BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Y SƠ MI NIÊ KĐĂM

THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

ĐẮK LẮK - NĂM 2023

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Y SƠ MI NIÊ KĐĂM

THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI THỊ THANH THUÝ

ĐẮK LẮK - NĂM 2023

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi

và được sự hướng dẫn khoa học của TS. Bùi Thị Thanh Thúy. Các số liệu sử

dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo đúng quy

định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích một

cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các kết

quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác. Tôi xin

cam đoan và chịu trách nhiệm về nội dung luận văn của mình.

.

HỌC VIÊN

Y Sơ Mi Niê Kđăm

LỜI CẢM ƠN

Em xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, tập thể quý thầy/cô giáo và toàn thể

cán bộ, viên chức đang công tác tại Học viện Hành chính Quốc gia đã giúp đỡ,

tạo điều kiện thuận lợi cho em học tập và nghiên cứu chương trình đào tạo Thạc

sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính trong suốt thời gian qua.

Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến TS. Bùi Thị Thanh

Thúy, cô đã dành nhiều thời gian và tâm huyết để truyền đạt cho em kinh

nghiệm, phương pháp nghiên cứu khoa học, trình bày một đề tài khoa học và

đã tận tình hướng dẫn, góp ý đề tài với tinh thần và trách nhiệm cao, luôn quan

tâm và tạo điều kiện tốt nhất để em hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Em xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ lãnh đạo, anh chị em đồng nghiệp

trong Cơ quan đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho em được nghiên cứu và

hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, anh em bạn bè đã luôn chia sẻ,

động viên và tích cực giúp đỡ, hỗ trợ em trong suốt quá trình học tập.

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp lý của thi hành pháp luật về biện pháp xử lý

hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ……..................................... 11

1.1 Khái quát về xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc……..11

1.2. Thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc…………………………………………………………….. 16

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ……………………………..……………………..36

Chương 2. Thực trạng thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk…….…….38

2.1. Đặc điểm tình hình tỉnh Đắk Lắk có ảnh hưởng thi hành pháp luật về biện

pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc……….……38

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk…..….….43

2.3. Đánh giá tình hình pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk ……………..……52

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2…………………………………..………………...65

Chương 3. Phương hướng và giải pháp bảo đảm thi hành pháp luật về biện

pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thị xã Buôn Hồ,

tỉnh Đắk Lắk ………………………………………………………..………66

3.1. Phương hướng bảo đảm thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc - từ thực tiễn tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk

Lắk………………………………………………….…………………….....66

3.2. Các giải pháp bảo đảm thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk……....70

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3…………………………………..………………...82

KẾT LUẬN………………………………………………..………………..83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………….………………….85

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

DIỄN GIẢI KÝ HIỆU VIẾT TẮT

Xử lý hành chính XLHC

LĐ-TB&XH Lao động – Thương binh và xã hội

VPHC Vi phạm hành chính

GDTXPTT Giáo dục tại xã phường thị trấn

CNBB Cai nghiện bắt buộc

DANH MỤC BẢNG, BIỂU

Nội dung Tên bảng, biểu Trang

Bảng 2.1 43

Tổng hợp thống kê người nghiện ma túy tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk

Bảng 2.2 46

Thống kê thiết lập hồ sơ cai nghiện bắt buộc Công an thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk

Bảng 2.3 49

Tiếp nhận điều trị cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện ma túy giai đoan 2018-2020

Bảng 2.4 50

Tiếp nhận điều trị cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện giai đoạn 2020 đến tháng 12 năm 2022

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã và

đang thực hiện đường lối đổi mới và thu được những thành tựu quan trọng trên

nhiều phương diện khác nhau: kinh tế đất nước luôn tăng trưởng ở mức cao và

ổn định, đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện, chính trị ổn định, an

ninh quốc phòng được giữ vững, quan hệ với nước ngoài được mở rộng, an

sinh xã hội được thực hiện ngày một tốt hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những thành

tựu đạt được, dưới tác động của mặt trái kinh tế thị trường, của việc mở cửa hội

nhập và xu hướng toàn cầu hóa đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp trong đời

sống xã hội, trong đó tệ nạn ma túy là một trong những vấn đề nhức nhối đang

được toàn xã hội quan tâm. Ma túy làm gia tăng tội phạm, khánh kiệt kinh tế,

phá hoại hạnh phúc gia đình, suy thoái nòi giống dân tộc, cầu nối cho căn bệnh

thế kỉ HIV/AIDS.

Để giải quyết vấn nạn ma túy, cần có nhiều giải pháp đồng bộ, kịp thời,

hiệu quả, trong đó việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu

quả thi hành pháp luật về phòng, chống ma túy, xử lý vi phạm pháp luật về ma

túy có vai trò đặc biệt quan trọng. Về phương diện xây dựng pháp luật, cùng

với Luật phòng, chống ma túy ngày 30 tháng 3 năm 2021; Luật xử lý vi phạm

hành chính ngày 20 tháng 6 năm 2012; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của

Luật xử lý vi phạm hành chính ngày 13 tháng 11 năm 2020 và nghị định số

116/2021/NĐ-CP ngày 21/12/2021 về việc quy định chi tiết một số điều của

luật phòng, chống ma túy, luật xử lý vi phạm hành chính về cai nghiện ma túy

và quản lý sau cai nghiện đã được ban hành, kèm theo các văn bản hướng dẫn

thi hành Luật này, với những quy định về các biện pháp xử phạt VPHC cũng

như biện pháp xử lý hành chính (XLHC) đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã

1

góp phần tích cực vào xác lập những cơ sở pháp lý quan trọng để phát huy sức

mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong cuộc đấu tranh phòng, chống ma túy.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy Luật xử lý vi phạm hành chính ngày 20 tháng 6

năm 2012; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành

chính ngày 13 tháng 11 năm 2020 để bảo đảm thực thi hiệu quả việc thi hành

pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với những

người nghiện ma túy tại các văn bản hướng dẫn thi hành, rất nhiều khó khăn,

thách thức đã và đang đặt ra cho các cấp, các ngành ở Trung ương và địa

phương.

Thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk là tỉnh nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên,

trong những năm qua trước tác động của tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy ở

trong nước, khu vực và trên thế giới Thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk đã trở thành

địa bàn trọng điểm phức tạp về ma túy. Nguồn ma túy chủ yếu từ các tỉnh phía

Bắc (Cao Bằng, Nghệ An) và từ phía nam (thành phố Hồ Chí Minh, Bình

Dương, Đồng Nai) qua đường bộ chuyển vào địa bàn để tiêu thụ. Thống kê trên

địa thị xã năm 2018 có 61 người nghiện ma túy ở 12/12 xã, trong đó 09 người

nghiện trong cơ sở cai nghiện ma túy.

Tỉnh Đắk Lắk có 01 cơ sở cai nghiện ma túy công lập (Cơ sở điều trị,

cai nghiện ma túy Đắk Lắk, tiền thân là Trung tâm Giáo dục và giải quyết việc

làm được thành lập từ năm 1992) trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã

hội (LĐ-TB&XH), thực hiện thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Nghị định 116/2021/NĐ-CP (gọi tắt là cai nghiện

bắt buộc) theo Luật xử lý VPHC. Đây là cơ sở có chức năng cai nghiện bắt

buộc đóng góp tích cực cho công tác cai nghiện ma túy trên địa bàn thị xã Buôn

Hồ, tỉnh Đắk Lắk.

Trong những năm qua, thực hiện công tác cai nghiện bắt buộc đối với

người nghiện ma túy gặp nhiều khó khăn đặt ra, cần các cấp, các ngành của tỉnh

2

Đắk Lắk tổ chức, triển khai thực hiện hoạt động này. Ngoài cai nghiện bắt buộc,

các hình thức cai nghiện khác theo quy định như: cai nghiện ma túy tự nguyện,

điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế. Dự báo trong

thời gian tới, với những diễn biến tình hình phức tạp về tệ nạn ma túy, đặc biệt

là các dạng ma túy tổng hợp có xu hướng tăng đột biến, người nghiện trên cả

nước nói chung và thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk nói riêng sẽ diễn biến phức

tạp hơn nữa.

Xuất phát từ thực tiễn đời sống, nhằm giúp cho hoạt động quản lý nhà

nước về công tác phòng, chống tệ nạn xã hội được hiệu quả cao. Thực hiện

Luật xử lý VPHC, áp dụng việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn

thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối

với người nghiện ma túy vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội

hiện nay là hết sức cần thiết.

Việc chọn đề tài: “Thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk” làm đề

tài Luận văn tốt nghiệp là cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối

với thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk, trong giai đoạn hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Vi phạm hành chính (VPHC), xử lý VPHC nói chung và thi hành pháp

luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nói riêng là những

chủ đề được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Đến nay đã có khá nhiều công

trình nghiên cứu về những vấn đề này ở cả góc độ chung, trong các lĩnh vực cụ

thể trên phạm vi cả nước hay ở một địa phương cụ thể, trong đó tiêu biểu:

Các công trình nghiên cứu về XLHC

- Tác giả Vũ Thư với luận án Tiến sĩ luật học về “Chế tài hành chính lý

luận và thực tiễn”, bảo vệ thành công tại Viện Nhà nước và pháp luật, 2006

3

[35].

- Tác giả Nguyễn Trọng Bình với luận văn thạc sĩ luật học về “Hoàn

thiện các quy định pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính”,

bảo vệ thành công tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 2012 [7].

Tác giả Nguyễn Ngọc Bích với luận văn thạc sĩ luật học về “Hoàn thiện pháp

luật về XLHC với người chưa thành niên”, bảo vệ thành công tại Trường Đại

học Luật Hà Nội, 2013 [6].

- Tác giả Dương Thị Bích Hạnh (2014), với luận văn thạc sĩ “Bảo đảm

quyền con người trong quá trình áp dụng các biện pháp xử lý hành chính”, Đại

học quốc gia Hà Nội. Luận văn góp phần cung cấp các kiến thức khoa học cơ

bản mang tính lý luận về quyền con người trong quá trình áp dụng các biện

pháp xử lý hành chính; hệ thống các văn bản pháp luật quan trọng về bảo đảm

quyền con người trong quá trình áp dụng các biện pháp xử lý hành chính; Nêu

lên thực trạng bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng các biện pháp

xử lý hành chính vẫn còn có những bất cập ở Việt Nam, từ đó nêu ra một số

phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện các biện pháp bảo đảm quyền con

người trong quá trình áp dụng các biện pháp xử lý hành chính [34].

- Tác giả Phạm Tiến Thành (2014), với đề tài luận văn thạc sĩ “Từ biện

pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh đến biện pháp đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc” bảo vệ tại Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Công

trình tập trung nghiên cứu giữa lý luận và thực trạng pháp luật về biện pháp

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trước kia và biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc hiện nay. Luận văn cũng tập trung lý giải những nguyên nhân,

những cơ sở lý luận cho việc chuyển đổi biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh

thành biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Từ đó luận giải cho những

sửa đổi bổ sung này về mặt lý luận. Luận văn cũng phân tích thực trạng của

việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh cho đến trước khi Luật Xử lý

4

VPHC năm 2012 có hiệu lực và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

trong giai đoạn hiện nay. Mục đích của việc này là nhằm luận giải những thay

đổi của các biện pháp này từ vấn đề thực trạng tổ chức và thực hiện [22].

- Nhóm tác giả Cao Vũ Minh, Nguyễn Nhật Khanh (2016), Những bất

cập trong các quy định về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và các

kiến nghị hoàn thiện, Trường Đại học Luật Tp.HCM. Đã đưa ra các bất cập

như: Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 với Luật Cư trú năm 2006 sửa

đổi, bổ sung năm 2013 chưa có sự thống nhất về việc xác định “nơi cư trú ổn

định” của đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

quy định của pháp luật về “nơi thường xuyên sinh sống” để áp dụng biện pháp

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc không rõ ràng, cụ thể,… [42].

Tác giả Nguyễn Hoàng Việt (2019), Hoàn thiện quy định của pháp luật

về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc, đã nghiên cứu và đưa ra các vướng mắc liên quan đến việc triển khai các

quy định của pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở bắt buộc, qua đó đề xuất các

biện pháp: Đối với quy định về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính trước

khi áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và

quy định về việc áp dụng đồng thời biện pháp điều trị nghiện các chất dạng

thuốc phiện bằng thuốc thay thế trong quá trình bị áp dụng biện pháp xử lý

hành chính GDTXPTT; Để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc

phối hợp, chuyển hồ sơ giữa các cơ quan trong trình tự, thủ tục áp dụng biện

pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đề nghị Chính phủ

theo thẩm quyền hoặc báo cáo Quốc hội xem xét, sửa đổi, bổ sung các quy định

nhằm đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn tối đa các mốc thời gian thực hiện các công

việc liên quan đến trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, người có thẩm

5

quyền áp dụng biện pháp này trên thực tế [41].

Các công trình nghiên cứu trên đây, đã đưa ra một số vấn đề lý luận cũng

như thực tiễn của việc xử phạt VPHC đồng thời cũng đã đề cập đến một số khía

cạnh của các biện pháp XLHC khác như: đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc;

đưa vào trường giáo dưỡng; biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn…

Các công trình cứu về các biện pháp XLHC khác

Trực tiếp đề cập nội dung về các biện pháp XLHC khác có thể kể đến

một số bài viết, chuyên đề và công trình nghiên cứu của một số tác giả như:

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp “Các biện pháp

XLHC khác và việc bảo đảm quyền con người” do ThS. Đặng Thanh Sơn làm

chủ nhiệm đề tài cũng nhóm nghiên cứu.

- Tác giả Trần Thanh Hương với bài viết “Quyền công dân, quyền con

người và chỗ đứng của các biện pháp XLHC khác trong pháp luật về VPHC”

đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật.

- Tác giả Bùi Thị Xuân Mai, Nguyễn Tố Như (2013), Tham vấn điều trị

nghiện ma túy, NXB Lao đông – Xã hội, Hà Nội 2013.

Các công trình nghiên cứu về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc

Hiện nay, việc nghiên cứu về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc cũng đã được một số tác giả nghiên cứu, tuy nhiên, các công trình đã

công bố mới chỉ dừng lại ở mức độ các bài viết nghiên cứu đăng trên một số

tạp chí chuyên ngành, có thể kể đến một số công trình như:

- Tác giả Lê Văn Khánh với bài viết “Một số khó khăn bất cập trong

thực hiện biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” đăng trong

trang web Cục Phòng, chống tệ nạn xã hội, Bộ LĐ-TB&XH, ngày 06/01/2017.

- Tác giả Lê Đức Hiền với bài viết “Những khó khăn, vướng mắc trong

tổ chức cai nghiện ma túy và một số đề xuất, kiến nghị” đăng trong Tạp chí

6

Nghiên cứu lý luận, nghiệp vụ, khoa học của Học viện Cảnh sát nhân dân, ngày

15/3/2019.

- Tác giả Trần Anh Tuấn với bài viết “Tiếp tục trao đổi về những khó

khăn, vướng mắc khi thực hiện công tác kiểm sát việc thi hành Pháp lệnh

09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về

trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp XLHC tại Tòa án.

Những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức cai nghiện ma túy và một số đề xuất,

kiến nghị” đăng trên Website của Viện Kiểm soát nhân dân thành phố Hồ Chí

Minh, bài viết đề cập cụ thể đến những vướng mắc phát sinh trong việc thi hành

pháp luật về biện pháp XLHC đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Tòa

án nhân dân trên thực tiễn, ngày 27/09/2018.

- Việc nghiên cứu về pháp luật trong lĩnh vực này còn rất hạn chế. Tất

cả các công trình nghiên cứu trên đây đã phần nào giải quyết được một số khía

cạnh của vấn đề lý luận và thực tiễn về biện pháp đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt

buộc, cũng như biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong giai đoạn

hiện nay.

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích của luận văn

Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề liên quan đến lý luận và

thực trạng thi hành pháp luật về biện pháp áp dụng XLHC đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk, từ đó đề xuất các

giải pháp, bảo đảm thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc trong thời gian tới trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn

Để đạt được các mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ phải thực hiện

như sau:

Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thi hành pháp luật về biện pháp

7

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc gồm những quan niệm, đặc

điểm, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, các biện pháp …

Đánh giá thực trạng thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk

chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân.

Phân tích một số giải pháp bảo đảm thi hành pháp luật về biện pháp

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk

Lắk.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2018 đến tháng 12 năm 2022.

- Phạm vi nghiên cứu: Tại địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.

- Nội dung nghiên cứu: thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc là một vấn đề phức tạp; trong phạm vi nghiên cứu

của luận văn tập trung làm rõ các nội dung: i) Công tác chỉ đạo, thiết lập hồ sơ,

đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đối với người nghiện;

ii) Triển khai hoạt động cai nghiện ma túy; iii)Tổ chức kiểm tra và xử lý vi

phạm khi thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc; iv) Sơ kết, tổng kết báo cáo tình hình thi hành pháp luật về

biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác

– Lê nin, chủ trương của Đảng và Nhà nước, về thi hành pháp luật về XLHC

8

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu,

phương pháp lịch sử - logic, được sử dụng nhằm lý giải các vấn đề lý luận, giúp

cho mỗi vấn đề được nhìn nhận từ nhiều góc độ, thấy được những điểm hợp lý

và chưa hợp lý của các quan điểm, quan niệm đưa ra trong luận văn, từ đó đưa

ra được kết luận có tính khoa học và nổi bật của vấn đề.

Phương pháp thống kê, phương pháp tổng kết thực tiễn cũng được sử

dụng có hiệu quả để từ những số liệu, tình hình thực tế cụ thể thống kê được có

thể phân tích, tổng kết thấy được bức tranh toàn diện về thực trạng pháp luật và

thực tiễn thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc, đó là cơ sở chính xác nhất cho việc đề xuất các giải pháp hợp lý và khả

thi.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Làm rõ khái niệm, nội dung về thi hành pháp luật về biện pháp xử lý

hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. bên cạnh đó tác giả cũng đã hệ

thống khái quát đối với các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thi

hành pháp luật áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc đã được triển khai, qua đó để đánh giá toàn diện, cụ thể, chi tiết có cơ

sở nghiên cứu các tình huống từ thực tiễn góp phần hoàn thiện hệ thống pháp

lý chuyên ngành luật.

Đề tài góp phần làm phong phú thêm những tri thức lý luận liên quan

đến biện pháp XLHC và thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Các kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là nguồn tài liệu tham khảo cho

9

người làm công tác thực tiễn thi hành pháp luật về biện pháp áp dụng XLHC

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Một số kiến nghị, giải pháp của luận văn có

giá trị tham khảo đối với các cơ quan chức năng trong việc xây dựng, hoàn

thiện và tổ chức thực hiện pháp luật đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc, đảm bảo việc tổ chức thực hiện trong thực tiễn đạt kết quả

cao.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận

văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của thi hành pháp luật về biện pháp xử lý

hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Chương 2: Thực trạng thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.

Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm thi hành pháp luật về biện pháp xử

lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk

Lắk.

10

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN

PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC

1.1. Khái quát về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc

1.1.1. Khái niệm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc

Chất gây nghiện và sự lệ thuộc vào chất gây nghiện đã trở thành vấn đề

nghiêm trọng, cần giải quyết của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó Việt Nam.

Một mặt chất gây nghiện có thể đem lại lợi ích kinh tế, mặt khác chất gây nghiện

khi lạm dụng sẽ có thể khiến con người bị lệ thuộc vào chúng từ đó mất kiểm soát

nhận thức hành vi, gây tác động tiêu cực tới bản thân, gia đình và xã hội. Nhà

nước có những biện pháp quản lý các chất gây nghiện bất hợp pháp (được luật

pháp quy định là ma túy) và cả hợp pháp (xét trong khuôn khổ pháp luật Việt

Nam), thực hiện các biện pháp can thiệp để ứng phó với những tác động tiêu cực

của chất gây nghiện.

Ma túy và tác hại của ma túy là mầm mống gây ra những hậu quả nguy hại

nghiệm trọng cho xã hội nói chung, bản thân ngườu nghiện ma túy và gia đình họ

nói riêng. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ

trương, chính sách, đưa ra nhiều biện pháp nhằm ngăn ngừa, phòng, chống ma

túy. Một trong những biện pháp đó là XLHC đưa người nghiện vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc, đây là biện pháp XLHC áp dụng đối với người nghiện ma túy để

chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện

bắt buộc.

Cai nghiện ma túy là quá trình thực hiện các hoạt động hỗ trợ về y tế, tâm

lý, xã hội, giúp người nghiện ma túy dừng sử dụng ma túy, thuốc gây nghiện,

11

thuốc hướng thần, phục hồi thể chất, tinh thần, nâng cao nhận thức, thay đổi hành

vi để chấm dứt việc sử dụng trái phép các chất này.

Cơ sở cai nghiện ma túy là cơ sở được thành lập để thực hiện đầy đủ quy

trình cai nghiện theo quy định Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ

sung năm 2020), bao gồm cơ sở cai nghiện ma túy công lập và cơ sở cai nghiện

ma túy tự nguyện. Tại Điều 28 Luật Phòng chống ma túy 2021 quy định về các

biện pháp cai nghiện ma túy bao gồm: Cai nghiện ma túy tự nguyện; Cai nghiện

ma túy bắt buộc. Biện pháp cai nghiện ma túy tự nguyện được thực hiện tại gia

đình, cộng đồng hoặc tại cơ sở cai nghiện ma túy; biện pháp cai nghiện ma túy

bắt buộc được thực hiện tại cơ sở cai nghiện ma túy công lập.

