành
pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Việc bảo đảm công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật ở Việt Nam là
yêu cầu, điều kiện tiên quyết trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Việc công khai,
minh bạch từ quá trình xử phạt VPHC đối với người sử dụng ma túy trái phép,
đến việc lập hồ sơ thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc và minh bạch trong khung pháp lý quyết định thời gian cai nghiện bắt
buộc nhằm đảm bảo nguyên tắc dân chủ trong hoạt động của nhà nước, ngăn ngừa
các hành vi tiêu cực của cơ quan nhà nước mà làm giảm hiệu quả hoạt động của
bộ máy nhà nước.
Do đó, nâng cao hiệu quả về biện pháp XLHC đối với người nghiện ma túy
là một vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở để đảm bảo tính nghiêm minh,
hiệu lực, hiệu quả của pháp luật về đảm bảo an ninh, trật tự xã hội. Để việc thi
hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có
hiệu quả thì trước tiên, pháp luật về biện pháp điều trị nghiện (cắt cơn, giải độc,
phục hồi sức khỏe sớm), giáo dục, lao động trị liệu trong thực hiện cai nghiện bắt
buộc trong việc thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc phải được hoàn thiện theo hướng tính toàn diện, đồng bộ, khoa học, thực
tiễn, công khai, minh bạch và dân chủ. Đồng thời, việc hoàn thiện pháp luật về xử
phạt VPHC đến thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc phải nhằm mục đích nâng cao hiệu quả thực tế, điều trị nghiện trong lĩnh
vực cai nghiện ma túy. Bởi việc công khai, minh bạch chính là cơ sở để đánh giá
mức độ hoàn thiện của pháp luật về ngăn chặn kịp thời điều trị nghiện trong thực
hiện biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
67
Việc xử lý VPHC về sử dụng trái phép các chất ma túy phải phù hợp với
thực tiễn phát triển của xã hội và trong một trật tự thống nhất. Mỗi khâu, mỗi giai
đoạn của quá trình xử lý phải được gắn kết với nhau thành một hệ thống thống
nhất có tác dụng hỗ trợ nhau để đảm bảo hiệu quả của hoạt động. Các quy định
của pháp luật về trình tự, thủ tục xử lý vi phạm phải được xây dựng đồng bộ, có
liên hệ và tác động qua lại chặt chẽ với nhau tạo thành một chỉnh thể từ đó giúp
cho công tác tuyên truyền, thanh tra, kiểm tra hoạt động XLHC được thuận lợi,
dễ dàng.
Hoạt động thi hành pháp luật về biện pháp quản lý, giáo dục tại xã, phường,
thị trấn khó phát huy tác dụng khi người nghiện ma túy đã lệ thuộc vào chất ma
túy nên cần được vận dụng một cách hợp lý, giảm áp lực cho chính quyền địa
phương. Việc công khai, minh bạch các biện pháp cai nghiện nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động này cần tính đến các điều kiện tương ứng và mục tiêu của hoạt
động điều trị nghiện ma túy là giảm cung, giảm cầu, giảm tác hại, do đó cân đối
các nguồn lực bảo đảm nội dung hoạt động được thực hiện.
Xuất phát từ kết quả nghiên cứu và phân tích thực trạng công tác cai nghiện
ma túy trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk và biện pháp XLHC đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc cho thấy tỉnh Đắk Lắk đã quan tâm chỉ đạo hoạt động
thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo
Luật xử lý VPHC, tỉnh đã quan tâm tháo gỡ những khó khăn trong từ thiết lập hồ
sơ đến hoạt động XLHC đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, xây
dựng các giải pháp thực hiện đồng bộ và thống nhất phù hợp với tình hình thực tế
tại địa phương cũng đảm bảo quyền con người theo Hiến pháp.
3.2. Các giải pháp bảo đảm thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
3.2.1. Giải pháp kiến nghị hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về thi
68
hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, do đó Nhà nước phải không ngừng
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn quản lý
xã hội thì mới quản lý xã hội được tốt. Pháp luật về xử phạt VPHC trong lĩnh vực
thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một
bộ phận của pháp luật nói chung và là công cụ của Nhà nước trong việc quản lý
người nghiện ma túy trong lĩnh vực đảm bảo an ninh, trật tự xã hội. Hoàn thiện
pháp luật về xử phạt VPHC trong lĩnh vực thi hành pháp luật về biện pháp XLHC
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một hoạt động được tiến hành thường xuyên,
liên tục nhằm đáp ứng với biến đổi không ngừng của đời sống xã hội, bảo đảm
cho công tác quản lý nhà nước đạt kết quả cao hơn. Thông qua hoạt động này, các
quy định của pháp luật được sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới cho phù
hợp với nhu cầu điều chỉnh của pháp luật về xử phạt VPHC trong lĩnh vực thi
hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc. Về
nội dung này, tác giả có một số giải pháp sau:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc thực hiện thi hành pháp luật
về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện theo Luật
sửa đổi bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính (Luật số
67/2020/QH14 ngày 13/11/2020); Luật phòng, chống ma túy năm 2021; Nghị
định 105/2021/NĐ-CP ngày 04/12/2021 của Chính phủ Quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Phòng, chống ma túy (Nghị định
105); Nghị định 116 quy định chi tiết một số điều của luật phòng chống ma túy,
luật xử lý vi phạm hành chính về cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện
(Nghị định 116); Nghị định 109/2021/NĐ-CP ngày 08/12/2021 của Chính phủ
quy định cơ sở y tế đủ điều kiện xác định tình trạng nghiện ma túy và hồ sơ, trình
tự, thủ tục xác định tình trạng nghiện ma túy (Nghị định 109); Thông tư
69
18/2021/TT-BYT ngày 16/11/2021 của Bộ Y tế quy định tiêu chuẩn chẩn đoán và
quy trình chuyên môn để xác định tình trạng nghiện ma túy.
