LUẬN VĂN: Vốn và vấn đề tạo vốn của Doanh nghiệp
lượt xem 27
download
Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến 2010, Đảng ta chỉ rõ “Chính sách tài chính quốc gia hướng vào việc tạo ra vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội ,tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân...”.Tạo vốn và sử dụng vốn là vấn đề đang được chính phủ, các doanh nghiệp quan tâm. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường, cùng với nó...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Vốn và vấn đề tạo vốn của Doanh nghiệp
- LUẬN VĂN: Vốn và vấn đề tạo vốn của Doanh nghiệp
- Lời nói đầu Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến 2010, Đảng ta chỉ rõ “Chính sách tài chính quốc gia hướng vào việc tạo ra vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội ,tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân...”.Tạo vốn và sử dụng vốn là vấn đề đang được chính phủ, các doanh nghiệp quan tâm. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường, cùng với nó là những khó khăn do thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, sản phẩm tạo ra chưa có sức cạnh tranh mạnh. Vậy tạo vốn như thế nào? Đó là câu hỏi bức thiết vơí hầu hết các doanh nghiệp nước ta hiện nay. Do đó tìm lời giải về vốn cho doanh nghiệp là vấn đề mang tính thời sự và thiết thực. Qua nghiên cứu , em quyết định chọn đề tài "Vốn và vấn đề tạo vốn của Doanh nghiệp”.
- I.Vốn – một trong những điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1.Khái quát về vốn Từ trước đến nay có rất nhiều quan điểm về vốn,mỗi một quan điểm có một cách tiếp cận riêng. Trong phạm vi doanh nghiệp ,vốn là tất cả các tài sản bỏ ra lúc đầu cùng với các nhân tố khác như lao động, tài nguyên thiên nhiên tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh hằm mục tiêu sinh lợi. Thực chất vốn là biểu hiện bằng tiền, là giá trị tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ Trong nền kinh tế thị trường : vốn được quan niệm là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và trong quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp, là một loại hành hoá để sản xuất ra hàng hoá khác lớn hơn chính nó về mặt giá trị Như vậy vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng phải là tiền được sử dụng vào mục tiêu sinh lợi.Trong quá trình vận động vốn tiền tệ ra đi rồi trở về điểm xuất phát của nó và lớn lên sau một chu kỳ vận động. Vốn có những đặc trưng cơ bản sau: - Thứ nhất vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định ,có nghĩa là vốn được biểu hiện bằng giá trị của tài sản hữu hình và vô hình của doanh nghiệp - Thứ hai: vốn phải hoạt động sinh lời, đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp - Thứ ba: vốn phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định ,có như vậy mới có thể phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh - Thứ tư: vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định ,không thể có đồng vốn vô chủ và không ai quản lý -Thứ năm: vốn được quan niệm như một hàng hoá đặc biệt có thể mua bán quyền sử dụng vốn trên thị trường Trên thực tế có 3 phương thức vận động của vốn tiền tệ - T-T’: phương thức vận động của vốn trong những tổ chức tài chính trung gian ( T’ >T) - T-H-T’: phương thức vận động của vốn trong doanh nghiệp thương mại T-H-SX- T’-H’: phương thức vận động của vốn trong doanh nghiệp sản xuất 2.Phân loại vốn :