Biện pháp cai nghiện ma túy tự nguyện được thực hiện tại gia đình, cộng

đồng hoặc tại cơ sở cai nghiện ma túy; biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc được

thực hiện tại cơ sở cai nghiện ma túy công lập.

Luật xử lý VPHC năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), tại khoản 3, Điều

2 quy định: Biện pháp xử lý hành chính là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân

vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm,

bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng;

đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Từ khái niệm trên, có thể xem xét một số đặc điểm như sau:

- Biện pháp xử lý hành chính được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp

luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm

Khác với xử phạt hành chính, chỉ áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành

vi vi phạm quy định trong hệ thống các văn bản pháp luật về quản lý hành chính

thì việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính lại chỉ áp dụng đối với cá nhân

vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm.

Bắt nguồn từ bản bản chất của hoạt động này là nhằm mục đích răn đe, định hướng

hành vi con người và hy vọng có thể uốn nắn, cho họ trở thành người có ích cho

12

xã hội. Giới hạn của biện pháp xử lý hành chính rất hẹp khi áp dụng với những cá

nhân có nhiều lần vi phạm hành vi vi phạm hành chính về an ninh, trật tự. an toàn

xã hội nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

- Thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính thuộc về cơ quan hành

chính Nhà nước và cơ quan tư pháp

Nếu như, việc áp dụng các hình thức xử phạt thuộc về những người có thẩm

quyền như các bộ, ban ngành quản lý trực tiếp và gián tiếp trong từng hoạt động

cụ thể được Nhà nước trao quyền thì với biện pháp xử lý hành chính chính thuộc

về cơ quan hành chính nhà nước như: Chủ tịch UBND cấp xã, phường, thị trấn

với biện pháp giáo dục thường xuyên tại xã, phường, thị trấn và cơ quan tư pháp

là Tòa án nhân dân đối với biện pháp hạn chế tự do như đưa vào trường giáo

dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Hầu hết, các đối tượng áp dụng những biện pháp này thường chủ yếu là

những người chưa thành niên, đặt dưới sự giám sát của chính quyền địa phương,

chỉ họ mới là người nắm rõ được bối cảnh, nhân thân và các hoạt động của những

đối tượng này và hạn chế ảnh hưởng đến mọi người xung quanh cho nên mới phải

áp dụng các biện pháp hạn chế quyền tự do.

- Đối tượng áp dụng chỉ với cá nhân là công dân Việt Nam.

Khác với biện pháp xử phạt áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành

chính trong các lĩnh vực khác nhau của quản lý hành chính nhà nước thì đặc trưng

của hoạt động này là chỉ áp dụng với cá nhân trong nước và không áp dụng đối

với người nước ngoài.

Các biện pháp xử lý hành chính bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường,

thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc về cơ bản chỉ có thể áp dụng được với người Việt Nam.

Bởi vì đối với người nước ngoài, họ là chủ thể đặc biệt, là người có quốc tịch của

một quốc gia khác đang lao động, học tập, công tác, sinh sống trên lãnh thổ nước

13

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Họ có tư cách pháp lý và được Việt Nam

bảo hộ quyền, đồng thời với các hành vi của họ sẽ có đại sứ quán của nước họ

mang quốc tịch quản lý. Tránh ảnh hưởng đến quyền của cá nhân nước ngoài tại

Việt Nam và ảnh hưởng quan hệ ngoại giao thì biện pháp này chỉ được áp dụng

với công dân Việt Nam.

Bên cạnh đó, về hậu quả pháp lý, việc tiến hành áp dụng các biện pháp xử

lý hành chính căn cứ vào nhân thân và quá trình vi phạm của cá nhân đó. Do mục

đích chính là giáo dục và phòng ngừa xảy ra hành vi vi phạm tiếp theo. Hậu quả

pháp lý đối với biện pháp này là mang tính giáo dục là chính thì chung quy lại đều

mang tính hạn chế tự do của người vi phạm.

Từ khái niệm chung về biện pháp xử lý hành chính, theo quy định Luật Xử

lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi bổ sung năm 2020) và Luật Phòng chống ma

tuy: Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp XLHC được áp

dụng đối với người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên bị áp dụng biện pháp xử

lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định của Luật Xử lý vi

phạm hành chính khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: 1. Không đăng ký,

không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy tự nguyện; 2. Trong thời

gian cai nghiện ma túy tự nguyện bị phát hiện sử dụng trái phép chất ma túy; 3.

Người nghiện ma túy các chất dạng thuốc phiện không đăng ký, không thực hiện

hoặc tự ý chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế

hoặc bị chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế

do vi phạm quy định về điều trị nghiện; 4. Trong thời gian quản lý sau cai nghiện

ma túy mà tái nghiện.

1.1.2. Vai trò biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc

Tác hại của ma túy là vô cùng nguy hiểm, nó hủy hoại không chỉ cá nhân

những người nghiện mà còn phá hủy tất cả những gì ở nơi nó xuất hiện và tồn tại.

14

Càng gần ma túy thì càng xa cuộc đời, đến với ma túy là đến với sự hủy

diệt...Người nghiện sẽ mất dần sự nhận thức sáng suốt, có thể hủy hoại mọi thứ

chỉ để đáp ứng nhu cầu sử dụng ma túy, không còn cảm nhận được mọi hậu quả….

Do đó, công tác phòng, chống ma túy không chỉ là trách nhiệm của riêng một cá

nhân hay một cơ quan nào, mà cần có một phong trào quần chúng rộng khắp và

phải có tính xã hội cao. Nhằm phòng, chống và kiểm soát ma túy, góp phần kiềm

chế nạn ma túy trong đời sống; tạo môi trường lành mạnh, phục vụ phát triển kinh

tế - xã hội, bảo đảm an ninh, trật tự và an toàn xã hội.

Việc áp dụng đối biện pháp XLHC đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc đối với những đối tượng này là cần thiết để ngăn chặn họ tái phạm và

tiếp tục đi vào con đường lầm lạc. Mục đích phòng ngừa ở đây bao gồm cả phòng

ngừa chung và phòng ngừa riêng, chú ý loại trừ những nguyên nhân thực hiện

hành vi trái pháp luật và tạo điều kiện cho người bị áp dụng tái hòa nhập cộng

đồng. Khả năng phòng ngừa chung của biện pháp XLHC đưa người nghiện vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc có mục đích nhằm răn đe, cảnh báo và ngăn ngừa sự vi

phạm của các đối tượng khác trong xã hội, khi đang có dấu hiệu vi phạm pháp

luật.

Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp XLHC đưa người nghiện vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc còn có vai trò to lớn trong việc đảm bảo an ninh trật tự, an toàn

xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức;

tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, khôi phục trật tự quản lý hành chính nhà

nước, trật tự pháp luật.

1.2. Thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc

1.2.1. Khái niệm thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

15

Dựa vào cơ sở khoa học cũng như xét từ trong thực tiễn pháp luật tại Việt

Nam, khái niệm thi hành pháp luật được giải thích với nhiều nghĩa khác nhau.

Trong các văn bản pháp lý có thể xem xét, Hiến pháp năm 1946, khi quy

định về thẩm quyền của Chính phủ và cơ quan hành chính ở địa phương đã quy

định Chính phủ có quyền “thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện”

(Điều 52). Điều thứ 59 Hiến pháp năm 1946 quy định Ủy ban hành chính có trách

nhiệm “thi hành các mệnh lệnh của cấp trên”. Trong Hiến pháp năm 1959, Điều

50 có quy định Quốc hội có quyền “giám sát việc thi hành Hiến pháp”, Điều 73

quy định Hội đồng Chính phủ có quyền “kiểm tra việc thi hành những nghị định”,

Điều 74 quy định Hội đồng Chính phủ có quyền “đình chỉ việc thi hành những

nghị quyết không thích đáng của Hội đồng nhân dân tỉnh”, Điều 75 có sử dụng

cụm từ “thi hành pháp luật”. Hiến pháp năm 1980 có nhắc tới nội dung toàn thể

nhân dân Việt Nam “ra sức thi hành Hiến pháp”. Điều 98 Hiến pháp năm 1980

quy định Hội đồng nhà nước “giám sát việc thi hành Hiến pháp, các luật, pháp

lệnh”. Điều 107 Hiến pháp năm 1980 quy định Hội đồng Bộ trưởng có nhiệm vụ

“bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật”. Điều 112 (Khoản 2) Hiến pháp

năm 1992 quy định Chính phủ có trách nhiệm “bảo đảm việc thi hành Hiến pháp

và pháp luật”. Thêm vào đó, “thi hành pháp luật” cũng không phải chỉ là hành vi

của cơ quan công quyền mà còn là hành vi của người dân, doanh nghiệp bởi lẽ

Điều 9 Hiến pháp năm 1992 có quy định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… động

viên nhân dân… nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật” [trích dẫn Tài

liệu bồi dưỡng quản lý nhà nước ngạch chuyên viên chính năm 2022].

Từ sự phân tích trên, thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là việc các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm

quyền thực hiện theo trình tự thủ tục áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc đối

với đối tượng thuộc nhóm người nghiện ma túy theo các quy định của pháp luật.

Từ khái niệm trên có thể xem xét một số đặc điểm như sau:

16

Một là, chủ thể thi hành pháp luật về biện pháp đưa người nghiện vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc là cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành bằng biện

pháp cưỡng chế hành chính nhà nước. Nó có tính pháp lý, bởi vì biện pháp này

được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước, Luật,

Nghị định của Chính phủ… Biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc cũng do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng theo quy định của pháp luật.

Hai là, thi hành pháp luật về biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc chỉ áp dụng đối với công dân Việt Nam, được xác định là bị

nghiện và có những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Đối chiếu với Điều 32

Luật Phòng, chống ma túy năm 2021, đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên thuộc một trong

các trường hợp sau đây: i) Không đăng ký, không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt

cai nghiện ma túy tự nguyện; ii) Trong thời gian cai nghiện ma túy tự nguyện bị

phát hiện sử dụng trái phép chất ma túy; iii) Người nghiện ma túy các chất dạng

thuốc phiện không đăng ký, không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt điều trị nghiện

các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế hoặc bị chấm dứt điều trị nghiện

các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế do vi phạm quy định về điều trị

nghiện; iv) Trong thời gian quản lý sau cai nghiện ma túy mà tái nghiện.

Như vậy, theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy năm 2021 về đối

tượng thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc không căn cứ vào yếu tố có nơi cư trú ổn định hay không có nơi cư trú

ổn định để áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Việc không căn

cứ vào “có nơi cư trú ổn định” hay không để áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc sẽ khắc phục tình trạng xung đột về thẩm quyền, đồng thời hạn

chế tình trạng đùn đẩy trách nhiệm.

Khoản 2 Điều 118 Luật Xử lý VPHC quy định: “Trường hợp người thực

hiện hành vi vi phạm pháp luật vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bắt

17

buộc vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì áp dụng biện

pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trường hợp người nghiện ma túy thuộc

loại “côn đồ hung hãn” thì áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.

Cơ sở giáo dục bắt buộc thực hiện việc cai nghiện cho đối tượng này”.

Đối với trường hợp người nước ngoài có hành vi nghiện ma túy mà bị cơ

quan chức năng phát hiện tại lãnh thổ Việt Nam thì tùy theo mức độ vi phạm có

thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam.

Ba là, việc thi hành pháp luật về biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc được áp dụng theo những trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định

và đối tượng bị áp dụng phải chịu sự quản lý và hạn chế một số quyền tự do cá

nhân nhất định. Với nội dung hạn chế một số quyền tự do của con người khi áp

dụng các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nên các văn

bản hướng dẫn, thi hành đã quy định tương đối chặt chẽ trình tự, thủ tục thi hành

pháp luật về biện pháp này.

1.2.2. Vai trò của thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Người nghiện ma túy không chỉ gây tác động lớn đến bản thân người

nghiện, mà còn vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Nhà nước thi

hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhằm quản

lý người nghiện để ngăn ngừa những vi phạm gây tác động xấu đến an ninh, trật

tự, an toàn xã hội:

Thứ nhất, thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc góp phần quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống ma túy. Đây

là biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh có hiệu quả với tệ nạn ma túy,

gây hiểm họa lớn cho toàn xã hội, gây tác hại cho sức khỏe, làm suy thoái nòi

18

giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm

trọng đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia.

Biện pháp này thực hiện đối với người sử dụng chất ma túy, thuốc gây

nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào các chất này dẫn đến tình trạng nghiện

ma túy. Tệ nạn ma túy theo quy định vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an

toàn xã hội, tội phạm hình sự liên quan đến tàng trữ, mua bán, phân phối, sử dụng,

nhập khẩu, xuất khẩu … và các hành vi trái phép khác gây nguy hiểm cho xã hội.

Thứ hai, thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc góp phần quan trọng vào việc giúp người cai nghiện cải thiện tình trạng

nghiện, cải thiện tình trạng sức khỏe, giáo dục ý thức đạo đức, giáo dục ý thức

tuân thủ pháp luật, tạo điều kiện giúp cho người nghiện có thể tái hòa nhập với

đời sống chung của cộng đồng.

Người nghiện ma túy là người bệnh “đặc biệt” bị biến đổi tâm sinh lý, mất

kiểm soát nhận thức, hành vi, gây tác động tiêu cực tới bản thân, gia đình dễ phát

sinh lây truyền các bệnh truyền nhiễm như HIV/AIDS cần chữa bệnh, giáo dục,

cải tạo lại tư tưởng và cần có biện pháp quản lý Nhà nước nhằm ổn định tình hình

an ninh, trật tự xã hội. Vì vậy, việc thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc góp phần quan trọng đối với việc cải thiện tình trạng

nghiện của người nghiện ma túy.

Thứ ba, thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc góp phần vào việc bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước

trong lĩnh vực an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Chất gây nghiện có thể đem lại lợi ích chung về kinh tế, có tác dụng khác

nhau để sử dụng vì mục đích y học vì vậy Nhà nước cần có biện pháp quản lý một

cách chặt chẽ các chất gây nghiện bất hợp pháp (ma túy), xét trong khuôn khổ

pháp luật Việt Nam. Thực hiện các biện pháp can thiệp để ứng phó với những tác

19

động tiêu cực của chất gây nghiện bởi tác hại rất lớn của các chất này đối với mọi

lứa tuổi trong cộng đồng xã hội.

Nhà nước trao quyền thực hiện thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đối

với người nghiện ma túy là thực hiện quyền lực của mình trong quản lý, kiểm tra,

kiểm soát hoạt động bất hợp pháp sử dụng các chất ma túy dẫn đến tình trạng

nghiện của các cá nhân làm phát sinh vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an

toàn xã hội mà không phải là tội phạm. Thông qua biện pháp XLHC đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc, thực hiện chức năng giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã

hội trong quy định pháp luật XLVPHC và điều chỉnh hành vi của người nghiện

ma túy vào trật tự pháp lý đó.

Biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc giúp cơ quan quản lý

Nhà nước trong việc củng cố và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thực thi

pháp luật. Chủ thể được pháp luật quy định mới có thể tiến hành thi hành pháp

luật về biện pháp xử lý này đảm bảo công bằng, minh bạch, xây dựng ý thức tự

giác chấp hành pháp luật về cai nghiện ma túy đối với người nghiện, nâng cao

tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện thi hành pháp luật

về biện pháp XLHC này.

1.2.3. Nội dung thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Nội dung thi hành pháp luật nói chung và thi hành pháp luật về biện pháp

xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc sẽ trả lời câu hỏi các chủ thể

có thẩm quyền thi hành pháp luật sẽ làm gì? Có nhiều cách tiếp cận khác nhau,

trong phạm vi nghiên cứu luận văn triển khai bao gồm những nội dung sau:

- Công tác chỉ đạo, thiết lập hồ sơ, đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp

xử lý hành chính đối với người nghiện;

- Triển khai hoạt động cai nghiện ma túy;

20

- Tổ chức kiểm tra và xử lý vi phạm khi thi hành pháp luật về biện pháp xử

lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

- Sơ kết, tổng kết báo cáo tình hình thi hành pháp luật về biện pháp xử lý

hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Việc triển khai những nội dung trên tiếp cận dưới góc độ chuỗi trình tự, thủ

tục (quy trình) các hoạt động cơ bản do các cơ quan nhà nước và người có thẩm

quyền tiến hành biện pháp xử lý hành chính đối với người nghiện ma tuý.

1.2.4. Đối tượng bị áp dụng, thẩm quyền, trình tự thủ tục

1.2.4.1. Đối tượng bị áp dụng

Theo khoản 1 Điều 96 Luật XLVPHC (sửa đổi bổ sung năm 2020); Điều

32 Luật Phòng chống ma túy, đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên bị

áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy

định của Luật Xử lý vi phạm hành chính khi thuộc một trong các trường hợp sau

đây:

- Không đăng ký, không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy tự

nguyện;

- Trong thời gian cai nghiện ma túy tự nguyện bị phát hiện sử dụng trái

phép chất ma túy;

- Người nghiện ma túy các chất dạng thuốc phiện không đăng ký, không

thực hiện hoặc tự ý chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc

thay thế hoặc bị chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc

thay thế do vi phạm quy định về điều trị nghiện;

- Trong thời gian quản lý sau cai nghiện ma túy mà tái nghiện.

Đối tượng áp dụng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mở rộng hơn rất nhiều

so với trước.

21

Căn cứ Điều 96 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ sung năm

2020) Không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với các

trường hợp sau đây:

+ Người không có năng lực trách nhiệm hành chính;

+ Người đang mang thai có chứng nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh

từ tuyến huyện trở lên;

+ Phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được

Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.

1.2.4.2. Thẩm quyền quyết định thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

đối với người nghiện ma túy quy định tại Điều 96 của Luật XLVPHC (sửa đổi bổ

sung năm 2020) như sau:

- Đối với người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định thì Chủ tịch Ủy ban

nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc; đối với người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn

định thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó có hành vi vi phạm pháp

luật lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; Công

an cấp xã có trách nhiệm giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp thu thập các

tài liệu và lập hồ sơ đề nghị quy định.

- Trường hợp người nghiện ma túy do cơ quan Công an cấp huyện hoặc cơ

quan Công an cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, điều tra, thụ lý trong các vụ vi phạm

pháp luật mà thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc quy định tại Điều

96 của Luật XLVPHC thì cơ quan Công an đang thụ lý vụ việc tiến hành xác

minh, thu thập tài liệu và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc đối với người đó;

Cơ quan lập hồ sơ đề nghị quy định phải chịu trách nhiệm về tính pháp lý

22

của hồ sơ đề nghị. Như vậy, Luật không còn quy định Trưởng phòng Tư pháp cấp

huyện có trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nữa.

Đây là bước tiến mới trong việc đưa người nghiện ma túy vào cơ sở vai

nghiện bắt buộc.

Để Tòa án nhân dân cấp huyện có đủ căn cứ, cơ sở để ra quyết định thi hành

pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, pháp luật hiện hành

quy định, chi tiết thẩm quyền của các chủ thể có liên quan trong việc lập hồ sơ đề

nghị thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và

xem xét, quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện quyết

định thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

1.2.4.3. Hoạt động phối hợp giữa các cơ quan trong việc thi hành pháp luật

về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành các biểu mẫu về lập hồ sơ

đề nghị và thi hành quyết định thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc để thống nhất thực hiện.

Ngoài ra còn thực hiện xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy

hoạch mạng lưới các cơ sở cai nghiện bắt buộc. Chủ trì, phối hợp với Bộ Xây

dựng ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế kỹ thuật về

xây dựng đối với các cơ sở cai nghiện bắt buộc; phối hợp với Bộ Nội vụ hướng

dẫn chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, chức danh tiêu chuẩn cán bộ cơ sở cai

nghiện bắt buộc và trách nhiệm, quyền hạn của Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt

buộc; phối hợp với Bộ Y tế xây dựng tài liệu và tổ chức, hướng dẫn chuyên môn,

nghiệp vụ về cai nghiện phục hồi tại cơ sở cai nghiện bắt buộc; phối hợp với Bộ

Tài chính quy định chế độ tài chính cho việc thi hành pháp luật về biện pháp đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng

chương trình học tập, giảng dạy xóa mù chữ cho người bị đưa vào cơ sở cai nghiện

23

bắt buộc. Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực cai nghiện ma túy.

Bộ Y tế có trách nhiệm ban hành tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện ma túy; chủ

trì, phối hợp Bộ Công an hướng dẫn trình tự, thủ tục xác định tình trạng nghiện

ma túy. Nghiên cứu các bài thuốc và phương pháp cai nghiện cho người nghiện

ma túy. Chỉ đạo tổ chức tập huấn cho cán bộ y tế các địa phương về xác định tình

trạng nghiện ma túy, điều trị hỗ trợ cắt cơn nghiện ma túy. Chủ trì, phối hợp với

Bộ LĐ-TB&XH hướng dẫn, chỉ đạo, quản lý các hoạt động y tế trong cơ sở cai

nghiện bắt buộc.

