intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sỹ: Giải pháp phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ trên địa bàn thành phố Huế

Chia sẻ: Nguyễn Đình Đoan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:170

151
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sỹ: Giải pháp phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ trên địa bàn thành phố Huế được nghiên cứu nhằm hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về ngành nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam nói chung và thành phố Huế nói riêng; phân tích, đánh giá thực trạng một số ngành nghề thủ công mỹ nghệ có tiềm năng phát triển của thành phố Huế; đề xuất một số giải pháp chủ yếu để phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ trên địa bàn thành phố Huế trong thời gian đến.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sỹ: Giải pháp phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ trên địa bàn thành phố Huế

  1. PHẦN MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIÉT CỦA ĐÈ TÀI Ngành nghề thủ công truyền thống (TCTT), trong đó thủ công mỹ nghệ (TCMN)   là bộ  phân quan trọng đã hình thành và tồn tại trong suốt quá trình phát triển kinh tế  xã  hội Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế  nói riêng. Ngành nghề  thủ  công mỹ  nghệ  luôn gắn liền với những làng nghề, phố nghề sản xuất các sản phẩm thủ công để phục   vụ cho các mục đích sử dụng của đời sống xã hội. Các ngành nghề thủ công mỹ  nghệ xuất hiện, tồn tại và suy vong theo từng giai   đoạn phát triển của lịch sử. Các ngành nghề  thủ công phù hợp với đòi hỏi của nhu cầu  xã hội tại một thời điểm nào đó thì sẽ  có điều kiện phát triển, những ngành nghề  nào   không còn phù hợp thì sẽ tự đào thãi. Như vây, theo dòng chảy của sự vân động và phát   triển mỗi ngành nghề  thủ  công đều trãi qua các giai đoạn hưng thịnh và suy tàn nhất  định. Nhưng nhìn chung cho đến nay ngành nghề  thủ  công mỹ  nghệ  vẫn có một vai trò   quan trọng trong đời sống kinh tế và xã hội Việt Nam. Đối với Thừa Thiên Huế, quá trình hình thành và phát triển của ngành nghề  thủ  công mỹ  nghệ  ngoài những nét chung như bao vùng miền khác trên đất nước thì còn có  những nét đặc thù riêng có của vùng đất này. Do Huế  là vùng đất kinh kỳ, những sản   phẩm thủ  công được làm để  phục vụ  cho nhu cầu sử  dụng của tầng lớp quan lại, quý   tộc thượng lưu hoặc hình thành từ yêu cầu của triều đình. Chính các yếu tố lịch sử này   giúp cho Huế  trở  thành vùng đất tập trung nhiều ngành nghề thủ  công mỹ  nghệ  và các   sản phẩm đạt đến độ  tinh xảo cao, mang tính biểu tượng của nền mỹ  thuật đất nước   trong một giai đoạn lịch sử, nhiều sản phẩm trở  thành di sản văn hoá đặc sắc tượng   trưng cho trình độ phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. [12] Thừa hưởng những thành quả  trên, ngành nghề  thủ  công mỹ  nghệ  trên địa bàn   thành phố Huế cần phải tiếp tục tồn tại và tìm ra cho mình một con đường mới để phát  triển phù hợp. Nghị  quyết của Thành uỷ  về  chương trình hành động thực hiện Nghị  quyết TW 5 [58] : Huy động mọi nguồn lực trong dân, đầu tư  sản xuất hàng lưu niệm,  hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, tổ chức tốt các điểm bán hàng lưu niệm phục vụ  1
  2. du khách, xây dựng làng nghề  truyền thống phục vụ  du lịch và xuất khẩu, tăng cường  công tác tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu sản phẩm, nhằm thực hiện thắng lợi chương   trình phát triển du lịch của địa phương. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất­kinh doanh hàng thủ  công mỹ  nghệ  và làng nghề  trên địa bàn vẫn còn yếu, chưa tạo được những chuyển biến lớn nhằm tăng tốc sự  phát   triển của ngành, giá trị sản xuất vẫn chưa cao so với các tỉnh, thành phố khác. Số lượng  cơ sở làm hàng lưu niệm, hàng thủ công mỹ nghệ vẫn chưa nhiều, phần lớn các đơn vị  chỉ  duy trì sản xuất  ở quy mô nhỏ, mẫu mã chưa phong phú, chưa đáp ứng tốt thị  hiếu   khách tiêu dùng, năng suất thấp, giá trị lao động thủ công trong một đơn vị sản phẩm còn quá lớnnên giá thành cao, bao bì thẩm mỹ kém, công tác tuyên truyền, tiếp thị quảng cáo ít được chú trọng, trình độ  quản lý của chủ cơ  sở còn hạn chế. Trong các ngành nghề  thủ  công truyền thống, ngành nghề  thủ  công mỹ  nghệ  là  một trong những nhóm ngành có thế  mạnh xuất khẩu. Huế  là thành phố  du lịch nên có   thể  tân dụng  ưu thế  này để  xuất khẩu tại chổ  thông qua các của hàng bán hàng lưu  niệm, tổ chức các siêu thị hàng thủ công mỹ nghệ, tổ chức các làng nghề mang tính biểu   diễn vừa thu hút khách du lịch vừa có thể bán hàng trực tiếp. Thị trường tiêu thụ có điều   kiện thuận lợi như vây nhưng sản phẩm hàng lưu niệm tại địa phương lại không phong  phú, một số mặt hàng sức cạnh tranh thua kém nhiều so với hàng nhập từ Trung Quốc,  Thái Lan... Đối với thị trường xuất khẩu trực tiếp chúng ta vẫn chưa khai thác được do   sản phẩm chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới, thua kém trong cạnh tranh   về mẫu mã sản phẩm, giá thành, kinh nghiệm thương trường, chưa có các thương nhân   lớn hoạt động trên lĩnh vực kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Trước những   vấn đề trên, yêu cầu được đặt ra là làm thế  nào để phát huy tiềm năng của ngành nghề  thủ công mỹ nghệ trên địa bàn thành phố Huế. Đây là yêu cầu vừa cấp thiết vừa lâu dài   cần được nghiên cứu nhằm tìm ra những căn cứ lý luận và thực tiễn làm cơ  sở cho việc  đề xuất các giải pháp phát triển phù hợp. Xuất phát từ đó, tôi đã chọn đề tài “Giải pháp   phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ trên địa bàn thành phố Huế “làm luận văn thạc   sỹ của mình. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2