- Mỗi góc độ tiếp cận khác nhau có cách phân loại khác nhau -Dựa vào phương thức chu chuyển vốn người ta phân thành vốn cố định và vốn lưu động + Vốn cố định là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định nó chuyển dần dần từng phần trong những chu kỳ sản xuất . Vốn cố định đóng vai trò quan trọng trong sản xuất kinh doanh , đạc biệt là với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất .Hiện nay, những quy định vốn cố định phải có thời gian sử dụng ít nhất là một năm và có giá trị trên năm triệu +Vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục -Dựa vào thời gian chu chuyển người ta chia thành ba loại : +Vốn ngắn hạn: thời hạn dưới 1 năm +Vốn trung hạn: thời hạn từ 1 đến 5 năm +Vốn dài hạn : thời hạn trên 5 năm -Dựa vào nội dung vật chất vốn được phân thành hai loại +Vốn thực :là toàn bộ hàng hoá phục vụ cho sản xuất và dịch vụ khác như :máy móc thiết bị nhà xưởng đường xá... phần vốn này phản ánh hình thái vật thể của vốn ,nó tham gia trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh. + Vốn tài chính: biểu hiện dưới hình thái tiền tệ,chứng khoán và các giấy tờ khác dùng cho việc mua tài sản máy móc, thiết bị và những nguyên nhiên vật liệu khác. Phần vốn này phản ánh phương diện tài chính của vốn, nó tham gia gián tiếp vào sản xuất kinh doanh thông qua công tác đầu tư. -Dựa vào hình thái biểu hiện vốn được chia làm hai loại : +Vốn hữu hình: bao gồm tiền, các giấy tờ có giá trị và tài sản biểu hiện bằng vật khác như:đất đai, đường xá, nhà xưởng.... +Vốn vô hình: bao gồm giá trị những tài sản vô hình như: vị trí cửa hàng , uy tín kinh doanh, nhãn, bản quyền, sáng chế phát minh... 3. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp
- Với những áp lực của xu thế quốc tế hóa nền kinh tế thế giới và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, vốn trở thành vấn đề sống còn của mọi doanh nghiệp ,nếu muốn tồn tại và đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Về mặt pháp lý : -Đối với DNNN: dnnn khi muốn thành lập ,điều kiện đàu tiên là doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó tối thiểu phải bằng lượng vốn pháp định (lượng vốn tối thiểu mà pháp luật quy định cho từng loại dnnn). Khi đó địa vị pháp lý của doanh nghiệp mới được xác lập. Ngược lại việc thành lập doanh nghiệp không thể thực hiện được. Theo điều 4-chương II Quy chế quản lý tài chính và hoạch toán kinh tế đối với DNNN, nếu trong quá trình hoạt động kinh doanh vốn điều lệ của doanh nghiệp không đạt điều kiện mà phá luật quy định, tức là thấp hơn tổng mức vốn pháp định của các ngành nghề mà doanh nghiệp đó kinh doanh thì cơ quan có thẩm quyền quyết định thành lập doanh nghiệp đó phải bổ xung vốn điều lệ cho doanh nghiệp , hoặc giảm ngành nghề kinh doanh cho doanh nghiệp hoặc phải tuyên bố chấm dứt hoạt động như : phá sản, giải thể , sát nhập . Đối với các loại hình doanh nghiệp khác: doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề mà pháp luật, pháp lệnh hoặc nghị định đòi hỏi phải có vốn pháp định hoặc chính chỉ hành nghề, thì doanh nghiệp đó chỉ được đăng ký kinh doanh khi có đủ vốn hoặc chứng chỉ hành nghề của pháp luật(điều 11 Luật doanh nghiệp). Vậy vốn được xem là điều kiện tiên quyết đảm bảo tư cách pháp nhân của doanh nghiệp trước pháp luật -Về mặt kinh tế vốn có bốn vai trò +Thứ nhất vốn là tiền đề để doanh nghiệp có thể tiến hành được các hoạt động sản xuất kinh doanh.Khi khởi nghiệp doanh nghiệp cần phải có một số vốn ban đầu nhất định để đầu tư mua cho hoạt động kinh doanh như chi phí thành lập, xây dựng trụ sở , mua máy móc trang thiết bị, dự trữ nguyên liệu, thuê lao động...Đối với một số ngành như ngân hàng bảo hiểm...Nhà nước còn quy định số vốn tối thiểu phải có khi thành lập doanh nghiệp (vốn pháp định). + Thứ hai vốn tạo điều kiện để doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh một cách liên tục và có hiệu quả.Trước hết, để duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, số vốn đầu tư ban đầu phải được quay vòng liên tục và phải được bảo toàn sau mỗi chu kỳ luân chuyển.Có như vậy, doanh nghiệp mới có thể liên tục mua sắm tư liệu
