ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ------------------
NGUYỄN MẠNH HÙNG
VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ
GIỚI (WTO) – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2005
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ------------------
NGUYỄN MẠNH HÙNG
VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ
GIỚI (WTO) – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Chuyên ngành : Kinh tế chính trị Mã số
: 5.02.01 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Văn Hiền
HÀ NỘI - 2005
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
5
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VIỆC GIA NHẬP TỔ CHỨC THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO) CỦA VIỆT NAM
10
1.1. Khái quát về Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO) 10
1.2. Lợi ích và thách thức của Việt Nam khi gia nhập tổ chức WTO 20
1.2.1. Những lợi ích đạt được 20
1.2.2. Những thách thức 25
30
1.2.3. Sự cần thiết của việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
CHƢƠNG 2
TIẾN TRÌNH GIA NHẬP TỔ CHỨC THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO) CỦA VIỆT NAM
35
2.1. Quá trình đàm phán gia nhập tổ chức WTO của Việt Nam 35
2.1.1. Lộ trình đàm phán đa phương 35
2.1.2. Lộ trình đàm phán song phương 47
51
2.2. Những kết quả đạt đƣợc và vấn đề đặt ra trong quá trình gia nhập WTO của Việt Nam
2.2.1. Những kết quả đạt được 51
2.2.2. Những vấn đề đặt ra 56
CHƢƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC GIA NHẬP TỔ CHỨC THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO) CỦA VIỆT NAM
2.2.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc gia nhập WTO 62
66
1
3.1. Một số quan điểm cơ bản về gia nhập WTO của Việt Nam 66
3.2. Những giải pháp để nâng cao hiệu quả gia nhập WTO của Việt Nam 69
3.2.1. Đổi mới về nhận thức, tạo sự thống nhất trong xã hội 70
3.2.2. Chủ động mở cửa nền kinh tế theo lộ trình thích hợp 71
72
3.2.3. Tạo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng, lành mạnh cho các doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế
74
3.2.4. Xây dựng chương trình, phương thức đàm phán phù hợp, đảm bảo thu được nhiều lợi ích nhất cho nền kinh tế Việt Nam
78
3.2.5. Thực hiện tốt chính sách xã hội nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của việc Việt Nam gia nhập WTO
78
3.2.6. Đẩy mạnh việc điều chỉnh, bổ sung hệ thống pháp luật cho phù hợp với các cam kết của WTO
80
3.2.7. Tạo điều kiện tốt cho các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh trên thị trường
3.2.8. Cải cách hành chính và bộ máy điều hành của chính phủ 82
84
3.2.9. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia để chủ động gia nhập WTO
KẾT LUẬN
88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
90
PHỤ LỤC
97
2
QUY ƢỚC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA:
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
AOA:
Hiệp định vè nông nghiệp
APEC:
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dƣơng
ASEAN:
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ATC:
Hiệp định dệt may
DDA:
Chƣơng trình Doha về phát triển
DSB:
Cơ quan giải quyết tranh chấp
DSU:
Bản ghi nhớ về cách thức giải quyết tranh chấp
FDI:
Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
GATS:
Hiệp định chung về thƣơng mại dịch vụ
GATT:
Hiệp định chung về thuế quan và thƣơng mại
GDP:
Tổng thu nhập quốc dân
GSP:
Hệ thống ƣu đãi phổ cập
GEL
Danh mục loại trừ hoàn toàn
IL
Danh mục cắt giảm ngay
IPPC:
Công ƣớc quốc tế về bảo vệ thực vật
MFA:
Hiệp định đa sợi, nay thay bằng hiệp định dệt may (TCA)
MFN:
Tối huệ quốc
MTN:
Đàm phán thƣơng mại đa phƣơng
NT:
Đãi ngộ quốc gia
OECD:
Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển
SPS:
Hiệp định về vệ sinh dịch tễ
TBT:
Rào cản kỹ thuật đối với thƣơng mại
TEL:
Danh mục loại trừ tạm thời
TPRB:
Cơ quan rà soát chính sách thƣơng mại
3
TPRM:
Cơ quan kiểm điểm chính sách thƣơng mại
TQ:
Hạn ngạch thuế quan
TRIMS:
Hiệp định về các biện pháp đầu tƣ liên quan đến thƣơng mại
TRIPS:
Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thƣơng mại
WT/ACC/4 Biểu mẫu về hỗ trợ trong nƣớc và trợ cấp xuất khẩu với nông
sản
WTO:
Tổ chức Thƣơng mại thế giới
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là thực tế khách quan diễn ra
với tốc độ nhanh chóng, vừa tạo ra cơ hội, vừa đƣa tới những thách thức cho
mọi quốc gia. Việt Nam trong sự phát triển của mình không thể nằm ngoài
các quá trình đó. Cùng với việc thực hiện chính sách đổi mới, Việt Nam đã và
đang triển khai nhiều hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và đạt đƣợc nhiều
thành tựu.
Thực hiện chủ trƣơng tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
Việt Nam coi việc gia nhập Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO) là mục tiêu
quan trọng. Việc tham gia các hiệp định, điều ƣớc quốc tế về kinh tế, thƣơng
mại trong WTO sẽ tạo ra nhiều cơ hội giúp cho nền kinh tế Việt Nam phát
triển ổn định và bền vững theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Nhƣng việc gia
nhập và theo đó là thực hiện các cam kết của WTO lại là một quá trình đầy
cam go, thách thức, đặt ra nhiều vấn đề cần đƣợc quan tâm thấu đáo để nền
kinh tế có thể đứng vững và phát triển ổn định khi gia nhập tổ chức Thƣơng
mại thế giới (WTO).
Xuất phát từ những bức xúc nêu trên, nhất là khi chúng ta đang đứng
trƣớc ngƣỡng cửa bƣớc vào WTO, Tác giả luận văn chọn vấn đề: “Việt Nam
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) - Thực trạng và giải pháp “
để làm đề tài Luận văn Thạc sỹ Kinh tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Vấn đề Việt Nam gia nhập tổ chức thƣơng mại thế giới là mảng đề tài
đƣợc sự quan tâm của nhiều tác giả.
Trƣớc hết ở thể loại báo và tạp chí, có rất nhiều bài viết về vấn đề Việt
Nam gia nhập WTO. Đặc biệt, Bộ Thƣơng mại và Uỷ ban quốc gia về hợp tác
5
kinh tế quốc tế đã có diễn đàn trao đổi về vấn đề Việt Nam gia nhập tổ chức
thƣơng mại thế giới. Ở những bài viết này, các tác giả thƣờng tập trung phân
tích cơ hội, thách thức và diễn biến tình hình Việt Nam đàm phán gia nhập
WTO từ đó đƣa ra giải pháp để đẩy nhanh việc gia nhập tổ chức thƣơng mại
thế giới nhƣ: bài: “Tổ chức thương mại thế giới (WTO) với nền kinh tế toàn
cầu hoá” của tác giả Nguyễn Văn Thanh đăng trên Tạp chí Cộng sản, bài:
"Việt Nam: Con đường tới WTO" của tác giả Vũ Xuân Trƣờng đăng trên tạp
chí Nghiên cứu Quốc tế, bài "WTO - những thuận lợi và thách thức” của tác
giả Hạnh Mai trên báo Hà Nội mới, bài: "Còn nhiều doanh nghiệp chưa
chuẩn bị cho "cuộc chơi" WTO" của tác giả Văn Minh Hoa đăng trên Báo Phụ
nữ Việt Nam...
Đối với thể loại sách và công trình nghiên cứu khoa học, các tác giả có
điều kiện phân tích sâu hơn vấn đề gia nhập WTO của Việt Nam, một số tác
giả đã từng bƣớc nghiên cứu nội dung các hiệp định của WTO và chỉ ra
những cơ hội, thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO. Điều này có thể tìm
thấy qua những tác phẩm nhƣ: “Việt Nam tích cực chuẩn bị gia nhập WTO
trong một số lĩnh vực dịch vụ” do TS. Đinh Văn Ân chủ biên (Nxb Văn hoá -
Thông tin H.2004), “Gia nhập WTO Việt Nam kiên định con đường đã chọn”
của tác giả Nguyễn Văn Thanh (Nxb Chính trị Quốc gia, H.2004), “Cơ hội và
thách thức (hay những điểm được và mất) của Việt Nam khi gia nhập WTO"
Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ do Uỷ ban quốcgia về hợp tác kinh
tế quốc tế thực hiện năm 2001...Qua những công trình trên, các tác giả đều
khẳng định sự cần thiết của việc gia nhập WTO, giới thiệu về Tổ chức
Thƣơng mại thế giới (WTO) cũng nhƣ đƣa ra những thuận lợi và thách thức
của các nƣớc đang phát triển và Việt Nam khi tham gia quá trình này.
Tóm lại, đã có nhiều công trình nghiên cứu , bài báo, sách đề cập đến Tổ
chức Thƣơng mại thế giới (WTO) và việc gia nhập WTO của Việt Nam. Tuy
6
nhiên, cho đến nay chƣa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu, cập nhật
và có hệ thống về vấn đề gia nhập Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO) của
Việt Nam.
Luận văn “Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) -
Thực trạng và giải pháp “ có sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những kết quả
nghiên cứu của các công trình kể trên. Mặc dù vậy, đây là Luận văn có nội
dung độc lập không trùng lặp với các công trình đã đƣợc công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ những nội dung lý luận và thực tiễn của việc Việt Nam
gia nhập Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO), luận văn đƣa ra một số định
hƣớng và giải pháp cơ bản để quá trình đó đƣợc thực hiện một cách hiệu quả,
tốt đẹp.
- Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Khái quát về tổ chức thƣơng mại thế giới WTO.
+ Chỉ ra lợi ích, thách thức và sự cần thiết của việc Việt Nam gia nhập
WTO.
+ Phân tích và đánh giá thực trạng quá trình Việt Nam chuẩn bị gia
nhập tổ chức WTO.
+ Nêu ra những định hƣớng và giải pháp cơ bản để Việt Nam gia nhập tổ
chức WTO một cách hiệu quả nhất.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tƣợng nghiên cứu của Luận văn là Tổ chức Thƣơng mại thế giới
(WTO) cùng với sự chuẩn bị của Việt Nam để gia nhập tổ chức này.
7
- Phạm vi nghiên cứu:
Để có điều kiện đi sâu phân tích nội dung trọng tâm của quá trình Việt
Nam gia nhập WTO, Tác giả Luận văn tự giới hạn phạm vi nghiên cứu ở chỗ
chỉ nghiên cứu những nét cơ bản của WTO; Thực trạng Việt Nam chuẩn bị
gia nhập WTO xét về mặt tổng thể để từ đó đƣa ra những nhận xét và kết luận
cần thiết theo mục đích của luận văn.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập kinh tế
quốc tế.
- Nguồn tài liệu:
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã sử dụng các nguồn tài liệu
sau:
+ Các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nƣớc đã đƣợc
đƣợc công bố trên các sách, báo, tạp chí về WTO; về vấn đề gia nhập WTO
của Việt Nam...
+ Các Kỷ yếu Hội thảo khoa học, đề tài nghiên cứu khoa học có liên
quan đến đề tài luận văn.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu chung là phƣơng pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng các
phƣơng pháp khác nhƣ: phƣơng pháp kết hợp lịch sử - lôgich, phƣơng pháp
so sánh, phƣơng pháp tổng hợp, phân tích, phƣơng pháp lƣợng hoá, phƣơng
pháp điều tra khảo sát, phƣơng pháp sắp xếp có hệ thống các sự kiện.v.v.
8
6. Đóng góp của Luận văn
- Về tƣ liệu: Luận án đã tập hợp, hệ thống hoá một khối lƣợng tƣ liệu
khá phong phú, đa dạng về vấn đề gia nhập Tổ chức Thƣơng mại thế giới
(WTO) của Việt Nam.
- Nêu rõ cơ hội, thách thức của Việt Nam khi gia nhập tổ chức WTO.
-Đánh giá, tổng kết những kết quả đạt đƣợc và những vấn đề còn tồn tại
của việc Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO trên khía cạnh toàn bộ nền kinh
tế.
- Đƣa ra chủ trƣơng và giải pháp để Việt Nam gia nhập tổ chức WTO có
hiệu quả nhất.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục
Luận văn gồm 3 chƣơng, 6 tiết.
Chương 1: Những vấn đề chung về việc gia nhập Tổ chức Thƣơng mại
thế giới (WTO) của Việt Nam
Chương 2: Tiến trình gia nhập Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO) của
Việt Nam
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả của việc gia nhập
Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO) của Việt Nam
9
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VIỆC GIA NHẬP TỔ CHỨC
THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO) CỦA VIỆT NAM
1.1. Khái quát về Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO)
Lịch sử hình thành:
Ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX, với ý tƣởng hình thành những
nguyên tắc, thể lệ, luật chơi cho thƣơng mại quốc tế nhằm điều tiết các lĩnh
vực về công ăn việc làm, thƣơng mại hàng hoá, khắc phục tình trạng hạn chế,
ràng buộc các hoạt động này phát triển, 23 nƣớc sáng lập GATT đã cùng một
số nƣớc tổ chức Hội nghị về thƣơng mại và việc làm và dự thảo bản “Hiến
chƣơng La Havana” để thành lập Tổ chức Thƣơng mại quốc tế (ITO) với tƣ
cách là cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc. Đồng thời, các nƣớc này đã
cùng nhau tiến hành các cuộc đàm phán về thuế quan và xử lý những biện
pháp bảo hộ mậu dịch đang áp dụng tràn lan trong thƣơng mại quốc tế, nhằm
thực hiện mục tiêu tự do hoá mậu dịch, mở đƣờng cho kinh tế và thƣơng mại
phát triển.
Nhƣng do một số quốc gia gặp khó khăn trong việc phê chuẩn, nên việc
hình thành Tổ chức thƣơng mại Quốc tế đã không thực hiện đƣợc.
Mặc dù vậy, kiên trì mục tiêu đã định và với kết quả đáng khích lệ đã đạt
đƣợc ở vòng đàm phán thuế quan đầu tiên: “(45.000 ƣu đãi về thuế đƣợc áp
dụng giữa các bên tham gia đàm phán, chiếm khoảng 1/5 tổng lƣợng mậu
dịch thế giới) 23 nƣớc sáng lập đã cùng nhau ký hiệp định chung về Thuế
quan và Thƣơng mại (GATT), chính thức có hiệu lực vào 1/1948”[63, tr.14].
10
Tuy nhiên sau đó, do thƣơng mại quốc tế không ngừng phát triển, nên
Hiệp định chung về Thuế quan và Thƣơng mại (GATT) vốn chỉ là một sự
thoả thuận về vấn đề thuế quan đã tỏ ra không thích hợp. Do đó, tại Marrkesh
(Maroc), các bên đã kết thúc hiệp định thành lập Tổ chức thƣơng mại thế giới
(WTO) nhằm kế tục và phát triển sự nghiệp của GATT. WTO chính thức
đƣợc thành lập độc lập với hệ thống Liên Hợp Quốc và đi vào hoạt động từ
1/1/1995.
So với GATT thì WTO mở rộng hơn về các lĩnh vực và diện hoạt động,
đàm phán không chỉ về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các hiệp định
hình thành các chuẩn mực, luật chơi điều tiết các hàng rào phi thuế quan, về
thƣơng mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tƣ có liên quan
tới thƣơng mại, về thƣơng mại hàng nông sản, hàng dệt may, về cơ chế giải
quyết tranh chấp...
Mục tiêu của WTO:
Với tƣ cách là tổ chức thƣơng mại toàn cầu, WTO có những mục tiêu cơ
bản sau:
- Thúc đẩy tăng trƣởng thƣơng mại hàng hoá và dịch vụ, nâng cao việc
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trên thế giới phục vụ cho sự phát triển ổn
định, bền vững và bảo vệ môi trƣờng thông qua việc tạo ra một tập hợp các
quy tắc và nguyên tắc cho thƣơng mại quốc tế, bảo đảm một môi trƣờng
minh bạch, dễ dự báo trong thƣơng mại quốc tế. WTO vẫn đảm đƣơng trách
nhiệm của GATT về thúc đẩy đàm phán đa phƣơng nhằm tự do hoá thƣơng
mại, đã đóng góp vào phát triển và tăng trƣởng kinh tế trong các quốc gia
thành viên.
- Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trƣờng, giải quyết các bất đồng
và tranh chấp thƣơng mại giữa các nƣớc thành viên trong khuôn khổ của hệ
11
thống thƣơng mại đa phƣơng, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Công
pháp quốc tế; bảo đảm cho các nƣớc đang phát triển và đặc biệt là các nƣớc
kém phát triển nhất đƣợc thụ hƣởng những lợi ích thực sự từ sự tăng trƣởng
của thƣơng mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nƣớc
này và khuyến khích các nƣớc này ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền
kinh tế thế giới.
- Nâng cao mức sống, tạo công ăn, việc làm cho ngƣời dân các nƣớc
thành viên, bảo đảm các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu đƣợc tôn
trọng.
Chức năng chính:
WTO thực hiện các chức năng chủ yếu sau:
- Thống nhất quản lý việc thực hiện các hiệp định và thoả thuận thƣơng
mại đa phƣơng và nhiều bên; giám sát, tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật
cho các nƣớc thành viên thực hiện các nghĩa vụ thƣơng mại quốc tế của họ.
- Đƣa ra khuôn khổ chung và làm diễn đàn để tiến hành các vòng đàm
phán thƣơng mại đa phƣơng trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội
nghị Bộ trƣởng WTO.
- Làm diễn đàn cho các thành viên giải quyết các tranh chấp thƣơng mại
và thực thi cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến việc thực hiện và giải
thích các hiệp định thƣơng mại đa phƣơng và nhiều bên trong khuôn khổ
WTO.
- Thực hiện việc rà soát, giám sát các chính sách thƣơng mại của các
thành viên, bảo đảm thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hoá thƣơng mại và
tuân thủ các quy định của WTO.
- Trợ giúp về kỹ thuật và đào tạo cho các quốc gia đang phát triển.
12
- Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác nhƣ Quỹ
Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới trong việc hoạch định những chính
sách và dự báo những xu hƣớng phát triển tƣơng lai của kinh tế toàn cầu.[3,
tr.222]
Nguyên tắc hoạt động:
Các hiệp định của Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO) có nhiều và
phức tạp trên các lĩnh vực nhƣ nông nghiệp, dịch vụ, thuế quan ....Tuy nhiên,
xuyên suốt các hiệp định này là những nguyên tắc và chúng đƣợc coi là nền
tảng của hệ thống thƣơng mại đa phƣơng.
Nguyên tắc thứ nhất là, thương mại không có sự phân biệt đối xử.
Nguyên tắc này đƣợc cụ thể hoá trong các quy định về Quy chế đối xử tối huệ
quốc (MFN) và Đối xử quốc gia (NT) mà nội dung chính là dành sự đối xử
bình đẳng đối với các thƣơng nhân, hàng hoá, dịch vụ của các bên tham gia
thƣơng mại. Tuy nhiên, vẫn có một số ngoại lệ trong nguyên tắc này. Chẳng
hạn, các nƣớc có thể thiết lập một hiệp định thƣơng mại tự do áp dụng đối với
những hàng hoá giao dịch trong một nhóm quốc gia, phân biệt với hàng từ
bên ngoài nhóm.
Nguyên tắc thứ hai là, tạo dựng một nền tảng ổn định, dễ dự đoán cho
thương mại. Các nƣớc thành viên có nghĩa vụ công khai, minh bạch hoá các
chính sách của mình, cam kết sẽ không có những thay đổi bất lợi cho thƣơng
mại. Đôi khi cam kết bảo đảm sự ổn định các hàng rào thƣơng mại (thuế quan
và phi thuế quan) đem lại sự an tâm rất lớn cho các nhà đầu tƣ. Với sự ổn
định, dễ dự đoán, thì việc đầu tƣ sẽ đƣợc khuyến khích, việc làm sẽ đƣợc tạo
ra nhiều hơn và ngƣời tiêu dùng, doanh nghiệp sẽ đƣợc hƣởng lợi từ sự cạnh
tranh lành mạnh trên thị trƣờng.
13
Nguyên tắc thứ ba là, đảm bảo thương mại ngày càng tự do hơn thông
qua đàm phán. Các hàng rào cản trở thƣơng mại dần dần đƣợc loại bỏ, cho
phép các nhà sản xuất hoạch định chiến lƣợc kinh doanh dài hạn có thời gian
điều chỉnh, nâng cao sức cạnh tranh hoặc chuyển đổi cơ cấu. Mức độ cắt giảm
các hàng rào bảo hộ đƣợc thoả thuận thông qua các cuộc đàm phán song
phƣơng và đa phƣơng. Đến nay có 8 vòng đàm phán đa phƣơng kể từ khi
GATT đƣợc hình thành vào năm 1947.
Nguyên tắc thứ tư là, tạo môi trường cạnh tranh ngày càng lành mạnh
và bình đẳng hơn. WTO không cho phép các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong thƣơng mại quốc tế, ví dụ nhƣ bán phá giá, trợ cấp hàng hoá, hay
dành các đặc quyền cho một số doanh nghiệp nhất định. Tuy nhiên, WTO vẫn
cho phép các nƣớc đƣợc áp dụng các biện pháp tự vệ nhƣ bảo hộ, thuế quan
khi nền sản xuất trong nƣớc bị đe doạ, bị gây thiệt hại bởi hàng nhập khẩu.
Nguyên tắc thứ năm là, điều kiện đặc biệt dành cho các nước đang phát
triển. Hiện nay, 3/4 thành viên của WTO là các nƣớc đang phát triển và kém
phát triển. Thực hiện nguyên tắc này, WTO dành cho các nƣớc đang phát
triển, các nƣớc có nền kinh tế chuyển đổi những ƣu đãi nhất định trong việc
thực thi các hiệp định, đồng thời chú ý đến trợ giúp kỹ thuật cho các nƣớc
này, với mục tiêu đảm bảo sự tham gia sâu rộng hơn của họ vào hệ thống
thƣơng mại đa phƣơng [3, tr.225].
Các ƣu đãi này đƣợc thể hiện thông qua việc cho phép các thành viên
đang phát triển một số quyền và không phải thực hiện một số nghĩa vụ nào đó
hay có thời gian quá độ dài hơn để điều chỉnh chính sách.
Các hiệp định chính trong WTO:
14
Các hiệp định của WTO điều chỉnh các lĩnh vực nhƣ thƣơng mại hàng
hoá, thƣơng mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Chúng đề ra những nguyên tắc về
tự do hoá và những ngoại lệ đƣợc phép áp dụng; nêu lại cam kết của từng
nƣớc về giảm thuế quan và các rào cản thƣơng mại khác, về mở cửa và duy trì
mở cửa thị trƣờng dịch vụ; quy định thủ tục giải quyết tranh chấp; quy định
các nƣớc đang phát triển phải đƣợc đối xử đặc biệt; buộc các chính phủ phải
bảo đảm minh bạch trong chính sách thƣơng mại bằng cách thông báo cho
WTO biết những luật lệ hiện hành và các biện pháp đƣợc áp dụng trong nƣớc
song song với các báo cáo định kỳ của Ban thƣ ký về chính sách thƣơng mại
của các nƣớc.
Các hiệp định này thƣờng đƣợc gọi là các luật lệ thƣơng mại của WTO
và WTO thƣờng đƣợc miêu tả nhƣ là một hệ thống hoạt động dựa trên các
luật lệ.
Để điều chỉnh quan hệ thƣơng mại quốc tế, WTO có 16 hiệp định chính
nhƣ: Hiệp định chung về Thuế quan và Thƣơng mại (GATT 1994); Hiệp định
về Hàng rào Kỹ thuật trong thƣơng mại (TBTs); Hiệp định về các Biện pháp
vệ sinh kiểm dịch (SPS); Hiệp định về Thủ tục cấp phép xuất nhập khẩu
(ILP); Hiệp định về Quy tắc xuất xứ (ROO); Hiệp định về Kiểm tra trƣớc khi
giao hàng (PSI); Hiệp định Trị giá tính thuế hải quan (ACV); Hiệp định về
các Biện pháp tự vệ (ASG); Hiệp định về Trợ cấp (SCM) và Phá giá (ADP);
Hiệp định về Nông nghiệp (AOA); Hiệp định về Thƣơng mại hàng dệt may
và may mặc (ATC); Hiệp định về các Biện pháp đầu tƣ liên quan đến thƣơng
mại (TRIMS); Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thƣơng mại của
quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) và thoả thuận về các quy tắc và thủ tục điều
chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU)...[3, tr.226].
Tất cả các thành viên WTO đều phải tham gia vào các hiệp định nói trên,
quy định này gọi là sự chấp thuận cả gói. Bên cạnh đó WTO vẫn duy trì 2
15
hiệp định nhiều bên, các thành viên WTO có thể tham gia hoặc không tham
gia, đó là: Hiệp định về buôn bán máy bay dân dụng; Hiệp định về mua sắm
của Chính phủ. Còn 2 hiệp định nhiều bên khác là Hiệp định quốc tế về các
sản phẩm sữa; Hiệp định quốc tế về thịt bò thì cuối năm 1997, WTO đã chấm
dứt và đƣa những nội dung của chúng vào phạm vi điều chỉnh của các Hiệp
định Nông nghiệp và Hiệp định về các Biện pháp vệ sinh kiểm dịch.
Về cơ cấu tổ chức:
Hiện nay WTO có 148 nƣớc, lãnh thổ thành viên, chiếm 97% thƣơng
mại toàn cầu và có khoảng gần 30 quốc gia khác đang trong quá trình đàm
phán gia nhập.
WTO là một tổ chức thuộc về các thành viên của mình. Tất cả các quyết
định quan trọng đều có sự tham gia của toàn thể các thành viên. WTO có một
cơ cấu gồm 3 cấp:
- Các cơ quan lãnh đạo chính trị và có quyền ra quyết định bao gồm Hội
nghị Bộ trƣởng, Đại hội đồng WTO, Cơ quan giải quyết tranh chấp và cơ
quan kiểm điểm chính sách thƣơng mại.
- Các cơ quan thừa hành và giám sát việc thực hiện các hiệp định thƣơng
mại đa phƣơng, bao gồm Hội đồng GATT, Hội đồng GATS, Hội đồng
TRIPS.
- Cuối cùng là cơ quan thực hiện chức năng hành chính – thƣ ký là Tổng
giám đốc và Ban thƣ ký WTO.
Hội nghị Bộ trưởng WTO: là cơ quan lãnh đạo chính trị cao nhất của
WTO, họp ít nhất 2 năm một lần, thành viên là đại diện cấp Bộ trƣởng của tất
Xin xem thêm phụ lục 1
cả các nƣớc thành viên. Hiệp định thành lập WTO quy định Hội nghị Bộ
16
trƣởng WTO thực hiện tất cả các chức năng của WTO và có quyền quyết định
mọi vấn đề liên quan đến tất cả các hiệp định thƣơng mại đa biên của WTO.
Đại hội đồng: Dƣới Hội nghị Bộ trƣởng là Đại hội đồng, thƣờng họp
nhiều lần trong một năm tại trụ sở chính của WTO ở Geneva. Đại hội đồng
hoạt động thay mặt Hội nghị Bộ trƣởng giải quyết tất cả các công việc liên
quan đến WTO trong thời gian giữa các kỳ họp Hội nghị Bộ trƣởng. Thành
viên của Đại hội đồng WTO là đại diện ở cấp đại sứ của Chính phủ tất cả các
nƣớc thành viên. Nhiệm vụ chính của Đại hội Đồng là giải quyết tranh chấp
thƣơng mại giữa các nƣớc thành viên, giám sát việc thực hiện các hiệp định
và rà soát các chính sách của WTO.