  3. 2.1. Mục tiêu chung Đề  tài làm cơ  sở  hoạch định các chính sách và giải pháp phát triển cho ngành   nghề thủ công mỹ nghệ trên địa bàn thành phố Huế. 2.2. Mục tiêu cụ thể ­  Hệ  thống hoá những vấn đề  lý luận và thực tiễn về  ngành nghề  thủ  công mỹ  nghệ Việt Nam nói chung và thành phố Huế nói riêng; ­   Phân tích, đánh giá thực trạng một số  ngành nghề  thủ  công mỹ  nghệ  có tiềm  năng phát triển của thành phố Huế; ­  Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để phát triển ngành nghề thủ công mỹ  nghệ  trên địa bàn thành phố Huế trong thời gian đến. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Phương pháp chung Phương  pháp  duy vật  biện  chứng   được  vận  dụng  xuyên  suốt  trong  quá  trình  nghiên cứu. Bởi các hiện tượng kinh tế, xã hội nói chung đều chịu sự tác động của nhiều  yếu tố, mỗi một yếu tố lại được đặt trong mối liên hệ ràng buộc với các yếu tố khác và   có tác động qua lại lẫn nhau. Nghiên cứu ngành nghề TCMN được đặt trong bối cảnh phát triển chung của ngành nghề  TTCN truyền thống trên địa bàn thành  phố  Huế  và Tỉnh Thừa Thiên Huế. Trong quá trình nghiên cứu, các yếu tố  như  dân số,  thu nhập của dân cư, điều kiện tự  nhiên, điều kiện kinh tế, chính trị­xã hội... được đặt  trong mối quan hệ  thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, được xem xét qua  nhiều năm, trong một thời gian dài để cho phép chúng ta có được cách nhìn toàn diện và  mang tính khoa học nhằm đưa ra những giải pháp cụ thể, phù hợp trong từng thời kỳ. Phương pháp duy vật lịch sử được sử dụng để nghiên cứu trong luận văn, bởi các   hiện tượng kinh tế­xã hội bao giờ  cũng tồn tại trong những điều kiện thời gian và địa   diểm cụ  thể. Việc tiếp cận, đánh giá quá trình hình thành và phát triển của ngành nghề  TCMN cần dựa trên những tiền đề  đã được hình thành trong quá khứ, đứng trên quan  điểm lịch sử để kiểm chứng và dự  báo sự  phát triển của ngành nghề TCMN trong hiện   tại và tương lai. 3.2. Các phương pháp cụ thể 3.2.1.Phương pháp điều tra, thu thập tài liệu 3
  4. * Tài liệu thứ cấp: nguồn tài liệu được thu thập từ niên giám thống kê của tỉnh Thừa Thiên Huế, số liệu từ Phòng Kinh tế  thành phố Huế, các báo cáo quy hoạch, phát triển   ngành nghề thủ công mỹ nghệ tỉnh Thừa thiên Huế, thành phố Huế, tài liệu từ các nguồn  sách báo, báo điện tử, các báo cáo khoa học, công trình nghiên cứu khoa học của nhiều   tác giả liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu................................. * Tài liệu sơ  cấp : Mỗi nhóm ngành nghề  được điều tra theo phương pháp chọn mẫu  phân loại. Những thông tin cần thu thâp từ  các đơn vị được điều tra (mẫu): các yếu tố  đầu vào, kết quả và hiệu quả sản xuất, quy trình sản xuất, lực lượng lao động, trình độ người quản lý, thị trường tiêu thụ sản phẩm.......... được thực hiện theo mẫu soạn sẵn, phỏng vấn trực tiếp các chủ đơn vị. Công tác nghiên cứu thị trường cũng được   tiến hành thông qua các phiếu điều tra, phỏng vấn trực tiếp các đơn vị  kinh doanh các  mặt hàng TCMN, các đơn vị phỏng vấn được lựa chọn một cách ngẫu nhiên và phân bổ  đều khắp nhiều nơi trên địa bàn thành phố Huế. Chúng tôi tiến hành phỏng vấn các đơn  vị kinh doanh lữ hành đang đặt trụ sở tại thành phố Huế để nắm được tình hình liên kết  giữa ngành nghề TCMN cùng với ngành du lịch đã và đang đạt được những gì, ở mức độ  nào cũng như các nhân xét khách quan từ phía đối tượng này và các đề xuất để tạo được   sự liên kết hiệu quả giữa hai ngành trong thời gian đến. * Phương pháp điều tra Sử  dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn thuần theo khoảng cách nhất  định của nhóm điều tra. Sau một quá trình nghiên cứu, trao đổi ý kiến với lãnh đạo Phòng  Kinh tế thành phố Huế, các chuyên gia có kinh nghiệm trong ngành, các đơn vị đã nhiều  năm kinh nghiệm sản xuất kinh doanh trong ngành nghề  TCMN cũng như  sự  quan sát  chủ quan của mình, chúng tôi quyết định tâp trung điều tra, nghiên cứu ba nhóm ngành cụ  thể sau : ­  Nghề mộc mỹ nghệ, mộc chạm khắc ( 50 trong tổng số 78 đơn vị) ­  Nghề thêu tay, ren rua ( 36 trong tổng số 55 đơn vị) ­  Nghề đúc đồng mỹ nghệ ( 50 trong tổng số 61 đơn vị) Đây là 3 nhóm ngành nghề  có số lượng đơn vị nhiều nhất  trong các nhóm ngành  nghề  thủ  công mỹ  nghệ  đang hoạt động trên địa bàn thành phố  Huế  hiện nay, thu hút   một số  lượng lao động lớn, có tổng số  vốn đầu tư  và tạo ra giá trị  sản xuất chiếm tỷ  4
