Mục lục
LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................... 3 Chương 1: VAI TRÒ CỦA CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ HẢI QUAN HOẶC LIÊN QUAN ĐẾN HẢI QUAN............................................................. 6 1.1. Các điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên quan đến hải quan ............ 6
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của các điều ước quốc tế về hải
quan hoặc liên quan đến hải quan ...................................................................... 6
Hải quan với sự xuất hiện trong lịch sử hoạt động thương mại. ............. 6 a)
Vai trò, vị trí của các điều ước quốc tế trong đời sống luật pháp quốc tế b)
nói chung và hải quan nói riêng: .......................................................................... 7
1.1.2. Các điều ước quốc tế về hải quan ......................................................... 8
1.1.3. Các điều ước liên quan đến hải quan................................................. 12
1.1.4. Các tổ chức quốc tế có liên quan ........................................................ 16
Tổ chức Hải quan thế giới (WCO)......................................................... 16 a)
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu A - Thái Bình Dương (APEC) ............ 22 b)
Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) ............................................. 27 c)
d) Diễn đàn Hợp tác Kinh tế A - Âu (ASEM) ............................................. 29
1.2. Vai trò của các điều ước quốc tế đối với vấn đề hiện đại hoá hải quan
33
1.2.1. Hiện đại hoá hải quan - một tất yếu khách quan:.............................. 33
1.2.2. Các nội dung hiện đại hoá hải quan: ................................................. 36
1.2.3. Vai trò của các Điều ước quốc tế có liên quan đến hiện đại hoá hải
quan: 38
1.2.4. Vai trò của các Tổ chức quốc tế có liên quan đến hiện đại hoá hải
quan: 39
Chương 2 THỰC TIỄN THAM GIA, THỰC HIỆN CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ HẢI QUAN HOẶC LIÊN QUAN ĐẾN HẢI QUAN CỦA HẢI QUAN VIỆT NAM ................................................................................... 44 2.1. Tổng quan về hải quan việt nam ............................................................ 44
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
2.1.1. Hải quan việt nam qua các thời kỳ ..................................................... 44
2.1.2. Yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới: ............................................. 46
2.2. Thực tiễn tham gia, thực hiện các điều ước quốc tế về hải quan hoặc
liên quan đến hải quan của hải quan việt nam:.............................................. 49
2.2.1. Sự cần thiết tham gia vào các điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên
quan đến hải quan trong tiến trình cải cách, hiện đại hoá của Hải quan Việt
Nam: 49
2.2.2. Thực tiễn tham gia các điều ước quốc tế về hải quan và liên quan đến
hải quan của hải quan Việt Nam....................................................................... 54
2.3. Những khó khăn, thuận lợi của Hải quan việt nam khi tham gia các
điều ước quốc tế này: ........................................................................................ 58
2.3.1. Khó khăn, tồn tại :............................................................................... 58
2.3.2. Thuận lợi:............................................................................................ 60
2.3.3. Bài học rút ra: ..................................................................................... 62
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT THỰC HIỆN:..... 65 3.1. Phương hướng tham gia, thực hiện các điều ước quốc tế về hải quan
hoặc liên quan đến hải quan của Hải quan việt nam. .................................... 65
3.2. Đề xuất kiến nghị..................................................................................... 67
I- Biện pháp thực hiện Công ước KYOTO: ..................................................... 67
II- Thực hiện Công ước HS.............................................................................. 73
III. Thực hiện Hiệp định trị giá GATT/WTO: .................................................. 74
IV. Công nghệ thông tin: ................................................................................... 76
V- Thực hiện Hiệp định TRIPs: ........................................................................ 79
KẾT LUẬN........................................................................................................ 81
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-2-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
LỜI NÓI ĐẦU
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và nhà nước ta đã chủ
trương đẩy mạnh cải cách hành chính, coi đó là một trong những khâu quan trọng
để có thể hội nhập kinh tế quốc tế cả về diện rộng và bề sâu. Với định hướng đó,
ngành Hải quan đã sớm tham gia vào quá trình này và đã đạt được nhiều thành
tích quan trọng trong các mảng công việc chủ yếu của Ngành như giám sát quản
lý, thu thuế xuất nhập khẩu, đấu tranh chống buôn lậu..., bước đầu tạo tiền đề
thuận lợi cho tiến trình hiện đại hoá hoạt động hải quan .
Tuy nhiên, theo đà phát triển kinh tế, thương mại trên thế giới và ở Việt
Nam, giao lưu kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch của nước ngoài với Việt Nam
cũng tăng lên đáng kể, điều đó làm cho khối lượng công việc mà ngành Hải quan
phải quản lý cũng tăng lên gấp nhiều lần trong khi cơ sở vật chất kỹ thuật, biên
chế, trình độ cán bộ có tăng lên không đáng kể. Hệ thống các quy trình làm việc
tuy đã được cải tiến, nâng cấp nhưng vẫn chưa thoát hẳn khỏi các biện pháp
truyền thống trong khi ngành Hải quan đang trên đà triển khai áp dụng các quy
trình nghiệp vụ tiên tiến, hiện đại. Chính khoảng cách bất cập giữa quy trình
truyền thống với những mục tiêu yêu cầu của quy trình hiện đại đã đặt ngành Hải
quan trước một thách thức phải khẩn trương hiện đại hoá nghiệp vụ hải quan.
Hơn nữa, với chính sách thu hút đầu tư, tạo thông thoáng cho các hoạt động xuất
nhập khẩu của Đảng, nhà nước, hoạt động của Hải quan cũng phải phục vụ cho
định hướng này, phải giảm thiểu phiền hà, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho
những doanh nghiệp làm ăn chính đáng trong khi vẫn phải đảm bảo yêu cầu quản
lý, mà chìa khoá của vấn đề này,từ thực tiễn của hải quan các nước, là nghiệp vụ
hải quan đã được hiện đại hoá.
Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ đặt ra đối với Hải quan Việt Nam trong tiến
Deleted: Page 2
trình hiện đại hoá là: muốn làm tốt thì trước hết phải hiểu rõ, nắm bắt được chính
Deleted: of 78
-3-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
xác và đầy đủ các nội dung, yêu cầu hiện đại hoá để từ đó định ra phương án,
cách thức, bước đi phù hợp, hiệu quả nhất, mà hầu hết các nội dung hiện đại hoá
được đúc kết và tích tụ trong các điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên quan
đến hải quan - đối tượng nghiên cứu của khoá luận này.
Thông qua việc phân tích nội dung các Điều ước quốc tế có liên quan, các
yêu cầu hiện đại hoá nghiệp vụ Hải quan, đối chiếu với các nội dung quy định tại
các Điều ước quốc tế đa phương về Hải quan, khoá luận sẽ góp thêm phần cơ sở
lý luận, cơ sở pháp lý cho tiến trình hiện đại hoá Hải quan, xây dựng một chiến
lược tiếp cận và tham gia các Điều ước quốc tế đa phương về Hải quan, giúp cho
hoạt động Hội nhập quốc tế về Hải quan có những bước đi, lộ trình thích hợp,
bảo đảm hài hoà giữa thực hiện các yêu cầu quốc tế với lợi ích quốc gia. Đó cũng
chính là việc nhận biết tốt hơn "luật chơi" để tránh bị áp đặt, tránh những bước đi
thiếu tỉnh táo trong hội nhập.
Phục vụ cho mục tiêu nêu trên, khoá luận tập trung phân tích một số nội
dung chủ yếu sau:
- Tính tất yếu, khách quan của các yêu cầu hiện đại hoá công tác hải quan.
- Thực trạng hoạt động nghiệp vụ của Hải quan Việt nam và sự cần thiết
phải hiện đại hoá.
- Các nội dung hiện đại hoá hải quan trên thế giới.
- Quá trình hội nhập, hiện đại hoá nghiệp vụ của hải quan Việt nam và
những bài học rút ra.
- Phương hướng chiến lược về hiện đại hoá công tác hải quan và các kiến
nghị, giải pháp cụ thể.
Trong quá trình thực hiện, người viết đã căn cứ vào các quan điểm, đường
lối của Đảng - Nhà nước trong vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế, sử dụng các
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-4-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, so sánh, dự báo... để làm rõ
vấn đề, bảo đảm tính khách quan của kết quả nghiên cứu.
Các tài liệu được sử dụng bao gồm các tài liệu, báo cáo tổng kết công tác
của ngành hải quan, tài liệu của Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO), các tài liệu
chuyên ngành và các tài liệu khác trong và ngoài nước có liên quan đến các Công
ước về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan.
Khóa luận được chia làm ba chương như sau:
Chương 1: Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực Hải quan là một xu thế phát triển
tất yếu.
Chương 2. Thực trạng hoạt động nghiệp vụ của hải quan Việt nam và sự
cần thiết phải hiện đại hoá.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hiện đại hoá hải quan trong tiến
trình hội nhập quốc tế.
Người viết xin chân thành cám ơn Tiến sĩ Nguyễn Hữu Khải cùng nhiều cán
bộ của Vụ Hợp tác Quốc tế - Tổng Cục Hải quan đã tận tình giúp đỡ để người
viết hoàn thành tốt khoá luận này.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-5-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Chương 1:
VAI TRÒ CỦA CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ HẢI
QUAN HOẶC LIÊN QUAN ĐẾN HẢI QUAN
1.1. Các điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên quan đến hải quan
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của các điều ước quốc tế về hải
quan hoặc liên quan đến hải quan
Hải quan với sự xuất hiện trong lịch sử hoạt động thương mại.
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, nhu cầu của con người ngày
càng đa dạng, phong phú và ngày một đòi hỏi cao sự thoả mãn về hàng hoá. Do
vậy, các dịch vụ trao đổi, mua bán, chuyển nhượng, tín dụng, thông tin ngày
càng phát triển... nên có thể nói, các phạm trù như buôn bán, thương mại, thương
trường, thị trường, cạnh tranh luôn gắn liền với sản xuất hàng hoá của xã hội loài
người.
Như vậy, có thể nói nguồn gốc của các hoạt động hải quan là từ khi xuất
hiện sản xuất hàng hoá, con người sản xuất hàng hoá ra không chỉ để thoả mãn
nhu cầu của bản thân mà với mục đích để trao đổi, đây chính là tiền đề về kinh tế.
Khi xã hội cộng sản nguyên thủy tan rã, giai cấp chủ nô ra đời dựa vào vị
thế và sức mạnh của mình đã chiếm đoạt thành quả, sản phẩm lao động của các
nông nô, dần dần xuất hiện những thành phần dư giả vật chất trong xã hội, thúc
đẩy sự phát triển của các nghề thủ công, thúc đẩy việc buôn bán, thúc đẩy quá
trình tách thành thị ra khỏi nông thôn, cơ cấu xã hội thay đổi và hình thành bộ
máy quản lý cai trị trong xã hội. Như vậy, khi xã hội phân chia giai cấp và hình
thành các quốc gia, đây chính là các điều kiện về chính trị của việc xuất hiện các
hoạt động hải quan.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-6-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Như vậy, hoạt động hải quan xuất hiện từ khi có sự phân công lao động
sản xuất và xuất hiện hàng hoá, và luôn gắn liền với việc trao đổi buôn bán
thương mại giữa các vùng lãnh thổ khác nhau. Các cộng đồng này để bảo vệ
lợi ích của mình tự đặt ra các biện pháp quy định để kiểm soát hàng hoá qua
lại địa phận mình. Có thể nói, nếu không có trao đổi buôn bán thương mại
giữa các cộng đồng, các lãnh thổ thì cũng không có hoạt động của hải quan.
Xã hội càng phát triển, sự giao lưu giữa các cộng đồng càng đa dạng phong
phú về tất cả mọi lĩnh vực, đòi hỏi mỗi cộng đồng, quốc gia phải tự ban hành các
quy định về hoạt động của hải quan để kiểm tra, kiểm soát và thực hiện các
đường lối chính sách phát triển kinh tế, chính trị xã hội của quốc gia mình và như
vậy cùng với sự phát triển của xã hội, pháp luật hải quan cũng ngày một phát
triển và hoàn thiện.
Ngày nay, pháp luật hải quan của các nước, ngoài việc thực hiện các chức
năng chính như kiểm tra hàng hoá, thu thuế, chống buôn lậu, còn có nhiệm vụ
mới như kiểm soát lưu chuyển tiền tệ, chống việc rửa tiền của bọn tội phạm, thực
hiện việc kiểm tra đối với các quyền về sở hữu trí tuệ, ngăn chặn và phòng chống
tội phạm kinh tế, hình sự; kiểm soát sự tuân thủ pháp luật về môi trường, về hàng
hải, hàng không và kiểm tra, kiểm soát chất lượng hàng hoá, bảo vệ lợi ích người
tiêu dùng...
Vai trò, vị trí của các điều ước quốc tế trong đời sống luật pháp quốc tế
nói chung và hải quan nói riêng:
Tiến trình phát triển theo dòng lịch sử của các quốc gia và dân tộc trên thế
giới đã nảy sinh các mối quan hệ chính trị, kinh tế văn hoá ngày càng phong phú,
đa dạng và phức tạp. Để các mối quan hệ đó phát triển ổn định theo những
phương hướng nhất định, luật pháp quốc tế đã ra đời, tồn tại thông qua hai hình
thức cơ bản, đó là điều ước quốc tế và tập quán quốc tế. Nói cách khác, điều ước
Deleted: Page 2
quốc tế chính là một trong hai nguồn cơ bản của Luật quốc tế, là sự thoả thuận
Deleted: of 78
-7-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
giữa các chủ thể của Luật quốc tế với nhau trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm
thiết lập những quy tắc pháp lý bắt buộc gọi là những qui phạm luật quốc tế để ấn
định, thay đổi hoặc huỷ bỏ những quyền và nghĩa vụ với nhau.
Vì hoạt động hải quan gắn liền với giao lưu và buôn bán quốc tế, hải quan ra
đời sau khi phát sinh các nhu cầu và hoạt đông thực tế về giao lưu và buôn bán
quốc tế, nên thế giới đã xây dựng nhiều điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên
quan đến hải quan. Mục tiêu của các điều ước quốc tế này nhằm định ra những
khuôn khổ pháp lý chung đảm bảo sao cho trong khi hải quan từng nước phục vụ
lợi ích và chủ quyền quốc gia mình vẫn dựa trên một số nguyên tắc và tiêu chuẩn
nhất định nhằm thúc đẩy giao lưu và thương mại chung của thế giới. Phần nhiều
các điều ước đa phương này thể hiện dưới dạng Công ước.
Từ đó càng thấy rằng trước yêu cầu quốc tế hoá và hội nhập mạnh mẽ hiện
nay, chúng ta cần coi trọng việc nghiên cứu để nắm vững, trên cơ sở đó có những
bước đi hợp lý trong việc tham gia các công ước quốc tế về hải quan hoặc liên
quan đến hải quan. Việc hiểu rõ vai trò của các điều ước quốc tế về hải quan hoặc
liên quan đến hải quan sẽ tạo cho ta thế chủ động trong hội nhập quốc tế và khu
vực, hạn chế các yếu tố bất lợi, đồng thời qua đó từng bước chuẩn hoá các luật và
quy định của ta đáp ứng nhu cầu phát triển trước mắt và lâu dài.
1.1.2. Các điều ước quốc tế về hải quan
Có 15 Công ước về hải quan do Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO) xây
dựng và quản lý. Cụ thể như sau:
i) Công ước thành lập Hội đồng hợp tác Hải quan (có hiệu lực từ
4/11/1952).
Mục đích: định ra những nguyên tắc cơ bản về tổ chức, hoạt động, mục tiêu
của Hội đồng hợp tác Hải quan. Các nước, lãnh thổ Hải quan độc lập, các tổ chức
quốc tế tham gia công ước này thì trở thành thành viên WCO, được hưởng các
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-8-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
quyền lợi và thực hiện các nghĩa vụ của WCO. Cho đến nay đã có 161 quốc gia
và các lãnh thổ tham gia ký kết công ước này khiến WCO trở thành tổ chức quốc
tế lớn thứ hai trên thế giới sau Tổ chức Liên hiệp quốc.
ii) Công ước quốc tế về đơn giản hoá và hài hoà các thủ tục Hải quan (Công
ước Kyoto) có hiệu lực từ 25/9/1974):
Mục đích: nhằm làm cho thủ tục Hải quan của các nước trên thế giới đơn
giản hơn và hài hoà với nhau để tạo thuận lợi cho xuất nhập khẩu, xuất nhập
cảnh. Đây được coi là một công ước "xương sống" về nghiệp vụ Hải quan.
Qua quá trình thực hiện, Công ước quốc tế về đơn giản hoá và hài hoà thủ
tục hải quan (cũ) đã bộc lộ rõ những nhược điểm của nó mà một trong những
nhược điểm cơ bản là chưa tạo ra sự thống nhất, hài hoà thực sự các qui trình thủ
tục hải quan giữa các nước. Bằng việc sửa đổi nội dung, cơ cấu, các yêu cầu cụ
thể, tiên quyết khi tham gia công ước, Công ước quốc tế về đơn giản hoá và hài
hoà thủ tục hải quan (sửa đổi năm 1999) đã giải quyết được nhược điểm của
Công ước quốc tế về đơn giản hoá và hài hoà thủ tục hải quan (cũ) nhằm tạo ra
sự thống nhất hài hoà thực sự giữa thủ tục hải quan cuả các nước trên thếgiới.
Công ước quốc tế về đơn giản hoá và hài hoà thủ tục hải quan sửa đổi năm
1999 (hiện vẫn chưa có hiệu lực vì đang chờ đủ số thành viên theo qui định thông
báo việc tham gia chính thức của họ vào Nghị định thư sửa đổi là 40 thành viên),
đến nay mới có 25 nước tham gia ký kết.
iii) Công ước về Hệ thống hài hoà trong mô tả và mã hoá hàng hoá (Công
ước HS) có hiệu lực từ 1/1/1988), hiện có 108 nước tham gia ký kết.
Mục đích: nhằm thống nhất tên gọi của mọi loại hàng hoá trong thương mại
quốc tế bằng việc đưa ra một hệ thống thống nhất trong mô tả và mã hoá hàng
hoá. Hệ thống này đáp ứng được những yêu cầu cơ bản trong tất cả các lĩnh vực
có liên quan (thương mại, hải quan, thuế xuất nhập khẩu, thống kê, giao nhận vận
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
chuyển... hàng hoá).
-9-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
iv) Công ước về Danh mục phân loại hàng hoá theo biểu thuế có hiệu lực
từ 11/9/1959, nhưng ít được sử dụng. Hiện chỉ có 8 nước tham gia.
v) Công ước Hải quan về sổ ATA cho việc chấp nhận tạm thời hàng hoá
(Công ước ATA) có hiệu lực từ 30/7/1963, hiện có 63 nước tham gia.
Mục đích: tạo thuận lợi cho việc tạm chấp nhận (tạm nhập, tạm xuất khẩu
hàng hoá) thông qua việc ban hành và sử dụng bộ chứng từ ATA (Admission
Temporaire - Temporary Admission) mang tính quốc tế và các biện pháp bảo
dảm cho việc thực hiện.
Phạm vi áp dụng: thường áp dụng đối với hàng hoá là các thiết bị chuyên
ngành, hàng hội chợ, triển lãm, hàng phục vụ hội nghị hoặc các sự kiện tương tự.
vi) Công ước Hải quan về tạm nhập các vật dụng khoa học có hiệu lực từ
5/8/1969 do WCO xây dựng và quản lý, hiện có 56 nước tham gia.
vii) Công ước Hải quan về tạm nhập các vật dụng giáo dục có hiệu lực từ
10/9/1970 do WCO xây dựng và quản lý, hiện có 38 nước tham gia.
viii) Công ước Hải quan về tạm nhập các vật dụng chuyên nghiệp có
hiệu lực từ 1/7/1962 do WCO xây dựng và quản lý, hiện có 55 nước tham gia.
ix) Công ước Hải quan về tạm nhập các vật dụng của người đi biển có
hiệu lực từ 1/12/1965 do WCO xây dựng và quản lý, hiện có 42 nước tham gia.
x) Công ước Hải quan về tạm nhập các vật dụng bao bì có hiệu lực từ
15/3/1962 do WCO xây dựng và quản lý, hiện có 38 nước tham gia.
xi) Công ước Hải quan về tạm nhập các hàng hoá phục vụ hội chợ triển
lãm có hiệu lực từ 13/7/1962 do WCO xây dựng và quản lý, hiện có 61 nước
tham gia.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-10-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
xii) Công ước Hải quan về quá cảnh quốc tế hàng hoá (Công ước ITI)
tạm nhập các vật dụng khoa học có hiệu lực từ 7/6/1961 do WCO xây dựng và
quản lý.
xiii) Công ước Istanbul có hiệu lực từ 26/6/1990, hiện có 38 nước tham
gia.
Mục đích: cũng nhằm tạo thuận lợi cho việc tạm chấp nhận, nhưng bao gồm
nhiều chủng loại hàng hoá hơn và áp dụng cả đối với các phương tiện giao thông,
súc vật...
Công ước này cũng quy định tính bắt buộc phải sử dụng bộ chứng từ ATA.
xiv) Công ước Nairobi có hiệu lực từ 21/5/1980, còn gọi là Công ước quốc
tế về giúp đỡ hành chính lẫn nhau nhằm ngăn ngừa và trấn áp các vi phạm Hải
quan. Hiện có 51 nước tham gia công ước này.
Mục đích: nhằm thiết lập sự hợp tác đa phương giữa các nước thành viên
WCO trên cơ sở trao đổi các thông tin và phối hợp về kiểm soát chống buôn lậu,
chống gian lận thương mại, trong đó có chống buôn lậu ma tuý, các chất hướng
thần và tài sản văn hoá.
xv) Hiệp định Hải quan ASEAN có hiệu lực từ 3/1997:
Do các nước ASEAN cùng nhau dự thảo và ký kết, có thể coi như là Tuyên
ngôn của ASEAN về Hải quan. Hiệp định nêu ra các mục tiêu phấn đấu của Hải
quan các nước trong khối là:
(cid:31) Đơn giản hoá và hài hoà hoá trên các lĩnh vực: trị giá hải quan (theo trị
giá GATT/WTO với một lộ trình đẩy nhanh); danh mục biểu thuế quan
theo mã HS; thủ tục Hải quan (theo tiêu chuẩn của Công ước Kyoto).
(cid:31) Có hệ thống pháp luật hải quan trong sáng, minh bạch.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-11-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
(cid:31) Quản lý có hiệu quả và giải phóng hàng hoá nhanh chóng để thúc đẩy
thương mại và đầu tư nội khu vực.