Đại hội đồng có quyền thành lập các Uỷ ban giúp việc và báo cáo trực
tiếp lên Đại hội đồng là: Uỷ ban về thƣơng mại và phát triển; Uỷ ban về các
hạn chế cán cân thanh toán; Uỷ ban về ngân sách, tài chính và quản trị; Uỷ
bân về các hiệp định thƣơng mại khu vực. Ba Uỷ ban đầu đƣợc thành lập theo
hiệp định về thành lập WTO, Uỷ ban cuối cùng đƣợc thành lập vào tháng
2/1996 theo quyết định của Đại hội đồng WTO.
Ngoài ra còn có hai Uỷ ban là “Uỷ ban về hàng không dân dụng” và “Uỷ
ban về mua sắm chính phủ” đƣợc thành lập theo quyết định của Vòng đàm
phán Tokyo nhƣng có số thành viên hạn chế (chỉ những nƣớc ký kết các “bộ
luật” có liên quan của Vòng Tôkyo mới đƣợc tham gia). Hai uỷ ban này hoạt
động trong khuôn khổ của WTO nhƣng không phải báo cáo mà chỉ có nghĩa
vụ thông báo thƣờng xuyên về hoạt động của họ lên Đại hội đồng WTO.
Dƣới Đại hội đồng có ba hội đồng trực thuộc là Hội đồng Thƣơng mại
hàng hoá (GATT), Hội đồng thƣơng mại dịch vụ (GATS) và Hội đồng giám
sát về các vấn đề liên quan đến quyền Sở hữu trí tuệ (TRIPS). Nhƣ tên gọi đã
chỉ rõ, các hội động này chịu trách nhiệm giám sát sự vận hành của các hiệp
định đƣợc ký kết của WTO theo từng lĩnh vực đƣợc phân công. Trong từng
17
hội đồng này cũng bao gồm đại diện tất cả các thành viên WTO và cũng có
các cơ quan trực thuộc.
Ngoài ra còn có các cơ quan đƣợc các Hội đồng của WTO thành lập với
tƣ cách là cơ cấu trực thuộc để giúp các hội đồng này trong việc thực hiện các
chức năng kỹ thuật, ví dụ nhƣ “Uỷ ban về thâm nhập thị trƣờng”, “Uỷ ban về
trợ giá nông nghiệp” và các “Nhóm công tác” đƣợc thành lập tạm thời để giải
quyết những vấn đề cụ thể, ví dụ nhƣ các “Nhóm công tác về việc gia nhập
WTO” của một số nƣớc.
Hầu hết các quyết định của WTO đều đƣợc thông qua trên cơ sở đồng
thuận. Trong một số trƣờng hợp nhất định, khi không đạt đƣợc sự nhất trí
chung, các thành viên có thể tiến hành bỏ phiếu. Khác với các tổ chức khác,
mỗi thành viên WTO chỉ có quyền bỏ một phiếu và các phiếu bầu của các
thành viên có giá trị ngang nhau.
Tại Hội nghị Bộ trƣởng và Đại hội đồng, các quyết định thƣờng đƣợc
thông qua trên cơ sở đa số phiếu. Tuy nhiên, những quyết định có ảnh hƣởng
tới những điều khoản quan trọng trong các hiệp định của WTO thì nhất thiết
phải đạt đƣợc đa số 3/4 hoặc 2/3 số phiếu thuận.
Tổng giám đốc và Ban thư ký WTO: Khác với GATT 1974, WTO có một
ban thƣ ký rất quy mô, bao gồm khoảng 500 viên chức và nhân viên thuộc
biên chế chính thức của WTO. Đứng đầu ban thƣ ký WTO là Tổng giám đốc
WTO. Tổng giám đốc WTO do Hội nghị Bộ trƣởng bổ nhiệm với nhiệm kỳ 4
năm. Ngoài vai trò điều hành, Tổng giám đốc của WTO còn có một vai trò
chính trị rất quan trọng trong hệ thống thƣơng mại đa phƣơng. Chính vì vậy
mà việc lựa chọn các ứng cử viên vào chức vụ này luôn là một cuộc chạy đua
ác liệt giữa các nhân vật chính trị quan trọng.
18
Quyền hạn và trách nhiệm của Tổng giám đốc do Hội nghị Bộ trƣởng
quyết định. Biên chế Ban thƣ ký WTO do Tổng giám đốc quyết định. Tổng
giám đốc và thành viên Ban thƣ ký WTO có quy chế hoạt động tƣơng tự nhƣ
của viên chức các tổ chức quốc tế, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo các
quyết định và tôn chỉ của WTO. Họ đƣợc hƣởng các quyền ƣu đãi, miễn trừ
tƣơng tự nhƣ viên chức của các tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc.
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của Tổ chức Thƣơng mại thế giới
HỘI NGHỊ BỘ TRƢỞNG
Đại hội đồng nhóm họp với chức năng là Cơ quan giải quyết tranh chấp
Đại hội đồng nhóm họp với chức năng là Cơ quan rà soát chính sách thƣơng mại
Đại hội đồng
- Các uỷ ban về:
Hội đồng về thƣơng mại hàng hoá
+ Thương mại và môi
Hội đồng về thƣơng mại dịch vụ
trường.
Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến thƣơng mại của quyền sở hữu trí tuệ
+ Thương mại và phát
triển.
+ Tiểu ban về các
19
Các uỷ ban về:
Các uỷ ban về:
nước đang phát triển.
Nguồn: Tìm hiểu Tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, trang 212.
1.2. Lợi ích và thách thức của Việt Nam khi gia nhập tổ
chức WTO
1.2.1. Những lợi ích đạt được
Một là, hàng hoá của Việt Nam về cơ bản được cạnh tranh bình đẳng,
không có sự phân biệt đối xử.
Tổ chức WTO hoạt động dựa trên nguyên tắc tối huệ quốc và nguyên tắc
đối xử quốc gia, nghĩa là nếu một nƣớc mà trao cho nƣớc khác một đặc quyền
thƣơng mại (ví dụ nhƣ giảm thuế nhập khẩu đối với một trong số các sản
phẩm của nƣớc này) hoặc một thoả thuận mở cửa thị trƣờng thì nghiễm nhiên
cũng phải đối xử tƣơng tự nhƣ vậy với tất cả các thành viên còn lại của WTO.
20
Đồng thời các nƣớc trong WTO cũng không đƣợc phân biệt đối xử giữa hàng
hoá trong nƣớc và hàng hoá nƣớc ngoài.
Do vậy, khi gia nhập WTO hàng hoá của Việt Nam sẽ có sự cạnh tranh
bình đẳng với hàng hoá nƣớc ngoài ở trên thị trƣờng thế giới. Nền kinh tế
Việt Nam sẽ ít bị tổn thƣơng bởi những hành vi bảo hộ mậu dịch hoặc trừng
phạt kinh tế của các quốc gia khác trong trƣờng hợp có tranh chấp kinh tế,
thƣơng mại hay những lý do chính trị nào đó.
Hai là, Việt Nam có một cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại công
bằng hơn.
WTO là diễn đàn thƣơng mại mà ở đó, mọi thành viên có quyền tự bảo
vệ mình khi xảy ra tranh chấp thƣơng mại. Tuy nhiên, trong phạm vi GATT,
cơ chế giải quyết tranh chấp có nhiều hạn chế. Cơ quan giải quyết tranh chấp
(DSB) mới đƣợc thành lập trong WTO có nhiều ƣu điểm. Đặc điểm chung
của cơ chế này là tính thống nhất và chắc chắn. Trƣớc hết, DSB khuyến khích
và cho phép các nƣớc thành viên đàm phán để đi đến một biện pháp hoà giải.
Nếu thất bại, một ban giải quyết tranh chấp sẽ đƣợc thành lập để phân xử và
nhờ một cơ quan kháng án đƣa ra quyết định cuối cùng (Uỷ ban kháng nghị).
Tất cả các phán quyết cuối cùng này phải đƣợc các bên có liên quan chấp
thuận. Nếu kết quả giải quyết tranh chấp không đƣợc thi hành nghiêm túc,
bên có quyền lợi bị vi phạm có thể áp dụng những biện pháp trả đũa.
Việc thiết lập toà án quốc tế này đã làm cho hiệu quả của hệ thống
thƣơng mại đa biên đƣợc nâng cao rất nhiều. Nó đƣa những luật lệ vào thế
giới thƣơng mại, một thế giới mà trƣớc đây những nƣớc yếu không đủ sức
kháng cực lại những nƣớc mạnh. Giờ đây, những nƣớc yếu nhƣ Việt Nam có
quyền thƣơng lƣợng và khiếu nại một cách công bằng hơn với các cƣờng
quốc thƣơng mại trong tranh chấp dựa trên những luật lệ chung.
21
Liên hệ tới tranh chấp thƣơng mại của Việt Nam, vụ kiện chống bán phá
giá cá tra và basa của Hoa Kỳ, kết luận của Bộ Thƣơng mại Hoa Kỳ là phi lý,
không công bằng nhƣng nếu là thành viên của WTO, ta có thể đƣa vụ kiện
này ra WTO để đòi sự công bằng hơn.
Ba là, người tiêu dùng và các doanh nghiệp được lợi từ việc giảm giá
hàng hoá.
Thƣơng mại tự do sẽ giảm chi phí cuộc sống. Chúng ta đều là những
ngƣời tiêu dùng. Giá cả mà chúng ta trả cho thức ăn, quần áo, những vật dụng
cần thiết, ...và tất cả mọi thứ đều chịu tác động của chính sách thƣơng mại.
Chủ nghĩa bảo hộ dẫn đến độc quyền đắt đỏ, làm tăng giá cả hàng hoá. Hệ
thống toàn cầu WTO đã giảm bớt các hàng rào mậu dịch thông qua thƣơng
lƣợng và áp dụng nguyên tắc không phân biệt đối xử. Kết quả là chi phí sản
xuất giảm (vì hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất rẻ hơn), giá hàng hoá thành
phẩm và dịch vụ giảm và cuối cùng là chi phí cuộc sống thấp hơn.
Các lĩnh vực hàng hoá, dịch vụ đƣợc mở cửa, một số ngành sẽ có sự
xuất hiện của nƣớc ngoài, tính cạnh tranh sẽ cao cùng với chất lƣợng hàng
hoá, dịch vụ đƣợc cải thiện và giá cả hàng hoá, dịch vụ giảm xuống. Chẳng
hạn, ngành hàng không sẽ bị cạnh tranh bởi chính sách mở cửa bầu trời, việc
đi lại sẽ thuận lợi hơn cho ngƣời dân với mức giá hợp lý, khách hàng nƣớc
ngoài sẽ đến Việt Nam ngày một nhiều hơn.
Khi tham gia WTO, các doanh nghiệp Việt Nam phải vƣơn lên để cạnh
tranh với hàng hoá nƣớc ngoài trên thị trƣờng quốc tế và ngay ở thị trƣờng
trong nƣớc. Quá trình cạnh tranh sẽ thúc đẩy giảm chi phí kinh doanh, hạ giá
thành, nâng cao chất lƣợng sản phẩm, dịch vụ, tạo thêm công ăn việc làm và
kết quả là nâng cao chất lƣợng của cả nền kinh tế.
22
Bốn là, thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam với các
quốc gia khác, nâng cao vị thế của Việt Nam trong các hoạt động kinh tế và
chính trị toàn cầu.
Hiện nay, thƣơng mại giữa 148 nƣớc thành viên WTO chiếm tới hơn
90% khối lƣợng thƣơng mại thế giới. Nếu các nƣớc đang là quan sát viên
đƣợc kết nạp, số thành viên WTO có thể lên trên 170 nƣớc, nghĩa là tuyệt đại
đa số các quốc gia trên thế giới sẽ là thành viên của WTO. Do vậy, tham gia
vào WTO Việt Nam có thị trƣờng thƣơng mại toàn cầu, có mối quan hệ kinh
tế với hầu hết các nƣớc trên thế giới, điều này tạo ra rất nhiều thuận lợi thúc
đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển, vị thế của hàng hoá Việt Nam trên thị
trƣờng thế giới đƣợc nâng cao.
Hai nguyên tắc cơ bản của hệ thống thƣơng mại thế giới là giúp cho
thƣơng mại đƣợc thuận lợi và giải quyết các tranh chấp bình đẳng sẽ tạo dựng
và duy trì sự hợp tác và lòng tin giữa các quốc gia, phần nào đã góp phần
mang lại hoà bình, ổn định cho thế giới. Việt Nam tham gia vào WTO sẽ có
cơ hội để nâng cao vai trò của mình trong hệ thống chính trị toàn cầu.
Tham gia WTO làm tăng sức mạnh tổng hợp của ta khi phải đấu tranh
với các nƣớc mạnh hơn về kinh tế, thƣơng mại. Các quyết định tại WTO đƣợc
thƣơng lƣợng và đƣa ra trên cơ sở nhất trí và đƣợc áp dụng với tất cả các bên.
Theo quy định, tất cả các nƣớc, bất kể giàu nghèo, đều có quyền bình đẳng
nhƣ nhau theo các thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO. Đứng ngoài một
chế độ buôn bán đa phƣơng nhƣ WTO, ta dễ bị các nƣớc mạnh hơn dùng sức
ép áp đặt ý chí. Tham gia WTO ta cũng có thể tăng thêm sức mạnh của mình
bằng việc tham gia các liên minh, tập hợp lực lƣợng cùng phối hợp đấu tranh
cho các lợi ích chung (tập hợp các nƣớc đang phát triển, tập hợp các nƣớc
23
ASEAN...) bởi vì một nƣớc nhỏ tự mình đối phó với các cƣờng quốc kinh tế
đƣơng nhiên sẽ khó hơn.
Năm là, tham gia vào WTO sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đối với Việt Nam hiện nay, xuất khẩu và đầu tƣ nƣớc ngoài là yếu tố
quan trọng thúc đẩy tăng trƣởng và phát triển kinh tế. Khi tham gia vào WTO
hàng hoá Việt Nam sẽ có thị trƣờng xuất khẩu lớn do không gặp phải hàng
rào bảo hộ thuế quan, phi thuế quan nên xuất khẩu sẽ tăng nhanh góp phần
thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế.
Hiện nay, WTO có Hiệp định về các biện pháp đầu tƣ liên quan đến
thƣơng mại (TRIMS) điều chỉnh lĩnh vực đầu tƣ nƣớc ngoài. Theo Hiệp định
này, các nƣớc thành viên sẽ phải loại bỏ một số biện pháp hạn chế đầu tƣ trái
với TRIMS. Để gia nhập WTO, Việt Nam phải có chƣơng trình hành động để
thực hiện hiệp định TRIMS nhằm từng bƣớc loại bỏ những hạn chế không
hợp lý. Một khi những hạn chế nhƣ vậy đƣợc dỡ bỏ, môi trƣờng đầu tƣ sẽ trở
nên hấp dẫn hơn và Việt Nam sẽ thu hút thêm nhiều vốn đầu tƣ nƣớc ngoài
đầu tƣ vào trong nƣớc từ đó kích thích tăng trƣởng kinh tế.
Sáu là, thúc đẩy công cuộc cải cách kinh tế xã hội và giúp chính phủ
hoạt động tốt hơn.
Công cuộc cải cách kinh tế ở nƣớc ta đƣợc thực hiện từ năm 1986, trải
qua gần 20 năm đã thu đƣợc những thành tựu nhất định. Tuy nhiên cũng còn
rất nhiều vấn đề nan giải cần phải đƣợc giải quyết tiếp tục. Để tiếp tục đi sâu
và đẩy mạnh cải cách trong nƣớc, Việt Nam cần phải có động lực mới. Việc
gia nhập WTO sẽ là động lực bên ngoài thúc đẩy mạnh mẽ cải cách trong
nƣớc. Bởi vì, việc thực hiện những cam kết và luật lệ của WTO sẽ đẩy nhanh
tốc độ cải cách trong nƣớc. Nhân tố WTO sẽ đƣa cải cách trong nƣớc phát
triển mạnh mẽ đến mức mà những tác động trong nƣớc sẽ khó đạt đƣợc. Gia
24
nhập WTO, Việt Nam phải cam kết áp dụng và giám sát hệ thống luật của
mình theo các nguyên tắc quốc tế: minh bạch, hợp lý, công bằng và đồng bộ;
Phải tăng cƣờng thực hiện các cải cách kinh tế vĩ mô để sao cho vừa đáp ứng
đƣợc những yêu cầu của quá trình tự do hoá thƣơng mại, vừa có thể tranh thủ
đƣợc tối đa những lợi ích mà nó mang lại; Phải thực sự nâng cao hiệu quả
của các doanh nghiệp nhà nƣớc nhằm tạo ra những lực lƣợng kinh tế mạnh có
khả năng cạnh tranh trên trƣờng quốc tế...
Lợi ích lớn nữa mà WTO mang lại là nó hạn chế và tránh cho các chính
phủ khỏi sa vào quyền lợi hẹp hòi, cục bộ trƣớc mắt mà không nghĩ tới lợi ích
lâu dài của cả đất nƣớc.
Hệ thống WTO còn giúp và khuyến khích Chính phủ hoạt động tốt hơn
thông qua hệ thống minh bạch hoá chính sách, làm cho chính sách rõ ràng, dự
đoán đƣợc, loại bỏ sự can thiệp tuỳ tiện tác động tiêu cực đến phát triển kinh
tế, thƣơng mại, loại bỏ dần tham nhũng và giảm bớt tình trạng gian lận
thƣơng mại.
Bảy là, các doanh nghiệp mở rộng môi trường hoạt động, tiếp cận được
khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý và các nguồn lực bên ngoài.
Khi Việt Nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp sẽ không bị bó hẹp
trong các hiệp định song phƣơng và khu vực mà “sẽ có thị trƣờng toàn cầu,
có điều kiện tìm kiếm vốn, công nghệ và kỹ thuật hiện đại cho sản xuất, có
điều kiện học hỏi kinh nghiệm quản lý, tiếp cận hệ thống chính sách, pháp
luật thƣơng mại quốc tế để nâng cao năng lực cạnh tranh, trình độ chuyên
môn trong tiến trình đất nƣớc hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và quốc
tế”[49, tr.3].
Với sự cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt đối xử, tiêu thụ hàng hoá
của Việt Nam trên thị trƣờng thế giới sẽ mạnh mẽ hơn, dễ dàng hơn, thuận lợi
25
hơn. Đây chính là động lực để khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam mở
rộng và thâm nhập vào thị trƣờng thế giới.
Hệ thống chính sách của Việt Nam đƣợc làm rõ theo quy định của WTO
sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tƣ yên tâm đầu tƣ vào Việt Nam, tăng khả
năng thu hút vốn, công nghệ và học hỏi đƣợc các kinh nghiệm quản lý tiên
tiến. Một ví dụ ở Trung Quốc cho thấy, sau khi gia nhập WTO, đầu tƣ nƣớc
ngoài năm 2002 của Trung Quốc tăng vọt lên trên 50 tỷ USD.
Tám là, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, buộc các
doanh nghiệp phải vươn lên để tồn tại.
Theo nguyên tắc không phân biệt đối xử, Việt Nam đƣơng nhiên đƣợc
hƣởng các quyền lợi liên quan đến giảm thuế của các nƣớc thành viên khác.
Chi phí và nguyên liệu đầu vào thấp sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam
có khả năng cạnh tranh tốt hơn và chính sách thuế mới cũng sẽ giúp các nhà
kinh doanh cơ cấu lại sản phẩm một cách hợp lý và hiệu quả hơn.
Ngoài ra, những ngành sản xuất mà năng lực cạnh tranh hiện nay đang
kém sẽ gặp khó khăn và chịu nhiều thách thức. Nhƣng khi bị dồn đến chân
tƣờng, các doanh nghiệp sẽ phải tự vƣơn lên để tồn tại và phát triển.
Tóm lại, gia nhập WTO là cơ hội lớn và là sự lựa chọn đúng đắn với
Việt Nam. Gia nhập WTO sẽ mang lại nhiều lợi ích lớn cho đất nƣớc: Phát
triển mạnh mẽ thƣơng mại, tăng cƣờng thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, kích
thích tăng trƣởng kinh tế, đẩy nhanh cải cách kinh tế trong nƣớc.
1.2.2. Những thách thức
Thứ nhất, phải mở cửa thị trường trong nước, cạnh tranh sẽ khốc liệt
hơn ngay tại thị trường trong nước.
26
Để có thể gia nhập WTO, Việt Nam bắt buộc phải mở cửa nền kinh tế,
phải giảm thuế quan và dỡ bỏ các hàng rào phi thuế, không đƣợc bảo hộ cho
các doanh nghiệp trong nƣớc hay trợ cấp xuất khẩu... Mức độ mở cửa của nền
kinh tế phụ thuộc nhiều vào kết quả đàm phán đa phƣơng và song phƣơng đối
với các mặt hàng cụ thể. Vì vậy, hàng hoá nƣớc ngoài sẽ tràn vào thị trƣờng
Việt Nam tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt ở thị trƣờng nội địa.
Trong lĩnh vực dịch vụ, Việt Nam phải tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc
cơ bản của WTO nhƣ tối huệ quốc (MFN), đãi ngộ quốc gia (NT), cam kết
mở cửa thị trƣờng.. Tuy nhiên, hiện tại vẫn tồn tại những khó khăn nhất định
đối với Việt Nam trong việc mở cửa các lĩnh vực tài chính và viễn thông. Tài
chính là một ngành chịu sự kiểm soát lớn của chính phủ. Mặc dù trải qua hơn
15 năm cải cách, hệ thống ngân hàng ở Việt Nam đã tƣơng đối phát triển và
đƣợc hiện đại hoá đáng kể, tuy nhiên vẫn còn tồn tại hàng loạt vấn đề nhƣ:
việc cho vay mang tính chất bao cấp vẫn còn nặng nề, tình hình nợ khó đòi
khá nghiêm trọng, khả năng cạnh tranh thực sự của các ngân hàng Việt Nam
còn yếu kém... Trong khi đó, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam phải cam kết
mở cửa lĩnh vực tài chính, ngân hàng cho các doanh nghiệp nƣớc ngoài và
các doanh nghiệp này sẽ đƣợc hƣởng nguyên tắc đãi ngộ quốc gia, tức là họ
sẽ có những đặc quyền giống nhƣ các doanh nghiệp nội địa. Lúc đó các ngân
hàng Việt Nam sẽ phải tham gia cạnh tranh thực sự.
Thị trƣờng chứng khoán ở Việt Nam mới đƣợc hình thành trong những
năm gần đây, còn hết sức sơ khai. Luật và cơ chế hoạt động của thị trƣờng
chứng khoán ở Việt Nam còn rất nhiều thiếu sót và không rõ ràng. Trong khi
đó gia nhập WTO, Việt Nam sẽ phải cam kết mở cửa thị trƣờng trong lĩnh
vực này.
Ngành viễn thông của Việt Nam trong thời gian qua đã có sự phát triển
khá nhanh và năng động, tuy nhiên nó vẫn là ngành bị chính phủ kiểm soát
27
khá lớn. Đối với các công ty nƣớc ngoài mặc dù đã có sự mở cửa nhất định
nhƣng còn bị hạn chế cả về lĩnh vực, mức độ tham gia cổ phần cũng nhƣ lộ
trình thực hiện... Khi tham gia WTO, Việt Nam sẽ phải mở cửa thực sự khu
vực này, vì vậy vấn đề độc quyền của ngành viễn thông và khả năng cạnh
tranh thực sự của nó cần phải đƣợc tính đến.
Việt Nam là một nƣớc nông nghiệp, nhƣng vẫn tồn tại nhiều yếu kém nội
tại trong sự phát triển nông nghiệp. Khu vực nông nghiệp của Việt Nam còn
lạc hậu về cơ sở vật chất kỹ thuật lẫn cơ chế quản lý, chất lƣợng sản phẩm
nông nghiệp của Việt Nam chƣa cao (cả về tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh và an
toàn thực phẩm...). Tất cả những điều đó sẽ làm giảm đáng kể khả năng cạnh
tranh của nông phẩm Việt Nam ngay trên thị trƣờng trong nƣớc khi Việt Nam
gia nhập WTO bởi vì hàng hoá nông phẩm của Việt Nam phải đối mặt với
nông phẩm nhập khẩu có giá thành hạ từ nƣớc ngoài.
Thứ hai, sức ép cải cách các doanh nghiệp Việt Nam sẽ lớn, nhiều
doanh nghiệp bị phá sản hoặc chuyển đổi sản xuất kinh doanh.
Theo đánh giá năng lực cạnh tranh các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
còn thấp. Số các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ lớn (65% doanh
nghiệp có vốn dƣới 5 tỷ đồng, hầu hết chƣa xây dựng thƣơng hiệu cho sản
phẩm của mình…). Vì thế khi gặp phải sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp
nƣớc ngoài chắc chắn nhiều doanh nghiệp phải chuyển đổi sản xuất kinh
doanh hoặc thu hẹp sản xuất hoặc giải thể.
Gia nhập WTO, trong giai đoạn đầu, do độc quyền bị loại bỏ, bao cấp và
trợ cấp của nhà nƣớc bị cắt giảm, do đó hầu hết các doanh nghiệp, đặc biệt là
doanh nghiệp nhà nƣớc vẫn quan trông chờ vào sự bảo trợ của nhà nƣớc sẽ bị
ảnh hƣởng nặng nề.
28
Thứ ba, phải tiến hành bảo hộ trí tuệ cho các sản phẩm nước ngoài, sửa
đổi quy định về đầu tư, thương mại theo hướng có lợi cho các doanh nghiệp
nước ngoài..
Tại vòng đàm phán Urugoay, Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến
thƣơng mại của Quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) đã đƣợc ký kết. Đây là một vấn
đề quan trọng, thƣờng xuyên đƣợc đƣa ra bàn bạc trong WTO, đây cũng là
vấn đề bất đồng về lợi ích giữa các nƣớc phát triển và đang phát triển.
Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc thực
hiện các cam kết về quyền sở hữu trí tuệ. Ngoài những quy định về nhãn hiệu
thƣơng mại, Luật bản quyền tác giả và việc bảo vệ các thiết kế công nghiệp,
Việt Nam chƣa có các luật về các chƣơng trình âm thanh, hình ảnh, chƣơng
trình phần mềm máy tính... Các công ty cũng nhƣ ngƣời dân Việt Nam chƣa
có thói quen tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ... Trong khi đó các thành viên
WTO lại rất quan tâm đến vấn đề này và coi đó là nội dung quan trọng trong
các cuộc đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam.
Việt Nam cũng phải điều chỉnh, sửa đổi lại các quy định về đầu tƣ,
thƣơng mại theo hƣớng có lợi cho các doanh nghiệp nƣớc ngoài nhƣ phải mở
cửa thị trƣờng một số ngành dịch vụ quan trọng mà trƣớc đây doanh nghiệp
nƣớc ngoài không đƣợc phép tiếp cận; Đối xử công bằng với doanh nghiệp
nƣớc ngoài nhƣ doanh nghiệp trong nƣớc theo quy chế đãi ngộ quốc gia.
Thứ tư, phải cải cách kinh tế, hoàn thiện chính sách, pháp luật cho phù
hợp quy định của tổ chức WTO.
Sau gần 20 năm thực hiện chính sách mở cửa và đổi mới, 10 năm chuẩn
bị cho việc gia nhập WTO, Việt Nam đã đạt đƣợc những tiến bộ trong việc
chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên,
khi tham gia vào WTO, thách thức đối với việc thực hiện các cam kết về luật
29
pháp, thể chế và đặc biệt là mở cửa thị trƣờng trong lĩnh vực dịch vụ nhạy
cảm nhƣ tài chính, ngân hàng, bƣu chính viễn thông, điện lực... chắc chắn sẽ
rất lớn.