- sản xuất cho chu kỳ sau. Khi doanh nghiệp đã phát triển, quy mô mở rộng, nhu cầu đầu tư chiều sâu sẽ xuất hiện. Doanh nghiệp cần cải tạo, đưa công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất, thực hiện hiện đại hoá sán xuất, nhập khẩu công nghệ từ nước ngoài, đào tạo và nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật,cải tiến mẫu mã,nâng cao chất lượng sản phẩm...Để làm được những điều đó, doanh nghiệp phải có một số vốn nhất định + Tiềm lực vốn mạnh sẽ giúp doanh nghiệp khang định được chỗ đứng trên thị trường, tạo lợi thế trong cạnh tranh.Vốn lớn không những cho phép doanh nghiệp đầu tư theo chiềh sâu để nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn là sức mạnh để doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường thông qua các chiến lược maketting, đưa sản phẩm đến người tiêu dùng.Việc mở rộng thị phần tiêu thụ và đa dạng hoá hoạt đọng kinh doanh cũng góp phần nâng cao uy tín của doanh nghiệp và tạo thuận lội cho doanh nghiệp khi muốn huy động thêm vốn.Trong điều kiện Việt Nam đang cố gắng hội nhập vào nền kinh tế thế giới như hiện nay, cạnh tranh sẽ diễn ra ngày càng quyết liệt và doanh nghiệp nhỏ yếu về vốn sẽ gặp phải nguy cơ bị đào thải ngày càng lớn + Cuối cùng vốn là công cụ phản ánh đánh giá sự vận động của tài sản, giám sát quá trình sản xuất kinh doanh.Thông qua các chỉ tiêu đánh gía hiệu quả sử dụng vốn, ta có thể biết được hiệu quả của việc quản lý hoạt động kinh doanh. Một doanh nghiệp làm ăn giỏi là một doanh nghiệp không những bảo toàn mà còn ngày càng phát triển,nâng cao số vốn của mình.Vốn kinh doanh cũng được trở thành một trong những thước đo quy mô của doanh nghiệp (Tổng số vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp là một trong những th ước tiêu chuẩn được sử dụng để xếp hạng doanh nghiệp nhà nước) . Thực tế cho thấy ,để cung và cầu về vốn gặp nhau trên thị trường ,cả hai phía người cung ứng vốn và người có nhu cầu về vốn đều phải cố gắng tìm đến với nhau ,đồng thời cần có sự tích cực của nhà nước trong việc tạo môi trường thuận lợi cho các luồng vốn đến đúng địa chỉ người nhận .Về phía doanh nghiệp, trước hết phải dựa vào năng lực của bản thân để tự mình tìm kiếm và khai thác có hiệu quả các nguồn vốn hiện đang tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau trên thị trường . II . Các nguồn tạo vốn cho doanh nghiệp. Hiện nay có rất nhiều hình thức tạo vốn kinh doanh cho doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là
- Các doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ thị trường, đề ra các phương án sản xuất kinh doanh phù hợp,từ đó xây dựng kế hoạch hoạt động tạo vốn , chỉ ra những ưu nhược điểm của mỗi hình thức tạo vốn cũng như khả năng vận dụng sao cho có hiệu quả Các hình thức tạo vốn chủ yếu trong các doanh nghiệp hiện nay: 1/Tạo vốn trong nội bộ doanh nghiệp : Là hình thức tự cấp vốn của doanh nghiệp nhằm mục đích vừa để duy trì vừa để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh với hai nguồn sử dụng chính . Một là: Nguồn khấu hao tài sản cố định : Trong quá trình sử dụng tài sản cố định do chịu tác động của nhiều tác nhân làm cho tài sản cố định bị hao mòn dưới hai hình thức hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình . Hao mòn hữu hình là sự giảm dần về mặt giá trị sử dụng của tài sản cố định do chúng đựơc sử dụng trong quá trình sản xuất, kinh doanh hoặc do tác động của yếu tố tự nhiên gây ra . Hao mòn vô hình là sự sụt giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài sản cố định do sự xuất hiện những tài sản cố định cùng loại hoặc tương tự nhưng được sản xuất ra với giá rẻ hơn hoặc hiện đại hơn. Nguyên nhân dẫn đến hao mòn vô hình không phải do tài sản cố định được sử dụng nhiều ít trong sản xuất kinh doanh mà là do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật gây nên. Để tài sản cố định có thể hoạt động một cách liên tục và khi không dùng được nữa có thể có đủ vốn để tái tạo lại nó . Doanh nghiệp phải trích lập quĩ khấu hao bằng sự tích luỹ của số tiền khấu hao.