Các Bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ để rà soát các
văn bản thuộc phạm vi quản lý của mình, thường xuyên cập nhật các văn bản pháp
luật mới ban hành để kịp thời đề xuất, tham mưu Chính phủ sửa đổi, bổ sung Luật
xử lý VPHC, Luật phòng, chống ma túy bảo đảm phù hợp với Hiến pháp và các
quy định của pháp luật nội dung cũng như yêu cầu của thực tiễn, tạo cơ sở pháp
lý bảo đảm cho công tác thi hành pháp luật về xử lý VPHC thi hành pháp luật về
biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện thống nhất,
đồng bộ và có hiệu quả trong phạm vi cả nước.
Trên thực tế, việc thi hành pháp luật về biện pháp cai nghiện bắt buộc của
Tòa án chưa thực sự tạo ra những thay đổi căn bản về chất đối với công tác cai
nghiện. Ngoài ra, hình thức và cách tổ chức các chương trình cai nghiện bắt buộc
không có những cải cách đáng kể so với trước nhưng thủ tục thực hiện rất khó
khăn tại địa phương. Quy định của pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể về
thời hạn thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
theo Luật xử lý VPHC năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), với thời gian cai
nghiện bắt buộc từ 12 tháng đến 24 tháng, nhưng chưa quy định rõ khung thời
gian cai nghiện với các tình tiết khác nhau. Do đó, pháp luật thi hành pháp luật về
biện pháp XLHC cần quy định cụ thể thời hạn thi hành pháp luật về biện pháp
XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện nhằm đảm bảo pháp luật được quy định rõ ràng
và áp dụng thống nhất, tránh trường hợp mỗi Tòa xét xử thời hiệu áp dụng khác
nhau.
Ngoài ra, cần tăng các chế tài về biện pháp quản lý đối với người sử dụng,
người nghiện để răn đe, phòng ngừa các VPHC trong lĩnh vực cai nghiện ma túy
vì các chế tài hiện nay chưa đủ mạnh.
Để phù hợp với Hiến pháp năm 2013, cũng như đáp ứng yêu cầu bảo đảm
70
an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới, sau 5 năm triển khai thực hiện
công tác cai nghiện bắt buộc nổi lên một số khó khăn, bất cập cần xem xét và có
giải pháp tháo gỡ về xác định tình trạng nghiện các chất ma túy; xác định người
bị đưa ra khỏi Chương trình điều trị Methadone và hiệu quả của cai nghiện tại gia
đình và cộng đồng. Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS, tệ nạn ma túy, mại dâm
đã chỉ đạo các ngành chức năng cần làm rõ ý kiến khác nhau giữa các cơ quan
gây khó khăn cho các địa phương.
Bên cạnh đó, cần thiết phải tập hợp và quy định rõ trong một văn bản quy
phạm pháp luật chung về xử phạt VPHC trong lĩnh vực thi hành pháp luật về biện
pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, để khi áp dụng pháp luật thì cơ
quan có thẩm quyền sẽ dễ dàng tìm hiểu và áp dụng đúng theo trình tự thủ tục một
cách chính xác, hiệu quả, nhanh chóng.
3.2.2. Nâng cao ý thức trách nhiệm của người thực thi công vụ
Việc xác định người nghiện ma túy là người bệnh mãn tính nên cần có biện
pháp can thiệp sớm để người nghiện có khả năng phục hồi sức khỏe. Khi con
người luôn được coi là trung tâm của sự phát triển xã hội, đặc biệt là thế hệ trẻ,
lực lượng lao động sản xuất góp phần phát triển kinh tế gia đình và xã hội. Để có
được một hệ thống quản lý an toàn đối với người nghiện ma túy thông qua biện
pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện, Đảng và Nhà nước ta nói chung và đối với
tỉnh Đắk Lắk nói riêng cần phải phát huy vai trò, trách nhiệm trong thi hành công
vụ, phải triệt để thi hành pháp luật trong việc hướng dẫn, chỉ đạo, thực thi nhiệm
vụ. Bên cạnh việc chuyển đổi, sắp xếp lại tổ chức quản lý tại các cơ sở cai nghiện
ma túy bắt buộc thành các cơ sở cai nghiện đa chức năng phục vụ công tác can
thiệp sớm, cần xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức có
thẩm quyền cai nghiện ma túy, cùng với đó cần phải không ngừng nâng cao trình
độ chuyên môn điều trị các chất ma túy, đặc biệt là ma túy tổng hợp và công tác
71
quản lý dự phòng tái nghiện tại gia đình và cộng đồng.