(cid:31) Phòng ngừa và đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Với những mục tiêu cụ thể như:
(cid:31) Xây dựng Danh mục Biểu thuế hài hoà ASEAN (AHTN) theo mã HS,
hài hoà danh mục biểu thuế cấp 8 số. AHTN sẽ dựa vào HS 6 số, sẽ sử
dụng cấp độ 8 số có mục đích thuế.
(cid:31) Trị giá Hải quan: trị giá theo GATT, không sử dụng xác định trị giá hải
quan như công cụ bảo hộ. Cần có lịch trình thực hiện GATT. Thống nhất
cách thức thực hiện Hiệp định ở tất cả các nước thành viên.
(cid:31) Thủ tục hải quan: thực hiện đơn giản và hài hoà hoá thủ tục hải quan theo
chuẩn mực của Công ước Kyoto nhằm thông quan hiệu quả và nhanh
chóng.
Trong số các điều ước quốc tế nêu trên, Hải quan Việt Nam tập trung nghiên
cứu tham gia một số công ước quan trọng như Công ước Kyoto, Công ước HS,
Công ước Nairobi, Công ước ATA.
1.1.3. Các điều ước liên quan đến hải quan
Ngoài những công ước trên còn có một số Công ước do các tổ chức quốc
tế khác xây dựng và quản lý có liên quan đến hải quan như:
i) Hiệp định về Trị giá GATT/WTO (Hiệp định thực hiện Điều VII của
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT do Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) xây dựng và Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO) quản lý, có hiệu lực
từ 1/1/1981 và được điều chỉnh lại khi GATT trở thành WTO, hiện có 145 nước
tham gia, trong đó có 127 nước là thành viên WCO, 18 nước không phải là thành
viên WCO, 25 nước là quan sát viên WTO.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-12-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Mục đích: tạo ra một hệ thống xác định trị giá Hải quan hợp lý, thống nhất,
trung tính. Bao gồm các nguyên tắc: chấp nhận giá thực trả hoặc sẽ phải trả trong
điều kiện giao dịch bình thường trên thị trường tự do như là cơ sở để xác định trị
giá; việc xác định trị giá được dựa trên giá CIF và trên số lượng thực tế nhập
khẩu.
ii) Công ước Hải quan về Container do WTO xây dựng và WCO quản lý,
có hiệu lực từ 6/12/1975, hiện có 26 nước tham gia ký kết.
Mục đích: cho phép chấp nhận tạm thời (tạm nhập, tạm xuất) các container
(có hàng hoặc rỗng) mà không thu thuế. Công ước bao gồm các điều khoản về
việc tạo ra container, các thủ tục chấp nhận tạm thời container, sử dụng container
trong vận chuyển nội địa, quy định kỹ thuật về container dùng trong vận chuyển
quốc tế với niêm phong Hải quan...
iii) Nhóm các Công ước về ma tuý:
Do Liên hợp quốc ban hành, bao gồm: "Công ước thống nhất về ma tuý -
năm 1961", "Công ước về các chất kích thích - năm 1971", "Công ước về chống
buôn bán ma tuý - năm 1988":
Mục đích: thống nhất trong phạm vi quốc tế về việc chống buôn bán, vận
chuyển, sử dụng và sản xuất trái phép các loại ma tuý, quy định các biện pháp
hợp tác quốc tế về vấn đề này.
iv) Nhóm công ước về tạo thuận lợi cho việc đi lại, vận chuyển hàng
hoá:
Xu hướng quốc tế hoá kinh tế và sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, sự gia
tăng du lịch làm bùng phát các nhu cầu về giao thông, vận chuyển hàng hoá, đi
lại. Uỷ ban kinh tế, văn hoá, xã hội châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) của
Liên hợp quốc đã thông qua giải pháp lớn về cải thiện tình hình giao thông và đi
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-13-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
lại trong khu vực, lấy thập kỷ 90 làm thập kỷ giao thông liên lạc châu Á - Thái
Bình Dương. Giải pháp của ESCAP gồm 2 mặt:
- Thúc đẩy thiết kế, xây dựng các tuyến đường bộ, đường sắt trong khu vực
và liên khu vực với cơ sở hạ tầng hiện đại (phần cứng).
- Mặt khác, nhanh chóng tiêu chuẩn hóa, đơn giản hoá và hài hoà các biện
pháp quản lý việc đi lại, vận chuyển hàng hoá giữa các nước trong khu vực (phần
mềm). "Phần mềm" được phát triển song song với "phần cứng" thì cơ sở hạ tầng
mới phát huy được tác dụng.
Cả Liên hợp quốc cũng như ESCAP đều khuyến nghị các nước trong khu
vực tham gia các Công ước:
* Công ước Hải quan về Vận tải hàng hoá quốc tế với sổ TIR (Công ước
TIR, 1975):
Mục đích: đưa ra phương thức vận tải quá cảnh sử dụng bộ chứng từ TIR
(TIR: vận tải đường bộ quốc tế). Bộ chứng từ này được lập dưới dạng sổ gồm
nhiều liên khai báo về hàng hoá được vận chuyển. Trang đầu bộ chứng từ này ghi
kết quả kiểm tra, xác nhận của Hải quan nước xuất phát. Những trang sau lần
lượt được lưu tại Hải quan nước quá cảnh và nước đến cuối cùng để theo dõi (các
nước này công nhận kết quả kiểm tra Hải quan của nước xuất phát và không kiểm
tra hàng quá cảnh nữa). Như vậy hàng quá cảnh sẽ đi qua các biên giới rất nhanh
chóng.
* Công ước quốc tế về hài hoà các hình thức kiểm tra ở biên giới (1982):
Vì ở biên giới các nước thường có rất nhiều loại hình kiểm tra thuộc nhiều
chuyên ngành: kiểm dịch động thực vật, kiểm tra y tế, kiểm tra sự ăn khớp với
các tiêu chuẩn kỹ thuật, kiểm tra chất lượng, các loại hình kiểm tra khác về xuất
nhập khẩu và quá cảnh hàng hóa, kiểm tra hải quan... Nếu như thiếu sự phối hợp
Deleted: Page 2
thống nhất các loại hình kiểm tra này thì sẽ gây phiền hà, ách tắc tại các cửa
Deleted: of 78
-14-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
khẩu. Công ước khuyến nghị: do kiểm tra Hải quan mang tính phổ biến nhất nên
các loại hình kiểm tra khác phải hoạt động hài hoà với kiểm tra hải quan. Đồng
thời, các nước có chung biên giới cần thu xếp tương thích với nhau về các hoạt
động kiểm tra, về giờ giấc làm việc của các trạm cửa khẩu...
* Công ước hải quan về tạm nhập xe cộ đường bộ phục vụ thương mại
(1956):
Đề cập đến việc tạo thuận lợi và các biện pháp quản lý tạm nhập miễn thuế
xe cộ dùng trong hoạt động này (xe cộ vận chuyển kinh doanh hành khách, vận
tải hàng hoá).
v) Hiệp định WTO về Sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) có hiệu lực
năm 1995:
Trong bối cảnh tự do hoá thương mại toàn cầu, lợi dụng sự nới lỏng các biện
pháp quản lý, tình trạng buôn bán trao đổi hàng hoá vi phạm quyền sở hữu trí tuệ
ngày càng nổi cộm, chiếm tới 5-8% tổng số thương mại thế giới. Vòng đàm phán
Urugoay đã mất nhiều thời gian để đàm phán, đi đến ký kết "Hiệp định về các
khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ - TRIPS".
Hiệp định TRIPs có bước phát triển mới trong việc đề ra các biện pháp thực
thi, nhất là khẳng định vai trò quan trọng của Hải quan đối với thực thi quyền sở
hữu trí tuệ tại biên giới qua kiểm tra, kiểm soát xuất nhập khẩu. Cơ sở của vấn đề
là: nếu thực hiện tốt các biện pháp tại biên giới về sở hữu trí tuệ (thông qua kiểm
soát xuất nhập khẩu) thì có thể ngăn chặn hàng hoá vi phạm sở hữu trí tuệ trước
khi đưa vào lưu thông, sẽ hiệu quả hơn rất nhiều khi phải truy tìm trong nội địa.
vi) Hiệp định về Chương trình Thuế quan ưu đãi hiệu lực chung
(CEPT) ký tại Singapore ngày 28/1/1992 đã đưa ra phương pháp và mục tiêu cụ
thể:
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-15-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
- Xây dựng lộ trình cắt giảm thuế trong nội khối ASEAN xuống 20%, sau
đó là 0-5% - theo chương trình cắt giảm thuế quan (điều 4 của Hiệp định CEPT).
- Những hàng hoá thoả mãn tiêu thức của CEPT được xác định theo hàm
lượng xuất xứ ASEAN là 40% (Điều 5-A2).
- Xoá bỏ các hàng rào phi quan thuế (Điều 5-A2).
- Ap dụng Hiệp định trị giá hải quan GATT/WTO (Điều 5-D).
vii) Hiệp định quá cảnh ASEAN có hiệu lực từ 1998:
Hiệp định nhấn mạnh đến việc tạo thuận lợi cho quá cảnh hàng hoá giữa các
nước ASEAN, được ký kết cuối năm 1998 tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN tại
Hà Nội. Hiệp định bao gồm hàng chục nghị định thư nhằm cụ thể hoá các nội
dung và cách thức hoạt động và có hiệu lực vào cuối năm 2000. Về hải quan có
tới 2 Nghị định thư liên quan trực tiếp (được ASEAN giao cho Hải quan các
nước dự thảo và hoàn tất) là Nghị định thư số 2 "Về bố trí các cửa khẩu quá cảnh
ASEAN", Nghị định thư số 7 "Về thủ tục Hải quan đối với hàng hoá, phương tiện
quá cảnh". Theo quy định này, thủ tục Hải quan với hàng hoá và phương tiện quá
cảnh ASEAN sẽ giảm thiểu đáng kể, tạo thuận lợi cho việc giao lưu thương mại
và du lịch trong nội bộ khối.
1.1.4. Các tổ chức quốc tế có liên quan
Tổ chức Hải quan thế giới (WCO)
Lịch sử hình thành:
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, ngày 12 tháng 9 năm 1947, 13 nước
thành viên đại diện cho Uỷ ban Hợp tác Kinh tế Châu Âu đã nhất trí thành lập
một Nhóm nghiên cứu để xem xét khả năng thành lập một hay nhiều liên minh
hải quan giữa các nước Châu Âu trên cơ sở các nguyên tắc của Hiệp định chung
về Thuế quan và Thương mại (GATT).
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-16-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Năm sau đó Nhóm nghiên cứu này đã thành lập ra 2 Uỷ ban - Uỷ ban về
Kinh tế sau này trở thành Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và Uỷ
ban Hải quan sau này trở thành Hội đồng Hợp tác Hải quan (CCC).
Uỷ ban Hải quan có nhiệm vụ nghiên cứu tổng hợp các vấn đề về kỹ thuật
hải quan ở nhiều nước khác nhau nhằm tiêu chuẩn hoá thủ tục hải quan, hài hoà
Danh mục hàng hoá và thống nhất định nghĩa trị giá hải quan và các quy định,
luật lệ hải quan khác.
Ngày 15 tháng 12 năm 1950, Nhóm nghiên cứu này đã đi tới quyết định cần
phải thành lập một tổ chức mới mang tính toàn cầu, chuyên trách các vấn đề
thuộc nghiệp vụ hải quan nhằm nghiên cứu sâu hơn lĩnh vực phân loại, xác định
trị giá hải quan,vv. đồng thời có thể mở rộng phạm vi hoạt động. Thế là “Công
ước thành lập Hội đồng Hợp tác Hải quan” ra đời và chính thức có hiệu lực ngày
4/11/1952. Sau đó, hai Công ước quan trọng khác đã được ký kết tại Brussels là
“Công ước về Trị giá Hải quan của hàng hoá (có hiệu lực từ ngày 28/7/1953) và
Công ước về Danh mục Phân loại Hàng hoá và Biểu thuế Hải quan (có hiệu lực
từ ngày 11/9/1959).
Tổ chức chính thức của Hải quan đã ra đời. Hội đồng Hợp tác Hải quan
không chỉ có nhiệm vụ thực hiện 2 Công ước quốc tế nêu trên mà còn nhằm đạt
được ở mức độ cao nhất việc hài hoà và thống nhất các hệ thống quy trình thủ tục
hải quan và tăng cường phát triển các kỹ thuật nghiệp vụ và luật lệ quy định về
Hải quan.
Ngày 26/1/1953 Kỳ họp lần thứ nhất của Hội đồng Hợp tác Hải quan đã
diễn ra tại Brussels (với sự tham gia của Tổng cục trưởng Hải quan 17 nước Châu
Âu). Vì ý nghĩa lịch sử này, 30 năm sau (năm 1983), Hội đồng Hợp tác Hải quan
đã quyết định chọn ngày 26/1 hàng năm làm "Ngày quốc tế Hải quan".
Theo Công ước thành lập, chức năng và mục tiêu của Hội đồng Hợp tác Hải
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
quan bao gồm:
-17-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
a. Nghiên cứu mọi vấn đề có liên quan đến hợp tác hải quan mà các bên ký
kết thoả thuận phát triển phù hợp với các mục tiêu chung của Công ước này;
b. Kiểm tra mọi khía cạnh kỹ thuật của các chế độ hải quan cũng như các
nhân tố kinh tế liên quan đến chúng, nhằm đề xuất với các thành viên của Hội
đồng những phương tiện thực tiễn để đạt được mức độ hài hoà và thống nhất cao
nhất;
c. Dự thảo các công ước và điều khoản bổ xung Công ước, cũng như
khuyến cáo việc thông qua các dự thảo đó cho các Chính phủ hữu quan;
d. Ban hành các khuyến nghị nhằm đảm bảo việc giải thích và áp dụng
thống nhất các Công ước đã ký do kết quả các công việc của Hội đồng, cũng như
đối với Công ước về Danh mục nhằm phân loại hàng hoá trong các biểu thuế
quan và Hiệp định về xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá do Nhóm nghiên
cứu của Liên minh thuế quan Châu Âu soạn thảo, và để đạt được mục đích này,
thực hiện những chức năng mà các điều khoản của Công ước trên quy định rõ
ràng cho Hội đồng;
e. Ban hành các khuyến nghị với tư cách là một cơ quan hoà giải nhằm giải
quyết các tranh chấp có thể nảy sinh trong việc giải thích hoặc áp dụng các Công
ước nêu tại khoản (d) trên đây, phù hợp với các điều khoản của các Công ước đó;
các bên hữu quan có thể với sự nhất trí chung, thoả thuận trước việc tuân thủ
khuyến cáo của Hội đồng;
f. Đảm bảo việc phổ biến các thông tin liên quan đến luật lệ và nghiệp vụ
hải quan;
g. Cung cấp cho các Chính phủ hữu quan , mặc nhiên hoặc theo yêu cầu của
họ những thông tin hoặc ý kiến về các vấn đề hải quan nằm trong khuôn khổ các
mục tiêu chung của Công ước và ban hành các khuyến nghị về lĩnh vực này;
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-18-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
h. Hợp tác với các Tổ chức liên chính phủ về các lĩnh vực thuộc thẩm quyền
của Hội đồng.
Để phản ánh thực tế qui mô phát triển về số lượng các thành viên và ý nghĩa
ngày càng tăng trên toàn cầu, Hội đồng Hợp tác Hải quan chính thức được đổi tên
thành Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO) năm 1994.
Cho đến tháng 6/2002, WCO có 161 thành viên, 16 Công ước Quốc tế (tính
cả Công ước Kyoto sửa đổi) và 50 khuyến nghị về các lĩnh vực hoạt động của
Hải quan.
Các Uỷ ban chính của WCO gồm có Hội đồng, Uỷ ban Chính sách, Ban
Thư ký, Ban Tài chính, Ban Kiểm soát, Ban kỹ thuật thường trực và Tiểu ban
quản lý thông tin, Ban Kỹ thuật về Nguyên tắc Xuất xứ, Ban Kỹ thuật về Trị giá,
Ban Kỹ thuật về Hệ thống Hài hoà (HS) và các Tiểu ban Đánh giá lại HS, Tiểu
ban Khoa học.
Hội đồng là cơ quan quyết định tối cao, gồm những người đứng đầu tổ chức
hải quan các nước thành viên, họp phiên toàn thể vào cuối tháng 6 hàng năm tại
Brussel hoặc tại một nước thành viên, quyết định đường lối chính sách chung cho
các hoạt động trong năm.
Ban Thư ký, đứng đầu là Tổng Thư ký, với sự trợ giúp của một Phó Tổng
Thư ký, một Cục trưởng Cục Tạo thuận lợi và Tuân thủ, một Cục trưởng Cục các
Vấn đề thương mại và Thuế quan, đặt trụ sở chính tại Brussels (Bỉ), với 140 quan
chức và nhân viên, có nhiệm vụ hỗ trợ các vấn đề liên quan đến trước và sau
phiên họp toàn thể của Hội đồng.
Uỷ ban Chính sách bao gồm Chủ tịch Hội đồng do Hội đồng bầu ra và 6 Phó
chủ tịch (trưởng đại diện 6 khu vực hải quan), và 17 thành viên, có nhiệm vụ xem
xét, đưa ra những khuyến nghị đối với các vấn đề thuộc chính sách chủ yếu của
WCO, và hoạt động như một nhóm chỉ đạo định hướng của Hội đồng.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-19-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Ban Tài chính gồm 17 thành viên do Hội đồng bầu ra và nhóm họp hàng
năm để bàn về các khía cạnh tài chính của WCO, cũng như báo cáo tài chính lên
Hội đồng.
Trong lĩnh vực hải quan, WCO chia các nước thành viên làm 6 khu vực là:
Châu A và Thái Bình Dương; Châu Mỹ; Châu Âu; Bắc Phi, Trung và Cận Đông;
Tây và Trung Phi; Đông và Nam Phi. Mỗi khu vực tiến hành các hoạt động khác
nhau theo sáng kiến của Trưởng Đại diện Khu vực. Việt Nam thuộc khu vực
Châu A - Thái Bình Dương, một khu vực luôn được WCO đánh giá là khu vực
năng động và hoạt động có hiệu quả nhất. Hội nghị Hải quan khu vực Châu A -
Thái Bình Dương họp hai năm một lần. Hội nghị lần thứ 9 diễn ra tại Hồng Kông
năm 2002. Hiện Hồng Kông đang giữ vai trò Trưởng Đại diện Khu vực từ năm
2000.
Đóng góp tài chính: Các thành viên đóng góp tài chính trên tinh thần tự
nguyện theo dự trù của Ban Tài chính, tuy nhiên mức đóng góp không được ít
hơn 0,15% (từ năm tài khoá 2001/2002). Hiện Mỹ là thành viên đóng góp nhiều
nhất (25%). Việt Nam đóng góp ở mức 0,15% (tương đương khoảng 20.000 đô la
Mỹ).
Ngôn ngữ : ngôn ngữ chính thức được sử dụng tại WCO là tiếng Anh và
tiếng Pháp. Tiếng Tây Ban Nha được sử dụng trong một số cuộc họp kỹ thuật.
Vai trò của WCO: Từ một tổ chức quy mô nhỏ, WCO đã trở thành một tổ
chức năng động có quy mô khắp toàn cầu. WCO phối hợp chặt chẽ với các tổ
chức khác như WTO, UNCTAD, ICC, UNEP, CITES, UNESCO, UNDCP,
INTERPOL, IMF,v.v với những nỗ lực thúc đẩy thương mại bằng việc tạo thuận
lợi cho vận chuyển hàng hoá qua biên giới, đồng thời tăng cường các biện pháp
có hiệu quả hạn chế gian lận hải quan, bảo vệ môi trường, bảo vệ các di sản văn
hóa thế giới.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-20-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
WCO đề ra 3 mục tiêu trong Kế hoạch Chiến lược tập trung hỗ trợ các nước
thành viên thực hiện Hiệp định Trị giá WTO gồm:
- Giúp các nước thành viên là nước đang phát triển và kém phát triển thực
hiện đầy đủ Hiệp định Trị giá WTO.
- Khuyến khích các nước thành viên diễn giải và áp dụng Hiệp định Trị giá
theo một cách thống nhất, có tính dự báo và minh bạch.
- Đảm bảo rằng các nước thành viên tuân thủ các nguyên tắc thống trị của
Hiệp định Trị giá WTO thông qua việc áp dụng các thông lệ làm việc đúng mực.
Trước thách thức và vận hội mới, WCO đề ra các mục tiêu đạt được trên con
đường của thế kỷ 21:
(cid:31) Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho trao đổi thương mại hợp
pháp qua biên giới. Tăng cường đấu tranh chống buôn lậu quốc tế.
(cid:31) Tăng cường hài hoà và tiêu chuẩn hoá các thủ tục hải quan.
(cid:31) Khuyến khích các cơ quan Hải quan trao đổi thông tin nghiệp vụ.
(cid:31) Khuyến khích cơ quan Hải quan các nước phát triển và các nước đang
phát triển sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại.
(cid:31) Cải thiện quan hệ giữa Hải quan và các Doanh nghiệp.
(cid:31) Đáp ứng các đòi hỏi về trợ giúp ngày càng tăng trong lĩnh vực đào tạo
Hải quan.
(cid:31) Trợ giúp Hải quan các nước tham gia vào nền kinh tế thị trường.
(cid:31) Gửi các chuyên gia sang các nước để trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.
Hoạt động của Hải quan Việt Nam trong khuôn khổ WCO:
Với tư cách là thành viên từ năm 1993, Hải quan Việt Nam đã tích cực tham
gia vào các hoạt động của Hội đồng như tham dự các kỳ họp, nắm bắt tham gia ý
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-21-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
kiến vào các hoạt động của Hội đồng, các hoạt động cụ thể diễn ra tại Hải quan
khu vực Châu A - Thái Bình Dương.
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu A - Thái Bình Dương (APEC)
I. Về tổ chức APEC:
Vào những năm cuối của thập kỷ 80, trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá
của nền kinh tế thế giới, Diễn đàn Hợp tác Châu A -Thái Bình Dương (gọi tắt là
APEC) được thành lập năm 1989 với tư cách là một nhóm đối thoại không chính
thức.
APEC là một tổ chức linh hoạt bao gồm 21 thành viên (nền kinh tế) trong khu
vực Châu A - Thái Bình Dương cam kết hợp tác nhằm tự do hoá thương mại và
đầu tư, thực hiện hợp tác chặt chẽ hơn nữa về kinh tế và kỹ thuật. APEC là một tổ
chức đơn nhất, không phải là một tổ chức chính thức, dựa trên các nguyên tắc
thương mại tự do, không giống như Thị trường tự do Châu Âu, không phải là một
nhóm hoạch định chính sách hoặc hệ tư tưởng giống như OECD.