Đó là số tiền biểu hiện qua giá trị bộ phận tài sản cố định bị hao mòn chuyển dịch vào giá trị sản phẩm mới được định kỳ tính vào giá thành sản phẩm. Để tận dụng hiệu quả nguồn vốn này phương pháp trích khấu hao cơ bản phải đảm bảo được sự cân đối giữa mức chi phí tính vào giá thành sản phẩm và nhu cầu hoàn vốn để đổi mới tài sản . Các tài sản không cần dùng hoặc hiệu quả sử dụng không cao cần được nhanh chóng thanh lý,nhượng bán để thu hồi vốn và giảm chi phí bảo quản sửa chữa . Để làm được việc này, doanh nghiệp phải tiến hành phân loại và đánh giá chính xác giá trị tài sản ,so sánh cân nhắc cẩn thận giữa hai phương án : Giữ tài sản để sử dụng và bán tài sản để đi thuê khi cần dùng , từ đó chọn ra phương án có lợi nhất cho doanh nghiệp (có tính đến cả lợi ích trước mắt và lâu dài ). Thứ hai là tích luỹ lãi đầu tư : Đây là phần lợi nhuận không chia để lại doanh nghiệp nhằm mục đích đầu tư và phát triển sản xuất. Nguồn vốn này tạo cho doanh nghiệp thế
- hoàn toàn chủ động , giảm sự phụ thuộc vào nhà cung ứng cũng như giảm gánh nặng nợ cho doanh nghiệp , giúp doanh nghiệp tăng tiềm lực tài chính nhờ giảm tỉ lệ Nợ / Vốn, do đó làm tăng uy tín vị thế của doanh nghiệp trên thương trường làm tăng khả năng cạnh tranh . Để nâng cao mức lợi nhuận dành để tái đầu tư thì doanh nghiệp phải chú ý nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ,tức là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Muốn vậy, doanh nghiệp phải tự đánh giá lại mình về khả năng cạnh tranh ,nguồn lực của doanh nghiệp, từ đó xây dựng kế hoạch kinh doanh cho phù hợp. Doanh nghiệp phải hình thành ban kiểm soát, kiểm toán nội bộ để giúp DN kịp thời phát hiện những sai sót về sử dụng vốn trong hoạt động.Khi có lãi doanh nghiệp cần dành một tỷ lệ lợi nhuận thích đáng cho mục đích đầu tư mở rộng sản xuất tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm ... Hiện nay hình thức huy động vốn trong nội bộ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tài chính của các doanh nghiệp Mỹ(nhất là hình thức lợi nhuận tái đầu tư vì nó là phương thức huy động vốn hiệu quả bằng nội lực của chính doanh nghiệp) Còn đối với doanh nghiệp Việt Nam thì sao? Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của nguồn huy động nội bộ ,tuy nhiên do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế, khi nhu cầu về vốn ngày càng lớn , trong khi nội lực còn yếu, để chiến thắng cạnh tranh không chỉ với các doanh nghiệp trong nước mà cả các doanh nghiệp nước ngoài , các doanh nghiệp việt nam không thể chỉ trông chờ vảo nguồn vốn nội bộ mà quan trọng hơn là nguồn vốn vay ngoài. 2 . Nguồn tạo vốn từ bên ngoài . Cùng với nền kinh tế mở các phương thức tạo vốn cho doanh nghiệp không ngừng được mở rộng như vay ngân hàng thương mại, tín dụng thương mại từ nhà cung cấp ,tín dụng thuê mua ,huy động vốn thông qua liên doanh liên kết, phát hành cổ phiếu trái phiếu ... Trong phạm vi đề án này, em chỉ xin đi sâu nghiên cứu các hình thức tạo vốn sau : Vốn vay các ngân hàng thương mại . Trong nền kinh tế thị trường, nói đến vốn không ai có thể phủ nhận vai trò của các ngân hàng thương mại. Các NHTM huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và tiến hành cho vay, do dó các ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vốn tức thời cho doanh nghiệp
- với thời hạn có thể từ vài ngày đến vài năm với lượng vốn theo nhu cầu kinh doanh của doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng được tài trợ theo nhiều phương thức : Một là: cho vay theo từng món, theo phương thức này khi phát sinh nhu cầu bổ xung vốn với lượng nhất định và thời hạn xác định, và doanh nghiệp phải làm đơn xin vay. Nếu được ngân hàng chấp nhận doanh nghiệp sẽ ký khế ước nhận nợ và sử dụng tiền vay. Việc trả nợ được thực hiện theo các kỳ hạn nợ đã thoả thuận hoặc trả một lần vào ngày đáo hạn . Hai là : Cho vay luân chuyển , phương thức này được áp dụng khi doanh nghiệp có nhu cầu vốn bổ xung thường xuyên trong suốt quá trình kinh doanh và đáp ứng những điều kiện nhất định mà ngân hàng đặt ra .Theo phương thức này, doanh nghiệp và ngân hàng thoả thuận một hạn mức tín dụng cho một thời hạn nhất định (ví dụ 1 năm). Hạn mức tín dụng được xác định dựa trên nhu cầu vốn bổ sung của doanh nghiệp và mức cho vay tối đa mà ngân hàng có thể chấp nhận. Căn cứ vào hạn mức tín dụng đã thoả