Với hệ thống chính sách thƣơng mại và các chính sách vĩ mô có liên
quan của Việt Nam còn nhiều bất cập và thiếu đồng bộ nhƣ hiện nay thì việc
điều chỉnh những chính sách thƣơng mại cũ và xây dựng các chính sách
thƣơng mại mới cho phù hợp các nguyên tắc của WTO, đồng thời hƣớng dẫn
thực hiện có hiệu quả các chính sách nêu trên là công việc cấp thiết, khó khăn
đồi hỏi một sự nỗ lực của cả Chính phủ lẫn doanh nghiệp. Nhiều quy định luật
pháp cần tiếp tục đƣợc rà soát và bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với quy định
của WTO.
Có thể nói, gia nhập WTO có thể là cuộc trắc nghiệm khó khăn nhất đối
với hệ thống luật pháp của Việt Nam. Việt Nam phải cam kết thực hiện những
tiêu chuẩn quốc tế về sự minh bạch, tính đồng bộ, tính công bằng và tính hợp
lý. Công bố công khai: các luật, quy định và các quyết định của toà án liên
quan đến thƣơng mại cần phải đƣợc công bố công khai để cho công chúng và
thế giới biết trƣớc khi chúng có hiệu lực. Mọi yêu cầu về thông tin, thắc mắc
và bình luận đều phải đƣợc giải đáp. Tính đồng bộ có nghĩa là các chính
quyền địa phƣơng không đƣợc đƣa ra những đạo luật riêng không thống nhất
với những quy định của WTO, tức là chính quyền địa phƣơng phải tuân thủ
các nguyên tắc của WTO. Tính công bằng yêu cầu không chấp nhận bất cứ sự
thiên vị nào trong việc thực hiện pháp luật. Để tuân thủ tính đồng bộ và tính
công bằng, các đạo luật cũng phải mang tính chất hợp lý, phù hợp. So với
những tiêu chuẩn quốc tế đó thì hệ thống luật pháp của Việt Nam còn nhiều
yếu kém. Ngoài ra, tuy Việt Nam đã có Luật thƣơng mại và Luật đầu tƣ nƣớc
ngoài, nhƣng chúng ta còn thiếu nhiều luật trong những lĩnh vực thƣơng mại
30
cụ thể. Điều đó sẽ gây khó khăn đáng kể cho Việt Nam khi làm việc với các
công ty nƣớc ngoài.
1.2.3. Sự cần thiết của việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO)
Việc gia nhập Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO) đƣa lại những thời
cơ mới thúc đẩy sự tăng trƣởng kinh tế đồng thời cũng tạo ra nhiều thách
thức, khó khăn cho Việt Nam, nhƣng Việt Nam vẫn kiên quyết xin gia nhập
WTO vì lý do sau:
Thứ nhất, xét trên tổng thể toàn bộ nền kinh tế chúng ta được lợi nhiều
hơn là mất.
Lợi ích lớn nhất của việc gia nhập WTO là thị trƣờng xuất khẩu hàng
hoá cho Việt Nam rộng mở. Hàng hoá Việt Nam xuất đi nƣớc ngoài sẽ đƣợc
cạnh tranh bình đẳng với các đối thủ khác, không còn vƣớng nhiều rào cản về
thuế, hạn ngạch... nhƣ hiện nay nữa.
Nhƣng, điều các doanh nghiệp lo ngại nhất là khi Việt Nam gia nhập
WTO phải xoá bỏ bảo hộ và họ sẽ phải chịu áp lực cạnh tranh mạnh hơn từ
bên ngoài. Tuy nhiên, theo phân tích của các chuyên gia kinh tế, chính áp lực
cạnh tranh lại là lợi ích mà Việt Nam sẽ đƣợc thụ hƣởng. Cạnh tranh sẽ sàng
lọc những doanh nghiệp kém hiệu quả, hiện đang là gánh nặng cho nền kinh
tế và buộc các doanh nghiệp khác phải tự hoàn thiện mình để vƣơn lên. Đồng
thời, nó còn tạo cơ hội cho doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng sử dụng hàng
hoá, dịch vụ với giá rẻ, qua đó kích thích nhu cầu tiêu thụ trong nƣớc, làm cho
kinh tế phát triển.
31
Một trong những điểm bất lợi với Việt Nam là việc cắt giảm thuế sẽ làm
giảm nguồn thu cho ngân sách từ thuế nhập khẩu. Thuế nhập khẩu có thể
giảm, nhƣng tổng thu ngân sách của Nhà nƣớc thì chƣa hẳn sẽ ít hơn. Thuế
nhập khẩu giảm, nhƣng bù lại, nhờ giá hàng hoá giảm nhu cầu tiêu thụ sẽ tăng
lên, sản xuất phát triển, nên Nhà nƣớc sẽ thu đƣợc nhiều thuế trong nƣớc hơn.
Do đó, phần giảm thu ngân sách thực tế sẽ ít đi. Đó là chƣa kể những lợi ích
về gia tăng việc làm cho xã hội.
Trong thực tế, dù nhiều ngành công nghiệp đang đƣợc bảo hộ bằng thuế,
nhƣng các doanh nghiệp vẫn phải chịu áp lực cạnh tranh rất mạnh từ hàng
nhập lậu và gian lận thƣơng mại. Những ngành đƣợc bảo hộ càng mạnh, nhƣ
mía đƣờng, kính xây dựng, xi măng... thì hàng lậu càng nhiều. Do đó, khi bãi
bỏ hàng rào bảo hộ để hội nhập, một số ngành chƣa hẳn đã phải chịu áp lực
cạnh tranh mạnh mẽ.
Cùng lúc đó, các nƣớc cũng phải bãi bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế
quan đối với hàng nhập từ Việt Nam, giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu đƣợc
nhiều hơn. Còn Nhà nƣớc thì thu lại đƣợc những khoản thuế mà bấy lâu nay
không thu đƣợc từ hàng lậu.
Đánh thuế nhập khẩu cao để bảo hộ cũng là một cách gián tiếp đánh thuế
vào xuất khẩu, làm cho năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam bị
giảm. Thuế nhập khẩu cao làm cho hàng hoá trong nƣớc đắt, buộc doanh
nghiệp phải tăng tiền lƣơng cho công nhân để bảo đảm mức sống tối thiểu cho
họ. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải tăng chi phí đầu tƣ ban đầu do phải
mua xi măng, thép, ô tô... với giá cao để xây nhà xƣởng và tạo tài sản cố định.
Thứ hai, Tổ chức WTO có những luật lệ đảm bảo sự công bằng hơn cho
hàng hoá Việt Nam trong tranh chấp thương mại quốc tế.
32
Trong thời gian qua, Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp định thƣơng mại
khu vực và song phƣơng, nhƣng hàng hoá Việt Nam vẫn bị đối xử không
công bằng. Vi dụ vụ Mỹ áp dụng biện pháp trừng phạt về vấn đề cá da trơn và
tôm của Việt Nam trên thị trƣờng Mỹ. Việt Nam đặc biệt lo ngại rằng nếu
không đƣợc luật lệ của WTO bảo vệ thì Mỹ và các quốc gia khác có thể lại
kiện Việt Nam về các mặt hàng xuất khẩu đang mang lại nhiều lợi ích cho
Việt Nam nhƣ giày dép và hàng dệt may.
Có thể nói, cơ chế đa phƣơng của WTO tạo cơ sở pháp lý, chính trị cho
các nƣớc thành viên để ứng dụng với các nƣớc có quan hệ song phƣơng.
WTO đƣa ra cơ chế xử lý tranh chấp đảm bảo sự công bằng cho hàng hoá của
các nƣớc nhỏ trƣớc sự bảo hộ của các nƣớc lớn. Điển hình nhƣ vụ kiện cá tra,
cá ba sa và gần đây là vụ kiện tôm giữa Việt Nam và Mỹ. Nếu đã là thành
viên WTO, Việt Nam có thể đƣa các vụ kiện trên ra trƣớc uỷ ban WTO, chứ
không phải là tại Bộ Thƣơng mại Mỹ - nơi khó có thể đạt đƣợc sự phân xử
công bằng nhƣ Việt Nam mong đợi. Nhƣ vậy, Việt Nam cần phải đạt mục
đích vào WTO để sử dụng cơ chế hoạt động của tổ chức này nhằm bảo vệ lợi
ích hàng hoá và của các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ ba, nếu không gia nhập WTO, thương mại Việt Nam sẽ gặp phải khó
khăn và có nguy cơ phải chấp nhận những sức ép ngày càng lớn.
Nếu không gia nhập WTO sớm, Việt Nam bõ lỡ cơ hội quan trọng để
đẩy nhanh quá trình mở cửa và thúc đẩy kinh tế, và do đó chúng ta sẽ phải đối
mặt với những khó khăn lớn hơn. Nguy cơ tụt hậu ngày càng xa là không
tránh khỏi do chênh lệch phát triển giữa Việt Nam và các nƣớc ngày càng
tăng thêm. Việc gia nhập WTO sẽ trở nên phức tạp hơn, các cuộc đàm phán
sẽ khó khăn hơn do các quy định và điều kiện gia nhập WTO ngày càng chặt
chẽ, yêu cầu ngày càng cao.
33
Khi vòng đàm phán Doha kết thúc, các nƣớc sẽ ký thêm một số thoả
thuận mở cửa thị trƣờng, khi đó các nghĩa vụ mà Việt Nam nghiễm nhiên phải
gách vác (không đƣợc đàm phán mà chỉ phải chấp nhận) sẽ lớn hơn rất nhiều.
Ngƣời ta hay gọi đó là “WTO +”. Thực tế thì Việt Nam đang đàm phán trên
cơ sở WTO +, nhƣng nghĩa vụ cũng sẽ nặng nền hơn rất nhiều. Nếu Việt
Nam không gia nhập WTO sớm, nguy cơ rõ nhất có thể thấy đƣợc đó là
thƣơng mại Việt Nam trên thị trƣờng thế giới sẽ chịu nhiều thua thiệt, nhất là
khi các nƣớc đã mở rộng cửa cho nhau còn Việt Nam thì chƣa đƣợc. Dệt may
là một ví dụ, kể từ năm sau, chế độ hạn ngạch đã đƣợc bãi bỏ cho các nƣớc
thành viên, còn Việt Nam vẫn bị áp dụng. Về thuế quan, các nƣớc thành viên
dành cho nhau mức thuế theo Quy chế Tối huệ quốc (khoảng 5%) trong khi
Việt Nam phải chịu cao hơn thế rất nhiều lần (tới 50%). Thị phần của Việt
Nam trên thị trƣờng quốc tế do đó sẽ nhỏ lại. Khả năng cạnh tranh và cơ hội
làm ăn của doanh nghiệp cũng ngày càng bị thu hẹp.
Khi vòng đàm phán Doha về thƣơng mại toàn cầu kết thúc, các quy
định về thƣơng mại sẽ chặt chẽ và hoàn chỉnh hơn, yêu cầu cao hơn, việc đáp
ứng những yêu cầu tự do hoá thƣơng mại của Việt Nam sẽ cao hơn. Khi
không là thành viên của WTO, hàng xuất khẩu của Việt Nam phải chịu mức
thuế 30-40%, cao hơn rất nhiều so với mức trung bình áp dụng cho các thành
viên WTO (các nƣớc thành viên phát triển trong WTO giảm thuế còn 3,8%,
các nƣớc đang phát triển là 12,3%). Việt Nam có tiềm năng rất lớn về xuất
khẩu hàng dệt may, nếu chƣa đƣợc gia nhập WTO, sẽ phải chịu hạn ngạch và
không phát huy hết khả năng xuất khẩu của mình.
Thứ tư, Việt Nam không gia nhập WTO sẽ làm giảm sút lòng tin của
cộng đồng quốc tế đối với môi trường kinh doanh của Việt Nam.
34
Việc Việt Nam không gia nhập WTO sớm đồng nghĩa việc Việt Nam
chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu cơ bản của hội nhập theo con mặt của cộng đồng
quốc tế. Nó chứng tỏ Việt Nam chƣa đủ năng lực và các điều kiện tham gia
sân chơi chung và trở thành lạc lõng trong xu thế toàn cầu hội nhập. Lòng tin
của cộng đồng quốc tế đối với môi trƣờng đầu tƣ kinh doanh của Việt Nam sẽ
bị giảm sút, kéo theo sự suy giảm về đầu tƣ nƣớc ngoài, các nguồn viện trợ,
giảm động lực phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam và kéo dài tình trạng
trì trệ, lạc hậu của đất nƣớc.
Tóm lại, xét trên tổng thể toàn bộ nền kinh tế thì gia nhập WTO là cơ hội
lớn và là sự lựa chọn đúng đắn đối với Việt Nam bởi vì nó mang lại nhiều lợi
ích lớn lao và suy cho cùng biết tận dụng cơ hội, vƣợt qua thách thức cũng
chính là vƣợt qua chính mình để vƣơn lên tồn tại và phát triển.
35
Chƣơng 2
TIẾN TRÌNH GIA NHẬP TỔ CHỨC THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI
(WTO) CỦA VIỆT NAM
2.1. Quá trình đàm phán gia nhập tổ chức WTO của Việt
Nam
Giai đoạn đàm phán gia nhập WTO có ý nghĩa quan trọng bởi nó không
chỉ quyết định việc Việt Nam đƣợc chấp nhận trở thành thành viên chính thức
của WTO vào một thời điểm thích hợp, giảm đƣợc “lệ phí gia nhập” mà quan
trọng hơn, nó còn quyết định khả năng Việt Nam sẽ “đƣợc nhiều hay mất
nhiều” khi là thành viên chính thức. Quá trình đàm phán gia nhập WTO của
Việt Nam gồm 2 lộ trình là đàm phán đa phƣơng và đàm phán song phƣơng
với các nƣớc có yêu cầu đàm phán.
2.1.1. Lộ trình đàm phán đa phương
Nộp đơn gia nhập từ tháng 1/1995, đến nay, Việt Nam đã trải qua 9
phiên đám phán đa phƣơng tại trụ sở WTO (Genevơ, Thuỵ Sỹ).
Tiến trình gia nhập của Việt Nam có thể chia thành 6 giai đoạn cụ thể
nhƣ sau:
Giai đoạn 1: Nộp đơn xin gia nhập.
Tháng 1/1995, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO.
Đến 31/1/1995, Ban Công tác về việc gia nhập của Việt Nam đƣợc thành lập
gồm 38 quốc gia và lãnh thổ thành viên là Argentina, Australia, Brazil,
Brunei, Bulgaria, Canada, Chile, Trung Quốc, Colombia, Croatia, Cuba, Cộng
hũa Dominica, Ai Cập, EU và cỏc nƣớc thành viên, Honduras, lónh thổ Hong
Kong thuộc Trung Quốc, Iceland, Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Cộng hũa
Triều Tiờn, Cộng hũa Kyrgyz, Malaysia, Morocco, Myanmar, New Zealand,
36
Na Uy, Panama, Paraguay, Philippines, Romania, Singapore, Thụy Sĩ, lónh
thổ Đài Bắc, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Mỹ và Uruguay do ông Seung Ho (Hàn
Quốc) làm chủ tịch.
Giai đoạn 2: Gửi “Bị vong lục về chế độ ngoại thƣơng Việt Nam” tới
Ban Công tác.
Tháng 8/1996, “Việt Nam hoàn thành “Bị Vong lục về Chế độ ngoại
thƣơng Việt Nam” và gửi tới Ban thƣ ký WTO để luân chuyển tới các thành
viên của Ban Công tác xem xét” [64, 16].
Bản Bị Vong lục không chỉ giới thiệu tổng quan về nền kinh tế, các
chính sách kinh tế vĩ mô, cơ sở hoạch định và thực thi chính sách, mà còn
cung cấp các thông tin chi tiết về các chính sách liên quan tới thƣơng mại
hàng hoá, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam .
Giai đoạn 3: Minh bạch hoá chính sách thƣơng mại.
Đây là giai đoạn hỏi trả lời, giải trình, minh bạch hoá chính sách kinh tế
thƣơng mại của Việt Nam.
Sau khi nghiên cứu về “Bị Vong lục về Chế độ ngoại thƣơng Việt Nam”
nhiều thành viên đặt ra câu hỏi yêu cầu trả lời để hiểu rõ chính sách, bộ máy
quản lý, thực thi chính sách của Việt Nam.
Ban Công tác tổ chức các phiên họp tại trụ sở WTO để đánh giá tình
hình chuẩn bị của Việt Nam và tạo điều kiện để Việt Nam trực tiếp giải thích
các chính sách. Về cơ bản, Việt Nam đã hoàn thành giai đoạn minh bạch, làm
rõ chính sách thƣơng mại.
Mặc dù vậy, trong WTO, việc làm rõ chính sách là quá trình liên tục.
Không chỉ có các nƣớc đang xin gia nhập phải tiến hành công việc này mà
37
ngay cả các thành viên chính thức cũng phải thƣờng xuyên cung cấp thông tin
giải thích chính sách của mình.
Trong giai đoạn này Việt Nam đã tiến hành các phiên đàm phán sau:
Phiên thứ 1 vào tháng 7 năm 1998;
Phiên thứ 2 vào tháng 12 năm 1998;
Phiên thứ 3 vào tháng 7 năm 1999;
Phiên thứ 4 vào tháng 11 năm 2000.
Các phiên họp này tập trung trả lời các câu hỏi của các thành viên Ban
Công tác về minh bạch hoá chính sách kinh tế thƣơng mại [17, tr.39].
Việt Nam đã trả lời nhiều câu hỏi nhằm làm rõ nội dung chính sách, bộ
máy quản lý và thực thi chính sách của Việt Nam đồng thời cung cấp nhiều
thông tin khác theo các biểu mẫu do WTO quy định về hỗ trợ, trợ cấp trong
công - nông nghiệp, các doanh nghiệp có đặc quyền, các biện pháp đầu tƣ
không phù hợp với quy định của WTO, thủ tục hải quan, hệ thống tiêu chuẩn
kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ...
Kết thúc phiên 4, Ban Công tác của WTO đã công nhận Việt Nam cơ
bản kết thúc quá trình minh bạch hoá chính sách và chuyển sang giai đoạn
đàm phán mở cửa thị trƣờng.
Nhƣ vậy, qua 4 phiên đầu tiên (từ tháng 7/1998 đến tháng 11/2000), Việt
Nam đã kết thúc cơ bản giai đoạn “minh bạch hoá chính sách thƣơng mại”,
với việc nhận và trả lời hơn 1.500 câu hỏi của các thành viên trong Nhóm
công tác và đƣợc đánh dấu bằng bản “Đánh giá tóm lƣợc” do Ban thƣ ký
WTO tổng hợp lại tháng 9/2001.
Giai đoạn 4: Đƣa ra các bản chào và đàm phán về mở cửa thị trƣờng
38
Gia nhập WTO có nghĩa là Việt Nam đƣợc quyền tiếp cận thị trƣờng của
tất cả các thành viên khác trên cơ sở các nguyên tắc của WTO. Để đƣợc
hƣởng thuận lợi này, Việt Nam cũng phải cam kết chấp nhận các nguyên tắc
đa biên, đồng thời giảm mức bảo hộ của mình bằng việc đƣa ra cam kết về
mức thuế suất thuế nhập khẩu tối đa áp dụng đối với hàng hoá bên ngoài và
có lộ trình loại bỏ các hàng rào phi thuế, đặc biệt là các biện pháp hạn chế
định lƣợng nhƣ cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu hay cấp phép hạn chế
nhập khẩu một cách tuỳ tiện.
Mặt khác, Việt Nam cũng phải mở cửa cho các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài
đƣợc tham gia kinh doanh trong nhiều lĩnh vực dịch vụ với những điều kiện
thông thoáng hơn. Những lĩnh vực dịch vụ Việt Nam phải mở cửa là: dịch vụ
tài chính, dịch vụ ngân hàng, dịch vụ xây dựng, dịch vụ vận tải...
Mức độ mở cửa của thị trƣờng đƣợc xác định thông qua đàm phán song
phƣơng với tất cả các thành viên quan tâm tới thị trƣờng của Việt Nam.
Trƣớc hết Việt Nam đƣa ra những bản chào ban đầu về mở cửa thị
trƣờng hàng hoá và dịch vụ để thăm dò phản ứng của các thành viên khác.
Trên cơ sở đó, các thành viên yêu cầu Việt Nam phải giảm bớt mức độ bảo hộ
ở một số lĩnh vực. Việt Nam sẽ xem xét yêu cầu của họ và nếu chấp nhận
đƣợc thì có thể đáp ứng hoặc đƣa ra mức bảo hộ thấp hơn một chút. Quá trình
đàm phán nhƣ vậy tiếp diễn cho tới khi mọi thành viên đều chấp nhận với
mức độ mở cửa của thị trƣờng hàng hoá và dịch vụ của ta.
Giai đoạn này Việt Nam đã thực hiện đƣợc các phiên sau:
Phiên thứ 5 vào tháng 4/2002.
Phiên thứ 6 và tháng 5/2003.
Phiên thứ 7 tháng 12/2003.
Phiên thứ 8 tháng 6/2004.
39
Phiên thứ 9 tháng 12/2004.
Đầu năm 2002, Việt Nam đã gửi Bản chào ban đầu về thuế quan và Bản
chào ban đầu về dịch vụ tới WTO. “Bản chào ban đầu về hàng hoá đƣa ra cam
kết 96% số dòng thuế của biểu thuế nhập khẩu với mức thuế suất trung bình
27,8% (thuế suất hàng nông nghiệp là 32%, phi nông nghiệp là 27,1%). Bản
chào về dịch vụ gồm 9 ngành và 78 phân ngành”[64, tr.17].
Bắt đầu từ phiên họp 5 của Ban Công tác, Việt Nam đã tiến hành đàm
phán song phƣơng với một số thành viên của Ban Công tác. Việc đàm phán
đƣợc tiến hành với từng nƣớc thành viên yêu cầu đàm phán, về toàn bộ và
từng nội dung nói trên cho tới khi kết quả đàm phán thoả mãn mọi thành viên
WTO.
- Nội dung đàm phán tại các phiên đàm phán đa phương thứ 5, thứ 6,
thứ 7:
Trong các phiên 5, 6, 7, Cơ quan đàm phán đã cung cấp cho Ban Thƣ ký
chƣơng trình xây dựng pháp luật để thực hiện các hiệp định của WTO, bản
hiện trạng chính sách thƣơng mại (FS), chƣơng trình hành động thực hiện
việc kiểm dịch (SPS), chƣơng trình hành động thực hiện hiệp định hải quan
(CVA), chƣơng trình hành động thực hiện hiệp định các rào cản kỹ thuật đối
với thƣơng mại (TBT), thủ tục cấp phép nhập khẩu (ILP), chính sách và trợ
cấp nông nghiệp (ACC4), Chƣơng trình hành động thực hiện Hiệp định về các
hàng rào kỹ thuật trong thƣơng mại (TBT), trợ cấp công nghiệp, hoạt động
của các doanh nghiệp nhà nƣớc, biểu thuế hiện hành và các văn bản pháp luật
liên quan đến các quy chế của WTO.
Trƣớc phiên thứ 6, Việt Nam đã cung cấp bản chào sửa đổi lần thứ 2
tiếp tục giảm thuế và mở cửa thị trƣờng dịch vụ với mức thuế nhập khẩu trung
bình là 26,5%.
40
Tại phiên 6, các bên đàm phán ủng hộ quan điểm Việt Nam là nƣớc đang
phát triển ở trình độ thấp, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi. Một số
thành viên đồng ý lấy mức cam kết trong bản chào của Việt Nam về dịch vụ
là cơ sở cho đàm phán song phƣơng, riêng bản chào về hàng hoá, một số
thành viên đã yêu cầu cần sửa đổi.
Cũng tại phiên 6, Việt Nam đã tổ chức phiên đàm phán đa phƣơng chính
thức đầu tiên về lĩnh vực nông nghiệp, với sự tham gia của 10 nƣớc. Việt
Nam đã làm rõ các chính sách về nông nghiệp trong Bản thông báo hỗ trợ
trong nƣớc đối với nông nghiệp và trợ cấp xuất khẩu nông sản ACC4.
Tại phiên thứ 7, Việt Nam đã đƣa ra bản chào lần thứ 3 giảm mức thuế
nhập khẩu trung bình thêm 4,5% xuống còn 22%. Về dịch vụ, chúng ta chào
10 ngành và 90 phân ngành. Các nƣớc đã nhất trí đi vào thảo luận dự thảo báo
cáo của Việt Nam, đây là tài liệu quan trọng để chuẩn bị cho báo cáo kết nạp.
Các thành viên WTO cũng tập trung góp ý cho bản “các yếu tố của dự thảo
báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO” (EDR) và đều
cho rằng việc chuyển sang thảo luận bản EDR là một bƣớc tiến quan trọng
trong tiến trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam.
- Nội dung Phiên đàm phán thứ 8 (tháng 6/2004):
Chủ đề chính của phiên 8 vẫn tiếp tục tập trung vào các vấn đề mở cửa
thị trƣờng hàng hoá và dịch vụ.
Trong các tài liệu gửi Ban thƣ ký WTO để chuẩn bị cho phiên 8, Việt
Nam cam kết thực hiện tất cả các nghĩa vụ quy định trong tất cả các hiệp định
của WTO. Đầu tiên là nghĩa vụ MFN (nguyên tắc tối huệ quốc, không phân
biệt đối xử), theo đó, Việt Nam xác nhận sẽ tuân thủ nguyên tắc MFN sau khi
gia nhập đối với cả thƣơng mại hàng hoá và thƣơng mại dịch vụ. Cam kết
41
thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa trong nƣớc và ngoài nƣớc
trừ một vài nghĩa vụ trong Hiệp định về kiểm dịch động thực vật (SPS).
Phiên thứ 8 cũng tập trung vào nội dung bản chào hàng hoá và dịch vụ
lần thứ 4 mà Việt Nam đã gửi tới Genevơ từ tháng 2/2004 (nhƣ mở cửa lĩnh
vực ngân hàng, viễn thông và lộ trình cắt giảm thuế quan...). Bản chào này
bao gồm các cam kết về cắt giảm thuế quan xuống mức bình quân 18% (thấp
hơn 4% so với bản chào lần trƣớc) và đƣa ra lộ trình mở cửa dịch vụ của 10
lĩnh vực và gần 100 mặt hàng. Các cam kết trong bản chào này đƣợc xem là
tƣơng đƣơng, thậm chí cao hơn cam kết của một số quốc gia thành viên cũng
nhƣ một số nƣớc mới gia nhập.
Trong lĩnh vực thuế quan, Việt Nam đã đƣa ra cam kết ràng buộc gần
nhƣ toàn bộ biểu thuế, chỉ trừ một số dòng thuế xăng dầu. Ngoài ra, Việt
Nam cũng cam kết chuyển phụ thu (ODC) đối với hàng nhập khẩu vào thuế
nhập khẩu.
Về các biện pháp phi thuế quan, các cam kết đƣa ra là bãi bỏ toàn bộ
giấy phép mang tính hạn chế nhập khẩu và các biện pháp hạn chế định lƣợng
khác đối với hàng nhập khẩu từ thời điểm gia nhập WTO. Riêng với thuốc lá,
sẽ bãi bỏ lệnh cấm nhập khẩu ngay tại thời điểm gia nhập
Số nhóm mặt hàng áp dụng hạn ngạch thuế quan cũng đƣợc giảm xuống
6 so với 13 nhóm trong bản chào trƣớc.
Về lĩnh vực dịch vụ, Việt Nam đã có bƣớc tiến đáng kể trong cam kết
dịch vụ bao gồm khoảng 90 phân ngành của mình. Cam kết của Việt Nam đã
bằng, thậm chí cao hơn cam kết của một số nƣớc mới gia nhập WTO. Những
tiến bộ lớn đƣợc thể hiện trong nhiều ngành dịch vụ quan trọng nhƣ dịch vụ
kinh doanh, dịch vụ viễn thông, dịch vụ tài chính v.v Tại nhiều phân ngành
42
dịch vụ, kể cả một số phân ngành có ý nghĩa thƣơng mại quan trọng, cam kết
của Việt Nam đã ở mức tự do hoàn toàn. Việt Nam cũng đã loại bỏ miễn trừ
tối huệ quốc (MFN) đối với dịch vụ tài chính và cam kết mở cửa thị trƣờng
bình đẳng cho các thành viên WTO ngay khi gia nhập.