Mục tiêu của APEC là thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư
vào năm 2010 đối với các nền kinh tế phát triển và vào năm 2020 đối với các nền
kinh tế đang phát triển, triển khai các cam kết cụ thể trong các lĩnh vực thương
mại và đầu tư, mở rộng hợp tác khoa học kỹ thuật. Những mục tiêu liên quan đến
hoạt động hải quan là:
(cid:31) Tăng cường tự do hoá thương mại và hợp tác kinh tế.
(cid:31) Hỗ trợ hệ thống thương mại đa phương mở.
(cid:31) Giảm thiểu các hàng rào cản trở trao đổi hàng hoá và đầu tư.
(cid:31) Tìm các biện pháp hợp tác để đối phó với các thách thứuc trong khu vực
và toàn cầu.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-22-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
(cid:31) Kêu gọi sự đóng góp tự nguyện của các thành viên nhằm tự do hoá
thương mại và tạo thuận lợi cho thương mại đầu tư.
(cid:31) Đưa vào các biện pháp thuế quan và phi thuế quan.
(cid:31) Các chương trình hành động tập thể (CAP):
(cid:31) Các hoạt động do các thành viên của APEC cùng thực hiện nhằm đạt
mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư.
(cid:31) Xử lý các vấn đề biên giới như thuế quan, hải quan tiêu chuẩn và các vấn
đề mới nảy sinh do toàn cầu hoá, chính sách cạnh tranh, dịch vụ, mua
sắm của chính phủ.
II. Hoạt động của Hải quan Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác APEC:
Hải quan Việt Nam ưu tiên triển khai thực hiện các mục tiêu là:
(cid:31) Đơn giản hoá và hài hoà hoá các thủ tục hải quan theo Công ước Kyoto.
(cid:31) Thực hiện Hiệp định Trị giá GATT/WTO.
(cid:31) Phân loại hàng hoá theo danh mục HS.
(cid:31) Tự động hoá Hải quan.
(cid:31) Thực hiện Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ TRIPs.
(cid:31) Thực hiện mục tiêu liêm chính Hải quan.
Lịch trình thực hiện 12 mục tiêu CAP của Việt Nam là:
1. Về Danh mục HS:
Việt Nam đã tham gia Công ước HS và Công ước có hiệu lực đối với Việt Nam
từ ngày 1/1/2000. Hiện này Danh mục hàng hoá và Danh mục Biểu thuế Xuất
nhập khẩu của Việt Nam về cơ bản đã tuân thủ các quy định của Công ước HS ở
cấp độ 6 số. Việc mở rộng lên 8 số và việc điều chỉnh Danh mục hàng hoá XNK
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-23-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
của Việt Nam hiện đang được Nhóm công tác liên Ngành về Công ước HS
nghiên cứu triển khai.
2. Về công khai hóa các thông tin:
Việc công khai hóa các thông tin liên quan đến quy trình thủ tục hải quan đã và
đang được thực hiện từng bước thông qua các hình thưc như phát hành các ấn
phẩm giới thiệu về quy trình thủ tục hải quan, giới thiệu qua các phương tiện
thông tin đại chúng, niêm yết công khai tại các trụ sở hải quan, tổ chức các cuộc
gặp gỡ giữa hải quan và các doanh nghiệp, thiết lập các đường dây nóng để khách
hàng kịp thời năm bắt các thông tin cần thiết.
3. Về Công ước Kyoto:
Hải quan Việt Nam luôn đánh giá cao tầm quan trọng của Công ước Kyoto trong
việc đơn gian hoá và hài hoà hoá các thủ tục hải quan. Trong công cuộc cải cách
hành chính của mình, Hải quan luôn lấy Công ước Kyoto làm cơ sở để cải tiến
quy trình thủ tục hải quan. Việt Nam đã tham gia Công ước Kyoto (1973) từ năm
1997 và hiện nay đang trong quá trình nghiên cưú trình Chính phủ xem xét việc
tham gia Công ước Kyoto sửa đổi.
4. Về UN/EDIFACT và thương mại điện tử:
Việc trao đổi dữ liệu điện tử và các thông tin về thương mại điện tử hiện còn là
vấn đề mà ta còn gặp nhiều khó khăn cả về trình độ kỹ thuật, vốn, trang thiết bị
và cơ sở hạ tầng. Nay ta đã sử dụng các mạng máy tính cục bộ nhưng để đạt mục
tiêu này cần có sự đầu tư rất lớn về vốn, trang thiết bị và trình độ kỹ thuật.
5. Về Trị giá Hải quan theo GATT/WTO:
Hiện nay Việt Nam đang áp dụng cả 2 phương pháp xác định trị giá theo Định
nghĩa Bruxelles và Hiệp định Trị giá WTO. Về cơ bản ta thực hiện theo Hiệp
định Trị giá WTO, dựa trên trị giá giao dịch theo chứng từ và hoá đơn thương
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-24-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
mại. Việc áp dụng Bảng giá tối thiểu ta đã và đang nghiên cứu và giảm dần các
mặt hàng trong danh mục Bảng giá tối thiểu này.
Việt Nam đang tiến hành các công việc chuẩn bị khẩn trương và cần thiết để có
thể thực hiện Hiệp định Trị giá WTO đối với tất cả các hàng hoá xuất nhập khẩu
vào năm 2003.
6. Về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPs):
Đây là vấn đề còn khá mới mẻ đối với Hải quan Việt Nam, tuy nhiên, ta mong
muốn sớm thực hiện vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) trong
thời gian tới. Hiện nay Hải quan Việt Nam đang phối hợp với các Bộ ngành hữu
quan để đưa ra các quy định và thủ tục liên quan tới bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
tại biên giới.
7. Các quy định về kháng nghị rõ ràng:
Các vấn đề liên quan đến khiếu nại của doanh nghiệp đối với các quyết định của
Hải quan đều được giải quyết thông qua các văn bản pháp luật do nhà nước ban
hành. Hiện nay, Hải quan Việt Nam căn cứ vào Luật khiếu nại tố cáo và trình tự
giải quyết các khiếu nại, tố cáo đã được Quốc hội thông qua và căn cứ vào Pháp
lệnh Hải quan, Pháp lệnh về xử phạt hành chính, Pháp lệnh về thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính để giải quyết các khiếu kiện của doanh nghiệp. Các điều
khoản về kháng nghị cũng đã được thể hiện trong Luật Hải quan vừa được Quốc
hội thông qua vào tháng 6/2001. Tuy nhiên, hiện nay ta còn gặp nhiều khó khăn
về kiến thức, trình độ và kinh nghiệm thực tế trong việc thực hiện vấn đề này.
8. Về hàng hoá tạm nhập:
Tuy Việt Nam chưa tham gia Công ước ISTANBUL và Công ước ATA nhưng
trên thực tế loại hình thủ tục tạm nhập tái xuất này đã được áp dụng ở Việt Nam
như kho ngoại quan, khu công nghiệp, khu chế xuất, hàng quá cảnh. Trong thời
Deleted: Page 2
gian tới sẽ xem xét, nghiên cứu khả năng tham gia các Công ước nói trên.
Deleted: of 78
-25-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
9. Về hài hoà các dữ liệu trong APEC:
Hiện nay chưa thực hiện quy trình tự động hoá hải quan nên việc hài hoà các dữ
liệu trong APEC là rất khó khăn. Hơn nữa việc cung cấp các thông tin ra bên
ngoài cần được Chính phủ cho phép và mức độ cung cấp đến đâu, những thông
tin nào có thể cung cấp được? Do vậy, cần có sự chỉ đạo của Chính phủ. Tuy
nhiên, Hải quan Việt Nam đang hết sức cố gắng tăng cường công tác tự động hoá
các quy trình thủ tục hải quan để trên cơ sở đó thực hiện mục tiêu hài hoà các dữ
liệu trong APEC.
10. Các quy định về phân loại trước khi hàng đến:
Về hệ thống phân loại trước khi hàng đến, hiện nay Việt Nam chưa có quy định
chính thức. Trong tương lai khi thực hiện công tác tự động hoá các quy trình thủ
tục hải quan, Hải quan Việt Nam sẽ triển khai thực hiện quy định về loại trước
khi hàng đến.
11. Quản lý rủi ro:
Vấn đề quản lý rủi ro là một lĩnh vực quan trọng không chỉ trong hoạt động
nghiệp vụ hải quan mà cả trong hoạt động quản lý, điều hành toàn bộ các hoạt
động của Ngành. Trên thực tế ta còn thiếu kiến thức cơ bản và kinh nghiệm thực
tế về vấn đề này. Đây là một trong những vấn đề cần được ưu tiên triển khai thực
hiện không chỉ trong khuôn khổ CAP/APEC mà cả trong công cuộc cải cách
hành chính của Việt Nam hiện nay.
12. Về thông quan hàng chuyển phát nhanh:
Vấn đề thông quan hàng chuyển phát nhanh tuy chưa được quy định thành một
quy trình chuẩn nhưng trên thực tế, Hải quan Việt Nam đã thực hiện các thủ tục
cần thiết để thông quan các loại hàng hoá này. Cùng với việc tham gia Công ước
Kyoto, việc cải tiến quy trình thủ tục hải quan và việc thực hiện tự động hoá hải
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-26-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
quan trong tương lai ta sẽ xây dựng và thực hiện quy trình chuẩn về thông quan
hàng chuyển phát nhanh.
Ngoài 12 mục tiêu CAP trên đây, hiện nay SCCP đang xem xét đưa thêm vào
CAP hai mục tiêu mới là Liêm chính Hải quan va Thương mại phi giấy tờ.
Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN)
I. Tình hình hợp tác Hải quan trong ASEAN:
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam A (ASEAN) ra đời năm 1987. Trong giai
đoạn trước 1992 ASEAN còn nặng về phối hợp chính trị. Xu hướng toàn cầu hoá
nền kinh tế thế giới đã đặt ra những thách thức to lớn đối với ASEAN trong việc
nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá ASEAN trên thị trường quốc tế và tính hấp
dẫn đối với đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy, tại Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ IV
tại Singapore ngày 28/1/1992, các Nguyên thủ quốc gia ASEAN đã có một quyết
định quan trọng nhằm nâng cao hơn nữa mức độ hợp tác trong lĩnh vực thương
mại, đó là thành lập Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) thông qua việc
ký kết Hiệp định về Chương trình Thuế quan Ưu đãi hiệu lực chung (CEPT).
Năm 1997 đã thông qua viễn cảnh hải quan 2020 với mục đích “Hợp tác hải
quan theo những chuẩn mực quốc tế để đạt tính hiệu quả, tính chuyên nghiệp,
tính thống nhất thông qua các thủ tục hài hoà nhằm thúc đẩy thương mại và đầu
tư, bảo vệ hạnh phúc và sức khoẻ cho cộng đồng ASEAN”.
Để hiện thực hoá viễn cảnh này, ASEAN đã đưa ra chương trình làm việc và
thực hiện chính sách hải quan ASEAN (PIWP) gồm 15 lĩnh vực sau:
(cid:31) Phân loại hàng hoá để tính thuế.
(cid:31) Xác định trị giá Hải quan.
(cid:31) Thủ tục đối với hàng hoá.
(cid:31) Kiểm toán sau thông quan.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-27-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
(cid:31) Quá cảnh.
(cid:31) Thủ tục đối với hàng tạm nhập tái xuất.
(cid:31) Kiểm soát Hải quan.
(cid:31) Hỗ trợ lẫn nhau.
(cid:31) Tự động hoá.
(cid:31) Kế hoạch chiến lược và quản lý.
(cid:31) Tăng cường tính minh bạch.
(cid:31) Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
(cid:31) Hỗ trợ kỹ thuật cho những thành viên mới của nhóm cụ thể là
Campuchia, Lào, Myanma, Việt Nam.
(cid:31) Diễn đàn Hải quan quốc tế.
(cid:31) Mối quan hệ với cộng đồng các doanh nghiệp.
Liên quan tới thực hiện AFTA có một số lĩnh vực sau:
- Đơn giản và hài hoà hệ thống thủ tục hải quan:
Trong tất cả các diễn đàn hợp tác đa phương, song phương đều coi trọng vấn
đề này. Trên thực tế, thủ tục hải quan được xem như là hàng rào phi thuế cản trở
tự do thương mại. Vì vậy, lẽ hiển nhiên là để thực hiện AFTA phải đẩy nhanh
quá trình đơn giản hoá, hài hoà hoá thủ tục hải quan trong ASEAN.
- Xác định Danh mục Biểu thuế Hài hoà ASEAN (AHTN) để bắt đầu thực
hiện từ 1/1/2003, chậm nhất là 1/7/2003.
- Thực hiện Hiệp định Trị giá GATT/WTO để tạo cơ sở cho việc thống nhất
cách sử dụng trị giá giao dịch hoặc các phương pháp để xác định trị giá giao dịch
trong tính thuế hải quan.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-28-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
- Kiểm tra sau thông quan là biện pháp vừa tạo thuận lợi vừa đảm bảo tính
tuân thủ của doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động xuất nhập khẩu của
doanh nghiệp.
II. Tình hình hợp tác của Hải quan Việt Nam trong ASEAN:
Để thực hiện đơn giản hoá, hài hoà hoá thủ tục hải quan, Hải quan Việt
Nam đã có nhiều cải tiến các bước quy trình thủ tục, xây dựng tờ khai hải quan
mới, qui định rõ và giảm bớt chứng từ hải quan, qui định các địa điểm làm thủ
tục hải quan theo hướng thuận lợi cho thông quan và giảm chi phí cho doanh
nghiệp, bước đầu áp dụng kỹ thuật Quản lý Rủi ro, áp dụng tin học vào một số
khâu nghiệp vụ.
Với AHTN, đã tham gia tích cực vào quá trình xây dựng và hoàn thiện danh
mục hiện đang chuẩn bị dự thảo nội dung các văn bản quy định triển khai.
Chuẩn bị thực hiện trị giá GATT/WTO trước hết với các sản phẩm CEPT,
sau đó sẽ thực hiện với tất cả các loại hàng hoá. Chính phủ Việt Nam đã ban hành
NĐ60/2002/NĐ-CP ngày 2/6/2002 về thực hiện Hiệp định trị giá GATT/WTO.
Chính phủ Việt Nam đã ban hành NĐ102/NĐ-CP/2001 ngày 31/12/2001về
Thực hiện kiểm tra sau thông quan và Tổng cục Hải quan đã có quyết định
1558/2001/QĐ-TCHQ quy định tạm thời về Kiểm tra sau thông quan.
Với tư cách là Điều phối viên của ASEAN trong vấn đề trợ giúp kỹ thuật
cho các thành viên mới của ASEAN (Campuchia, Lào, Myanma, Việt Nam), Hải
quan Việt Nam đã phối hợp với Ban Thư ký ASEAN và Hải quan một số nước,
tổ chức các khoá đào tạo, hội thảo và đề xuất một số dự án trợ giúp kỹ thuật cho
các nước này.
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế A - Âu (ASEM)
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế A - Âu (ASEM) ra đời dựa trên sáng kiến của
Deleted: Page 2
ASEAN nhằm thúc đẩy mối quan hệ giữa Châu A và Châu Âu và cuộc Họp
Deleted: of 78
-29-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
thượng đỉnh đầu tiên diễn ra tại Băng cốc, Thái lan vào tháng 3 năm 1996 gồm 7
nước ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn quốc và 15 quốc gia thuộc Liên
minh Châu Âu.
I. Tình hình hợp tác của hải quan trong ASEM:
i) Nhóm làm việc về thủ tục hải quan ASEM:
Đây là cuộc họp diễn ra hàng năm trong khuôn khổ của hợp tác ASEM bàn
chủ yếu về các vấn đề liên quan tới thủ tục hải quan như sau:
(cid:31) Tăng cường sự liên kết và hài hoà danh mục biểu thuế theo tiêu chuẩn
WCO.
(cid:31) Thực hiện Hiệp định về trị giá WTO.
(cid:31) Tăng cường tính minh bạch thông qua tiếp cận được các cơ sở dữ liệu
của các thành viên ASEM về thuế, danh mục biểu thuế, chỉ dẫn về thuế,
quy trình và thủ tục XNK, quy tắc xuất xứ, luật lệ hải quan. Hải quan
ASEM đã xác định các rào cản vô hình: yêu cầu quá nhiều về chứng từ,
chậm trễ về thủ tục, khó phán đoán và thiếu ổn định trong luật lệ thủ tục.
(cid:31) Tổ chức hội thảo giữa hải quan và doanh nghiệp với sự tư vấn của Diễn
đàn doanh nghiệp A - Âu bao gồm các vấn đề như: phân tích rủi ro, EDI,
hệ thống chứng từ điện tử, giảm thời gian thông quan. Xem Công ước
Kyoto là tiêu chuẩn để đơn giản, hài hoà hoá thủ tục hải quan.
(cid:31) Cải thiện tính minh bạch qua việc phổ biến, làm rõ các quy trình thủ tục
hải quan theo yêu cầu của doanh nghiệp tạo ra tiến bộ trong đàm phán
thoả thuận với nhiều thương nhân về hợp tác hải quan và trợ giúp hành
chính lẫn nhau (CCMA).
(cid:31) Tăng cường tiêu chuẩn hoá, đơn giản hoá tài liệu chứng từ dựa trên tiêu
chuẩn quốc tế và các cuộc thảo luận tại các diễn đàn quốc tế. Dữ liệu ít
Deleted: Page 2
hơn 100 mục là phù hợp với mẫu EDIFACT.
Deleted: of 78
-30-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
(cid:31) Khai thác các lợi thế chung của các thành viên ASEM trong WCO và
WTO.
(cid:31) Xem xét các nguồn tài trợ nhằm hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo về mặt nghiệp
vụ, thủ tục hải quan, đóng góp kinh nghiệm cho ASEM.
ii) Nhóm làm việc về kiểm soát hải quan ASEM:
(cid:31) Xác định khuôn khổ hợp tác giữa hai khu vực: cần thiết phải xác định,
thiết lập một cơ cấu hạt nhân cho hợp tác. Những khác biệt về luật pháp,
kết cấu hạ tầng, trình độ phát triển, thủ tục hải quan, nghĩa vụ ràng buộc
trong các tổ chức quốc tế mà các thành viên ASEM tham gia gây trở ngại
cho tiến trình này. Vì vậy, Nhóm làm việc khuyến khích các thành viên
ký kết các Hiệp định hỗ trợ hành chính song phương, đặc biệt giữa các
thành viên EC và đối tác Châu A, nhấn mạnh đến Công ước Nairobi về
tương trợ hành chính trong đấu tranh chống buôn lậu. Đề nghị lập danh
sách những người có thẩm quyền và trách nhiệm cung cấp và tiếp nhận
các thông tin về kiểm soát, đưa ra những quy định về phạm vi thông tin,
mức độ bảo mật các thông tin được cung cấp. Hải quan Nhật đã mở cuộc
thăm dò về thẩm quyền kiểm soát của hải quan nhằm tìm kiếm sự hợp tác
hữu hiệu hơn trong ASEM về lĩnh vực này, qua đó, khẳng định việc trao
đổi thông tin là rất cần thiết cho sự hiểu biết lẫn nhau cũng như tìm ra
những biện pháp tăng cường hợp tác.
(cid:31) Thoả thuận về trợ giúp hành chính lẫn nhau liên quan tới các 2 Nhóm
làm việc vì nó bao gồm cả một quá trình hợp tác (ví dụ Thoả thuận về
hợp tác hải quan và trợ giúp hành chính giữa EC và Triều Tiên có hiệu
lực từ 1/5/1997).
(cid:31) Hợp tác trong lĩnh vực nghiệp vụ: thảo luận những vấn đề liên quan tới
đấu tranh chống buôn lậu ma tuý và gian lận thương mại, buôn lậu vũ
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
khí, rửa tiền, vi phạm sở hữu trí tuệ; cần có nỗ lực trong đàm phán các
-31-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
thoả thuận hợp tác về hải quan và hỗ trợ hành chính lẫn nhau giữa EC và
các thành viên ASEM Châu A có quan tâm tới vấn đề này; thành lập cơ
sở dữ liệu nằm trong khuôn khổ ASEM về kiểm soát hải quan; tăng
cường trao đổi thông tin giữa hai cơ quan RILO (Văn phòng liên lạc tình
báo khu vực) của 2 khu vực Âu - A. Tăng cường tổ chức các cuộc hội
thảo đào tạo về nghiệp vụ kiểm soát hải quan, đánh giá rủi ro, chống gian
lận về trị giá, buôn lậu vũ khí và rửa tiền. Nhóm làm việc nhận thấy cần
phải đẩy mạnh hơn nữa hình thức này.
(cid:31) Trao đổi kinh nghiệm, trình độ chuyên môn: các nước thành viên đã trình
bày nhiều kinh nghiệm bổ ích trong công tác đấu tranh kiểm soát như
chống gian lận thương mại, buôn lậu và vận chuyển trái phép ma tuý, rửa
tiền, buôn lậu vũ khí, tăng cường sự hợp tác giữa hải quan và các cơ quan
luật pháp khác của chính phủ. Trao đổi về việc áp dụng các kỹ thuật
nghiệp vụ, sử dụng công nghệ tin học trong xử lý và trao đổi thông tin về
kiểm soát.
(cid:31) Cộng tác với khu vực tư nhân nhu ký thoả thuận hỗ trợ và giúp đỡ lẫn
nhau trong lĩnh vực tuân thủ pháp luật và tạo thuận lợi tối đa cho các
doanh nghiệp chấp hành đúng. Hiện nay, Hải quan Pháp là nước chủ trì
của Nhóm làm việc về kiểm soát ASEM.
II. Tham gia của Hải quan Việt Nam trong diễn đàn hải quan ASEM:
(cid:31) Hải quan Việt Nam tham gia các hội nghị cấp Tổng Cục trưởng và các
cuộc họp của Nhóm làm việc về thủ tục hải quan và kiểm soát hải quan
ASEM. Trong các diễn đàn này Hải quan Việt Nam tham gia tích cực các
cuộc thảo luận, đưa ra đề nghị trợ giúp trong các lĩnh vực kỹ thuật và đào
tạo về thủ tục hải quan và kiểm soát chống buôn lậu.