thuận, doanh nghiệp có thể nhận tiền vay nhiều lần, nhưng tổng các món nợ sẽ không vượt quá hạn mức đã xác định . Việc thực hiện tín dụng ngân hàng phải dựa trên nguyên tắc ứng trước có bảo đảm bằng tài sản hoặc bằng uy tín của doanh nghiệp. Riêng đối với khối doanh nghiệp nhà nước, tạo lợi thế đẩy mạnh vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước đối với các nền kinh tế, ngày 6/ 5/ 1997 chính phủ đã ra nghị quyết số 49 / CP về việc các NHTM quốc doanh cho DNNN vay vốn mà không phải thế chấp tài sản .Nhưng sau một thời gian dài được vay vốn tại các NHTM quốc doanh với những điều kiện ưu đãi các DNNN vẫn không sử dụng vốn có hiệu quả và không phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nhiều doanh nghiệp nhà nước rơi vào tình trạng hoà vốn hoặc thua lỗ nên khi nợ đến hạn doanh nghiệp đã không có khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng . Mặt khác, trong trường hợp DNNN còn nợ quá hạn và hoạt động kinh doanh thua lỗ những khoản nợ quá hạn chưa được xử lý thì các NHTM quốc doanh vẫn cho doanh nghiệp vay tiếp, nếu doanh nghiệp có phương án kinh doanh có hiệu quả và được Bộ chủ quản (đối với doanh nghiệp TW) hoặc uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc TW (đối với doanh nghiệp địa phương) chấp thuận . Lợi dụng quy định trên một số doanh nghiệp nhà nước đã cấu kết với ngân hàng thương mại hoặc cố gắng “tô màu” phương án kinh doanh để được tiếp tục vay vốn, cho dù nợ cũ chưa trả hết hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh thua lỗ .Điều này dẫn đến số dư nợ của các công ty này lên đến hàng nghìn tỷ đồng (Minh phụng epxco...) làm phá sản, không chỉ các doanh nghiệp này mà cả NHTMQD đã
- không thu hồi được vốn vay. Trong khi đó đối với các doanh nghiệp ở thành phần khác thủ tục xét duyệt, cho vay vốn quá khắt khe. Rút kinh nghiệm trước thực tế và để đảm bảo quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong quan hệ vay vốn ngân hàng, nâng cao trách nhiệm của DNNN trong việc sử dụng vốn vay ngân hàng, ngày 29 tháng 12 n ăm1999 Chính phủ đã ban hành nghị định số 178 /1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng. Theo đó, tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn quy định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm và chịu trách nhiệm về quy định của mình. Trong trường hợp tổ chức tín dụng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của chính phủ thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản vay này sẽ được chính phủ xử lý . Ngày 31/8/2000 NHNNVN đã ban hành thông tư số 10/2000/TT/NHNN hướng dẫn chi tiết việc thực hiên các nội dung trong nghị định 178 Cụ thể như sau : Một là ,về đăng ký giao dịch đảm bảo tài sản là bất động sản, (trừ tàu bay, tàu biển), các tổ chức tín dụng và khách hàng vay chưa thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm cho đến khi các Bộ, ngành liên quan, các uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc TW thành lập cơ quan đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm và ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể quy trình, thủ tục lệ phí đăng ký giao dịch bảo đảm; Đối với đăng ký giao dịch bảo đảm tài sản là tàu bay và tầu biển, các tổ chức tín dụng và khách hàng vay thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm tại Cục Hàng không dân dụng Việt Nam, cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực theo quy định hiện hành của chính phủ, Bộ giao thông vận tải và cục hàng không dân dụng Việt Nam, cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực theo quy định hiện hành của chính phủ, Bộ giao thông vận tải và cục hàng không dân dụng việt Nam . Hai là, về cho vay không có bảo đảm đối với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài : Đối với doanh nghiệp nhà nước chưa đáp ứng được điều kiện “ có kết quả sản xuất kinh doanh có lãi 2 năm liền kề với thời điểm xem xét cho vay “ nhưn g không thuộc diện yếu kém theo phương án sắp xếp ( cổ phần hoá giao bán ,khoán kinh doanh cho thuê ... ) của chính phủ , của các bộ, ngành và địa phương, có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả khắc phục được lỗ trong thời hạn nhất định và có khả năng trả nợ vay, thì được các tổ chức tín dụng xem xét cho vay không có bảo đảm bằng tài sản phù hợp với các quy định khác tại mục 1 Chương IV Nghị định số