Về chương trình hành động lập pháp, Việt Nam đã đƣa ra danh mục sửa
đổi bổ sung và sẽ ban hành mới 36 văn bản, bao gồm luật và pháp lệnh có liên
quan đến quá tình gia nhập WTO nhƣ: Luật thƣơng mại, Luật cạnh tranh,
Luật Đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam, Pháp lệnh chống bán phá giá...Các
thành viên WTO cũng yêu cẩu Việt Nam tiếp tục tăng cƣờng lộ trình xây
dựng luật để đến cuối năm 2005 phải thông qua các văn bản luật và pháp lệnh
có liên quan đến nghĩa vụ thành viên WTO.
Các cam kết khác liên quan tới việc định giá hải quan, rào cản kỹ thuật
đối với thƣơng mại, kiểm dịch động thực vật, các biện pháp đầu tƣ liên quan
tới thƣơng mại, sở hữu trí tuệ, Việt Nam sẽ thực hiện ngay khi gia nhập mà
không yêu cầu một giai đoạn chuyển tiếp nào. Về trợ cấp xuất khẩu nông sản,
Việt Nam cam kết loại bỏ trợ cấp với cà phê ngay sau khi gia nhập, còn với
các sản phẩm khác (nhƣ gạo, thịt lợn, rau quả) sẽ loại bỏ trong vòng 3 năm kể
từ khi gia nhập.
Việt Nam sẽ đƣa ra lộ trình cho phép dành quyền kinh doanh cho các
doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài. Ngay sau khi gia nhập, sẽ cho phép
các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài trong lĩnh vực sản xuất và chế tạo
và các doanh nghiệp liên doanh trong đó vốn nƣớc ngoài chiếm không quá
49% đƣợc tham gia xuất khẩu - nhập khẩu. Chậm nhất vào 1/1/2008, quyền
này cũng sẽ trao cho các liên doanh trong đó vốn nƣớc ngoài chiếm không
quá 51%. Đối với các doanh nghiệp 100% vốn nƣớc ngoài, thời điểm này sẽ
là 1/1/2009.
43
Các thành viên WTO cũng tập trung góp ý cho bản “các yếu tố của dự
thảo báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO” (Elements
of the Draff Working Party Report - EDR) và ủng hộ phiên sắp tới có thể
chuyển từ thảo luận bản EDR sang thảo luận bản dự thảo báo cáo của Ban
công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO nhằm đẩy nhanh tiến trình đàm
phán gia nhập WTO của Việt Nam.
Ngoài phiên đa phƣơng, đoàn Việt Nam cũng đã tiến hành khoảng 20
phiên đàm phán song phƣơng với 17 thành viên trong thời gian từ ngày 9/6
đến 18/6/2004 bao gồm: EU, Mỹ, Canada, Hàn Quốc, Nhật Bản, Paraguay
....Các thành viên đã tiến hành đàm phán mở cửa thị trƣờng với Việt Nam,
trong đó tập trung vào lĩnh vực hàng hoá, dịch vụ. Việt Nam đã tiến hành thủ
tục ký tắt bản “Thoả thuận kết thúc đàm phán song phƣơng” với Cu Ba và gần
kết thúc đàm phán song phƣơng với một số nƣớc khác.
Cũng trong phiên đa phƣơng thứ 8 này, 19 thành viên WTO đã tham gia
phát biểu và đều khẳng định ủng hộ Việt Nam sớm gia nhập WTO, ghi nhận
những chuyển biến tích cực trong xây dựng và cải cách chính sách kinh tế.
Các nƣớc cũng đánh giá cao về khối lƣợng và chất lƣợng công việc mà Việt
Nam đã thực hiện để hoàn thành bộ tài liệu chuyển cho Ban thƣ ký WTO
nhằm phục vụ cho phiên 8. Đáng chú ý là các đối tác đều ủng hộ quan điểm
Việt Nam là nƣớc đang phát triển ở trình độ thấp, nền kinh tế đang trong quá
trình chuyển đổi, nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, vì
vậy cam kết dành cho Việt Nam một số ƣu đãi phù hợp với quy định của
WTO.
Kết thúc phiên đa phƣơng, Chủ tịch Ban công tác về Việt Nam gia nhập
WTO đánh giá: “Phiên đàm phán thứ 8 đã tiến gần hơn rất nhiều tới mục tiêu
44
gia nhập WTO của Việt Nam và từ phiên thứ 9 bắt đầu chuyển sang thảo luận
nội dung của bản dự thảo báo cáo về các cam kết đa phƣơng”[38, tr.6].
- Nội dung phiên đàm phán thứ 9 (tháng 12 năm 2004):
Nét mới tại phiên thứ 9 này là Việt Nam cùng các nƣớc sẽ đàm phán trực
tiếp vào nội dung bản dự thảo báo cáo về các cam kết đa phƣơng của Ban
công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO.
Phiên làm việc này gồm 3 phần. Phần đầu, các nƣớc thành viên cùng
Việt Nam rà soát dự thảo báo cáo của Ban Công tác về vấn đề Việt Nam gia
nhập Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO) và các tài liệu khác. Phần thứ hai
là hỏi đáp, chủ yếu xoay quanh vấn đề minh bạch hoá chính sách của Việt
Nam, ngoài ra Việt Nam trình bày những bƣớc tiến mới trong việc sửa đổi và
minh bạch hoá chính sách. Phần thứ ba bàn bạc về hoạt động lập pháp.
Phiên thứ 9 tập trung vào các chủ đề chính sau:
+ Chính sách thu hút đầu tư: Một số thành viên Ban Công tác chỉ ra
rằng Việt Nam vẫn còn phân biệt đối xử giữa nhà đầu tƣ trong nƣớc với ngoài
ƣớc. Họ chất vấn liệu đến bao giờ sự phân biệt đó mới đƣợc dỡ bỏ. Một số
thành viên khác lại cho rằng một số lĩnh vực vẫn bị cấm đầu tƣ và họ muốn
xin danh mục các lĩnh vực đó.
Đại diện đoàn đàm phán Việt Nam cho biết dự thảo văn bản luật pháp
mới về việc xoá bỏ phân biệt đối xử sẽ đƣợc trình lên Quốc hội nƣớc mình
thông qua vào cuối năm 2005. Đề cập đến chuyện một số lĩnh vực vẫn bị cấm
đầu tƣ, Việt Nam cho biết chính sách đó đƣợc áp dụng chung với cả nhà đầu
tƣ trong nƣớc và ngoài nƣớc, tức là bất cứ nhà đầu tƣ nào cũng không đƣợc
tham gia vào các lĩnh vực nhƣ an ninh quốc gia, đảm bảo ổn định nơi công
cộng và bảo vệ môi trƣờng. Việt Nam hứa sẽ sớm đƣa ra một danh mục các
lĩnh vực cấm nhƣ vậy.
45
+ Trợ cấp: Một thành viên Ban Công tác đề cập tới đề nghị của Việt
Nam về việc xin hƣởng giai đoạn quá độ khi thực thi Hiệp định về các biện
pháp Trợ cấp và Trợ giá trong WTO. Theo thành viên này, Việt Nam không
thể nghiễm nhiên đƣợc hƣởng giai đoạn quá độ mà khuyến cáo chỉ nên sử
dụng các biện pháp trợ cấp hợp pháp trong WTO. Các thành viên khác thì
cho rằng họ muốn Việt Nam thực hiện nay bản hiệp định này khi trở thành
thành viên WTO. Tuy nhiên, một quốc gia đang phát triển lại đề nghị nên trao
cho Việt Nam một cơ chế đối xử riêng khi thực hiện các quy định về trợ cấp
của WTO.
+ Thương quyền: Một thành viên chỉ ra rằng Việt Nam vẫn còn phân
biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong nƣớc và doanh nghiệp nƣớc ngoài liên
quan tới thƣơng quyền của họ. Một số thành viên khác cho rằng quy định này
vi phạm Điều 3 (Đối xử quốc gia) và Điều 11 (Hạn chế số lƣợng) của GATT.
Họ cũng nhấn mạnh yêu cầu Việt Nam thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình
trong lĩnh vực này, ngay khi gia nhập.
+ Doanh nghiệp nhà nước: Một số thành viên Ban Công tác muốn đƣợc
cung cấp thêm thông tin về khối doanh nghiệp nhà nƣớc của Việt Nam, kể cả
thông tin về sản phẩm, hoạt động và vai trò của khối này trong thƣơng mại
quốc tế. Việt Nam tuyên bố kể từ phiên 8 đến nay đã mạnh tay cải tổ và sắp
xếp lại một loạt các doanh nghiệp nhà nƣớc, đồng thời cho biết, các doanh
nghiệp nhà nƣớc hiện nay có vai trò rất lớn trong quốc phòng và bảo vệ an
ninh quốc gia cũng nhƣ xoá đói giảm nghèo.
+ Cải cách luật pháp: Các nƣớc thành viên Ban công tác tập trung hỏi
về vấn đề luật pháp và khả năng thực thi các cam kết gia nhập. Sau khi nghe
Việt Nam trình bày về lộ trình ban hành các văn bản pháp luật liên quan tới
WTO, các nƣớc đều ủng hộ và họ hy vọng Việt Nam thực thi lộ trình đó thật
tốt.
46
Tại phiên họp lần thứ 9 này, Việt Nam cam kết mức thuế quan đối với
hàng công nghiệp là 18, 5%.
Đối với vấn đề thực thi các hiệp định của WTO, Việt Nam sẽ cố gắng
xoá bỏ trợ cấp với các mặt hàng nông sản ngay khi gia nhập, song cũng đề
nghị có một số nhân nhƣợng và có giai đoạn quá độ đối với một số lĩnh vực.
Tóm lại, đa số các nƣớc thành viên Ban Công tác đều yêu cầu Việt Nam
thực thi ngay mọi cam kết và hiệp định của WTO khi gia nhập. Chẳng hạn về
các biện pháp bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm (Hiệp định SPS - Sanitary
and phytosanitary Agreement), trƣớc đó Việt Nam đề nghị có giai đoạn quá
độ để thực hiện, song họ yêu cầu Việt Nam thực thi ngay khi gia nhập. Với
Hiệp định về Trị giá Hải quan (CPA), họ cũng yêu cầu nhƣ vậy. Việt Nam đã
chấp thuận với điều kiện đƣợc trợ giúp về mặt kỹ thuật khi thực thi. Ngoài ra,
còn một số lĩnh vực khác các nƣớc yêu cầu Việt Nam phải mở cửa sớm ngay
khi gia nhập nhƣ giao thông vận tải, kế toán, kiểm toán.
Cũng tại buổi họp với Ban Công tác lần này, Việt Nam công bố đã kết
thúc đàm phán song phƣơng với 6 nƣớc (gồm Argentina, Brazil, Chile, Cuba,
EU và Singapore) và gần hoàn tất đàm phán với 7 đối tác song phƣơng khác.
Kết thúc phiên 9, phía Việt Nam đã cam kết hoàn toàn bỏ trợ cấp xuất
khẩu, bỏ cấm nhập khẩu thuốc lá, bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản dƣới các
hình thức. Chấp nhận những điều kiện của phiên 9 đã làm thay đổi môi trƣờng
kinh doanh ghê gớm, chƣa kể đến những cam kết sau này.
Hiện nay, để có thể gia nhập vào WTO, Việt Nam phải kết thúc đàm
phán đa phƣơng và song phƣơng, sau đó phải trải qua 2 giai đoạn nữa là:
Giai đoạn 5: Hoàn thành Nghị định thƣ gia nhập (chƣa tiến hành).
Một Nghị định thƣ nêu rõ các nghĩa vụ của Việt Nam khi trở thành thành
viên WTO sẽ đƣợc hoàn tất dựa trên các thoả thuận đã đạt đƣợc sau các cuộc
47
đàm phán song phƣơng, đàm phán đa phƣơng và tổng hợp các cam kết song
phƣơng.
Giai đoạn 6: Phê chuẩn Nghị định thƣ.
30 ngày sau khi Chủ tịch nƣớc hoặc Quốc hội phê chuẩn Nghị định thƣ,
Việt Nam sẽ chính thức trở thành thành viên WTO.
2.1.2. Lộ trình đàm phán song phương
Đàm phán song phƣơng là một trong những công đoạn buộc phải có đối
với việc đàm phán trở thành thành viên mới của WTO. Nguyên tắc của tổ
chức này là sự đồng thuận của tất cả các nƣớc đối với bất kỳ vấn đề nào, nên
đàm phán song phƣơng là rất cần thiết. Qua đó, mà nƣớc đang nộp đơn xin
gia nhập WTO nhƣ Việt Nam sẽ giải quyết tất cả các bất đồng với các thành
viên của tổ chức này.
Đối với Việt Nam, chúng ta phải tiến hành đàm phán song phƣơng về
mở cửa thị trƣờng hàng hoá và dịch vụ với nhiều nƣớc. Hiện nay, Việt Nam
đã kết thúc đàm phán song phƣơng với 6 trong số gần 30 nƣớc có yêu cầu
(Argentina, Brazil, Chilê, Cuba, Singapore và Liên minh châu Âu). Việt Nam
cũng đang tiến hành đàm phám với 10 đối tác là Côlômbia, Mỹ, Niudilan,
Aixơlen, Thuỵ Sỹ, Canada, Hàn Quốc, Australia, Nauy, Paragoay.
Việc có nhiều nƣớc thành viên yêu cầu đàm phán mở cửa thị trƣờng với
Việt Nam thể hiện sự quan tâm của họ tới thị trƣờng nƣớc ta. Thu nhập đầu
ngƣời của Việt Nam còn thấp, nhƣng chúng ta có thị trƣờng đông dân (82
triệu ngƣời) và tốc độ tăng GDP luôn trên 7% trong những năm gần đây, họ
thấy cơ hội làm ăn với Việt Nam rất lớn nên mới đƣa ra yêu cầu đàm phán.
Đầu năm 2002, Việt Nam đã gửi Bản chào ban đầu về thuế quan và Bản
chào ban đầu về dịch vụ tới WTO. Bắt đầu từ phiên thứ 5 của Ban công tác
48
(4/2002) Việt Nam đã tiến hành đàm phán song phƣơng với một số thành viên
của Ban Công tác.
Vì hiện nay Việt Nam mới kết thúc đàm phán song phƣơng với 6 nƣớc,
những nƣớc còn lại đang trong quá trình đàm phán. Nên trong phần này luận
văn chỉ tập trung vào một số đối tác chính trong quá trình đàm phán song
phƣơng của Việt Nam là EU, Mỹ, Hoa Kỳ, Nhật Bản:
- Đàm phán Việt Nam - EU (đã kết thúc):
Việt Nam và EU đã đạt đƣợc thoả thuận song phƣơng về việc Việt Nam
gia nhập WTO. Các vấn đề mà hai bên tập trung vào đàm phán là nông
nghiệp, thuế quan và dịch vụ. Mức thuế trung bình mà Việt Nam sẽ áp dụng
vào khoảng 16% đối với hàng hoá công nghiệp, 22% đối với thuỷ sản và 24%
đối với sản phẩm nông nghiệp.
Trong 10 ngành dịch vụ, Việt Nam có nhiều cam kết trên các lĩnh vực
gồm vận tải, tài chính, xây dựng phân phối, môi trƣờng... EU đã chấp nhận
quan điểm chặt chẽ của Việt Nam đối với ngành du lịch và viễn thống. Theo
đó, phía nƣớc ngoài trong các liên doanh của ngành công nghiệp không khói
chỉ đƣợc sở hữu dƣới 30% và ngành viễn thông không đƣợc thành lập công ty
100% vốn nƣớc ngoài. Đáng chú ý là phái EU đã chấp nhận Việt Nam là
nƣớc có nền kinh tế phát triển thấp đang trong quá trình chuyển đổi. Riêng về
nông nghiệp, EU cũng đồng ý cho Việt Nam kéo dài việc trợ cập trong 3 năm
đầu tiên sau khi gia nhập WTO, đặc biệt với những mặt hàng gạo, cà phê.
- Đàm phán Việt Nam - Hoa Kỳ (chưa kết thúc):
Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký kết với nhau Hiệp định thƣơng mại song
phƣơng (BTA), nhìn chung, sau 4 năm thực hiện hiệp định này, quan hệ kinh
tế Việt - Mỹ đã có bƣớc phát triển tích cực. “trên thực tế, xuất khẩu của Việt
49
Nam sang Mỹ đã tăng lên 4,2 tỷ USD trong vòng 4 năm. Hiện Mỹ là thị
trƣờng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, vƣợt Nhật Bản năm 2002 và bằng
kim ngạch xuất khẩu 25 nƣớc EU cộng lại”[32, tr.8].
Tuy nhiên, mục tiêu của Mỹ là muốn thông qua WTO để rút ngắn thời
gian mở cửa thị trƣờng Việt Nam hơn nữa cho các doanh nghiệp Mỹ, bởi vì
các doanh nghiệp Mỹ vẫn chƣa hài lòng với những cam kết mở cửa thị trƣờng
thông qua Hiệp đinh thƣơng mại song phƣơng Việt - Mỹ (BTA).
Phiên đàm phán song phƣơng giữa Việt Nam và Mỹ về việc gia nhập
WTO vào cuối tháng 10/2004 vừa qua đƣợc đánh giá là có nhiều bƣớc biến
chuyển, nhƣng khoảng cách giữa hai bên vẫn còn xa. Trọng tâm của phiên
đàm phán là các điều kiẹn mở cửa thị trƣờng hàng hoá và dịch vụ, trong đó
lĩnh vực dịch vụ là “điểm nóng” của các cuộc đàm phán song phƣơng Việt
Mỹ.
Trên thực tế, những yêu cầu mà phía Mỹ đƣa ra phần lớn đều đƣợc thể
hiện rõ nét qua các ý kiến của doanh nghiệp Mỹ đang làm ăn tại Việt Nam.
Các ý kiến này đƣợc Hiệp hội Doanh nghiệp Mỹ tại Việt Nam (AmCham) và
Hội đồng Doanh nghiệp Mỹ thu thập để đệ trình lên Cơ quan đại diện thƣơng
mại Mỹ.
Đầu tiên, họ muốn rút ngắn thời gian tham gia thị trƣờng dƣợc phẩm của
Việt Nam vì theo BTA phải đến tháng 12/2010 các công ty dƣợc phẩm Mỹ
mới đƣợc quyền kinh doanh nhập khẩu. Yêu cầu tƣơng tự cũng đƣợc đặt ra
đối với thị trƣờng phân bón, thuốc trừ sâu (theo BTA, thời hạn là tháng
12/2009); khí đốt từ dầu mỏ, xăng dầu (thời hạn lần lƣợt là tháng 12/2010 và
12/2011).
50
Ngoài ra, các doanh nghiệp Mỹ cũng muốn Chính phủ Mỹ đàm phán
thêm về quyền kinh doanh phân phối cho các sản phẩm nêu trên, vốn chƣa có
trong BTA.
Những công ty phát chuyển nhanh của Mỹ cũng đề nghị đƣợc lập các
công ty con 100% vốn nƣớc ngoài để cung cấp dịch vụ bƣu kiện, bƣu phẩm
và hàng hoá tại Việt Nam. Họ lập luận rằng dịch vụ phát chuyển nhanh là một
hình thức hỗ trợ cơ bản cho hạ tầng kinh doanh tại các quốc gia khác và Việt
Nam là thị trƣờng có độ rủi ro và chi phí cao cho các doanh nghiệp trong việc
gửi hàng mẫu, các tài liệu về tài chính, kỹ thuật... Hiện nay, lĩnh vực này vẫn
chƣa đƣợc thảo luận trong các cuộc đàm phán song phƣơng WTO giữa Việt
Nam và Mỹ.
Đối với thời hạn mở cửa thị trƣờng phân phối, theo cam kết của BTA,
vào cuối năm 2004 các công ty Mỹ đƣợc phép sở hữu 49% trong liên doanh
với các công ty Việt Nam để thực hiện các dịch vụ phân phối gồm cả bán
buôn, bán lẻ, dịch vụ đại lý và mƣợn danh. Đến tháng 12/2008, họ sẽ đƣợc
phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nƣớc ngoài để kinh doanh. Thế
nhƣng, các công ty Mỹ trong lĩnh vực này đang muốn tiếp cận thị trƣờng Việt
Nam sớm hơn nữa và đề xuất này đã có mặt trong bản thu thập ý kiến để gửi
cho Cơ quan Đại diện thƣơng mại Mỹ.
Phía Mỹ cũng yêu cầu Việt Nam cần có khung pháp luật và môi trƣờng
bình đẳng hơn trong lĩnh vực tài chính. Những quy định hiện thời mang tính
phân biệt đối xử cần đƣợc đƣa ra trong đàm phán WTO gồm: việc chƣa cho
phép thành lập công ty tài chính 100% vốn nƣớc ngoài, giấy phép cấp cho
ngân hàng nƣớc ngoài chỉ có giá trị 20 - 30 năm, chƣa cho phép mở chi nhánh
đầy đủ chức năng ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh nên hoạt động bị kém
hiệu quả, việc nhận tiền gửi bằng tiền đồng vẫn bị giới hạn cho đến sau ngày
10/12/2008, vấn đề thuế đối với doanh thu nhận đƣợc từ các dịch vụ hoán đổi
51
lãi suất và các giao dịch phái sinh khác chƣa đƣợc làm rõ. Theo BTA, chỉ có
các tổ chức tài chính có vốn đầu tƣ của Mỹ đƣợc cấp thẻ tín dụng trên cơ sở
quy chế đối xử quốc gia sau ngày 10/12/2008, ngân hàng nƣớc ngoài không
đƣợc mở các điểm giao dịch khác, trong khi đó ngân hàng trong nƣớc đƣợc
phép mở chi nhánh ở bất cứ nơi nào họ muốn, mức tín dụng hiện đƣợc quy
định cho một khách hàng là không quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng,
nhƣng ngân hàng thƣơng mại nhà nƣớc đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ cho phép
vƣợt hạn mức này trong một số trƣờng hợp, các sản phầm, dịch vụ ngân hàng
chƣa đƣợc Ngân hàng Nhà nƣớc quy định thì xem nhƣ bị cấm.
Vẫn biết rằng sẽ khó đƣợc Mỹ chấp nhận thoả thuận nhƣ mặt bằng của
Hiệp định Thƣơng mại Việt - Mỹ, nhƣng trong quá trình đàm phán, Việt Nam
phải kết hợp vừa đấu tranh, vừa thuyết phục để đạt đƣợc thoả thuận ở mức mà
nền kinh tế Việt Nam chấp nhận đƣợc. Doanh nghiệp Mỹ rất mạnh về dịch vụ
và hàng nông sản. Đó chính là những mặt hàng có lợi thế của Việt Nam nên
khi đàm phán cũng gặp rất nhiều vấn đề nhạy cảm.
- Đàm phán Việt Nam - Nhật Bản (chưa kết thúc):
Các yêu cầu trong đàm phán mà phía Nhật đƣa ra là không cao, mà có
tính đến mọi điều kiện về trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam. Nhƣng
WTO là một tổ chức thƣơng mại - nơi các thành viên luôn tìm kiếm và mƣu
cầu quyền lợi riêng của mình. Các yêu cầu mà mỗi nƣớc đƣa đối với nƣớc
đang đàm phán thƣờng đƣợc dựa trên lợi ích của các công ty nƣớc họ.
Quá trình đàm phán giữa Việt Nam và Nhật Bản còn một số lĩnh vực hai
bên chƣa tiếp cận đƣợc với nhau, đó là:
+ Mức thuế nhập khẩu đối với hàng hoá. Việt Nam đƣa ra mức thuế là
18%, còn Nhật Bản yêu cầu 10%. Hay nhƣ về dịch vụ, còn rất nhiều vấn đề
cần bàn thảo nhƣ mở cửa lĩnh vực ngân hàng, vận tải hay phân phối hàng
52
hoá..Tất nhiên, chúng ta sẽ còn tiến hành nhiều vòng đàm phán để đƣa ra
đƣợc một tỷ lệ hợp lý mà hai bên cùng chấp nhận.
+Về lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Đây là lĩnh vực mà phía Nhật Bnả rất chú
trọng và quan tâm. Hiện nay Việt Nam đã ra một đạo luật về vấn đề sở hữu trí
tuệ, nhƣng còn nhiều điều phía Nhật cho là chƣa hợp lý. Ví dụ, mức phạp 1 tỷ
đồng đối với các công ty vi phạm sở hữu trí tuệ là quá thấp. Họ yêu cầu Việt
Nam sửa đổi lại sắc luật này, sao cho mức phạt phải lớn hơn lợi ích mà các
công ty thu đƣợc từ việc sao chép. Nếu không, tệ nạn này sẽ không bao giờ
ngăn chặn đƣợc.
2.2. Những kết quả đạt đƣợc và vấn đề đặt ra trong quá
trình gia nhập WTO của Việt Nam
2.2.1. Những kết quả đạt được
Nhận thức đƣợc quá trình đàm phán gia nhập WTO là quá trình đòi hỏi
sự nỗ lực chủ chính phủ trên nhiều vấn đề, do vậy để thu đƣợc lợi ích lớn nhất
trong việc gia nhập WTO, chính phủ đã có quá trình chuẩn bị gia nhập, đến
nay đã đạt đƣợc kết quả sau:
Thứ nhất, nhiều doanh nghiệp đã cố gắng vươn lên chuyển đổi cơ cấu
kinh tế và cơ cấu sản xuất tạo được một số mặt hàng có năng lực cạnh tranh
khá.
Những năm vừa qua, Đảng và Nhà nƣớc ta đã có nhiều nỗ lực nhằm ban
hành và sửa đổi kịp thời những chủ trƣơng, chính sách, tháo gỡ khó khăn, tạo
môi trƣờng thuận lợi để các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh
doanh và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trƣờng. Các cấp, các ngành, các
địa phƣơng, nhất là các doanh nghiệp, đã có cố gắng vƣơn lên chuyển đổi cơ
cấu kinh tế và cơ cấu sản xuất, duy trì tốc độ tăng trƣởng cao của nền kinh tế,
53
tạo đƣợc một số mặt hàng có năng lực cạnh tranh khá. Vừa qua nƣớc ta đƣợc
thế giới đánh giá cao về các lợi thế cạnh tranh nhƣ: sự ổn định chính trị; an
ninh và trật tự, an toàn xã hội; vị trí địa lý có nhiều thuận lợi do nằm trong
khu vực kinh tế năng động, có tốc độ tăng trƣởng cao; có tài nguyên thiên
nhiên đa dạng. Những lợi thế đó cần đƣợc tiếp tục duy trì và phát huy.
Chính phủ đã thực hiện cải tổ lại các doanh nghiệp nhà nƣớc bằng các
biện pháp cổ phần hoá hàng loạt doanh nghiệp nhà nƣớc mà không cần nắm
giữ vốn, hình thành các tập đoàn kinh tế lớn, cƣơng quyết giải thể và cho phá
sản các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ nặng... Quá trình đàm phán để gia nhập
WTO của Việt Nam cũng đã góp phần tạo môi trƣờng kinh doanh tốt hơn cho
doanh nghiệp, tăng khả năng tiếp cận công nghệ mới, cải thiện cơ sở hạ tầng
và dịch vụ tài chính.
Luật Doanh nghiệp ra đời tạo điều kiện cho các nguồn lực xã hội đầu tƣ
phát triển kinh tế, bằng chứng là số lƣợng doanh nghiệp ra đời trong 4 năm
qua lớn hơn nhiều lần so với cả 10 năm trƣớc đó. Môi trƣờng đầu tƣ cải thiện
cũng đã thu hút nhiều nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đến Việt Nam làm ăn, với các dự
án có vốn đầu tƣ ngày càng cao, tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký ngày
càng lớn, trong năm 2005 dự kiến là 3,1 tỷ USD.