(cid:31) Hải quan Việt Nam tích cực thực hiện các bước triển khai Kế hoạch hành
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
động Thuận lợi hoá Thương mại như: đưa mã HS vào danh mục biểu
-32-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
thuế; tăng cường hướng dẫn, công khai hoá quy trình thủ tục hải quan;
chuẩn bị cho việc thiết lập và cho phép khai thác cơ sở dữ liệu liên quan
tới hải quan nhằm tăng cường tính minh bạch; đang nỗ lực tiến hành cải
cách hành chính, đơn giản và tiêu chuẩn hoá thủ tục hồ sơ chứng từ phải
xuất trình hoặc nộp cho hải quan... Hải quan Việt Nam đã đề xuất những
yêu cầu trợ giúp về kỹ thuật và đào tạo của ASEM trong mấy vấn đề: sở
hữu trí tuệ, hệ thống HS, quy tắc xuất xứ, kiểm tra sau thông quan, Công
ước Kyoto, trị giá hải quan.
1.2. Vai trò của các điều ước quốc tế đối với vấn đề hiện đại hoá
hải quan
1.2.1. Hiện đại hoá hải quan - một tất yếu khách quan:
Ở bất cứ quốc gia nào Hải quan cũng là lực lượng đứng ở các cửa khẩu, các
địa đầu biên giới. Hải quan không chỉ đơn thuần làm nhiệm vụ thu thuế xuất nhập
khẩu, mà còn là công cụ của Nhà nước để kiểm tra, kiểm soát xuất nhập khẩu,
xuất nhập cảnh, trực tiếp giám sát việc thực hiện các thoả thuận ưu đãi thương
mại của Chính phủ với bên ngoài, qua đó phát hiện, ngăn chặn và chống buôn
lậu, gian lận thương mại, góp phần bảo vệ xã hội và cộng đồng. Bởi vậy, Hải
quan là lĩnh vực hoạt động rất nhạy cảm, gắn bó chặt chẽ với giao lưu kinh tế của
đất nước. Mọi chính sách, thủ tục của hải quan đều có tác động trực tiếp, sâu sắc
đến các hoạt động thương mại, đầu tư theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực và
do đó có hiệu quả cụ thể đến sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Không chỉ ở trong nước, mà ngay trong phạm vi, khuôn khổ các tổ chức
kinh tế quốc tế, vấn đề này cũng được thể hiện rất rõ. Trong mối quan hệ nhiều
chiều, nhiều tầng nấc của thế giới hiện đại, hợp tác kinh tế quốc tế hiện nay biểu
hiện ở nhiều hình thức và cấp độ: ưu đãi thương mại, thị trường tự do, liên minh
thuế quan, thị trường chung và liên kết đa diện như kiểu EU. Song hình thức, cấp
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-33-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
độ nào cũng liên quan đến Hải quan, thậm chí có dạng thức lấy thuế quan làm
trọng tâm (liên minh thuế quan).
Ví dụ trong hợp tác ASEAN, một trong những mục tiêu chủ chốt là đẩy
nhanh quá trình liên kết kinh tế khu vực thông qua việc thực hiện khu vực mậu
dịch tự do AFTA. Điều đó không thể thực hiện được nếu không có thuận lợi hoá
thương mại, giảm thiểu những cản trở do các hàng rào phi thuế quan và một số
vấn đề khác gây ra. Công trình nghiên cứu "Tầm nhìn ASEAN 2020" ( Viện
Kinh tế Thế giới - Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia) nêu lên 4 nội
dung cơ bản của quá trình tạo thuận lợi cho thương mại ở nước ta trong khuôn
khổ nói trên là:
1. Thống nhất các thủ tục Hải quan, thực hiện các nguyên tắc chung về Hải
quan
2. Thống nhất các tiêu chuẩn sản phẩm, phương pháp tính giá hàng hoá để
đánh thuế tại cửa khẩu phù hợp với những quy định chung của Tổ chức thương
mại thế giới.
3. Xây dựng hệ thống thông tin thương mại đảm bảo trao đổi thông tin thị
trường và chính sách thương mại của các nước thành viên. Tuân thủ tính minh
bạch trong các thủ tục thương mại.
4. Tăng cường năng lực cơ sở hạ tầng cho hoạt động thương mại nội bộ
khối1.
Qua đây ta có thể thấy: hai nội dung đầu chủ yếu là thuộc lĩnh vực Hải
quan, hai nội dung còn lại cũng đều có liên quan đến Hải quan. Thật vậy, nếu
không thống nhất về thủ tục Hải quan thì hàng hoá nhập khẩu vào mỗi nước sẽ bị
xử lý một cách khác nhau, làm chậm quá trình chu chuyển hàng hoá, gây ách tắc
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-34-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
lãng phí. Nếu không thống nhất phương pháp tính giá hàng hoá để đánh thuế sẽ
dẫn đến phân biệt đối xử, làm mất mục đích ưu đãi thương mại.
Với mục tiêu bao quát nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, hiện đại hoá Hải quan phải giải quyết một loạt vấn đề đặt ra, không
chỉ cho ngành Hải quan mà cho cả Chính phủ. Đó là hoàn thiện hệ thống pháp lý
phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế trong nhiều lĩnh vực: thủ tục Hải quan,
danh mục hàng hoá HS, biểu thuế XNK, xác định trị giá Hải quan theo hướng
đơn giản hoá, tiêu chuẩn hoá và thống nhất hoá, nâng cao năng lực và phẩm chất
đội ngũ Hải quan ngang tầm với nhiệm vụ nhằm xây dựng Hải quan thành một
lực lượng hiện đại, đáp ứng yêu cầu tự do hoá thương mại, hội nhập kinh tế quốc
gia vào khu vực và thế giới.
Chính vì thế, Luật hải quan, có hiệu lực từ 1/1/2002 chứa đựng nhiều
chuẩn mực, qui định tại các công ước quốc tế có liên đến hải quan và thông lệ
tiên tiến của hải quan thế giới như chuẩn mực của công ước Kyôtô sửa đổi về
đơn giản hoá, hài hoà thủ tục hải quan, Hiệp định trị giá GATT/WTO, Công ước
quốc tế về hài hoà việc mô tả và mã hoá hàng hoá ( công ước HS), nghiệp vụ
kiểm tra sau thông quan, kỹ thuật quản lý rủi ro,..
Tóm lại: Hoạt động của ngành hải quan nói chung và các qui định về thủ
tục hải quan truyền thống trước đây không còn phù hợp và không đáp ứng được
các yêu cầu của công cuộc đổi mới, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước trong điều kiện đất nước đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào đời sống
kinh tế khu vực và thế giơí. Để giải quyết vấn đề này, ngành hải quan cũng phải
tích cực hiện đại hoá mà cụ thể là hội nhập về mặt kỹ thuật nghiệp vụ hải quan,
với các nội dung cụ thể của nó được bao hàm trong một khái niệm gần đây của
Tổ chức Hải quan Thế giới - đó là “ Cải cách và hiện đại hoá Hải quan”
Trong xu thế đó, Tổng cục Hải quan đã xây dựng kế hoạch phát triển ngành
Deleted: Page 2
Hải quan giai đoạn 2001-2005 với phương hướng và mục tiêu tổng quát là: Xây
Deleted: of 78
-35-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
dựng ngành hải quan thành lực lượng chuyên nghiệp, có chuyên môn sâu và hiện
đại, hoạt động minh bạch, liêm chính và có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Một trong những biện pháp
để đạt mục tiêu là: ”Tiếp tục cải cách thủ tục, hiện đại hoá hoạt động hải quan
gắn với quá trình thực hiện cải cách hành chính nói chung, tập trung triển khai
đề án cải cách thủ tục hải quan cả về chiều rộng và chiều sâu, đặc biệt chú trọng
đến các giải pháp sát với thực tiễn, phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế".
1.2.2. Các nội dung hiện đại hoá hải quan:
Bên cạnh các nội dung nghiệp vụ hiện đại đã được áp dụng từ lâu như áp
dụng các chuẩn mực nghiệp vụ, khuyến nghị trong Công ước Kyoto để đơn giản
hoá, hài hoà thủ tục hải quan; áp dụng hệ thống mô tả và mã hoá hàng hoá theo
Công ước HS; áp dụng xác định trị giá hải quan theo Hiệp định thực hiện Điều 7
của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (Trị giá GATT/WTO); áp
dụng sổ ATA cho hàng hoá XNK theo chế độ tạm quản, thì trong những năm gần
đây, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, của Khoa học kỹ thuật, đã
hình thành các xu hướng phát triển nghiệp vụ mới chứa đựng trong nó những nội
dung nghiệp vụ hải quan hiện đại như:
Theo xu hướng phát triển của Hải quan quốc tế trong những năm gần đây với
mục tiêu tiết kiệm nguồn lực ở mức cao nhất trong khi vẫn đảm bảo được hiệu
quả quản lý hải quan đối với các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu và xuất cảnh,
nhập cảnh đồng thời tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư phát triển với các
giải pháp chủ đạo là áp dụng các phương pháp quản lý hiện đại đi đôi với trang bị
phương tiện kỹ thuật cần thiết và nâng cao trình độ nghiệp vụ của nhân viên hải
quan. Những nội dung này nằm trong Công ước Kyoto với các chuyên đề nghiệp
vụ hải quan cụ thể như: Tin học hoá qui trình thủ tục hải quan; Khai thuê hải
Deleted: Page 2
quan; Xây dựng cơ sở dữ liệu tình báo hải quan; Đơn giản hoá thủ tục hải quan;
Deleted: of 78
-36-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Một trong những xu hướng đa số hải quan các nước hiện đang đi theo là xu
hướng coi doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu là các đối tác cần
cộng tác chặt chẽ hơn là các đối tác cần kiểm tra xử lý. Theo xu hướng này, cơ
quan Hải quan phối hợp với doanh nghiệp trong việc tìm ra nguyên nhân của các
sai sót, vi phạm để tìm biện pháp phòng ngừa hơn là chỉ tiến hành kiểm tra và xử
lý vi phạm, đồng thời hải quan tạo ra cơ chế phối hợp với doanh nghiệp để phát
hiện ra gian lận, thông qua việc ký kết chương trình Biên bản thoả thuận hợp tác
(MOU). Theo đó đổi cho việc hợp tác giúp đỡ hải quan, doanh nghiệp được
hưởng những ưu đãi nhất định của hải quan trong khi làm thủ tục.
Để tạo thông thoáng chống ách tắc khi làm thủ tục, hải quan đã áp dụng kỹ
thuật kiểm tra sau thông quan, chuyển toàn bộ nội dung kiểm tra về trị giá khai
báo từ lúc làm thủ tục hải quan tại cửa khẩu sang kiểm tra tại doanh nghiệp sau
khi đã thông quan hàng hoá. Vấn đề này đặc biệt có ý nghĩa trong điều kiện áp
dụng xác định trị giá theo Hiệp định xác định trị gía GATT/WTO.
Xu hướng nói trên có quan hệ chặt chẽ với xu hướng không kiểm tra tràn lan
mà tập trung có trọng điểm dựa trên phương pháp quản lý rủi ro (Risk
Management), theo đó cơ quan Hải quan dựa trên các thông tin và kết quả phân
tích thông tin để khoanh vùng các lĩnh vực có nguy cơ xảy ra vi phạm cao và tìm
biện pháp xử lý (việc khoanh vùng này bao gồm cả phân loại doanh nghiệp và
dựa trên nhiều tiêu chí khác như xuất xứ hàng hoá, chủng loại hàng hoá..). Nội
dung này đang được chú trọng để trở thành một giải pháp đặc biệt đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ đặc thù của hải quan hiện đại là vừa phải quản lý tốt, vừa phải
tạo thuận lợi cho thương mại.
Xu hướng phối hợp công tác giữa Hải quan các nước cũng là một trong
những xu hướng được nhiều nước quan tâm. Vấn đề này đã được thể hiện rõ
trong Công ước Nairobi. Tuy nhiên, chỉ một phương thức hợp tác đa phương này
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-37-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
không đạt hiệu quả cao nên WCO đã vận dụng đưa ra mẫu Hiệp định Hợp tác
Song phương để hải quan các nước vận dụng.
Một điều đặc biệt quan trọng cần nhận thức rõ là khi áp dụng các biện pháp
nghiệp vụ hiện đại nhưng vẫn không bỏ qua các biện pháp kiểm soát truyền
thống, đơn giản. Đồng thời khi triển khai kiểm tra, kiểm soát hải quan, cần nhận
thức nó trong một hệ thống thống nhất, trong đó các thành phần có tác động qua
lai, bổ trợ cho nhau. Điều này thể hiện rất rõ bằng khái niệm Trung tâm xử lý
thông tin tình báo hải quan. Đây chính là bộ não cho hoạt động của toàn ngành
hải quan, là phương thức để thực hiện cơ chế “chỉ huy ấn nút” trong toàn bộ quy
trình thủ tục tự động hoá.
1.2.3. Vai trò của các Điều ước quốc tế có liên quan đến hiện đại hoá hải
quan:
Ghi nhận sự cam kết chính thức của một quốc gia trong mối liên kết đa
phương về một chủ đề nghiệp vụ hải quan nhất định nào đó.
Pháp điển hoá, tạo ra các cơ sở pháp lý quốc tế để thực hiện một nội dung
nghiệp vụ mới hoặc nội dung nghiệp vụ đã được sửa đổi, nâng cấp theo định
hướng hiện đại hoá hải quan ở quy mô quốc tế.
Tạo ra sự thống nhất cao thông qua việc đơn giản hoá và hài hoà thủ tục hải
quan theo một chuẩn chung và một định hướng chung: định hướng hiện đại hoá
nghiệp vụ hải quan.
Tạo ra sức ép khách quan đối với hải quan các nước vẫn còn đang luẩn quẩn
với các nội dung nghiệp vụ truyền thống, nhờ đó sớm đạt được sự thống nhất về
qui trình thủ tục hải quan trên qui mô toàn cầu.
Là một hệ thống văn bản mở cho phép các nước, dù chưa phải là thành viên
của WCO, vẫn có thể áp dụng các nội dung trong các công ước này vào hoạt
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-38-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
động hải quan nhờ đó thúc đẩy quá trình hiện đại hoá hải quan nói chung (như
Công ước HS, Hiệp định trị giá GATT/WTO, Công ước ATA,..)
1.2.4. Vai trò của các Tổ chức quốc tế có liên quan đến hiện đại hoá hải
quan:
1- Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO)
Với sứ mệnh của mình - một tổ chức nghiệp vụ về Hải quan mang tính
toàn cầu nghiên cứu và xử lý mọi vấn đề nghiệp vụ Hải quan, về hợp tác Hải
quan thông qua việc soạn thảo và quản lý các Công ước, đưa ra khuyến nghị đối
với các Chính phủ về các vấn đề kỹ thuật nghiệp vụ Hải quan - Tổ chức Hải quan
Thế giới (WCO) đã tổ chức nghiên cứu kết hợp và kế thừa các kết quả, thành tựu
khác nhau của các hải quan thành viên trong việc xây dựng các chuẩn mực
nghiệp vụ hải quan. WCO đã lập các đoàn chuyên gia để xác định nhu cầu của
các thành viên, xây dựng các chuẩn mực và các khái niệm cơ bản trong từng lĩnh
vực nghiệp vụ, xác định các loại cán bộ cần thiết để vận hành hệ thống nghiệp vụ
mới, khuyến khích chia xẻ các "thông lệ tốt" giữa hải quan các nước, rà soát lại
chương trình đào tạo và xây dựng các giáo trình đào tạo nghiệp vụ, thừa nhận
mức độ triển khai nghiệp vụ khác nhau giữa các thành viên và gắn vào Chương
trình Hiện đại hoá và Cải cách thủ tục hải quan của WCO. Từ đó WCO đã tổng
kết thành một khuôn mẫu chung nhất để giới thiệu, tuyên truyền, hỗ trợ hải quan
các nước thành viên, đặc biệt là các nước đang phát triển triển khai thực hiện
trong khuôn khổ các chương trình hỗ trợ kỹ thuật.
Mặt khác, WCO cũng đã đưa việc triển khai thực hiện các nội dung kỹ thuật
nghiệp vụ vào các nội dung của Kế hoạch Chiến lược WCO cho các năm để hải
quan các nước có điều kiện đi tiên phong trong một số lĩnh vực khó khăn phức
tạp hoặc mới mẻ để tạo tiền đề, kinh nghiệm cho hải quan các nước thành viên
khác nghiên cứu, vận dụng.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-39-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Để tạo điều kiện cho việc thực thi các chuẩn mực đã nêu, Tổ chức Hải quan
Thế giới đã thể hiện những nội dung cơ bản của kỹ thuật nghiệp vụ hiện đại dưới
dạng tài liệu hướng dẫn chuyên đề như Tài liệu Hướng dẫn thực hiện công ước
Kyôtô sửa đổi. Tài liệu hướng dẫn đã nêu rõ vị trí, vai trò của các mảng nghiệp
vụ cơ bản trong công tác kiểm tra hải quan, đưa ra các khái niệm, thuật ngữ
chung, thống nhất, chuẩn mực để thống nhất áp dụng ở hải quan các nước. Bên
cạnh đó, trong khuôn khổ hoạt động kiểm tra hải quan, tài liệu cũng chỉ ra các
công cụ hỗ trợ quan trọng như kỹ thuật quản lý rủi ro, hệ thống kỹ thuật lựa chọn,
lập hồ sơ và xác định trọng điểm, kỹ thuật xác định mức độ tuân thủ. Đây chính
là vấn đề cốt lõi của các nội dung hiện đại hoá hải quan.
Nội dung kỹ thuật nghiệp vụ hải quan do WCO tập hợp và tổng kết, ngoài
việc được sử dụng làm định hướng chung cho các cơ quan hải quan các nước trên
thế giới có quan tâm nghiên cứu, vận dụng để xây dựng hệ thống nghiệp vụ riêng
của mình. Đồng thời đó còn là định hướng cho các tổ chức kinh tế quốc tế khác
làm cơ sở xây dựng các chương trình hỗ trợ kỹ thuật nhằm giúp cơ quan hải quan
các nước trong khối triển khai áp dụng phuc vụ cho định hướng hiện đại hoá
ngành hải quan .
2- Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á Thái Bình Dương (APEC):
Năm 1994 Tiểu ban thủ tục hải quan cuả APEC (SCCP) được thành lập với
mục tiêu đơn giản hoá và hài hoà hoá thủ tục hải quan trong khuôn khổ các nước
APEC, mà những nội dung cơ bản của nó được thể hiện trong 13 mục tiêu cụ
thể của Kế hoạch Hành động Tập thể APEC (CAP). Vai trò APEC thể hiện rất rõ,
có thể đơn cử một số nội dung của Công ước Kyoto như việc áp dụng kỹ thuật
quản lý rủi ro ở Mục tiêu 11:
"Cần tập trung nỗ lực của cơ quan hải quan vào những hàng hoá và hành
khách có rủi ro cao để tạo thuận lợi cho việc di chuyển những lô hàng rủi ro thấp
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-40-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
thông qua định hướng tiếp cận linh hoạt được thiết kế sẵn cho từng nền kinh tế
APEC" để đi đến kết quả sau:
"Việc triển khai tiếp cận quản lý rủi ro một cách có hệ thống sẽ giúp các cơ
quan hải quan APEC tạo thuận lợi cho giao lưu thương mại chính đáng và hành
khách mà vẫn bảo đảm yêu cầu quản lý".
Để thực hiện kế hoạch này, Tiểu ban về Thủ tục hải quan APEC đã xây
dựng Chương trình Hỗ trợ Kỹ thuật về chủ đề quản lý rủi ro kéo dài trong năm
năm (1997-2002) để giúp cho từng thành viên có nhu cầu xây dựng, phát triển hệ
thống quản lý rủi ro vào nghiệp vụ hải quan. Chương trrình gồm 6 giai đoạn tiếp
cận khác nhau với nội dung xuyên suốt là:
(cid:31) Đào tạo cơ bản về Kỹ thuật quản lý rủi ro.
(cid:31) Cử các đoàn chuyên gia đi nghiên cứu thực tiễn các nước.
(cid:31) Tổ chức các khoá đào tạo chuyên đề.
APEC đã huy động các thành viên có tiềm năng, kinh nghiệm về thực hiện
quản lý rủi ro như Úc, Mỹ, New Zealand, Canađa, Nhật Bản tiến hành chương
trình như tổ chức hai hội thảo về quản lý rủi ro nhằm nâng cao nhận thức về
quản lý rủi ro và các kỹ năng cụ thể, kể cả việc xây dựng các kế hoạch hành động
riêng cho từng nước để áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro, đã tổ chức các đoàn khảo
sát tới các nước nhằm đánh giá quá trình chuẩn bị thực hiện quản lý rủi ro, hỗ trợ
cho việc xây dựng định hướng triển khai và hướng dẫn xây dựng cơ sở hạ tầng
cần thiết.
Việc các nước có kinh nghiệm phối hợp tham gia chương trình không
những giúp các nước được hỗ trợ mà còn tạo ra sự chuyển giao kiến thức và kỹ
năng giữa các nước thực hiện chương trình. Cũng từ chương trình hỗ trợ này mà
nhiều nước và nền kinh tế như Đài Loan, Trung quốc ,.. đã chính thức khởi động
Deleted: Page 2
quá trình triển khai thực hiện quản lý rủi ro của mình.
Deleted: of 78
-41-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
3- Hiệp Hội các Quốc gia Đông Nam A (ASEAN):
Trong Ban Thư ký ASEAN có riêng một bộ phận chuyên trách về các vấn đề
Hợp tác hải quan để xây dựng, thúc đẩy quá trình hợp tác và giúp đỡ các thành
viên mới. Các lĩnh vực hợp tác được xây dựng như: Hệ thống Hành lang xanh,
Chương trình thực hiện Trị giá GATT, sách Hướng dẫn về Trị giá hải quan
ASEAN, về Kiểm tra sau thông quan ASEAN, Danh mục Biểu thuế Hài hoà
ASEAN (AHTN), được xây dựng trên cơ sở định hướng, thực tiễn ASEAN, phục
vụ cho việc thực hiện các mục tiêu chung của ASEAN, vừa là đích nghiệp vụ cho
các nước thành viên mới phấn đấu với sự hỗ trợ thiết thực bổ ích của ASEAN nói
chung và các thành viên ASEAN cũ nói riêng. Nhờ đó ASEAN đã phát huy và
làm tốt vai trò hỗ trợ cho công cuộc hiện đại hoá của chính ASEAN với tư cách
là một tổ chức, và cho từng thành viên của ASEAN, đặc biệt là các thành viên
mới như Việt Nam.