Trên thực tế hiện nay, công tác thiết lập hồ sơ thi hành pháp luật về biện
pháp cai nghiện bắt buộc nhiều cơ quan ban, ngành mang tính thủ tục hành chính,
thẩm quyền quản lý dẫn đến hiện tượng quản lý còn bỏ sót hoặc đùn đẩy trách
nhiệm làm giảm hiệu quả quản lý của hệ thống nhà nước về công tác cai nghiện
ma túy. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này là do việc quản lý một cách thiếu
khoa học cũng như sự thiếu sót của luật, liên quan đến cơ cấu, tổ chức và thẩm
quyền của các cơ quan liên quan, cần bổ sung chương can thiệp dự phòng nghiện
ma túy theo chuẩn quốc tế về dự phòng nghiện bao gồm các chương trình can
thiệp phổ quát, can thiệp chọn lọc và can thiệp chỉ định. Chính vì vậy, cần phải rà
soát lại tổ chức, cơ cấu của các cơ quan có thẩm quyền, dựa trên thực tế, kinh
nghiệm và kiến nghị lên các cơ quan có chức năng cấp trên có thẩm quyền nhằm
quy định rõ cơ cấu, thẩm quyền của từng cơ quan nhằm giảm thiểu thủ tục hành
chính kéo dài, nâng cao hiệu quả của công tác quản lý và xử phạt VPHC thi hành
pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với nhóm
người nghiện có nguy cơ làm mất an toàn, trật tự xã hội.
3.2.3. Kiện toàn bộ máy tổ chức, nâng cao năng lực thực thi công vụ
trong việc thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc
Do những khó khăn trong thực hiện thi hành pháp luật về biện pháp XLHC
đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, các hành vi sử dụng trái phép chất ma
túy dẫn đến gây nghiện và các biện pháp cai nghiện trên địa bàn thị xã Buôn Hồ,
tỉnh Đắk Lắk ngày càng đa dạng và tính chất, mức độ ảnh hưởng của ma túy rất
lớn đến sức khỏe bản thân, gia đình và toàn xã hội. Do đó, việc thực thi pháp luật
về XLHC đối với người sử dụng trái phép các chất ma túy nói chung, thi hành
pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện nói riêng có đạt được hiệu
quả, đảm bảo thực thi các quy định pháp luật, nâng cao chất lượng biện pháp
72
XLHC thì cần phải có đội ngũ công chức, viên chức, các ngành lực lượng chức
năng có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức tổ chức, kỷ luật, có năng lực, có
phẩm chất đạo đức. Bởi nếu hạn chế về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, suy thoái
về đạo đức, lối sống và phẩm chất chính trị sẽ dẫn đến việc thực thi pháp luật
không đảm bảo tuân thủ các quy định pháp luật, làm cho quyết định thực thi thi
hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc khi ban
hành thiếu tính nghiêm minh, khó thực thi, có thể dẫn đến khiếu nại, khiếu kiện,
không đạt hiệu quả về an ninh, trật tự xã hội. Vì thế để kiện toàn bộ máy và nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng chức năng có
nâng cao năng lực thực thi công vụ trong xử phạt VPHC lĩnh vực thi hành pháp
luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và thực thi nhiệm vụ
tại các cơ sở cai nghiện trên địa bàn thì cần nhiều giải quyết nhiều vấn đề.
Tích cực “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, thực
hiện nghiêm túc Chỉ thị 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh: gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh với việc xây dựng và phát triển con người Việt
Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Tăng
cường thực hiện quy chế dân chủ ở cơ quan, đơn vị, chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương,
đạo đức công vụ của cán bộ, công chức. Tích cực nâng cao trình độ của đội ngũ
cán bộ tại cơ sở trong việc thiết lập hồ sơ thi hành pháp luật về biện pháp xử lý
VPHC cai nghiện bắt buộc đúng đối tượng, mục đích. Công tác đào tạo thường
xuyên cho các cán bộ y tế trong việc xác định người nghiện được chú trọng. Do
lĩnh vực cai nghiện ma túy là diễn biến rất phức tạp ảnh hưởng đến cuộc sống
thường ngày của người dân. Các văn bản thường xuyên thay đổi các văn bản quy
phạm pháp luật nên công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ làm công tác
hỗ trợ phòng tránh, cai nghiện là vô cùng quan trọng, cần phải thường xuyên cử
cán bộ tham gia các lớp tập huấn không chỉ ở địa phương mà còn phải đưa đi học
73
tập các kinh nghiệm quản lý cai nghiện ma túy tại các tỉnh khác. Thường xuyên
cập nhật, tuyên truyền đến đội ngũ công chức, viên chức các chủ trương, chính
sách, văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác cai nghiện ma túy, tổ
chức các lớp tập huấn, hướng dẫn, nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ ngành.