Bộ Y tế hướng dẫn việc tập huấn và cấp chứng chỉ đang làm việc tại: Các

cơ sở y tế quân dân y; các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của ngành công an; phòng

y tế của cơ sở cai nghiện bắt buộc; phòng y tế của các cơ sở có chức năng tiếp

nhận, quản lý người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định, trong thời gian

lập hồ sơ để Tòa án nhân dân xem xét quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc; trạm y tế xã, phường, thị trấn; phòng khám đa khoa khu vực; bệnh viện cấp

huyện trở lên và bệnh viện thuộc các bộ, ngành khác.

Bộ Công an hướng dẫn, chỉ đạo cơ quan Công an các cấp trong việc thu

thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc đối với đối tượng bị áp dụng. Thực hiện tổ chức đưa người đã có

quyết định vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; truy tìm đối tượng bỏ trốn; đảm bảo an

ninh trật tự của các cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 05/2018/TT-BCA ngày 07/2/2017 về

quy định việc thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngoài ra, trong lĩnh vực này thủ tục

XLHC thi hành pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Viện kiểm sát và Tòa án nhân tối cao chỉ đạo thực hiện Pháp lệnh

01/2022/UBTVQH15 quy định trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các

biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Tòa án nhân dân cấp thẩm

24

quyền; trình tự, thủ tục xem xét, quyết định việc hoãn, miễn chấp hành, giảm thời

hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp XLHC;

khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị; giải quyết khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị trong

việc thi hành pháp luật về biện pháp XLHC nói chung và biện pháp XLHC đưa

vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc nói riêng.

Ngoài ra, còn có các bộ, ngành liên quan, UBND các cấp theo chức năng

nhiệm vụ được phân công, phối hợp chỉ đạo, thực hiện biện pháp XLHC đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc này.

1.2.4.4. Trình tự thủ tục thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Khi phát hiện người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, cơ quan có

thẩm quyền tiến hành lập biên bản; đồng thời tiến hành kiểm tra xét nghiệm chất

ma túy; nếu có kết quả dương tính với ma túy heroin; cơ quan Công an gửi Giấy

đề nghị xác định tình trạng nghiện; Bản tóm tắt lý lịch người được đề nghị xác

định tình trạng nghiện cho Trạm y tế hoặc Trung tâm y tế có thẩm quyền. Cơ sở

y tế lập hồ sơ theo dõi, thực hiện ghi các phiếu theo dõi, căn cứ kết quả theo dõi

ra Phiếu kết quả xác định tình trạng nghiện và gửi cho cơ quan đã ra văn yêu cầu.

Sau khi có phiếu kết quả xác định tình trạng nghiện, chia làm các trường hợp sau:

- Đối với trường hợp chưa đăng ký cai nghiện tự nguyện thì Cơ quan có thẩm

quyền lập hồ sơ ra văn bản thông báo về kết quả xác định tình trạng nghiện, trong

đó nêu rõ: Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày được thông báo là nghiện

ma túy, người được thông báo phải đăng ký cai nghiện tự nguyện hoặc đăng ký

điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế theo quy định của

pháp luật và lập biên bản giao thông báo cho người được thông báo. Khi hết thời

hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày được thông báo mà người được thông báo đăng

ký cai nghiện tự nguyện và không đăng ký điều trị nghiện các chất dạng thuốc

phiện bằng thuốc thay thế theo quy định của pháp luật; căn cứ nội dung làm việc,

25

biên bản xác minh, cơ quan có thẩm quyền lập biên bản vi phạm về đăng ký cai

nghiện tự nguyện (Mẫu số 27 - Nghị định số 116/NĐ-CP).

- Trong trường hợp đã tiến hành đăng ký cai nghiện tự nguyện hoặc đăng

ký điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, nhưng trong

thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày có quyết định cai nghiện tự nguyện, quyết

định điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế của cơ quan

có thẩm quyền mà không thực hiện cai nghiện, điều trị theo đăng ký (Trường hợp

do sự kiện bất khả kháng không thể thực hiện đúng thời hạn trên thì thời hạn được

tính lại kể từ thời điểm sự kiện bất khả kháng chấm dứt theo quyết định của cơ

quan có thẩm quyền) thì lập biên bản vi phạm hành chính về việc không thực hiện

cai nghiện tự nguyện hoặc không thực hiện điều trị nghiện các chất dạng thuốc

phiện bằng thuốc thay thế.

- Trong trường hợp đã tiến hành đăng ký cai nghiện tự nguyện hoặc đăng

ký điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế và đã thực hiện

nhưng đang trong thời gian cai nghiện tự nguyện, thời gian điều trị nghiện các

chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế mà không tuân thủ các quy định chuyên

môn về cai nghiện ma túy; tự ý rời khỏi cơ sở cai nghiện từ 05 ngày làm việc trở

lên, không đến điều trị tại cơ sở điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng

thuốc thay thế từ 05 ngày làm việc trở lên hoặc không chấp hành 10 liệu trình điều

trị liên tục mà không có lý do thì lập biên bản vi phạm về việc tự ý chấm dứt cai

nghiện ma túy, chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc

thay thế.

- Đối với trường hợp đang trong thời hạn quản lý sau cai nghiện thì lập biên

bản vi phạm hành chính về quản lý sau cai nghiện ma túy.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày phát hiện người nghiện ma túy

thuộc đối tượng quy định tại Điều 32 Luật phòng chống ma túy, cơ quan có thẩm

quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo

26

quy định tại Điều 103 Luật xử lý vi phạm hành chính (được sửa đổi, bổ sung năm

2020).

Sau khi hoàn thành việc lập hồ sơ đề nghị, cơ quan lập hồ sơ phải thông

báo bằng văn bản cho người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc hoặc người đại diện hợp pháp của họ về việc lập hồ sơ. Những người

này có quyền đọc hồ sơ và ghi chép các nội dung cần thiết trong thời hạn 03 ngày

làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo.

Trong thời hạn 01 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn đọc hồ sơ, Công

an cấp tỉnh gửi hồ sơ cho Trưởng phòng Phòng Lao động - Thương binh và Xã

hội cấp huyện nơi người bị đề nghị áp dụng biện pháp có hành vi vi phạm; Công

an cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã gửi hồ sơ cho Trưởng phòng

Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện. Trong thời hạn 02 ngày làm

việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Trưởng phòng Phòng Lao động - Thương binh

và Xã hội cấp huyện quyết định chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện

áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trường hợp hồ sơ chưa đầy

đủ thì Trưởng phòng Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện chuyển

lại cơ quan đã lập hồ sơ để bổ sung hồ sơ; thời hạn bổ sung là 02 ngày làm việc,

kể từ ngày nhận lại hồ sơ. Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được

hồ sơ bổ sung, Trưởng phòng Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện

quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện áp dụng biện

pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.”.

* Tòa án xem xét, giải quyết

- Trong thời hạn 01 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ Tòa án thụ lý và

phân công Thẩm phán xem xét, giải quyết;

- Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý, Tòa án ban hành

Thông báo thụ lý bằng văn bản cho cơ quan đề nghị, Viện kiểm sát nhân dân cùng

cấp, người bị đề nghị hoặc người đại diện hợp pháp của người bị đề nghị;

27

- Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán

ra quyết định yêu cầu bổ sung tài liệu chứng cứ (trong thời hạn 02 ngày làm việc)

hoặc đình chỉ, tạm đình chỉ hoặc mở phiên họp (trong thời hạn 07 ngày làm việc);

- Trường hợp phải hoãn phiên họp không quá 05 ngày làm việc, có Thông

báo bằng văn bản gửi cho cơ quan đề nghị, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp,

người bị đề nghị hoặc người đại diện hợp pháp của người bị đề nghị;

- Quyết định của Tòa án được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và người

được quy định tại Điều 107 của Luật xử lý vi phạm hành chính trong thời hạn 02

ngày làm việc kể từ ngày công bố quyết định.

Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày quyết định áp dụng biện pháp xử lý

hành chính có hiệu lực, Tòa án nhân dân đã ra quyết định phải gửi quyết định cho

người bị áp dụng, cơ quan đã gửi hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành

chính hoặc cơ quan Công an cùng cấp trong trường hợp Công an cấp tỉnh lập hồ

sơ đề nghị, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú và các cơ quan hữu quan

để thi hành theo quy định của pháp luật.

* Các tài liệu trong hồ sơ

Theo điểm d khoản 3 Điều 103 Luật xử lý vi phạm hành chính (được sửa

đổi, bổ sung năm 2020), và các văn bản hướng dẫn thi hành có thể nói hồ sơ đề

nghị gồm có các tài liệu cơ bản như sau:

- Bản tóm tắt lý lịch của người bị đề nghị, tài liệu thể hiện về nhân thân của

người bị đề nghị: Lý lịch cá nhân, Giấy xác nhận thông tin nơi cư trú, căn cước

công dân, sổ hộ khẩu...; Phiếu tra cứu tiền án tiền sự, trường hợp người bị đề nghị

có tiền án, tiền sự cần phải xác minh làm rõ và thu thập đầy đủ: Quyết định xử lý

vi phạm hành chính hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính, giấy chứng nhận

chấp hành xong; bản án, Quyết định của Tòa án, giấy chứng nhận chấp hành xong

phần hình phạt và phần dân sự (nếu có)...các tài liệu chứng minh về việc chấp

hành án, thực hiện các nghĩa vụ dân sự.

28

- Tài liệu chứng minh tình trạng nghiện ma túy hiện tại của người bị đề

nghị: Biên bản sự việc; Biên bản xét nghiệm chất ma túy; hình ảnh kết quả xét

nghiệm, Giấy đề nghị xác định tình trạng nghiện; bản tóm tắt lý lịch người được

đề nghị xác định tình trạng nghiện; hồ sơ theo dõi của cơ sở y tế lập: Phiếu tổng

hợp theo dõi để xác định tình trạng nghiện ma túy (phụ lục số 03, 04) và Phiếu

kết quả xác định tình trạng nghiện; Giấy chứng nhận đã tham gia và hoàn thành

khóa tập huấn “chẩn đoán và hỗ trợ điều trị cai nghiện ma túy và các chất dạng

thuốc phiện và ma túy tổng hợp dạng AMPHETAMINE”;...

- Biên bản vi phạm và các tài liệu xác định hành vi vi phạm:

Đối với trường hợp không đăng ký cai nghiện tự nguyện hoặc không đăng

ký điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế: Thông báo về

kết quả xác định tình trạng nghiện, biên bản giao, Biên bản làm việc với người

nghiện, biên bản xác minh tại cơ sở y tế; biên bản vi phạm ...

Đối với trường hợp không thực hiện cai nghiện tự nguyện hoặc không thực

hiện điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế: Quyết định

cai nghiện tự nguyện, quyết định điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng

thuốc thay thế của cơ quan có thẩm quyền; tài liệu thể hiện quá trình điều trị, tài

liệu thể hiện không thực hiện cai nghiện, điều trị theo đăng ký...

Đối với trường hợp tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy, chấm dứt điều trị

nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế: Quyết định cai nghiện tự

nguyện, quyết định điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế

của cơ quan có thẩm quyền; tài liệu thể hiện quá trình điều trị, tài liệu thể hiện

không tuân thủ các quy định chuyên môn về cai nghiện ma túy; tự ý rời khỏi cơ

sở cai nghiện từ 05 ngày làm việc trở lên, không đến điều trị tại cơ sở điều trị

nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế từ 05 ngày làm việc trở lên

hoặc không chấp hành 10 liệu trình điều trị liên tục mà không có lý do.

29

Đối với trường hợp trong thời gian cai nghiện ma túy tự nguyện bị phát

hiện sử dụng trái phép chất ma túy: Quyết định cai nghiện tự nguyện, quyết định

điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế của cơ quan có thẩm

quyền;

Đối với trường hợp bị chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện

bằng thuốc thay thế do vi phạm quy định về điều trị nghiện; Quyết định điều trị

nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế của cơ quan có thẩm quyền;

tài liệu thể hiện quá trình điều trị, tài liệu thể hiện vi phạm quy định về điều trị

nghiện; quyết định chấm dứt điều trị nghiện.

Đối với trường hợp tái nghiện: Quyết định quản lý sau cai nghiện.

- Bản tường trình của người nghiện ma túy và các tài liệu khác có liên quan;

+ Bản tường trình của người bị đề nghị hoặc Biên bản lấy lời khai của người

bị đề nghị;

+ Bản xác nhận về việc quản lý người nghiện ma túy trong thời gian lập hồ

sơ; quyết định về việc quản lý người nghiện ma túy trong thời gian lập hồ sơ;

+ Thông báo về việc lập hồ sơ bằng văn bản và biên bản giao nhận Thông

báo đối với người bị đề nghị; Biên bản về việc không đến đọc hồ sơ (hoặc đọc hồ

sơ).

+ Biên bản họp xét của cơ quan đề nghị.

+ Văn bản đề nghị gửi Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội cấp huyện

nơi người bị đề nghị có hành vi vi phạm.

Công an cấp tỉnh gửi văn bản đề nghị kèm hồ sơ cho Trưởng phòng Lao

động - Thương binh và Xã hội cấp huyện nơi người bị đề nghị áp dụng biện pháp

có hành vi vi phạm; Công an cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã gửi văn

bản đề nghị kèm hồ sơ cho Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cấp

huyện nơi lập hồ sơ đề nghị.

30

Hồ sơ đề nghị phải đánh bút lục và lập thành hai bản, bản gốc gửi Trưởng

phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện, bản sao lưu tại cơ quan lập

hồ sơ theo quy định của pháp luật về lưu trữ

+ Văn bản đề nghị của Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội cấp huyện;

văn bản yêu cầu bổ sung tài liệu và tài liệu (nếu có).

- Các tài liệu trong giai đoạn Tòa án xem xét: Thông báo thụ lý, Thông báo

bổ sung tài liệu và tài liệu bổ sung (nếu có); Quyết định mở phiên họp, Thông báo

hoãn phiên họp (nếu có); Quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp xử

lý hành chính; các biên bản tống đạt.

1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Thứ nhất, mức độ hoàn thiện của pháp luật liên quan đến việc thi hành pháp

luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cai nghiện bắt buộc.

Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và pháp luật về biện pháp xử lý

VPHC là công cụ quan trọng để bảo đảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng

chống VPHC, bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức, tăng cường pháp chế xã hội chủ

nghĩa, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước. Để thực hiện được mục đích đó,

có nhiều yếu tố chi phối, nhưng yếu tố chất lượng pháp luật về biện pháp xử lý

VPHC là yếu tố đầu tiên, quan trọng nhất, tạo cơ sở pháp lý cho toàn bộ quá trình

thi hành pháp luật về biện pháp XLHC, trong đó có lĩnh vực biện pháp XLHC đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Nếu các quy định pháp luật về thi hành pháp luật

về biện pháp XLVPHC ngày càng hoàn thiện thì việc thi hành pháp luật về biện

pháp XLHC nói chung và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nói riêng sẽ đạt hiệu

quả cao, góp phần giảm thiểu số vụ VPHC về an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Với

sự nỗ lực và cố gắng của các cấp, các ngành, công tác xây dựng pháp luật về biện

pháp XLHC đối với người nghiện ma túy đã có những chuyển biến tích cực, góp

31

phần xây dựng ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của cán bộ

và nhân dân, đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về XLVPHC nói

chung, thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

nói riêng là biện pháp quan trọng mang tính cơ sở nhằm tạo ra hành lang pháp lý

cho hoạt động XLHC. Theo đó, các cơ quan có thẩm quyền XLVPHC, thi hành

pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có căn cứ pháp

lý vững chắc để thực thi nhiệm vụ của mình.

Hệ thống pháp luật về xử lý VPHC nói chung, thi hành pháp luật về biện

pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nói riêng hiện nay đã dần đảm bảo

tính đồng bộ và tương đối toàn diện. Việc thực hiện đưa người nghiện đi cai

nghiện bắt buộc là một trong những chính sách được ưu tiên trong việc đẩy lùi tệ

nạn ma túy ngoài cộng đồng, đảm bảo trật tự trị an xã hội. Nên cần thiết phải có

những chính sách, pháp luật quy định cụ thể, chặt chẽ kèm theo những văn bản

hướng dẫn rõ ràng, phù hợp với điều kiện phát triển của địa phương cũng như tình

hình người nghiện ở địa phương đó. Như vậy mới đảm bảo thực hiện tốt việc đưa

người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Thứ hai, yếu tố kinh tế xã hội của địa phương.

Yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn đến VPHC, cũng như công tác thi hành

pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Sự phát triển

của nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập với các nước trong khu vực và trên

thế giới, hệ quả của nó đã kéo theo nhiều sự thay đổi cả về đời sống tư tưởng và

con người, đặc biệt là giới trẻ. Các tệ nạn xã hội phát triển ngày càng nhanh chóng,

tình trạng nghiện ma túy ngày càng nhiều. Do đó, hành vi sử dụng trái phép chất

ma túy dẫn đến gây nghiện diễn ra ngày càng nhiều và phức tạp hơn, làm cho

công tác quản lý cũng như thực hiện biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc gặp nhiều khó khăn. Mặc dù kinh tế phát triển song kinh phí đầu tư đảm

32

bảo an ninh, trật tự xã hội và công tác cai nghiện ma túy thực hiện thi hành pháp

luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện còn hạn chế, nhiều cơ sở cai

nghiện ma túy xuống cấp, do đó phải ưu tiên nguồn lực, phải có chiến lược đầu

tư trọng tâm trong khi hành vi vi phạm sử dụng trái phép chất ma túy ngày càng

nhiều và nghiêm trọng. Đặc biệt ma túy tổng hợp tác động lớn ảnh hưởng đến sức

khỏe bản thân, năng suất lao động, vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn

xã hội.

Việc thực hiện cai nghiện thành công hay không phù thuộc vào rất nhiều

yếu tố. Trong đó phải kể đến sự đầu tư bài bản, hợp lý về cơ sở vật chất, đội ngũ

cán bộ cũng như liệu pháp tâm lý, phác đồ điều trị nghiện, biện pháp quản lý phù

hợp. Bên cạnh đó, giáo dục, dạy nghề sau chữa trị cũng rất quan trọng, nó đảm

bảo cho người nghiện sau cai nghiện có công việc tối thiểu, tự nuôi sống bản thân

khi trở lại cộng đồng. Để làm được những điều trên, đòi hỏi cần phải có nguồn

ngân sách dồi dào, ổn định, đầu tư kinh tế đồng bộ về mọi mặt, có như vậy thì

việc thực hiện các biện pháp mới được tốt hơn, đáp ứng yêu cầu tối thiểu cũng

như hạn chế tối đa việc quá tải người nghiện ma túy trong các cơ sở cai nghiện

hiện nay.

Một khó khăn khi nhắc đến người nghiện ma túy, người ta thường gắn cho

nó một quan niệm theo lối mòn, với những suy nghĩ và hành động tiêu cực không

thể chữa trị được. Mặc dù các chính sách được đưa ra nhằm mục đích tuyên truyền,

bảo vệ những đối tượng bị nghiện, trước tác động từ dư luận kì thị với các đối

tượng trên vẫn đang là vấn đề nhức nhối. Một bộ phận không nhỏ từ cộng đồng

đã và đang có những hành động xa lánh, e sợ, ngại tiếp xúc với người nghiện, bộ

phận khác lại có những cử chỉ lăng mạ, xúc phạm chính gia đình có con em nghiện.

Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ, tác động đến tâm lý bản thân người nghiện và

gia đình của họ. Xuất phát từ những tư tưởng lạc hậu trong xã hội mà các gia đình

33

có con em bị nghiện thường che giấu tình trạng nghiện, không đưa đi cai, nên dẫn

tới việc bệnh ngày càng nặng và đe dọa đến tình hình trật tự xã hội trên địa bàn.

Thứ ba, ý thức pháp luật của cá nhân, tổ chức có liên quan trong thi hành

pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Yếu tố này có vai trò vô cùng quan trọng vì khi ý thức của các cán bộ, công

chức, các đương sự, các tổ chức, cá nhân có liên quan trong thực hiện biện pháp

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc này có tốt thì hiệu quả thực hiện công

việc mới cao. Trong lĩnh vực này, ý thức pháp luật của cán bộ, công chức, người

tổ chức thực hiện pháp luật, đương sự và tổ chức cá nhân có liên quan có ý nghĩa

rất lớn, ảnh hưởng tới tình trạng tuân thủ thực thi pháp luật. Pháp luật chỉ có thể

được chấp hành nghiêm chỉnh và chính xác nếu như mọi người dân , trong đó có

cán bộ, công chức, người thực thi pháp luật hiểu và tôn trọng pháp luật. Khi mọi

người có hiểu biết pháp luật thì việc thực hiện cũng như tuân thủ pháp luật mới

đúng được.

Thứ tư, năng lực tổ chức thực hiện pháp luật về xử lý hành chính đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Cũng như yếu tố trên, yếu tố tổ chức thực hiện pháp luật là một nội dung

của yêu cầu pháp chế. Khi có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đầy đủ là vô

cùng cần thiết, nhưng pháp luật đó phải được thực hiện có hiệu quả trong đời sống

xã hội chứ không phải pháp luật chỉ nằm trên giấy tờ.

Việc thực hiện đúng các quy định của pháp luật chính là việc các cơ quan

nhà nước tổ chức triển khai để mọi người trong xã hội thực hiện các quy tắc theo

quy định của pháp luật. Muốn hoạt động này đạt hiệu quả cao thì công tác phòng

ngừa, can thiệp sớm đối với người sử dụng ma túy, tuyên truyền, phổ biến pháp

luật cần phải được thực hiện thường xuyên. Ngoài ra các cơ quan nhà nước, các

cấp, các ngành cần thường xuyên kiện toàn, củng cố tổ chức pháp chế để tạo điều

kiện nắm vững và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật.