Như vậy, từ các hoạt động nghiên cứu, phối hợp, hỗ trợ các hoạt động nghiệp vụ
hải quan trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế đã thực sự tạo ra các điều kiện tiền
đề rất quan trọng cho các nước như Việt Nam tiếp cận và nắm bắt các tri thức,
kinh nghiệm, kỹ năng của nghiệp vụ hải quan hiện đại, cần thiết phục vụ cho
công cuộc hiện đại hoá hoạt động của ngành hải quan một cách thuận lợi nhất,
hiệu quả nhất.
Tóm lại: Qua nghiên cứu khái quát về các điều ước quốc tế về ải quan hoặc liên
quan đến hải quan trong mối quan hệ với thực tiễn hoạt động hải quan thế giới,
chúng ta thấy được vị trí, vai trò của các điều ước này trong sự phát triển liên tục
hay nói cách khác, trong quá trình hiện đại hoá hoạt động hải quan trên bình diện
quốc tế. Chúng ta cũng thấy được quá trình phát sinh, phát triển của các điều ước
này gắn liền với quá trình phát triển của nền kinh tế thương mại thế giới, nó là
sản phẩm của thực tiễn quản lý hải quan, đồng thời cũng là tác nhân tích cực thúc
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-42-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
đẩy tiến độ quản lý hải quan để theo kịp sự phát triển chung, làm tốt vai trò của
mình đồng thời tạo thuận lợi cho thương mại phát triển.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-43-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Chương 2
THỰC TIỄN THAM GIA, THỰC HIỆN CÁC ĐIỀU ƯỚC
QUỐC TẾ VỀ HẢI QUAN HOẶC LIÊN QUAN ĐẾN HẢI
QUAN CỦA HẢI QUAN VIỆT NAM
2.1. Tổng quan về hải quan việt nam
2.1.1. Hải quan việt nam qua các thời kỳ
Hải quan Việt Nam thành lập ngày 10.9.1945 với tên gọi “Sở Thuế quan và
Thuế gián thu” trực thuộc Bộ Tài chính. Sau năm 1954 được đổi thành “Cơ quan
Thuế Xuất Nhập Khẩu” trực thuộc Bộ Công thương với tên gọi “Cục Hải quan”.
Đến năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng lúc bấy giờ quyết định thành lập “Tổng cục
Hải quan” trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng cho đến tháng 2/2002, Chính phủ
quyết định sát nhập Tổng cục Hải quan vào Bộ Tài chính.
Quá trình xây dựng và phát triển kỹ thuật nghiệp vụ của ngành hải quan gắn
liền với các thời kỳ lịch sử có liên quan của đất nước. Điều đó cũng cho thấy sự
phát triển tự phát chuyển dần sang sự phát triển tự giác và khi đó các yêu cầu mới
dần bộc lộ rõ và theo đó xuất hiện các bất cập tự thân của qui trình nghiệp vụ
truyền thống đòi hỏi phải có những đổi mới cải cách thích hợp, kịp thời theo định
hướng hiện đại hoá.
a - Trước năm 1984:
Giai đoạn này, thủ tục kiểm tra hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu
theo các Nghị định thư giữa các nước xã hội chủ nghĩa rất đơn giản, kiểm tra
hàng phi mậu dich thì làm hết sức chặt chẽ (kiểm 100%) . Lưu lượng hàng hoá
nói chung không nhiều, chưa có Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật Hải
quan. Thủ tục hải quan thời kỳ này thể hiện rõ tính truyền thống trong điều kiện
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-44-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
nền kinh tế chưa mở cửa, không có tính năng động, nặng về mục tiêu quản lý
thuần tuý.
b - Giai đoạn 1984-1997:
Trong giai đoạn này, cùng với việc đưa dần chủ trương đổi mới, mở cửa
của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn đời sống kinh tế, lưu lượng hàng hoá xuất
nhập khẩu, người và phương tiện xuất nhập cảnh tăng dần. Với chủ trương thu
hút đầu tư nước ngoài của Đảng và Nhà nước, yêu cầu sự thông thoáng, đơn giản
hoá thủ tục hải quan đã xuất hiện và ngày càng trở càng trở nên cấp thiết hơn.
Cùng với việc tham gia của Hải quan Việt Nam vào WCO, ASEAN, việc trở
thành Bên Ký kết Công ước .. Hải quan đã tiến hành một số công việc theo định
hướng hiện đại hoá, cải cách mở cửa như việc áp dụng luồng xanh, luồng đỏ đối
với hành khách tại các cửa khẩu sân bay quốc tế; phân luồng hàng hoá theo 3
nhóm: hành lang xanh, hành lang vàng, hành lang đỏ trong khuôn khổ ASEAN.
Nhìn chung một số việc làm trong giai đoạn này còn ở dạng mò mẫm, sao chép
dập khuôn chứ chưa có tính tổng thể, chiến lược căn bản.
c- Giai đoạn 1998-9/2001:
Trong giai đoạn này, một số bất cập về các vấn đề nghiệp vụ kỹ thuật hải
quan bộc lộ rõ trước sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế, thương mại, đã buộc
ngành hải quan phải có những cải cách cần thiết. Dưới sự chỉ đạo sát sao của
Chính phủ, sự quan tâm theo dõi của cộng đồng doanh nghiệp và công luận, với
việc khai thác các ưu thế nghiệp vụ trong các công ước quốc tế đã và đang tham
gia, với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, các tổ chức Hải quan các nước phát
triển, Hải quan Việt Nam đã tiến hành hàng loạt những cải cách về mặt qui trình
thủ tục, sắp xếp tổ chức, tạo ra những thay đổi căn bản trong nhận thức về thủ tục
hải quan từ mục tiêu quản lý thuần tuý sang mục tiêu vừa quản lý vừa tạo thuận
lợi cho doanh nghiệp. Chính quá trình này đã đặt ra một yêu cầu cải cách liên tục
Deleted: Page 2
không ngừng qui trình thủ tục và ngoài những việc đã làm còn xuất hiện nhu cầu
Deleted: of 78
-45-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
phải tìm kiếm một số giải pháp cơ bản khác như Quản lý rủi ro và Kiểm tra sau
thông quan, phân loại hàng hoá trước. Chính vì thế trong giai đoạn này, hải quan
Việt Nam đã chuyển hoá được nhiều nội dung kỹ thuật nghiệp vụ hải quan hiện
đại vào dự thảo Luật Hải quan, tạo tiền đề, cơ sở pháp lý để triển khai các kỹ
thuật nghiệp vụ hải quan hiện đại.
d- Giai đoạn từ tháng 10/2001 đến nay:
Yêu cầu thực hiện luật Hải quan nói chung và yêu cầu áp dụng các kỹ thuật
nghiệp vụ hiện đại nói riêng đặt ra khá cụ thể và cấp bách. Tuy nhiên, quá trình
triển khai Luật vào thực tế mặc dù cho đến nay được đánh giá là suôn sẻ nhưng
nếu xét theo nguyên lý hoạt động của hải quan hiện đại thì hiện vẫn chưa có định
hướng tiếp cận và giải pháp cụ thể để thực hiện một số nội dung nghiệp vụ có
tính mũi nhọn như quản lý rủi ro hay phân loại hàng hoá trước, xử lý thông tin
tình báo hải quan. Ví dụ, để tăng tỷ lệ hàng miễn kiểm tra trong khi vẫn giữ
nguyên yêu cầu quản lý, nếu theo nguyên lý quản lý rủi ro thì phải rà soát, làm
chặt hơn các tiêu chí liên quan việc lựa chọn hàng hoá ở khâu tiếp nhận, phân
luồng tờ khai để tăng khả năng xác định trọng điểm thì ta lại xử lý bằng cách tăng
thêm diện và số mặt hàng được miễn kiểm tra bằng biện pháp hành chính (một
quyết định của Thủ tướng Chính phủ). Việc làm này theo lý thuyết về quản lý rủi
ro, thực chất chỉ là chuyển giao rủi ro của việc thực hiện ở cấp cơ sở lên việc chỉ
đạo quản lý ở cấp ngành và cao hơn. Đây cũng là tình trạng tương tự ở các nội
dung nghiệp vụ hiện đại khác.
2.1.2. Yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới:
Những thách thức sẽ đến với ngành Hải quan trong quá trình thực hiện
chiến lược phát triển kinh tế đất nước.
Với số lượng biên chế hiện thời gần 8000 người và cơ sở kỹ thuật, vật chất
hiện có cũng như cơ chế quản lý điều hành như hiện nay, ngành Hải quan đảm
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
nhiệm việc làm thủ tục hải quan cho khối lượng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
-46-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
trị giá hơn 30 tỷ USD. Đến năm 2010 với tổng kim ngach tăng lên hơn 4 lần, biên
chế hải quan không thể tăng theo một tỷ lệ tương ứng buộc ngành Hải quan phải
áp dụng các công nghệ và phương thức quản lý mới, ứng dụng các thành tựu
khoa học, kỹ thuật trong hoạt động hải quan, nhằm vừa đáp ứng được yêu cầu
quản lý vừa tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu.
Ngoài ra, bên cạnh thách thức gia tăng của kim ngạch xuất nhập khẩu, còn
rất nhiều thách thức khác phát sinh cùng với việc mở cửa thị trường, bãi bỏ các
hàng rào thuế quan và phi thuế quan như các hiện tượng rửa tiền, bán phá gía,
buôn lậu và vận chuyển trái phép ma tuý, vũ khí chắc chắn sẽ có tác động rất lớn
đến hoạt động hải quan và yêu cầu cơ quan hải quan phải có những biện pháp
đổi mới cơ chế điều hành, trang bị các phương tiện kỹ thuật cần thiết, xây dựng
bộ máy tổ chức thích hợp và nâng cao trình độ cho công chức hải quan thì mới
đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới.
Trong khoảng thời gian từ nay đến năm 2010, hàng loạt các cam kết phải
thực hiện có liên quan đến công tác hải quan bao gồm:
(cid:31) Trong khuôn khổ AFTA: đến năm 2006 quá trình miễn giảm thuế theo
Hiệp định ưu đãi thuế quan hiệu lực chung (CEPT) giữa các nước thành
viên ASEAN cơ bản hoàn thành (chỉ còn Lào, Campuchia và Myanmar
là đến 2010), việc miễn thuế này sẽ gần như tạo nên một thực thể kinh tế
mới bao gồm tất cả các nước ASEAN và kéo theo nó là sự tự do hoá về
đầu tư, xuất nhập khẩu và xuất cảnh, nhập cảnh giữa các nước ASEAN
tất yếu sẽ làm nảy sinh những vấn đề mới cho công tác kiểm tra, kiểm
soát của hải quan, như vấn đề bảo hộ kinh tế toàn khối AFTA, vấn đề
chống buôn lậu, vận chuyển trái phép ma tuý, vũ khí, nhất là trong bối
cảnh hiện tượng khủng bố quốc tế đang nổi lên như một sự kiện hàng
đầu.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-47-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
(cid:31) Đối với APEC: 2010 là một nửa chặng đường dẫn đến việc loại bỏ hoàn
toàn hàng rào thuế quan giữa các nước thành viên của Diễn đàn kinh tế
Châu A - Thái Bình Dương, và trong khoảng thời gian đó Việt Nam đã
phải thực hiện khá nhiều cam kết trong các chương trình của APEC.
(cid:31) WTO: Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO và kèm theo
đó là các cam kết trong lĩnh vực thuế quan, cam kết tạo thuận lợi cho
thương mại quốc tế thông qua việc đơn giản hoá và thống nhất hoá thủ
tục hải quan, áp dụng phương pháp xác định trị giá theo Hiệp định về xác
định trị giá hải quan (GATT), thi hành Hiệp định TRIPs về bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ.
Để có thể thực hiện được các cam kết nêu trên, trên cơ sở các quy định pháp
luật đã có trong Luật Hải quan, ngành hải quan cần phải tiến hành các nhiệm vụ
cơ bản sau đây:
(cid:31) Triển khai thắng lợi việc áp dụng Hiệp định Trị giá GATT/WTO trên cơ
sở Nghị định 60/2002-NĐ ngày 6/6/2002.
(cid:31) Tổ chức thực hiện có hiệu quả kiểm tra sau thông quan như quy định tại
Nghị định 102/2001-NĐ gày 31/12/2001 sao cho kiểm tra sau thông quan
trở thành một giải pháp quyết định của hải quan như ở hải quan các nước
phát triển.
(cid:31) Ap dụng hệ thống HS để thống nhất hoàn toàn giữa Danh mục Hệ thống
Điều hoà HS với các Danh mục Biểu thuế, Danh mục Hàng hoá Việt
Nam, tạo ra sự hội nhập đích thực vào các tổ chức kinh tế quốc tế trong
vấn đề này.
(cid:31) Triển khai thực hiện nội dung các quy định có liên quan đến hải quan của
hiệp định TRIPs.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-48-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
(cid:31) Tích cực cải cách đơn giản hoá thủ tục theo định hướng của Công ước
Kyoto sửa đổi, nghiên cứu xây dựng và triển khai áp dụng kỹ thuật quản
lý rủi ro vào hoạt động hải quan, xây dựng Trung tâm xử lý dữ liệu tình
báo hải quan.
(cid:31) Xây dựng hệ thống quy trình thủ tục tự động hoá.
(cid:31) Nghiên cứu tham gia Công ước Nairobi và các Hiệp định Hợp tác Hỗ trợ
song phương để nâng cao năng lực kiểm soát của hải quan.
2.2. Thực tiễn tham gia, thực hiện các điều ước quốc tế về hải
quan hoặc liên quan đến hải quan của hải quan việt nam:
2.2.1. Sự cần thiết tham gia vào các điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên
quan đến hải quan trong tiến trình cải cách, hiện đại hoá của Hải quan
Việt Nam:
Những nội dung đề cập ở các phần trước cho thấy, trong thực tiễn cải cách thủ
tục và thi hành Luật Hải quan hiện nay đã và đang đạt được những thành tựu
đáng khích lệ như về tốc độ thông quan, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Bên
cạnh đó, còn rất nhiều khó khăn thách thức đặt ra với ngành Hải quan. Trong xu
thế phát triển hội nhập hiện nay, những khó khăn thách thức này càng trở nên gay
gắt, cấp thiết mà để giải quyết tốt vấn đề này trong xu thế phát triển nghiệp vụ hải
quan thế giới hiện nay, thì hiện đại hoá nghiệp vụ hải quan là một yêu cầu bức
thiết. Qua quá trình nghiên cứu thấy tính bức thiết thể hiện tập trung ở một số
điểm sau:
Thứ nhất: Yêu cầu Hội nhập:
Sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, trào lưu tự do hoá thương mại, việc hình thành
hệ thống kinh doanh toàn cầu và sự bùng nổ của công nghệ thông tin đã tạo ra sự
phát triển vượt bậc của giao lưu và thương mại thế giới. Số người và hàng hoá
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-49-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
qua lại biên giới ngày càng tăng và một hệ quả tất yếu là xu thế buôn lậu và gian
lận thương mại cũng gia tăng.
Yêu cầu của cải cách hành chính- giảm phiền hà; yêu cầu của các hiệp định
thương mại - giải phóng hàng nhanh. Trong khi đó nguồn nhân lực và trang thiết
bị phục vụ cho việc quản lý sự giao lưu ngưòi và hàng hoá qua biên giới quốc
gia lại rất hạn hẹp. Điều đó đòi hỏi phải hiện đại hoá nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ.
Hải quan là một trong những ngành tiếp cận sớm vào quá trình cải cách mở
nên cần phải hiện đại hoá kỹ thuật nghiệp vụ để theo kịp các tiêu chí, chuẩn mực
của kỹ thuật nghiệp vụ hải quan hiện đại quốc tế.
Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO) mà Hải quan Việt Nam là một thành viên,
khuyến nghị các nước tăng cường nghiên cứu triển khai áp dụng các nội dung
thuộc chiến lược hiện đại hoá, coi đó là một định hướng để xây dựng, điều chỉnh,
sửa đổi các qui định về qui trình thủ tục hải quan hiện đại.
Thứ hai, yêu cầu phát triển kinh tế:
Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, mọi quốc gia đều phải tạo thuận lợi tối
đa cho việc di chuyển người và hàng hoá nhằm thúc đẩy thương mại, phát triển
các ngành nghề và du lịch của mình. Các cơ quan quản lý như hải quan, phải thực
hiện mục tiêu đó thông qua việc nâng cao chất lượng thực hiện quản lý thông qua
chương trình hiện đại hoá hải quan.
Chủ trương chính sách hiện nay của Đảng và Nhà nước là tạo thuận lợi tối
đa cho các hoạt động XNK, đầu tư, đặc biệt là đầu tư của nước ngoài nên các yêu
cầu quản lý Nhà nước nói chung, trong đó có quản lý hải quan, không thể thực
hiện phương pháp hải quan truyền thống như trước. Vẫn quản lý chặt chẽ nhưng
vẫn phải tạo thuận lợi cho giao lưu thương mại. Đây là bài toán phức tạp đòi hỏi
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-50-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
chỉ có thể giải quyết bằng các giải pháp nghiệp vụ mới thuộc các nội dung hiện
đại hoá của hải quan thế giới.
Trong tiến trình cải cách hành chính của cả nước, hàng loạt các văn bản
qui định ở mọi cấp, mọi ngành đã được nghiên cứu sửa đổi, cập nhật, ban hành
mới nhằm không ngừng đơn giản hoá thủ tục, chính sách, qui định nhưng mặt trái
của nó cũng xuất hiện. Đó là sự thiếu nhất quán, thiếu định hướng thống nhất.
Đây chính là một tiền đề quan trọng làm xuất hiện các rủi ro trong công tác quản
lý của ngành Hải quan mà yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước đòi hỏi Ngành
hải quan phải khắc phục theo cách của mình. Để giải quýết cơ bản vấn đề này
thực tiễn hải quan các nước cho thấy là phải tiến hành hiện đại hoá qui trình
nghiệp vụ
Thứ ba: Yêu cầu của doanh nghiệp chân chính:
Quá trình đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội là điều không thể tránh khỏi,
dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp nói chung và nhiều doanh nghiệp tham gia
XNK chú trọng đến việc thu lợi nhuận một cách thái quá, làm ăn chụp giật, tìm
mọi cách qua mặt các cơ quan quản lý (điều này thể hiện rất rõ trong lĩnh vực
XNK trong những năm qua), tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh.
Điều này khiến cho nhiều doanh nghiệp (cả trong nước và đầu tư nước ngoài)
làm ăn chân chính bị đặt vào thế cạnh tranh bất lợi và họ rất muốn chấm dứt sớm
tình trạng này trong lĩnh vực XNK thông qua công tác quản lý hiện đại của Hải
quan.
Thứ tư: Yêu cầu nghiệp vụ Hải quan:
Trong giai đoạn hội nhập hiện nay, giao lưu hàng hoá XNK của Việt Nam
ngày càng tăng (xem bảng thống kê dưới đây), loại hình XNK càng phát triển đa
dạng. Trong khi đó biên chế của ngành Hải quan tăng rất ít. Theo số liệu của Ban
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
chỉ đạo cải cách thủ tục Hải quan - Tổng cục Hải quan, năm 1998 mỗi công chức
-51-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
hải quan kiêm rtra hàng hoá phải kiểm tra 33.992,6 tấn hàng hoá các loại, trung
bình 130,74 tấn hàng/ người/ ngày; năm 1999 là 38.778 tấn, trung bình 149 tấn
/người/ngày; năm 2001 khoảng 40.000 tấn; cá biệt ở cục Hải quan Đồng nai một
công chức có trách nhiệm kiểm tra trung bình 600 tấn hàng /ngày. Cường độ lao
động này tạo ra sức ép công việc rất lớn, dẫn đến quá tải, không làm theo tiến độ
qui định thì không được mà làm thì không thể hết trách nhiệm, dễ xảy ra rủi ro.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-52-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
THỐNG KÊ KIM NGẠCH XUẤT NHẬP KHẨU VÀ SỐ THU HẢI QUAN
Năm
Kim ngạch XK
Kim ngạch NK
Tổng kim ngạch
Số thu HQ
Biên chế
(tỷ USD)
(tỷ USD)
(tỷ USD)
(tỷ đồng)
(người)
1997
8,7
11,2
19,9
13.800
6341
1998
9,4
11,4
20,8
16.600
6960
1999
11,521
11,622
23,143
23.669
7020
2000
14,449
15,635
30,084
24.423
7230
2001
15,027
16,162
31,189
23,381
7390
2002
13,407
15,367
35,500
35.000
7400
2003
39.000
7800
(dự kiến)
(Từ năm 1997-2002)
(Nguồn: TCHQ)
Trong quá trình mở cửa, bên cạnh những cái hay, cái tốt tiếp thu học tập
được thì chúng ta cũng phải chấp nhận, đối mặt với rất nhiều thói xấu, tiêu cực
mà thể hiện trong lĩnh vực XNK là nạn gian lận thương mại, buôn lậu có tổ chức,
nạn rửa tiền, buôn lậu và vận chuyển ma tuý. Do đó, quản lý nhà nước ngày càng
phải đối mặt với nhiều phương thức thủ đoạn, loại hình mới, đòi hỏi có sự chuyển
đổi về chất các hoạt động quản lý hiện tại của Hải quan.
Xu thế phát triển tất yếu của hoạt động hải quan hiện đại ở các nước cho
thấy cần phải tiến tới tự động hoá qui trình thủ tục. Mà hai vấn đề cơ bản nhất
quyết định cho tiến trình tự động hoá là áp dụng công nghệ thông tin và quản lý
rủi ro.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-53-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Trong khi lưu lượng hàng hoá XNK cần quản lý ngày càng tăng thì hạ tầng
cơ sở, kỹ thuật phục vụ cho hoạt động quản lý của Hải quan tại các cửa khẩu nhìn
chung không đáp ứng yêu cầu thực thi nhiệm vụ. Điều đó đặt ra một thách thức
nặng nề đối với Hải quan: phải quản lý tốt trong điều kiện không có đủ mặt bằng
thích hợp, không có hoặc không đủ các trang thiết bị để kiểm tra, quá nhiều hàng
hoá phải kiểm tra, nhịp độ kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi tốc độ thông
quan phải nhanh hơn,... Như vậy Hải quan không được tiến hành kiểm tra hàng
hoá một cách thích đáng, đây cũng là một nguyên nhân gây rủi ro cho công tác
quản lý của hải quan cần phải được giải quyết bằng các biện pháp nghiệp vụ hiện
đại .