Ngoài ra cũng cần phải chú trọng đến công tác tuyển dụng, tinh giảm biên
chế. Cần phải dựa trên tình hình thực tế của địa phương mà có thể tuyển dụng
những cá nhân có tiềm năng và có trình độ chuyên môn cao có thể đáp ứng yêu
cầu công việc. Lãnh đạo các ngành chức năng liên quan cần phải thực hiện các
chính sách cho phù hợp để có thể thu hút nhân tài cho sự phát triển của địa phương
nói riêng cũng như sự phát triển của cả tỉnh nói chung. Cần xây dựng nên các tiêu
chí cho tuyển dụng cũng như các chính sách ưu đãi để thu hút người tài cho sự
phát triển đất nước. Tuy nhiên, trong xu thế của cả nước và việc tinh giảm biên
chế, tỉnh Đắk Lắk cũng cần phải đề cao việc nâng cao hiệu quả quản lý, thực hiện
tinh giảm biên chế, không tuyển dụng tràn lan mà chỉ dựa trên yêu cầu công việc
tìm ra những nhân tài phục vụ sự phát triển của tỉnh.
Có kế hoạch rà soát, đánh giá, kiểm tra công chức khi thi hành công vụ;
kiên quyết xử lý, loại bỏ các cán bộ, công chức, viên chức không đủ năng lực,
trình độ chuyên môn, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đồng thời có biểu
hiện tiêu cực trong công thực thi pháp luật nhằm củng cố và tạo niềm tin cho
người dân vào các cơ quan thực thi pháp luật.
Ngoài ra, cần có một yếu tố vô cùng quan trọng là đào tạo được một đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng chức năng chuyên về thực hiện
các công việc như Sở Tư pháp phải thường xuyên kiểm tra, đối chiếu và rà soát,
so sánh hệ thống hóa pháp luật để kịp thời phát hiện những điểm không phù hợp
trong nội dung, cũng như hình thức của pháp luật về xử phạt vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực cai nghiện bắt buộc, để từ đó có kiến nghị điều chỉnh kịp thời, đảm
74
bảo tính thống nhất và đồng bộ.
3.2.4. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế phối hợp thực hiện trong việc tổ chức
lập hồ sơ thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, do đó Nhà nước phải không ngừng
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn quản lý
xã hội thì mới quản lý xã hội được tốt. Pháp luật về xử phạt VPHC trong việc thi
hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một bộ
phận của pháp luật nói chung và là công cụ của Nhà nước trong việc quản lý người
nghiện trong lĩnh vực đảm bảo an ninh, trật tự xã hội. Hoàn thiện pháp luật từ xử
phạt VPHC đến các biện pháp XLHC áp dụng quản lý giáo dục trong lĩnh vực cai
nghiện bắt buộc là một hoạt động được tiến hành thường xuyên, liên tục nhằm
đáp ứng với biến đổi không ngừng của đời sống xã hội, bảo đảm cho công tác
quản lý nhà nước đạt kết quả cao hơn. Thông qua hoạt động này, các quy định
của pháp luật được sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới cho phù hợp với
nhu cầu điều chỉnh của pháp luật về xử phạt VPHC trong thi hành pháp luật về
biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Về nội dung này, tác giả có
một số giải pháp sau:
Tổ chức tốt công tác phối hợp với các cơ quan quản lý chức năng có liên
quan trong việc phát hiện, xử lý các vi phạm pháp luật về lập hồ sơ cai nghiện bắt
buộc các ngành: Công an, Y tế, LĐ-TB&XH, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân… để phòng ngừa, phát hiện và xử lý kịp thi hành pháp luật về biện pháp
XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, qua đó có cơ chế xử lý phù hợp với
tính chất, mức độ vi phạm, thống nhất ranh giới giữa các biện pháp áp dụng cai
nghiện theo quy định pháp luật.
Phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan (Tài chính, Đoàn thanh niên,
Ủy ban mặt trận tổ quốc tỉnh, cơ quan thông tin, truyền thông…), xây dựng mạng
75
lưới thông tin rộng, nắm bắt các chương trình cai nghiện ma túy, biện pháp XLHC
đối với người nghiện có thể thu thập, xác minh thông tin thực hiện các quy định
hành chính về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cũng như đưa
ra các biện pháp phù hợp để thi hành pháp luật.
Tổ chức báo cáo, đánh giá định kỳ công tác phối kết hợp giữa các ngành
chức năng liên quan trong thực thi pháp luật thi hành pháp luật về biện pháp
XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc để có những kiến nghị và biện pháp xử
lý kịp thời.
3.2.5 Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về vi phạm pháp luật
trong công tác cai nghiện ma túy
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Hiến
pháp năm 2013 đã khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp
luật”. Nhiệm vụ đầu tiên là phải ban hành pháp luật, tiếp đến là tổ chức thực hiện
pháp luật, trong đó, nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được
xem là cầu nối giữa đưa các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến
với các tầng lớp nhân dân. Mục đích của nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật là nhằm xây dựng ý thức pháp luật, làm cho nhân dân, cán bộ, công
chức có lòng tin vào pháp luật, có thói quen, động cơ tích cực trong thực hiện
pháp luật. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải thực
hiện thường xuyên, liên tục, thực hiện nhiều nội dung, phong phú về hình thức,
không chỉ bằng lời nói mà bằng hình ảnh minh họa, thực hiện càng nhiều càng
tốt, khi nào hoạt động tuyên truyền đến với đối tượng được tuyên truyền biến
thành hành động trong thực tế thì hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật mới thực sự có hiệu quả.