Thứ hai, chúng ta có chủ trương thống nhất từ Trung ương đến địa
phương và sự đồng thuận trong xã hội là cần sớm gia nhập WTO.
Chúng ta có chủ trƣơng thống nhất từ Trung ƣơng đến địa phƣơng là cần
sớm gia nhập WTO để có thị trƣờng toàn cầu cho hàng hoá và dịch vụ của
Việt Nam; để hàng hoá và dịch vụ của ta đƣợc hƣởng ƣu đãi hơn và đối xử
công bằng hơn; để ta đƣợc quyền tham gia vào các chính sách thƣơng mại
toàn cầu, chứ không phải chỉ chạy theo nhƣ lâu nay; để luật pháp và chính
sách của ta minh bạch, ổn định, dễ dự đoán, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
54
thu hút đầu tƣ trong nƣớc và nƣớc ngoài, hạn chế các tiêu cực trong xã hội.
Trong tiến trình đàm phán, sự chỉ đạo của Thủ tƣớng Chính phủ sát hơn, sự
phối hợp giữa các bộ, ngành chặt chẽ hơn.
Trong quá trình gia nhập WTO, Việt Nam dần tạo ra sự đồng thuận xã
hội trên con đƣờng hội nhập, nó bắt nguồn từ bản chất chế độ chính trị - xã
hội và đƣợc thể hiện ở chỗ mọi cam kết với bên ngoài phải tuân thủ nguyên
tắc vì lợi ích của đại đa số nhân dân một cách thật sự chứ không thể bằng các
biện pháp “mị dân”. Những gì mà tự do hoá thƣơng mại trong khuôn khổ
WTO đem lại lợi ích cho đa số ngƣời tiêu dùng trên trái đất, về cơ bản không
mâu thuẫn với lợi ích của đa số nhân dân Việt Nam cho nên việc thực thi
chúng không gặp phải nhiều khó khăn nhƣ hiện nay đang có tại một số nƣớc.
Thứ ba, chúng ta nhận được nhiều sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế và
các nước trên thế giới.
Cho đến nay, tất cả các nƣớc và các tổ chức quốc tế đều ủng hộ Việt
Nam sớm gia nhập WTO đồng thời các nƣớc này cũng sẵn sàng hỗ trợ kỹ
thuật và đào tạo cán bộ đàm phán cho Việt Nam.
Nhƣng chúng ta cũng cần phân biệt giữa ủng hộ về mặt ngoại giao với
quyền lợi dân tộc của các nƣớc. Chúng ta cũng phải hiểu rằng không ít nƣớc
muốn thông qua các cuộc đàm phán để ép chúng ta mở cửa thị trƣờng tối đa
cho họ.
Thứ tư, quá trình đàm phán gia nhập WTO đã chuyển sang giai đoạn
cuối, chúng ta gần hoàn tất quá trình đàm phán đa phương và song phương.
Về đàm phán đa phƣơng, đến phiên thứ 9, Việt Nam đã chuyển sang
thảo luận dự thảo Báo cáo về việc gia nhập WTO của Ban công tác. Đây là tài
liệu quan trọng, thể hiện sự cam kết đa phƣơng của Việt Nam để gia nhập
WTO đã đƣợc cộng đồng quốc tế thừa nhận.
55
Về đàm phán song phƣơng, đến này chúng ta đã đƣa ra 4 bản chào về
hàng hoá và dịch vụ. Mức thuế chúng ta chào, trung bình là 18% với lộ trình 3
- 5 năm dịch vụ. Chúng ta đã chào 10 ngành, gồm dịch vụ kinh doanh, dịch vụ
thông tin, dịch vụ ngân hàng và tài chính, dịch vụ phân phối, dịch vụ xây
dựng và các dịch vụ kỹ thuật có liên quan, dịch vụ y tế và xã hội, dịch vụ du
lịch, dịch vụ văn hoá và giải trí, dịch vụ vận tải, dịch vụ giáo dục, và 92 phân
ngành. Chúng ta kết thúc đàm phán song phƣơng với 6 nƣớc trong đó có EU
là đối tác lớn và gần kết thúc đàm phán với một số nƣớc lớn khác.
Thứ năm, Việt Nam đã đạt được nhiều thành quả trong việc cải cách hệ
thống luật pháp cho phù hợp với quy định của WTO.
Để chuẩn bị gia nhập WTO, Việt Nam đã hoàn thành việc minh bạch
các chính sách thƣơng mại và trên thực tế Việt Nam đã tiến hành sửa đổi, bổ
sung một loạt các văn bản có liên quan nhƣ: Luật doanh nghiệp, Luật lao
động, Luật thuế, Ban hành Quy định về việc xác định giá tính thuế nhập khẩu
hàng hoá, Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thƣơng
mại quốc tế...
Việc rà soát đối chiếu sửa đổi các văn bản pháp luật của Việt Nam
đƣợc triển khai từ tháng 3/2002. Trong đợt 1 chủ yếu tập trung vào văn bản
của các cơ qua, bộ, ngành ở trung ƣơng, tổng số văn bản trong nƣớc đã rà soát
là 263 (trong đó có 28 luật, 24 pháp lệnh, 64 nghị định, 58 thông tƣ) vẫn còn
hiệu lực và liên quan trực tiếp với quy định trong 16 hiệp định của WTO.
Trong đó đề nghị xem xét sửa đổi, bổ sung khoảng 150 văn bản pháp luật
hiện hành. Đợt rà soát lần 2 cũng đang đƣợc triển khải, tập trung vào hệ thống
văn bản pháp luật do địa phƣơng ban hành, đặc biệt là các thành phố lớn nhƣ
Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng.
56
Thứ sáu, nhiều doanh nghiệp đã nhận thức được những tác động tích
cực cũng như tiêu cực khi Việt Nam gia nhập WTO.
Với sự giúp đỡ của Chính phủ, của Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp
Việt Nam (VCCI), của các bộ, ngành và các hiệp hội ngành hàng, các doanh
nghiệp trong nƣớc đã đƣợc tuyên truyền, tập huấn và tìm hiểu về Tổ chức
thƣơng mại thế giới, cơ hội và thách thức của doanh nghiệp khi Việt Nam trở
thành thành viên của tổ chức này. Thông qua đó, doanh nghiệp Việt Nam
cũng xác định đƣợc những vấn đề mà họ phải đối mặt trong thời gian trƣớc
mắt cũng nhƣ lâu dài.
Trên cơ sở nhận thực nhƣ vậy, trong những năm gần đây, nhiều doanh
nghiệp Việt Nam đã tăng cƣờng đầu tƣ đổi mới thiết bị, công nghệ, nâng cao
chất lƣợng sản phẩm và chất lƣợng quản lý doanh nghiệp; tăng cƣờng cải tiến
mẫu mã bao gói; hạn chế chi phí đầu vào, chuyển hƣớng sản xuất - kinh
doanh đối với những sản phẩm có sức cạnh tranh yếu hoặc không đủ sức cạnh
tranh khi hội nhập. Có nhƣ vậy, giá thành sản phẩm do họ sản xuất ra mới đạt
ở mức thấp và có thể cạnh tranh đƣợc với hàng hoá từ các nƣớc khác.
Bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nƣớc, các doanh nghiệp Việt Nam cũng luôn
chủ động đối với hoạt động xúc tiến thƣơng mại, tìm kiếm thị trƣờng, tìm
hiểu luật thƣơng mại quốc tế để tìm chỗ đứng cho các sản phẩm của mình.
Thứ bảy, Việt Nam đã có các cam kết song phương và khu vực là tiền đề
cho quá trình đàm phán và thực hiện các cam kết trong WTO.
Việc đàm phán và thực hiện những cam kết song phƣơng và đa phƣơng
mà Việt Nam đã ký kết tạo cơ sở tốt cho quá trình đàm phán và thực hiện các
cam kết trong WTO. Thứ nhất, mặc dù có những điểm chi tiết khác biệt
nhƣng Hiệp định Thƣơng mại Việt - Mỹ có những điểm tƣơng đồng với các
Hiệp định WTO (bao gồm minh bạch hoá, giảm sự phụ thuộc vào các rào cản
57
phi thuế, cắt giảm thuế quan và đặc biệt là áp dụng quy tắc về không phân biệt
đối xử trong tiếp cận thị trƣờng). Hiệp định thƣơng mại Việt - Mỹ có thể đƣợc
coi là Hiệp định thƣơng mại song phƣơng đầy đủ nhất từ trƣớc đến nay. Nó
bao quát những nguyên tắc cơ bản nhất của WTO về thƣơng mại hàng hoá,
dịch vụ và các khía cạnh về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thƣơng mại,
các hiệp ƣớc khác nhau về quyền sở hữu trí tuệ và tham chiếu về đàm phán
cũng nhƣ thực thi các hiệp định đa phƣơng với những quy định và quy tắc của
chúng. Thứ hai, quá trình thực thi cam kết cắt giảm thuế theo AFTA, các cam
kết về mở cửa thị trƣờng và điều chỉnh thể chế trong nƣớc sẽ tạo niềm tin vào
ý chí chính trị của Việt Nam đối với hội nhập, tạo thuận lợi hơn cho quá trình
đàm phán song phƣơng gia nhập WTO hiện nay.
2.2.2. Những vấn đề đặt ra
Quá trình chuẩn bị gia nhập WTO của Việt Nam đã đạt đƣợc nhiều kết
quả đáng ghi nhận, bên cạnh đó nó vẫn bộc lộ nhiều vấn đế đặt ra cần phải
giải quyết nhƣ sau:
Một là, xét trên tổng thể, môi trường pháp lý chưa thật phù hợp với quy
định của WTO.
Hệ thống pháp luật của nƣớc ta vẫn còn thiếu nhiều quy định quan trọng
so với các quy định của WTO. Nhiều nội dung của một số luật hiện hành chƣa
phù hợp với các nguyên tắc của WTO và chậm đƣợc điều chỉnh, bổ sung.
Luật pháp còn chƣa chặt chẽ, còn chồng chéo, có thể vận dụng khác
nhau do đƣợc thiết kết để phục vụ quá nhiều mục tiêu. Chẳng hạn, có nhiều
mức thuế, nhiều quy định ƣu đãi, miễn giảm, nhiều mức áp giá để tính thuế
v.v.. làm cho việc thực hiện luật trở nên phức tạp, dễ vận dụng tuỳ tiện, ƣu đãi
doanh nghiệp này gây khó khăn cho doanh nghiệp khác, tình trạng quan liêu
trong bộ máy hành chính chậm đƣợc khắc phục.
58
Các thông tƣ hƣớng dẫn của các bộ (nhƣ quyết định về thuế suất thuế
nhập khẩu đối với phụ tùng xe máy, phụ tung xe ô tô) có những thay đổi đột
ngột làm cho môi trƣờng kinh doanh của nƣớc ta trở nên khó dự đoán, thiếu
tính ổn định, gây tâm lý lo lắng cho các nhà đầu tƣ trong nƣớc và ngoài nƣớc,
giảm năng lực cạnh tranh quốc gia trong thu hút vốn đầu tƣ.
Quá trình cải cách tƣ pháp đang đƣợc tiến hành nhƣng tốc độ vẫn còn
chậm, chƣa toàn diện và hiệu quả chƣa cao.
Hai là, lĩnh vực lao động và việc làm sẽ bị biến động, sự phân hoá giàu
nghèo trong xã hội có nguy cơ tăng lên.
Khi gia nhập WTO, lĩnh vực lao động và việc làm sẽ có nhiều biến động.
Sự mở cửa, hội nhập sẽ tạo cơ hội cho đội ngũ lao động trẻ, có sức khoẻ, học
vấn và tay nghề cao đƣợc trọng dụng. Bên cạnh đó, việc nhiều doanh nghiệp
Việt Nam bị phá sản, chuyển mục đích kinh doanh sẽ gây ra tình trạng dôi dƣ
nhân công tạm thời. Những ngƣời kém tay nghề hoặc không qua đào tạo ở
một số ngành sẽ bị loại. Điều này có nguy cơ làm gia tăng khoảng cách giàu
nghèo gây ra tác động tiêu cực trong xã hội.
Ba là, Việt Nam có nguy cơ phải chấp nhận những cam kết mở cửa thị
trường cao hơn các thành viên khác.
Theo cách đàm phán hiện nay, Việt Nam phải đƣa ra những cam kết
song phƣơng với các nƣớc thành viên WTO có vai trò then chốt nhƣ EU, Mỹ,
Nhật. Nhƣ thế, ngoài những luật lệ của WTO phải tuân thủ, Việt Nam còn
phải chịu ràng buộc đối với những nhân nhƣợng song phƣơng, một loại
“WTO+” mà sau này sẽ áp dụng cho mọi thành viên khác.
Chẳng hạn, mọi điều khoản trong các hiệp định đàm phán song phƣơng
nếu có cao hơn ràng buộc WTO thì sẽ tự động chuyển thành cam kết của Việt
59
Nam đến mọi nƣớc khác chứ không chỉ dành riêng cho Mỹ. Ngoài ra, là thành
viên gia nhập sau, Việt Nam đang chịu sức ép phải chấp nhận những cam kết
giảm thuế, mở cửa thị trƣờng cao hơn các nƣớc thành viên khác. Trong đàm
phán song phƣơng với EU, sau này sẽ áp dụng cho mọi thành viên WTO
khác, Việt Nam chấp nhận mức thuế trần cho nâng sản nhập khẩu là 24%,
mức thuế này thấp hơn mức thuế của hai nƣớc thành viên trong khu vực là
Philippines và Thái Lan đến 10%. Hiện thuế nông nghiệp cao nhất của EU là
252%, của Mỹ là 121% và Canada là 120%.
Bốn là, nhiều nước vẫn xem Việt Nam là nước có nền kinh tế phi thị
trường.
Đối với các nền kinh tế chƣa đƣợc công nhận là nền kinh tế thị trƣờng sẽ
gặp không chỉ khó khăn trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, mà còn bị
phân biệt đối xử ngay trong khuôn khổ của WTO.
Chúng ta có bất lợi lớn so với các nƣớc thành viên khác là một số nƣớc
vẫn xem Việt Nam là nƣớc có nền kinh tế “phi thị trƣờng”. Thiếu một quy
chế kinh tế thị trƣờng, sản phẩm Việt Nam bán trên các thị trƣờng thế giới rất
dễ bị kiện phá giá vì ngƣời kiện không chịu so sánh với giá bán ở Việt Nam
mà sẽ dùng mức giá ở đâu đó có lợi cho họ.
Thậm chí, quy chế tối huệ quốc mà bất kỳ nƣớc thành viên WTO nào
cũng hƣởng có thể bị Mỹ từ chối đối với Việt Nam vì phụ thuộc vào cái gọi là
điều khoảng Jackson-Vanik do Mỹ xem xét hàng năm.
Năm là, nhìn tổng thể, năng lực cạnh tranh quốc tế của các doanh
nghiệp Việt Nam vẫn còn thấp.
Nhìn tổng thể, năng lực cạnh tranh trên cả ba cấp độ: nền kinh tế, doanh
nghiệp, hàng hoá và dịch vụ vẫn còn yếu; chƣa phát huy hết tiềm năng sẵn có
60
và tranh thủ sự hợp tác nhiều mặt với quốc tế. Việc nâng cao năng lực cạnh
tranh của hàng hoá, dịch vụ là một vấn đề rất bức xúc, vì nhiều doanh nghiệp
vẫn chƣa ý thức đƣợc tính chất khốc liệt của cạnh tranh quốc tế, chƣa có các
bƣớc chuẩn bị kỹ lƣỡng cho quá trình hội nhập sắp tới. Thêm vào đó bối cảnh
chung của quốc tế lại đang có nhiều biến động khó lƣờng. Vấn đề nâng cao
năng lực cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ Việt Nam lại đang chịu nhiều tác
động tiêu cực từ năng lực cạnh tranh quốc gia thấp.
Theo kết quả của một cuộc điều tra của Phòng Thƣơng mại và Công
nghiệp Việt Nam thì chỉ mới có 23,8% doanh nghiệp có hàng xuất khẩu, 13,
7% doanh nghiệp có triển vọng xuất khẩu và 52,5% doanh nghiệp hoàn toàn
chƣa có khả năng xuất khẩu. Đó là chƣa kể đến tỷ lệ các doanh nghiệp có khả
năng cạnh tranh ngay trên sân nhà nếu nhƣ thị trƣờng hoàn toàn mở cửa.
Sáu là, tính minh bạch, công khai của nền kinh tế, bao gồm cả doanh
nghiệp và cơ quan nhà nước còn thấp.
Theo phân loại của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam đƣợc xếp ở
nhóm thấp về tính minh bạch, công khai của nền kinh tế, về sự quan liêu hành
chính và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Năm 2001, “chỉ số nhận thức về tham
nhũng của Việt Nam ở mức 75/91 nƣớc; chỉ số di sản về tự do kinh tế ở mức
75/91 nƣớc”[73, tr.43]. Tại kỳ họp thứ 4 (tháng 11/2003), Quốc hội khoá XI
đã thông qua Luật Doanh nghiệp nhà nƣớc (sửa đổi), nhƣng dƣ luận xã hội
cho rằng luật này chƣa đáp ứng đƣợc các đòi hỏi bức xúc của thực tiễn hiện
nay: chƣa tăng quyền tự chủ, tự hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp
nhà nƣớc, chƣa xoá bỏ cơ chế bộ chủ quản, cơ chế bao cấp, “xin cho” và các
đặc quyền đặc lợi khác.
Bên cạnh việc tồn tại sự can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp. Hiện tƣợng hình sự hoá các quan hệ dân sự, quan hệ kinh
61
tế còn tồn tại, cơ quan xét xử, hoà giải, trọng tài đôi lúc còn có những quyết
định thiếu khách quan...
Đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng tuy đã đạt đƣợc một số kết quả,
song vẫn còn tồn tại, chƣa đƣợc ngăn chặn triệt để nhất là ở những khâu liên
quan đến lợi ích của doanh nghiệp...
Bảy là, hệ thống tài chính - tiền tệ còn nhiều yếu kém, bất cập.
Mặc dầu đã có nhiều nỗ lực cải cách và có những tiến bộ trên nhiều mặt,
nhƣng hệ thống tài chính - tiền tệ ở Việt Nam còn kém phát triển, thiếu sự đa
dạng, khả năng tài chính nhỏ bé, không đáp ứng yêu cầu phát triển. Các chỉ
tiêu về độ sâu tài chính, dƣ nợ tín dụng trên GDP, các chỉ số chất lƣợng hoạt
động của hệ thống ngân hàng thƣơng mại còn thấp so với các nƣớc trong khu
vực. Năng lực đánh giá đầu tƣ, trình độ công nghệ của các nghiệp vụ ngân
hàng còn nhiều hạn chế, lạc hậu. Cho đến cuối năm 2003, “tình hình tài chính
- tiền tệ vẫn còn là yếu tố thiếu vững chắc, chứa đựng mầm mống có thể gây
mất cân đối kinh tế vĩ mô; nổi lên là: nguồn thu ngân sách chƣa vững chắc, tỷ
lệ thu nội địa còn thấp; trong hệ thống tài chính - tín dụng, tỷ lệ nợ xấu tuy có
giảm nhƣng vẫn còn cao, nợ chƣa thanh toán trong xây dựng cơ bản khá lớn,
việc sử dụng tiền gửi ngắn hạn để cho vay trung hạn, dài hạn vƣợt quá giới
hạn an toàn, lãi suất tín dụng quá cao so với khả năng sinh lời của các doanh
nghiệp..”[73, tr.43].
Việc Chính phủ tiếp tục khoanh nợ, dãn nợ, xoá nợ đối với một số doanh
nghiệp nhà nƣớc chƣa phải là giải pháp đầy đủ để nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp và ngân hàng thƣơng mại. Kinh nghiệm kinh doanh
tài chính quốc tế còn ít. Đồng tiền Việt Nam chƣa có giá trị chuyển đổi ngay
62
cả đối với các giao dịch vãng lai làm hạn chế tốc độ kinh doanh xuất - nhập
khẩu.
Trong bối cảnh đó, doanh nghiệp tƣ nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ,
ngƣời có ý tƣởng kinh doanh mới khó tiếp cận với tín dụng. Gần đây, việc
phát triển quá nhiều quỹ hỗ trợ đầu tƣ khác nhau dƣới sự quản lý của Bộ Tài
chính tạo ra mặt bằng tín dụng không đồng đều cho các doanh nghiệp và có
nguy cơ tạo ra một thị trƣờng tiền tệ khập khễnh, ngoài sự kiểm soát thống
nhất của Ngân hàng nhà nƣớc.
Thị trƣờng chứng khoán còn quá nhỏ bé, chậm phát triển, chƣa bao gồm
những doanh nghiệp quan trọng và hấp dẫn đối với các nhà đầu tƣ nƣớc
ngoài. Hệ thống quỹ đầu tƣ mạo hiểm chƣa phát triển.
Các dịch vụ tài chính phục vụ xuất, nhập khẩu và đầu tƣ nƣớc ngoài nhƣ
tín dụng, bảo lãnh tín dụng xuất, nhập khẩu, v.v... còn chậm phát triển. Các
dịch vụ về thông tin thị trƣờng, xúc tiến thƣơng mại, tiếp thị, triển lãm, hội
chợ, khuyến mại, nghiên cứu thị trƣờng, tiếp cận khách hàng, tƣ vấn pháp luật
và kinh doanh còn kém phát triển.
Tám là, nhiều cơ quan, doanh nghiệp chưa nhận thức, quan tâm nhiều
đến chính sách hội nhập và chưa sẵn sàng tham gia hội nhập.
Hiện nay, nhận thức tƣ tƣởng về các nội dung, bƣớc đi, lộ trình, về sự
cần thiết phải hội nhập để phát triển đất nƣớc.... ở nhiều ngành, nhiều cấp,
nhiều địa phƣơng và doanh nghiệp vẫn chƣa đƣợc nhất quán, “vẫn còn nhiều
bàn cãi về vấn đề nên hội nhập nhƣ thế nào. Gắn liền với câu hỏi này là hàng
loạt các vấn đề cụ thể vẫn chƣa có đáp án mạch lạc: Tốc độ tự do hoá nên nhƣ
thế nào? Phải chăng cần trì hoãn quá trình tự do hoá để các doanh nghiệp hiện
tại có thời gian thực hiện cơ cấu lại và chuẩn bị sẵn sàng cho cạnh tranh quốc
63
tế? Nên hay không nên phân kỳ tự do hoá trên cơ sở căn cứ vào quá trình phát
triển các thể chế cần có cho một nền kinh tế thị trƣờng hiện đại?...”[73, tr.
41].
Các cải cách về chính sách thƣơng mại của Việt Nam cho phù hợp với
quy định của WTO chƣa đƣợc các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
trong cả nƣớc quan tâm triệt để. Số doanh nghiệp quan tâm đến các chính
sách hội nhập và sẵn sàng tham gia hội nhập còn ở mức thấp. Có ý kiến cho
rằng: Sẵn sàng gia nhập WTO chủ yếu là ở các cơ quan quản lý Nhà nƣớc,
nhiều doanh nghiệp còn rất mơ hồ và thậm chí không quan tâm đến vấn đề
này. “Tâm lý phổ biến của các doanh nghiệp nhà nƣớc là trông chờ, ỷ lại vào
sự trợ giúp của Nhà nƣớc, không muốn vƣơn lên bằng cạnh tranh lành mạnh.
Những hạn chế này cũng là một căn nguyên làm tăng thêm nạn tham nhũng
và tiêu cực vốn còn đang rất nghiêm trọng trong nhiều doanh nghiệp nhà nƣớc
hiện nay”[73, tr.43].
2.2.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc gia nhập WTO
Ngày 10/11/2001, tại Doha (thủ đô Cata), Hội nghị lần thứ 4 cấp Bộ
trƣởng các nƣớc thành viên tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO) đã nhất trí
thông qua quyết định về việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức thƣơng mại thế
giới. 30 ngày sau, quốc gia này chính thức trở thành thành viên WTO, sau 15
năm chuẩn bị [47, tr.43].
Mục tiêu của Trung Quốc khi gia nhập WTO là muốn tạo động lực tăng
tốc quá trình cải cách mở cửa, hiện đại hoá đất nƣớc. Hiện nay, khi đã là
thành viên của WTO, nƣơc này đã đứng trƣớc những cơ hội, và thách thức
không nhỏ.
Trong 15 năm phấn đấu gia nhập WTO, Trung Quốc một mặt kiên trì
những nguyên tắc, đồng thời đã rất linh hoạt trong đàm phán nhằm gia nhập
64
WTO. Trung Quốc đƣa ra 3 quan điểm có tính nguyên tắc là sân chơi thƣơng
mại toàn cầu sẽ không hoàn chỉnh nếu không có sự tham gia của nƣớc đang
phát triển lớn nhất nhƣ Trung Quốc, tiếp theo, Trung Quốc cần tham gia
WTO với tƣ cách là một nƣớc đang phát triển. Cuối cùng, Trung Quốc tham
gia WTO với nguyên tắc cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ. Trong quá
trình đàm phàn, Trung Quốc luôn giữ vững nguyên tắc này nhƣng đồng thời
cũng sẵn sàng đƣa ra những nhƣợng bộ cần thiết để có đƣợc những nhƣợng
bộ của đối phƣơng.
Tuy nhiên, không thể nói thành công của Trung Quốc trong việc gia
nhập WTO hoàn toàn là kết quả trên bàn đàm phán, hoặc chủ yếu là do kết
quả đàm phán. Nguyên nhân sâu xa và chủ yếu đƣa tới thành công của Trung
Quốc trong việc gia nhập WTO chính là những thành tựu trong cải cách, mở
cửa, phát triển kinh tế hơn 20 năm qua. Một số kinh nghiệm có thể rút ra từ
thực tiễn gia nhập WTO của Trung Quốc nhƣ sau:
- Về cải cách và hoàn thiện luật pháp:
Một là, Trung Quốc coi việc cải cách và hoàn thiện hệ thống luật pháp là
nội dung quan trọng nhất trong toàn bộ tiến trình gia nhập WTO, sau đó là
định ra đƣợc một lộ trình cải cách và hoàn thiện thích hợp vừa có thể đáp ứng
yêu cầu của WTO, vừa có thể bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của cả
đất nƣớc, cũng nhƣ của doanh nghiệp nội địa.
Hai là, do những quy tắc của WTO đƣợc xây dựng trên cơ sở các nguyên
tắc của kinh tế thị trƣờng, nên việc cải cách và hoàn thiện hệ thống pháp luật
cho phù hợp với WTO cũng chính là đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị
trƣờng.
65
Ba là, muốn đẩy nhanh tiến độ lập pháp và nâng cao chất lƣợng lập pháp,
kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy cần phải thực hiện chế độ uỷ thác pháp
luật, tức là ngoài việc trao quyền cho các bộ, ngành hữu quan, nên giao cho
những tổ chức và cá nhân (nếu có thể) am hiểu và có trình độ pháp luật cao
cùng soạn thảo.
Bốn là, trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật thì việc thanh lọc,
sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật về hành chính là phức tạp nhất. Kinh
nghiệm của Trung Quốc trong xử lý vấn đề này là đƣa ra một số nguyên tắc
nhƣ “ban ngành nào ban hành thì ban ngành đó giải quyết”, nhƣng dƣới sự
điều phối của một cơ quan chức năng.