  5. trọng cao. Nghề kim hoàn có số vốn đầu tư và tạo ra giá trị sản xuất cao nhất, tuy nhiên  chúng tôi không chọn nghề  này để  nghiên cứu sâu do giá trị  nguyên liệu của nghề  này   cao lại biến động thất thường, sản phẩm bán ra có giá trị  lớn nhưng phần lớn được sử  dụng như phương tiện cất trữ và tiêu dùng thông thường, giá trị gia tăng tạo ra mang tính   đạc thù, khó tiếp cân. 3.2.2. Phương pháp tong hợp và phân tích sổ liệu * Phương pháp phân tổ  thống kê: được sử  dụng để  hệ  thống hoá tài liệu điều tra theo   nhiều tiêu thức khác nhau tuỳ thuộc vào nội dung và mục đích nghiên cứu. *   Phương pháp phân tích tài liệu: Sử  dụng hệ  thống các phương pháp phân tích   định tính và định lượng của các hiện tượng để tìm hiểu bản chất và tính quy luât vốn có;   kết hợp giữa nghiên cứu các hiện tượng số  lớn với nghiên cứu hiện tượng cá biệt; sử  dụng kết hợp phương pháp phân tích thống kê, phương pháp phân tích kinh tế và phương   pháp mô hình toán kinh tế. * Phương pháp toán kinh tế : Luân văn sử dụng hàm sản xuất Cobb­Douglas để đánh giá mối quan hệ giữa các   yếu tố đầu vào đốivới kết quả và hiệu quả sản xuất đối với cả 3 nghề (nghề đúc đồng, nghề mộc mỹ nghệ và thêu ren). Hàm Cobb­Douglas được chọn để ước  lượng hệ số hồi quy mô tả sự ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào đến kết quả sản xuất  và kết quả ước lượng được đánh giá theo tiêu chuẩn kiểm định T & F. ­ Hàm sản xuất Yj = AXija1. X2ja2. X3ja3. X4ja4.eßD1\ eßD2 ­ Hàm Logarit tương ứng LnY = ao + a1 Ln (X1j) + a2 Ln (X2j) + 03 Ln(X3j) + 04 Ln (X4j) + ßD1 + ßD2 Trong đó : Yj : Giá trị gia tăng (triệu đồng) X1j : Vốn cố định (triệu đồng) X2j : Vốn lưu động (triệu đồng) X3j : Lao động thuê ngoài (người) X4j : Lao động gia đình (người) D1, D2 là các biến giả định ­ Di : Kinh nghiệm sản xuất từ 20 đến 30 năm; D2 là kinh nghiệm sản xuất trên 30 năm. 5
  6. ­ a , p : Các hệ số hồi quy cần ước lượng. ­ A : là hằng số. * Số liệu xử lý bằng chương trình SPSS 15.0. Theo kinh nghiệm của nhiều nghiên cứu về  hiệu quả  của các đơn vị  sản xuất,   kinh doanh với quy mô nhỏ, để  đánh giá đúng hiệu quả  sản xuất, biến phụ  thuộc của   hàm sản xuất phải là giá trị gia tăng chứ không phải tổng doanh thu. Điều này cho phép   loại bỏ được những sai sót trong phân tích do sự khác biệt về giá trị nguyên vật liệu tạo   nên. 3.2.3. Phương pháp chuyên gia và chuyên khảo Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp thu thập thông tin từ  các nhà nghiên cứu văn hoá, các chuyên gia, chuyên viên, các nhà quản lý nhiều kinh   nghiệm liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu, các nghệ nhân, những đơn vị nhiều năm sản   xuất­kinh doanh hàng thủ  công mỹ  nghệ  nói riêng và hàng thủ  công truyền thống nói   chung...nhằm có được những luận cứ có sức thuyết phục về mặt khoa học và thực tiễn  để  từ  đó đề  xuất được những giải pháp phù hợp với thực tế  của địa phương và mang  tính khả thi. 3.2.4. Hệ thống các chỉ tiêu sử dụng trong nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng hệ thống các chỉ tiêu cơ bản sau : ­ Các chỉ  tiêu đánh giá năng lực sản xuất kinh doanh : Số lượng lao động, giá trị  tài sản cố định, vốn lưu động, công nghệ, thiết bị sản xuất của các đơn vị. ­ Các chỉ tiêu đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh: Giá trị sản xuất (GO), giá trị  gia tăng (VA) và lợi nhuận (M). ­  Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản suất kinh doanh: Giá trị sản xuất/vốn   (GO/K), giá trị gia tăng/vốn (VA/K), lợi nhuận/vốn (M/K), lợi nhuận/chi phí (M/IC), Giá  trị  sản  xuất/lao  động (GO/L),  Giá trị  gia  tăng /lao  động (VA/L),  lợi nhuận/lao  động   (M/L). ­  Các chỉ tiêu phù hợp để phân tích việc tiêu thụ sản phẩm. 4.ĐÓI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU * Đoi tượng nghiên cứu 6
  7. Thực trạng sản xuất kinh doanh của các ngành nghề  thủ  công mỹ  nghệ; chủ  yếu là các ngành nghề  đúc đồng, mộc mỹ  nghệ, thêu ren và các giải pháp để  phát  triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ. * Phạm vi nghiên cứu ­ Không gian : Địa bàn thành phố Huế. ­ Thời gian : Phân tích, đánh giá thực trạng trong giai đoạn 2004­2006 và đề xuất giải  pháp phát triển đến năm 2015. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÀ THựC TIỄN VÈ  PHÁT TRIỂN NGÀNH NGHÈ THỦ CÔNG MỸ NGHỆ 1.1. MỘT SÓ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VÀ TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH NGÀNH NGHÈ THỦ  CÔNG TRUYÈN THÓNG, NGÀNH NGHÈ THỦ  CÔNG MỸ  NGHỆ, LÀNG NGHÈ   THỦ CÔNG MỸ NGHỆ 1.1.1.Ngành nghe thủ công truyền thong Ngành nghề  thủ  công (NNTC) Việt nam vốn có truyền thống lâu đời gắn liền  với tên những làng nghề, phố nghề và được biểu hiện bằng những sản phẩm thủ công   truyền thống. Có nhiều tên gọi khác nhau để  chỉ  ngành nghề  (NN) thủ  công truyền  thống (TCTT)  ở  nước ta: Nghề  truyền thống, nghề cổ truyền, nghề thủ công... Hiện   nay, các số  liệu thống kê chính thức hàng năm vẫn chưa có một mục chuyên về  sản   xuất thủ công truyền thống mà gộp các ngành nghề này vào nhóm “ Tiểu công nghiệp­ thủ công nghiệp”, “Sản xuất hộ gia đình phi nông nghiệp”.... Vấn đề  đặt ra hiện nay là phải thống nhất tiêu chí xác định ngành nghề  truyền   thống để làm cơ  sở  thực hiện các chính sách bảo tồn, phát triển và định hướng chiến   lược phù hợp. Các nhà nghiên cứu đề  xuất một số yếu tố  cấu thành của ngành nghề  TCTT : + Đã hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời ở nước ta; + Sản xuất tập trung, tạo thành các làng nghề, phố nghề; + Có nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề; 7