Công tác tuyên truyền pháp luật được coi là một trong những biện pháp
quan trọng giúp người dân hiểu và tuân thủ pháp luật phòng, chống ma túy và
công tác cai nghiện ma túy một cách nghiêm túc và có tính bền vững. Do vậy,
76
công tác tuyên truyền pháp luật phòng, chống ma túy được Uỷ ban nhân dân tỉnh
Đắk Lắk đặc biệt quan tâm chỉ đạo thực hiện, phát động nhiều chương trình, kế
hoạch nhằm đưa các giải pháp về công tác cai nghiện ma túy vào thực tiễn cuộc
sống bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng để đảm bảo an ninh, trật tự xã hội.
Hiện nay, trình độ nhận thức pháp luật nói chung và Luật phòng, chống ma túy
lĩnh vực cai nghiện ma túy nói riêng của cán bộ, nhân dân còn nhiều hạn chế, nhất
là lứa tuổi thanh, thiếu niên...Một bộ phận không nhỏ thanh niên chơi bời có ý
thức kém, thói quen tùy tiện sử dụng các chất gây nghiện kích thích, tính tò mò
dẫn đến nghiện ma túy. Công tác tuyên truyền, hướng dẫn cách phòng tránh là
biện pháp tiên phong nâng cao ý thức trách nhiệm của từng cá nhân, gia đình và
cộng đồng để giảm việc sử dụng chất kích thích gây nghiện. Do vậy cần tuyên
truyền về hiểm họa và tác hại của ma túy, việc sử dụng ma túy đối với thế hệ trẻ.
Khi đã nghiện ma túy cần tự giác điều trị nghiện bằng các hình thức cai nghiện tự
nguyện và Nhà nước hỗ trợ cai nghiện tự nguyện, nếu không chấp hành tự giác
cai nghiện thì thực hiện theo Luật xử lý VPHC thi hành pháp luật về biện pháp
XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Nghị định 116/2021/NĐ-CP.
Kết hợp giữa giáo dục có tính cộng đồng với giáo dục theo đối tượng, kết
hợp giáo dục gia đình với nhà trường và xã hội, kết hợp giữa giáo dục và biện
pháp cưỡng chế thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện,
phải tiến hành thường xuyên, liên tục. Chương trình kế hoạch cụ thể, xây dựng
đội ngũ tuyên truyền viên có nhiệt huyết, đủ trình độ hiểu biết pháp luật phòng,
chống ma túy và công tác cai nghiện ma túy, gương mẫu trong việc chấp hành
pháp luật phòng, chống ma túy. Chỉ khi làm được như vậy thì chủ trương đưa
pháp luật vào đời sống mới thực sự đạt hiệu quả cao.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về xử lý VPHC đối
với việc sử dụng chất ma túy cả về chiều rộng và sâu, tuyên truyền phải đến được
từng nhóm nguy cơ dẫn đến gây nghiện. Công tác tuyên truyền, giáo dục vừa là
77
biện pháp trước mắt, vừa là biện pháp lâu dài đòi hỏi các nhà quản lý phải kiên
trì, tiếp tục sáng tạo để nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật liên quan
đến việc sử dụng trái phép chất ma túy dẫn đến gây nghiện.
Bằng những hình thức tuyên truyền khác nhau, khi thi hành pháp luật về
biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật xử lý VPHC và các
hình thức cai nghiện ma túy. Việc thực hiện pháp luật thi hành pháp luật về biện
pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện dần được tháo gỡ khó khăn.
Trong những năm tới để thực hiện giảm thi hành pháp luật về biện pháp
XLHC đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, tỉnh Đắk Lắk cần thực hiện đồng
bộ nhiều chính sách hỗ trợ người nghiện ma túy cai nghiện ma túy tự nguyện, sử
dụng điều trị thuốc thay thế các chất dạng thuốc phiện tại cộng đồng và có biện
pháp quản lý hiệu quả công tác cai nghiện, dự phòng tái nghiện tại cộng đồng.
Các cấp, các ngành trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình cần tiếp tục thực
hiện thường xuyên công tác tuyên truyền và cần tập trung vào vai trò của các cấp
ủy, chính quyền các cấp về công tác phòng chống ma túy nói chung và biện pháp
XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện, các giải pháp tuyên truyền cụ thể phòng, chống
sử dụng ma túy tại cộng đồng như:
+ Tuyên truyền miệng: đây là hình thức người nói trực tiếp với người nghe,
tuyên truyền sân khấu hóa thu hút người dân về những nội dung, những quy định
của pháp luật phòng, chống ma túy;
+ Tuyên truyền qua phương tiện thông tin truyền thông: Báo viết, báo điện
tử, đài phát thanh, đài truyền hình là những phương tiện thông tin truyền thông
phục vụ đắc lực công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật phòng, chống ma túy.
Về hình thức tuyên truyền giáo dục pháp luật phòng chống ma túy và tác hại của
việc sử dụng ma túy tiếp tục đưa tin thời sự, bài viết phản ánh tình hình sử dụng
các chất ma túy và các biện pháp xử XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc,
phát các chuyên mục về tác hại của việc sử dụng ma túy, nêu lên các vụ án xảy ra
78
trong việc sử dụng chất ma túy, phân tích nguyên nhân gây vi phạm từ đó làm
giảm thiểu việc sử dụng chất ma túy và biện pháp phòng ngừa.