34

Thứ năm, công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật trong tổ chức

thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc.

Kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật và xử phạt nghiêm minh những

vi phạm pháp luật là hoạt động không thể thiếu nhằm đảm bảo tính nghiêm minh

của pháp luật. Kiểm tra, giám sát tốt nhằm phát hiện kịp thời những vi phạm pháp

luật để từ đó có biện pháp uốn nắn, chấn chỉnh hoạt động chấp hành pháp luật,

hoạt động thực thi pháp luật nhằm đảm bảo cho pháp luật được thực hiện có hiệu

quả trong cuộc sống.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Ma túy và tác động tiêu cực của tình trạng nghiện ma túy ảnh hưởng đến

tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Nhà nước cần đưa ra các biện pháp quản

lý nhằm đảm bảo thực hiện theo Hiến pháp và pháp luật liên quan đến việc sử

dụng các chất ma túy dẫn đến gây nghiện. Để đảm bảo quản lý đối với cá nhân

người nghiện ma túy vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Luật

xử lý VPHC được ban hành, thi hành hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc có ý nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo an ninh, trật tự,

cũng như việc quản lý, đảm bảo quyền con người khi xác định người nghiện là

người bệnh “đặc biệt”. Do vậy việc tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc, bảo đảm chất

lượng của hoạt động thi hành pháp luật về biện pháp XLHC theo đúng quy định

pháp luật; đảm bảo tính hiệu lực của các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực cai

nghiện bắt buộc. Thực hiện đúng và đầy đủ các quy định pháp luật đối với người

nghiện ma túy, bảo đảm sự đồng bộ của hệ thống pháp luật và hệ thống pháp luật

khác liên quan đến người nghiện ma túy. Nghiên cứu cơ sở lý luận thi hành pháp

luật về biện pháp XLHC đưa người nghiện ma túy bắt buộc có ý nghĩa thúc đẩy

thực thi pháp luật, góp phần vào đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội và phát

triển nền kinh tế xã hội.

35

Hoạt động quản lý nhà nước giải quyết mối quan hệ, hành vi của cá nhân

vi phạm sử dụng trái phép chất ma túy dẫn đến gây nghiện. Thi hành pháp luật về

biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ở nước ta và trên thế giới

luôn là vấn đề phức tạp, có ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Có thể

thấy được qua việc Nhà nước sử dụng pháp luật, để thực hiện tác động đến các

chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống ma túy nói chung và thực hiện

pháp luật xử lý VPHC đối với người nghiện ma túy. Biện pháp XLHC đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc sẽ góp phần rất lớn đến hiệu quả thực thi pháp luật. Hoạt

động này có vai trò to lớn cho việc đảm bảo phát triển bền vững kinh tế - xã hội,

bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội.

36

Chương 2

THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH

CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI THỊ XÃ

BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK

2.1. Đặc điểm tỉnh hình tỉnh Đắk Lắk có ảnh hưởng thi hành pháp luật

về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thị xã

Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk

2.1.1. Tình hình tự nhiên, kinh tế - xã hội thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk

Tỉnh Đắk Lắk với diện tích 13.125,4 km2 nằm trên địa bàn Tây Nguyên,

phía bắc giáp tỉnh Gia Lai, phía Nam giáp tỉnh Lâm Đồng, phía đông giáp tỉnh

Phú Yên và tỉnh Khánh Hòa, phía Tây giáp Vương quốc Campuchia và tỉnh Đắk

Nông. Là tỉnh có đường biên giới dài 70km chung với nước Campuchia, trên đó

có quốc lộ 14C chạy dọc theo biên giới hai nước rất thuận lợi cho việc phát triển

vùng biên kết hợp với bảo vệ an ninh quốc phòng.

Tỉnh Đắk Lắk có 49 dân tộc cùng sinh sống, trong đó đồng bào dân tộc

thiểu số chiếm 35,7% dân số. Giai đoạn 2021-2025, Đắk Lắk có 54 xã Khu vực

III, 5 xã Khu vực II, 71 xã, phường, thị trấn thuộc Khu vực I; 519 thôn Đặc biệt

khó khăn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Hiện toàn tỉnh có

496.387 hộ, trong đó có 154.144 hộ đồng bào dân tộc thiểu số (theo chương trình

thống kê khảo sát năm 2021 của Ban Dân tộc tỉnh Đắk Lắk).

Thị xã Buôn Hồ được thành lập vào ngày 23/12/2008 theo Nghị định số

07/NĐ-CP của Chính phủ, là đô thị trung tâm có vai trò là trung tâm kinh tế, chính

trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật của khu vực phía Bắc tỉnh Đắk Lắk, có vị trí an

ninh quốc phòng đặc biệt quan trọng nằm ở phía Đông Bắc của thành phố Buôn

Ma Thuột, cách trung tâm tỉnh Đắk Lắk 40km về phía Đông Bắc, chạy dọc theo

Quốc lộ 14: Phía Đông giáp huyện Krông Năng, Ea Kar; Phía Tây giáp huyện Cư

37

M’Gar; Phía Nam giáp huyện Krông Pắk; Phía Bắc giáp huyện Krông Búk. Bên

cạnh đó Thị xã Buôn Hồ còn có các tuyến quốc lộ huyết mạch nối liền các tỉnh

Gia Lai, Kon Tum với Thành phố Buôn Ma Thuột. Hệ thống giao thông thuận lợi,

đường ô tô đến hầu hết các trung tâm đông dân cư theo tuyến Quốc lộ 14, quốc lộ

29 và các tuyến đường liên xã, liên phường, thuận lợi cho việc đi lại và vận chuyển

hàng hóa, dịch vụ thương mại.

Thị xã Buôn Hồ có 28.205,89 ha diện tích tự nhiên và 101.554 nhân khẩu,

có 12 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm các phường: Đạt Hiếu, An Lạc, An

Bình, Thiện An, Đoàn Kết, Thống Nhất, Bình Tân và các xã: Ea Siên, Ea Drông,

Ea Blang, Bình Thuận, Cư Bao. Trên địa bàn thị xã có 22 dân tộc anh em cùng

sinh sống như Ê Đê, Gia Rai, Kinh, Tày, Nùng…đã tạo nên một nền văn hóa

phong tục đa dạng, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc.

Thị xã Buôn Hồ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, đặc trưng cho

vùng Cao nguyên Nam Trung Bộ, mỗi năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa

khô. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10, lượng mưa trung bình hàng năm

khoảng 1.700 mm, nhiệt độ trung bình là 23,4 độ C rất thuận lợi cho các loại cây

công nghiệp như cà phê, cao su, ca cao, tiêu và cây lương thực như ngô lai, đậu

tương và các loại cây ăn trái khác.

Hiện nay, Buôn Hồ đã là “tâm điểm” của vùng chuyên canh cây cà phê nổi

tiếng, được trải rộng ra các huyện lân cận, bao gồm huyện Cư M'gar, Krông Năng,

Ea H'Leo với diện tích gần 100.000 ha. Ðồng thời, đây cũng là vùng có hệ sinh

thái phong phú và đa dạng với các khu rừng đặc dụng, rừng phòng hộ tiêu biểu

như: đèo Hà Lan, rừng thông Buôn Tring... nên rất có tiềm năng trong việc phát

triển du lịch sinh thái, gắn với văn hóa truyền thống của người dân bản địa. Ở đó

Buôn Hồ được coi như một "địa chỉ đỏ" có sức lan tỏa, ảnh hưởng rộng khắp toàn

vùng. Với những đặc trưng đó, Buôn Hồ được xác định là đô thị kinh tế-sinh thái-

văn hóa cấp vùng của tỉnh.

38

Khai thác thế mạnh của thiên nhiên, điều kiện văn hóa, xã hội để phát triển

du lịch văn hóa - sinh thái, hướng dẫn người dân trong việc tạo việc làm, tham gia

các hoạt động dịch vụ du lịch, cải thiện đời sống cho đồng bào nhằm phát triển

kinh tế - xã hội địa phương, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ vững quốc phòng -

an ninh, là vấn đề đang được cấp ủy, chính quyền của tỉnh Đắk Lắk và thị xã Buôn

Hồ quan tâm thực hiện, góp phần phát triển một cách toàn diện hoạt động kinh tế

- xã hội của Thị xã.

Bên cạnh những thuận lợi như vậy thì thị xã Buôn Hồ cũng có một số khó

khăn nhất định như:

Đa số nhân dân trên địa bàn còn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp,

chiếm hơn 70 % dân số, còn lại là kinh doanh buôn bán, sản xuất công nghiệp -

tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ.

Đời sống nhân dân trong các xã vùng sâu còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt

là các đồng bào dân tộc thiểu số, vì vậy nên có ảnh hưởng đến chất lượng cuộc

sống, trình độ dân trí trong vùng.

Địa hình khá phức tạp, độ dốc cao ảnh hưởng đến các vấn đề tưới tiêu trong

sản xuất và đời sống cũng như các hoạt động giao thông vận tải nội địa.

Dân số cơ học tăng nhanh trong khi đó diện tích đất tự nhiên cố định hiện

là áp lực đối với sự phát triển kinh tế xã hội là vấn đề đang cần giải quyết.

Với những đặc điểm kinh tế, xã hội của thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk có

thể thấy để đảm bảo tăng trưởng ổn định, đảm bảo an ninh trật tự, tạo môi trường

xã hội lành mạnh, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân. Thời gian gần đây, tình

hình tội phạm hình sự, tội phạm hoạt động có tổ chức, buôn lậu, ma túy, tín dụng

đen, tham nhũng… đang là những vấn đề nhức nhối trong xã hội, gây mất ổn định

về an ninh, trật tự.

Ở thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk, là tỉnh miền núi nên tình hình an ninh

nông thôn tiềm ẩn nhiều vấn đề bất ổn mà một trong những nguyên nhân chủ yếu

39

xuất phát từ các tệ nạn xã hội liên quan đến người nghiện ma túy. Phát sinh nhiều

nguy cơ đe dọa an ninh phi truyền thống, nhất là nguy cơ mất trật tự an toàn xã

hội... Những tác động thái phức tạp đó đan xen, tác động lẫn nhau có thể làm cho

những bức xúc, rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội tăng lên, thách thức trực tiếp

đến an ninh xã hội, an ninh con người…của thị xã Buôn Hồ nói riêng và của tỉnh

Đắk Lắk nói chung.

Trong thời gian tới có tệ nạn xã hội gây suy thoái, biến chất về tư tưởng,

đạo đức, lối sống của người nghiện và các hoạt động phạm pháp liên quan đến ma

túy diễn ra trong một bộ phận không nhỏ người dân địa phương, mà còn diễn biến

phức tạp ở cấp cao hơn, ảnh hưởng tiêu cực của các chất ma túy mới dễ tiếp cận

một bộ phận không nhỏ người dân. Trong khi đó, năng lực và tổ chức của bộ máy

nhà nước còn có hạn chế với những biểu hiện tinh vi, phức tạp của tệ nạn ma túy,

gây bức xúc trong dư luận. Cùng với đó, khoảng cách giàu - nghèo, phân hóa xã

hội ngày càng tăng, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại.

Từ việc xác định thúc đẩy sự phát triển và giữ vững sự ổn định xã hội, mỗi

quốc gia - dân tộc nói chung, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk nói riêng chủ động

thực hiện các chính sách pháp luật của Nhà nước trong việc thực thi pháp luật đối

với công tác phòng, chống ma túy và công tác cai nghiện và phục hồi sau cai

nghiện.

2.1.2. Thực trạng tình hình người nghiện ma túy

Theo số liệu thống kê từ năm 2018 đến nay của Ban Chỉ đạo của tỉnh Đắk

Lắk cho thấy tình trạng người sử dụng ma túy dẫn đến nghiện ma túy trên địa bàn

tỉnh có xu hướng khó kiểm soát, qua các năm và diễn biến ngày càng phức tạp, cụ

thể như sau:

40

Bảng 2.1: Tổng hợp thống kê người nghiện ma túy, tại thị xã

Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk

ĐVT: người

Năm

Tổng số người nghiện Số người nghiện có mặt ngoài xã hội Tổng số xã phường có người nghiện ma túy Số người sử dụng ma túy nghi nghiện

70 50 10 90 2018

73 54 10 90 2019

60 49 11 70 2020

74 56 10 71 2021

70 55 10 70 2022

(Nguồn: thống kê của Ban chỉ đạo phòng, chống tội phạm tệ nạn xã hội và xây

dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc của tỉnh Đắk Lắk)

Qua tìm hiểu thực tế và nghiên cứu các số liệu người nghiện ma túy trên

địa bàn cho thấy, việc thống kê người nghiện ma túy gặp rất nhiều khó khăn, số

người sử dụng ma túy dẫn đến nghiện ma túy, người sau cai nghiện chưa tái

nghiện, số người nghiện đi làm ăn xa, số lưu tra tại các năm trước do đang chấp

hành án phạt tù, thời điểm báo cáo…việc xác định tình trạng nghiện ma túy trên

địa bàn thường thông qua tình trạng sử dụng chất ma túy trái phép gây ra tình

trạng nghiện.

Ngoài ra, còn rất nhiều người chưa được xác định tình trạng nghiện ma túy

tổng hợp, do tính chất của ma túy tổng hợp tác động trong thời gian dài khó đánh

giá, người nghiện dễ tái nghiện và chưa có cơ quan chức năng đánh giá độc lập

việc cai nghiện thành công. Người nghiện ma túy tại cộng đồng đa số không nghề

nghiệp hoặc có việc làm nhưng không ổn định thường thay đổi chỗ ở hoặc đi làm

ăn xa. Số thống kê người nghiện chỉ tập trung vào người nghiện có hồ sơ quản lý

41

tại địa bàn, ngoài ra còn nhiều người nghiện ma túy khó thống kê do không có

mặt tại địa phương nơi cư trú.

Việc không khai báo tình trạng nghiện các chất ma túy khi sử dụng trên địa

bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk còn phổ biến. Từ năm 2018 đến nay, các lực

lượng chức năng Công an thị xã, phòng Lao động – TB&XH đã cố gắng thu thập

hồ sơ quản lý người nghiện để thực hiện các biện pháp quản lý người nghiện thực

hiện các biện pháp kiềm chế nghiện ma túy trên địa bàn, cụ thể:

Năm 2018, toàn thị xã có 30 người nghiện ma túy.

Năm 2019, toàn thị xã có 32 người nghiện ma túy.

Năm 2020, toàn thị xã có 29 người nghiện ma túy.

Năm 2021, toàn thị xã có 30 người nghiện ma túy.

Tính đến năm tháng 12/2022, toàn thị xã có 31 người nghiện ma túy.

Công tác thống kê người nghiện ma túy nhằm thu thập số liệu, cập nhật

thường xuyên thông tin về người nghiện ma túy vào hệ thống cơ sở dữ liệu người

nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh để có biện pháp quản lý phù hợp.

2.2 Thực tiễn thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk

Việc phân định thẩm quyền các sở, ngành thành viên theo chức năng, nhiệm

vụ được UBND tỉnh giao, phối hợp thực hiện thi hành pháp luật về biện pháp

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk

Lắk. Các huyện, thành phố dưới sự chỉ đạo của Ban chỉ đạo tỉnh, từ việc thiết lập

hồ sơ đến đưa người nghiện ma túy bị thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (Cơ sở cai nghiện ma túy thuộc Sở LĐ-TB&XH

quản lý) theo quy định pháp luật hiện hành.

2.2.1. Công tác chỉ đạo, thiết lập hồ sơ, đề nghị thi hành pháp luật về biện

pháp xử lý hành chính đối với người nghiện

Chỉ đạo thực hiện

42

Luật Xử lý VPHC được Quốc hội thông qua đã thể hiện quan điểm mới, đề

cao tính nhân đạo, tôn trọng quyền con người đối với người nghiện ma túy. Chính

phủ và các Bộ, ngành liên quan đã ban hành các văn bản quy định chi tiết và tổ

chức thực hiện. Thực tiễn, áp dụng triển khai thực hiện trên địa bàn tỉnh đã bộc lộ

nhiều vướng mắc, khó khăn khi mới triển khai. Tỉnh Đắk Lắk (Ban chỉ đạo tỉnh)

đã chỉ đạo các Sở, ban, ngành, các tổ chức đoàn thể tổ chức thực hiện triển khai

từ thiết lập hồ sơ đến thực hiện đưa người nghiện ma túy vào các cơ sở cai nghiện

trên địa bàn.

Trên cơ sở Nghị quyết số 77/2014/QH13 ngày 10/11/2014 của Quốc hội về

Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015, trong đó có nội dung về tháo gỡ

khó khăn, vướng mắc trong việc đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc; Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 26/12/2014 của Chính phủ về tăng cường

chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình

mới, trong đó Thủ tướng Chính phủ yêu cầu phải đẩy mạnh cải cách thủ tục hành

chính, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan chức năng và Tòa án để rút ngắn

thời gian lập hồ sơ đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc.

Sở LĐ – TB&XH tỉnh (cơ quan Thường trực Tiểu ban chỉ đạo 09, Tiểu ban

phòng, chống tệ nạn xã hội) đã tham mưu thể chế văn bản của Trung ương bằng

các Quyết định, Kế hoạch của UBND tỉnh, sau khi được thống nhất giữa các Sở,

ban, ngành, UBND các huyện, thành phố và chính quyền địa phương, tạo ra hệ

thống văn bản pháp lý trong chỉ đạo các cấp chính quyền triển khai đồng bộ. Trên

cơ sở chỉ đạo của tỉnh Đắk Lắk, các huyện, thành phố Buôn Ma Thuột nói chung

và thị xã Buôn Hồ nói riêng đã thể chế ban hành các văn bản triển khai thực hiện

chỉ đạo của tỉnh về công tác cai nghiện ma túy nói chung và thực hiện biện pháp

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc theo quy định Luật xử lý VPHC

và các văn bản liên quan.

43

Thiết lập hồ sơ

Công an thị xã chỉ đạo thực hiện thiết lập hồ sơ cai nghiện bắt buộc thông

qua các hành vi vi phạm của người nghiện ma túy. Đây là lực lượng chủ chốt

trong việc phát hiện, truy lùng, tìm kiếm, thử và bắt người nghiện ma túy trên địa

bàn. Thống kê, từ năm 2018 đến nay, lực lượng Công an tỉnh đã bắt hơn 100 đối

tượng sử dụng trái phép chất ma túy ngoài cộng đồng, trong đó thiết lập hồ sơ thi

hành pháp luật về biện pháp XLHC cai nghiện bắt buộc cho 70 người tại thị xã

Buôn Hồ (năm 2018 lập 15 hồ sơ; năm 2019 lập 20 hồ sơ; năm 2020 lập 19 hồ

sơ; năm 2021 lập 11 hồ sơ; đến tháng 12/2022 lập 5 hồ sơ).

Bảng 2.2. Thống kê thiết lập hồ sơ cai nghiện bắt buộc công an thị xã

Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk

ĐVT: hồ sơ

Tổng số Trong đó thực hiện năm

Đơn vị hồ sơ

2018 2019 2020 2021 12/2022 thiết lập

Thị xã Buôn Hồ 70 15 20 19 11 5

(Nguồn: Công an thị xã Buôn Hồ)

Ngoài ra, các vụ án đấu tranh, bắt giữ tội phạm liên quan đến ma túy từ năm

2018 đến nay, nhiều người nghiện ma túy vi phạm tội phạm hình sự và VPHC.

Đối với các trường hợp người nghiện ma túy VPHC liên quan đến thụ lý vụ án

được chuyển thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc. Thông qua các lực lượng chức năng Công an thị xã đã phát hiện bắt giữ 35

vụ, 40 đối tượng phạm tội (Năm 2018, phát hiện bắt 5 vụ, 10 đối tượng; Năm

2019, phát hiện bắt 8 vụ, 11 đối tượng; Năm 2020, phát hiện bắt 7 vụ, 6 đối tượng;

Năm 2021, phát hiện bắt 6 vụ, 8 đối tượng; năm 2022, phát hiện bắt 4 vụ, 5 đối

tượng). Tổng thụ lý điều tra 33 vụ, 34 bị can.

Việc thiết lập hồ sơ thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở

44

cai nghiện bắt buộc là cơ sở để thực hiện áp dụng đưa người nghiện ma túy theo

quy định.

Việc thiết lập hồ sơ đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp XLHC gửi hồ

sơ phòng Tư pháp và phòng LĐ- TB&XH đã phối hợp kiểm tra, phân loại đúng

đối tượng áp dụng, làm cơ sở đề nghị Tòa án quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc hay thi hành pháp luật về biện pháp khác theo hình thức pháp luật quy

định.

Đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính

Đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đối với người nghiện thuộc

thẩm quyền của ngành LĐ-TB&XH. Từ năm 2018 đến nay, ngoài các nhiệm vụ

được giao, ngành đã phát huy vai trò của mình trong công cuộc giảm thiểu số

người nghiện ngoài cộng đồng, từ việc đề nghị áp dụng các biện pháp cai nghiện,

phối hợp với đội cảnh sát Phòng chống ma túy, Công an thị xã Buôn hồ theo dõi

sát sao các đối tượng bị nghiện, cai nghiện, tái nghiện ngoài cộng đồng. Tổ chức

thực hiện công tác cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện ma túy. Có thể thấy đây là hoạt

động mang tính chất thường xuyên và liên tục tham mưu và thực hiện công tác

cai nghiện ma túy trên địa bàn.