- Về cải cách chính sách kinh tế vĩ mô:
Trong vấn đề cải cách chính sách kinh tế vĩ mô, bài học quan trọng nhất
của Trung Quốc trong tiến trình gia nhập WTO chính là chủ động cải cách
chính sách kinh tế vĩ mô gắn liền với cải cách thể chế. Bởi vì, theo Trung
Quốc, mức độ sẵn sàng gia nhập WTO phụ thuộc rất lớn vào sự vững mạnh
của thể chế kinh tế vĩ mô và “sự chuyển đổi chức năng của chính phủ”. Nếu
chính phủ không thích ứng với thể chế thị trƣờng, vẫn duy trì tƣ duy, cách
làm và công cụ cũ thì không thể đối phó với quá trình tự do hoá và hội nhập
kinh tế, ngƣợc lại còn trở thành lực cản cho tiến trình này.
- Về biện pháp hạn chế những tác động tiêu cực tới các ngành kinh tế chủ
chốt:
Để hạn chế tới mức tối thiểu những tác động tiêu cực và hấp thụ đƣợc ở
mức tối đa những tác động tích cực, Trung Quốc, một mặt, đẩy mạnh công
cuộc cải cách cơ cấu nền kinh tế, đặc biệt là cải cách hệ thống tài chính - tiền
tệ. Mặt khác, Trung Quốc cũng luôn cố gắng tận dụng những điều khoản tự
66
bảo vệ của WTO để bảo hộ một cách hợp lý những ngành có liên quan đến
ninh kinh tế. Những ngành nhạy cảm (tài chính, ngân hàng...) đƣợc Trung
Quốc tự do hoá một cách tuần tự, với những bƣớc đi thích hợp, phù hợp với
điều kiện cụ thể trong nƣớc cũng nhƣ với nguyên tắc cơ bản của WTO.
- Về biện pháp hạn chế những tác động tiêu cực tới các vấn đề xã hội:
Kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy, nguồn gốc trực tiếp tác động tiêu cực
tới các vấn đề xã hội khi Trung Quốc gia nhập WTO là sự khác biệt trong cơ
hội việc làm và trình độ nguồn nhân lực. Việc tự do hoá di cƣ lao động và đầu
tƣ mạnh mẽ cho giáo dục tại khu vực nông thôn là giải pháp cơ bản Trung
Quốc đang áp dụng để hạn chế tác đông tiêu cực tới xã hội do việc Trung
Quốc gia nhập WTO.
Tóm lại, quá trình đàm phán, chuẩn bị gia nhập WTO của Việt Nam đến
ay đã đƣợc 10 năm (1995 - 2005) và đạt đƣợc rất nhiều kết quả khả quan. Tuy
nhiên quá trình này vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết. Để giải
quyết những vấn đề còn tồn tại đó, đòi hỏi chính phủ phải có hệ thống giải
pháp đồng bộ trên nhiều khía cạnh. Hiện nay, Trung Quốc đã gia nhập WTO
và đạt đƣợc nhiều thành tựu, nhiều kinh nghiệm của Trung Quốc trong thực
tiễn gia nhập WTO là tài liệu tham khảo cho Việt Nam trong quá trình gia
nhập WTO.
Chƣơng 3
67
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC GIA
NHẬP TỔ CHỨC THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO) CỦA VIỆT NAM
3.1. Một số quan điểm cơ bản về gia nhập WTO của Việt
Nam
Đứng trƣớc những thay đổi lớn lao về kinh tế, thƣơng mại toàn cầu, Đại
hội VII của Đảng ta tiếp tục chủ trƣơng mở rộng hợp tác, bình đẳng và cùng
có lợi với tất cả các nƣớc, các tổ chức quốc tế, không phân biệt chế độ chính
trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Để
tăng cƣờng thu hút nguồn vốn từ nƣớc ngoài phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc, Đảng ta chủ trƣơng khai thông quan hệ
giữa các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế nhƣ Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF),
Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)..., mở rộng
quan hệ với các tổ chức hợp tác khu vực, trƣớc hết ở châu Á - Thái Bình
Dƣơng. Một trong những biện pháp quan trọng là “Chúng ta cần tích cực cải
thiện hơn nữa môi trƣờng đầu tƣ, đổi mới tổ chức và quản lý hoạt động hợp
tác, liên doanh với nƣớc ngoài, có nhiều hình thức thích hợp để tận dụng mọi
nguồn vốn đầu tƣ, chú trọng phát triển các quan hệ hợp tác với các công ty đa
quốc gia, xuyên quốc gia nhằm tạo thế đứng trong quá trình hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới”[22, tr.18].
Theo tinh thần đó, tháng 12/1994, Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập
WTO.
Với tầm nhìn chiến lƣợc, nhận thức rõ sự cần thiết đẩy nhanh quá trình
hội nhập kinh tế thế giới trong đó có việc tham gia tổ chức WTO, Văn kiên
Đại hội lần thứ VIII của Đảng ta xác định: “Xây dựng một nền kinh tế mở”,
“đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Nghị quyết 04
của Ban chấp hành Trung ƣơng khoá VIII đã nêu rõ: “tích cực và chủ động
68
thâm nhập và mở rộng thị trƣờng quốc tế”, “tiến hành khẩn trƣơng, vững chắc
việc đàm phán hiệp định thƣơng mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO. Có kế
hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA”.
Tiếp đó Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng ta khẳng định lại là: “tiếp
tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hƣớng đa phƣơng hoá, đa dạng
hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện
kinh tế của nƣớc ta và đảm bảo thực hiện những cam kết song phƣơng và đa
phƣơng nhƣ AFTA, APEC, Hiệp định thƣơng mại Việt - Mỹ, tiến tới gia nhập
WTO...”[27, tr.199].
Nhƣ vậy, đây là một chủ trƣơng lớn trong chính sách đối ngoại, hội nhập
của Đảng và Nhà nƣớc ta. Theo quan điểm này hội nhập kinh tế quốc tế trong
điều kiện toàn cầu hoá nói chung và hội nhập WTO nói riêng là một quá trình
mà trọng tâm là chủ động mở cửa kinh tế, tham gia sâu vào phân công hợp tác
quốc tế, tạo điều kiện để kết hợp có hiệu quả mọi nguồn lực trong nƣớc và
nƣớc ngoài, mở rộng không gian và môi trƣờng để phát triển, nâng cao thế và
lực của nƣớc ta trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Do đó, có thể xác định mục tiêu của hội nhập WTO là phải chủ động
nhằm mở rộng thị trƣờng, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý
để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa,
thực hiện dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trƣớc
mắt là thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ nêu ra trong Chiến lƣợc phát triển
kinh tế - xã hội năm 2001 - 2010 và kế hoạch 5 năm 2001 - 2005.
Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 07-NQ/TW về hội nhập
kinh tế quốc tế đã đề ra 5 quan điểm chỉ đạo trong quá trình hội nhập là:
- Quán triệt chủ trƣơng đƣợc xác định tại Đại hội IX: “Chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao
69
hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hƣớng xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân
tộc, bảo vệ môi trƣờng”[27, tr.43].
- Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; trong quá trình hội
nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế,
của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nƣớc giữ vai trò chủ đạo.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh
tranh, vừa có nhiều cơ hộ, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn
khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối
tƣợng, vấn đề, trƣờng hợp, thời điểm cụ thể, vừa phải đề phòng tƣ tƣởng trì
trệ, thụ động, vừa phải chống tƣ tƣởng giản đơn, nôn nóng.
- Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nƣớc ta, từ đó đề ra kế hoạch và
lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nƣớc, vừa đáp ứng
các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nƣớc ta tham gia; tranh thủ
những ƣu đãi dành cho các nƣớc đang phát triển và các nƣớc có nền kinh tế
chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trƣờng.
- Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững
an ninh, quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng cƣờng sức mạnh tổng hợp
của quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nƣớc, cảnh giác với
những mƣu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ “diễn biến hoà bình”
đối với nƣớc ta.
Quán triệt 5 quan điểm trên, trong quá trình đàm phán gia nhập WTO,
Chúng ta phải quán triệt các nguyên tắc chung sau:
- Đặt lợi ích quốc gia lên trên hết; kiên trì, bền bỉ điều chỉnh lại hệ thống
cơ chế chính sách cho phù hợp với những quy tắc và chuẩn mực quốc tế, thích
ứng với những điều kiện cụ thể của đất nƣớc; có những nhƣợng bộ cần thiết
70
tới mức có thể chấp nhận đƣợc phù hợp với trình độ của nƣớc ta là một nƣớc
đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi; cố gắng đạt đƣợc những ƣu
đãi cần thiết về mức độ và thời gian thực hiện cam kết mở cửa thị trƣờng mà
WTO dành cho các nƣớc đang phát triển; vận dụng các mối quan hệ quốc tế
đa dạng ở mọi cấp độ để tranh thủ tối đa sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ quốc
tế, tạo thế đàm phán tốt với tất cả các đối tác.
- Chính sách thƣơng mại phải đƣợc đặt trong khuôn khổ phát triển toàn
diện quốc gia, đảm bảo sự phát triển bền vững. Do đó, những ƣu tiên trong
chính sách thƣơng mại phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất
nƣớc và nhất quán với chính sách tỷ giá, hệ thống pháp luật, chế độ đầu tƣ,
thông lệ về lao động và cạnh tranh, hệ thống ngân hàng và thực tế quản lý
hành chính.
- Những ƣu tiên trong chính sách thƣơng mại phải đƣợc sự ủng hộ hoàn
toàn trong nƣớc và đƣợc quyết định trên cơ sở đối thoại cấp quốc gia về
những ƣu tiên phát triển và cách thực hiện phù hợp. Có nhƣ vậy mới có thể
đạt đƣợc các mục tiêu xã hội, chú ý tới các khía cạnh kinh tế vĩ mô và tài
chính.
- Phải bảo đảm nền kinh tế phát triển mạnh, độc lập tự chủ, bền vững
trong điều kiện hội nhập vào tổ chức WTO.
- Gia nhập WTO phải bảo đảm ổn định về chính trị, xã hội, giữ gìn bản
sắc của dân tộc.
3.2. Những giải pháp để nâng cao hiệu quả gia nhập WTO
của Việt Nam
Trên bình diện của cả nền kinh tế, từng địa phƣơng và doanh nghiệp việc
gia nhập WTO tạo ra nhiều cơ hội hơn là thách thức để phát triển. Những vấn
đề mà nền kinh tế Việt Nam phải tiếp tục vƣợt qua để nhanh chóng gia nhập
71
WTO một cách chủ động và có hiệu quả là hết sức rộng lớn, nó đòi hỏi sự nỗ
lực chung của các cơ quan quản lý các cấp, các ngành và của doanh nghiệp.
Sự thành công của hội nhập một phần dựa vào những chính sách, đƣờng lối
đúng đắn của nhà nƣớc. Trong phần này, tác giả luận văn xin mạnh dạn đƣa ra
một số giải pháp từ phía nhà nƣớc để đảm bảo tính chủ động và hiệu quả
trong việc gia nhập WTO nhƣ sau:
3.2.1. Đổi mới về nhận thức, tạo sự thống nhất trong xã hội
Nhận thức không đầy đủ hiện đang cản trở Việt Nam gia nhập WTO,
trƣớc hết là tƣ tƣởng bảo hộ quá mức dƣới nhiều hình thức. Những ngƣời bảo
trợ cho quan điểm này chủ trƣơng - Việt Nam sẽ gia nhập WTO nhƣng với
mức bảo hộ cao, lộ trình kéo dài, diện ngành mở cửa hẹp.. Lý do mà họ đƣa ra
là phải có một hàng rào bảo hộ kéo dài đủ cho các doanh nghiệp Việt Nam có
thời gian trƣởng thành, có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nƣớc ngoài,
nếu không các doanh nghiệp này sẽ bị phá sản, dẫn tới tình trạng thất nghiệp -
mất ổn định xã hội.
Quan điểm này có chỗ hợp lý là cần phải bảo hộ một số ngành có lựa
chọn với một thời gian và điều kiện nhất định, và có sự cần thiết phải hạn chế
đầu tƣ của các doanh nghiệp nƣớc ngoài trong một số lĩnh vực nhất định. Tuy
nhiên, nếu mở rộng những ngành bảo hộ, hạn chế đầu tƣ nƣớc ngoài quá mức,
thì sẽ vi phạm các nguyên tắc của WTO. Do vậy mức bảo hộ và hạn chế
không thể quá mức. Phải lấy mức cam kết của các nƣớc mới gia nhập WTO
có quy mô và trình độ phát triển nhƣ nƣớc ta để xem xét và cân nhắc, chứ
không thể lấy yêu cầu bảo hộ của các doanh nghiệp trong nƣớc làm tiêu
chuẩn.
Những thiên kiến đối với thị trƣờng cũng là một cản trở quan trọng đối
với việc gia nhập và thực hiện các cam kết với WTO. Ở nƣớc ta tâm lý lo ngại
những mặt trái của thị trƣờng quá mức ám ảnh những ngƣời hoạch định
72
chính sách các cấp. Tâm lý lo ngại này dẫn đến tình trạng thu hẹp tác động và
phạm vi hoạt động của thị trƣờng, gia tăng sự can thiệp của nhà nƣớc vào thị
trƣờng. Do vậy, các quan hệ thị trƣờng ở Việt Nam bị làm méo mó, cơ chế thị
trƣờng tác động yếu, các loại thị trƣờng cơ bản không phát triển đƣợc - Vai
trò động lực phát triển của thị trƣờng bị hạn chế. Thực tế ở nƣớc ta cho thấy,
có những thị trƣờng hàng hoá và dịch vụ ít bị nhà nƣớc can thiệp thì lại phát
triển tƣơng đối hoàn thiện nhƣ thị trƣờng lƣơng thực, thực phẩm, trong khi đó
có thị trƣờng do doanh nghiệp nhà nƣớc độc quyền kinh doanh nhƣ thị trƣờng
xi măng, thị trƣờng sắt thép,... đều đang có những vấn đề không dễ giải quyết.
Không ai phủ nhận vai trò can thiệp của nhà nƣớc, nhƣng nhà nƣớc chỉ can
thiệp để sửa chữa những khiếm khuyết của thị trƣờng, chứ không làm thay thị
trƣờng.
Những thiên kiến và phân biệt đối với khu vực tƣ nhân cũng cần đƣợc
tháo ngỡ. Các chủ thể kinh doanh trên thị trƣờng quốc tế hiện nay chủ yếu là
các công ty thuộc khu vực tƣ nhân, do vậy nếu nƣớc ta không xoá bỏ những
phân biệt đối xử đối với khu vực tƣ nhân trên thực tế và thực sự khuyến khích
hỗ trợ khu vực này phát triển vƣơn ra thị trƣờng thế giới, thì nƣớc ta sẽ rơi
vào tình thế bất lợi khi gia nhập WTO, vì khi đó các công ty nhà nƣớc của ta
hoạt động kém hiệu quả sẽ phải tham gia cạnh tranh với các công ty xuyên
quốc gia hùng mạnh của nƣớc ngoài...Hơn nữa, một nguyên tắc quan trọng
của WTO là “đối xử quốc gia” đòi hỏi nƣớc ta không những phải bãi bỏ
những phân biệt đối xử giữa các công ty trong nƣớc với công ty nƣớc ngoài,
mà còn giữa các công ty trong nƣớc với nhau.
Quan niệm về nội lực và ngoại lực cũng đã thay đổi. Một khi Việt Nam
tham gia WTO, thị trƣờng trong nƣớc và quốc tế đã liên thông thống nhất, thì
các công ty nƣớc ngoài vào đầu tƣ kinh doanh tại Việt Nam không thể xem họ
đơn giản là ngoại lực, các công ty của ta sang Mỹ kinh doanh cũng không thể
73
xem họ chỉ là nội lực. Trong điều kiện hội nhập WTO, tức là hội nhập kinh tế
toàn cầu thì nội lực và ngoại lực có mối quan hệ chặt chẽ, khó có thể tách biệt
hoàn toàn. Vấn đề đặt ra là nƣớc ta phải biết cách chuyển hoá ngoại lực thành
nội lực, tận dụng các nguồn lực một cách hiệu quả cho sự phát triển kinh tế
đất nƣớc.
3.2.2. Chủ động mở cửa nền kinh tế theo lộ trình thích hợp
Một trong nguyên tắc quan trọng của WTO là phải mở cửa thị trƣờng
trong nƣớc thì họ mới mở cửa thị trƣờng của họ. Nếu Việt Nam xin gia nhập
WTO mà không mở cửa hoặc hạn chế mở cửa thị trƣờng trong nƣớc thì khó
có thể đƣợc chấp nhận. Do vậy, Việt Nam phải chủ động mở cửa thị trƣờng
trong nƣớc để có thể mở cửa thị trƣờng của các quốc gia WTO.
Việc mở cửa thị trƣờng trong nƣớc sẽ mang lại nhiều lợi ích to lớn cho
đất nƣớc - làm lợi cho cả ngƣời tiêu dùng và doanh nghiệp do đƣợc hƣởng
mức giá hàng hoá thấp; tạo điều kiện mở rộng thị trƣờng cho các doanh
nghiệp; thu hút thêm các nguồn vốn và công nghệ mới từ bên ngoài. nâng cao
chất lƣợng các nguồn lực; buộc các doanh nghiệp phải vƣơn lên để cạnh
tranh...
Việc mở cửa thị trƣờng đòi hỏi nƣớc ta phải giảm và bỏ hàng rào thuế
quan và phi thuế quan, thừa nhận quyền kinh doanh bình đẳng của các công ty
trong nƣớc và ngoài nƣớc...
Vì vậy, Việt Nam phải chủ động xây dựng một lộ trình cụ thể và tích cực
để giảm thiểu các hàng rào bảo hộ, giảm thuế và bỏ các biện pháp phi thuế
quan theo lịch trình nhất định; Giá cả các hàng hoá, dịch vụ do các công ty,
tổng công ty độc quyền chi phối phải giảm xuống ngang mức thị trƣờng khu
vực; Đồng thời phải thay thế chế độ giá tính thuế tối thiểu bằng giá ghi trên
hợp đồng phù hợp với Hiệp định về trị giá hải quan của WTO; Cải cách thủ
74
tục hải quan theo hƣớng đơn giản hoá và hài hoà thủ tục với chuẩn mực quốc
tế; Ban hành các biện pháp phòng vệ và tự vệ phù hợp với quy định của
WTO.
3.2.3. Tạo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng, lành mạnh cho
các doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội
nhập kinh tế quốc tế
Môi trƣờng đầu tƣ, kinh doanh của nƣớc ta trong những năm qua đã
đƣợc cải thiện nhiều. Tuy nhiên nếu so với các quốc gia trong khu vực thì môi
trƣờng đầu tƣ của ta còn nhiều yếu kém: cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, chi phí các
loại dịch vụ đầu vào cho sản xuất đều rất cao, các lĩnh vực bị cấm hoặc hạn
chế đầu tƣ còn nhiều, lực lƣợng lao động đƣợc đào tạo, có tay nghề còn hạn
chế...
Để gia nhập WTO có hiệu quả, Nhà nƣớc cần phải tiếp tục đổi mới và
cải thiện môi trƣờng đầu tƣ, kinh doanh nhằm tạo môi trƣờng kinh doanh
thông thoáng, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. Những giải pháp cụ thể
nhƣ sau:
Thứ nhất, tiếp tục quá trình đổi mới và cải cách nền kinh tế.
Dựa vào những yêu cầu của WTO, Việt Nam cần tiếp tục quá trình đổi
mới và cải cách một cách toàn diện, sâu sắc, nhanh chóng hình thành môi
trƣờng thể chế và cơ chế có thể tƣơng hợp với hệ thống quy tắc của WTO.
Đồng thời, Việt Nam cũng cần đẩy mạnh quá trình thiết lập hệ thống thị
trƣờng đồng bộ, thống nhất và kiện toàn cơ chế vận hành của hệ thống đó một
cách thống nhất, có trật tự, quy phạm rõ ràng. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh quá
trình cải cách và phát triển các doanh nghiệp nhà nƣớc, trong đó tập trung giải
quyết sớm các vấn đề nợ nần và tạo khả năng huy động vốn phát triển cho các
doanh nghiệp này bằng cơ chế mới.
75
Thứ hai, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng tham gia tích
cực vào hệ thống phân công và hợp tác lao động quốc tế.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng tham gia tích cực vào
hệ thống phân công và hợp tác lao động quốc tế, đặc biệt là quá trình phân
công và hợp tác lao động trong một ngành sản xuất, trong cùng một dây
chuyền giá trị. Tiến hành điều tra, phân loại, đánh giá khả năng cạnh tranh của
các loại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ để xác định các kênh thƣơng mại chủ
yếu của nền kinh tế theo các ngành hàng, mặt hàng và sản phẩm dịch vụ cụ
thể. Xây dựng các chính sách hỗ trợ, khuyến khích qua thuế, tín dụng đối với
những ngành công nghiệp hƣớng tới xuất khẩu. Tăng cƣờng đào tạo nguồn
lao động có kỹ năng phục vụ cho các ngành công nghiệp trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thƣơng mại. Từ
đó, hình thành và phát triển cơ cấu thƣơng mại của nền kinh tế phù hợp với
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nhằm khai thác lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá
Việt Nam và nâng cao tính hiệu quả của cả nền kinh tế.
Thứ ba, tăng cƣờng cho các doanh nghiệp thâm nhập thị trƣờng quốc tế,
thực hiện chính sách khuyến khích xuất khẩu phù hợp với yêu cầu WTO.
Việt Nam phải phát triển thƣơng mại điện tử. Tìm kiếm các hình thức
mới hỗ trợ xúc tiến thƣơng mại, đổi mới cơ chế sử dụng Quỹ xúc tiến thƣơng
mại. Xây dựng chƣơng trình xúc tiến thƣơng mại cho một số sản phẩm có
năng lực cạnh tranh trong tƣơng lai. Nghiên cứu thành lập trung tam xúc tiến
thƣơng mại tại một số thị trƣờng trọng điểm. Hợp tác với công ty thƣơng mại
nƣớc ngoài, ngân hàng nƣớc ngoài để tổ chức hoạt động xúc tiến trên thị
trƣờng quốc tế. Tổ chức nghiên cứu thị trƣờng, xây dựng hệ thống thông tin
dự báo thị trƣờng. Đào tạo, nâng cao năng lực cho cán bộ thƣơng mại và
ngoại giao ở nƣớc ngoài về thu thập và phân tích thông tin.
76
3.2.4. Xây dựng chương trình, phương thức đàm phán phù hợp, đảm
bảo thu được nhiều lợi ích nhất cho nền kinh tế Việt Nam
WTO là tổ chức có hệ thống luật lệ, quy định hết sức phức tạp, nhƣng
việc thực hiện các luật lệ, quy định lại chủ yếu dựa vào khả năng đàm phán.
Vì vậy, nƣớc gia nhập WTO không đồng nghĩa với việc đƣơng nhiên đƣợc
hƣởng lợi ích từ WTO, mà chỉ có nghĩa là có cơ hội đàm phán để đạt đƣợc lợi
ích. Để có thể có đƣợc lợi ích thông qua đàm phán đòi hỏi Việt Nam phải có
chƣơng trình, chiến lƣợc đàm phán phù hợp thực trạng nền kinh tế Việt Nam.
Giải pháp cụ thể để xây dựng chƣơng trình, chiến lƣợc đàm phán đảm
bảo quá trình gia nhập WTO mang lại lợi ích lớn nhất cho nƣớc ta nhƣ sau:
Một là, có sự thống nhất về phƣơng án đàm phán giữa các bộ, ngành.
Một trong yếu tố quyết định thành công tại bàn đàm phán là sự thống
nhất về phƣơng án đàm phán giữa các bộ, ngành, tức sự nhất trí về mức độ có
thể nhân nhƣợng ở từng phạm vi cam kết trong quá trình tổng hợp phƣơng án
đàm phán, xác định vị thế đàm phán của quốc gia. Do đó, cơ quan điều phối
liên bộ mà hiện nay là Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế cần nỗ lực
và thể hiện rõ vai trò của mình trong việc tổng hợp phƣơng án đàm phán. Mâu
thuẫn về tiếp cận thị trƣờng trong các lĩnh vực nhỏ có sự trùng lắp hoặc liên
quan chức năng giữa các bộ, ngành phải đƣợc giải quyết thông qua đối thoại
một cách hệ thống và dân chủ giữa các bộ liên quan. Đồng thời, các bộ và các
nhóm lợi ích khác nhau trong nƣớc phải vƣợt qua đƣợc những lợi ích cục bộ
của mình nhằm xây dựng và bảo vệ những lợi ích cơ bản của đất nƣớc, quyết
tâm thu đƣợc kết quả đàm phán tốt nhất.
Hai là, trong đàm phán phải có chiến thuật hợp lý để giành đƣợc những
ƣu đãi của WTO cho Việt Nam.
77
Trong điều kiện của nền kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiên đại hoá, Việt Nam cần ra sức đàm phán để tận dụng những điều khoản
ngoại lệ của WTO dành cho các nƣớc đang phát triển nhƣ: Các ngành công
nghiệp non trẻ có thể vửa duy trì mức thuế cao hợp lý, vừa áp dụng các biện
pháp hành chính nhƣ giấy phép, hạn ngạch,... theo thời hạn cho phép một
cách thích hợp; Vận dụng điều khoản WTO cho phép các nền kinh tế đang
phát triển kéo dài thời hạn cắt giảm thuế quan để áp dụng chế độ thuế linh
hoạt đối với các ngành công nghiệp trong nƣớc; Vận dụng điều khoản về đảm
bảo và cân bằng thu nhập ngoại hối để thực hiện các biện pháp bảo hộ khẩn
cấp đối với nền kinh tế quốc dân khi rơi vào tình trạng mất cân bằng thƣơng
mại và mất cân bằng thu - chi bằng biện pháp hạn chế nhập khẩu.
Ba là, phải thu thập và nghiên cứu đầy đủ về đối tác đàm phán để quyết
định mức độ và chiến lƣợc “mặc cả”.
Chúng ta có thể rút ra nhiều bài học từ sự nghiên cứu kinh nghiệm thành
công và thất bại trong đàm phán của các nƣớc đang phát triển mới gia nhập.
Chúng ta cần đối chiếu những cam kết và nhân nhƣợng của nƣớc khác với
cam kết của ta và đánh giá mức độ có thể nhân nhƣợng của ta.
Việt Nam đang đàm phán gia nhập WTO, vậy mức cam kết tự do hoá
thƣơng mại đến đâu thì phù hợp với nƣớc ta. Chúng ta có thể đƣa ra phƣơng
thức và mức độ đàm phán là giảm dần cả hàng rào thuế quan và hàng rào phi
thuế quan tới mức phù hợp với mức các nƣớc đang phát triển đã đƣa ra để
đàm phán. Có thể lấy mức cam kết của một vài nƣớc đang phát triển mới gia
nhập WTO trong 2 năm gần đây để gia giảm, điều chỉnh trong đàm phán.
Bốn là, tăng cƣờng công tác thông tin, tuyên truyền về việc gia nhập
WTO của Việt Nam.
78
Gia nhập tổ chức Thƣơng mại thế giới có tác động rất lớn đến nền kinh
tế, cho nên Nhà nƣớc cần tăng cƣờng hơn nữa công tác tƣ tƣởng, tuyên truyền
phổ biến sâu rộng về hội nhập kinh tế nói chung, gia nhập WTO nói riêng,
đặc biệt là phải làm cho mỗi ngƣời dân, các doanh nghiệp hiểu và nắm vững
nội dung cũng nhƣ lộ trình hội nhập; nắm đƣợc những thời cơ cũng nhƣ thách
thức để chủ động tận dụng cũng nhƣ vƣợt qua.
Ngoài ra, dƣ luận cần biết nhiều hơn về các kỹ thuật đàm phán để biết
rằng chúng ta đang thành công hay đang thất bại trên bàn đàm phán. Báo chí
nên đăng tải nhiều hơn ý kiến các chuyên gia về các kỹ thuật đàm phán gia
nhập WTO. Điều này sẽ khiến dƣ luận trong nƣớc có cái nhìn sâu hơn và bình
tĩnh hơn về WTO cũng nhƣ những thách thức mà chúng ta đang đối mặt.