+ Tuyên truyền bằng khẩu hiệu: Cắt dán các khẩu hiệu tuyên truyền Pano,
áp phích, nhắc nhở không sử dụng các chất ma túy mà pháp luật nghiêm cấm trên
các đường chính, nhà văn hóa của khu dân cư, của cấp chính quyền xã, phường,
thị trấn, các cơ quan, trường học các khẩu hiệu như: “Hãy nói không với ma túy”;
“Phòng, tránh ma túy là hạnh phúc cho mỗi người"; "Hãy suy nghĩ trước khi bắt
đầu sử dụng ma túy”; “Chung tay xây dựng một xã hội lành mạnh, nói không với
ma túy” …
+ Phát động các cuộc thi tìm hiểu pháp luật phòng, chống ma túy: Đối
tượng cần tập trung ở đây cần là học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên, cán bộ,
công chức, viên chức; cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân...
Công tác tuyên truyền, giáo dục phòng ngừa vừa là biện pháp rước mắt,
vừa là biện pháp lâu dài, phải làm kiên trì, liên tục, sáng tạo để nâng cao nhận
thức, ý thức chấp hành pháp luật không sử dụng trái phép chất ma túy, hình thành
cho được nếp sống lành mạnh;
3.2.6. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật thi hành
pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt
buộc
Đi đôi với công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật về phòng,
chống ma túy phải nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, rà soát, đôn đốc hướng
dẫn xử phạt VPHC lĩnh vực sử dụng trái phép chất ma túy dẫn đến nghiện ma túy.
Phải coi thi hành pháp luật về biện pháp xử phạt VPHC là một biện pháp giáo dục
có tính hiệu quả, nhất khi đánh vào kinh tế của mỗi cá nhân, biện pháp khắc phục
đối với người lạm dụng chất ma túy. Xử phạt vi phạm phải kiên quyết, nghiêm
minh, công khai, minh bạch. Trong thực hiện kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực
hiện theo quy định pháp luật, lực lượng công an giữ vai trò nòng cốt trong việc
79
thiết lập hồ sơ là đặc biệt quan trọng; cần huy động tối đa lực lượng tham gia bảo
đảm trật tự an toàn xã hội.
Kiểm tra việc thực hiện về đối tượng, trình tự, thủ tục lập hồ sơ, khó khăn,
vướng mắc cần rút ngắn thời gian cũng như XLHC người nghiện ma túy chưa kịp
thời. Trong thời gian chờ có quyết định thi hành pháp luật về biện pháp XLHC
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định sẽ
được đưa về gia đình quản lý. Việc gia đình người nghiện ma túy quản lý người
nghiện ma túy không có kiến thức chuyên môn trong việc quản lý người nghiện
ma túy dẫn tới tình trạng nghiện vẫn tiếp tục tiếp diễn trong thời gian chờ quyết
định của Tòa án cấp huyện hoặc bỏ trốn khỏi nơi cư trú.
Giám sát việc thực hiện các quy định pháp luật về cai nghiện như cai nghiện
tự nguyện, cai nghiện bắt buộc, các hoạt động chuyên môn điều trị các chất ma
túy khác nhau, các chế độ trợ cấp và biện pháp hỗ trợ người cai nghiện phục hồi.
Bên cạnh đó cũng giám sát về việc quy hoạch các cơ sở cai nghiện với mục tiêu
giảm cai nghiện bắt buộc và tăng cường cai nghiện tự nguyện.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Để hạn chế thấp nhất tác động của ma túy đến người sử dụng trong lĩnh vực
phòng, chống tệ nạn ma túy nói chung và biện pháp XLHC đưa người vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk nói riêng, đảm bảo
pháp luật được thực thi có hiệu quả với các chủ chương, chính sách pháp luật của
Nhà nước, qua nghiên cứu, đã đề ra một số phương hướng chung của tỉnh là giảm
cung, giảm cầu, giảm tác hại của ma túy gây ra. Biện pháp XLHC đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc phải đúng theo quy định pháp luật, phải đảm bảo công khai,
minh bạch; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp các bên liên quan và đưa ra các giải
pháp: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về công tác
cai nghiện ma túy nói chung và biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy
80
bắt buộc; kiện toàn bộ máy tổ chức, nâng cao năng lực thực thi công vụ; xây dựng,
tổ chức thực hiện tốt quy chế phối hợp giữa các cơ quan có liên quan; bảo đảm cơ
sở vật chất; tăng cường công tác kiểm tra, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm
pháp luật; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về lĩnh
vực cai nghiện ma túy nói chung và biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc.
Triển khai thực hiện tốt một số chủ trương, giải pháp, phương hướng đã
nêu trên góp phần thực hiện có hiệu quả công tác cai nghiện ma túy, thi hành pháp
luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đảm bảo tính thực thi
pháp luật cao, nâng cao ý thức chấp hành và thực thi pháp luật trong lĩnh vực tổ
chức thực hiện thi hành pháp luật về biện phápXLHC đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc, thấy được tầm quan trọng của hoạt động cai nghiện ma túy để từ đó hạn
chế tối đa tình trạng vi phạm pháp luật ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và an toàn
xã hội tại địa phương.
