intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Triết học: Ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hoá dân gian Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:104

57
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở lý luận mác xít về tôn giáo và văn hóa, luận văn phân tích, làm sáng tỏ những ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa dân gian Việt Nam thông qua một số lĩnh vực biểu hiện cụ thể trong ca dao, tục ngữ, tín ngưỡng, nghệ thuật sân khấu dân gian của người Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hoá dân gian Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------- DƯƠNG QUANG ĐIỆN (Thích Thanh Điện) ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN VĂN HOÁ DÂN GIAN VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI – 2010
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------- DƯƠNG QUANG ĐIỆN (Thích Thanh Điện) ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN VĂN HOÁ DÂN GIAN VIỆT NAM Chuyên ngành: Tôn giáo học Mã số: 62.22.90 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Giáo viên hướng dẫn PGS.TS. DƯƠNG VĂN THỊNH HÀ NỘI – 2010
  3. 3 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài .............................................4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................4 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ...........................................4 6. Đóng góp của luận văn ........................................................................5 7. Ý nghĩa của luận văn ...........................................................................5 8. Kết cấu của luận văn .............................. 5 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHẬT GIÁO VÀ VĂN HÓA DÂN GIAN VIỆT NAM ........................ 6 1.1. Khái lược chung về Phật giáo và văn hóa dân gian Việt Nam . 6 1.1.1. Tổng quan chung về Phật giáo .................... 6 1.1.2. Khái lược chung về văn hóa dân gian Việt Nam ....... 16 1.2. Sự tác động của Phật giáo đến văn hóa dân gian Việt Nam .. 21 Chương 2: MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN VĂN HÓA DÂN GIAN VIỆT NAM ............................... 36 2.1. Ảnh hưởng của Phật giáo đến văn học dân gian Việt Nam .. 37 2.1.1. Ảnh hưởng của Phật giáo đến ca dao, tục ngữ ........ 37 2.1.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến các tích truyện dân gian ... 45 2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến tín ngưỡng, lễ hội và nghệ thuật biểu diễn dân gian Việt Nam .......................... 60
  4. 4 2.2.1. Ảnh hưởng của Phật giáo đến tín ngưỡng, lễ hội dân gian . 60 2.2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến nghệ thuật biểu diễn dân gian 75 2.3. Một số khuyến nghị nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo đến văn hóa dân gian Việt Nam 87 KẾT LUẬN ........................................ 93 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................. 95
  5. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Phật giáo du nhập và phát triển ở nước ta đã hơn 18 thế kỷ, một chiều dài lịch sử khá đủ để Phật giáo dù truyền từ Ấn Độ vào hay từ Trung Hoa sang được bản địa hóa, dân gian hóa tạo nên bản sắc riêng của Phật giáo Việt Nam. Phật giáo đã thấm nhuần trong nếp sống, nếp nghĩ, tư duy và tình cảm của người dân Việt Nam từ nhiều thế hệ và mọi tầng lớp. Sự hội nhập của Phật giáo trong nền văn hóa dân tộc, đặc biệt là văn hóa dân gian – một mảng văn hóa bình dị, dân dã, mộc mạc và quần chúng của người Việt một cách rất tự nhiên thể hiện đặc trưng cơ bản nhất của Phật giáo Việt Nam. Nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Hinh cho rằng: “Đặc trưng cơ bản của Phật giáo Việt Nam là tính dân gian là tính trội. Phật giáo được tiếp nhận như một tôn giáo…Phật giáo Việt Nam tôn giáo hơn hệ tư tưởng, cho nên thiên về bố thí cứu độ hơn là tìm giải thoát sinh tử…Vì là tôn giáo dân gian, nên thâm nhập vào tâm hồn nhân dân sâu sắc khiến cho tựa hồ ai ai cũng là tín đồ Phật giáo”[26;790]. Có thể nói rằng, Phật giáo là một tổ hợp văn hóa góp phần tạo nên một lát cắt trong nền văn hóa đa diện của Việt Nam. Chính điều này đã khẳng định được sức mạnh trường tồn của một nền văn hóa rất Việt Nam, một nền văn hóa đa dạng, tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc luôn đồng hành cùng thế kỷ và trường tồn mãi với thời gian. Ngày nay, trước xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Trước những luồng tư tưởng văn hóa ngoại lai, việc nghiên cứu sự tích hợp của các yếu tố văn hóa tạo nên văn hóa dân tộc trong đó đặc biệt là tôn giáo rất quan trọng nhằm khẳng định căn tính văn hóa Việt. Điều này được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Báo cáo chính trị Văn kiện đại hội IX và X Đảng ta