Việc công bố, phổ biến kịp thời và hƣớng dẫn cho công chúng đặc biệt là
doanh nghiệp các kết quả đàm phán để họ hiểu và vận dụng đƣợc các kết quả
đó và thực tiễn sản xuất và kinh doanh quốc tế. Điều này không chỉ nâng cao
sự chuẩn bị hội nhập mà quan trọng hơn, tạo ra sự đồng thuận, tránh đƣợc sự
phản ứng trong nƣớc khi xin phê duyệt gia nhập cuối cùng và những biến
động xã hội khi đã là thành viên của WTO.
Năm là, xây dựng đội ngũ đàm phán có trình độ chuyên môn và tâm
huyết.
Chúng ta phải xây dựng một đội ngũ cán bộ chuyên trách đàm phán về
WTO. Những ngƣời tham gia đàm phán không chỉ có trình độ chuyên môn
cao, nắm chắc các hiệp định, cam kết của WTO, thông thạo ngoại ngữ mà còn
phải có năng lực đàm phán và thực sự tâm huyết. Quan trọng hơn, phải hạn
chế việc thay thế ngƣời thƣờng xuyên bởi quá trình đàm phán đòi hỏi sự theo
dõi sát sao các động thái của WTO, của các nƣớc thành viên WTO và những
thay đổi chính sách trong nƣớc và các kết quả đàm phán đã đạt đƣợc. Điều
này cũng giúp xây dựng thiện chí và chữ tín với các đối tác đàm phán. Chính
79
vì vậy, các bộ, ngành cần lựa chọn chính xác ngƣời cho đàm phán gia nhập
WTO và có thể cần đến sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế trong việc đào tạo
các đàm phán viên cho Việt Nam.
Sáu là, coi trọng đàm phán với các đối tác lớn nhƣng cũng không đƣợc
xem thƣờng các đối tác nhỏ.
Cần phải hiểu thực chất việc gia nhập WTO là Việt Nam phải đạt đƣợc
thoả thuận với từng thành viên WTO, chứ không phải là thoả thuận với WTO
nói chung.
Theo quy định của WTO khi ra đại hội đồng bỏ phiếu, mỗi nƣớc cần ít
nhất 2/3 số phiếu đồng ý mới đƣợc gia nhập, trong đó tất cả các nƣớc lớn phải
đồng ý. Vì vậy, Việt Nam phải hoàn tất đàm phán với tất cả các nƣớc có yêu
cầu, đặc biệt là các nƣớc lớn đồng thời một kinh nghiệm chi ra rằng, nếu
chúng ta bỏ qua một số đối tác nhỏ thì rất dễ bị gây khó dễ và tiến trình gia
nhập có thể bị kéo dài.
3.2.5. Thực hiện tốt chính sách xã hội nhằm hạn chế những tác động
tiêu cực của việc Việt Nam gia nhập WTO
Để hạn chế tới mức thấp nhất những tác động tiêu cực tới xã hội khi Việt
Nam gia nhập WTO, ngoài việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp, hàng hoá và dịch vụ; phát triển đồng bộ các loại thị trƣờng hàng hoá,
tiền tệ, tài chính, khoa học, đặc biệt là thị trƣờng lao động thì Nhà nƣớc cần
quan tâm đến bộ phận doanh nghiệp bị phá sản và một bộ phận ngƣời lao
động bị thất nghiệp. Chính phủ phải triển khai, thực hiện các chính sách xã
hội sau:
80
- Hỗ trợ cho các doanh nghiệp bị phá sản để họ có thể đổi mới kỹ thuật,
chuyển hƣớng kinh doanh, hoặc giải thể sát nhập với các doanh nghiệp khác.
- Triển khai các chƣơng trình nâng cao chất lƣợng lao động, trợ giúp
ngƣời thất nghiệp, đào tạo lại nghề nghiệp của họ...Ngoài ra, chính phủ cần
xây dựng và hoàn thiện các chính sách bảo hiểm hƣu trí, thất nghiệp, tai nạn
lao động và một số thể chế xã hội khác nhằm phòng tránh rủi ro cho ngƣời lao
động.
- Giải quyết các vấn đề tác động xã hội khác của hội nhập kinh tế quốc
tế nhƣ: Gia tăng chƣơng trình xoá đỏi giảm nghèo, đặc biệt cho các vùng sâu,
vùng xa; Đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững, cân bằng cán cân thanh
toán, công bằng xã hội và thu nhập giữa các lĩnh vực và khu vực của nền kinh
tế, ...
3.2.6. Đẩy mạnh việc điều chỉnh, bổ sung hệ thống pháp luật cho phù
hợp với các cam kết của WTO
Hiện nay có sự khác biệt giữa hệ thống pháp luật Việt Nam với các quy
định của WTO trên một số lĩnh vƣc. Để sớm gia nhập WTO, Việt Nam cẩn
phải khẩn trƣơng thực hiện kế hoạch điều chỉnh, bổ sung luật pháp hiện hành
cho phù hợp với các cam kết với WTO. Sớm tiến tới hình thành khung pháp
lý thống nhất đối với các loại hình doanh nghiệp có hình thức tổ chức, sở hữu
khác nhau thuộc các thành phần kinh tế. Sớm có các văn bản dƣới luật về
cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, quy định rõ về các lĩnh vực và tổ chức
đƣợc độc quyền tự nhiên. Những biện pháp cụ thể nhƣ sau:
Thứ nhất, đẩy nhanh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật chính sách quản
lý kinh tế. Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, điều không tránh khỏi là sẽ
phát sinh nhiều điểm khác nhau giữa hệ thống luật hiện tại với hệ thống luật
81
quốc tế mà chúng ta sẽ tham gia. Theo kết quả rà soát để gia nhập WTO ta
cần sửa đổi và xây dựng mới 37 luật và pháp lệnh liên quan tới 16 hiệp định
chính của WTO. Đây là khối lƣợng công việc khổng lồ, đòi hòi sự nỗ lực rất
lớn của Quốc hội và Nhà nƣớc ta.
Thứ hai, một yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam là khi điều chỉnh hệ thống
pháp luật phải không gây xáo trộn nền kinh tế. Cái gì mà ta đã làm đƣợc rồi
thì giữ nguyên, có thể điều chỉnh để đáp ứng tốt hơn yêu cầu của WTO, chứ
không phá đi làm lại. Sửa đổi, ban hành mới nhƣng phải kế thừa quy định
hiện hành. Và phải đảm bảo ổn định an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn
hoá, bảo vệ môi trƣờng... Yêu cầu này phải đƣợc thể hiện trong luật và áp
dụng không phân biệt với mọi đối tƣợng.
Thứ ba, việc điều chỉnh bổ sung các luật lệ của Việt Nam ngoài việc phù
hợp với các quy định của WTO còn phải tính tới trình độ phát triển của nền
kinh tế và hoàn cảnh cụ thể của đất nƣớc. Việc rà soát lại các chính sách kinh
tế và thƣơng mại trong nƣớc để dần điều chỉnh, bổ sung các luật lệ, cơ chế,
không chỉ giảm mức độ chênh với luật lệ của WTO mà còn phù hợp với trình
độ phát triển của nền kinh tế và hoàn cảnh cụ thể của đất nƣớc. Những chính
sách mới trƣớc khi ban hành cần đƣợc kiểm tra mức độ phù hợp với WTO.
Ngoài ra, vấn đề quan trọng đặt ra là tính toán, vận dụng uyển chuyển các
nguyên tắc ngoại lệ WTO nhƣ quyền tự vệ, quyền tham gia các tổ chức kinh
tế khu vực, về đối xử khác biệt và đặc biệt cho các nƣớc đang phát triển và
chậm phát triển, để ban hành và thực thi chính sách trong nƣớc vừa phù hợp
với quốc tế, vừa bảo hộ và kích thích sự phát triển của các ngành sản xuất và
doanh nghiệp.
82
Thứ tư, cần có một đợt tập huấn cho các cán bộ làm luật và thi hành
luật của Trung ƣơng, các bộ ngành và địa phƣơng về hệ thống thể chế của
WTO, để trang bị những kiến thức cần thiết.
Thứ năm, cần có sự phân cấp giữa Trung ƣơng, các bộ ngành và các địa
phƣơng trong việc rà soát lại, sửa chữa và ban hành các quy định pháp luật
mới phù với WTO.
3.2.7. Tạo điều kiện tốt cho các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả và
năng lực cạnh tranh trên thị trường
Nỗi lo hiện nay đối với các doanh nghiệp, cả doanh nghiệp nhà nƣớc và
tƣ nhân, là không có đủ khả năng để trụ lại đƣợc trong cuộc cạnh tranh với
các công ty nƣớc ngoài khi Việt Nam mở cửa thị trƣờng nhiều hơn. Do đó,
nhà nƣớc cần có giải pháp sắp xếp, hỗ trợ các doanh nghiệp theo các nội
dung sau:
- Triển khai các nghiên cứu xác thực đánh giá khả năng cạnh tranh của
từng ngành để phân bổ đầu tƣ có hiệu quả; đồng thời, tạo đƣợc các điều kiện
kỹ thuật và pháp lý, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp nâng cao nội lực và
khả năng thích ứng với các điều kiện cạnh tranh quốc tế.
- Đầu tƣ phải đƣợc phân bổ cho các ngành mà khả năng cạnh tranh quốc
tế hiện tại đủ mạnh, có thể duy trì lâu dài, hoặc vào những ngành mà nhờ vào
lợi thế so sánh nhƣ lao động rẻ hoặc giàu tài nguyên thiên nhiên (những
ngành sử dụng nguyên liệu nông nghiệp và sản phẩm nông nghiệp mà ta có
ƣu thế) có khả năng đối mặt đƣợc với những thách thức hội nhập.
- Trên cơ sở lựa chọn các sản phẩm có lợi thế, có thị trƣờng và có khả
năng cạnh tranh, tiến hành điều chỉnh, bổ sung chiến lƣợc, quy hoạch phát
triển ngành, vùng lãnh thổ, địa phƣơng.
83
- Đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nƣớc, tập trung kiện toàn nâng cao hiệu quả của các tổng công ty,
đồng thời đẩy nhanh thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nƣớc. Mở
rộng các phƣơng thức kinh doanh nhƣ thị trƣờng giao dịch kỳ hạn, buôn bán
qua mạng; phát triển thị trƣờng bất động sản.
- Củng cố, phát triển các doanh nghiệp theo hƣớng hội nhập kinh tế quốc
tế: Đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc, và chuyển đổi sở
hữu các doanh nghiệp nhà nƣớc.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng thƣơng hiệu hàng hoá. Hiện nay, vấn
đề xây dựng và bảo vệ thƣơng hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam còn rất
yếu, đặc biệt là trên các thị trƣờng nƣớc ngoài. Việc đăng ký thƣơng hiệu và
bảo vệ thƣơng hiệu là công việc của doanh nghiệp, nhƣng để tiến hành công
việc này có hiệu quả, cần có sự hỗ trợ mạnh mẽ của Nhà nƣớc, nhất là việc
đăng ký thƣơng hiệu ở các thị trƣờng nƣớc ngoài. Vì vậy, để chuẩn bị gia
nhập WTO, Nhà nƣớc cần phải: Xây dựng cơ sở pháp lý đầy đủ và thuận lợi
hơn liên quan đến thƣơng hiệu; Tích cực tham gia các công ƣớc, thoả thuận
quốc tế liên quan nhãn hiệu hàng hoá.
- Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thƣơng mại cho các doanh nghiệp. Mặc
dù đạt đƣợc nhiều thành công trong những năm vừa qua, nhƣng kinh nghiệm,
cũng nhƣ am hiểu thị trƣờng của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn thấp.
Điều này đã gây ra nhiều trở lực cũng nhƣ thua thiệt trong kinh doanh với các
đối tác có bề dày kinh nghiệm. Các bộ, ngành, đặc biệt là các cơ quan ngoại
giao và thƣơng vụ Việt Nam ở nƣớc ngoài cần phải tích cực hơn nữa trong
việc cung cấp thông tin về pháp luật, thị trƣờng, thị hiếu, yêu cầu về chất
lƣợng sản phẩm, các điều kiện tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm nhập khẩu....
của các nƣớc cho các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó, các cơ quan đại
diện ở nƣớc ngoài cần đẩy mạnh việc phối hợp với các doanh nghiệp để tổ
84
chức các chiến dịch quảng cáo, triển lãm hàng Việt Nam. Mặt khác, cần đẩy
mạnh, khuyến khích phát triển các hiệp hội ngành hàng xuất khẩu. Các hiệp
hội này vừa hỗ trợ nhau trong xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá và
doanh nghiệp Việt Nam, vừa góp phần xử lý có hiệu quả các vụ kiện, các
tranh chấp thƣơng mại với các đối tác nƣớc ngoài.
3.2.8. Cải cách hành chính và bộ máy điều hành của chính phủ
Gia nhập WTO đòi hỏi bộ máy điều hành của chính phủ phải thích ứng
nhanh với những biến động của thị trƣờng thế giới. Do vậy, thách thức lớn
nhất của việc gia nhập WTO đối với Việt Nam là thách thức đối với chính
phủ. Chính phủ phải chuyển từ phƣơng thức lãnh đạo, quản lý một nền kinh
tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa quốc gia tuy có những quan hệ kinh
tế đối ngoại mở rộng, sang phƣơng thức lãnh đạo, quản lý một nền kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa hội nhập toàn cầu, tuỳ thuộc ngày càng
nhiều và các quan hệ kinh tế toàn cầu. Sau khi gia nhập WTO, chính phủ có
thêm một chức năng mới đó là tham gia đàm phán đa phƣơng với các chính
phủ thành viên WTO định ra những thể chế toàn cầu mới, đồng thời phải
chuyển những thể chế đã đƣợc cam kết toàn cầu đó thành những thể chế quốc
gia, thực thi chúng và ứng phó kịp thời với những biến động của tình hình
kinh tế thế giới. Để dảm đƣơng đƣợc các chức năng nói trên, chính phủ cần
phải thực hiện một số giải pháp sau:
- Cần xây dựng một nền hành chính minh bạch, một môi trƣờng pháp lý
thuận lợi, hoàn chỉnh, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế và tiến trình gia
nhập WTO. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tiếp tục rà soát các giấy phép
kinh doanh hiện hành và điều kiện kinh doanh đối với những ngành có điều
kiện, nhất là trên những ngành, lĩnh vực cho đến nay chƣa đƣợc rà soát. Đơn
giản hóa các thủ tục hoàn thuế, hải quan, đất đai, xây dựng.. phù hợp với
chuẩn mực quốc tế. Xây dựng quy chế công bố thông tin của các cơ quan nhà
85
nƣớc về quy hoạch, về chính sách có liên quan, quy chế trả lời ý kiến công
dân và doanh nghiệp. Thể chế hoá việc tổ chức đối thoại giữa doanh nghiệp
với các cơ quan chức năng và chính quyền địa phƣơng; quy định trách nhiệm
thực hiện các cam kết và thời hạn giải quyết. Khẩn trƣơng thực hiện chƣơng
trình sử dụng công nghệ thông tin trong hệ thống quản lý nhà nƣớc, từng bƣớc
xây dựng “chính phủ điện tử”.
- Hoàn thiện, xây dựng một hệ thống các cơ quan nghiên cứu quốc tế
toàn diện từ chính trị, an ninh tới kinh tế - xã hội, văn hoá, môi trƣờng, đặc
biệt là những cơ quan nghiên cứu về WTO và các định chế toàn cầu, khu vực.
Các cơ quan này có chức năng báo cáo, tham mƣu cho chính phủ về những
biến động của tình hình quốc tế và đề xuất những chính sách, giải pháp...
- Bồi dƣỡng, nâng cao trình độ cho đội ngũ nghiên cứu, hoạch định các
chính sách kinh tế đối ngoại - quan trọng nhất là các chính sách hội nhập toàn
cầu, khu vực và song phƣơng, nghiên cứu đề xuất những sáng kiến về chính
sách với các tổ chức trên và hoàn thiện thể chế kinh tế Việt Nam phù hợp với
WTO.
Xây dựng một trung tâm tƣ vấn, thông tin và đào tạo về WTO. Trung
tâm này có nhiệm vụ thu thập tất cả các tài liệu về WTO, biên soạn các tài
liệu cần phổ biến về WTO cho các cấp, các ngành và ngƣời dân, tổ chức các
khoá huấn luyện các vấn đề cần thiết nhƣ: vấn đề chống bán phá giá, vấn đề
chống trợ cấp, vấn đề giải quyết tranh chấp...
- Xây dựng một bộ phận thanh tra chuyên về kinh tế đối ngoại, kiểm tra
hệ thống văn bản pháp quy của các cấp, các địa phƣơng, có tuân thủ đúng các
thể chế của WTO không...
- Mỗi bộ, ngành, địa phƣơng, cần có bộ phận chuyên theo dõi về các
quan hệ với WTO, để có thể xử lý kịp thời những vấn đề nảy sinh.
86
3.2.9. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia để chủ động gia nhập
WTO
Muốn tận dụng tốt thời cơ, vƣợt qua thách thức khi gia nhập WTO, cần
phải nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Nhƣng cũng có thể thấy rằng
năng lực cạnh tranh của quốc gia đƣợc biểu hiện chủ yếu qua năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Vì vậy, để nâng cao năng lực
cạnh tranh, các doanh nghiệp cần phải thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, yêu cầu nhà nƣớc bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp.
Đàm phán gia nhập WTO có nghĩa là chúng ta đang đàm phán số phận của
các doanh nghiệp trong nƣớc, nhƣng dƣờng nhƣ có ít cơ hội cho các doanh
nghiệp trong nƣớc đƣợc tham gia ý kiến vào chiến lƣợc của các nhà đàm
phán. Nếu các nhà sản xuất cá ba sa Mỹ có thể yêu cầu Bộ Thƣơng mại Mỹ
đánh thuế cao cá ba sa xuất khẩu Việt Nam, tại sao các doanh nghiệp phần
mềm Việt Nam không thể đòi hỏi Bộ Thƣơng mại Việt Nam một thời hạn tối
thiểu để Việt Nam mở cửa thị trƣờng phần mềm. Vì vậy, các doanh nghiệp
cần đƣa những yêu cầu của mình đối với các cơ quan nhà nƣớc để họ bảo vệ
lợi ích cho doanh nghiệp hoặc thông qua báo chí để đƣa yêu cầu của các
doanh nghiệp vào thẳng hồ sơ đàm phán.
Thứ hai, các doanh nghiệp cần thƣờng xuyên nắm bắt những thông tin,
kiến thức về hội nhập WTO. Các doanh nghiệp cần chủ động cùng với các cơ
quan chức năng về pháp lý và xúc tiến thƣơng mại của Chính phủ nắm bắt các
thông tin liên quan tới các nội dung, lộ trình hội nhập, các vấn đề nóng bỏng
phát sinh trong quá trình này. Các doanh nghiệp cần trang bị cho mình những
kiến thức về thị trƣờng nƣớc ngoài, nắm bắt tập quán nhất là luật lệ kinh
doanh ở các thị trƣờng của mình. Việc trang bị những kiến thức pháp luật
vững chắc cũng rất cần thiết để có thể chủ động cũng nhƣ để có thể tự bảo vệ
mình trong hội nhập.
87
Thứ ba, các doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến lƣợc phát triển
ngành hàng của mình. Để cạnh tranh đƣợc, các doanh nghiệp phải xây dựng
chiến lƣợc phát triển ngành hàng của mình, cả trƣớc mặt và lâu dài, những
doanh nghiệp sản xuát phải đầu tƣ cho công nghệ thiết bị, đào tạo cán bộ, xác
định chiến lƣợc phát triển thị trƣờng trong và ngoài nƣớc. Điều quan trọng là
các doanh nghiệp phải thấy đƣợc sự hối thúc của quá trình hội nhập. Thời kỳ
ỷ lại vào bảo hộ, hỗ trợ của Chính phủ sắp qua, để hội nhập kinh tế quốc tế,
các doanh nghiệp phải hƣớng đƣợc việc sản xuất trong nƣớc phù hợp với yêu
cầu của thị trƣờng thế giới. Các nhà sản xuất cần xác định rằng, không phải
cái gì mình làm đƣợc là sản xuất mà phải tìm những mặt hàng phù hợp với thị
trƣờng, chất lƣợng tốt và giá cả hợp lý thì mới có thể cạnh tranh đƣợc.
Thứ tư, các doanh nghiệp phải có kế hoạch bồi dƣỡng, xây dựng đội ngũ
cán bộ thích ứng đƣợc môi trƣờng kinh doanh mới. Có kế hoạch cụ thể đẩy
mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực vững vàng về chính trị, có đạo đức,
tinh thông nghiệp vụ, có tác phong công nghiệp và tinh thần kỷ luật cao. Cần
chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ, quản lý và kinh doanh hiểu biết sâu về luật
pháp quốc tế và nghiệp vụ chuyên môn, nắm bắt nhanh những chuyển biến
trên thƣơng trƣờng quốc tế để ứng xử kịp thời, nắm bắt đƣợc kỹ năng thƣơng
thuyết và có trình độ ngoại ngữ tốt. Bên cạnh đó, cần hết sức coi trọng việc
đào tạo đội ngũ công nhân có trình độ tay nghề cao. Cùng với việc đào tạo
nhân lực cần có chính sách thu hút, bảo vệ và sử dụng nhân tài; bố trí, sử
dụng cán bộ đúng với ngành nghề đƣợc đào tạo và với sở trƣờng năng lực của
từng ngƣời.
Thứ năm, các doanh nghiệp nhà nƣớc cải cách lại cơ cấu theo hƣớng đa
và xuyên quốc gia thông qua các biện pháp:
88
+ Khuyến khích sự phát triển của các công ty đa và xuyên quốc gia đã có
ở Việt Nam, và thu hút nhiều hơn nữa các công ty này vào nƣớc ta.
+ Khuyến khích các công ty Việt Nam không kể là quốc doanh hay tƣ
nhân liên kết, liên doanh với các công ty đa và xuyên quốc gia nƣớc ngoài.
+ Khuyến khích các công ty Việt Nam, kể cả các công ty của Việt kiều
gia tăng hoạt động ở thị trƣờng bên ngoài.
+ Thực hiện những cải cách công ty theo mô hình các công ty hiện đại
kinh doanh xuyên quốc gia.
+ Thực hiện triệt để hơn Luật doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho sự ra đời của các công ty mới, đồng thời sửa đổi Luật phá sản để cho các
công ty kinh doanh yếu kém có thể phá sản.
Thứ sáu, đầu tƣ đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất lao động giảm
giá thành sản phẩm. Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn nặng về các sản
phẩm thô chƣa qua chế biến, các sản phẩm công nghiệp vẫn còn nghèo nàn về
chủng loại, chất lƣợng thấp, giá thành cao do công nghệ lạc hậu và tiêu tốn
nhiều nguyên, nhiên, vật liệu. Từ thực tế này, việc đầu tƣ đổi mới công nghệ
là vấn đề rất cấp bách đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Việc đầu tƣ đổi
mới công nghệ phải nhằm nâng cao chất lƣợng sản phẩm, tạo ra năng suất lao
động cao, giảm chi phí sản xuất, đáp ứng đƣợc các tiêu chuẩn của nƣớc nhập
khẩu về bao bì, đóng gói và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá xuất
khẩu cũng nhƣ của doanh nghiệp trên thị trƣờng nƣớc ngoài.
Thứ bảy, áp dụng hệ thống quản lý chất lƣợng quốc tế. Trong thƣơng mại
quốc tế hiện nay, chất lƣợng đóng vị trí quan trọng hàng đầu và là nhân tố
quyết định khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu. Việc áp dụng các
tiêu chuẩn chất lƣợng quốc tế nhƣ ISO, GMP, TQM vừa là điều kiện cần để
đảm bảo chất lƣợng cho các sản phẩm của các doanh nghiệp, nhƣng quan
89
trọng hơn cả là đƣợc sự công nhận của các đối tác nƣớc ngoài. Tầm quan
trọng của áp dụng các hệ thống quản lý chất lƣợng là rất lớn, song các doanh
nghiệp Việt Nam hiện nay áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế còn rất hạn chế. Vì
vậy, vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp cần phải cố gắng thay đổi tƣ duy, đổi
mới nâng cao năng lực của mình để áp dụng hệ thống quản lý chất lƣợng quốc
tế vào trong sản xuất, có nhƣ vậy doanh nghiệp mới có thể cạnh tranh đƣợc
trên thị trƣờng thế giới ngày càng khắt khe trong thế kỷ XXI.
Thứ tám, chủ động xây dựng các kênh phân phối của doanh nghiệp vào
thị trƣờng thế giới. Trong những năm qua, việc phân phối hàng hoá của các
doanh nghiệp Việt Nam chƣa đƣợc thực hiện tốt, bị phụ thuộc vào hệ thống
kênh phân phối của nƣớc ngoài. Do đó, các doanh nghiệp cần phải chủ động
trong xây dựng hệ thống phân phối của mình trên các thị trƣờng thế giới.
Thứ chín, tăng cƣờng năng lực công nghệ của doanh nghiệp, trợ giúp
doanh nghiệp chuyển giao công nghệ, tiến tới cạnh tranh bằng sản phẩm có
hàm lƣợng tri thức cao và có tính độc đáo. Đơn giản hoá thủ tục đăng ký
quyền sở hữu trí tuệ. Xây dựng khung pháp lý cho thị trƣờng khoa học công
nghệ, mở rộng phạm vi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với quy định của
WTO và các điều ƣớc quốc tế đã ký kết.
Tóm lại, để Việt Nam gia nhập WTO có hiệu quả, thu đƣợc nhiều lợi
ích nhất đòi hỏi Chính phủ phải có hệ thống giải pháp đồng bộ trên nhiều lĩnh
vực khác nhau. Những giải pháp này cần phải đƣợc nhận thức và quán triệt
đầy đủ thì mới mang lại hiệu quả thực sự cho Việt Nam khi gia nhập WTO.
90
KẾT LUẬN
Trong những năm gần đây, toàn cầu hoá đã trở thành một xu thế lớn của
thời đại. Quá trình toàn cầu hoá đang tác động phổ biến và ảnh hƣởng sâu sắc
tới đời sống kinh tế của tất cả các quốc gia thông qua quốc tế hoá thƣơng mại,
quốc tế hoá vốn và sản xuất. Trƣớc xu thế này, mỗi quốc gia, tuỳ vào trình độ
phát triển của mình đều đang cố gắng có những cách thức, bƣớc đi phù hợp
nhằm nắm bắt cơ hội, vƣợt qua thách thức để phát triển.
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển và đang đứng trƣớc nguy cơ bị
tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế so với các nƣớc trong khu vực và trên thế
giới. Để tránh nguy cơ tụt hậu này và để đất nƣớc có cơ hội phát triển vững
mạnh trong tƣơng lai, Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế toàn cầu hoá
đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. Nhận thức đƣợc điều này, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã chỉ rõ: “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực”[27,
tr.120] và “tiếp tục mở rộng kinh tế đối ngoại theo hƣớng đa phƣơng hoá, đa
dạng hoá”[27, tr.198].
Một trong những nỗ lực rất lớn của Việt Nam nhằm thực hiện đƣờng lối
kinh tế đối ngoại theo hƣớng đa phƣơng hoá, đa dạng hoá là sự chuẩn bị hết
sức công phu để tiến tới gia nhập WTO - một tổ chức điều tiết hoạt động
thƣơng mại giữa các quốc gia trên quy mô toàn thế giới. Quá trình chuẩn bị
này, tính đến nay đã đƣợc 10 năm (1995 - 2005) và nhìn chung là đạt đƣợc
rất nhiều kết quả khả quan.