Phòng Y tế (Thường trực tiểu ban phòng chống HIV/AIDS) thực hiện chỉ

đạo, hướng dẫn các cơ sở y tế phối hợp thực hiện trình tự, thủ tục xác định tình

trạng nghiện ma túy. Tổ chức tập huấn cho cán bộ y tế của các đơn vị liên quan

về việc thực hiện xác định tình trạng nghiện ma túy, điều trị hỗ trợ cắt cơn nghiện

ma túy. Phối hợp với Phòng LĐ-TB&XH, công an thị xã hướng dẫn chỉ đạo thực

hiện một số nội dung của Thông tư liên tịch số 17/TTLT- BYT- BLĐTBXH-BCA

của liên bộ Y tế, Công an, LĐ-TB&XH.

Công an thị xã trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn các lực lượng chức năng, cấp

xã xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; tổ chức đưa người đã có quyết định vào cơ sở

45

cai nghiện bắt buộc; truy tìm đối tượng bỏ trốn; phối hợp đảm bảo an ninh trật tự

tại các cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Viện Kiểm sát nhân dân huyện, Tòa án nhân dân huyện có kế hoạch phối

hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật đẩy mạnh công tác điều tra, truy

tố, xét xử tội phạm về ma túy và xem xét, quyết định thi hành pháp luật về biện

pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định của Pháp lệnh số

01/2022/UBTVQH15. Các sở, ban, ngành, mặt trận tổ quốc và các tổ chức đoàn

thể tỉnh, UBND các huyện, thành phố thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối

với công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy theo chức năng, nhiệm

vụ được phân công. Tiếp tục rà soát tham mưu xây dựng, kiến nghị sửa đổi, bổ

sung các quy định thực hiện pháp luật về phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện

ma túy; chú trọng vào công tác phòng ngừa, quản lý và cai nghiện ma túy; đồng

thời xây dựng kế hoạch thực hiện phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của ngành,

đơn vị và địa phương mình.

Nhờ sự phối hợp giữa các cấp các ngành có liên quan chỉ đạo thực hiện

chấp hành pháp luật về biện pháp XLHC đối với người nghiện ma tuý, thi hành

pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của

các huyện, thành phố đã có chuyển biến tích cực. Vì vậy, số người nghiện ma tuý

đã được kiềm chế đáng kể về phát sinh người nghiện mới. Thực tế cho thấy rằng,

trong thời gian triển khai thực hiện thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa

người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại các đơn vị cấp xã, lực lượng công

an đã lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện các đơn vị địa phương thiết lập hồ

sơ, mở các đợt cao điểm kiểm soát và xử lý VPHC sử dụng trái phép chất ma túy,

trong đó tập trung vào việc xử lý các hành vi vi phạm thi hành pháp luật về biện

pháp XLHC giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Đồng thời thực hiện thi hành pháp

luật về biện pháp XLHC đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, tổ chức hướng

dẫn thực hiện đúng quy trình xử lý các vi phạm quy định về người nghiện ma tuý

46

sử dụng trái phép các chất ma tuý đã có chuyển biến tích cực, nhanh chóng, khách

quan, được nhân dân tin tưởng và ủng hộ trong đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.

Các ngành chức năng đã phát huy và hoàn thành đảm bảo vai trò của mình

trong công cuộc giảm thiểu số người nghiện ngoài cộng đồng từ việc đề nghị áp

dụng các biện pháp cai nghiện ma tuý, tổ chức thiết lập hồ sơ quản lý người nghiện

qua việc theo dõi sát sao của các ngành chức năng, cơ sở cai nghiện ma tuý.

2.2.2. Triển khai hoạt động cai nghiện ma túy

Tỉnh Đắk Lắk hiện có 01 trung tâm là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở

LĐ-TB&XH quản lý. Cơ cấu tổ chức bộ máy có 01 phòng nghiệp vụ chuyên môn;

Thực hiện chức năng tiếp nhận, tổ chức cai nghiện, chữa trị, giáo dục, phục hồi

sức khoẻ, hành vi nhân cách và dạy nghề cho người nghiện ma túy được đưa vào

cơ sở.

* Cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện

Giai đoạn 2018-2020:

Đối với Cơ sở cai nghiện ma túy, thực hiện tiếp nhận cai nghiện ma túy với

hai hình thức là cai nghiện bắt buộc và cai nghiện tự nguyện. Ngoài ra còn thực

hiện hình thức cắt cơn, giải độc cho công tác cai nghiện ma túy tại cộng đồng.

Bảng 2.3 Tiếp nhận điều trị cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện ma túy giai

đoạn 2018-2020

ĐVT: người

Hình thức cai nghiện ma túy đưa vào cơ sở Năm 2018 Năm 2019 Năm 2020

cai nghiện

1. Tổng số từ năm trước chuyển sang 30 29 32

- Cai nghiện bắt buộc 15 14 15

- Cai nghiện tự nguyện 15 15 17

2. Số được tiếp nhận mới trong năm 29 31 30

- Cai nghiện bắt buộc 13 14 14

47

- Cai nghiện tự nguyện 16 17 16

(Nguồn: Chi cục Phòng, chống tệ nạn xã hội tỉnh Đắk Lắk)

Bảng 2.4. Tổng hợp tiếp nhận điều trị cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện giai

đoạn 2020 đến tháng 11/2022

ĐVT: người

Hình thức cai nghiện ma túy đưa vào cơ sở Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022

cai nghiện

1. Tổng số từ năm trước chuyển sang 19 24 21

- Cai nghiện bắt buộc 9 13 11

- Cai nghiện tự nguyện 10 11 13

2. Số được tiếp nhận mới trong năm 10 11 13

- Cai nghiện bắt buộc 7 7 8

- Cai nghiện tự nguyện 3 4 5

(Nguồn: Chi cục Phòng, chống tệ nạn xã hội tỉnh Đắk Lắk)

Nằm trong tình trạng chung về công tác thi hành pháp luật về biện pháp

XLHC đưa người vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc của các tỉnh, thành phố

trong cả nước. Năm 2015, toàn tỉnh mới thực hiện đưa 13 người nghiện ma tuý

được thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Sau quá trình chỉ đạo triển khai, tổng kết, rút kinh nghiệm trong việc thực hiện

các quy định pháp luật thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc, từ công tác thiết lập hồ sơ theo quy định pháp luật, đến quyết

định của Toà án nhân dân cấp huyện còn nhiều vướng mắc trong tổ chức, thực

hiện.

Năm 2021 So với năm 2020, có 30 người thi hành pháp luật về biện pháp

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên địa bàn tăng. Đây là thành quả nhờ

những nỗ lực của các lực lượng chức năng trong tổ chức thực hiện, giữa các ngành,

48

các cấp cũng như sự chuyển biến trong phối hợp thực hiện thi hành pháp luật về

biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy trên địa bàn.

Năm 2022, so với năm 2021, có 31 người đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc.

* Điều trị nghiện ma túy bằng thuốc methadol tại cộng đồng

Chương trình điều trị Methadol bắt đầu triển khai tháng 10/2012, đến nay

có 02 cơ sở điều trị Methadol tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk, điều trị 100 người

nghiện các chất dạng thuốc phiện.

* Cai nghiện ma túy tại cộng đồng

Cai nghiện tại cộng đồng được thực hiện tại Nghị định số 116/2021/NĐ-

CP ngày 21/12/2021. Kết quả đã tuyên truyền vận động, lập hồ sơ và tổ chức cai

nghiện tại gia đình và cộng đồng đến năm 2022 có 89 người nghiện ma túy tự

nguyện tham gia chương trình.

Chương trình thực hiện thí điểm cai nghiện ma túy tại cộng đồng do Sở

LĐ-TB&XH thực hiện từ năm 2011, đã thành lập. Việc tổ chức cho người nghiện

và gia đình họ khai báo và đăng ký các hình thức cai nghiện: Tổ chức các hoạt

động tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về công tác cai nghiện

ma túy tại gia đình và cộng đồng; giới thiệu các quy trình, thủ tục, các hình thức

cai nghiện để mọi người dân được biết, tự giác vận động tham gia chưa được hiệu

quả. Quá trình thực hiện, các đơn vị huyện, thị xã thành phố gặp rất nhiều khó

khăn trong việc tổ chức thực hiện hình thức cai nghiện này.

2.2.3. Tổ chức kiểm tra và xử lý vi phạm khi thi hành pháp luật về biện

pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Công tác kiểm tra được thực hiện tại UBND các huyện, thành phố về tình

hình triển khai công tác thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc. Công tác phổ biến, hướng dẫn nghiệp vụ liên quan đến việc thi

hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của Phòng

49

LĐ- TB&XH trong việc thực hiện các quy định phối hợp trong thiết lập hồ sơ;

Phòng Y tế trong việc tham gia đào tạo chuẩn đoán tình trạng nghiện ma túy; công

an huyện, thành phố thực hiện thành lập các đội nghiệp vụ, tổ công tác thực hiện

nhiệm vụ trực tiếp phụ trách, hướng dẫn công an xã thực hiện nhiệm vụ lập hồ sơ

thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Kết quả đạt được đã có sự phối hợp, thống nhất giữa các đơn vị có liên quan

giữa Phòng LĐ-TB&XH, Phòng Y tế, Cơ quan công an, Tòa án cấp huyện trong

công tác lập, kiểm tra, đối chiếu và quyết định biện pháp XLHC đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc trên địa bàn.

2.2.4 Sơ kết, tổng kết báo cáo tình hình thi hành pháp luật về biện pháp

xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Trong những năm gần đây, các cơ quan tổ chức có liên quan, đặc biệt là

UBND thị xã đã từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước, sự

phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các cấp, các ngành và các tổ chức chính trị - xã

hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân

dân nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cai nghiện và hỗ trợ sau cai

nghiện, kìm hãm sự gia tăng số người nghiện mới, quản lý chặt chẽ người nghiện

ngoài cộng đồng, không để phát sinh tụ điểm phức tạp, góp phần xây dựng môi

trường xã hội an toàn, lành mạnh phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của

thị xã.

Xây dựng và triển khai thực hiện dự án “Xây dựng xã, phường, thị trấn

không có tệ nạn ma túy” đến 07 phường 05 xã trên địa bàn thị xã.

Kịp thời tham mưu xây dựng kế hoạch về việc mở đợt cao điểm triệt xóa

các điểm sử dụng ma túy và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính

đối với người nghiện ma túy trên địa bàn; chủ động xây dựng các kế hoạch các

đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm.

50

Xây dựng tờ trình đề nghị UBND thị xã xử phạt vi phạm hành chính đối

với một số cơ sở kinh doanh dịch vụ Karaoke; ngoài ra còn tham mưu, hướng dẫn

lực lượng công an các xã, phường lập hồ sơ giáo dục xã phường, cai nghiện bắt

buộc đối với các đối tượng nghiện trên địa bàn.

Về phối hợp tuyên truyền, phát động luật phòng, chống ma túy, tình hình

tội phạm và tệ nạn ma túy, cách phòng, chống ma túy; Kết quả triển khai công tác

tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống ma túy thông qua các phương tiện truyền

thông; tham gia hưởng ứng các đợt cao điểm về phòng, chống ma túy và xóa việc

trồng cây có chứa chất ma túy tại địa phương.

Về công tác phòng ngừa nghiệp vụ:

Phòng lao động – thương binh và xã hội phối hợp với Công an xã, phường

lập hồ sơ giáo dục xã phường về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo nghị

định 116/2021/NĐ-CP.

Công an thị xã phối hợp với Công an xã, phường quản lý đối tượng ra tù về

tội ma túy và quản lý đối tượng đã cai nghiện ma túy trở về địa phương trên địa

bàn thị xã.

2.3 Đánh giá tình hình thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk

2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân

Thứ nhất, số người được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thi hành pháp

luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, sau khi tháo gỡ được

khó khăn khi thực hiện năm sau cao hơn năm trước. Đáp ứng được yêu cầu đề ra

trong việc phòng, chống tệ nạn xã hội của tỉnh, giải quyết được lượng lớn số người

nghiện còn tồn tại ngoài cộng đồng không thực hiện các biện pháp cai nghiện tự

nguyện, sử dụng thay thế các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadol.

Ngay sau khi phát hiện đối tượng nghiện ma túy và xem xét, thu thập thông

tin để xác định đối tượng thuộc diện cai nghiện bắt buộc để hoàn tất lập hồ sơ đề

51

nghị thi hành pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ quan

Công an cho người nghiện bị đề nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ đọc và

ký vào thông báo về việc bị lập hồ sơ thi hành pháp luật về biện pháp đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc (đảm bảo theo thủ tục của Tòa). Đồng thời, làm việc với

người thân trong gia đình của người bị đề nghị theo 2 hướng: nếu gia đình cam

kết có đủ điều kiện và quản lý được người nghiện trong thời gian cho bảo lãnh thì

tiến hành cho gia đình bảo lãnh; nếu gia đình không có điều kiện quản lý đối tượng

hoặc có đơn từ chối tiếp nhận thì chuyển người đó vào cơ sở cai nghiện trên địa

bàn để quản lý lưu trú tạm thời.

Thứ hai, quá trình phát hiện và lập hồ sơ đề nghị, việc thi hành pháp luật

về biện pháp đưa người nghiện đi cai cơ bản được thực hiện đúng quy trình theo

luật định, không bỏ sót các giai đoạn nên hầu hết các đối tượng sau khi phát hiện

ra đã và đang có hành vi tái nghiện đều bị cơ quan có thẩm quyền thi hành pháp

luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trong quá trình tiếp

nhận hồ sơ và xử lý, các cơ quan chức năng đã gặp không ít vướng mắc và bất

cập trong việc giải quyết các đối tượng để đưa đi cai nghiện. Nếu không giải quyết

kịp thời thì số người nghiện trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk ngày càng

diễn biến phức tạp, tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, ảnh hưởng đến an ninh, đe

dọa đến cuộc sống của người dân xung quanh.

Qua triển khai thực hiện tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk, Phòng LĐ-

TB&XH đã tổng hợp khó khăn, vướng mắc trong triển khai thực hiện, kiến nghị

lên Sở, Ngành để tiếp tục đề nghị lên cấp cao hơn như Bộ, ngành Trung ương sớm

ban hành các văn bản hướng dẫn; rà soát sửa đổi, thay thế những quy định liên

quan đến công tác cai nghiện ma túy cho phù hợp với tình hình hiện nay theo quy

định của Luật Phòng chống ma túy; Luật xử lý VPHC, xem xét đề nghị Chính phủ

sửa đổi giảm thủ tục hành chính, hồ sơ đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Nghị định số 116/2021/NĐ-

52

CP, đồng thời rút ngắn công đoạn chuyển hồ sơ từ UBND cấp xã đến Tòa án

nhân dân cấp huyện để sớm xem xét, quyết định đảm bảo tính kịp thời những khó

khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện.

Thứ ba, việc phối hợp của các cơ quan liên quan trong công tác đưa người

đi cai nghiện bắt buộc về cơ bản có những chuyển biến tích cực. Ngoài việc họ

phải tuân thủ theo đúng trình tự, thủ tục, đội ngũ này cần phải linh hoạt, sáng tạo

trong việc tháo gỡ những vướng mắc và đề ra những biện pháp giải quyết phù

hợp. Ngoài ra, ở các cuộc họp nâng cao chuyên môn cũng như trong việc tiếp xúc,

làm việc trực tiếp ở thực tiễn, đội ngũ này luôn là người nắm bắt được tình hình

thực tế, thấy rõ những ưu điểm, bất cập, hay những vướng mắc xảy ra nên trình

độ chuyên môn đần được đảm bảo, quy trình thực hiện đúng thẩm quyền, không

chồng chéo, bị động, không phụ thuộc mà linh động thực hiện công việc một cách

hiệu quả nhất.

Theo đó, các ngành như: Công an, LĐ-TB&XH các huyện, thị xã, thành

phố phải thống nhất lập hồ sơ, chuyển qua Tòa án cấp huyện. Toà án cấp huyện

ra quyết định có đưa người nghiện thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào

cơ sở cai nghiện hay không. Việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

với rất nhiều thủ tục hành chính theo quy định thì cần 13-17 loại giấy tờ, rất rườm

rà và trái với tinh thần cải cách hành chính. Thời gian từ khi bắt được một đối

tượng nghiện ma túy, xử phạt hành chính, thi hành pháp luật về biện pháp giáo

dục tại xã, phường, thị trấn, đến thiết lập hồ sơ thi hành pháp luật về biện pháp

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có quy trình từ đến gần 60-75 ngày, là

quá dài và gây thêm phức tạp trong việc quản lý người nghiện.

Bên cạnh đó, đối với người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định thì

giao cho tổ chức xã hội quản lý trong thời gian chờ lập thủ tục thi hành pháp luật

về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tuy nhiên, không thể đòi hỏi các

tổ chức này phải có chuyên môn để đi điều trị, cắt cơn, giải độc. Thị xã Buôn Hồ,

53

Tỉnh Đắk Lắk cũng quy định chuyển người không có nơi cư trú ổn định trong thời

gian chờ lập hồ sơ vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do các cơ sở này có đầy đủ chức

năng về y tế, trang thiết bị, chế độ hỗ trợ cho người bị quản lý và đội ngũ cán bộ

tại cơ sở cai nghiện.

Nguyên nhân

Trước đây, các chế tài quản lý mới chỉ áp dụng cho người được xác định là

nghiện ma túy. Trong khi đó, hành vi sử dụng trái phép chất ma túy chỉ bị xử phạt

hành chính cao nhất là 01 triệu đồng nên không đủ sức răn đe. Một số trường hợp

sử dụng ma túy dẫn đến loạn thần, “ngáo đá” gây ra một số vụ án nghiêm trọng,

làm mất an ninh trật tự, an toàn xã hội.

Luật xử lý vi phạm hành chính năm (sửa đổi bổ sung năm 2020), Luật

phòng chống ma túy năm 2021 và các Nghị định: 105/2021/NĐ-CP ngày

04/12/2021, Nghị định 116/2021/NĐ-CP ngày 21/12/2021; Pháp lệnh số

01/2022/UBTVQH15… ra đời đã cơ bản giải quyết được những bất cập nêu ra ở

trên. Cụ thể:

Luật Phòng, chống ma túy năm 2021 đã quy định rõ các biện pháp quản lý

người sử dụng ma túy. Đây là biện pháp phòng ngừa, không phải xử phạt hành

chính, không liên quan đến lý lịch, nhân thân của người đó. Việc quy định như

vậy thể hiện rõ tinh thần giáo dục nhằm giúp họ tránh xa ma túy. Đồng thời, pháp

luật đã có những quy định mới so với trước đây về các đối tượng từ đủ 18 tuổi trở

lên thuộc trường hợp phải đưa đi cai nghiện bắt buộc.

Bên cạnh đó, một trong những nội dung mới của Luật Phòng, chống ma túy

năm 2021 là quy định về đưa vào cơ sở CNBB đối với người nghiện ma túy từ đủ

12 tuổi đến dưới 18 tuổi.

Tiếp đó, ngày 24/3/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp

lệnh số 01/2022/UBTVQH15 quy định về trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem

54

xét, quyết định việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào

cơ sở CNBB.

Ngoài ra, một số khó khăn, vướng mắc khác cũng đã được các văn bản quy

phạm pháp luật mới giải quyết như việc hiện nay đã thống nhất được mẫu văn bản

sử dụng trong hồ sơ đề nghị; thời gian lập hồ sơ và xem xét đề nghị áp dụng đã

được rút ngắn đáng kể…

Ngoài ra những kết quả đạt được do công tác phối hợp của các cơ quan ban

ngành trên địa bàn như:

Ngành Công an quản lý ngày càng tốt hơn các đối tượng đã cai nghiện ma

tuý, từng bước nắm bắt và quản lý chặt chẽ những người nghiện tái nghiện nhiều

lần, có tiền án, tiền sự với tư cách là những người vi phạm pháp luật và tội phạm.

Tại Công an phường, xã đã thành lập Tổ Cảnh sát phòng, chống ma túy tập

trung vào phát hiện các đường dây, ổ nhóm mua bán ma tuý, đấu tranh chống tổ

chức sử dụng và sử dụng ma túy, giám sát việc cai nghiện ma túy tại cộng đồng

và gia đình, quản lý sau cai nghiện;

Phòng lao động thương binh và xã hội làm tốt công tác lập hồ sơ cai nghiện

và đưa người nghiện ma tuý vào các Cơ sở chữa bệnh theo quy định của Luật xử

lý vi phạm hành chính. Phân công cán bộ Công an phối hợp với Trạm Y tế, tổ

trưởng dân phố, trưởng bản, trưởng thôn, trưởng xóm, gia đình và các đoàn thể xã

hội giám sát quản lý từng người nghiện ma túy và các đối tượng phạm tội về ma

tuý tại cộng đồng.

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

Thứ nhất, theo quy định của Luật Xử lý VPHC năm 2012, việc thi hành

pháp luật về biện pháp XLHC đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc phải trải

qua nhiều tầng rất rườm rà, gây khó khăn cho các cấp, ngành trong quá trình thực

hiện.