  6. 2 đều khẳng định: “Phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa và đạo đức của tôn giáo”. Vì vậy, việc nghiên cứu “Ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa dân gian Việt Nam” không chỉ góp phần làm sáng tỏ sự hội nhập của Phật giáo vào nền văn hóa dân tộc nói chung mà cụ thể hơn là với văn hóa dân gian nói riêng. Góp phần xây dựng một nền văn hóa Việt Nam đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu về Phật giáo và sự hội nhập của Phật giáo đối với văn hóa Việt Nam trong lịch sử và hiện tại có khá nhiều công trình nghiên cứu khác nhau. Có thể kể đến một số tác giả tiêu biểu như: Nghiên cứu về lịch sử Phật giáo và Phật giáo Việt Nam có thể kể đến một số công trình điển hình sau đây: Phật học khái lược của Lưu Vô Tâm, Nxb. Tôn giáo, năm 2002; Kimura Taiken với Nguyên Thủy Phật giáo tư tưởng luận, Nxb. Tôn giáo, năm 2007; Việt Nam Phật giáo sử luận (2 tập) của Nguyễn Lang, Nxb. Văn học, năm 2000; Lịch sử Phật giáo Việt Nam của nhiều tác giả do Nguyên Tài Thư (chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, năm 1998; Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh, Nxb. Khoa học xã hội, năm 1999; Lịch sử Phật giáo Việt Nam (2 tập) của Lê Mạnh Thát, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, năm 2001…. Xét ở góc độ khái quát chung nhất, các công trình trên với nội dung đề cập đến những vấn đề về lịch sử Phật giáo, và lịch sử Phật giáo Việt Nam, những tư tưởng và giáo lý cơ bản của đạo Phật, quá trình truyền bá và các chặng đường phát triển của Phật giáo Việt Nam, một số đặc điểm cơ bản của Phật giáo Việt Nam. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa tôn giáo và văn hóa có thể kể đến các tác phẩm: “Truyền thống văn hóa và Phật giáo Việt Nam” của tác giả Minh Chi, Nxb. Tôn giáo năm 2003; “Sự tác động qua lại giữa văn hóa và tôn giáo” của Lê Văn Lợi, Nxb. Đại học Quốc gia, năm 1999; Tôn giáo
  7. 3 trong mối quan hệ với văn hóa và phát triển ở Việt Nam của Nguyễn Hồng Dương, Nxb. Khoa học xã hội, năm 2004; Tôn giáo và văn hóa của Trương Sỹ Hùng, Nxb. Khoa học xã hội, năm 2007…. Đây là những công trình đề cập một cách tổng thể nhất mối quan hệ giữa tôn giáo và văn hóa Việt Nam, trong đó có mối quan hệ giữa Phật giáo và văn hóa Việt Nam cũng được đề cập nhưng ở góc độ tổng quan nhất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như tư tưởng, văn hóa vật thể, phi vật thể… Và ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa dân gian cũng được đề cập nhưng chưa có sự bóc tách, phân tích một cách chuyên sâu và hệ thống thành một vấn đề. Ngoài ra trên một số tạp chí nghiên cứu mà điển hình là Tạp chí Triết học, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo cũng có một số bài đề cập tới vấn đề Phật giáo trong mối quan hệ với văn hóa Việt Nam, chẳng hạn như bài: “Tìm hiểu những đặc trưng của Phật giáo trong quá trình hội nhập với văn hóa Việt Nam” của Trần Văn Trình, Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 6, năm 1999; “Triết học nghệ thuật Việt Nam trong quá trình tiếp thu tư tưởng Phật giáo” của Vũ Khiêu, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5 năm 2006; “Vài suy nghĩ về sự hội nhập của Phật giáo vào nền văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 4, năm 2004…. Tổng quan chung về tình hình có thể thấy, nhìn chung các tác phẩm đều nghiên cứu hoặc có đề cập đến mối quan hệ giữa Phật giáo với văn hóa dân tộc nhưng ở tầm bao quát rộng mà chưa có một công trình nào cụ thể, chuyên sâu nghiên cứu về "Ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa dân gian Việt Nam" một cách có hệ thống. Vì vậy, chúng tôi hy vọng với đề tài của mình sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn nữa ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa Việt Nam trên một số lĩnh vực cụ thể như văn học dân gian, tín ngưỡng và lễ hội dân gian, âm nhạc, diễn xướng và sân khấu dân gian. Khẳng định tính chất dân gian trong Phật giáo chính là khẳng định căn tính riêng biệt và độc
  8. 4 đáo của Phật giáo Việt Nam. Khẳng định nguồn cội hội nhập của Phật giáo với văn hóa dân tộc. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận mác xít về tôn giáo và văn hóa, luận văn phân tích, làm sáng tỏ những ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa dân gian Việt Nam thông qua một số lĩnh vực biểu hiện cụ thể trong ca dao, tục ngữ, tín ngưỡng, nghệ thuật sân khấu dân gian của người Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: Thứ nhất: Trình bày tổng quan về Phật giáo và văn hóa dân gian. Thứ hai: Phân tích những ảnh hưởng của Phật giáo đến một số loại hình văn hóa dân gian Việt Nam. Qua đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát huy những giá trị của Phật giáo trong văn hóa dân gian Việt Nam 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Những ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn hóa Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu:Luận văn chỉ nghiên cứu những ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn hóa dân gian Việt Nam trên một số lĩnh vực cụ thể như: Văn học dân gian; Tín ngưỡng, lễ hội dân gian; âm nhạc, diễn xướng và sân khấu dân gian. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn đựơc xây dựng trên cơ sở vận dụng các nguyên lý, quan điểm mác xít như: quan điểm duy vật lịch sử về tôn giáo và văn hóa.
