
Chuyên đề bảo hiểm
Trịnh Thanh Huyền - Bảo hiểm 41B 1
LỜI NÓI ĐẦU
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh
doanh hàng ngày dù đã luôn luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con
người vẫn luôn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó
do nhiều nguyên nhân, ví dụ như :các rủi ro do môi trường thiên nhiên như
bão lụt, động đất, rét, hạn, sương muối, dịch bệnh…;các rủi ro do sự tiến bộ
phát triển khoa học và kỹ thuật như tai nạn ôtô, hàng không, tai nạn lao
động..;các rủi ro do môi trường xã hội như hoả hoạn, bạo lực…
Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người
những khó khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, sức khoẻ bị
giảm sút, làm ngưng trệ sản xuất và kinh doanh của các tổ chức, doanh
nghiệp, cá nhân…làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế – xã hộ nói chung.
Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau
nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả do rủi ro gây ra. Trong số đó,
Bảo hiểm được coi là một biện pháp tích cực nhất trong việc hạn chế rủi ro,
giảm thiểu tổn thất. Bên cạnh các loại hình bảo hiểm như BHXH và BHYT,
ngày càng có nhiều người dân trên toàn thế giới nói chung, ở Việt Nam nói
riêng tham gia vào các loại hình bảo hiểm con người trong bảo hiểm thương
mại, trong đó đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ(BHNT).
Trên thế giới, loại hình BHNT đã phát triển hàng thế kỷ và cho đến nay đã
có hàng trăm sản phẩm BHNT ra đời, góp phần phục vụ nhu cầu ngày càng đa
dạng hoá của khách hàng. Ở Việt Nam, Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam
(Bảo Việt ) đã cho ra mắt loại hình bảo hiểm nhân thọ vào tháng 8/1996 và
cho đến nay đã đạt được những bước tiến lớn: chiếm 54% thị phần, tốc độ
tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm đạt 64,8% trong năm 2001 và cũng là
doanh nghiệp duy nhất có mạng lưới đại lý phủ khắp các tỉnh thành. Các sản
phẩm của Bảo Việt đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của khách hàng và
được khách hàng tín nhiệm, tin tưởng tham gia. Từ giữa năm 1999, Chính
Phủ cho phép mở cửa thị trường BHNT đã xuất hiện thêm các doanh nghiệp
BHNT lớn, có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, trên thị trường có 5 doanh
nghiệp BHNT, trong đó chỉ có 1 doanh nghiệp Nhà Nước là Tổng công ty bảo
hiểm Việt Nam (Bảo Việt), còn lại là 4 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài . Sự xuất hiện này đã tạo ra sự cạnh tranh toàn diện với tốc độ cao giữa

Chuyên đề bảo hiểm
Trịnh Thanh Huyền - Bảo hiểm 41B 2
các doanh nghiệp BHNT và góp phần thúc đẩy thị trường BHNT của Việt
Nam ngày càng phát triển. Dưới sức ép cạnh tranh, các công ty BHNT không
ngừng nỗ lực nâng cao khả năng khai thác sản phẩm BHNT để thu hút khách
hàng và mở rộng thị phần. Nhìn chung những phương thức cạnh tranh lành
mạnh của các công ty đều đem lại lợi ích cho khách hàng, sẽ khuyến khích
ngày càng nhiều người tham gia bảo hiểm.
Tuy nhiên, mặc dù các doanh nghiệp BHNT trong những năm qua
đã có nhiều biện pháp nhằm đẩy mạnh khả năng khai thác sản phẩm của
mình, nhưng nhìn chung số lượng sản phẩm bán được vẫn chưa cao, đặc biệt
là các sản phẩm bảo hiểm Nhân thọ trọn đời, số tiền bảo hiểm còn hạn chế,
hình thức thu phí còn nhiều bất cập...Chính vì vậy việc nghiên cứu đề tài
“Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh công tác khai thác sản phẩm bảo
hiểm An Khang Trường Thọ của Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội ” sẽ giúp
chúng ta có cái nhìn tổng quan về thực trạng khai thác sản phẩm Bảo hiểm
trọn đời trên thị trường Việt Nam và một số giải pháp để thúc đẩy công tác
khai thác sản phẩm Bảo hiểm An Khang Trường Thọ của BVNTHN nhằm
góp phần nâng cao số lượng sản phẩm bảo hiểm An Khang Trường Thọ được
bán, đưa sản phẩm Bảo hiểm An Khang Trường Thọ trở thành một sản phẩm
quen thuộc và được ưa thích của người dân Việt Nam.