  8. + Kỹ thuật và công nghệ khá ổn định của dân tộc Việt nam; + Sử dụng nguyên liệu tại chổ, trong nước hoàn toàn hoặc chủ yếu nhất; + Là nghề nghiệp nuôi sống một bộ phận dân cư của cộng đồng; có đóng góp đáng kể  về kinh tế vào ngân sách nhà nước. [17] Theo thông tư  số  116/2006/TT­BNN ngày 18/12/2006 của Bộ  Nông nghiệp và   Phát triển nông thôn (NN&PTNT) hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ­CP ngày 7/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề  nông thôn: Nghề  truyền thống là nghề được hình thành từ lâu đời, tạo ra những sản   phẩm độc đáo, có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay hoặc có   nguy cơ bị mai một thất truyền. Tiêu chí công nhận ngành nghề thủ công truyền thống : a/ Nghề đã xuất hiện  tại địa phương từ trên 50 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận; b/ Nghề tạo ra  những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc; c/ Nghề gắn với tên tuổi của một  hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề. [36] 1.1.2. Ngành nghe thủ công mỹ nghệ Ngành nghề thủ công mỹ nghệ là một bộ phận quan trọng của ngành nghề thủ  công truyền thống. Ngành nghề  TCMN có vai trò rất lớn trong quá trình phát triển   ngành nghề TCTT của Việt Nam (VN), sản phẩm của ngành nghề thủ công mỹ nghệ  là loại sản phẩm nghệ thuật, kết tinh từ những thành tựu kỹ thuật­công nghệ truyền   thống, phương pháp thủ công tinh xảo với đầu óc sáng tạo nghệ thuật. Mô hình biểu diễn như sau : Phương pháp thủ Sự sáng tạo nghệ Hàng thủ công mỹ công tinh xảo + thuật ■=> nghệ Mô hình 1 : Đặc trưng của hàng thủ công mỹ nghệ Ngành nghề thủ công mỹ nghệ bên cạnh các yếu tố cấu thành của ngành nghề  TCTT còn có những nét đặc thù của NN này, đó là : Sản phẩm tiêu biểu và độc đáo  8
  9. của Việt nam, có giá trị và chất lượng rất cao, vừa là hàng hoá vừa là sản phẩm văn   hoá nghệ  thuật, mỹ  thuật, thậm chí trở  thành các di sản văn hoá của dân tộc, mang   bản sắc văn hoá Việt Nam. Chính yếu tố nghệ thuật, văn hoá tinh thần kết tinh trong   văn hoá vật thể  là một đặc thù hết sức quan trọng của hàng thủ  công mỹ  nghệ. Sự  kết hợp giữa phương pháp thủ  công tinh xảo với sự  sáng tạo nghệ  thuật của nghệ  nhân và thợ thủ công để tạo ra hàng thủ công mỹ nghệ đã kéo theo những đặc thù khác trong sự phát triển của ngành nghề TCMN và được xem như là những tiêu   chí của ngành nghề này : ­ Tính riêng, đơn chiếc mạnh hơn tính đồng loạt; ­  Chiều sâu nhiều hơn chiều rộng, mang tính trường phái, gia tộc, giữ bí quyết  trong sáng tạo hơn là sự phổ cập, phổ biến rộng rãi; ­ Đầy chất trí tuệ, tri thức tích tụ lâu đời; ­ Sử dụng hàng thủ công đồng thời thưởng thức nó nữa (thưởng thức nghệ thuật và tư tưởng, trí tuệ). [17] 1.1.3. Làng nghề, làng nghề truyền thOng, làng nghề thủ công mỹ nghệ Làng nghề là một thiết chế gồm hai yếu tố cấu thành là “làng” và “nghề” được hình thành dựa trên cơ sở tập hợp những gia đình nhỏ trong một không gian nhất định để sản xuất và sinh hoạt độc lập. Làng nghề gắn bó với các ngành nghề phi   nông nghiệp, các ngành nghề thủ công ở trong các thôn làng. Khi phân loại làng nghề,   ta thấy có làng một nghề  và có làng nhiều nghề, có làng nghề  truyền thống và làng  nghề mới. Làng một nghề  là những làng ngoài nghề  nông ra chỉ  còn thêm một nghề  thủ  công nghiệp duy nhất chiếm ưu thế tuyệt đối như lụa Vạn Phúc, gốm Bát Tràng, chạm  bạc Đồng Xâm, thêu Quất Động... Làng nhiều nghề là những làng ngoài nghề  nông còn có một số  nghề  thủ  công  nghiệp như Ninh Hiệp, Kiêu Kỵ, Trai Trang, Đình Bảng.. Làng nghề truyền thống (LNTT) là những làng nghề xuất hiện từ lâu đời trong  9