- 178/1999/NĐ - CP và Mục 1 Chương IV thông tư số06/2000/TT/NHHH1 ngày 4/4/2000 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện Nghị định nay; đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lỗ theo kế hoạch do mới đi vào hoạt động tại Việt Nam chưa quá 3 năm nhưng xét thấy có khả năng thực hiện đúng kế hoạch lỗ dự kiến trong dự án đầu tư đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt thì các tổ chức có thẩm quyền xem xét cho vay không có bảo đảm bằng tài sản phù hợp với các quy định khác tại Mục 1 Chương IV Nghị định số 178/2000/NĐ-CP và Mục 1 Chương IV Thông tư số 06/2000/TTNHNN1 hướng dẫn thực hiện nghị định này . Ba là, về điều kiện vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các biện pháp cầm cố, thế chấp bằng các tài sản bảo lãnh của các bên thứ ba quy định tại Điểm 1.4 Mục 2 Chương III Thông tư số 06 nói trên của Thống đốc ngân hàng nhà nước thực hiện như sau: Có mức vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư tối thiểu bằng 30 % tổng mức vốn đầu tư của dự án; hoặc có giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng một trong các biện pháp cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba tối thiểu bằng 30 % tổng mức vốn đầu tư của dự án . Bốn là, cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với hộ nông dân, chủ trang trại sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp nuôi trồng thuỷ sản mang tính sản xuát hàng hoá, có phương án sản xuất hiệu quả, có khả năng trả nợ vay, thì tổ chức tín dụng xem xét cho vay 20 triệu đồng không phải thực hiện biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản, chỉ nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy xác nhận của uỷ ban nhân dân xã phường , thị trấn về diện tích đất đang sử dụng không có chanh chấp kèm theo giấy đề nghị vay vốn . Như vậy so với các quy định cũ , nghị định 178 đã thực hiện một bước tiến lớn về tư duy bảo đảm nợ. Theo đó bảo đảm nợ chỉ là một giải pháp nhằm tránh rủi ro khi người vay mất khả năng thanh toán chứ không phải là điều kiện tiên quyết để cấp tín dụng. Giờ đây việc thẩm định phương án kinh doanh và thẩm định khách hàng trở thành tiêu chuẩn số một để quyết định đầu tư chứ không lệ thuộc chủ yếu vào tài sản cầm cố thế chấp, hoặc bảo lãnh như trước đây. Chính điều này đã giải quyết được phần nào tình trạng ngân hàng thừa vốn không giải ngân được trong khi các doanh nghiệp thiếu vốn để phát triển sản xuất. Mặt khác nghị định 178 cho phép thực hiện bảo đảm nợ trung, dài hạn bằng tài sản hình thành từ vốn vay, điều này mở ra nhiều cơ hội cấp tín dụng cho sản xuất kinh doanh trong điều kiện doanh nghiệp không đủ tiềm lực vốn tự có để triển khai dự án .
- Tuy nhiên với điều kiện vay tín chấp như trên (Kết quả SXKD có lẵi 2 năm liền, có tín nhiệm với TCTD về việc sử dụng vốn vay hiệu quả và trả nợ đúng hạn) không Phải doanh nghiệp nào cũng đáp ứng được, chưa kể những DN mới thành lập, hoặc những DN mới vực dậy sau thời gian thua lỗ cần vốn phát triển sản xuất kinh doanh. Ngay cả các tổng ty 91 với tổng số vốn 44 % tổng số vốn ngân sách của toàn bộ khu vực DNNN nhưng kết quả kinh doanh cũng không khả quan lắm. Chỉ tính riêng 17 tổng công ty 91 trong 3 tháng đầu năm 2002 thì có đến 12 tổng công ty hoạt động không có lãi, hoặc lãi ít. Năm tổng công ty hoạt động có lãi là : TCT Dầu Khí, TCT Bưu chính viễn thông, TCT Điện Lực, TCT Cao Su, TCT Công Nghiệp tàu thuỷ. Còn 90 % doanh nghiệp hiện có ở Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ ( doanh nghiệp có vốn điều lệ nhỏ hơn 5 tỷ đồng, số lao động bình quân hàng năm dưới 200 người ) thì điều kiện về tài