Đề tài này được hoàn thành dựa trên bài giảng của TS Nguyễn Văn Định
và sự hướng dẫn của TH. S Phạm Thị Định. Em xin chân thành cảm ơn các
thầy cô. Mặc dù rất cố gắng, tuy nhiên do những hạn chế về mặt lý luận và
đặc biệt là về thực tiễn nên không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định,
em rất mong nhận được sự tham khảo và góp ý của các thầy, cô và các bạn,
những ai quan tâm đến vấn đề này để bài viết được hoàn thiện hơn.
Hà Nội ngày 26/11/2002
Sinh viên
Trịnh Thanh Huyền

Chuyên đề bảo hiểm
Trịnh Thanh Huyền - Bảo hiểm 41B 3
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHNT
I>KHÁI QUÁT VỀ BHNT
1.LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN BHNT
Ở mỗi quốc gia, trong mọi thời kỳ, con người luôn được coi là lực
lượng sản xuất chủ yếu, là nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế-xã hội.
Song trong lao động sản xuất cũng như trong cuộc sống hàng ngày, những rủi
ro :tai nạn, ốm đau, bệnh tật, mất việc làm, già yếu ..v..v vẫn luôn tồn tại và
tác động đến nhiều mặt của cuộc sống con người. Vì vậy, vấn đề mà bất kỳ xã
hội nào cũng quan tâm là làm thế nào để khắc phục được những hậu quả của
rủi ro nhằm đảm bảo cho cuộc sống con người. Thực tế đã có rất nhiều biện
pháp được áp dụng như: phòng tránh, cứu trợ, tiết kiệm v..v .. nhưng bảo
hiểm luôn được đánh giá là một trong những biện pháp hữu hiệu. Có rất nhiều
loại hình bảo hiểm ra đời với mục đích giúp con người khắc phục được những
rủi ro, giảm thiểu tổn thất và ổn định cuộc sống, đặc biệt là loại hình BHNT.
BHNT là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm,
mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ hưởng
quyền lợi bảo hiểm ) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định
trước xảy ra (người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất
định) còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách
khác, BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro có liên quan đến sinh mạng,
cuộc sống và tuổi thọ của con người.
Đối tượng tham gia BHNT rất rộng, bao gồm mọi người ở các lứa tuổi
khác nhau. Lịch sử ra đời của BHNT khá sớm.
Hợp đồng BHNT đầu tiên trên thế giới ra đời năm 1583, do công dân
London là ông william Gybbon tham gia. Phí bảo hiểm ông phải đóng lúc đó
là 32 bảng Anh, khi ông chết trong năm đó, người thừa kế của ông được
hưởng 400 bảng Anh.
Năm 1759, công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Philadenphia (Mỹ). Công
ty này đến nay vẫn còn hoạt động, nhưng lúc đầu nó chỉ bán bảo hiểm cho các
con chiên ở nhà thờ của mình.Năm 1762, công ty BHNT Equitable ở nước
Anh được thành lập và bán bảo hiểm nhân thọ cho mọi người dân.

Chuyên đề bảo hiểm
Trịnh Thanh Huyền - Bảo hiểm 41B 4
Ở châu Á, các công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Nhật Bản .Năm 1868
công ty bảo hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, 2 công ty
khác là: Kyoei và Nippon ra đời và phát triển cho đến ngày nay.
Trên thế giới, BHNT là loại hình bảo hiểm phát triển nhất, năm 1985
doanh thu phí BHNT mới chỉ đạt 630,5 tỷ đôla, năm 1989 đã lên tới 1.210,2
tỷ và năm 1993 con số này là 1647 tỷ, chiếm gần 48% tổng phí bảo hiểm.
Hiện nay có năm thị trường BHNT lớn nhất thế giới là: Mỹ, Nhật Bản, CHLB
Đức, Anh và Pháp.