  10. lịch sử và còn tồn tại đến ngày nay, là những làng nghề đã tồn tại hàng trăm năm, thậm   chí hàng nghìn năm. Làng nghề  mới là những làng nghề  xuất hiện do sự  phát triển lan toả  của các  làng nghề truyền thống trong những năm gần đây, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, thời   kỳ chuyển sang nền kinh tế thị trường. Đồng thời cũng có một số nghề mới xuất hiện  hoặc du nhập từ nước ngoài vào các làng nghề truyền thống. Như vậy, các tiêu chí để phân loại làng nghề chỉ mang tính tương đối, đan xen,  bao hàm lẫn nhau, làng nghề thủ công mỹ nghệ đặt trong mối liên hệ chặt chẽ với làng   nghề TCTT, làng nghề TCMN là làng nghề TCTT trong đó TCMN là nghề chính hoặc   chiếm ưu thế so với các nghề thủ công khác. Làng nghề  truyền thống là trung tâm sản xuất hàng thủ  công, có phần lớn bộ  phận dân số  làm nghề  cổ  truyền, là nơi quy tụ  các nghệ  nhân và nhiều hộ  gia đình   chuyên làm nghề mang tính truyền thống lâu đời kiểu cha truyền con nối, có sự liên kết   hỗ  trợ  trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ  thống doanh   nghiệp vừa và nhỏ, có cùng tổ  nghề. Sự  liên kết, hỗ  trợ  nhau về  nghề, kinh tế, kỹ  thuật, đào tạo thợ  trẻ  giữa các gia đình cùng dòng tộc, cùng phường nghề  trong quá  trình hình thành, phát triển nghề nghiệp đã hình thành LNTT ngay trên làng xóm của họ.  Về  mặt định lượng, có thể  hiểu làng nghề  có từ  35 ­ 40% số  hộ  trở  lên chuyên làm  nghề,   giá   trị   sản   lượng   của   nghề   chiếm  trên   50%   tổng   giá   trị   sản   lượng   của   địa  phương. Tuy nhiên, định nghĩa trên chỉ là một thước đo tương đối. Bởi vì, đối với từng   loại nghề khác nhau thì tỷ lệ nói trên cũng khác nhau. Quy mô về số hộ và số lao động  của các làng và các vùng cũng chênh lệch nhau đáng kể. Mặt khác, cùng với sự  thăng   trầm trong quá trình phát triển của từng nghề và làng nghề, dẫn đến số lượng hộ và lao   động chuyên làm nghề TCMN có sự biến động mạnh mẽ. Ngày nay, khái niệm làng nghề  không chỉ  bó hẹp  ở  những làng nghề  chỉ  có  những người chuyên làm nghề  thủ  công nghiệp đơn thuần theo như  cách phân chia   trước đây. Trong quá trình công nghiệp hoá và chuyển sang nền kinh tế thị trường hiện   10
  11. nay, trong các làng nghề, các công nghệ sản xuất của nhiều nghề không còn hoàn toàn   là kỹ  thuật thủ  công, mà nhiều nghề đã sử  dụng các công nghệ, kỹ  thuật cơ  khí hiện   đại và bán cơ khí vào quá trình sản xuất. Đồng thời, trong các làng nghề  đã xuất hiện nhiều cơ sở chuyên làm dịch vụ đầuvào  và đầu ra cho các hộ chuyên làm nghề. Làng nghề  truyền thống nói chung và làng nghề  thủ  công mỹ  nghệ  nói riêng có thể được định nghĩa: “Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn,   ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điếm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị   trấn, có các hoạt động ngành nghề  nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản   pham khác nhau. Làng nghề truyền thống là làng nghề có nghề truyền thống được hình   thành từ lâu đời. ”. [9,14­16; 17,14; 36] 1.2. VAI TRÒ CỦA NGÀNH NGHÈ THỦ CÔNG TRUYÈN THÓNG, THỦ CÔNG MỸ  NGHỆ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TÉ ­ XàHỘI 1.2.1. Phát triển ngành nghề thủ  công mỹ  nghệ góp phần tạo việc làm cho người lao  động Dân số  và việc làm là hai vấn đề  có mối quan hệ  mật thiết và cùng tác động   quyết định lên tiến trình phát triển kinh tế­xã hội của đất nước, giải quyết việc làm là   một trong những vấn đề  hết sức cơ  bản và quan trọng trong công cuộc phát triển đất  nước. Trong các ngành nghề thủ công nói chung và ngành nghề thủ công mỹ nghệ nói  riêng, lao động thường chiếm tỷ lệ tới 60­65% giá thành sản phẩm, nên việc phát triển   NN này sẽ phù hợp với yêu cầu giải quyết việc làm cho người lao động đang tăng lên   nhanh chóng, nhất là ở nông thôn. Theo thống kê trong lĩnh vực xuất khẩu, mỗi 1 triệu   USD   doanh   thu   hàng   TCMN   thì   thu   hút   khoảng  3.5004.000  lao   động   chuyên  nghiệp/năm, còn nếu là lao động thời vụ thì sẽ tăng 3­5 lần mức đó. [41; 54; 13,125] Quy mô dân số cả nước năm 2006  ước tính 84,11 triệu người, trong đó dân số  thành thị  22,82 triệu người chiếm 27,1%, dân số  nông thôn 61,29 triệu người. Số  lao   động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế ước tính 43,44 triệu người, tỷ  11
  12. lệ  thất nghiệp của lao động khu vực thành thị, nam chiếm 4,8% của nữ là 3,9% [42].  Vấn đề  việc làm  ở  nông thôn những năm gần là tâm điểm của những bức xúc. Nông   thôn là nơi tập trung 72,9% dân số  (2006), trong đó 70% làm nghề  nông. Tình trạng   nghèo và thiếu việc làm trong khu vực này đang tạo ra một luồng di dân tự do rất lớn ra   thành thị, làm cho dân số đô thị tăng đột biến gây nhiều khó khăn về an ninh xã hội và  môi trường. 12
  13. Bảng 1: SẢN XUẤT THỦ CÔNG NGHIỆP THEO KHU VựC, LÀNG VÀ DÂN SÓ Sô làng Dân sô Khu vực Tống Làng % Tống   số  Số làm  % số nghề Trong trong (người) nghề  (1) T/số (người) T/số 1. Đồng băng sông 15.451 914 5,9 13.501.335 848.805 6,3 Hồng 2. Đông Bắc 21.514 116 0,5 7.308.218 35.044 0,5 3.Tây Bắc 6.526 247 3,8 2.039.685 104.210 5,1 4. Bắc Trung bộ 16.059 341 2,1 8.760.322 137.568 1,6 5. Nam Trung bộ 4.008 87 2,2 4.774.156 44.730 0,9 6. Tây nguyên 5.357 0 ­ 3.159.246 ­ ­ 7. Đông Nam bộ 3.485 101 2,9 6.071.412 93.716 1,5 8. ĐB sông Cửu 8.144 211 2,6 13.329.335 84.286 0,6 long Tổng 80.544 2.017 2,5 58.943.709 1.348.359 2,3 Nguồn : Tống hợp và điều tra của Cơ  quan hợp tác quốc tế  Nhật Bản (JỈCA) & Bộ  Nông nghiệp và phát triên nông thôn Việt Nam năm 2004. (1,3­10) (1) Số lượng làng nghề và số người tham gia làm nghề trên cơ sở tiêu chí điều tra lập   bản đồ. Cả nước hiện có 2.017 làng nghề, với hơn 