sản thế chấp vẫn là vấn đề nan giải . Quy chế cho vay và nghị định bảo đảm tiền vay cần chú ý tới nhu cầu, khả năng, thực trạng của DN vừa và nhỏ để có tín dụng phù hợp đối với họ, nhất là loại tín dụng trung và dài hạn . Ngoài ra cơ sở pháp lý về việc xác nhận, định giá tài sản dùng để thế chấp ,cầm cố còn phức tạp Để tận dụng được nguồn vốn này Về phía các doanh nghiệp. - Phải năng động tìm kiếm cơ hội đầu tư và thị trường của mình, thông tin về DN phải được cung cấp đầy đủ ,vì chính sự hạn chế về thông tin và mức chi phí để có được mức thông tin này quá cao đã làm tăng rủi ro khi ngân hàng cho vay . - Phải lập kế hoạch sử dụng vốn vay một cách hiệu quả, đảm bảo tiết kiệm để tạo niềm tin cho các ngân hàng thương mại . Về phía các ngân hàng thương mại: Nên cho vay dựa vào thực trạng doanh nghiệp, thẩm định chắc chắn dự án đầu tư, coi trọng thông tin kinh tế và kiểm toán tài chính , tức là cho vay dựa vào năng lực thực tế của doanh nghiệp. Trong quá trình xét duyệt cán bộ ngân hàng phải có điều kiện sử dụng các dịch vụ tư vấn có liên quan và có thẩm quyền ( về pháp lý, về công nghệ, về thẩm định dự án ... ) để làm giảm rủi ro ngay từ ban đầu . Thời gian gần đây cùng với sự mở cửa của nền kinh tế đã xuất hiện nhiều chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh (ngân hàng á Châu ACB ...), các ngân hàng thương mại được chủ động lựa chọn lĩnh vực kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Khách hàng được tự lựa chọn ngân hàng. Một khách hàng được giao dịch tại nhiều ngân hàng khác nhau... Tất cả đã thúc đẩy không khí cạnh tranh giữa các
- ngân hàng thương mại. Điều này mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng là những doanh nghiệp do sự đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng, thực thi chính sách lãi xuất thấp, phí dịch vụ linh hoạt. Với các chính sách khuyến khích đầu tư của chính phủ, (NĐ 165 ,178) sự thông thoáng của các ngân hàng, các doanh nghiệp phải biết tận dụng cơ hội của mình. Làm thế nào để huy động và sử dụng nguồn vốn vay hiệu quả nhất ? Đó là câu hỏi của chính các doanh nghiệp Việt Nam. Tín dụng thuê mua . Theo quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính ban hành kèm theo Nghi định số 64/ CP ra ngày 9/10/1995 của Chính phủ, điều 1 quy định như sau :” Tín dụng thuê mua là một hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị và các động sản khác. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị và động sản theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản đó. Bên thuê sử dụng tài sản và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện thoả thuận trong các hợp đồng thuê “ Thực chất phương thức tín dụng thuê mua là một kênh dẫn vốn vô cùng quan trọng, qua đó các doanh nghiệp được tài trợ 100 % nhu cầu về vốn cho các DN có nhu cầu sử dụng tạm thời tài sản hoặc các doanh nghiệp có khó khăn găy gắt về tài chính mà lại muốn sử dụng tải sản, thiết bị hơn là mang quyền chủ sở hữu . Đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường gặp rất nhiều khó khăn về vốn trung và dài hạn, nếu đi vay ở các ngân hàng thương mại lại thiếu tài sản thế chấp cũng như rất khó thoả mãn các điều kiện chống rủi ro của các tổ chức này. Vì vậy phương thức tín dụng thuê mua có thể giúp doanh nghiệp đi thuê gia tăng năng lực sản xuất (do được đầu tư công nghệ hiện đại mà không ảnh hưởng đến vốn kinh doanh của doanh nghiệp ), không bị đọng vốn trong tài sản cố định. Mặt khác theo đánh giá của các chuyên gia đánh giá công nghệ asean, mức độ công nghệ, trang thiết bị của Việt Nam lạc hậu từ hai đến ba thế hệ so với các nước đang phát triển trong khu vực. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm ở Việt Nam chỉ khoảng 5-7 %, trong khi đó của thế giới hiện nay là khoảng 20 % năm. Thực tế đáng buồn này đã làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong nước trên thị trường quốc tế. Vì