Kết quả tổng hợp tình hình kiểm tra thực tế hàng hoá nhập khẩu trong năm
2002 cho thấy, tỷ lệ kiểm tra hàng hoá (kiểm tra tỷ lệ và kiểm tra toàn bộ) rất cao
(90%), trong khi tỷ lệ phát hiện sai phạm rất thấp (0,23%). Điều đó cho thấy, sự
bất cập trong việc xử lý giữa yêu cầu quản lý và yêu cầu tạo thuận lợi cho thương
mại. Vì vậy, cần phải có biện pháp thích hợp để giảm tỷ lệ kiểm tra thực tế, tiến
tới có thể chủ động quản lý được tỷ lệ kiểm tra mà vẫn bảo đảm hiệu quả quản lý.
Đây chính là sản phẩm đích thực của việc áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro - một
trong những nội dung hiện đại hoá quan trọng có tính cách mạng trong qui trình
hoạt động hải quan
Khuyến nghị của các tổ chức quốc tế có liên quan đến hải quan: WCO,
APEC, WTO, ASEAN, ASEM cần thống nhất đơn giản hoá và tạo thuận lợi khi
thực hiện thủ tục hải quan, mà giải pháp cho vấn đề này là tăng cường hiện đại
hoá hoạt động hải quan
2.2.2. Thực tiễn tham gia các điều ước quốc tế về hải quan và liên quan đến
hải quan của hải quan Việt Nam
Trong thời kỳ đổi mới, cùng với việc tham gia một số công ước có liên
Deleted: Page 2
quan đến Hải quan như chùm 3 công ước về ma tuý (tham gia tháng 9/1997),
Deleted: of 78
-54-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Công ước về chống buôn bán các loại thú quý hiếm (Công ước CITES), Công
ước Berne về bản quyền tác giả, ký kết Hiệp định Bảo hộ quyền tác giả với Hoa
Kỳ dựa trên các chuẩn mực của Công ước quốc tế về Quyền tác giả... Với các
điều ước quốc tế đa phương về hải quan không thể một lúc có thể tham gia ngay
tất cả, Nhà nước ta đã lựa chọn cách tiếp cận có hệ thống để xử lý từng bước việc
tham gia theo nguyên tắc và trình tự logic của vấn đề: đi từ những Điều ước giúp
ta có điều kiện tiếp cận vấn đề trước (Công ước thành lập Hội đồng hợp tác Hải
quan), sau đó hướng vào một số điều ước cơ bản then chốt (Công ước Kyoto,
Công ước HS), lấy đó làm cơ sở đàm phán ký kết các Điều ước mang tình khu
vực (Hiệp định Hải quan ASEAN, Hiệp định quá cảnh ASEAN) đồng thời tính
tới tham gia tiếp một số công ước chuyên biệt của WCO sau này khi điều kiện
cho phép hoặc có phát sinh nhu cầu mới theo tiến trình phát triển kinh tế xã hội
của đất nước. Hiện trạng cụ thể như sau:
Tham gia Công ước thành lập Hội đồng hợp tác Hải quan (tháng 7/1993) đã
giúp mở tung cánh cửa toà nhà Hải quan thế giới để đi vào tìm hiểu khám phá các
lĩnh vực nghiệp vụ mới cũng như phát huy lợi thế thành viên WCO để tiếp cận,
thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác song phương và đa phương với Hải quan
các nước, các tổ chức quốc tế là thành viên hoặc là đối tác nghiệp vụ của WCO.
Nhờ đó đã tiếp cận được những vấn đề nghiệp vụ hiện đại, Hải quan Việt nam đã
chính thức bước chân vào "sân chơi" Hải quan quốc tế, làm quen với những "luật
chơi" của nó. Đó cũng là một nguyên nhân quan trọng khiến chúng ta sớm làm
quen với "sân chơi" và "luật chơi" của Hải quan khu vực ASEAN để tham gia
nhanh chóng vào các hoạt động của Hải quan ASEAN. (Ví dụ: Tháng 11/1995,
Hải quan Việt Nam là đơn vị cấp ngành đầu tiên trong nước đăng cai tổ chức và
chủ toạ Hội nghị cấp lãnh đạo ngành trong ASEAN - Hội nghị Tổng cục trưởng
Hải quan ASEAN lần thứ 3 đã đạt kết quả rất tốt với sự đánh giá cao của bạn bè
quốc tế.)
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-55-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Công ước Kyoto là một công ước quan trọng nhất về thủ tục Hải quan, có 31
phụ lục bao quát tất cả các chế độ, thủ tục Hải quan, từ xuất khẩu, nhập khẩu, tạm
chấp nhận (tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập), quá cảnh, lưu kho, chuyển tải,
nộp thuế, tạm miễn thuế, hoàn thuế, các khu vực tự do, đến các điều khoản về
khiếu nại, về xử lý vi phạm Hải quan,.. mà các tổ chức quốc tế như WTO, EU,
NAFTA, ASEAN, APEC... khi nói về thủ tục Hải quan đều viện dẫn Công ước
Kyoto, coi đó là những quy định nền tảng về các thủ tục Hải quan.
Tháng 7/1997 Việt Nam trở thành bên ký kết Công ước Kyoto bằng việc
tham gia thân Công ước và 3 phụ lục (Phụ lục A1 về Các thủ tục trước khi xuất
trình tờ khai Hải quan; Phụ lục B1 về Nhập khẩu; Phụ lục C1 về Xuất khẩu). Do
mặt bằng luật pháp trong nước và khả năng thực hiện của ngành hải quan phải
bảo lưu gần 20 điều khoản trong 3 phụ lục trên. Tuy nhiên, trong thực tế, Hải
quan Việt Nam đã nghiên cứu toàn bộ các Phụ lục của Công ước để áp dụng
ngay khi có thể vào việc cải tiến thủ tục Hải quan theo hướng "đơn giản hoá,
thống nhất hoá" với yêu cầu quốc tế. Thậm chí, trong quá trình nghiên cứu tiếp
cận nội dung Công ước để tham gia, đã thực hiện cải tiến một số thủ tục Hải quan
theo tinh thần Công ước Kyoto. Năm 1999, Công ước Kyoto đã được bổ sung
sửa đổi, các nước thành viên phải làm lại thủ tục tham gia trong đó có Việt nam
và cho đến nay, hải quan Việt nam vẫn đang trong quá trình chuẩn bị tham gia.
Tuy nhiên trong quá trình xây dựng luật hải quan (ban hành 6/ 2001) chúng ta đã
chuyển tải rất nhiều nội dung, tinh thần quan trọng của Công ước Kyôtô sửa đổi
vào các nội dung mới của luật, nhờ đó đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng, cần thiết
cho việc triển khai và đẩy mạnh các bước cải cách, hiện đại hoá qui trình thủ tục
theo định hướng hiện đại hoá, tạo ra những thay đổi về chất trong việc nhìn
nhận, đánh giá, xây dựng thực hiện các nội dung thủ tục, nghiệp vụ quan trọng,
nhạy cảm, có tính cách mạng. Hiện hải quan Việt nam đang tích cực chuẩn bị các
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-56-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
mặt để có thể sớm tham gia ký kết Công ước Kyôtô sửa đổi trong một hai năm
tới.
Cùng lúc tiến hành các thủ tục pháp lý tham gia Công ước Kyoto, Hải quan
Việt Nam cũng khởi động song song việc chuẩn bị các thủ tục tham gia Công ước
HS. Tham gia Công ước HS có nghĩa là tham gia cùng cộng đồng quốc tế xây
dựng và áp dụng thống nhất một danh mục hàng hoá đa năng dùng trong nhiều
hoạt động: kiểm soát Hải quan, thương mại, quản lý thu thuế xuất nhập khẩu,
thống kê, giao nhận vận chuyển... Danh mục đó được khái quát theo mã số với
các quy tắc cấu trúc chặt chẽ, dễ hiểu, rút ngắn được rất nhiều thời gian trong
giao dịch hàng hoá quốc tế, giảm thiểu các phiền hà và chi phí không đáng
có.Việc áp dụng trong thực tế Danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu và Biểu thuế
xuất nhập khẩu dựa trên mã HS của WCO đã mang lại thuận lợi lớn trong các
hoạt động thương mại và đầu tư.
Công ước HS (tham gia năm 1998 và bắt đầu có hiệu lực từ 1/1/2000). Xuất
phát từ đặc điểm của một nước đang phát triển, theo tinh thần cho phép của Công
ước HS, Việt Nam có bảo lưu một số điều khoản của Công ước HS để làm cho
Danh mục hàng hoá và Danh mục Biểu thuế xuất nhập khẩu của mình hoàn toàn
phù hợp với mã HS của WCO trong vòng 5 năm kể từ ngày Công ước có hiệu lực
với Việt Nam 1/1/2000. Chính vì vậy, Danh mục thống kê xuất nhập khẩu và
Danh mục biểu thuế xuất nhập khẩu của ta mặc dù cơ bản đã dựa trên Danh mục
HS nhưng chưa phù hợp hoàn toàn với mã HS 6 số của phiên bản 1996 của WCO
như yêu cầu của Công ước (Danh mục Biểu thuế không có các chú giải pháp lý
để thực hiện, các mặt hàng ghi tại mục "Riêng" không có mã số kèm theo...). Vì
vậy, việc áp dụng và thực hiện giữa doanh nghiệp và các cơ quan quản lý còn
thiếu thống nhất, thậm chí ngay trong ngành Hải quan cùng một mặt hàng mà
một số cửa khẩu, Hải quan tỉnh khác nhau lại áp mã khác nhau dẫn đến áp thuế
suất khác nhau, thu thuế khác nhau.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-57-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Do tính kỹ thuật phức tạp, nên mặc dù Công ước HS đã có hiệu lực ở Việt
Nam từ đầu năm 2000 nhưng cho đến tận đầu năm 2003 này Chính phủ mới ban
hành được nghị định 06/2003/NĐ-CP ngày 22/1/2003 về phân loại hàng hoá
XNK, đưa ra những qui định, hướng dẫn cụ thể có tính bắt buộc và nguyên tắc
thống nhất áp dụng Công ước ở các lĩnh vực có liên quan. Sự chậm chễ này cũng
làm ảnh hưởng phần nào hiệu quả tham gia Công ước.
Hiệp định Hải quan ASEAN (ký kết tháng 12/1998, đã tạo cơ sở để Hải
quan Việt nam cùng Hải quan các nước ASEAN đàm phán, xây dựng hai Nghị
định thư về quá cảnh Hải quan đối với hàng hoá, phương tiện vận tải, cơ bản dựa
trên các quy định về quá cảnh tại Công ước Kyoto, hiện đang trong giai đoạn
đàm phán để đưa Hiệp định Quá cảnh ASEAN vào thực hiện theo đúng cam kết
của các nguyên thủ quốc gia ASEAN.
2.3. Những khó khăn, thuận lợi của Hải quan việt nam khi tham
gia các điều ước quốc tế này:
2.3.1. Khó khăn, tồn tại :
Việc tham gia, ký kết và thực hiện các Điều ước quốc tế đa phương về Hải
quan và liên quan đến Hải quan của hải quan Việt nam cũng gặp phải những khó
khăn và bộc lộ ra những hạn chế tồn tại như sau:
Trong khi Hải quan Việt nam có nhiều cố gắng trong việc hoàn tất tương
đối sớm quá trình nghiên cứu, tiếp cận và các thủ tục tham gia, ký kết các Điều
ước thì việc triển khai thực hiện còn nhiều chậm trễ, lúng túng. Nhất là ở việc nội
luật hoá những quy định trong các Điều ước quốc tế vào hệ thống pháp luật của
Việt Nam.
Trong nhận thức xã hội dường như vẫn còn tồn tại một lối suy nghĩ tương
đối phổ biến là việc tham gia các Điều ước quốc tế, hay rộng hơn là hội nhập
Deleted: Page 2
kinh tế quốc tế đơn thuần chỉ là việc của Nhà nước, của Chính phủ, của các Bộ,
Deleted: of 78
-58-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
ngành. Trong thực tế, đây chính là việc của cả nước, của toàn dân, liên quan đến
lợi ích và nghĩa vụ của mọi tầng lớp, vì thế, cần biến thành nhận thức ở cơ sở, trở
thành mối quan tâm, trăn trở từ cơ sở. Sự phối hợp giữa các Bộ, ngành với nhau
cũng còn khá lỏng lẻo, còn cho rằng Điều ước quốc tế liên quan chủ yếu đến lĩnh
vực nào thì ngành được phân công làm "đầu mối" phải lo toàn bộ, là việc riêng
của họ.
Cũng không lấy gì làm lạ khi ta đã tham gia Công ước Kyoto, Công ước HS
nhưng nhiều địa phương, doanh nghiệp đến nay cũng chưa biết. Điều đó đương
nhiên khiến cho doanh nghiệp gặp khải khó khăn khi thi hành các nghĩa vụ do
Công ước đặt ra (ví dụ thay vì Hải quan làm trước kia thì nay doanh nghiệp tự
khai, tự áp mã hàng hoá xuất nhập khẩu, tự tính thuế...). Không ít trường hợp do
khai báo sai, tính thuế sai, doanh nghiệp bị xử phạt gây mất mát về kinh tế và sứt
mẻ quan hệ. Ngay trong ngành Hải quan, việc quán triệt để thực hiện đúng các
Công ước nhiều khi cũng chưa chuyển tải đến hết các đơn vị và nhân viên, gây ra
phiền hà, tiêu cực trong thái độ làm việc và sai sót trong nghiệp vụ.
Nguyên nhân của tình trạng trên là:
Nhiều Điều ước quốc tế đa phương đề cập đến những lĩnh vực còn mới mẻ
đối với chúng ta, thường ở mặt bằng cao hơn cả về chuyên môn nghiệp vụ cũng
như pháp lý. Vì vậy, sự hiểu biết và kinh nghiệm của chúng ta còn hạn chế.
Mỗi Điều ước quốc tế đa phương thường liên quan đến nhiều lĩnh vực. Việc
tham gia Điều ước và áp dụng, thi hành Điều ước đòi hỏi phải điều chỉnh, bổ
sung, thậm chí phải ban hành mới nhiều văn bản pháp luật ở nhiều ngành. Tuy là
Công ước Hải quan, nhưng hai Công ước Kyoto và HS không chỉ thuộc lĩnh vực
pháp luật Hải quan, mà liên quan rất nhiều đến Luật Thương mại, Luật Đầu tư
nước ngoài, Luật Ngân hàng, Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự, Luật Doanh
nghiệp, Luật Hàng hải, Luật Hàng không, Luật Đường bộ, Luật Môi trường, Pháp
Deleted: Page 2
lệnh Thanh tra, Pháp lệnh Ưu đãi miễn trừ ngoại giao và rất nhiều văn bản pháp
Deleted: of 78
-59-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
luật khác về cả kinh tế, văn hoá, an ninh, đối ngoại... Bởi vậy, khi cần nội luật
hoá, điều chỉnh cả một khối lượng hệ thống luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư...
không phải là việc đơn giản.
Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật chưa được coi trọng đúng mức,
chưa quán triệt được đến các cấp, các ngành thực thi, ngoài ra công tác tuyên
truyền giáo dục đến nhân dân cũng chưa làm tốt. Sự lệch lạc, phiến diện trong
nhận thức cũng dẫn đến lệch lạc ngay trong bố trí các điều kiện cần thiết để tuyên
truyền phổ biến pháp luật. (Các văn kiện chủ yếu của Công ước Kyoto, Công ước
HS thậm chí hiện nay cũng chưa được xuất bản một cách chính thức đưa xuống
từng đơn vị Hải quan để nghiên cứu (mặc dù ngành Hải quan đã xây dựng các
văn bản hướng dẫn thực hiện khá chi tiết gửi đến cơ sở, nhưng nếu có điều kiện
để cán bộ, chiến sĩ ở cơ sở nghiên cứu cả văn bản gốc của công ước chắc rằng
vẫn tốt hơn).
Trình độ cán bộ hải quan trong nhiều lĩnh vực so với trình độ thế giới vẫn
còn khoảng cách khá xa chưa kể sự hạn chế về ngoại ngữ ở số lớn cán bộ, nên
khó tiếp cận được văn bản "gốc" các Điều ước và các tài liệu giải thích, phân tích
bằng tiếng nước ngoài.
Trong phạm vi ngành, còn thiếu một chiến lược tổng thể về hiện đại hoá
hoạt động trong đó có chiến lược toàn cục tiếp cận các Điều ước quốc tế đa
phương để xác định những bước đi cần thiết, thích hợp.
2.3.2. Thuận lợi:
Với tư cách thành viên Hội đồng hợp tác Hải quan, Hải quan Việt Nam có
điều kiện nghiên cứu, khảo sát hệ thống 16 Công ước mà tổ chức này xây dựng,
quản lý để đi đến nhận định: Công ước nghiệp vụ đầu tiên cần tham gia là Công
ước Kyoto.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-60-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Tham gia hai Công ước quan trọng bậc nhất về nghiệp vụ Hải quan là Công
ước Kyoto và Công ước HS, Việt Nam tạo thêm được độ tin cậy của cộng đồng
quốc tế về ý chí hội nhập và cải cách. Trong phạm vi quốc gia, ngay tại những
phiên họp đầu tiên của Uỷ ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế, khi điểm lại
kết quả hội nhập trên các lĩnh vực cũng đánh giá cao việc chuẩn bị, tham gia và
áp dụng trong thực tế hoạt động Hải quan hai Công ước cơ bản là Công ước
Kyoto và Công ước HS.
Việc tiếp cận và áp dụng các chuẩn mực chung trong Công ước Kyoto và
Công ước HS khiến cho Hải quan Việt Nam không gặp trở ngại gì lớn khi đàm
phán, đi đến ký kết "Hiệp định Hải quan ASEAN" vào tháng 3/1997 (với các
nguyên tắc: thực hiện các thủ tục Hải quan theo Công ước Kyoto, xây dựng Danh
mục biểu thuế quan chung của ASEAN dựa trên Danh mục HS...)
Việc tham gia của Việt Nam vào diễn đàn quốc tế chung như APEC,
ASEAN, ASEM cũng tạo ra nhiều thuận lợi cho Hải quan Việt Nam trong việc
tiếp cận, nghiên cứu, chuyển hoá các nội dung cơ bản của các công ước quốc tế
về nghiệp vụ hải quan từ góc độ riêng của các tổ chức này. Nhờ đó, Hải quan
Việt Nam có được cái nhìn tổng thể về ác nội dung nghiệp vụ để có thế xác định
lộ trình, bước đi thích hợp trong quá trình hiện đại hoá hoạt động hải quan.
Việc tham gia của Việt Nam vào các Điều ước quốc tế đa phương về nghiệp
vụ hải quan rơi vào thời điểm tình hình chính trị - kinh tế trong nước và quốc tế
có những chuyển biến sâu sắc. Vào các năm 1990-1991, khi Đông Âu và Liên Xô
sụp đổ, quan hệ hợp tác quốc tế của hải quan hầu như trở về điểm xuất phát.
Trong khi đó, sự gia tăng các hoạt động kinh tế đối ngoại, gia tăng quan hệ quốc
tế trên các lĩnh vực, gia tăng đi lại hợp tác nghiên cứu, du lịch đã không ngừng
tạo ra áp lực mới cho hoạt động hải quan thời “mở cửa”. Làm thế nào để vừa
kiểm soát, giám sát được việc thực hiện pháp luật trong xuất nhập khẩu, xuất
Deleted: Page 2
nhập cảnh với khối lượng lớn hơn trước (riêng XNK mỗi năm tăng từ 20-40%),
Deleted: of 78
-61-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
lại vừa tạo ra được sự thông thoáng, nhanh chóng, thuận lợi, không ảnh hưởng
đến sản xuất, kinh doanh, đi lại giao lưu? Làm thế nào thực hiện tốt nhiệm vụ thu
thuế XNK vì quan hệ ngoại thương đã chuyển hẳn sang kinh doanh theo cơ chế
thị trường với hàng trăm quốc gia khắp thế giới, các chủ thể kinh doanh XNK
trong nước cùng có nhiều thành phần kinh tế tham gia? Làm thế nào để có những
thủ tục hải quan tương ứng với các loại hình mới trong kinh tế như đầu tư nước
ngoài, khu chế xuất, cửa hàng miễn thuế, kho ngoại quan ...? Làm thế nào để
ngăn chặn và đấu tranh với các tệ nạn buôn lâu, gian lận thương mại phát sinh
nhanh chóng trong cơ chế thị trường theo đà tự do hoá mậu dịch và đi lại? Câu
trả lời nằm trong các điều ước quốc tế mà Hải quan Việt Nam đã và sẽ tham gia.
2.3.3. Bài học rút ra:
Hải quan Việt nam thực hiện một cách đúng đắn, sáng tạo, kiên định trong
toàn bộ quá trình hội nhập vừa qua của mình nên đã đạt được những thành tích
đáng khích lệ bên cạnh những thiếu sót, tồn tại cần tiếp tục khắc phục. Đồng thời
trong quá trình này, từ thực tiễn hoạt động của mình, ngành Hải quan cũng đã rút
ra một số bài học cụ thể như sau:
Cần có nhận thức đúng đắn về xu thế tất yếu, khách quan của hiện đại hoá
hải quan trong tiến trình hội nhập quốc tế để chủ động nắm bắt các "luật chơi"
của sân chơi kinh tế, khai thác các yếu tố thuận lợi, hạn chế bất lợi do hội nhập
thụ động thiếu chuẩn bị.
Tham gia, ký kết các Điều ước quốc tế đa phương dù là Điều ước về chuyên
môn nghiệp vụ, nhưng cũng mang tính chính trị rõ rệt và không chỉ đơn thuần là
chuyên môn nghiệp vụ, vì tham gia Điều ước quốc tế đa phương có nghĩa là nước
tham gia phải sửa đổi luật pháp quốc gia của mình theo Điều ước đó và phải chịu
sức ép trong việc chấp hành Điều ước.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-62-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Vì thế, tham gia, ký kết các Điều ước quốc tế đa phương nhất thiết phải
được sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Đảng, Nhà nước, của lãnh đạo
các cấp các ngành.
Tham gia các Điều ước đa phương về kinh tế là nhằm phát triển kinh tế đất
nước. Vì thế, phải gắn các cam kết mở cửa, tự do hoá với tiến độ bỏ dần bảo hộ,
không quá nặng về cam kết tự do hoá mà bỏ ngay các biện pháp bảo hộ trong
nước (Ví dụ: việc lựa chọn tham gia ba phụ lục của Công ước Kyoto có một số
bảo lưu, việc bảo lưu một số điều khoản trong 5 năm của Công ước HS...).