81
KẾT LUẬN
Qua đánh giá thực trạng xử phạt VPHC đối với người nghiện ma túy, lĩnh
vực thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên
địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk nhận thấy vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế
trong công tác xác định đối tượng lập hồ sơ thi hành pháp luật về biện pháp XLHC
đưa vào cơ sở cai nghiện của tỉnh. Thực tế triển khai còn nhiều bất cập trong hệ
thống các quy định hiện hành trong thiết lập hồ sơ. Do đó, số lượng lập hồ sơ
người nghiện ma túy qua vi phạm pháp luật phòng, chống ma túy và biện pháp
XLHC đưa người nghiện trên địa bàn vẫn còn nhiều khó khăn nhằm đảm bảo an
ninh, trật tự, an toàn xã hội. Các giải pháp thực hiện của tỉnh tháo gỡ những khó
khăn với thực trạng người nghiện luôn có xu hướng gia tăng cả về số lượng cũng
như mức độ ảnh hưởng thiệt hại đến sức khỏe con người. Đây là một trong những
bài toán làm đau đầu các nhà chức trách làm thế nào để ngăn chặn, đẩy lùi vi phạm
và kiềm chế tình trạng nghiện ma túy góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản
lý và điều trị nghiện ma túy, giảm tỉ lệ tái phạm tội, đồng thời bảo đảm các quyền
cơ bản của công dân theo tinh thần cải cách tư pháp.
Hệ quả dẫn tới hiệu lực pháp luật phòng, chống và kiểm soát ma túy cũng
như tác hại khôn lường trong việc sử dụng ma túy, đảm bảo trật tự, kỷ cương pháp
luật. Chính vì vậy, với một số giải pháp mà học viên đề xuất nhằm xác định rõ đối
tượng là người nghiện ma túy thi hành pháp luật về biện pháp cai nghiện bắt buộc
trong vi phạm pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác thiết lập hồ sơ, tổ chức thực
hiện thi hành pháp luật về biện pháp cai nghiện bắt buộc địa bàn thị xã Buôn Hồ,
tỉnh Đắk Lắk. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong việc tìm ra giải pháp
nhất định hạn chế vi phạm pháp luật, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về biện
pháp cai nghiện trên địa thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk, cũng như thực hiện hoạt
động tuyên truyền giáo dục pháp luật, phòng, chống ma túy và công tác cai nghiện
phục hồi một cách có hiệu quả, đi vào thực tế đời sống nhân dân. Đổi mới, đa
82
dạng hóa công tác cai nghiện ma túy, đặc biệt là thi hành pháp luật về biện pháp
cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy, đảm bảo an ninh trật tự góp
phần cho sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban chỉ đạo phòng chống tệ nạn xã hội, tỉnh Đắk Lắk (2014), Báo cáo 1.
công tác đảm bảo trật tự an toàn xã hội, Đắk Lắk;
Bộ Chính trị (1996), Chỉ thị số 06-CT/TW, về tăng cường sự lãnh đạo, 2.
chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy.
Bộ chính trị (2008), Chỉ thị số 21-CT/TW, về tiếp tục tăng cường sự lãnh 3.
đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới.
Bộ chính trị (2014), Kết luận số 95-KL/TW, về tiếp tục tăng cường sự 4.
thực hiện chỉ thị 21-CT/TW ngày 26-3-28 về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ
đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới.
Bộ Lao động – Thương binh và xã hội (2016), Báo cáo kết quả thực hiện 5.
Đề án Đổi mới công tác cai nghiện ma túy tại Việt Nam đến năm 2020, Hà Nội;
Nguyễn Ngọc Bích (2003), Hoàn thiện pháp luật về xử lý hành chính 6.
với người chưa thành niên, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội;
Nguyễn Trọng Bình (2002), Hoàn thiện các quy định pháp luật về các 7.
hình thức xử phạt vi phạm hành chính, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật
Hà Nội;
Chính phủ (2021), Nghị định số 116/2021/NĐ-CP ngày 21/12/2021 quy 8.
định chi tiết một số điều của luật phòng, chống ma túy, luật xử lý vi phạm hành
chính về cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện ma túy, Hà Nội;
Chính phủ (2021), Nghị định 109/2021/NĐ-CP, ngày 08/12/2021, Hà 9.
Nội.
10. Chính phủ (2021), Nghị định 105/2021/NĐ-CP, ngày 04/12/2021, Hà
Nội.