  9. 5 Luận văn cũng tiếp thu những kết quả của các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về Phật giáo và văn hóa Việt Nam. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp của Tôn giáo học và Triết học, phương pháp lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, đối chiếu và so sánh. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn phân tích một số ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa dân gian Việt Nam biểu hiện trên một số lĩnh vực như: Văn học dân gian; Tín ngưỡng, lễ hội dân gian; âm nhạc, diễn xướng và sân khấu dân gian Việt Nam nhằm khẳng định tính chất riêng có của Phật giáo Việt Nam , vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hóa của người Việt Nam. 7. Ý nghĩa của luận văn Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần vào việc phân tích làm sáng tỏ những ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn hóa dân gian Việt Nam trên một số lĩnh vực cụ thể như: Văn học dân gian; Tín ngưỡng, lễ hội dân gian; âm nhạc, diễn xướng và sân khấu dân gian. . Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy về tôn giáo nói chung, Phật giáo và văn hóa Việt Nam nói riêng, cho việc hoạch định chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, nội dung chính của luận văn gồm 02 chương 05 tiết.
  10. 6 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHẬT GIÁO VÀ VĂN HÓA DÂN GIAN VIỆT NAM 1.1. Khái lược chung về Phật giáo và văn hóa dân gian Việt Nam 1.1.1. Tổng quan chung về Phật giáo Phật giáo là một trong ba tôn giáo thế giới ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VI, TCN ở Ấn Độ. Thế kỷ III, II TCN Phật giáo được coi là quốc giáo ở Ấn Độ, sau đó được truyền bá, lan tỏa sang các nước lân cận và khu vực. Ngày nay Phật giáo có mặt ở nhiều nước trên thế giới. Phật giáo ra đời trong điều kiện kinh tế xã hội Ấn Độ có sự chuyển biến sâu sắc. Ấn Độ là một quốc gia có lịch sử lâu đời và nền văn minh phát triển sớm, từ thiên niên kỷ thứ III TCN, đó là nền văn minh tiền Vêda. Từ khoảng 1500 năm TCN, do những biến động xã hội Ấn Độ đã chuyển sang một nền văn minh mới là nền văn minh Vêda. Phật giáo ra đời trong nền văn minh này. Phật giáo ra đời trong bối cảnh nền kinh tế Ấn Độ có sự phát triển mạnh mẽ, tạo nên những biến động lớn về mặt xã hội. Về kinh tế: Thế kỷ VI (TCN) Ấn Độ đã là quốc gia phát triển. Công cụ sản xuất bằng sắt phổ biến. Xã hội đã có sự phân công lao động giữa nông nghiệp, thủ công và thương nghiệp. Sự phát triển của sản xuất, sự xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là nguyên nhân khiến cho sự phân hóa và mâu thuẫn giai cấp ở Ấn Độ trở nên sâu sắc. Chế độ đẳng cấp, sự phân hóa giai cấp, đẳng cấp khắc nghiệt là một đặc điểm của xã hội Ấn Độ. Xã hội tồn tại 4 đẳng cấp: Tăng lữ (Brahma) hay còn gọi là đẳng cấp Bà la môn. Đây là đẳng cấp cao nhất, thống trị đời sống tinh thần xã hội, có đặc quyền chính trị xã hội,
  11. 7 đồng thời được coi là “Thần của nhân gian”. Đẳng cấp này vừa thực hiện chức năng thần quyền và một phần chức năng thế quyền. Quý tộc (Kshatrya): tầng lớp võ sỹ, quý tộc, những người thực hiện chức năng thế quyền, luôn chấp hành quyền lực thế tục, được coi là người bảo hộ của nhân dân. Tuy nhiên đẳng cấp này luôn bị đẳng cấp Bà la môn lấn át. Dân tự do (Vaisya): gồm nông dân, thợ thủ công, nhà buôn là lực lượng chính tạo ra của cải vật chất cho xã hội, có nghĩa vụ phải nộp thuế. Nô lệ (Shudra): nô lệ có nghĩa vụ phục tùng các đẳng cấp trên. Khác với phương Tây, họ chủ yếu là nô lệ gia đình, làm công việc hầu hạ, phục dịch cho các đẳng cấp trên. Sự phân hóa đẳng cấp trên tạo ra mâu thuẫn xã hội gay gắt và là nguyên nhân chính dẫn đến những cuộc đấu tranh chống lại sự phân hóa