Ngược lại, cũng cần chống tư tưởng nặng về bảo hộ, ỷ lại, không chịu cải cách cơ
cấu, cải cách thể chế, làm chậm tốc độ phát triển. Xây dựng kinh tế phải gắn liền
với bảo vệ kinh tế, an ninh kinh tế, hội nhập kinh tế phải tính toán đầy đủ và xử
lý đúng đắn các hệ quả chính trị văn hoá xã hội mới tránh được đổ vỡ và có phát
triển bền vững.
Dù điều ước đa phương chỉ hướng trọng tâm vào một vài lĩnh vực nào đó thì
tham gia và thực hiện Điều ứơc cũng đều là với danh nghĩa quốc gia, là công việc
của mọi ngành, mọi cấp. Cần chống cách nghĩ, cách làm khoán trắng cho một vài
ngành mà thiếu cộng đồng trách nhiệm giữa các lĩnh vực; cũng cần phải chống lại
lối đùn đẩy "dễ làm, khó bỏ" tạo nên những sơ hở và chồng chéo trong thực hiện
các cam kết quốc tế
Qua việc tham gia, ký kết, thực hiện một số Điều ước đa phương Hải quan
càng thấy rõ tính cấp thiết phải xây dựng hệ thống pháp lý, chính sách kinh tế
thương mại - Hải quan của ta cho đồng bộ, đáp ứng được các chuẩn mực quốc tế,
đồng thời hỗ trợ đắc lực cho sản xuất hàng hoá dịch vụ và thương nhân Việt Nam
phát triển mạnh mẽ tạo thành một chỗ dựa quan trọng cho đàm phán mở cửa thị
trường. Cho đến nay, tuy đã có nhiều cố gắng nhưng hệ thống luật pháp chính
sách của Việt Nam còn nhiều điều bất cập, kỹ thuật xây dựng còn thô sơ, thiếu
Deleted: Page 2
minh bạch, không nhất quán và ổn định, đặc biệt là hệ thống chính sách thuế
Deleted: of 78
-63-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
quan và phi thuế quan thường xuyên phải điều chỉnh, thay đổi thất thường làm
giảm lòng tin của doanh nghiệp. Những biện pháp chính sách tạo lợi thế cho kinh
tế và thương mại mà quốc tế thừa nhận như chế độ đãi ngộ tối huệ quốc (MFN),
đãi ngộ quốc gia (NT), chế độ hạn ngạch thuế quan (Tariff quota), quyền tự vệ,
chống bán phá giá... vẫn còn đang trong quá trình xây dựng, chưa có được những
công cụ tự vệ cần thiết hữu hiệu cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng
hiện nay. Trong khi đó những chính sách, biện pháp mà nhiều tổ chức kinh tế
quốc tế không thừa nhận, không phù hợp các nguyên tắc của các tổ chức này thì
ta vẫn áp dụng. Về chế độ thuế nhập khẩu, thông lệ quốc tế là nộp thuế rồi mới
giải phóng hàng (hoặc phải được ngân hàng bảo lãnh thuế) thì ta lại cho phép nộp
thuế chậm hàng tháng sau khi nhận hàng, vì vậy gây ra nhiều vụ trốn thuế, hàng
năm thất thu hàng trăm tỉ đồng. Một trong những điều cấp thiết nhất là phải
nhanh chóng xây dựng và ban hành đầy đủ, đồng bộ các văn bản hướng dẫn thi
hành Luật Hải quan theo các nguyên tắc tiên tiến của hải quan và thương mại
quốc tế, phù hợp tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Tóm lại: Qua nghiên cứu tình hình, nhiệm vụ thực tiễn hoạt động và tham
gia các điều ước quốc tế của Hải quan Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, chúng
ta thấy Hải quan Việt Nam đã có những bước đi phù hợp với xu thế phát triển của
đất nước, xu thế phát triển nghiệp vụ của hải quan hiện đại. Vấn đề còn lại là
nhìn nhận mức độ, hiệu quả tham gia và định hướng phát triển như thế nào để
gắn kết, phát huy được sức mạnh thời đại, định hướng hội nhập kinh tế quốc tế
mạnh mẽ của đất nước, ưu thế của các điều ước quốc tế, các thành tựu khoa học
kỹ thuật ngày nay.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-64-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Chương 3:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT THỰC HIỆN:
3.1. Phương hướng tham gia, thực hiện các điều ước quốc tế về
hải quan hoặc liên quan đến hải quan của Hải quan việt nam.
1. Phương hướng chiến lược về hiện đại hoá công tác Hải quan:
Trong phương hướng chiến lược hội nhập quốc tế của đất nước, công tác
hiện đại hoá Hải quan thời gian tới cần tiếp tục quán triệt mục tiêu hội nhập quốc
tế là để phát triển đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
theo định hướng XHCN, thực hiện dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh với nguyên tắc hội nhập quốc tế về Hải quan phải góp phần giữ
vững độc lập chủ quyền quốc gia, bình đẳng và cùng có lợi, bảo đảm an ninh
quốc gia, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, giữ vững định hướng XHCN.
Nguyên tắc này là cơ sở cho tư duy độc lập và tự chủ trong tiến trình hội nhập và
hợp tác. Nguyên tắc này tự nó đặt ra yêu cầu hội nhập là quá trình vừa hợp tác,
vừa đấu tranh để bảo đảm bình đẳng và cùng có lợi.
Hiện đại hoá Hải quan phải tiến hành từng bước với lộ trình hợp lý, khả thi,
phù hợp với điều kiện một nước đang phát triển, một nền kinh tế đang chuyển đổi
và phối hợp thống nhất với các cam kết quốc tế trên nhiều mặt khác nhau.
Cần xác định đúng vị trí đặc điểm hiện đại hoá trong lĩnh vực Hải quan là
một trong những lĩnh vực phải tiến hành sớm của đất nước để có phương án tăng
cường chỉ đạo, đầu tư của quốc gia đối với ngành Hải quan cũng như tăng cường
chỉ đạo, đầu tư của lãnh đạo ngành Hải quan, lãnh đạo Bộ Tài chính với công tác
hiện đại hoá (cơ chế, chính sách, tổ chức - cán bộ, điều kiện hoạt động...).
Tăng cường kết hợp giữa đẩy mạnh hợp tác song phương với hợp tác đa
phương về Hải quan, xây dựng Hải quan Việt Nam trở thành một lực lượng Hải
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-65-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
quan hiện đại, chuyên nghiệp ngang tầm với Hải quan các nước trong khu vực và
thế giới, có khả năng quản lý tốt và trình độ phục vụ cao theo các chuẩn mực
quốc tế.
Nếu như hợp tác đa phương về Hải quan là điều kiện để Hải quan ta tiếp cận
các chuẩn mực quốc tế chung và thực hiện các chuẩn mực đó theo lộ trình cam
kết, thì hợp tác song phương về Hải quan sẽ tạo cơ hội để nghiên cứu, vận dụng
các kinh nghiệm cụ thể của Hải quan các nước, học tập những kỹ thuật nghiệp vụ
tiên tiến và tránh vấp phải những vấn đề Hải quan các nước đi trước đã phải "trả
giá", rút ngắn được thời gian phát triển. Trong hợp tác song phương chú ý các
tầng nấc: Hải quan các nước láng giềng và bạn bè truyền thống (thực hiện các ưu
đãi thương mại, phối hợp chống buôn lậu qua biên giới, phối hợp bảo vệ an ninh
chính trị - bảo vệ chế độ XHCN); Hải quan các nước trong khu vực (do trình độ
phát triển không quá chênh lệch nên kinh nghiệm dễ vận dụng, hơn nữa cùng
hoạt động trong ASEAN nên dễ hợp tác với nhau); Hải quan các nước công
nghiệp phát triển (những kinh nghiệm "gốc" về Hải quan, có tiềm lực kinh tế và
công nghệ nên có thể giúp đào tạo cán bộ, trang bị kỹ thuật).
Nâng cao năng lực thực hiện các cam kết quốc tế về Hải quan để hội nhập
quốc tế Hải quan thực sự có hiệu quả.
Trong phạm vi quốc gia, đó là sự chỉ đạo của Nhà nước, sự phối hợp của các
bộ, ngành, đối với ngành Hải quan để tạo điều kiện thực hiện tốt các nội dung
hiện đại hoá Hải quan, là việc nhanh chóng nội luật hoá cam kết quốc tế.
Trong phạm vi ngành Hải quan, đó là việc nhận thức đúng để tăng cường
chỉ đạo và đầu tư đúng về cơ chế chính sách, tổ chức bộ máy, cán bộ, điều kiện
hoạt động cho công tác quan hệ quốc tế, hội nhập quốc tế như là một trong những
hoạt động nghiệp vụ quan trọng trong thời gian trước mắt. Tăng cường đầu tư
cho đơn vị chuyên trách về hợp tác quốc tế của ngành để nắm bắt nhạy bén, tham
Deleted: Page 2
mưu kịp thời về nội dung, bước đi hiện đại hoá, đồng thời chỉ đạo tốt việc triển
Deleted: of 78
-66-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
khai thực hiện đồng bộ các cam kết quốc tế ở các vụ, cục nghiệp vụ thuộc cơ
quan Tổng cục, các cục Hải quan tỉnh, thành phố và đơn vị cơ sở. Làm cho các
nội dung cam kết quốc tế của ngành thấm xuống cơ sở, thấm đến từng cán bộ
chiến sĩ ở cửa khẩu để chuyển hoá vào công việc hàng ngày ở cửa khẩu và các
đơn vị cơ sở. Suy cho cùng, thước đo chất lượng thực hiện các cam kết quốc tế
của ngành là thể hiện ở công việc hàng ngày tại cửa khẩu.
Tiếp tục chọn lọc tham gia một số Điều ước quốc tế đa phương với thời gian
và bước đi thích hợp để làm cơ sở cho việc vừa mở rộng vừa phát triển theo chiều
sâu hội nhập quốc tế về Hải quan trong thời gian tới.
Trong số các Điều ước quốc tế đa phương nói trên có Điều ước do yêu cầu
bắt buộc của các thể chế quốc tế (ví dụ: việc áp dụng trị giá WTO không chỉ do
yêu cầu của WTO, đối với ta còn do các sức ép trong ASEAN, do tác động của
Hiệp định thương mại ký với Mỹ có điều khoản liên quan). Tuy nhiên cũng có
điều ước đa phương ta phải tính đến tham gia do yêu cầu phát triển khách quan,
như Công ước ATA, Công ước Kyoto sửa đổi, Công ước Nairobi... Tham gia các
Công ước này sẽ giúp ta nắm bắt được các tiêu chuẩn tiên tiến trong hoạt động
Hải quan quốc tế để nhanh chóng hiện đại hoá Hải quan Việt Nam.
Ngoài ra để thực hiện hiện đại hoá có rất nhiều việc cần phải làm nhưng do điều
kiện, khả năng cụ thể, chúng ta cần tập trung vào một số khâu yếu nhất hoặc khâu
có tính cấp bách nhất để chọn làm khâu đột phá, tuy nhiên khi vào giai đoạn hiện
đại hoá vấn đề triển khai đồng bộ các giải pháp này cũng là một yêu cầu rất cấp
bách. Xử lý thế nào để giải quyết được mâu thuẫn trên đang và sẽ còn là một vấn
đề thu hút sự quan tâm của các cấp trong ngành hải quan.
3.2. Đề xuất kiến nghị
I- Biện pháp thực hiện Công ước KYOTO:
Deleted: Page 2
a) Ap dụng kỹ thuật quản lý rủi ro (Risk Management):
Deleted: of 78
-67-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Có thể nói trong ngành Hải quan hiện đang tồn tại một thách thức có tính
chất nghịch lý thuộc về bản chất và ngành Hải quan không thể né tránh, từ chối
mà phải đương đầu và phải giải quyết được. Đó là nghịch lý vừa phải đáp yêu
cầu tạo thuận lợi cho thương mại vừa phải đáp ứng yêu cầu quản lý tốt. Hầu hết
Hải quan các nước trên thế giới đều đã phải trải qua quá trình này, sự khác nhau
ít nhiều là do ở các bối cảnh lịch sử khác nhau, trong các điều kiện phát triển kinh
tế xã hội khác nhau, ... nhưng cho đến hiện nay có thể nói Hải quan rất nhiều
nước đều đã giải quyết được vấn đề có tính nghịch lý nêu trên nhờ họ đã nghiên
cứu chuẩn bị, và triển khai áp dụng thành công kỹ thuật quản lý rủi ro.
Cụ thể trong các khâu thủ tục hải quan cần tập trung nghiên cứu những lĩnh
vực trọng yếu nhất (như khâu đăng ký tờ khai; quyết định việc kiểm tra hải quan;
phúc tập phục vụ kiểm tra sau thông quan Trên cơ sở đó sẽ điều chỉnh hoặc phân
bổ lại nguồn lực để ngăn chặn khả năng và hậu quả của các loại rủi ro có thể xảy
ra. Bên cạnh đó cần kiểm soát, nghiên cứu để xác định rõ những bất cập trong
quy trình thủ tục để từ đó đánh giá được mức độ rủi ro có thể xảy ra. Rồi áp dụng
các biện pháp điều chỉnh để loại bỏ hoặc giảm thiểu khả năng dẫn đến những tác
động tiêu cực của nó. Nếu không được như vậy thì cũng cố gắng hạn chế các tác
động xấu của nó.
Từ thực tiễn áp dụng của hải quan các nước, qua quá trình khảo sát, đánh
giá, hệ thống về mặt lý luận, kiểm chứng thực tiễn đã rút lại một số bước cơ bản
của quá trình quản lý rủi ro, các bước này có tính hệ thống rất cao với mối quan
hệ hữu cơ gắn bó. Đó là các bước: xác định bối cảnh, xác định rủi ro, phân tích
rủi ro, đánh giá rủi ro, xử lý rủi ro và chỉ đạo và đánh giá.
Trong xác định bối cảnh cần phải thu thập thông tin về môi trường bên
trong, bên ngoài có liên quan đến thực tiễn hoạt động hải quan cụ thể tại cảng
biển cùng với những người liên quan đến các hoạt động đó, từ đó xác định rõ
Deleted: Page 2
mục tiêu và phạm vi của công việc quản lý rủi ro cũng như nguồn lực cần tham
Deleted: of 78
-68-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
gia. Tiếp đó cần xác định rõ các rủi ro thông qua các mối quan hệ quản lý,
thương mại, những điều chỉnh pháp luật,... diễn ra giữa những người có liên quan
trong cộng đồng, trong bối cảnh công việc... hay nói cách khác đây là công việc
xác định những khả năng dẫn đến sai phạm và việc đó diễn ra như thế nào tại môi
trường cảng biển. Từ đó chỉ ra nguồn gốc của rủi ro và những nguyên nhân có thể
gây ra rủi ro. Cuối bước này cần chỉ ra danh mục các rủi ro phát sinh, các rủi ro
khác đã được xác định, các lĩnh vực cụ thể chịu sự tác động của rủi ro, nêu chi
tiết các rủi ro để chuyển sang bước tiếp theo là phân tích rủi ro với mục đích sàng
lọc loại bỏ những rủi ro thấp, rủi ro có thể chấp nhận được để tập trung vào các
rủi ro chính yếu, và cung cấp các dữ liệu hỗ trợ cho việc đánh giá và quản lý rủi
ro. Khi đã có kết quả đánh giá rủi ro, việc tiếp theo cần làm là phải có cách xử lý
chúng theo một chiến lược xác định. Đó là khi có thể được ta có thể tránh các rủi
ro đó, hoặc chấp nhận chúng và chuẩn bị tinh thần, nguồn lực giải quyết hậu quả
(mà một trong những biện pháp cụ thể được áp dụng là kiểm tra sau thông quan),
hoặc giảm bớt các khả năng, hậu quả hoặc cả hai của rủi ro thông qua việc điều
chỉnh ít nhiều các bước nghiệp vụ hải quan cảng, hoặc chuyển rủi ro cho một bên
khác theo hình thức cộng đồng, san sẻ trách nhiệm (như việc xác định trách
nhiệm khai báo đúng là của chủ hàng, Hải quan sẽ kiểm tra trong 5 năm sau đó),
và cuối cùng là tìm ra các giải pháp xử lý rủi ro tốt nhất bằng cách xem nó giảm
được rủi ro chừng nào, kết quả đem lại ra sao, gắn nó với các điều kiện tiên quyết
như chi phí, thời gian, nguồn lực, sự phối hợp với chính sách của ngành và của
chính phủ để ra được các giải pháp khả dĩ cuối cùng và xây dựng kế hoạch hành
động của ngành, của từng địa bàn trên cơ sở các giải pháp đó. Bước sau rốt và
cũng là bước có giá trị tiên quyết để kỹ thuật quản lý rủi ro sống được (tức là một
hệ thống làm việc) là sau quá trình thực hiện, ta cần phải có nhìn nhận tổng thể
và đánh giá cụ thể để thấy được những gì cần điều chỉnh, sửa đổi, kế thừa phát
huy, những gì cần loại bỏ hoặc cần lưu ý theo dõi tiếp. Chỉ có như vậy và liên tục
Deleted: Page 2
như vậy chúng ta mới có thể có được hệ thống đánh giá rủi ro đúng nghĩa của nó,
Deleted: of 78
-69-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
phục vụ có hiệu quả cho công tác hải quan trong giai đoạn hiện nay, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ của ngành và cộng đồng. Cũng nhờ đó sẽ dần dần tạo nên được một
tư duy làm việc mới để ngành có thể đáp ứng và phục vụ tốt, tạo đà cho những
nhiệm vụ cải cách thủ tục hành chính nói chung và cải cách thủ tục hải quan nói
riêng.
b) Khai thuê Hải quan( Customs broker):
Ở Hải quan các nước như Thái lan, Philipine, Trung quốc,... vai trò người
khai thuê hải quan rất quan trọng vì xu thế ngày nay doamh nghiệp phải tự chịu
trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực trong khai báo thủ tục
hải quan. Như Hải quan Hungary khai thuê hải quan làm tới 60% công việc của
Hải quan, tính chuyên nghiệp hóa của họ rất cao. Hải quan một số nước coi việc
khai hải quan qua dịch vụ khai thuê hải quan là một trong những tiêu chí quan
trọng trong việc phân luồng hàng hóa
Tại Việt Nam, theo quy định của Tổng cục Hải quan thì khi hành nghề một
điều kiện tiên quyết là số người trực tiếp thực hiện việc khai thuê của doanh
nghiệp phải qua một khóa huấn luyện, được cấp chứng chỉ. Quy định này rất phù
hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn Hải quan các nước trên thế giới. Nhưng vừa
triển khai thực hiện đã gặp phải khó khăn do rơi đúng vào thời điểm Chính phủ
chỉ đạo xoá bỏ các loại giấy phép. Vì vậy qua hơn 4 năm thực hiện nhưng đến
nay vẫn chưa hình thành đội ngũ khai thuê theo đúng nghĩa của nó.
Trong thời gian tới cần hình thành, chuyên môn hóa đội ngũ khai thuê hải
quan qua việc đào tạo, trang bị cho họ những kiến thức cơ bản về thủ tục hải
quan, về phân loại, áp mã, xác định trị giá hàng hoá theo những tiêu chí của
hải quan hiện đại để tạo thúc đẩy quá trình thông quan của hải quan. Hải quan và
các cơ quan có liên quan cần tạo điều điều kiện cho loại hình này phát triển và
khuyến khích doanh nghiệp xuất nhập khẩu sử dụng dịch vụ này.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
c) Kiểm tra thực tế tại cửa khẩu( Physical Examination):
-70-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Hiện tại có 3 hình thức kiểm tra: Miễn kiểm tra, Kiểm tra xác suất 10%,
Kiểm tra 100% trong đó cần tạo cơ chế để có thể bảo vệ, giải trừ trách nhiệm cho
công chức hải quan khi đã hành động một cách mẫn cán theo đúng chức trách đã
quy định mà vẫn còn những sai sót xẩy ra ngoài mong muốn của mình. Để khắc
phục hiện tượng này cần phải làm những việc như :
+ Cần có quy định cách thức kiểm tra thực tế hàng hóa tại cửa khẩu, xây
dựng cơ sở khoa học để việc chọn mẫu kiểm tra của công chức hải quan đảm bảo
tính khách quan cao.
+ Việc phân công cán bộ kiểm tra lô hàng nào, doanh nghiệp nào cũng phải
đảm bảo tính ngẫu nhiên, tránh tình trạng móc nối trước để làm sai.
Giải pháp đáp ứng các yêu cầu trên là phải tiêu chuẩn hóa, mã hóa các tiêu
chí như Doanh nghiệp, mặt hàng, xuất sứ hàng hóa...và các thông tin khác để xây
dựng phần mềm và giải bài toán đã nêu ở trên bằng cách áp dụng tin học . Lúc đó
mọi quyết định phương thức kiểm tra đều thực hiện thông qua máy tính, không
phải do ý chí chủ quan áp đặt của công chức hải quan nữa. Lúc đó Doanh nghiệp
cũng không biết trước lô hàng của mình sẽ kiểm tra như thế nào, ở đâu? và mình
phải kiểm tra lô hàng nào, của doanh nghiệp nào, cũng hoàn toàn thông qua máy
định quyết định.
Việc kiểm tra thực tế hàng hóa vận chuyển qua đường biển sẽ rất khó nếu
chỉ thực hiện bằng phương pháp thủ công. những cảng lớn cần trang bị hệ thống
máy soi container. Hệ thống này kết hợp với việc thu thập thông tin tình báo,
phân tích, đánh giá rủi ro. Việc làm này sẽ khắc phục được tình trạng kiểm tra
thủ công vừa tốn rất nhiều thời gian vừa đạt hiệu quả thấp, vừa có tác dụng răn
đe, phòng ngừa các âm mưu gian lận.
d) Kiểm tra sau thông quan( Post Clearence Audit):
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-71-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Để triển khai áp dụng nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan (PCA) có thể còn
phải làm nhiều việc nhưng trước mắt hải quan Việt Nam cần xúc tiến ngay một
số công việc cụ thể như xây dựng môi trường pháp lý trong đó cần chú ý 3 nội
dung cơ bản sau :
(cid:31) Thừa nhận về mặt pháp lý ngành hải quan có quyền kiểm tra mọi chứng
từ thương mại ,chứng từ sổ sách kế toán ... của chủ hàng .Ơ đây chỉ hạn
định trong số các chứng từ có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến lô
hàng cần kiểm tra .