2.MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA BHNT
Dịch vụ BHNT là loại hình bảo hiểm chỉ liên quan đến các sự kiện xảy
ra trong cuộc sống của con người . Do đó, BHNT có những đặc điểm cơ bản
sau:
Thứ nhất, BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro: Đây là
một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với bảo hiểm phi
nhân thọ. Thật vậy, mỗi người mua BHNT sẽ định kỳ nộp một khoản tiền nhỏ
(gọi là phí bảo hiểm) cho người bảo hiểm, ngược lại người bảo hiểm có trách
nhiệm trả số tiền lớn (gọi là số tiền bảo hiểm) cho người hưởng quyền lợi bảo
hiểm như đã thoả thuận từ trước khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Số tiền
bảo hiểm được trả khi người được bảo hiểm đạt đến một độ tuổi nhất định và
được ấn định trong hợp đồng. Hoặc số tiền này được trả cho thân nhân và gia
đình người được bảo hiểm khi người này không may bị chết sớm ngay cả khi
họ mới tiết kiệm được một khoản rất nhỏ qua việc đóng phí bảo hiểm. Số tiền
này giúp những người còn sống trang trải những khoản chi phí cần thiết như
thuốc men, mai táng, chi phí giáo dục con cái…Chính vì vậy, BHNT vừa
mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro. Tính chất tiết kiệm ở đây thể hiện
ngay trong từng cá nhân, từng gia đình một cách thường xuyên, có kế hoạch
và có kỷ luật. Nội dung tiết kiệm khi mua BHNT khác với hình thức tiết kiệm
khác ở chỗ, người mua bảo hiểm đảm bảo trả cho người tham gia bảo hiểm
hay người thân của họ một số tiền rất lớn ngay cả khi họ mới tiết kiệm được
một khoản tiền nhỏ. Có nghĩa là khi người được bảo hiểm không may gặp rủi
ro, trong thời hạn bảo hiểm được ấn định, những người thân của họ sẽ nhận

Chuyên đề bảo hiểm
Trịnh Thanh Huyền - Bảo hiểm 41B 5
được những khoản trợ cấp hay số tiền bảo hiểm từ công ty bảo hiểm. Điều đó
thể hiện rõ tính chất rủi ro trong BHNT.
Thứ hai, BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người
tham gia bảo hiểm: Trong khi các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp
ứng được một mục đích là góp phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham
gia bảo hiểm gặp sự cố, từ đó góp phần ổn định tài chính cho người tham gia,
thì BHNT đã đáp ứng được nhiều mục đích. Mỗi mục đích được thể hiện khá
rõ trong từng loại hợp đồng. Hợp đồng BHNT đôi khi còn có vai trò như một
vật thế chấp để vay vốn hoặc BHNT tín dụng thường được bán cho các đối
tượng đi vay để họ mua xe hơi, đồ dùng gia đình hoặc dùng cho các mục đích
cá nhân khác…Chính vì đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau nên loại
hình bảo hiểm này có thị trường ngày càng rộng và được rất nhiều người quan
tâm.
Thứ ba, các loại hợp đồng trong BHNT rất đa dạng và phức tạp: Tính
đa dạng và phức tạp trong các hợp đồng BHNT thể hiện ở ngay các sản phẩm
của nó. Mỗi sản phẩm bảo hiểm nhân thọ cũng có nhiều loại hợp đồng khác
nhau, chẳng hạn BHNT hỗn hợp có các hợp đồng 5 năm, 10 năm. Mỗi hợp
đồng với mỗi thời hạn khác nhau, lại có sự khác nhau vể số tiền bảo hiểm,
phương thức đóng phí, độ tuổi của người tham gia…Ngay cả trong một bản
hợp đồng, mối quan hệ giữa các bên cũng rất phức tạp. Khác với các bản hợp
đồng bảo hiêm phi nhân thọ, trong mỗi hợp đồng BHNT có thể có 4 bên
tham gia (ngưòi bảo hiểm, người được bảo hiểm, người tham giabảo hiểm và
người được thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm).
Thứ tư, phí BHNT chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố, vì vậy
quá trình định phí khá phức tạp: Theo tác giả Jean-Claude Harrari “sản phẩm
BHNT không gì hơn chính là kết quả của một tiến trình đầy đủ để đưa sản
phẩm đến công chúng”. Trong tiến trình này, người bảo hiểm phải bỏ ra rất
nhiều chi phí để tạo nên sản phẩm, như chi phí khai thác, chi phí quản lý hợp
đồng…Nhưng những chi phí đó mới chỉ là một phần để cấu tạo nên giá cả sản
phẩm BHNT (tính phí BHNT), một phần chủ yếu khác lại phụ thuộc vào: độ
tuổi của người được bảo hiểm, tuổi thọ bình quân của con người, số tiền bảo
hiểm, thời hạn tham gia bảo hiểm phương thức thanh toán, lãi suất đầu tư, tỷ
lệ lạm phát …