1,3 triệu lao động chuyên nghiệp và  từ  3­5 triệu lao động thời vụ  trong 1,423 triệu hộ gia đình tham gia sản xuất có thu   nhập chính từ  nghề  thủ  công. Khoảng 45% số  làng nghề   ấy là nghề  TCMN truyền   thống với trên 40 nhóm nghề lớn, bao gồm hàng trăm nghề khác nhau [30]. Trung bình   cả nước, dân số mỗi làng nghề là 2.079 người, trong đó trên một nữa số làng nghề có  từ 1.000 đến 5.000 người. Độ  tuổi trung bình của người lao động trong các NNTC là  từ  20­30 và nghề thủ công đang tạo công ăn việc làm cho lao động trẻ. Bên cạnh đó   một lực lượng dân số đông đảo từ 15 đến 80 tuổi tham gia làm nghề, đặc biệt ngành   nghề TCMN còn sử dụng một số lượng lớn lao động tàn tật không thể làm việc ở các   ngành nghề khác và điều này mang ý nghĩa xã hội rất sâu sắc. Theo bảng 2, trên 10% tổng số hộ gia đình có thu nhập chủ yếu từ sản xuất thủ  công, đặc biệt các hộ  gia đình nhóm này rất phổ  biến  ở  đồng bằng sông Hồng, Bắc   13
  14. Trung bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Mặc dù các NNTC là các ngành nghề thu hút  nhiều lao động  ở  các vùng nông thôn nhưng quy mô của nhiều làng nghề thường nhỏ  và chưa thực hiện được mô hình thu hút nhiều lao động. Ngoài ra, rất nhiều thợ  tay   nghề cao và thợ trẻ bỏ quê đi làm việc cho các doanh nghiệp hay cơ sở lớn ở đô thị với  mức lương cao hơn. Do đó, quy mô làng nghề  đang có nguy cơ  ngày càng bị  thu hẹp.  [1,3­9; 13,47; 1,4­9] 1.2.2. Phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ góp phần mở rộng thị trường, tăng giá  trị tong sản phẩm hàng hoá cho nền kinh te Hiện nay, nhiều làng nghề  TCMN đã và đang được khôi phục đồng thời với   việc phát triển các làng, cụm làng mới, nghề  mới. Một số  lượng lớn các làng nghề  TCMN đã được tăng cường hoạt động, kinh doanh theo hướng sản xuất hàng hoá, phục   vụ xuất khẩu. Ngoài ra, thu nhập của dân cư  nói chung và dân cư  nông thôn nói riêng   tăng lên sẽ mở ra cơ hội mới của một thị trường nội địa tiềm năng, với sức mua ngày   càng gia tăng đối với các sản phẩm truyền thống độc đáo của công nghiệp nông thôn.  Xu thế phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế và khu vực là những thách thức nhưng cũng   đồng thời là cơ  hội để sản phẩm TCMN thâm nhập hiệu quả hơn vào thị  trường khu   vực và thế giới. S  ản phẩm của ngành nghề  thủ  công mỹ  nghệ  là nhân tố  quan trọng thúc đẩy   phát triển sản xuất hàng hoá  ở  nông thôn. Ngành nghề  thủ  công mỹ  nghệ  hàng năm  luôn sản xuất ra một khối lượng sản phẩm hàng hoá lớn đóng góp đáng kể vào giá trị  sản lượng của từng địa phương nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung. Tỷ trọng   hàng hoá ở các làng nghề thường cao hơn rất nhiều so với các làng thuần nông. Những   địa phương có nhiều làng nghề  thì nền kinh tế hàng hoá thường phát triển hơn so với   các địa phương có ít làng nghề. Chẳng hạn, giá trị sản xuất công nghiệp nông thôn Thái  Bình chiếm khoảng 75% tổng giá trị công nghiệp địa phương toàn tỉnh, ở Bắc Ninh là  73,7%.. Làng gốm Bát Tràng (Hà Nội) thu nhập từ ngành nghề phi nông nghiệp chiếm  99% tổng thu nhập của toàn xã (riêng nghề gốm sứ chiếm tới 86%). [9,40] 14
  15. Bảng 2 : TÌNH HÌNH CÁC Hộ SẢN XUẤT THỦ CÔNG NGHIỆP TRÊN CẢ NƯỚC Khu vực Hộ sản xuất (%) Tỷ  lệ  hộ SX thủ  công   nghiệp(1)  Thuần Hộ Phi NN Tống Thuần Hộ kiêm Phi NN Tống nông kiêm nông (%) 1. ĐB S.Hồng 15,6 22.115 429.893 80.187 532.195 4,2 80,8 15,1 100,0 2. Đông Bắc 5,3 10.853 40.222 32.011 83.086 13,1 48,4 38,5 100,0 3. Tây Bắc 7,2 3.223 8.787 14.830 26.840 12,0 32,7 55,3 100,0 4. Bắc trung bộ 8,7 17.506 74.991 76.509 169.006 10,4 44,4 45,3 100,0 5. Nam Trung bộ 7,7 14.253 38.987 29.292 82.532 17,3 47,2 35,5 100,0 6. Tây Nguyên 1,1 0 2.941 4.127 7.068 0,0 41,6 58,4 100,0 7. Đông Nam bộ 14,5 6.879 52.572 129.938 189.389 3,6 27,8 68,6 100,0 8. ĐB S.Cửu Long 11,8 32.762 72.572 227.747 332.742 9,8 21,7 68,4 100,0 Cả nước 10,8 107.591 720.626 594.641 1.422.858 7,6 50,6 41,8 100,0 Nguồn : Điều tra khảo sát Lập bản đồ Bộ NN&PTNT ­ JICA , 2002 1) Số hộ gia đình trả lời sản xuất TCN là nguồn thu chính trong Điều  tra khảo sát lập bản đồ 5 1
  16. Bên cạnh thị trường nội địa có khả năng mở rộng, hàng TCMN của VN còn nhiều   tiềm năng xuất khẩu bởi nhu cầu thị trường thế giới hầu như chưa bị giới hạn do “vòng đời” củasản phẩm ngắn, xu hướng tiêu dùng ngày càng hướng đến các sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên, thân thiện với môi trường. Giai đoạn 19912000, kim  ngạch xuất khẩu xuất khẩu hàng TCMN của VN có nhịp độ  tăng khá nhanh. Nếu năm  1991 mới đạt 6,8 triệu USD, năm 1996 đã đạt 124 triệu USD, năm 1999 là 168 triệu USD,  thì đến năm 2000 đạt hơn 235 triệu USD. Giai đoạn 2001 đến 2006 nhịp độ tăng trưởng  xuất khẩu tương đối cao (bình quân là 17,87%) đã đưa mặt hàng TCMN trở  thành một   trong những mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của VN (đứng thứ  8 trong 10 mặt hàng xuất   khẩu chủ  lực). Hiện nay, hàng TCMN xuất khẩu của VN đã có mặt tại thị  trường của   trên 100 quốc