(cid:31) Mọi chủ hàng xuất nhập khẩu phải bảo quản lưu giữ mọi chứng từ xuất
nhập khẩu của mình trong một khoảng thời gian nhất định (thường vào
khoảng từ 3 đến 5 năm ) và trong thời gian lưu giữ theo quy định nếu cơ
quan hải quan yêu cầu thì phải xuất trình ngay các chứng từ này phục vụ
cho yêu cầu của các cuộc kiểm toán hải quan.
(cid:31) Định rõ các chế tài xử phạt đối với những chủ hàng vi phạm các quy
định về xuất nhập khẩu và các thủ tục thông quan , nhất là các chủ hàng
cố ý khai báo gian lận để trốn thuế .
Các yêu cầu, nội dung cơ bản của hoạt động kiểm tra sau thông quan đã
được qui định tại Điều 32 của Luật Hải quan 2001 và đã được cụ thể hoá trong
các văn bản dưới Luật như Nghi định 102/2001/ND ngày 30/12/2001. Điều cần
phải tiếp tục làm trong lĩnh vực hoàn thiện môi trường pháp lý là chuẩn bị tốt về
mặt tâm lý cho người được kiểm tra và xác định cụ thể hơn trách nhiệm cá nhân
của các nhân viên hải quan làm việc trong bộ phận kiểm tra sau thông quan.
Kiểm tra sau thông quan là một chuyên ngành hẹp được hình thành theo yêu
cầu chống gian lận thương mại của ngành Hải quan và trên cơ sở ứng dụng các
kiến thức cơ bản của nhiều chuyên ngành khác. Quá trình thực hiện một cuộc
kiểm toán hải quan là quá trình vận dụng một cách sáng tạo nhuần nhuyễn và có
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
hệ thống các kiến thức kế toán, kiểm toán, thương mại, luật pháp , điều tra ... Vì
-72-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
vậy cần đào tạo, trang bị các kiến thức chuyên ngành có liên quan để nhân viên
kiểm tra sau thông quan có thể hoàn thành nhiệm vụ .
II- Thực hiện Công ước HS
a) Thành lập tổ chức chuyên gia:
Từ khi Luật Hải quan có hiệu lực trách nhiệm phân loại và xác định trị giá
đã chuyển sang cho Chủ hàng (trước đó khi làm thủ tục hải quan trách nhiệm
phân loại và xác định trị giá tính thuế của lô hàng thuộc về cơ quan Hải quan,
người khai hải quan chỉ phải mô tả chính xác hàng hóa cũng như trị giá tính
thuế). Trong khi đó các Doanh nghiệp chưa có sự chuẩn bị kỹ càng, đặc biệt
những người đi làm thủ tục hải quan cũng chưa được đào tạo kỹ về việc phân loại
cũng như xác định trị giá (đây là những công việc rất khó và rất phức tạp đối với
cả công chức Hải quan). Để tháo gỡ vấn đề này, theo kinh nghiệm các nước cần
hình thành đội ngũ chuyên gia gọi là "Chuyên gia nhập khẩu" - là nhân viên hải
quan chuyên về phân loại và xác định trị giá của một hàng hóa cụ thể.
Trước mắt tại Cục hải quan các cảng biển lớn của thành phố Hồ Chí Minh
và Hải Phòng phải có các tổ chức chuyên gia có nhiệm vụ tư vấn giúp doanh
nghiệp phân loại hàng hóa, áp giá và áp thuế suất trước khi XNK hàng hóa, đồng
thời cũng phải có một văn bản của cấp có thẩm quyền quy định: Tiêu chuẩn, giá
trị pháp lý, thẩm quyền cũng như trách nhiệm của chuyên gia này.
b) Danh mục hàng hóa XNK, Danh mục Biểu thuế
Bộ Tài chính cần đưa toàn bộ các thành phần của Danh mục hàng hoá theo
Công ước HS vào Danh mục Biểu thuế Xuất nhập khẩu Việt Nam. Đồng thời
cũng yêu cầu các Bộ, Ngành khác khi ban hành các danh mục hàng hóa theo yêu
cầu quản lý chuyên ngành, ngoài việc mô tả tên hàng cũng phải có dẫn chiếu mã
HS kèm theo.
Deleted: Page 2
Chuẩn hoá dịch thuật trong phiên bản Danh mục HS tiếng Việt.
Deleted: of 78
-73-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Danh mục Hàng hoá Xuất Nhập khẩu Việt Nam và Danh mục Biểu thuế
Xuất khẩu, Nhập khẩu Việt Nam cần được tích hợp hoá thành văn kiện tra cứu
duy nhất.
III. Thực hiện Hiệp định trị giá GATT/WTO:
a) Triển khai đồng bộ các biện pháp chống bán phá giá, trợ giá.
Hiệp định trị giá GATT không nhằm vào mục đích chống bán phá giá, trợ
giá. Và theo nguyên tắc của Hiệp định thì ngay cả trong trường hợp hàng nhập
khẩu được bán phá giá, được trợ giá thì vẫn xem xét xác định trị giá theo trị giá
giao dịch. Do vậy để bảo hộ cho các ngành sản xuất trong nước trước sự cạnh
tranh không lành mạnh và bảo đảm cho các nhà nhập khẩu được đối xử bình đẳng
khi áp dụng các nguyên tắc xác định trị giá tính thuế GATT thì phải triển khai
đồng bộ các biện pháp chống bán phá giá, trợ giá.
b) Xây dựng chiến lược tự nguyện chấp hành của doanh nghiệp
Cơ quan Hải quan và doanh nghiệp là bạn đồng hành. Mối quan hệ đó dựa
trên các qui định của pháp luật và sự tin tưởng lẫn nhau trong quá trình thực thi
pháp luật. Nếu như số đông doanh nghiệp luôn tìm cách trốn tránh các nghĩa vụ
thực thi pháp luật hoặc cơ quan Hải quan thiếu tin tưởng vào sự tự giác chấp
hành của doanh nghiệp thì cả hai trường hợp trên đây đều dẫn đến sự suy giảm
hiệu quả quản lý của Hải quan và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
và điều này tác động trực tiếp đến tốc độ thông quan khi thực hiện trị xác dịnh trị
giá theo GATT.
c) Xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin phục vụ công tác xác định trị giá
Một yếu tố hết sức quan trọng phục vụ cho công tác xác định trị giá hải quan
là xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin liên quan đến giá cả hàng hoá XNK. Những
thông tin cần thiết này phải có sẵn ở cửa khẩu nơi tiến hành xác định trị giá. Đối
Deleted: Page 2
với cán bộ xác định trị giá thì thông tin có vai trò rất quan trọng. Nó không những
Deleted: of 78
-74-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
giúp cho việc xác định trị giá tính thuế trong trường hợp không thể sử dụng
phương pháp trị giá giao dịch mà còn là cơ sở cho các nghi vấn hải quan về trị
giá và hỗ trợ công tác kiểm tra sau thông quan. Có thể nói rằng nếu không có hệ
thống thông tin trị giá thích hợp, hải quan sẽ rất khó phát hiện ra các hiện tượng
gian lận về giá hay đưa ra một quyết định chính xác liên quan đến trị giá. Do đó,
hệ thống thông tin trị giá mạnh phải đáp ứng các yêu cầu về độ chính xác cao,
cập nhật thường xuyên, bí mật và tiện dụng trong toàn ngành hải quan khi cần.
Vấn đề đặt ra là cán bộ xác định trị giá phải am hiểu chuyên môn, nghiệp vụ, có
kinh nghiệm thực tiễn để có thể biết được thông tin nào đáng tin cậy, thông tin
nào sai lệch. Điều này đòi hỏi cơ quan Hải quan phải xây dựng được các cơ sở dữ
liệu thông tin cần thiết hỗ trợ cho cán bộ Hải quan trong công tác, mặt khác có
thể tổ chức những buổi hội thảo trao đổi thông tin, kinh nghiệm vận dụng giữa
các cán bộ làm công tác xác định trị giá.
d) Chú trọng đào tạo cán bộ, phổ biến, tuyên truyền pháp luật :
Các phương pháp xác định trị giá của Hiệp định trị giá GATT có tính kỹ
thuật nghiệp vụ cao và mới mẻ, do đó vấn đề đặc biệt quan trọng là phải nâng cao
trình độ cán bộ về chuyên môn nghiệp vụ, về luật pháp, cũng như ngoại ngữ. Vì
vậy công tác đào tạo cán bộ, tạo nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng cho
hiện tại cũng như trong thời gian tới cần được hết sức chú trọng.
e) Tăng cường hợp tác quốc tế:
Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, cần coi trọng và thúc đẩy
quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế và Hải quan
các nước trong việc cung cấp trang thiết bị phục vụ cho tự động hoá quy trình thủ
tục hải quan, góp phần hỗ trợ cho việc triển khai áp dụng các phương pháp xác
định trị giá hải quan theo GATT, tăng cường trao đổi thông tin thương mại quốc
tế để tạo nguồn cơ sở dữ liệu nghiệp vụ, cũng như học tập và trao đổi kinh
Deleted: Page 2
nghiệm qua các đợt công tác, tham dự hội thảo, tập huấn nghiệp vụ nâng cao
Deleted: of 78
-75-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
trình độ và năng lực quản lý của Hải quan. Mặt khác tham gia tích cực vào hoạt
động của các tổ chức quốc tế như ASEAN, APEC, WCO... để ngày càng nâng
cao vai trò và vị trí của Việt nam trên trường quốc tế.
Việc đặt Đại diện Hải quan tại những quốc gia đóng vai trò trung tâm
thương mại quốc tế, có giao dịch mua bán hàng hóa nhiều sẽ đem lại lợi ích rất
đáng kể vì đây là đầu mối của những thông tin tình báo về giá thực của hàng hóa
giao dịch trên thị trường nhà nhập khẩu Việt Nam đã trả hoặc sẽ phải trả cho nhà
xuất khẩu ở nước ngoài. Những thông tin này giúp Hải quan có cơ sở yêu cầu chủ
hàng phải khai đúng trị giá hàng hóa theo quy định, chống thất thu ngân sách của
nhà nước.
IV. Công nghệ thông tin:
Ứng dụng tin học để tự động hoá quy trình thủ tục là một trong những nội
dung quan trọng của Công ước Kyôtô và cũng là mục tiêu chiến lược hiện đại
hoá ngành hải quan. Công nghệ thông tin (CNTT) là chìa khoá để giúp cho ngành
hải quan thực hiện cải cách hành chính, đẩy nhanh thời gian thông quan, quản lý
chặt chẽ nguồn thu cho ngân sách từ thuế XNK và các khoản thu khác, tạo môi
trường thông thoáng cho hoạt động XNK, là một biện pháp hữu hiệu đấu tranh
chống tiêu cực trong nội bộ ngành hải quan, nâng cao hiệu lực quản lý của bộ
máy, góp phần tích cực vào tiến trình hiện đại hoá hải quan nói riêng và của đất
nước nói chung.
Để đạt được mục tiêu CNTT nói chung và tự động hoá quy trình thủ tục hải
quan đến năm 2005, cần phải giải quyết đồng bộ các nhóm vấn đề sau :
(cid:31) Nghiên cứu hoc tập kinh nghiệm các nước trong khu vực và thế giới để
hình thành các khung pháp lý về trao đổi dữ liệu điện tử, chữ ký xác nhận
điện tử. Thúc đẩy hình thành môi trường thanh toán tiền điện tử, giảm
thiểu giấy tờ Thương mại, bảo vệ các dữ liệu điện tử, hộ trợ cho việc phát
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
triển thương mại điện tử.
-76-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
(cid:31) Quy trình thủ tục hải quan tự động hoá theo chuẩn mực thủ tục hải quan
hiện đại của thế giới
(cid:31) Nâng cấp hệ thống viễn thông để trao đổi thông tin và dự liệu ở 2 mức:
Mức vùng : Nâng cấp hệ thống viễn thông của một số đơn vị có lưu lượng
hàng hoá lớn có liên quan tới nhiều địa phương khác như TP HCM, Vũng tàu,
Đồng nai, Bình dương, Hải phòng, Hà nội. Việc nâng cấp hệ thống viễn thông ở
mức vùng sẽ hộ trợ rất nhiều cho thủ tục hải quan trước mắt là vấn đề nợ thuế
liên quan tới việc cuỡng chế hàng hoá XNK, vấn đề các thông tin vi phạm liên
quan tới việc phân luồng hàng hoá, vấn đề đảm bảo thông tin về hàng hoá XNK
cấp vùng lên Tổng cục và Chính phủ. Ngoài ra với hệ thống thông tin tập trung
và liên thông tốt ở cấp vùng sẽ gúp cho việc cập nhật nhanh chóng các yêu cầu
mới đối với chính sách hàng hoá XNK, chính sách thuế vv...
Mức Liên vùng theo trục xương cá : Trước mắt là khu vực Hà nội _ TP
HCM cho phép kết nối được với các Bộ, Ngành của Chính phủ để tiếp nhận các
thông tin quan trọng về điêù hành XNK quốc gia. Mặt khác các Doanh nghiệp sẽ
được kết nối với cơ quan Hải quan qua cột viễn thông Liên vùng để tìm hiểu
thông tin trên trang ‘Web’ của Tổng cục Hải quan liên quan tới chính sách về
hàng hoá XNK hoặc thực hiện các khai báo Điện tử mà Doanh nghiệp có thể làm
được.
Hình thành trung tâm xử lý dữ liệu tập trung
Trung tâm này được trang bị đủ để có thể tiếp nhận và xử lý các giao dịch
điện tử phát sinh trong quá trình thông quan hàng hoá. Đảm bảo hoạt động ổn
định, liên tục 24/24, có cơ chế dự phòng sự cố, tính bảo mật chống xâm nhập trái
phép. Toàn bộ dữ liệu trong quy trình làm thủ tục hải quan cho hàng hoá trên
toàn quốc đều được tiếp nhận, xử lý tại Trung tâm này.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-77-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Doanh nghiệp khai thuê hải quan, doanh nghiệp XNK có thể kết nối với
Trung tâm tự động hoá để thực hiện khai báo điện tử.
Hải quan cần được kết nối với Ngân hàng, kho bạc, hãng vận chuyển, hàng
không, cảng vụ để thực hiện các giao dịch xác nhận việc nộp thuế, giám sát kho
hàng, ... Tuỳ theo quy mô và sự sẵn sàng của các đơn vị liên quan mà mở rộng
phạm vi kết nối. Tuy nhiên việc kết nối với Ngân hàng và kho bạc cùng với kỹ
thuật thanh toán điện tử là điều kiện cần thiết để thực hiện một quy trình tự động
hoá.
Phần mềm tự động hoá được thiết kế phù hợp với hệ thống quy trình thủ tục
hải quan Việt nam. Phần mềm tự động hoá phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản
sau đây :
(cid:31) Đáp ứng yêu cầu đa dạng của công tác quản lý hải quan trong quy trình
thủ tục, có những chức năng phù hợp với các loại hình thủ tục cảng biển,
hàng không, đường bộ...
(cid:31) Được xây dựng trên nền công nghệ thông tin tiên tiến, có khả năng vận
hành trên mạng diện rộng.
(cid:31) Tính ổn định, thuận tiện trong việc thay đổi đối với sự thay đổi của chính
sách điều hành.
(cid:31) Được thiết kế đủ các chức năng cho các cơ quan có liên quan trong quy
trình thủ tục hải quan như : Doanh nghiệp, khai thuê, hãng vận chuyển,
ngân hàng, cảng ...
Cần đào tạo đội ngũ chuyên sâu về công nghệ thông tin, có hiểu biết cơ bản
về các lĩnh vực nghiệp vụ hải quan và quy trình thủ tục hải quan hiện đại. Đội
ngũ này sẽ chịu trách nhiệm phối hợp với các đối tác trong và ngoài ngành thiết
kế, xây dựng và triển khai các hệ thống ứng dụng, duy trì hoạt động ổn định của
Deleted: Page 2
hệ thống, mở rộng và phát triển theo yêu cầu của nghiệp vụ.
Deleted: of 78
-78-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Đội ngũ chuyên gia nghiệp vụ hải quan được đào tạo sâu về các lĩnh vực
quản lý hải quan và thủ tục hải quan hiện đại, có kinh nghiệm quản lý thực tiễn
và có hiểu biết chung về CNTT. Đội ngũ này chịu trách nhiệm chính về thủ tục
hải quan khi thiết kế xây dựng hệ thống tự động hoá.
V- Thực hiện Hiệp định TRIPs:
Luật Hải quan có qui định tại điều 57 trong đó:" Chủ sở hữu quyền sở hữu
trí tuệ đã được bảo hộ theo qui định của pháp luật Việt nam có quyền đề nghị cơ
quan hải quan tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu , xuất
khẩu mà mình có căn cứ cho rằng có vi phạm là quyền sở hữu trí tuệ." Điều đó có
nghĩa là Hải quan Việt nam thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong chừng mực
có liên quan đến hàng hoá xuất nhập khẩu. Như vậy hải quan chỉ can thiệp đối
với việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá vi phạm quyền sở hữu công nghiệp
hoặc vi phạm bản quyền theo qui định của pháp luật trên cơ sở thẩm quyền được
pháp luật qui định
Thực tiễn triển khai các biện pháp kiểm soát biên giới của hải quan trong
những năm qua chưa mang lại kết quả như mong muốn do các nguyên nhân như:
nhận thức chung của toàn xã hội, của ngay một bộ phận cán bộ hải quan còn hạn
chế; hải quan chưa có bộ phận chuyên trách ; còn thiếu thông tin; chưa có sự
hợp tác hoặc quan hệ cần thiết giữa hải quan với chủ sở hữu quyền; phối hợp
giữa các cơ quan, lực lượng chuyên ngành chưa chặt chẽ,... do đó, trong thời gian
tới cần tập trung vào một số khâu sau:
Xây dựng bộ phận chuyên trách về sở hữu trí tuệ tại cơ quan Tổng cục hải
quan cũng như tại các Cục hải quan địa phương với trách nhiệm cụ thể và các
thẩm qưuyền cần thiết. Trang bị các thiết bị thông tin đảm bảo thông tin nhanh
chóng, kịp thời trong nội bộ cũng như với các cơ quan chuyên trách như Cục Sở
hữu công nghiệp, Cục Bản quyền, các sở khoa học, công nghệ và môi trường
Deleted: Page 2
cũng như sở Văn hoá Thông tin ở các tỉnh thành phố. Xây dựng cơ sở dữ liệu
Deleted: of 78
-79-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
đảm bảo cho việc theo dõi so sánh việc xuất nhập khẩu hàng hoá có nhãn hiệu
hay bản quyền đã đăng ký và đã có yêu cầu hải quan bảo hộ.
Đào tạo đội ngũ cán bộ có chuyên môn cao và nhận thức đúng đắn về vấn
đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Thiết lập các quan hệ công tác chặt chẽ với các cơ quan khác trong hệ thống
Sở hữu Trí tuệ, đặc biệt với cục Sở hữu công nghiệp, cục Bản quyền.
Xây dựng có chế yêu cầu bảo hộ bao gồm cả bảo hộ theo yêu cầu dài hạn và
yêu cầu đối với từng vụ việc cụ thể và thiết lập các quan hệ công tác thiết thực
với các chủ sở hữu quyền sở hưũ trí tuệ giúp cho việc xây dựng và vận hành cơ
quan chuyên trách về sở hữu trí tuệ cuả Hải quan có hiệu quả nhất.
Tăng cường hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ được kinh nghiệm của hải quan
các nước và sự hỗ trợ kỹ thuật của các tổ chức quốc tế có liên quan trong vấn
đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-80-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
KẾT LUẬN
Hiện đại hóa là yêu cầu và nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, trong đó mỗi
ngành, mỗi cấp phải tự đổi mới, hoàn thiện mình, tiến hành những bước đi thích
hợp để trước hết là hiện đại hóa ngành mình và sau là đóng góp vào công cuộc
hiện đại hóa chung vì sự phát triển của đất nước.
Nhận thức rõ ý nghĩa và trách nhiệm của mình, ngành Hải quan Việt nam đã
nhanh chóng triển khai nhiều biện pháp trên bình diện rộng, thực hiện cải cách
đổi mới thủ tục hải quan và đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Luật Hải
quan có hiệu lực từ 1/1/2002 là sản phẩm kết tinh các thành tựu đạt được trong
suốt quá trình đổi mới và cải cách của ngành hải quan nói riêng và cả nước nói
chung trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại.
Là thành viên của Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO), tham gia một số công
ước quan trọng về hải quan, Hải quan Việt Nam đã có điều kiện tham khảo sâu
hơn nhiều nội dung các công ước về hải quan hoặc liên quan đến hải quan, tạo
thuận lợi cho ngành tham gia vào các hoạt động hải quan trong khu vực và trên
thế giới. Những kết quả tích cực đạt được từ việc tham gia các công ước như
Công ước Thành lập Hội đồng Hợp tác Hải quan, Công ước Kyoto, Công ước
HS, Công ước về ma túy,.. đã khẳng định Hải quan Việt Nam đang đi đúng
đường.
Thông qua việc tham gia những công ước quốc tế về hải quan, Hải quan
Việt nam đã xây dựng và mở rộng quan hệ quốc tế song phương và đa phương
với nhiều nước và khu vực hải quan trên thế giới. Điều đó giúp cho Việt Nam
thêm nhiều cơ hội có thể học hỏi và trao đổi kinh nghiệm với Hải quan các nước,
đồng thời cũng là cơ hội để Hải quan Việt Nam chứng tỏ vị thế và vai trò tích cực
Deleted: Page 2
của mình trong khu vực và trên diễn đàn quốc tế về Hải quan.
Deleted: of 78
-81-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Tuy nhiên, để thực sự hội nhập với cộng đồng Hải quan Thế giới, Hải quan
Việt Nam còn rất nhiều việc phải làm, mà nghiên cứu vai trò các điều ước quốc tế
về hải quan hoặc liên quan đến hải quan là một trong những công việc cấp thiết,
nhằm đưa ra được những đánh giá khách quan, đề xuất những bước đi thích hợp
cho ngành trong việc tiếp tục, sẽ tham gia những công ước nào cho có lợi nhất,
phù hợp với định hướng hiện đại hóa ngành Hải quan.
Hy vọng với một số đề xuất trình bày trong bài viết sẽ góp một phần nhỏ bé
vào công cuộc hiện đại hóa, xây dựng ngành Hải quan Việt nam trở thành một
lực lượng chuuyên nghiệp, có chuyên môn sâu, hiện đại, có uy tín trên diễn đàn
Hải quan khu vực và thế giới, góp phần vào công cuộc hiện đại hóa đất nước và
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-82-