2
11. Chính phủ (2011), Quyết định số 1001/QĐ-TTg ngày 27/6/2011 phê
duyệt Chiến lược Quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma túy ở Việt Nam đến
năm 2020 và định hướng đến năm 2030, Hà Nội;
12. Chính phủ (2013), Quyết định số 1640/QĐ-TTg Phê duyệt Quy hoạch
mạng lưới cơ sở cai nghiện ma túy đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030,
Hà Nội;
Chính phủ (2013), Quyết định số 2596/QĐ-TTg ngày 27/12/2013 phê 13.
duyệt Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020, Hà
Nội;
Chính phủ (2014), Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 26/12/2014 về tăng 14.
cường chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong
tình hình mới, Hà Nội;
Chính phủ (2014), Quyết định số 2187/QĐ-TTg ngày 05/12/2014 phê 15.
duyệt kế hoạch đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020,
Hà Nội;
Công an thị xã Buôn Hồ (2017), Báo cáo tổng kết công tác đấu tranh 16.
phòng, chống tội phạm ma túy từ năm 2017, Đắk Lắk.
Công an thị xã Buôn Hồ (2018), Báo cáo tổng kết công tác đấu tranh 17.
phòng, chống tội phạm ma túy từ năm 2018, Đắk Lắk.
Công an thị xã Buôn Hồ (2019), Báo cáo tổng kết công tác đấu tranh 18.
phòng, chống tội phạm ma túy từ năm 2019, Đắk Lắk.
Công an thị xã Buôn Hồ (2020), Báo cáo tổng kết công tác đấu tranh 19.
phòng, chống tội phạm ma túy từ năm 2020, Đắk Lắk.
Liên ngành Đắk Lắk (2015), Quy chế phối hợp liên ngành số 33/QCLN- 20.
LĐTBXH-YT-CAT-TA ngày 08/7/2015, phối hợp lập hồ sơ và tổ chức cai
nghiện ma túy trên địa bàn, Đắk Lắk;
3
Lê Đức Hiền (2019), “Những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức cai 21.
nghiện ma túy và một số đề xuất, kiến nghị”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, nghiệp
vụ, khoa học, Học viện Cảnh sát nhân dân.
Phạm Tiến Thành (2014), với đề tài luận văn thạc sĩ “Từ biện pháp xử 22.
lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh đến biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc” bảo vệ tại Học viện khoa học xã hội Việt Nam.
Lê Văn Khánh (2017), Một số khó khăn bất cập trong thực hiện biện 23.
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Cục Phòng, chống
tệ nạn xã hội, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội;
Bùi Thị Xuân Mai (chủ biên) (2013), Giáo trình Ma túy và xã hội, NXB 24.
Lao động – Xã hội;
Bùi Thị Xuân Mai, Nguyễn Tố Như (2013), Tham vấn điều trị nghiện 25.
ma túy, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội.
Hà Phong (2019), “Khó khăn trong công tác cai nghiện bắt buộc”, Báo 26.
Hà Nội mới, Hà Nội;
Quốc hội (2015), Luật số 99/2015/QH13 Luật tổ chức cơ quan điều tra 27.
hình sự;
Quốc hội (2015), Luật số 99/2015/QH13 Luật tổ chức cơ quan điều tra 28.
hình sự;
Quốc hội (2015), Luật số 100/2015/QH13 Bộ luật hình sự; 29.
Quốc hội (2015), Luật số 101/2015/QH13 Bộ luật Tố tụng hình sự; 30.
31. Quốc Hội (2020), Luật xử lý vi phạm hành chính ngày 20/6/2012, sửa
đổi bổ sung ngày 13/11/2020, Hà Nội;
32. Quốc Hội (2021), Luật phòng, chống ma túy, Hà Nội.
Lê Anh Sơn (2018), “Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc – Một số vấn 33.
đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, Hà Nội;
4
Dương Thị Bích Hạnh (2014), với luận văn thạc sĩ “Bảo vệ quyền con 34.
người trong quá trình áp dụng các biện pháp xử lý hành chính”, Đại học quốc
gia Hà Nội;
Vũ Thư (1996), Chế tài hành chính – lý luận và thực tiễn, Luận án Phó 35.
Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội;
Tỉnh ủy Đắk Lắk (2017), Tổng kết Hội nghị quán triệt triển khai Kết 36.
luận số 21-KL/TW về “Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác
phòng, chống ma túy trong tình hình mới, Đắk Lắk;
Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2015), Quyết định số 1395/QĐ-UBND 37.
ngày 04/8/2015 ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án đổi mới công tác cai
nghiện ma túy đến năm 2020, Đắk Lắk;
Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2018), Quyết định số 554/QĐ-UBND 38.
ngày 07/3/2018 ban hành Quy chế phối hợp trong việc lập hồ sơ, tổ chức cai
nghiện ma túy đối với người bị xem xét thi hành pháp luật về biện pháp XLHC
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Đắk Lắk;
39. Ủy ban thường vụ Quốc Hội (2022), Pháp lệnh số 01/2022/UBTVQH15,
ngày 24/3/2022, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Quyết định số 39/QĐ-VKSTC- 40.
V9 về việc giao bổ sung nhiệm vụ kiểm sát xem xét, quyết định thi hành pháp
luật về biện pháp XLHC tại Tòa án nhân dân, Hà Nội;
Tác giả Nguyễn Hoàng Việt (2019), “Hoàn thiện quy định của pháp 41.
luật về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở vai
nghiện bắt buộc”.
Nhóm tác giả Cao Vũ Minh, Nguyễn Nhật Khanh (2016), “Những bất 42.
cập trong các quy định về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và các
kiến nghị hoàn thiện”. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.