đó, chống lại đẳng cấp cao nhất. Tuy nhiên những cuộc đấu tranh đó không đạt được kết quả. Trên cơ sở đó Phật giáo ra đời với mong muốn đem lại sự bình đẳng cho con người, song đó là sự bình đẳng về tinh thần. Phật giáo ra đời trong thời kỳ văn minh Vêda có sự phát triển mạnh mẽ về văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo. Về văn hóa: Thời kỳ này có những phát minh quan trọng về toán học, thiên văn học và đặc biệt là triết học. Sự phát triển của triết học Ấn độ tạo tiền đề tư tưởng và lý luận cho Phật giáo ra đời. Phật giáo đã tiếp thu tư tưởng của các trào lưu triết học Ấn Độ: Luận về quan hệ Nhân – Quả của phái Sam khuya; Thuyết nguyên tử của phái Vaisêsika; Tư tưởng của đạo Bàlamôn quan niệm có tính thần bí như luân hồi, nghiệp báo; Đặc biệt là truyền thống tư duy trừu tượng đã đạt đến trình độ cao của tư duy Ấn Độ khi bàn đến các phạm trù Không – Hữu… Về tín ngưỡng tôn giáo, thời kỳ này ở Ấn Độ đạo Bàlamôn giữ vai trò thống trị. Đạo Bàlamôn đề cao vai trò của đấng tối cao, hạ thấp vai trò con
  12. 8 người, đặc biệt là tầng lớp thấp hèn. Đây là một tôn giáo đề cao tuyệt đối hóa sự bất bình đẳng giữa các đẳng cấp. Đạo Phật ra đời là sự phản bác lại sự bất bình đẳng của Balamôn nhưng lại tiếp thu những quan niệm của Bàlamôn như: Nghiệp, kiếp, luân hồi… Người sáng lập Phật giáo là Thái tử Tất Đạt Đa (624 – 544. TCN – hình 1), con vua Tịnh Phạn, trị vì nước Ca tỳ la vệ (Nê Pan ngày nay). Ông sống trong cuộc sống giàu sang nơi cung đình nên không biết những khổ cực, bất hạnh..ngoài xã hội. Nhưng sau 4 lần trực tiếp ra ngoài thành, tận mắt chứng kiến nỗi khổ của con người và quyết tâm noi theo gương các đạo sĩ đi tìm đường cứu khổ cho dân chúng. Năm 19 tuổi, ông bỏ nhà ra đi để trở thành một ẩn tu. Sau 11 năm học đạo và khổ tu, ông nhận thấy lối tu đó không thể giải thoát cho con người khỏi nỗi đau sinh, lão, bệnh, tử. Bằng sự kiên trì ông đã phát hiện ra con đường “trung đạo” có thể dẫn con người tới giải thoát. Sau 49 ngày tư duy, ông tuyên bố đạt đến chân lý và hiểu được bản chất sự tồn tại của nhân sinh. Từ đó ông được gọi là Thích Ca Mâu Ni- người giác ngộ chân lý đầu tiên. Và ông bắt đầu sự nghiệp hoằng bá của mình, thu nạp đệ tử, thành lập các tăng đoàn Phật giáo. Những giáo lý mà Phật Thích Ca và các đệ tử của Ngài truyền bá đến quần chúng nhân dân có nội dung đề cập đến các vấn đề về: “Tứ diệu đế” và “Niết bàn”…Đó là quá trình lý giải vấn đề về khổ và sự diệt khổ đế đạt đến “Niết bàn”. Về “Tứ diệu đế: “Tứ diệu đế” cắt nghĩa bản chất và nguyên nhân gây ra đau khổ và con đường khắc phục sự đau khổ. Bao gồm 4 nguyên nhân chính sau: Khổ đế: Bản chất của nhân sinh là khổ, nỗi khổ do con người tự gây nên. Gồm “Bát khổ”: Sinh khổ; Lão khổ; Bệnh khổ; Tử khổ; Sở cầu bất đắc khổ; Ái thụ biệt khổ; Oán tăng hội khổ; Ngũ uẩn khổ. Tám cái khổ trên thuộc
  13. 9 về quy luật sinh tồn và quan hệ hiện thực của con người do vậy, thoát khổ chính là thoát khỏi quy luật sinh tồn và quan hệ hiện thực đó. Tập đế: Giải thích nguyên nhân đau khổ do sự ngu dốt (vô minh) và lòng khát ái (ái dục) của con người. Do vậy, con người sống, suy nghĩ và hành động không đứng đắn nên không thấy được thực tướng của vạn vật là giả, là huyễn…Từ nhận thức sai lầm, con người hành động sai lầm và lời nói sai lầm nên sinh ra đau khổ. Tập đế gồm 10 nguyên nhân: Tham lam, giận dữ, si mê; kiêu mạn, nghi ngờ; biên kiến; tà kiến; kiến thủ; thân kiến; giới cấm. Trong mười nguyên nhân trên có những nguyên nhân thuộc về quan hệ hiện thực, nhận thức và giới luật. Diệt đế: là kết quả hạnh phúc, giải thoát và an lạc. Diệt hết những nguyên nhân đau khổ trên, diệt khổ từ gốc, sống hạnh phúc và an vui. Tức là ngộ Phật pháp sẽ đạt đến sự giải