gia, vùng lãnh thổ, trong đó tập trung là các thị  trường Nga, Mỹ, Nhật,  Đông Âu, EU, Bắc Mỹ, Hàn Quốc, Đài Loan... sản phẩm hàng TCMN xuất khẩu của VN  cũng rất đa dạng, nhiều chủng loại (đồ gỗ, mây, tre đan, gốm sứ...). Trong “Đề  án phát  triển   xuất   khẩu   giai   đoạn  20061010”  của   Bộ   Thương   mại,   định   hướng   nhóm   hàng  TCMN chiếm một vị trí rất quan trọng. Đây là một trong số  ngành được đánh giá là có   nhiều tiềm năng phát triển bền vững, xuất khẩu lớn và có tỷ  suất lợi nhuận cao. Mục   tiêu phấn đấu kim ngạch xuất khẩu của ngành TCMN đến 2010 là 1,5 tỷ USD. [47] 1.2.3. Phát triển ngành nghề  thủ  công mỹ  nghệ  nâng cao thu nhập của người dân, góp   phần vào chương trình xoá đói giảm nghèo của quốc gia Theo đánh giá của Ngân hàng thế  giới, trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã   đạt được những tiến bộ đáng ghi nhận về giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo của VN đã giảm   từ  58% (năm 1993) xuống còn 20% (năm 2004); GDP bình quân đầu người từ  dưới 200   đôla Mỹ/ người năm 1993 tăng lên khoảng 835 đô la Mỹ/người năm 2007.[21,6] Trong các làng nghề  TCTT, TCMN đã được khôi phục và phát triển đều giàu có   hơn các làng thuần nông khác trong vùng. Ở các làng nghề tỷ lệ hộ giàu thường rất cao,  thường không có hộ  đói, tỷ  lệ  hộ  nghèo rất thấp, thu nhập từ  ngành nghề  thủ  công  chiếm đại bộ phận tổng thu nhập của dân cư trong làng, hệ thống công trình công cộng,  kết cấu hạ tầng phát triển, nhà cửa cao tầng của các hộ dân ngày một nhiều, tỷ lệ số hộ  có các loại đồ dùng tiện nghi đắt tiền chiếm tỷ trọng khá. [9,44] 16
  17. Bảng 3 : THU NHẬP BÌNH QUÂN THÁNG THEO KHU VựC VÀ GIỚI TÍNH Trung So với Thu nhập trung bình So sánh Khu vực bình Cả nước từ nghe thủ công Nữ/Nam ( nghìn (%) (nghìn đồng/tháng) (lần) đồng) Nam Nữ 1. ĐB sông Hồng 280,3 95 347,6 322,4 0,93 2. Đông Bắc Bộ 210,0 71 360,1 260,0 0,72 3.Tây Bắc bộ 210,0 71 246,0 115,9 0,47 4. Bắc Trung bộ 212,4 72 376,7 297,3 0,79 5. Nam Trung bộ 252,8 86 396,0 320,4 0,81 6. Tây Nguyên 344,7 117 ­ ­ ­ 7. Đông Nam bộ 527,8 179 652,9 642,7 0,98 8. ĐB sông Cửu Long 342,1 116 452,4 415,0 0,92 Tông 295,0 100 312,0 312,0 0,79 Nguồn : “Nông nghiệp và nông thôn Việt Nam thời kỳ đối mơi, 1996­2002 ”, Tống cục  thống kê. Điều tra khảo sát lập bản đồ, Bộ NNPTNT­JICA,2002 (Số liệu về thợ thủ  công) [1,3­11] Việc làm đầy đủ, thu nhập bảo đảm, đời sống vật chất tinh thần ngày càng  nâng cao làm cho người lao động nói riêng và người dân ở các làng nghề nói chung sẽ  yên tâm tập trung cho công việc của mình. Người lao động sẽ không phải rời bỏ quê  hương vì sinh kế, thực hiện được quá trình đô thị  hoá phi tập trung. Mức thu nhập   trung bình của các hộ gia đình tham gia sản xuất thủ công thường cao hơn 3 ­ 4 lần so   với người lao động thuần nông, có thể  thấy rằng ngành nghề  thủ  công đóng góp rất   lớn vào quá trình phát triển kinh tế nông thôn do mức thu nhập trung bình của cả nam  giới và phụ  nữ  làm nghề  thường cao hơn so với mức trung bình của cả  nước, tỷ  lệ  nghèo chỉ khoảng 3,7% so với 10,45% tỷ lệ nghèo cả nước . Tuy nhiên, mức lương của người lao động trong ngành TCMN của Việt Nam  hiện nay đang còn thấp hơn so với các nước trong khu vực. Theo số liệu điều tra, công nhân VN có thu nhập từ 0,2­0,6 USD/giờ, trong khi Indonesia t ừ 0,3­0,4 USD/gi ờ,   Trung   Quốc   từ   0,5­0,75   USD/giờ,   Malaysia   từ   1,25­1   ,l4   USD/giờ,   Thái   Lan   từ   1,5   17
  18. USD/giờ trở lên và ở Đài Loan khoảng 5 USD/giờ. [44] Bảng 4 : ĐẶC ĐIÈM CÁC Hộ SẢN XUẤT THỦ CÔNG NGHIỆP TRÊN CẢ NƯỚC Hộ Thu nhập bình quân Tỷ lệ Hộ gia đình tháng của hộ (3) hộ Sô hộ % Nghìn USD nghèo (nghìn hộ) đồng (%) Hộ sản xuất TCN (1) 1.423 9,9 905 69,5 3,7 Tổng số hộ  (2) 14.390 100,0 713 46,9 10,4 Nguồn : Điều tra khảo sát lập bản đồ. Bộ NNPTNT­JỈCA, 2002 Hộ trả lờisảnxuất thủ công nghiệp là nguồn thu nhập chính từ từ Khảo sát lập bản đồ  Các hộ gia đình bao gồm hộ nông, lâm, ngư nghiệp, hộ sản xuất, dịch vụ & kinh doanh   và các hộ khác. 1 USD = 15.200 đồng. 1.2.4. Phát triển ngành nghề thủ thủ công mỹ nghệ góp phần bảo tồn bản sắc văn hoá   của dân tộc trong thời đại toàn cầu hoá Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc   đẩy sự phát triển kinh tế ­ xã hội. Một sự phát triển đúng đắn phải là đến hiện đại từ   truyền thống, chỉ  có như  vậy mới không đánh mất mình trong quá trình hiện đại hoá   (HĐH). Phần quý báu nhất trong di sản văn hoá là những giá trị truyền thống, tiêu biểu  cho sức sống, phẩm chất, tính cách, bản sắc dân tộc được lưu giữ  tạo thành bàn đạp,  sức mạnh bên trong cho sự phát triển bền vững của cá nhân và cộng đồng. [55,333] Nhiều nghề và làng nghề TCMN của nước ta đã nổi bật lên trong lịch sử văn hoá  Việt nam. Nhiều sản phẩm của các làng nghề sản xuất ra mang tính nghệ thuật cao với   các đặc tính riêng có của làng nghề và những sản phẩm đó đã vượt qua giá trị hàng hoá   đơn thuần, trở thành những sản phẩm văn hoá được coi là biểu tượng của truyền thống  dân tộc Việt nam. Ngành nghề  truyền thống, đặc biệt là các nghề  thủ  công mỹ  nghệ,   chính là di sản quý giá mà cha ông chúng ta đã tạo lập và để lại cho các thế hệ sau. Bởi   18