Tìm hiểu quá trình chuẩn bị gia nhập WTO của Việt Nam trong bối cảnh
hiện nay, Tác giả luận văn đã bƣớc đầu làm rõ đƣợc một số nội dung sau:
Một là, chỉ ra những lợi ích và thách thức của Việt Nam khi gia nhập
WTO, từ đó thấy đƣợc tính tất yếu phải gia nhập WTO của Việt Nam.
91
Hai là, khảo sát, đánh giá một cách chi tiết quá trình chuẩn bị gia nhập
WTO của Việt Nam trên 2 phƣơng diện: ngoại giao (thực hiện đàm phán với
các đối tác) và kinh tế (chuẩn bị những điều kiện kinh tế để có thể gia nhập và
thu đƣợc lợi ích lớn nhất trong môi trƣờng WTO), từ đó rút ra những kết quả
đạt đƣợc cũng nhƣ những vấn đề đặt ra của quá trình chuẩn bị đó.
Ba là, trên cơ sở những phân tích và khảo sát trên, tác giả luận văn đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả gia nhập WTO của Việt Nam.
Theo lộ trình, việc gia nhập WTO của Việt Nam có thể đƣợc thực hiện
vào cuối năm 2005 hoặc trong năm 2006. Tuy nhiên, để Việt Nam có thể nắm
bắt đƣợc nhiều cơ hội và vƣợt qua đƣợc nhiều thách thức khi gia nhập WTO,
chúng ta còn cần phải đƣa ra đƣợc nhiều hơn nữa những giải pháp đồng bộ cả
ở tầm vĩ mô và vi mô. Vì vậy với khả năng còn nhiều hạn chế, chắc chắn
những giải pháp mà tác giả luận văn đƣa ra sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Tác
giả luận văn rất mong nhận đƣợc sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô để hoàn
thiện hơn nữa công trình nghiên cứu của mình./.
92
1. Thy An (2004), “Liên bang Nga con đƣờng gập ghềnh tới WTO”, Báo Hà
Nội mới, tr. 4, ngày 11/8.
2. TS. Đinh Văn Ân (chủ biên) (2004), Việt Nam tích cực chuận bị gia nhập
WTO trong một số lĩnh vực dịch vụ, Nxb Văn hoá - Thông tin Hà Nội.
3. Ban Tƣ tƣởng - Văn hoá Trung ƣơng, Vụ Tuyên truyền và Hợp tác quốc tế
(2004), Những vấn đề lớn của thế giới và quá trình hội nhập, phát triển
của nước ta, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Bộ Ngoại giao (2000), Tổ chức thương mại thế giới WTO, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
5. Bộ Ngoại giao, Vụ các tổ chức quốc tế (1999), Các tổ chức quốc tế và Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Bộ Ngoại giao, Vụ Tổng hợp kinh tế (1999), Toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế của Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Nguyễn Mạnh Cầm (8/1995), "Ngoại giao Việt Nam góp phần xứng đáng
vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc", Tạp chí Cộng sản (10).
8. Nguyễn Mạnh Cầm (9/1995), "Phát biểu tổng kết hội thảo kỷ niệm 50 năm
ngoại giao Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế (7), tr. 6.
9. Nguyễn Mạnh Cầm (6/1997), "Châu Á trong thế kỷ XXI", Tạp chí Nghiên
cứu Quốc tế (18), tr. 3-8.
10. Nguyễn Mạnh Cầm (2/1998), "Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi
mới vì phát triển và hợp tác", Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế (1), tr. 3-9.
11. Nguyễn Mạnh Cầm (2/1999), "Đối ngoại Việt Nam 1998", Tạp chí Cộng
sản (4), tr. 17-21.
12. Nguyễn Mạnh Cầm (9/2000), "Ngoại giao Việt Nam thời kỳ đổi mới", Tạp
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
93
chí Cộng sản (17), tr. 14-18
13. Trần Quang Cơ (3/1995), "Thế giới hƣớng về thế kỷ 21", Tạp chí Nghiên
cứu Quốc tế (5), tr. 3-7.
14. Nguyễn Sinh Cúc (1-2/2000), "Kinh tế Việt Nam năm 1999 và phƣơng
hƣớng năm 2000", Tạp chí Kinh tế và Phát triển (34), tr. 3-5.
15. Nguyễn Sinh Cúc (9/2000), "Kinh tế-xã hội Việt Nam 55 xây dựng và phát
triển", Tạp chí Cộng sản (17), tr. 27-31.
16. Phạm Quang Diệu (2004), "Nông nghiệp Việt Nam các kịch bản hội nhập
WTO", Tạp chí Tia sáng (5), tr. 43.
17. Nguyễn Bá Diến (2002), "Việc gia nhập tổ chức thƣơng mại thế giới
(WTO) của Việt Nam: cơ hội và thách thức", Tạp chí khoa học (2), tr. 37-
48.
18. Lê Đăng Doanh (5/1999), "Hội nhập quốc tế - cơ hội và thách thức đối với
nền kinh tế nƣớc ta", Tạp chí Cộng sản (9).
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1990), Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban
Chấp hành Trung ương (khoá VI), số 08A-NQ/HNTW 27/3/1990.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp
hành Trung ương Đảng (khoá VII).
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1/1994), Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ, "Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta".
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1/1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc
94
giữa nhiệm kỳ khoá VII, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết của Bộ Chính trị số 07/NQ-
TƯ về Hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Nguyễn Hoàng Giáp (11/2000), “Các nƣớc đang phát triển trong bối cảnh
toàn cầu hoá”, Tạp chí Cộng sản (22), tr. 57-59.
30. Hoàng Giáp (2/2001), “Diễn đàn kinh tế Đa - vốt năm 2001 và làn sóng
phản đối toàn cầu hoá hiện nay”, Tạp chí Cộng sản (4), tr. 56-58.
31. Bích Hạnh (2004), “Nhiều lợi thế cũng nhƣ thách thức khi Việt Nam gia
nhập WTO”, Báo Nhân dân (18037), tr. 4, ngày 19/12.
32. Thanh Hải (2005), “2/3 ngƣời Mỹ hộ trợ Việt Nam gia nhập WTO”, Báo
Hà Nội mới (12916), tr. 8, ngày 26/1.
33. Phan Thế Hải (6/2000), "Trung Quốc - con đƣờng đến với Tổ chức Thƣơng
mại thế giới", Tạp chí Cộng sản (12), tr. 59-60.
34. Hồng Hà (12/1992), "Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của ta",
Tạp chí Cộng sản.
35. Thu Hà (2/2004), "Một bƣớc chuẩn bị cho Việt Nam gia nhập WTO”, Báo
Nhân dân, tr. 2, ngày 20/2.
36. Trần Văn Hiển (1999), "Các công ty xuyên quốc gia với việc phân chia thị
trƣờng thế giới hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu Lý luận (8), tr. 47-50.
37. Vũ Hiền (12/1996), "Đƣờng lối đối ngoại của Đảng ta", Tạp chí Cộng sản
95
(23).
38. Thu Hiền (7/2004), "Gia nhập WTO: Chặng cuối song không bằng phẳng",
Báo Kinh tế Việt Nam (29), tr. 6-7, ngày 20/7.
39. Văn Minh Hoa (2005), "Còn nhiều doanh nghiệp chƣa chuẩn bị cho “cuộc
chơi” WTO", Báo Phụ nữ Việt Nam (29), ngày 10/3.
40. Thôi Lệ Kim (2003), WTO và cuộc mưu sinh của người dân Trung Quốc,
Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
41. Nguyễn Bình Lan (2000), "Toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và các nƣớc
đang phát triển phải lựa chọn chiến lƣợc phát triển (tham khảo tài liệu nƣớc
ngoài). Những vấn đề kinh tế ngoại thƣơng", Tập san thông tin và nghiên
cứu khoa học của trường Đại học Ngoại thương (2).
42. V.I. Lênin (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Hoàng Xuân Long (1/1998), "Việt Nam và xu hƣớng toàn cầu hoá", Kinh
tế và Dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (297), tr. 35-36.
44. Nguyễn Thế Lực - Nguyễn Hoàng Giáp (2004), "Hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam: quá trình và một số kết quả", Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế
(55), tr. 5-14.
45. Lý Văn Lƣơng (2004), "Một số vấn đề chính phủ Trung Quóc cần giải
quyết khi gia nhập WTO", Tạp chí lý luận chính trị (7), tr. 62-67.
46. Võ Đại Lƣợc (chủ biên)(1995), Đổi mới kinh tế Việt Nam và chính sách
kinh tế đối ngoại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
47. Võ Đại Lƣợc (chủ biên)(2004), Trung Quốc gia nhập tổ chức thương mại
thế giới (WTO) thời cơ và thách thức, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
48. Lê Bộ Lĩnh (1/1999), "Thƣơng mại thế giới năm 1998: một năm đầy khó
khăn", Tạp chí Cộng sản (2), tr. 51-55.
49. Hạnh Mai (2004), "WTO - những thuận lợi và thách thức”", Báo Hà Nội
96
mới (12628), tr. 3, ngày 10/4.
50. Nguyễn Mại (3/2000), "Hội nhập kinh tế thế giới: vấn đề và giải pháp",
Tạp chí Cộng sản, (5), tr. 17-23.
51. PGS. TS. Nguyễn Thị Mơ (2002), Hoàn thiện pháp luật về thương mại và
hàng hải trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
52. C. Mác, F. Ănghen (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
53. Phan Doãn Nam (4/1999), "Lại bàn về Hội nhập Quốc tế", Tạp chí Nghiên
cứu Quốc tế (2), tr. 3-9.
54. Nguyễn Văn Nam (2000), "Xu thế mở cửa tự do hoá thƣơng mại - cơ hội
và thách thức cho Việt Nam", Sinh hoạt Lý luận (1), tr. 16-21.
55. Trần Nhâm (chủ biên) (1997), Có một Việt Nam như thế đổi mới và phát
triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
56. Trần Nhân (2004), "Việt Nam đẩy nhanh lộ trình đàm phán gia nhập
WTO", Báo Hà Nội mới (12870), tr. 8, ngày 10/12.
57. Mai Hồng Nhung, Nguyễn Hoàng Tuấn (2004), “Ảnh hƣởng của việc
Campu chia gia nhập WTO tới quan hệ thƣơng mại Việt Nam -
Campuchia”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (312), tr. 36- 39.
58. Supachai Panitchpakdi Mark L.Clifford (2002), Trung Quốc và WTO, Nxb
Thế giới, Hà Nội.
59. GS. TSKH. Tào Hữu Phùng, ThS. Trần Tiến (2003), An ninh tài chính
doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
60. Nguyễn Cơ Thạch (1/1990), "Những chuyển biến trên thế giới và tƣ duy
mới của chúng ta", Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, (1), tr. 2-8.
61. Nguyễn Cơ Thạch (2/1995), "Đông Nam Á trong 50 năm qua", Nghiên cứu
97
Đông Nam Á, (2), tr. 1-3.
62. Nguyễn Văn Thanh (3/2000), Tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO) với nền
kinh tế toàn cầu hoá, Tạp chí Cộng sản (3).
63. Nguyễn Văn Thanh (2004), Gia nhập WTO Việt Nam kiên định con đường
đã chọn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
64. Phan Chí Thành (2003), “Đàm phán gia nhập WTO và những vấn đề đặt ra
đối với Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế (9), tr. 16- 24.
65. Nguyễn Xuân Thắng, Lê Ái Lâm (2004), “Trung Quốc gia nhập WTO: tác
động tới ASEAN”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế (312), tr. 65- 77.
66. Duy Thao (5/2000), “Chủ quyền kinh tế của các nƣớc đang phát triển trong
toàn cầu hoá”, Tạp chí Cộng sản (9), tr. 61-64.
67. Đinh Trọng Thịnh (2004), “WTO với các nền kinh tế yếu”, Tạp chí Cộng
sản (3), tr. 69-73.
68. Quang Thiều (2004), “Sau ba năm Trung Quốc gia nhập WTO: Tranh chấp
thƣơng mại ngày càng tăng”, Báo Nhân dân (18036), tr. 4, ngày 18/12.
69. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, viện thông tin khoa học
xã hội (2003), WTO những quy tắc cơ bản, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
70. Trƣờng Đại học Kinh tế Quốc dân, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát
triển(1999), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với khu
vực và thế giới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
71. Vũ Xuân Trƣờng (3/1996), "Việt Nam: Con đƣờng tới WTO", Tạp chí
Nghiên cứu Quốc tế (11), tr. 3-10.
72. Nguyễn Anh Tuấn (8/1997), "WTO, APEC, AFTA: một số tác động tới
quá trình công nghiệp hoá ở Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế (4), tr
28-35.
73. Đinh Quang Ty (2004), "Toàn cầu hoá và khả năng cạnh tranh của nền
98
kinh tế Việt Nam hiện nay", Tạp chí Cộng sản (5), tr. 40-45.
74. Đinh Quang Ty, Nguyễn Hồng Sơn (1998), "Việt Nam trong xu thế hội
nhập của các nền kinh tế khu vực và thế giới", Nghiên cứu Lý luận (1), tr.
24-28.
75. Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2001), Cơ hội và thách thức
(hay những điểm được và mất) của Việt Nam khi gia nhập WTO, Báo cáo
kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ, Hà Nội.
76. Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2004), Tìm hiểu Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
77. Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế - Tạp chí Cộng sản - Bộ
Thƣơng mại (2004), Hội nhập kinh tế quốc tế - những vấn đề lý luận và
thực tiễn, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia.
78. Viện nghiên cứu thƣơng mại (2003), Hỏi - đáp về tác động của WTO đối
với các doanh nghiệp xuất khẩu vừa và nhỏ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
79. WTO, khuôn khổ ý thức hệ của toàn cầu hoá. Global Publication Foudation
(1998).
99
PHỤ LỤC 1
CÁC QUỐC GIA VÀ LÃNH THỔ THÀNH VIÊN CỦA TỔ CHỨC THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)
WTO được thành lập ngày 1-1-1995, trụ sở tại Geneva, Thụy Sĩ, đến
tháng 10-2004, WTO có 148 thành viên.
Các nước và vùng lónh thổ gia nhập năm 1995: Antigua và Barbuda,
Argentina, Australia, ỏo, Bahrain, Bangladesh, Barbados, Bỉ, Belize, Bolivia,
Botswana, Brasil, Brunei, Burkina Faso, Burundi, Cameroon, Canada, CH
Trung Phi, Chile, Colombia, Costa Rica, Cote d'Ivoire, Cuba, Cyprus,
Czech, Đan Mạch, Gibuti, Dominica, CH Dominica, Ai Cập, El Salvador,
Cộng đồng châu Âu, Phần Lan, Pháp, Gabon, Đức, Ghana, Hy Lạp,
Guatemala, Guinea, Guinea - Bissau, Guyana, Honduras, Hồng Cụng,
Hungary, Iceland, ấn Độ, Indonesia, Ireland, Israel, Italy, Jamica, Nhật Bản,
Kenya, Hàn Quốc, Kuwait, Lesotho, Liechtenstein, Luxembourg, Ma Cao,
Madagascar, Malawi, Malaysia, Maldives, Mali, Malta, Mauritania, Mauritius,
Mexico, Morocco, Mozambique, Myanmar, Namibia, Hà Lan, New Zealand,
Nicaragua, Nigeria, Na Uy, Pakistan, Paraguay, Peru, Philippines, Ba Lan,
Bồ Đào Nha, Romania, Saint Lucia, Saint Vincent và Grenadines, Senegal,
Sierra Leone, Singapore, CH Slovakia, Slovenia, Nam Phi, Tây Ban Nha,
Sri Lanka, Suriname, Switzerland, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Tanzania, Thái-lan,
Togo, Trinidad và Tobago, Tunisia, Thổ Nhĩ Kỳ, Uganda, Anh, Mỹ, Uruguay,
Venezuela, Zambia, Zimbabwe.
Gia nhập năm 1996: Angola, Benin, Bulgaria, Chad, Ecuado, Fiji,
Gambia, Grenada, Haiti, Niger, Papua New Guinea, Qatar, Rwanda, Saint
Kritts và Neris, Solomon, Các tiểu vương quốc A-rập thống nhất.
Gia nhập năm 1997: Congo, CHDC Congo, Mông Cổ, Panama.
Gia nhập năm 1998: CH Kyrgyzstan.
Gia nhập năm 1999: Estonia, Latvia.
100
Gia nhập năm 2000: Albania, Croatia, Georga, Jordan, Oman.
Gia nhập năm 2001: Trung Quốc, Lít-va, Moldova.
Gia nhập năm 2002: Đài Loan.
Gia nhập năm 2003, 2004: Armenia, Macedonia (thuộc Liên bang Nam
Tư cũ), Campuchia.
Quốc gia và vựng lónh thổ là ứng cử viờn :
Việt Nam, Algeria, Andorra, Azerbaijan, Bahamas, Belarus, Butan,
Bosnia Herzegovina, Cape Verde, Guinea xích đạo, Ethiopia, Vatican,
Kazakhstan, Lào, Lebanon, Nepal, Nga, Samoa, Sao Tome và Principe, A-
rập Xờ-ỳt, Serbia và Montenegro, Seychelles, Sudan, Tajikistan, Tonga,
Ukraine, Uzbekistan, Vanuatu, Yemen.
101
PHỤ LỤC 2 MỨC CAM KẾT TRUNG BÌNH CỦA CÁC THÀNH VIÊN MỚI GIA NHẬP TỔ CHỨC THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)
Thuế quan trung bỡnh cho nụng sản
Thuế quan trung bỡnh cho hàng phi nụng sản
Thuế quan trung bỡnh cho tất cả cỏc mặt hàng
20.95 17.62 19.44 13.44 9.33 12.65 7.93 16.28 6.61 6.92 13.51 5.82 9.34 6.65 9.73 27.8 26.3 22 18
25.8 34.9 18.4 26.1 11.7 33.6 17.7 25 12.1 10.6 30.5 10.4 15.6 12.4 15 32 31.4 # #
20.1 12.6 20 11.5 6.7 9.3 6.6 15 5.8 6 11 5 8.2 5.7 8.9 27.1 25.5 # #
Tên nƣớc (xếp theo thứ tự thời gian gia nhập) 1. Ê-cu-a-đo 2. Bun-ga-ri 3. Mụng Cổ 4. Pa-na-ma 5. Kƣ-rơ-gƣ-xtan 6. Lỏt-vi-a 7. E-xtụ-ni-a 8. Gioóc-đa-ni 9. Gru-di-a 10. An-ba-ni 11. ễ - man 12. Crụ-a-ti-a 13. Lớt-va 14. Môn-đô-va 15. Trung Quốc ... Việt Nam* Việt Nam** Việt Nam*** Việt Nam**** (*) Theo Bản Chào thuế nhập khẩu lần 1 (**) Theo Bản Chào thuế nhập khẩu lần 2 (***) Theo Bản Chào thuế nhập khẩu lần 3 (****) Theo Bản Chào thuế nhập khẩu lần 4 #: Chưa có số liệu
Nguồn: Lƣơng Văn Tự, “Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong tiến trình gia nhập tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO)”, Tạp chí Cộng sản điện tử số 45 năm 2003 và tổng hợp từ các báo.
102
PHỤ LỤC 3
GIÁ TRỊ XUẤT KHẨU MỘT SỐ MẶT HÀNG CHỦ YẾU CỦA VIỆT NAM QUA CÁC NĂM
Mặt hàng
Đơn vị
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
TT
Nghỡn tấn
1 Dầu thụ
7652
8705
9638
12145 14881,9
15423,5
16732
16876
Than đá
Nghỡn tấn
2821
3647
3454
3162
3259
3251,2
4292
6407
2
Thiếc
Tấn
3283
3029
2505
2389
2357
3301
2200
1668
3
4 Giầy dộp
Triệu đô la Mỹ 296,4
530
978,4
1031
1387,1
1471,7
1587,4
1875
5
Hàng dệt, may
Triệu đô la Mỹ 765,5
993,1 1502,6
1450
1746,2
1891,9
1975,4
2732
Hàng mõy tre, hàng cúi
6
ngụ và dừa
Triệu đô la Mỹ 30,8
61,7
48,4
36,8
62,2
78,6
93,9
107,9
7
Hàng sơn mài, mỹ nghệ Triệu đô la Mỹ 18,7
20,7
43,1
12,9
22,5
36,2
34
51
8
Hàng thờu
Triệu đô la Mỹ 20,4
11
13,8
35,3
32,6
50,5
54,7
52,7
9
Hàng gốm sứ
Triệu đô la Mỹ
22
30,9
54,4
55,1
83,1
108,4
117,1
123,5
Nghỡn tấn
10 Gạo
1988
3003
3575
3730
4508,3
3476,7
3721
3236
Nghỡn tấn
11 Lạc nhõn
115,1
127
86,4
86,8
56
76,1
78,2
106
Nghỡn tấn
12 Cà phờ
248,1
283,7
391,6
482
733,9
931
722
382
Nghỡn tấn
13 Cao su
138,1
194,5
194,2
263
273,4
308
455
191
Nghỡn tấn
43,6
62
14 Hạt điều nhân
19,8
16,5
33,3
25,7
18,4
34,2
15
Rau quả tƣơi và chế biến Triệu đô la Mỹ 56,1
90,2
71,2
106,6
213,1
344,3
221,2
52,6
Nghỡn tấn
16 Hạt tiờu
18
25,3
24,7
34,8
36,4
57
78,4
15,1
Nghỡn tấn
17 Chố
18,8
20,8
32,9
36
55,6
67,9
77
33
18
Thịt chế biến
Triệu đô la Mỹ 12,1
10,2
28,8
11,6
25,6
41,7
27,3
12
19
Gỗ và sản phẩm gỗ
Triệu đô la Mỹ 114,5
160
187,3
125,1
244,1
311,4
343,6
460,2
Tấn
20 Quế
6356
2834
3399
804
3166
3500
3800
5067
21
Hàng thủy sản
Triệu đô la Mỹ 621,4
696,5
782
858
973,6
1478,5
1816,4
2036
22
Cá đông
Triệu đô la Mỹ 35,9
76
89,9
69,7
112,3
172,4
248,8
337,5
23
Mực đông
Triệu đô la Mỹ 68,4
92,5
89,6
60,8
107,3
76,8
139,7
83,7
24 Tôm đông
Triệu đô la Mỹ 290,9
324,7
367,7
431,7
415,5
631,4
846,2
715,7
Nguồn: Tổng cục thống kê, www.gso.gov.vn
103
PHỤ LỤC 4
GIÁ TRỊ NHẬP KHẨU MỘT SỐ MẶT HÀNG CHỦ YẾU CỦA VIỆT NAM QUA CÁC NĂM
Mặt hàng
Đơn vị
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Cỏi
1 Xe ụ tụ vận tải (*)
12223
15774
8901
10575
6981
13048
22168 24911
Cỏi
2 Xe ụ tụ con (*)
7752
7796
5345
3197
7009
9800
13139 21792
Nghỡn tấn
3 Sắt, thộp
1116,2 1548,5 1400,9
1786 2253,6
2845
3870
4946
Nghỡn tấn
4 Xăng, dầu các loại
5003,2 5933,1
5960
6852 7425,4 8747,3
9083
9970
Nghỡn tấn
5 Trong đó: Xăng
1043,5 1090,1 1081,3
1201
1325 1480,1
1732
2098
Nghỡn tấn
2271 2795,5 3101,8
3526 3478,3 4133,2
4080
4434
6 Dầu diesel
Nghỡn tấn
867,5 1072,5 1021,6
1321 1878,9 2367,6
2366
2582
7 Dầu mazut
Nghỡn tấn
314,7
381,7
243,9
273
267,7
387,7
525
425
8 Dầu hỏa
Nghỡn tấn
2311 2787,1 2526,7
3448 3702,8 3971,3
3288
3820
9 Phõn bún
Nghỡn tấn
10 Trong đó: Phõn urờ
1356,2 1658,3
1480
1944
1893
2108
1652
1818
Thuốc trừ sõu và
11
Triệu đô la Mỹ
nguyờn liệu
100,4
124,4
129,8
126,3
133,1
143,5
102,8 116,5
Triệu đô la Mỹ
229,8
278,2
333,1
348,6
383,4
530,6
551 613,5
12 Chất dẻo
Nghỡn tấn
68,2
37,4
41,5
67,6 83,3(**) 90,4(**)
98
98
13 Bông xơ
Triệu đô la Mỹ
14 Tơ, xơ và sợi dệt
194,6
195,7
192,4
244,5
263
326,4
347,5 391,6
Nguyờn phụ liệu sản
15
Triệu đô la Mỹ
xuất thuốc lỏ
97
100,2
79,9
111,3
88,3
107,6
125,6 145,4
Nguyờn phụ liệu, dệt,
16
Triệu đô la Mỹ
488
829,1 1239,6
709,7 1095,8 1421,7 1589,6 1710,9
may, da
Nghỡn tấn
959,3
635,6
861,6
785,8
243,7
214,5
1498
3500
17 Clanke
Nghỡn tấn
254,2
296
151,6
271
159,4
86,7
65,6
61,6
18 Bột mỳ
19 Sữa và sản phẩm từ sữa Triệu đô la Mỹ
58,7
70,4
63,1
78,8
100,8
140,9
246,7 133,2
Triệu đô la Mỹ
69,1
206,5
340,4
312,3
262,5
325
328,6 349,7
20 Tân dƣợc
Triệu đô la Mỹ
108,6
221,7
414,3
592,5
710,6
761,3
880,2 1523,1
21 Vải
Nghỡn cỏi
458,5
472,1
247,2
383,8
502,3 1807,2 2379,9 1480,2
22 Xe mỏy (*)
(*) Nguyên chiếc và linh kiện đồng bộ.
Nguồn: Tổng cục thống kê, www.gso.gov.vn
104
PHỤ LỤC 4
CHỈ SỐ GIÁ XUẤT KHẨU VÀ NHẬP KHẨU SO VỚI NĂM TRƢỚC CỦA VIỆT NAM QUA CÁC NĂM
Tiêu chí
1995
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
CHỈ SỐ GIÁ XUẤT KHẨU
113,1 103,5 100,4
96,6
98,9 104,4
93,2 100,7 109,3
Chỉ số chung
111,3 102,6 100,1 100,4
94,4
96,5
92 102,3 105,3
Hàng tiờu dựng
119,2 103,2
97,7
99,7
94
90,4
85,8 106,1 108,9
Lương thực , thực phẩm
100 101,1 107,5 102,5
95,8 100,5
97,9
98,7 101,2
Hàng phi lương thực, thực phẩm
112,1 104,2 100,6
93,9 102,5 120,6
94,7
99,3 116,7
Tư liệu sản xuất
112,1 104,9 100,6
93,7 102,5 121,3
94,5
99,3 117,4
Nguyờn, nhiờn, vật liệu
100 101,5 102,6
94,9
80,3 100,4
100 100,3 100,7
Mỏy múc, thiết bị, phụ tựng
CHỈ SỐ GIÁ NHẬP KHẨU
107,3 104,8 103,5
98
90,1 103,4
98,3
99,9 103,4
Chỉ số chung
106,5 102,5 103,1
97,3
95,3
96,5
97,6
97,8 101,1
Hàng tiờu dựng
116,5 102,8
103
96,5
93,5
99,2
96,9
98,8 103,5
Lương thực , thực phẩm
100 102,3 103,2
97,8
97,5
93,8
97,8
97,6 100,6
Hàng phi lương thực, thực phẩm
107,5 105,4 103,6
98,2
90,1 104,9
98,4 100,2 103,8
Tư liệu sản xuất
107,7 106,4 103,6
97,9
89,5 105,5
97,7
99,9 104,8
Nguyờn, nhiờn, vật liệu
106,1 104,3 103,8 100,3
95,2
98,5 100,5 101,3 100,4
Mỏy múc, thiết bị, phụ tựng
Nguồn: Tổng cục thống kê, www.gso.gov.vn
105