thoát khỏi đau khổ. Những nguyên nhân gây đau khổ đều do chính con người tạo ra, do vậy, chính con người là chủ thể của sự diệt khổ. Phật giáo đề cao con người trong việc quyết định số phận của mình. Tuy nhiên, hạn chế trong quan niệm này là cho rằng cái khổ của con người ở kiếp này có thể do kiếp trước gây nên, do đó tạo nên tính chất duy tâm trong Phật giáo. Đạo Đế: là con đường tu dưỡng để trở thành đạo (được giải thoát). Gồm tám con đường lớn gọi là “Bát chánh đạo” (hay “Tam học”) gồm: Tuệ (Chính kiến, chính tư duy); Giới (chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh); Định (Chính tinh tấn,chính niệm, chính định). Niết bàn: là trạng thái vắng lặng, tịch diệt, nếu con người đạt tới thì sẽ sống an nhiên tự tại, vô ngã vị tha. Đây là trạng thái lý tưởng, được hiểu theo hai cách: Niết bàn tồn tại ở nơi sau khi con người chết, nếu tu hành đắc đạo linh hồn sẽ được siêu thoát về thế giới Niết bàn. Niết bàn cũng có nhiều bậc khác nhau. Hướng con người tới thế giới siêu nhiên.
  14. 10 Niết bàn có thể tồn tại ngay trong thế giới trần tục, con người có thể đạt tới khi loại bỏ được “tham, sân, si”, thoát khỏi vô minh, sống an nhiên tự tạo, vô ngã vị tha. Hướng con người vào đời sống trần thế. Đối lập với “Niết bàn” là “Địa ngục”. Sự tồn tại của “Niết bàn” và “Địa ngục” có giá trị chủ yếu về mặt hướng thiện, giáo dục đạo đức con người. Với tư tưởng từ bi hỉ xả, vô ngã vị tha, giáo lý hướng thiện, giàu tính nhân bản, Phật giáo đã nhanh chóng lan tỏa ra nhiều nước trên phạm vi toàn thế giới. Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ thứ I, thứ II sau CN thông qua sự giao lưu buôn bán của người Ấn và người Trung Hoa với người Việt. Phật giáo được du nhập vào nước ta thời Bắc Thuộc theo hai con đường: Đường thuỷ và đường bộ. Qua đường bộ người Việt tiếp nhận Phật giáo một cách gián tiếp, qua đường thủy tiếp nhận một cách trực tiếp. Phật giáo du nhập vào Việt Nam là một quá trình liên tục từ thế kỷ I đến thế kỷ thứ VI. Sau này, thế kỷ X, XI và XVI, XVII Phật giáo còn được tiếp tục du nhập vào Việt Nam và có mặt trên khắp đất nước Việt. Ở phía Bắc, Phật giáo du nhập vào trung tâm Luy Lâu (Thuận Thành - Bắc Ninh) và lan tỏa, phát triển dần sang các khu vực khác. Phật giáo du nhập vào Việt Nam trong bối cảnh các tín ngưỡng bản địa như thờ thần tự nhiên, thờ tổ tiên…phát triển khá mạnh, do vậy có sự tương tác, cùng chung sống giữa Phật giáo với các tín ngưỡng tôn giáo này, có sự hội nhập giữa Phật giáo và tín ngưỡng bản địa, Phật giáo đã được người Việt chấp nhận. Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam thời kỳ đầu du nhập đồng nhất giữa Trời với Thần với Phật, đề cao Phật Quan Thế Âm… Phật giáo du nhập vào Việt Nam thời kỳ đầu gồm các giáo phái chính: Thiền tông: là một tông phái Phật giáo do nhà sư Ấn Độ Bồ Đề Đạt Ma (Boddidharma) sáng lập ra ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ 6. "Thiền" là cách gọi tắt của "Thiền na" (Dhyana), có nghĩa là "Tĩnh tâm", chủ trương
  15. 11 tập trung trí tuệ để quán định (thiền) nhằm đạt đến chân lý giác ngộ của đạo Phật. Theo Thiền tông, "thiền" không phải là "suy nghĩ" vì suy nghĩ là "tâm vọng tưởng", làm phân tâm và mầm mống của sinh tử luân hồi. Cách tu theo Thiền tông đòi hỏi phải tập trung toàn bộ công sức và thời gian cộng với phải có khả năng đốn ngộ. Yêu cầu đó chỉ có những kẻ căn cơ cao mới có được nên người tu thiền thì nhiều nhưng người chứng ngộ quả thật rất là hiếm hoi. Tuy nhiên lịch sử Thiền tông ở Việt Nam cũng có một lịch sử rõ ràng hơn cả. Dòng thiền tu thứ nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam do nhà sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi lập ra. Ông là người Ấn Độ, qua Trung Quốc