  19. vậy, phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ góp phần đắc lực vào việc giữ gìn các giá  trị  văn hoá của dân tộc Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá (CNH)­HĐH đất  nước. [9,46] Cả  nước ta hiện có khoảng 300 làng nghề  TCMN truyền thống trong tổng số  khoảng 2.017 làng nghề; có những làng nghề nổi tiếng như làng lụa Vạn Phúc, gỗ Đồng   Kỵ, gốm sứ  Bát Tràng, đúc đồng Ý Yên, thổ  cẩm Hoà Bình, thổ  cẩm Chăm, thêu Huế,   chạm bạc Đồng Xâm, sứ Bình Dương... Khi cuộc cạnh tranh với quy mô toàn cầu mở ra,   những sản phẩm TCMN mà doanh nhân nước ta mang ra thị trường đều phải có sức cạnh  tranh cao hơn trước, không những trên thị  trường thế  giới mà còn ngay trên thị  trường  trong nước. Song, điều cần nhấn mạnh là đó không chỉ  là những hoạt động đơn thuần  kinh tế mà ẩn chứa bên trong các sản phẩm TCMN  ấy luôn luôn có hàm lượng văn hoá,  trước hết là văn hoá của mỗi cơ  sở  sản xuất và rộng hơn, là bản sắc văn hoá của từng   làng nghề và của cả VN ta. Nói cách khác, kinh tế và văn hoá gắn bó với nhau, hoà quyện   vào nhau trong mỗi sản phẩm TCMN. [32] 1.2.5. Phát triển ngành nghe thủ  công mỹ  nghệ  theo hướng sản xuất hàng hoá giúp đội  ngũ lao động có khả  năng thích  ứng với lao động công nghiệp, góp phần công nghiệp   hoá, hiện đại hoá nông thôn Quá trình phát triển kinh tế  ở hầu hết các nước đều gắn liền với sự chuyển dịch   lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp dịch vụ. Sự nghiệp CNH­HĐH đòi hỏi nguồn  lao động không ngừng được bổ  sung từ  khu vực nông nghiệp. Nguồn nhân lực từ  nông  nghiệp cho quá trình phát triển công nghiệp và dịch vụ, một mặt bổ  sung cho khu vực  thành thị, mặt khác được thu hút vào công nghiệp và dịch vụ  phi nông nghiệp ngay trên  địa bàn nông thôn đã được thành thị hoá theo hướng “nhập xưởng bất nhập thành”. Phát   triển ngành nghề TCMN sẽ thực hiện tốt việc phân công lao động tại chỗ, là nơi kết hợp   nông nghiệp­công nghiệp có hiệu quả. Sự phát triển ngành nghề TCTT nói chung và các   làng nghề TCMN nói riêng là một trong những hướng rất quan trọng để  thực hiện việc  chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH­HĐH. Trên cơ sở hoạt động chung trong mọi sinh hoạt cộng đồng của làng xã VN, giao  tiếp bị hạn chế, giao lưu văn hoá không được mở mang, tính bảo thủ đã xuất hiện như là   19
  20. một nét điển hình của người nông dân. Người nông dân sản xuất nhỏ  thường tuỳ  tiện  trong hoạt động và giao tiếp nên thiếu tính kỹ  luật. Họ muốn làm thì làm, thích nghỉ  thì   nghỉ, tuỳ theo hứng thú, không bị kỷ luật của công việc, của tổ chức quy định. Tình hình   đó đã tạo nên tác phong tuỳ  tiện, thiếu tinh thần trách nhiệm cá nhân, không tính đến   hiệu quả kinh tế của sức lực và thời gian. Như vậy, ở họ thiếu tính kỷ luật lao động và   điều này đã trở  thành lực cản đối với sự  phát triển của xã hội và của cả  cá nhân trong   công cuộc CNH­HĐH đất nước. Phát triển ngành nghề TCMN theo hướng sản xuất hàng  hoá tạo điều kiện xoá bỏ  tình trạng chia cắt, khép kín trong từng địa bàn, từng đơn vị,  hình thành và phát triển các mối quan hệ hợp tác, phân công lao động trong quá trình phát   triển, thúc đẩy việc mở  rộng giao lưu kinh tế và văn hoá giữa các vùng nông thôn, giữa  thành thị và nông thôn, giữa trong nước và nước ngoài, tạo điều kiện cho kinh tế­xã hội ở  nông thôn phát triển theo hướng văn minh, tiến bộ. Đồng thời sản xuất hàng hoá làm cho   trình độ nhận thức của lao động nông nghiệp được nâng cao, thói quen năng động, ý chí  vươn lên và phong cách nghề nghiệp được tôi luyện trong môi trường kinh tế hàng hoá,  sẽ càng có điều kiện đáp ứng nhu cầu chất lượng sức lao động ngày càng tăng của công nghiệp và dịch vụ. [6,95­105; 2,39­41] 1.2.6. Phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ theo hướng liên ket cùng ngành du lịch Hệ  thống làng nghề là một trong những nguồn tài nguyên du lịch quan trọng của   nước ta. Phát triển du lịch làng nghề không chỉ mang lại lợi nhuận kinh tế mà còn là cơ  hội để  quảng bá hình  ảnh đất nước và con người Việt Nam. Ngoài những lợi thế  như  cảnh quan thiên nhiên, vị trí địa lý, nét văn hoá đặc sắc, các làng nghề TCMN còn có sức  hút đặc biệt bởi mỗi làng thường gắn với một vùng văn hoá hay một hệ  thống di tích.  Chính điều này đã tạo nên sức hấp dẫn riêng của các làng nghề. PGS.TS Phạm Trung   Lương, Viện nghiên cứu phát triển du lịch làng nghề  nhận định :   “Làng nghề  truyền   thống được xem như  một dạng tài nguyên du lịch nhân văn có ý nghiã đặc biệt quan   trọng. Bời các sản pham du lịch làng nghề  luôn bao hàm trong nó cả  những giá trị  vật   thế và phi vật thế”. [25] Trong chiến lượcphát triển du lịch Việt nam đến năm 2010 với mục tiêu phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác có hiệu quả  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2