Việc thi hành pháp luật về biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối

55

với người nghiện ma túy rất khó khăn do sự lệ thuộc vào chất gây nghiện, người

nghiện buộc phải tìm kiếm sử dụng, vừa là tiền đề để có biện pháp cai nghiện (cai

nghiện tự nguyện) và tiếp tục thực hiện các trình tự, thủ tục tiếp theo để lập hồ sơ

cai nghiện bắt buộc đạt hiệu quả. Thực tiễn vẫn còn tồn tại một số khó khăn,

vướng mắc khi triển khai tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về thi hành pháp

luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cụ thể là:

Chưa có biện pháp XLHC thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đối với

người nghiện dưới 18 tuổi, có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; đối với người

không có nơi cư trú ổn định thì đưa vào cơ sở cai nghiện để quản lý và thi hành

pháp luật về biện pháp giáo dục, cai nghiện đối với họ.

Thực tế quản lý các đối tượng nghiện ma túy tại xã, phường, thị trấn rất khó

khăn, theo quy định khoản 1, Điều 3 Nghị định 221/2013/NĐ-CP “người nghiện

ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định, đã bị thi hành pháp luật về biện

pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy mà vẫn còn nghiện thì bị

thi hành pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”. Nhiều người

nghiện ma túy dù đang chấp hành Quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn vẫn

tiếp tục hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng chưa hết thời hạn chấp hành

quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn nên không thể lập hồ sơ thi hành pháp

luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Việc truy tìm đối tượng bị thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc bỏ trốn, theo Điều 17, Nghị định 221/2013/NĐ-CP.

Trong đó quy định về trường hợp bị thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc bỏ trốn trước khi vào cơ sở và các trường hợp đang

chấp hành tại cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc bỏ trốn. Tuy nhiên tại Thông tư

14/2014/TT- BLĐTBXH chưa có hướng dẫn biểu mẫu đối với trường hợp bỏ trốn

trước khi thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc, việc đó gây khó khăn, lúng túng cho cơ quan công an thực hiện khi truy tìm

56

đối tượng. Việc thông báo bằng văn bản về việc lập hồ sơ cho người đề nghị thi

hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc người

đại diện có thẩm quyền của họ trên thực tế gây không ít khó khăn cho cơ quan

Nhà nước có thẩm quyền do người nghiện khi nhận được thông báo sẽ bỏ trốn

khỏi nơi cư trú.

Quy định người nghiện thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc, đối với người có nơi cư trú ổn định theo khoản 1, Điều 9,

Nghị định 221/2013/NĐ-CP, trong đó yêu cầu: Quyết định của UBND cấp xã giao

cho gia đình quản lý người bị đề nghị thi hành pháp luật về biện pháp đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc. Thực tế, chưa có quy định xử lý như thế nào đối với trường

hợp người nghiện có nơi cư trú ổn định nhưng không có gia đình hoặc gia đình

không còn ai tại địa phương.

Nhiều trường hợp lợi dụng quy định tại khoản 2, 3 Nghị định 221/2013/NĐ-

CP, đang tham gia hoặc xin tham gia chương trình điều trị nghiện bằng thuốc thay

thế methadol, gây không ít khó khăn trong thẩm quyền thi hành thực thi công vụ.

Thứ hai, các biện pháp thực thi còn chưa phù hợp với tình hình kinh tế, xã

hội và trình độ quản lý của chính quyền cấp xã tại Việt Nam hiện nay nói chung

và thị xã Buôn Hồ, Đắk Lắk nói riêng, do cơ sở vật chất hiện có tại địa phương,

cụ thể là trạm y tế cấp xã về cơ sở vật chất, trang thiết bị và nguồn nhân lực chưa

bảo đảm được nhiệm vụ, thiết kế của các trạm y tế cấp xã không phù hợp để cắt

cơn và hỗ trợ y tế cho quy trình cai nghiện. Việc đầu tư xây dựng mới cơ sở điều

trị cắt cơn trên địa bàn xã hoặc liên xã rất khó khăn về vốn và năng lực vận hành,

đồng thời không bảo đảm tính hiệu quả thực hiện Đề án đổi mới công tác cai

nghiện trên địa bàn.

Việc liên kết với các xã khác hoặc kết hợp với các cơ sở cai nghiện và các

cơ sở khác được phép điều trị cắt cơn, rất khó thực hiện do cơ chế phối hợp chưa

rõ ràng và các cơ sở thường cách xa khu tập trung dân cư, hiện tại địa bàn tỉnh

57

Đắk Lắk chỉ có một cơ sở công lập. Biện pháp này không phù hợp, vì những

trường hợp phải áp dụng cai nghiện bắt buộc thường là những người có ý thức

tuân thủ không tốt và quyết tâm cai nghiện không cao, sau khi tập trung cắt cơn ít

ngày, nếu họ được đưa trở lại ngay môi trường xã hội thì rất có thể sẽ tái sử dụng

ma túy.

Chưa có những hướng dẫn cụ thể xác định tình trạng nghiện, thuốc, phác

đồ điều trị, cai nghiện các loại ma túy mới.

Các đối tượng hoạt động phạm tội về ma túy ngày càng có nhiều thủ đoạn

hoạt động, tinh vi, xảo quyệt, manh động để đối phó, chống đối lực lượng Cảnh

sát điều tra tội phạm về ma túy. Quá trình đấu tranh bắt quả tang các đối tượng

không khai nhận hành vi gây khó khăn trong công tác điều tra. Bắt quả tang các

đối tượng hoạt động phạm tội về ma túy có khả năng lây nhiễm HIV cho lực lượng

bắt. Hiện chưa có sẵn thuốc phơi nhiễm và xét nghiệm định kỳ cho lực lượng

Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy.

Việc xét nghiệm ma túy các đối tượng gặp nhiều khó khăn do các đối tượng

thường chống đối, né tránh. Việc tạm giữ các đối tượng để xác định tình trạng

nghiện ma túy phục vụ cho công tác lập hồ sơ chưa được pháp luật quy định. Đa

số việc xác định tình trạng nghiện ma túy còn thực hiện mang tính hình thức.

Việc đưa đối tượng đi cơ sở cai nghiện bắt buộc gặp khó khăn và nguy

hiểm. Việc triển khai thực hiện dự án “Xây dựng xã, phường thị trấn không có tệ

nạn ma túy” tuy có triển khai thực hiện nhưng chưa được các ban ngành đoàn thể

quan tâm, chưa thực hiện đồng bộ nên kết quả không cao.

Sau khi có quyết định của Tòa án đối tượng thường bỏ trốn dẫn đến phát

sinh thông báo truy tìm. Chưa có quy định cụ thể về việc tạm giữ hành chính đối

tượng có quyết định của Tòa án, về áp giải các đối tượng trong trường hợp tìm

thấy đối tượng bỏ trốn, chưa có quy định về thời hiện đối với các đội tượng đã bị

áp dụng biện pháp đưa vào ơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng trốn không thi hành.

58

Chưa có kinh phí chủ động cho công tác xét nghiệm ma túy đối với người nghi sử

dụng ma túy.

Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy chưa được cấp các trang

thiết bị, dụng cụ để thử chất ma túy, thử nhanh nước tiểu tìm chất ma túy. Chưa

được cấp các trang bị để bảo vệ cơ thể để phòng tránh lây nhiễm HIV.

Tình trạng sử dụng ma túy tổng hợp tại các cơ sở kinh doanh có điều kiện

về an ninh trật tự như: Karaoke, Nhà trọ, Nhà nghỉ, Khách sạn rất khó kiểm soát,

phát hiện. Các vụ sử dụng trái phép chất ma túy được phát hiện, xử lý đa phần là

do thực hiện các biện pháp nghiệp vụ. Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về

ma túy chưa được luật hóa để tiến hành các biện kiểm tra định kỳ công khai để

ngăn ngừa hoạt động tệ nạn và phạm tội về ma túy.

Bệnh viện đa khoa cấp huyện toàn tỉnh Đăk Lăk nói chung và Bệnh viện

đa khoa thị xã Buôn Hồ nói riêng chưa xét nghiệm và xác định tình trạng nghiện

được số đối tượng sử dụng các loại ma túy mới xuất hiện trên địa bàn thị xã như:

Cỏ mỹ, bóng cười, nước vui. Dẫn tới chưa xử lý các đối tượng sử dụng các loại

ma túy mới.

Tâm lí bao che, bảo vệ thành viên gia đình của người nhà các đối tượng

nghiện. Thực tế nhiều gia đình bao che cho thành viên gia đình đến mức người

nghiện nặng, có biểu hiện ăn trộm thì mới báo cơ quan Công an. Chưa có chế tài

pháp luật xử lý hành vi không chấp hành xét nghiệm ma túy, hành vi bao che đối

tượng liên quan đến ma túy. Công tác hỗ trợ các vấn đề xã hội sau cai nghiện ma

tuý còn nhiều hạn chế, số người sau cai nghiện được học nghề, dạy nghề, tạo việc

làm, hỗ trợ vay vốn tín dụng ưu đãi… chưa đạt chỉ tiêu so với kế hoạch đề ra. Chủ

yếu là người đang cai nghiện được bố trí lao động trị liệu, dạy nghề và cấp chứng

chỉ sơ cấp đối với những nghề giản đơn tại Cơ sở điều trị, cai nghiện ma túy tỉnh

Đắk Lắk.

59

Công tác tuyên truyền phòng chống các tệ nạn về ma túy đã được chú trọng

thực hiện thường xuyên liên tục. Nhưng phải nhìn thẳng thực tế biện pháp phòng

ngừa xã hội này có hai mặt tích cực và tiêu cực. Nếu tuyên truyền đến công dân

chấp hành tốt pháp luật thì hiệu quả tích cực. Trường hợp tuyên truyền đến một

bộ phận nhỏ công dân không có ý thức chấp hành pháp luật sẽ dẫn tới tò mò về

chất ma túy, coi sử dụng ma túy để thể hiện bản thân, coi phạm tội về ma túy là

biện pháp để mưu sinh, kiếm sống và một số đối tượng phạm tội sẽ hoạt động tinh

vi hơn.

Qua giám sát, Ban Pháp chế hội đồng nhân dân thị xã Buôn Hồ cũng đã chỉ

ra nhiều hạn chế về công tác cai nghiện và quản lý sau cai nghiện ma túy, đó là:

Hệ thống văn bản quy định liên quan đến công tác phòng, chống ma túy và cai

nghiện ma túy được ban hành tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, quá trình triển khai

thực hiện, phát sinh những bất cập, chưa phù hợp với tình hình thực tế ở địa

phương; công tác cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng hiệu quả chưa cao.

Cấp ủy, chính quyền địa phương ở một số nơi chưa thật sự coi trọng trong công

tác cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện, địa phương chưa đề ra những

biện pháp, giải pháp cụ thể, khả thi để thực hiện có hiệu quả mặt công tác này;

còn hiện tượng khoán trắng cho ngành Công an. Công tác quản lý, giám sát các

đối tượng còn lỏng lẻo, chưa chú trọng giúp đỡ, giáo dục người nghiện ma túy tái

hòa nhập cộng đồng, tình trạng kỳ thị vẫn còn diễn ra trong cộng đồng, đây là một

trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tái nghiện. Các chương trình an sinh

xã hội như xóa đói, giảm nghèo, học nghề, tạo việc làm, hỗ trợ vay vốn cho các

đối tượng này còn hạn chế... dẫn đến, tỷ lệ người tái nghiện còn cao.

Thứ ba, hiệu quả công tác điều trị nghiện ma túy khi thực hiện cai nghiện

ma túy tại các cơ sở cai nghiện với các biện pháp tổ chức cai nghiện bắt buộc, cai

nghiện tự nguyện, cai nghiện tại gia đình, cộng đồng khi trở về cộng đồng tỷ lệ

tái nghiện rất cao. Đối với nhiều trường hợp điều trị nghiện bằng thuốc thay thế

60

methadol vẫn đồng thời vi phạm vì sử dụng ma túy khác. Thậm chí đối với người

nghiện ma túy chấp hành án phạt tù nhiều năm khi trở về địa phương vẫn tái

nghiện.

Việc chữa trị tình trạng nghiện ma túy chưa có biện pháp hiệu quả áp dụng

đối với từng loại chất ma túy do người sử dụng. Điều trị nghiện ma túy còn phụ

thuộc vào thể trạng từng người (gen, sức khỏe, tâm lý, môi trường ...) nên gặp rất

nhiều khó khăn trong điều trị hiệu quả. Đây là lý do giải thích tại sao rất khó bỏ

ma túy và việc tái nghiện thường xảy ra sau quá trình điều trị, quản lý bắt buộc;

người nghiện có thể phải mất nhiều thời gian cố gắng mới từ bỏ được ma túy.

Thứ tư, chính sách đầu tư, nguồn nhân lực phát triển hệ thống trợ giúp xã

hội cho người sau cai, người có tiền sử nghiện ma túy còn hạn chế, thi hành pháp

luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện chưa chú trọng đầu tư cho công

tác dự phòng. Nguồn lực tài chính rất hạn chế, chưa tương xứng với nhiệm vụ

được giao, trong tổ chức thực hiện và cơ sở cai nghiện ma túy trên địa bàn có một

số hạng mục đã xuống cấp, còn nhiều hạng mục cần được đầu tư để thực hiện các

hoạt động chuyên môn cai nghiện cũng như nhu cầu văn hóa, giải trí của người

cai nghiện phù hợp với lộ trình chuyển đổi theo Đề án “Đổi mới công tác cai

nghiện ma túy” thực hiện nhiệm vụ cai nghiện.

Kinh phí cho công tác phòng chống ma túy tuy đã được quan tâm nhưng

còn thiếu so với thực tế. Kinh phí xét nghiệm chất ma túy, kinh phí đưa đối tượng

đi cai nghiện bắt buộc, kinh phí cho cán bộ quản lý giáo dục đối tượng nghiện về

quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường chưa

sẵn nguồn bố trí.Kinh phí đảm bảo thực hiện theo Thông tư số 148/2014/TT-BTC-

BLĐTB&XH với nhiều mức chi còn thấp hoặc chưa được quy định. Thực tế, công

tác lập hồ sơ, truy tìm đối tượng để đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện

được trích từ kinh phí chi thường xuyên của đơn vị nên còn gặp rất nhiều khó

khăn tổ chức, triển khai thực hiện.

61

Nguyên nhân

Do hệ thống văn bản pháp luật về phòng, chống ma túy và xử lý VPHC

hiện nay còn có những bất cập nhất định. Tính thực tiễn là yêu cầu cao nhất của

pháp luật. Nếu pháp luật không xuất phát từ yêu cầu thực tiễn hoặc nói cách khác

là không điều chỉnh những quan hệ thực tiễn mà xã hội đòi hỏi, thì pháp luật tự

nó không thể đi vào cuộc sống.

Ngoài Nghị định 116/2021/NĐ-CP đã được đề cập, Luật xử lý vi phạm

hành chính (Sửa đổi, bổ sung) đã kéo theo việc ra đời Nghị định 140/2021/NĐ-

CP ngày 31/12/2021 về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo

dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, thay thế cho các Nghị định cũ. Hai Nghị định

được ra đời trong cùng một bối cảnh nhưng nội dung về việc lập biên bản giao

nhận có sự khác nhau. Cụ thể tại khoản 4, Điều 13 Nghị định 140/2021/NĐ-CP

quy định rõ: “Việc giao, nhận hồ sơ phải được lập biên bản”, tuy nhiên tại Nghị

định 116/2021/NĐ-CP hoàn toàn không có quy định này. Nếu không có sự ràng

buộc giữa các cơ quan trong việc lập biên bản giao nhận hồ sơ đề nghị áp dụng

CNBB thì sẽ dẫn đến khi hồ sơ CNBB bị quá thời hạn giải quyết sẽ không làm rõ

được trách nhiệm cụ thể.

CNBB là một biện pháp xử lý hành chính, do đó các quy định điều chỉnh

việc xem xét áp dụng biện pháp xử lý hành chính nói chung cũng đồng thời điều

chỉnh việc xem xét áp dụng biện pháp CNBB.

Luật phòng, chống ma túy còn chưa có sự phù hợp và đồng bộ với Luật xử

lý VPHC. Nhiều quy định sửa đổi, bổ sung quy định về thi hành pháp luật về biện

pháp XLHC đối với người nghiện ma túy bằng thi hành pháp luật về biện pháp

XLHC đối với người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Nhiều quy định

trình tự, thủ tục đưa vào cai nghiện bắt buộc không phù hợp với thực tiễn: thủ tục

đưa vào cai nghiện quá phức tạp, qua nhiều cơ quan xét duyệt, mất nhiều thời

gian, người nghiện có nhiều cơ hội bỏ trốn.

62

Nguyên nhân của tệ nạn ma túy ở nước ta có rất nhiều, nhưng một trong

những nguyên nhân đầu tiên và quan trọng, đó là việc phân công quản lý nhà nước

về phòng, chống ma túy chưa hợp lý và điều này cần được tháo gỡ ở tầm quốc

gia, Chính phủ. Thời gian qua, tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn

cả nước nói chung và thị xã Buôn Hồ nói riêng có nhiều diễn biến phức tạp, tội

phạm không chỉ tập trung ở thành thị mà đã phát triển ở hầu hết các địa bàn nông

thôn; loại ma túy thẩm lậu vào nước ta chủ yếu là Heroin, các loại ma túy tổng

hợp và các loại chất gây nghiện. Nhiều vụ ma túy được phát hiện, bắt giữ với số

lượng ma túy lớn, nhiều đối tượng.

Người nghiện gia tăng, tạo ra nhu cầu sử dụng ma tuý rất lớn, càng kích

thích số đối tượng mua bán, vận chuyển ma tuý từ nước ngoài vào nước ta. Tệ

nạn ma túy cũng là nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng tệ nạn xã hội và lây nhiễm

HIV/AIDS, gây ra những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, xã hội và sức khỏe

cộng đồng; trở thành hiểm họa lớn, đe dọa giống nòi, gây mất ổn định chính trị -

xã hội… Gần đây là hiện tượng “ngáo đá” gây lo lắng cho xã hội.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Nghiên cứu thực tiễn, các số liệu thực hiện thi hành pháp luật về biện pháp

XLHC đưa người nghiện ma túy bắt buộc trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk

Lắk, giai đoạn 2018-2022 cho thấy tình hình nghiện ma túy trên địa bàn thị xã

Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk đang diễn ra theo xu hướng phức tạp, đòi hỏi các ngành,

các cấp chính quyền có các biện pháp, kế hoạch, giải pháp cơ bản làm giảm hành

vi sử dụng các chất ma túy trái phép tạo sự ổn định về an ninh, trật tự xã hội và

phát triển kinh tế địa phương.

Cùng với sự nỗ lực cố gắng của các lực lượng chức năng trong việc giữ gìn

ổn định an ninh, trật tự, an toàn xã hội, trong thời gian qua, tỉnh Đắk Lắk đã tích

cực làm tốt công tác đưa người nghiện đi cai. Trong đó phải kể đến là việc ban

63

hành các văn bản hướng dẫn quy trình từ khâu lập hồ sơ, phối hợp thực hiện nhằm

đạt được hiệu quả trong xác định đối tượng nghiện cũng như trình tự thủ tục đưa

người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Bên cạnh đó, Tỉnh Đắk Lắk đã linh hoạt tháo

gỡ những vướng mắc trong thực tiễn, có sự đầu tư ban đầu về cơ sở vật chất, chủ

động đưa ra các biện pháp áp dụng với những đối tượng chưa xác định được nơi

cư trú ổn định để góp phần vào giảm tác hại của ma túy đến tình hình an ninh, trật

tự xã hội địa phương. Tuy nhiên, rất nhiều khó khăn, bất cập còn tồn tại, đòi hỏi

phải có những giải pháp cụ thể bảo đảm hiệu quả thi hành pháp luật về biện pháp

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

64

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH PHÁP LUẬT

VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN

BẮT BUỘC TẠI THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK

3.1. Phương hướng bảo đảm thi hành pháp luật về biện pháp xử lý

hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc – từ thực tiễn thị xã Buôn Hồ,

tỉnh Đắk Lắk

3.1.1. Thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc phải đúng quy định của pháp luật

Để bảo đảm việc biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có

hiệu quả, cần phải xây dựng cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy nhà nước chặt chẽ,

đầy đủ, hoạt động có hiệu quả, thực hiện thi hành pháp luật về biện pháp XLHC

này phải đúng quy định của pháp luật:

Tiếp tục tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh chỉ đạo các cấp, các ngành,

các cơ quan, đoàn thể và nhân dân thực hiện hiệu quả các quy định pháp Luật xử

lý VPHC, pháp luật phòng, chống ma túy, các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng,

Chính phủ và của tỉnh Đắk Lắk về công tác phòng, chống ma túy nói chung và

thực hiện các biện pháp cai nghiện ma túy (trong đó có cai nghiện bắt buộc) nói

chung và thị xã Buôn Hồ nói riêng. Nâng cao vai trò pháp luật trong quản lý nhà

nước pháp luật phòng, chống ma túy, các biện pháp quản lý người nghiện ma túy

theo quy định pháp luật. Trên cơ sở cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng

và Nhà nước và thực tế công tác phòng, chống ma túy, cai nghiện ma túy, làm

giảm ma túy trên 3 mục tiêu (giảm cung, giảm cầu, giảm tác hại), góp phần đảm

bảo trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, cụ thể: tiếp tục xây dựng, kiến nghị đề xuất

hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống ma túy, xử lý VPHC;

triển khai thực hiện đảm bảo tính khả thi khi thi hành pháp luật về biện pháp

65

XLHC đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên cơ sở pháp luật; tiếp tục thực

hiện xây dựng và đề xuất các ngành chức năng hoàn thiện các văn bản quy phạm

pháp luật về biện pháp giáo dục theo hướng can thiệp sớm đối với người sử dụng

ma túy dẫn đến tình trạng nghiện ma túy.