rồi đến Việt Nam vào năm 580, tu tại chùa Pháp Vân (hay chùa Dâu), thuộc huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh và truyền cho tổ thứ hai là Pháp Hiền. Dòng thiền này truyền được đến 19 thế hệ. Dòng thiền tu thứ hai do Vô Ngôn Thông, người Trung Quốc lập ra vào năm 820, tu tại chùa Kiến Sơ, thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Dòng thiền này truyền được đến 17 đời. Dòng thiền thứ ba do Thảo Đường, người Trung Quốc, vốn là tù binh bị bắt tại Chiêm Thành và được vua Lý Thánh Tông giải phóng khỏi kiếp nô lệ và cho mở đạo tại chùa Khai Quốc vào năm 1069. Dòng thiền này truyền được đến 6 đời. Năm 1299, vua Trần Nhân Tông, dưới sự hướng dẫn của thiền sư Tuệ Trung Thượng Sỹ, xuất gia và lên tu ở núi Yên Tử, thuộc huyện Uông Bí, Quảng Ninh, thống nhất các thiền phái tồn tại trước đó và lập nên Thiền phái Trúc Lâm. Sau này, một số thiền phái khác xuất hiện như phái Tào Động dưới thời Trịnh-Nguyễn, phái Liên Tôn vào thế kỷ 16-19 (có trụ sở tại chùa Bà Đá và chùa Liên Phái, Hà Nội), phái Liễu Quán (Liễu Quán là tên một vị tổ thuộc dòng Lâm Tế) vào thế kỷ 18 (miền Trung), phái Lâm Tế dưới thời nhà Nguyễn (miền Trung, và sau này phát triển ở miền Nam). Thiền tông Việt Nam đề cao cái "tâm", "Phật ở tại tâm", tâm là Niết Bàn, hay Phật.
  16. 12 Tịnh độ tông: là một tông phái Phật giáo, chủ trương tu dựa trên tha lực của Phật A Di Đà. Tha lực này rất quan trọng đối với căn cơ con người thời nay. Phật Thích Ca Mầu Ni có lần thuyết giảng: "Một viên đá dù nhỏ đến mấy mà ném xuống nước thì nó cũng chìm, nhưng nếu một hòn đá dù to đến mấy mà đặt trên bè thì nó cũng nổi". Trong Tịnh Độ tông, có tồn tại một cõi Phật cụ thể, gọi là Thế giới Cực Lạc do đức Phật A Di Đà (tiếng Phạn: Amitabha) làm giáo chủ. Việc tu hành được mở rộng ra những hành động đơn giản như đi thăm chùa, tụng danh Phật A Di Đà. Nhờ cách như vậy mà Tịnh Độ tông là tông phái phổ biến khắp cõi Việt Nam. Đi đến đâu ta cũng gặp người dân tụng niệm câu "Nam mô A Di Đà Phật" (có nghĩa là "Nguyện quy theo đức Phật A Di Đà"). Tượng Phật A Di Đà là tượng có mặt ở khắp mọi nơi và có mặt từ rất lâu đời. Mật tông: là một tông phái Phật giáo chủ trương sử dụng những phép tu tụng niệm các mật chú để đạt đến chân lý giác ngộ. Cũng còn gọi là Lạt Ma tông, Mật tông là sự hợp nhất giới luật của thuyết nhất thiết hữu bộ và nghi thức tác pháp của Kim Cương thừa. Bước quyết định trong nghi thức này là lễ Quán Đỉnh do một vị sư cả (hay "lạt ma") ban phép cho người đệ tử được nhập thiền định tâm vào một vị Phật cụ thể bằng cách đọc chân âm, suy niệm đồ hình Man- đà- la và thực thi ấn quyết để đạt đến độ thăng hoa loại bỏ ý niệm nhị nguyên đặng nhập vào Chân Như, vào cõi Không. Trạng thái đó được biểu tượng bằng Kim cương chử. Để làm chủ được các nghi thức tác pháp của Mật tông (còn gọi là Kim Cương thừa) thì điều tiên quyết là phải thấu hiểu giáo nghĩa của Bát-nhã-ba-la-mật-đa của Long Thọ và Vô Trước. Giáo nghĩa Bát-nhã-ba-la-mật-đa được gọi là "Nhân thừa", và giáo nghĩa Kim Cương thừa được gọi là "Quả thừa". Tương truyền rằng Mật tông do đức Phật Đại Nhật khởi xướng. Mật tông có hai bộ kinh cơ bản là Đại Nhật kinh và Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh. Như vậy, từ thế kỉ thứ 3 đến thế kỉ thứ 7, Thiền tông Việt Nam mang đậm giáo nghĩa Tam Luận tông của
  17. 13 Long Thọ, mà đặc biệt là tư tưởng Bát-nhã-ba-la-mật-đa của Long Thọ và Vô Trước. Các thiền sư thuộc Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi không chỉ uyên thâm về Phật pháp mà nhiều vị rất có uy tín với triều đình và biểu thị rõ ý thức độc lập tự chủ của đất nước. Các thiền sư Pháp Thuận, Ma Ha (thế kỉ thứ 10), Sùng Phạm (thế kỉ 12),... đều làm cố vấn cho nhà vua không chỉ việc đạo mà cả việc đời, việc ngoại giao. Dòng Tì Ni Đa Lưu Chi còn kéo dài mãi đến thế kỉ 19. Đặc biệt, các thiền sư dòng Tì Ni Đa Lưu Chi thường có hình thức tu tập "Tổng Trì Tam Muội", một hình thức tu tập phổ biến của Mật giáo, dùng chân âm kết hợp với ấn quyết trong trạng thái đại định để giữ được thân, khẩu, ý. Ở Hoa Lư (Ninh Bình), một cột kinh Phật bằng đá vào thế kỉ thứ 10 có khắc bài thần chú Phật Đỉnh Tối Thắng Đà La Ni, một thần chú phổ biến của Mật tông, đã được phát hiện. Khi vào Việt Nam, Mật tông không tồn tại độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng hòa lẫn vào dòng tín ngưỡng dân gian với những truyền thống cầu đồng, pháp thuật, yểm bùa, trị tà ma, chữa bệnh,... Trên bước đường truyền bá và hội nhập, Phật giáo luôn luôn cố gắng thực hiện hai điều đó là khế lý và khế cơ. Nếu thiếu đi một trong hai yếu tố này Phật giáo sẽ chẳng còn là Phật giáo nữa. Duy trì và phát triển hai yếu tố này, Phật giáo được truyền vào Việt Nam và các nước khác. Khế lý là nói về mặt tư tưởng nhờ khế lý nên dù ở thời gian và không gian nào, giáo lý Phật-đà vẫn hợp với chân lý, tư tưởng vẫn luôn luôn phong phú, sâu sắc mà vẫn giữ được bản chất của mình và chỉ có một vị đó là vị giải thoát. Khế cơ thiên trọng về mặt lịch sử nhờ khế cơ nên dù trong hoàn cảnh và quốc độ nào thì sự sinh hoạt, thể hiện, truyền đạt cũng luôn luôn đa dạng. Tùy theo phong tục tập quán của mỗi quốc gia mà vẫn không hề mất gốc (Phật giáo). Nói một cách khác thì có thể tùy nghi phương tiện theo từng
  18. 14 vùng miền để truyền bá giáo lý Phật-đà nhưng không làm mất đi bản sắc của Phật giáo là ứng hợp với mọi tầng lớp và căn cơ chúng sinh. Tên gọi tuy có khác nhưng giáo lý vẫn là một nên gọi là khế lý, dù một mà không phải một, nên có lắm tên Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Thái Lan, v.v. tất cả đều có tên chung là Phật giáo, bảo rằng giống cũng được nhưng bảo rằng không thì là sai. Đây gọi là khế cơ là bản địa hóa, hay sắc thái Phật giáo của từng vùng miền. Khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam đã được các vị thiền sư người Việt bản địa hóa, khiến Phật giáo hòa mình vào lòng dân tộc tạo nên một sắc thái đặc biệt của riêng Việt Nam. Phật giáo đã cùng sinh tồn với dân tộc. Điểm này dễ dàng nhận thấy trong những thời đại hưng thịnh của đất nước như Đinh, Lê, Lý - Trần đều là những lúc Phật giáo cũng song hành hưng thịnh và các vị thiền sư có vị trí quan trọng trong các triều đại đó. Dù được bản địa hóa để quyện mình vào lòng dân tộc nhưng tam tạng kinh điển Phật giáo Việt Nam vẫn được truyền thừa trong suốt hơn 2000 năm lịch sử Phật giáo Việt Nam. Thứ nhất, tính tổng hợp: Tổng hợp là một trong những đặc tính của lối tư duy nông nghiệp, chính vì thế tổng hợp là đặc tính nổi bật nhất của Phật giáo Việt Nam. Tổng hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng truyền thống: Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là thờ thần trong miếu và thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là Tứ pháp: Mây-Mưa- Sấm-Chớp. Tuy nhiên bốn vị thần này đã được "Phật hóa". Các pho tượng này thường được gọi tượng Phật Pháp Vân, Phật Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi và Phật Pháp Điện, trên thực tế các tượng này hoàn toàn điêu khắc theo tiêu chuẩn của một pho tượng Phật. Nghĩa là đầy đủ 32 tướng tốt cùng 80 vẻ đẹp, mà một trong những nét tiêu biểu chính là tướng nhục kế, những khế ấn, và khuôn mặt đầy lòng từ mẫn v.v. Các hệ thống thờ phụ này tổng hợp với nhau