3.1.2. Thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc phải thực sự đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ

chức, cá nhân có liên quan

Việc thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa người vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc, phải thực sự đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân

có liên quan và đây chính là yêu cầu bảo đảm quyền con người, quyền công dân

đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Các cá nhân, tổ chức tham gia vào

hoạt động thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc này không những hiểu phải rõ hơn quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình mà

còn hiểu rõ hơn quyền và nghĩa vụ pháp lý của cơ quan quản lý nhà nước, người

có thẩm quyền trong mối quan hệ pháp luật này để lựa chọn hành vi xử sự phù

hợp theo nguyên tắc, thẩm quyền được giao. Nghiêm cấm những hành vi trái với

các quy định pháp luật như: có dấu hiệu tội phạm để xử lý VPHC; lợi dụng chức

vụ, quyền hạn để sách nhiễu, đòi, nhận tiền, tài sản của người vi phạm; dung túng,

bao che, hạn chế quyền của người VPHC khi xử phạt VPHC hoặc thi hành pháp

luật về biện pháp XLHC; không xử phạt VPHC, không thi hành pháp luật về biện

pháp biện pháp XLHC đối với đối tượng người nghiện theo quy định...

Pháp luật về Xử phạt VPHC thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa

vào cơ sở cai nghiện phải thể hiện đầy đủ, đúng đắn ý chí và nguyện vọng của

nhân dân trong công tác phòng ngừa, ngăn chặn những vi phạm. Công tác xây

dựng, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này cần lấy ý kiến sâu rộng trong Nhân

dân và lực lượng chuyên môn trong công tác điều trị nghiện. Qua đó tiếp thu và

cụ thể hóa sâu sắc ý chí và nguyện vọng của nhân dân ở các quy định pháp luật

66

cụ thể về biện pháp XLHC đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong lĩnh

vực cai nghiện ma túy nói chung và cai nghiện bắt buộc nói riêng, đồng thời thể

hiện được đầy đủ quan điểm của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước.

3.1.3. Bảo đảm công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện thi hành

pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Việc bảo đảm công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật ở Việt Nam là

yêu cầu, điều kiện tiên quyết trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Việc công khai,

minh bạch từ quá trình xử phạt VPHC đối với người sử dụng ma túy trái phép,

đến việc lập hồ sơ thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc và minh bạch trong khung pháp lý quyết định thời gian cai nghiện bắt

buộc nhằm đảm bảo nguyên tắc dân chủ trong hoạt động của nhà nước, ngăn ngừa

các hành vi tiêu cực của cơ quan nhà nước mà làm giảm hiệu quả hoạt động của

bộ máy nhà nước.

Do đó, nâng cao hiệu quả về biện pháp XLHC đối với người nghiện ma túy

là một vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở để đảm bảo tính nghiêm minh,

hiệu lực, hiệu quả của pháp luật về đảm bảo an ninh, trật tự xã hội. Để việc thi

hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có

hiệu quả thì trước tiên, pháp luật về biện pháp điều trị nghiện (cắt cơn, giải độc,

phục hồi sức khỏe sớm), giáo dục, lao động trị liệu trong thực hiện cai nghiện bắt

buộc trong việc thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc phải được hoàn thiện theo hướng tính toàn diện, đồng bộ, khoa học, thực

tiễn, công khai, minh bạch và dân chủ. Đồng thời, việc hoàn thiện pháp luật về xử

phạt VPHC đến thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc phải nhằm mục đích nâng cao hiệu quả thực tế, điều trị nghiện trong lĩnh

vực cai nghiện ma túy. Bởi việc công khai, minh bạch chính là cơ sở để đánh giá

mức độ hoàn thiện của pháp luật về ngăn chặn kịp thời điều trị nghiện trong thực

hiện biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

67

Việc xử lý VPHC về sử dụng trái phép các chất ma túy phải phù hợp với

thực tiễn phát triển của xã hội và trong một trật tự thống nhất. Mỗi khâu, mỗi giai

đoạn của quá trình xử lý phải được gắn kết với nhau thành một hệ thống thống

nhất có tác dụng hỗ trợ nhau để đảm bảo hiệu quả của hoạt động. Các quy định

của pháp luật về trình tự, thủ tục xử lý vi phạm phải được xây dựng đồng bộ, có

liên hệ và tác động qua lại chặt chẽ với nhau tạo thành một chỉnh thể từ đó giúp

cho công tác tuyên truyền, thanh tra, kiểm tra hoạt động XLHC được thuận lợi,

dễ dàng.

Hoạt động thi hành pháp luật về biện pháp quản lý, giáo dục tại xã, phường,

thị trấn khó phát huy tác dụng khi người nghiện ma túy đã lệ thuộc vào chất ma

túy nên cần được vận dụng một cách hợp lý, giảm áp lực cho chính quyền địa

phương. Việc công khai, minh bạch các biện pháp cai nghiện nhằm nâng cao hiệu

quả hoạt động này cần tính đến các điều kiện tương ứng và mục tiêu của hoạt

động điều trị nghiện ma túy là giảm cung, giảm cầu, giảm tác hại, do đó cân đối

các nguồn lực bảo đảm nội dung hoạt động được thực hiện.

Xuất phát từ kết quả nghiên cứu và phân tích thực trạng công tác cai nghiện

ma túy trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk và biện pháp XLHC đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc cho thấy tỉnh Đắk Lắk đã quan tâm chỉ đạo hoạt động

thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo

Luật xử lý VPHC, tỉnh đã quan tâm tháo gỡ những khó khăn trong từ thiết lập hồ

sơ đến hoạt động XLHC đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, xây

dựng các giải pháp thực hiện đồng bộ và thống nhất phù hợp với tình hình thực tế

tại địa phương cũng đảm bảo quyền con người theo Hiến pháp.

3.2. Các giải pháp bảo đảm thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk

3.2.1. Giải pháp kiến nghị hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về thi

68

hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, do đó Nhà nước phải không ngừng

xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn quản lý

xã hội thì mới quản lý xã hội được tốt. Pháp luật về xử phạt VPHC trong lĩnh vực

thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một

bộ phận của pháp luật nói chung và là công cụ của Nhà nước trong việc quản lý

người nghiện ma túy trong lĩnh vực đảm bảo an ninh, trật tự xã hội. Hoàn thiện

pháp luật về xử phạt VPHC trong lĩnh vực thi hành pháp luật về biện pháp XLHC

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một hoạt động được tiến hành thường xuyên,

liên tục nhằm đáp ứng với biến đổi không ngừng của đời sống xã hội, bảo đảm

cho công tác quản lý nhà nước đạt kết quả cao hơn. Thông qua hoạt động này, các

quy định của pháp luật được sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới cho phù

hợp với nhu cầu điều chỉnh của pháp luật về xử phạt VPHC trong lĩnh vực thi

hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc. Về

nội dung này, tác giả có một số giải pháp sau:

Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc thực hiện thi hành pháp luật

về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện theo Luật

sửa đổi bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính (Luật số

67/2020/QH14 ngày 13/11/2020); Luật phòng, chống ma túy năm 2021; Nghị

định 105/2021/NĐ-CP ngày 04/12/2021 của Chính phủ Quy định chi tiết

và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Phòng, chống ma túy (Nghị định

105); Nghị định 116 quy định chi tiết một số điều của luật phòng chống ma túy,

luật xử lý vi phạm hành chính về cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện

(Nghị định 116); Nghị định 109/2021/NĐ-CP ngày 08/12/2021 của Chính phủ

quy định cơ sở y tế đủ điều kiện xác định tình trạng nghiện ma túy và hồ sơ, trình

tự, thủ tục xác định tình trạng nghiện ma túy (Nghị định 109); Thông tư

69

18/2021/TT-BYT ngày 16/11/2021 của Bộ Y tế quy định tiêu chuẩn chẩn đoán và

quy trình chuyên môn để xác định tình trạng nghiện ma túy.

Các Bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ để rà soát các

văn bản thuộc phạm vi quản lý của mình, thường xuyên cập nhật các văn bản pháp

luật mới ban hành để kịp thời đề xuất, tham mưu Chính phủ sửa đổi, bổ sung Luật

xử lý VPHC, Luật phòng, chống ma túy bảo đảm phù hợp với Hiến pháp và các

quy định của pháp luật nội dung cũng như yêu cầu của thực tiễn, tạo cơ sở pháp

lý bảo đảm cho công tác thi hành pháp luật về xử lý VPHC thi hành pháp luật về

biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện thống nhất,

đồng bộ và có hiệu quả trong phạm vi cả nước.

Trên thực tế, việc thi hành pháp luật về biện pháp cai nghiện bắt buộc của

Tòa án chưa thực sự tạo ra những thay đổi căn bản về chất đối với công tác cai

nghiện. Ngoài ra, hình thức và cách tổ chức các chương trình cai nghiện bắt buộc

không có những cải cách đáng kể so với trước nhưng thủ tục thực hiện rất khó

khăn tại địa phương. Quy định của pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể về

thời hạn thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

theo Luật xử lý VPHC năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), với thời gian cai

nghiện bắt buộc từ 12 tháng đến 24 tháng, nhưng chưa quy định rõ khung thời

gian cai nghiện với các tình tiết khác nhau. Do đó, pháp luật thi hành pháp luật về

biện pháp XLHC cần quy định cụ thể thời hạn thi hành pháp luật về biện pháp

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện nhằm đảm bảo pháp luật được quy định rõ ràng

và áp dụng thống nhất, tránh trường hợp mỗi Tòa xét xử thời hiệu áp dụng khác

nhau.

Ngoài ra, cần tăng các chế tài về biện pháp quản lý đối với người sử dụng,

người nghiện để răn đe, phòng ngừa các VPHC trong lĩnh vực cai nghiện ma túy

vì các chế tài hiện nay chưa đủ mạnh.

Để phù hợp với Hiến pháp năm 2013, cũng như đáp ứng yêu cầu bảo đảm

70

an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới, sau 5 năm triển khai thực hiện

công tác cai nghiện bắt buộc nổi lên một số khó khăn, bất cập cần xem xét và có

giải pháp tháo gỡ về xác định tình trạng nghiện các chất ma túy; xác định người

bị đưa ra khỏi Chương trình điều trị Methadone và hiệu quả của cai nghiện tại gia

đình và cộng đồng. Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS, tệ nạn ma túy, mại dâm

đã chỉ đạo các ngành chức năng cần làm rõ ý kiến khác nhau giữa các cơ quan

gây khó khăn cho các địa phương.

Bên cạnh đó, cần thiết phải tập hợp và quy định rõ trong một văn bản quy

phạm pháp luật chung về xử phạt VPHC trong lĩnh vực thi hành pháp luật về biện

pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, để khi áp dụng pháp luật thì cơ

quan có thẩm quyền sẽ dễ dàng tìm hiểu và áp dụng đúng theo trình tự thủ tục một

cách chính xác, hiệu quả, nhanh chóng.

3.2.2. Nâng cao ý thức trách nhiệm của người thực thi công vụ

Việc xác định người nghiện ma túy là người bệnh mãn tính nên cần có biện

pháp can thiệp sớm để người nghiện có khả năng phục hồi sức khỏe. Khi con

người luôn được coi là trung tâm của sự phát triển xã hội, đặc biệt là thế hệ trẻ,

lực lượng lao động sản xuất góp phần phát triển kinh tế gia đình và xã hội. Để có

được một hệ thống quản lý an toàn đối với người nghiện ma túy thông qua biện

pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện, Đảng và Nhà nước ta nói chung và đối với

tỉnh Đắk Lắk nói riêng cần phải phát huy vai trò, trách nhiệm trong thi hành công

vụ, phải triệt để thi hành pháp luật trong việc hướng dẫn, chỉ đạo, thực thi nhiệm

vụ. Bên cạnh việc chuyển đổi, sắp xếp lại tổ chức quản lý tại các cơ sở cai nghiện

ma túy bắt buộc thành các cơ sở cai nghiện đa chức năng phục vụ công tác can

thiệp sớm, cần xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức có

thẩm quyền cai nghiện ma túy, cùng với đó cần phải không ngừng nâng cao trình

độ chuyên môn điều trị các chất ma túy, đặc biệt là ma túy tổng hợp và công tác

71

quản lý dự phòng tái nghiện tại gia đình và cộng đồng.

Trên thực tế hiện nay, công tác thiết lập hồ sơ thi hành pháp luật về biện

pháp cai nghiện bắt buộc nhiều cơ quan ban, ngành mang tính thủ tục hành chính,

thẩm quyền quản lý dẫn đến hiện tượng quản lý còn bỏ sót hoặc đùn đẩy trách

nhiệm làm giảm hiệu quả quản lý của hệ thống nhà nước về công tác cai nghiện

ma túy. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này là do việc quản lý một cách thiếu

khoa học cũng như sự thiếu sót của luật, liên quan đến cơ cấu, tổ chức và thẩm

quyền của các cơ quan liên quan, cần bổ sung chương can thiệp dự phòng nghiện

ma túy theo chuẩn quốc tế về dự phòng nghiện bao gồm các chương trình can

thiệp phổ quát, can thiệp chọn lọc và can thiệp chỉ định. Chính vì vậy, cần phải rà

soát lại tổ chức, cơ cấu của các cơ quan có thẩm quyền, dựa trên thực tế, kinh

nghiệm và kiến nghị lên các cơ quan có chức năng cấp trên có thẩm quyền nhằm

quy định rõ cơ cấu, thẩm quyền của từng cơ quan nhằm giảm thiểu thủ tục hành

chính kéo dài, nâng cao hiệu quả của công tác quản lý và xử phạt VPHC thi hành

pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với nhóm

người nghiện có nguy cơ làm mất an toàn, trật tự xã hội.

3.2.3. Kiện toàn bộ máy tổ chức, nâng cao năng lực thực thi công vụ

trong việc thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc

Do những khó khăn trong thực hiện thi hành pháp luật về biện pháp XLHC

đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, các hành vi sử dụng trái phép chất ma

túy dẫn đến gây nghiện và các biện pháp cai nghiện trên địa bàn thị xã Buôn Hồ,

tỉnh Đắk Lắk ngày càng đa dạng và tính chất, mức độ ảnh hưởng của ma túy rất

lớn đến sức khỏe bản thân, gia đình và toàn xã hội. Do đó, việc thực thi pháp luật

về XLHC đối với người sử dụng trái phép các chất ma túy nói chung, thi hành

pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện nói riêng có đạt được hiệu

quả, đảm bảo thực thi các quy định pháp luật, nâng cao chất lượng biện pháp

72

XLHC thì cần phải có đội ngũ công chức, viên chức, các ngành lực lượng chức

năng có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức tổ chức, kỷ luật, có năng lực, có

phẩm chất đạo đức. Bởi nếu hạn chế về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, suy thoái

về đạo đức, lối sống và phẩm chất chính trị sẽ dẫn đến việc thực thi pháp luật

không đảm bảo tuân thủ các quy định pháp luật, làm cho quyết định thực thi thi

hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc khi ban

hành thiếu tính nghiêm minh, khó thực thi, có thể dẫn đến khiếu nại, khiếu kiện,

không đạt hiệu quả về an ninh, trật tự xã hội. Vì thế để kiện toàn bộ máy và nâng

cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng chức năng có

nâng cao năng lực thực thi công vụ trong xử phạt VPHC lĩnh vực thi hành pháp

luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và thực thi nhiệm vụ

tại các cơ sở cai nghiện trên địa bàn thì cần nhiều giải quyết nhiều vấn đề.

Tích cực “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, thực

hiện nghiêm túc Chỉ thị 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,

đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh: gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo

đức, phong cách Hồ Chí Minh với việc xây dựng và phát triển con người Việt

Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Tăng

cường thực hiện quy chế dân chủ ở cơ quan, đơn vị, chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương,

đạo đức công vụ của cán bộ, công chức. Tích cực nâng cao trình độ của đội ngũ

cán bộ tại cơ sở trong việc thiết lập hồ sơ thi hành pháp luật về biện pháp xử lý

VPHC cai nghiện bắt buộc đúng đối tượng, mục đích. Công tác đào tạo thường

xuyên cho các cán bộ y tế trong việc xác định người nghiện được chú trọng. Do

lĩnh vực cai nghiện ma túy là diễn biến rất phức tạp ảnh hưởng đến cuộc sống

thường ngày của người dân. Các văn bản thường xuyên thay đổi các văn bản quy

phạm pháp luật nên công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ làm công tác

hỗ trợ phòng tránh, cai nghiện là vô cùng quan trọng, cần phải thường xuyên cử

cán bộ tham gia các lớp tập huấn không chỉ ở địa phương mà còn phải đưa đi học

73

tập các kinh nghiệm quản lý cai nghiện ma túy tại các tỉnh khác. Thường xuyên

cập nhật, tuyên truyền đến đội ngũ công chức, viên chức các chủ trương, chính

sách, văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác cai nghiện ma túy, tổ

chức các lớp tập huấn, hướng dẫn, nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ ngành.

Ngoài ra cũng cần phải chú trọng đến công tác tuyển dụng, tinh giảm biên

chế. Cần phải dựa trên tình hình thực tế của địa phương mà có thể tuyển dụng

những cá nhân có tiềm năng và có trình độ chuyên môn cao có thể đáp ứng yêu

cầu công việc. Lãnh đạo các ngành chức năng liên quan cần phải thực hiện các

chính sách cho phù hợp để có thể thu hút nhân tài cho sự phát triển của địa phương

nói riêng cũng như sự phát triển của cả tỉnh nói chung. Cần xây dựng nên các tiêu

chí cho tuyển dụng cũng như các chính sách ưu đãi để thu hút người tài cho sự

phát triển đất nước. Tuy nhiên, trong xu thế của cả nước và việc tinh giảm biên

chế, tỉnh Đắk Lắk cũng cần phải đề cao việc nâng cao hiệu quả quản lý, thực hiện

tinh giảm biên chế, không tuyển dụng tràn lan mà chỉ dựa trên yêu cầu công việc

tìm ra những nhân tài phục vụ sự phát triển của tỉnh.

Có kế hoạch rà soát, đánh giá, kiểm tra công chức khi thi hành công vụ;

kiên quyết xử lý, loại bỏ các cán bộ, công chức, viên chức không đủ năng lực,

trình độ chuyên môn, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đồng thời có biểu

hiện tiêu cực trong công thực thi pháp luật nhằm củng cố và tạo niềm tin cho

người dân vào các cơ quan thực thi pháp luật.

Ngoài ra, cần có một yếu tố vô cùng quan trọng là đào tạo được một đội

ngũ cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng chức năng chuyên về thực hiện

các công việc như Sở Tư pháp phải thường xuyên kiểm tra, đối chiếu và rà soát,

so sánh hệ thống hóa pháp luật để kịp thời phát hiện những điểm không phù hợp

trong nội dung, cũng như hình thức của pháp luật về xử phạt vi phạm pháp luật

trong lĩnh vực cai nghiện bắt buộc, để từ đó có kiến nghị điều chỉnh kịp thời, đảm

74

bảo tính thống nhất và đồng bộ.

3.2.4. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế phối hợp thực hiện trong việc tổ chức

lập hồ sơ thi hành pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai

nghiện

Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, do đó Nhà nước phải không ngừng

xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn quản lý

xã hội thì mới quản lý xã hội được tốt. Pháp luật về xử phạt VPHC trong việc thi

hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một bộ

phận của pháp luật nói chung và là công cụ của Nhà nước trong việc quản lý người

nghiện trong lĩnh vực đảm bảo an ninh, trật tự xã hội. Hoàn thiện pháp luật từ xử

phạt VPHC đến các biện pháp XLHC áp dụng quản lý giáo dục trong lĩnh vực cai

nghiện bắt buộc là một hoạt động được tiến hành thường xuyên, liên tục nhằm

đáp ứng với biến đổi không ngừng của đời sống xã hội, bảo đảm cho công tác

quản lý nhà nước đạt kết quả cao hơn. Thông qua hoạt động này, các quy định

của pháp luật được sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới cho phù hợp với

nhu cầu điều chỉnh của pháp luật về xử phạt VPHC trong thi hành pháp luật về

biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Về nội dung này, tác giả có

một số giải pháp sau:

Tổ chức tốt công tác phối hợp với các cơ quan quản lý chức năng có liên

quan trong việc phát hiện, xử lý các vi phạm pháp luật về lập hồ sơ cai nghiện bắt

buộc các ngành: Công an, Y tế, LĐ-TB&XH, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát

nhân dân… để phòng ngừa, phát hiện và xử lý kịp thi hành pháp luật về biện pháp

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, qua đó có cơ chế xử lý phù hợp với

tính chất, mức độ vi phạm, thống nhất ranh giới giữa các biện pháp áp dụng cai

nghiện theo quy định pháp luật.

Phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan (Tài chính, Đoàn thanh niên,

Ủy ban mặt trận tổ quốc tỉnh, cơ quan thông tin, truyền thông…), xây dựng mạng

75

lưới thông tin rộng, nắm bắt các chương trình cai nghiện ma túy, biện pháp XLHC

đối với người nghiện có thể thu thập, xác minh thông tin thực hiện các quy định

hành chính về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cũng như đưa

ra các biện pháp phù hợp để thi hành pháp luật.

Tổ chức báo cáo, đánh giá định kỳ công tác phối kết hợp giữa các ngành

chức năng liên quan trong thực thi pháp luật thi hành pháp luật về biện pháp

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc để có những kiến nghị và biện pháp xử

lý kịp thời.

3.2.5 Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về vi phạm pháp luật

trong công tác cai nghiện ma túy

Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Hiến

pháp năm 2013 đã khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp

luật”. Nhiệm vụ đầu tiên là phải ban hành pháp luật, tiếp đến là tổ chức thực hiện

pháp luật, trong đó, nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được

xem là cầu nối giữa đưa các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến

với các tầng lớp nhân dân. Mục đích của nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến, giáo

dục pháp luật là nhằm xây dựng ý thức pháp luật, làm cho nhân dân, cán bộ, công

chức có lòng tin vào pháp luật, có thói quen, động cơ tích cực trong thực hiện

pháp luật. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải thực

hiện thường xuyên, liên tục, thực hiện nhiều nội dung, phong phú về hình thức,

không chỉ bằng lời nói mà bằng hình ảnh minh họa, thực hiện càng nhiều càng

tốt, khi nào hoạt động tuyên truyền đến với đối tượng được tuyên truyền biến

thành hành động trong thực tế thì hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp

luật mới thực sự có hiệu quả.

Công tác tuyên truyền pháp luật được coi là một trong những biện pháp

quan trọng giúp người dân hiểu và tuân thủ pháp luật phòng, chống ma túy và

công tác cai nghiện ma túy một cách nghiêm túc và có tính bền vững. Do vậy,

76

công tác tuyên truyền pháp luật phòng, chống ma túy được Uỷ ban nhân dân tỉnh

Đắk Lắk đặc biệt quan tâm chỉ đạo thực hiện, phát động nhiều chương trình, kế

hoạch nhằm đưa các giải pháp về công tác cai nghiện ma túy vào thực tiễn cuộc

sống bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng để đảm bảo an ninh, trật tự xã hội.

Hiện nay, trình độ nhận thức pháp luật nói chung và Luật phòng, chống ma túy

lĩnh vực cai nghiện ma túy nói riêng của cán bộ, nhân dân còn nhiều hạn chế, nhất

là lứa tuổi thanh, thiếu niên...Một bộ phận không nhỏ thanh niên chơi bời có ý

thức kém, thói quen tùy tiện sử dụng các chất gây nghiện kích thích, tính tò mò

dẫn đến nghiện ma túy. Công tác tuyên truyền, hướng dẫn cách phòng tránh là

biện pháp tiên phong nâng cao ý thức trách nhiệm của từng cá nhân, gia đình và

cộng đồng để giảm việc sử dụng chất kích thích gây nghiện. Do vậy cần tuyên

truyền về hiểm họa và tác hại của ma túy, việc sử dụng ma túy đối với thế hệ trẻ.

Khi đã nghiện ma túy cần tự giác điều trị nghiện bằng các hình thức cai nghiện tự

nguyện và Nhà nước hỗ trợ cai nghiện tự nguyện, nếu không chấp hành tự giác

cai nghiện thì thực hiện theo Luật xử lý VPHC thi hành pháp luật về biện pháp

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Nghị định 116/2021/NĐ-CP.

Kết hợp giữa giáo dục có tính cộng đồng với giáo dục theo đối tượng, kết

hợp giáo dục gia đình với nhà trường và xã hội, kết hợp giữa giáo dục và biện

pháp cưỡng chế thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện,

phải tiến hành thường xuyên, liên tục. Chương trình kế hoạch cụ thể, xây dựng

đội ngũ tuyên truyền viên có nhiệt huyết, đủ trình độ hiểu biết pháp luật phòng,

chống ma túy và công tác cai nghiện ma túy, gương mẫu trong việc chấp hành

pháp luật phòng, chống ma túy. Chỉ khi làm được như vậy thì chủ trương đưa

pháp luật vào đời sống mới thực sự đạt hiệu quả cao.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về xử lý VPHC đối

với việc sử dụng chất ma túy cả về chiều rộng và sâu, tuyên truyền phải đến được

từng nhóm nguy cơ dẫn đến gây nghiện. Công tác tuyên truyền, giáo dục vừa là

77

biện pháp trước mắt, vừa là biện pháp lâu dài đòi hỏi các nhà quản lý phải kiên

trì, tiếp tục sáng tạo để nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật liên quan

đến việc sử dụng trái phép chất ma túy dẫn đến gây nghiện.

Bằng những hình thức tuyên truyền khác nhau, khi thi hành pháp luật về

biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật xử lý VPHC và các

hình thức cai nghiện ma túy. Việc thực hiện pháp luật thi hành pháp luật về biện

pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện dần được tháo gỡ khó khăn.

Trong những năm tới để thực hiện giảm thi hành pháp luật về biện pháp

XLHC đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, tỉnh Đắk Lắk cần thực hiện đồng

bộ nhiều chính sách hỗ trợ người nghiện ma túy cai nghiện ma túy tự nguyện, sử

dụng điều trị thuốc thay thế các chất dạng thuốc phiện tại cộng đồng và có biện

pháp quản lý hiệu quả công tác cai nghiện, dự phòng tái nghiện tại cộng đồng.

Các cấp, các ngành trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình cần tiếp tục thực

hiện thường xuyên công tác tuyên truyền và cần tập trung vào vai trò của các cấp

ủy, chính quyền các cấp về công tác phòng chống ma túy nói chung và biện pháp

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện, các giải pháp tuyên truyền cụ thể phòng, chống

sử dụng ma túy tại cộng đồng như:

+ Tuyên truyền miệng: đây là hình thức người nói trực tiếp với người nghe,

tuyên truyền sân khấu hóa thu hút người dân về những nội dung, những quy định

của pháp luật phòng, chống ma túy;

+ Tuyên truyền qua phương tiện thông tin truyền thông: Báo viết, báo điện

tử, đài phát thanh, đài truyền hình là những phương tiện thông tin truyền thông

phục vụ đắc lực công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật phòng, chống ma túy.

Về hình thức tuyên truyền giáo dục pháp luật phòng chống ma túy và tác hại của

việc sử dụng ma túy tiếp tục đưa tin thời sự, bài viết phản ánh tình hình sử dụng

các chất ma túy và các biện pháp xử XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc,

phát các chuyên mục về tác hại của việc sử dụng ma túy, nêu lên các vụ án xảy ra

78

trong việc sử dụng chất ma túy, phân tích nguyên nhân gây vi phạm từ đó làm

giảm thiểu việc sử dụng chất ma túy và biện pháp phòng ngừa.

+ Tuyên truyền bằng khẩu hiệu: Cắt dán các khẩu hiệu tuyên truyền Pano,

áp phích, nhắc nhở không sử dụng các chất ma túy mà pháp luật nghiêm cấm trên

các đường chính, nhà văn hóa của khu dân cư, của cấp chính quyền xã, phường,

thị trấn, các cơ quan, trường học các khẩu hiệu như: “Hãy nói không với ma túy”;

“Phòng, tránh ma túy là hạnh phúc cho mỗi người"; "Hãy suy nghĩ trước khi bắt

đầu sử dụng ma túy”; “Chung tay xây dựng một xã hội lành mạnh, nói không với

ma túy” …

+ Phát động các cuộc thi tìm hiểu pháp luật phòng, chống ma túy: Đối

tượng cần tập trung ở đây cần là học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên, cán bộ,

công chức, viên chức; cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân...

Công tác tuyên truyền, giáo dục phòng ngừa vừa là biện pháp rước mắt,

vừa là biện pháp lâu dài, phải làm kiên trì, liên tục, sáng tạo để nâng cao nhận

thức, ý thức chấp hành pháp luật không sử dụng trái phép chất ma túy, hình thành

cho được nếp sống lành mạnh;

3.2.6. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật thi hành

pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt

buộc

Đi đôi với công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật về phòng,

chống ma túy phải nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, rà soát, đôn đốc hướng

dẫn xử phạt VPHC lĩnh vực sử dụng trái phép chất ma túy dẫn đến nghiện ma túy.

Phải coi thi hành pháp luật về biện pháp xử phạt VPHC là một biện pháp giáo dục

có tính hiệu quả, nhất khi đánh vào kinh tế của mỗi cá nhân, biện pháp khắc phục

đối với người lạm dụng chất ma túy. Xử phạt vi phạm phải kiên quyết, nghiêm

minh, công khai, minh bạch. Trong thực hiện kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực

hiện theo quy định pháp luật, lực lượng công an giữ vai trò nòng cốt trong việc

79

thiết lập hồ sơ là đặc biệt quan trọng; cần huy động tối đa lực lượng tham gia bảo

đảm trật tự an toàn xã hội.

Kiểm tra việc thực hiện về đối tượng, trình tự, thủ tục lập hồ sơ, khó khăn,

vướng mắc cần rút ngắn thời gian cũng như XLHC người nghiện ma túy chưa kịp

thời. Trong thời gian chờ có quyết định thi hành pháp luật về biện pháp XLHC

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định sẽ

được đưa về gia đình quản lý. Việc gia đình người nghiện ma túy quản lý người

nghiện ma túy không có kiến thức chuyên môn trong việc quản lý người nghiện

ma túy dẫn tới tình trạng nghiện vẫn tiếp tục tiếp diễn trong thời gian chờ quyết

định của Tòa án cấp huyện hoặc bỏ trốn khỏi nơi cư trú.

Giám sát việc thực hiện các quy định pháp luật về cai nghiện như cai nghiện

tự nguyện, cai nghiện bắt buộc, các hoạt động chuyên môn điều trị các chất ma

túy khác nhau, các chế độ trợ cấp và biện pháp hỗ trợ người cai nghiện phục hồi.

Bên cạnh đó cũng giám sát về việc quy hoạch các cơ sở cai nghiện với mục tiêu

giảm cai nghiện bắt buộc và tăng cường cai nghiện tự nguyện.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Để hạn chế thấp nhất tác động của ma túy đến người sử dụng trong lĩnh vực

phòng, chống tệ nạn ma túy nói chung và biện pháp XLHC đưa người vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk nói riêng, đảm bảo

pháp luật được thực thi có hiệu quả với các chủ chương, chính sách pháp luật của

Nhà nước, qua nghiên cứu, đã đề ra một số phương hướng chung của tỉnh là giảm

cung, giảm cầu, giảm tác hại của ma túy gây ra. Biện pháp XLHC đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc phải đúng theo quy định pháp luật, phải đảm bảo công khai,

minh bạch; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp các bên liên quan và đưa ra các giải

pháp: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về công tác

cai nghiện ma túy nói chung và biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy

80

bắt buộc; kiện toàn bộ máy tổ chức, nâng cao năng lực thực thi công vụ; xây dựng,

tổ chức thực hiện tốt quy chế phối hợp giữa các cơ quan có liên quan; bảo đảm cơ

sở vật chất; tăng cường công tác kiểm tra, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm

pháp luật; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về lĩnh

vực cai nghiện ma túy nói chung và biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc.

Triển khai thực hiện tốt một số chủ trương, giải pháp, phương hướng đã

nêu trên góp phần thực hiện có hiệu quả công tác cai nghiện ma túy, thi hành pháp

luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đảm bảo tính thực thi

pháp luật cao, nâng cao ý thức chấp hành và thực thi pháp luật trong lĩnh vực tổ

chức thực hiện thi hành pháp luật về biện phápXLHC đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc, thấy được tầm quan trọng của hoạt động cai nghiện ma túy để từ đó hạn

chế tối đa tình trạng vi phạm pháp luật ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và an toàn

xã hội tại địa phương.

81

KẾT LUẬN

Qua đánh giá thực trạng xử phạt VPHC đối với người nghiện ma túy, lĩnh

vực thi hành pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên

địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk nhận thấy vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế

trong công tác xác định đối tượng lập hồ sơ thi hành pháp luật về biện pháp XLHC

đưa vào cơ sở cai nghiện của tỉnh. Thực tế triển khai còn nhiều bất cập trong hệ

thống các quy định hiện hành trong thiết lập hồ sơ. Do đó, số lượng lập hồ sơ

người nghiện ma túy qua vi phạm pháp luật phòng, chống ma túy và biện pháp

XLHC đưa người nghiện trên địa bàn vẫn còn nhiều khó khăn nhằm đảm bảo an

ninh, trật tự, an toàn xã hội. Các giải pháp thực hiện của tỉnh tháo gỡ những khó

khăn với thực trạng người nghiện luôn có xu hướng gia tăng cả về số lượng cũng

như mức độ ảnh hưởng thiệt hại đến sức khỏe con người. Đây là một trong những

bài toán làm đau đầu các nhà chức trách làm thế nào để ngăn chặn, đẩy lùi vi phạm

và kiềm chế tình trạng nghiện ma túy góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản

lý và điều trị nghiện ma túy, giảm tỉ lệ tái phạm tội, đồng thời bảo đảm các quyền

cơ bản của công dân theo tinh thần cải cách tư pháp.

Hệ quả dẫn tới hiệu lực pháp luật phòng, chống và kiểm soát ma túy cũng

như tác hại khôn lường trong việc sử dụng ma túy, đảm bảo trật tự, kỷ cương pháp

luật. Chính vì vậy, với một số giải pháp mà học viên đề xuất nhằm xác định rõ đối

tượng là người nghiện ma túy thi hành pháp luật về biện pháp cai nghiện bắt buộc

trong vi phạm pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác thiết lập hồ sơ, tổ chức thực

hiện thi hành pháp luật về biện pháp cai nghiện bắt buộc địa bàn thị xã Buôn Hồ,

tỉnh Đắk Lắk. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong việc tìm ra giải pháp

nhất định hạn chế vi phạm pháp luật, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về biện

pháp cai nghiện trên địa thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk, cũng như thực hiện hoạt

động tuyên truyền giáo dục pháp luật, phòng, chống ma túy và công tác cai nghiện

phục hồi một cách có hiệu quả, đi vào thực tế đời sống nhân dân. Đổi mới, đa

82

dạng hóa công tác cai nghiện ma túy, đặc biệt là thi hành pháp luật về biện pháp

cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy, đảm bảo an ninh trật tự góp

phần cho sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.

83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Ban chỉ đạo phòng chống tệ nạn xã hội, tỉnh Đắk Lắk (2014), Báo cáo 1.

công tác đảm bảo trật tự an toàn xã hội, Đắk Lắk;

Bộ Chính trị (1996), Chỉ thị số 06-CT/TW, về tăng cường sự lãnh đạo, 2.

chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy.

Bộ chính trị (2008), Chỉ thị số 21-CT/TW, về tiếp tục tăng cường sự lãnh 3.

đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới.

Bộ chính trị (2014), Kết luận số 95-KL/TW, về tiếp tục tăng cường sự 4.

thực hiện chỉ thị 21-CT/TW ngày 26-3-28 về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ

đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới.

Bộ Lao động – Thương binh và xã hội (2016), Báo cáo kết quả thực hiện 5.

Đề án Đổi mới công tác cai nghiện ma túy tại Việt Nam đến năm 2020, Hà Nội;

Nguyễn Ngọc Bích (2003), Hoàn thiện pháp luật về xử lý hành chính 6.

với người chưa thành niên, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội;

Nguyễn Trọng Bình (2002), Hoàn thiện các quy định pháp luật về các 7.

hình thức xử phạt vi phạm hành chính, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật

Hà Nội;

Chính phủ (2021), Nghị định số 116/2021/NĐ-CP ngày 21/12/2021 quy 8.

định chi tiết một số điều của luật phòng, chống ma túy, luật xử lý vi phạm hành

chính về cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện ma túy, Hà Nội;

Chính phủ (2021), Nghị định 109/2021/NĐ-CP, ngày 08/12/2021, Hà 9.

Nội.

10. Chính phủ (2021), Nghị định 105/2021/NĐ-CP, ngày 04/12/2021, Hà

Nội.

2

11. Chính phủ (2011), Quyết định số 1001/QĐ-TTg ngày 27/6/2011 phê

duyệt Chiến lược Quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma túy ở Việt Nam đến

năm 2020 và định hướng đến năm 2030, Hà Nội;

12. Chính phủ (2013), Quyết định số 1640/QĐ-TTg Phê duyệt Quy hoạch

mạng lưới cơ sở cai nghiện ma túy đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030,

Hà Nội;

Chính phủ (2013), Quyết định số 2596/QĐ-TTg ngày 27/12/2013 phê 13.

duyệt Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020, Hà

Nội;

Chính phủ (2014), Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 26/12/2014 về tăng 14.

cường chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong

tình hình mới, Hà Nội;

Chính phủ (2014), Quyết định số 2187/QĐ-TTg ngày 05/12/2014 phê 15.

duyệt kế hoạch đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020,

Hà Nội;

Công an thị xã Buôn Hồ (2017), Báo cáo tổng kết công tác đấu tranh 16.

phòng, chống tội phạm ma túy từ năm 2017, Đắk Lắk.

Công an thị xã Buôn Hồ (2018), Báo cáo tổng kết công tác đấu tranh 17.

phòng, chống tội phạm ma túy từ năm 2018, Đắk Lắk.

Công an thị xã Buôn Hồ (2019), Báo cáo tổng kết công tác đấu tranh 18.

phòng, chống tội phạm ma túy từ năm 2019, Đắk Lắk.

Công an thị xã Buôn Hồ (2020), Báo cáo tổng kết công tác đấu tranh 19.

phòng, chống tội phạm ma túy từ năm 2020, Đắk Lắk.

Liên ngành Đắk Lắk (2015), Quy chế phối hợp liên ngành số 33/QCLN- 20.

LĐTBXH-YT-CAT-TA ngày 08/7/2015, phối hợp lập hồ sơ và tổ chức cai

nghiện ma túy trên địa bàn, Đắk Lắk;

3

Lê Đức Hiền (2019), “Những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức cai 21.

nghiện ma túy và một số đề xuất, kiến nghị”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, nghiệp

vụ, khoa học, Học viện Cảnh sát nhân dân.

Phạm Tiến Thành (2014), với đề tài luận văn thạc sĩ “Từ biện pháp xử 22.

lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh đến biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc” bảo vệ tại Học viện khoa học xã hội Việt Nam.

Lê Văn Khánh (2017), Một số khó khăn bất cập trong thực hiện biện 23.

pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Cục Phòng, chống

tệ nạn xã hội, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội;

Bùi Thị Xuân Mai (chủ biên) (2013), Giáo trình Ma túy và xã hội, NXB 24.

Lao động – Xã hội;

Bùi Thị Xuân Mai, Nguyễn Tố Như (2013), Tham vấn điều trị nghiện 25.

ma túy, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội.

Hà Phong (2019), “Khó khăn trong công tác cai nghiện bắt buộc”, Báo 26.

Hà Nội mới, Hà Nội;

Quốc hội (2015), Luật số 99/2015/QH13 Luật tổ chức cơ quan điều tra 27.

hình sự;

Quốc hội (2015), Luật số 99/2015/QH13 Luật tổ chức cơ quan điều tra 28.

hình sự;

Quốc hội (2015), Luật số 100/2015/QH13 Bộ luật hình sự; 29.

Quốc hội (2015), Luật số 101/2015/QH13 Bộ luật Tố tụng hình sự; 30.

31. Quốc Hội (2020), Luật xử lý vi phạm hành chính ngày 20/6/2012, sửa

đổi bổ sung ngày 13/11/2020, Hà Nội;

32. Quốc Hội (2021), Luật phòng, chống ma túy, Hà Nội.

Lê Anh Sơn (2018), “Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc – Một số vấn 33.

đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, Hà Nội;

4

Dương Thị Bích Hạnh (2014), với luận văn thạc sĩ “Bảo vệ quyền con 34.

người trong quá trình áp dụng các biện pháp xử lý hành chính”, Đại học quốc

gia Hà Nội;

Vũ Thư (1996), Chế tài hành chính – lý luận và thực tiễn, Luận án Phó 35.

Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội;

Tỉnh ủy Đắk Lắk (2017), Tổng kết Hội nghị quán triệt triển khai Kết 36.

luận số 21-KL/TW về “Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác

phòng, chống ma túy trong tình hình mới, Đắk Lắk;

Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2015), Quyết định số 1395/QĐ-UBND 37.

ngày 04/8/2015 ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án đổi mới công tác cai

nghiện ma túy đến năm 2020, Đắk Lắk;

Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2018), Quyết định số 554/QĐ-UBND 38.

ngày 07/3/2018 ban hành Quy chế phối hợp trong việc lập hồ sơ, tổ chức cai

nghiện ma túy đối với người bị xem xét thi hành pháp luật về biện pháp XLHC

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Đắk Lắk;

39. Ủy ban thường vụ Quốc Hội (2022), Pháp lệnh số 01/2022/UBTVQH15,

ngày 24/3/2022, Hà Nội.

Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Quyết định số 39/QĐ-VKSTC- 40.

V9 về việc giao bổ sung nhiệm vụ kiểm sát xem xét, quyết định thi hành pháp

luật về biện pháp XLHC tại Tòa án nhân dân, Hà Nội;

Tác giả Nguyễn Hoàng Việt (2019), “Hoàn thiện quy định của pháp 41.

luật về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở vai

nghiện bắt buộc”.

Nhóm tác giả Cao Vũ Minh, Nguyễn Nhật Khanh (2016), “Những bất 42.

cập trong các quy định về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và các

kiến nghị hoàn thiện”. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.

5