  19. 15 tạo nên các ngôi chùa "tiền Phật, hậu thần" hay "tiền Phật, hậu Mẫu". Người Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, thành hoàng thổ địa, anh hùng dân tộc... vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu, bát nhang cho các linh hồn đã khuất. Tổng hợp giữa các tông phái Phật giáo: Các tông phái Phật giáo Đại thừa sau khi du nhập vào Việt Nam trộn lẫn với nhau. Dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi pha trộn với Mật giáo. Nhiều vị thiền sư đời Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không,... đều giỏi pháp thuật và có tài thần thông biến hóa. Thiền tông còn kết hợp với Tịnh Độ tông như là trong việc tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát. Các điện thờ ở chùa miền Bắc vô cùng phong phú các loại tượng Phật, bồ tát, la hán của các tông phái khác nhau. Các chùa miền Nam còn có xu hướng kết hợp Tiểu thừa với Đại thừa. Nhiều chùa mang hình thức Tiểu thừa (thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại thừa; bên cạnh Phật Thích Ca Mâu Ni còn có các tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh áo vàng còn có áo nâu, áo lam. Tổng hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác: Tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu Công nguyên. Sau đó Phật giáo cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận Đạo giáo. Rồi tất cả cùng tiếp nhận Nho giáo để làm nên "Tam giáo đồng nguyên" và "Tam giáo đồng quy". Ba tôn giáo trợ giúp lẫn nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội, Đạo giáo lo thể xác con người, Phật giáo lo tâm linh, kiếp sau của con người. Trong nhiều thế kỷ, hình ảnh "Tam giáo tổ sư" với Thích Ca Mâu Ni ở giữa, Lão Tử ở bên trái, Khổng Tử ở bên phải đã in sâu vào tâm thức mọi người Việt. Ngoài ra Phật giáo Việt Nam còn được hòa trộn với tất cả các tôn giáo khác để hình thành Đạo Cao Đài vào thập niên 1920 với quan điểm là "Thiên nhân hợp nhất" và "Vạn giáo nhất lý".
  20. 16 Thứ hai, Tính hài hòa âm dương: Sau tính tổng hợp, hài hòa âm dương là một trong những đặc tính khác của lối tư duy nông nghiệp, nó ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo Việt Nam làm cho Phật giáo Việt Nam có phần thiên về nữ tính. Các vị Phật Ấn Độ xuất thân là nam giới, khi vào Việt Nam bị biến thành "Phật ông - Phật bà". Phật Bà Quan Âm (biến thể của Quán Thế Âm Bồ Tát) là vị thần hộ mệnh của vùng Nam Á nên còn được gọi là Quan Âm Nam Hải. Ngoài ra người Việt còn có những vị Phật riêng của mình như Man Nương Phật Mẫu (tên khác: Phật Mẫu), Quan Âm Thị Kính (tên khác: Quan Âm Tống Tử), Quan Âm Diệu Thiện (tên khác: Phật Bà Chùa Hương, Bà chúa Ba). Thứ ba, Tính linh hoạt: Phật giáo Việt Nam còn có một đặc điểm là rất linh hoạt, mà nhà Phật thường gọi là "tùy duyên bất biến, bất biến mà vẫn thường tùy duyên" nghĩa là tùy thuộc vào tình huống cụ thể mà người ta có thể tu, giải thích Phật giáo theo các cách khác nhau. Nhưng vẫn không xa rời giáo lý cơ bản của nhà Phật. Ví dụ: Các vị bồ tát, các vị hòa thượng đều được gọi chung là Phật, Phật Bà Quan Âm (vốn là bồ tát), Phật Di Lặc (vốn là hòa thượng),... Ngoài ra Phật ở Việt Nam mang dáng dấp hiền hòa và dân dã: ông Bụt Ốc (Thích Ca tóc xoăn), ông Nhịn ăn mà mặc (chỉ Thích Ca Tuyết Sơn),... Trên đầu Phật Bà Chùa Hương còn có lọn tóc đuôi gà rất truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Những đặc điểm đó cho thấy sự hỗn dung giữa Phật giáo với văn hóa dân gian Việt Nam rất sâu sắc và phong phú. 1.1.2. Khái lược chung về văn hóa dân gian Việt Nam Văn hoá (Culture) xuất hiện cùng với loài người, là đối tượng được quan tâm nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về văn hóa, tùy theo góc độ tiếp cận và nghiên cứu, nhưng tựu chung lại có thể hiểu văn hóa theo nghĩa sau: Văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong thực tiễn xã hội - lịch
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2