- vậy, đầu tư cho dây chuyền công nghệ, thiết bị hiện đại để tăng hàm lượng chất xám, tăng chất lượng sản phẩm là điều kiện tiên quyết của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập. Nhận thức được tầm quan trọng của TDTM, 2/ 5/ 2001 Chính phủ đã ban hành nghị định số 16/2001/NĐ-CP’’ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính “. So với NĐ 64/CP, nghị định mới đã cơ bản tháo gỡ được những vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của các công ty cho thuê tài chính. Qua đó thoả mãn tối đa nhu cầu về tài sản, thiết bị, dây chuyền công nghệ của các doanh nghiệp đi thuê: - Thứ nhất nghị định mới quy định không chỉ các doanh nghiệp mà các tổ chức và cá nhân hoạt động tại Việt Nam đều là đối tượng cho thuê của các công ty CTTC. Trước đây cá nhân muốn thuê máy móc, thiết bị (ôtô, máy xúc, máy đào) từ phía công ty CTTC phải”lách luật” bằng cách đội lốt doanh nghiệp nào đó. Cho nên khi rủi ro xảy ra thì việc thu nợ xử lý tài sản sẽ trở nên rất phức tạp. - Thứ hai cho phép các công ty CTTC được nhập khẩu trực tiếp những máy móc, thiết bị để cho thuê, tạo điều kiện cho các công ty CTTC chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu của người đi thuê và giảm chi phí đầu vào , hạ lãi xuất cho thuê. - Thứ ba, nếu trước kia, nghị định 64 CP quy định công ty CTTC không được nhân tiền gửi dưới mọi hình thức thì nay các công ty này được huy động tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở nên. Với quy định này, phần nào giải quyết được khó khăn về vốn cho các công ty CTTC liên doanh vay 100 % vốn nước ngoài, cũng như các công ty CTTC thuộc các NHTM , tạo điều kiện cho các công ty chủ động về nguồn vốn với chi phí thấp hơn. - Thứ tư, các doanh nghiệp có sẵn cơ sở vật chất kỹ thuật, máy móc, thiết bị tốt, làm ăn hiệu quả, nhưng lại thiếu vốn lưu động có thể tận dụng nguồn vốn cố định của mình bằng cách bán máy móc, thiết bị cho các công ty CTTC rồi thuê lại. - Thứ năm, thuế đối với máy móc thiết bị, các phương tiện vận chuyển và các động sản khác mà công ty CTTC mua trong nước hoặc nhập khẩu để cho thuê được áp dụng như trường hợp bên thuê trực tiếp mua hoặc nhập khẩu các tài sản này, quy định này khắc phục được tình trạng cả người thuê và người cho thuê đều phải có nghĩa vụ nộp lệ phí trước bạ trên gía trị tài sản nhằm xác định nhân quyền sở hữu của các bên vì đặc điểm của hoạt động CTTC là trong quá trình cho thuê tài sản, quyền sở hữu tài sản thuộc về tổ chức tin dụng cho thuê, hết thời hạn thuê, bên thuê được mua lại tài sản đó với giá danh nghĩa . Mặt khác họ phải chịu thuế GTGT tính trên giá trị sản phẩm. Nên chi phí thuê thực tế rất lớn.
- Với quy định này, đã tạo sự bình đẳng cho khách hàng giữa đi vay các NHTM và đi thuê của các công ty CTTC . -Thứ sáu, công ty CTTC không được mua, đầu tư vào tài sản cố định của mình quá 50 % vốn tự có ( nghị định cũ qui định không quá 25 %). Tạo điều kiện cho các công ty CTTC trang bị cơ sở vật chất, mua sắm TSCĐ . - Thứ bảy, tài sản CTTC phải đăng ký tại trung tâm đăng ký giao dịch có bảo đảm, quy định này nhằm đảm bảo an toàn tài sản cho thuê của các công ty CTTC tránh sang nhượng mua bán khi chưa được sự đồng ý của bên cho thuê. Sau khi NĐ 16/2001/NĐ-CP đi vào thực tế hoạt động tín dụng thuê mua đã sôi động hơn rất nhiều. Thực tế cho thấy, nghiệp vụ cho thuê tài chính đã góp phần giảm bớt những khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam về nguồn vốn đầu tư dài hạn vào máy móc thiết bị, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận với công nghệ hiện đại. CTTC tỏ ra rất thích hợp đối với các doanh nghiệp trong giai đoạn tái cấu trúc và cơ cấu lại dây chuyền sản xuất. Tuy vậy, hoạt động CTTC hiện nay vẫn chưa phát triển ngang tầm với ưu thế vốn có của nó, còn nhiều bất cập trong cơ chế chính sách và điều hành thực tiễn, những bế tắc trong thị trường đầu ra. Hiện nay cả nước có 9 công ty CTTC trong đó có 5 công ty CTTC nhà nước, 3 công ty liên doanh, và 1 công ty 100 % vốn nước ngoài với tổng giá trị tài sản lên đến hàng nghìn tỷ đồng, chiếm 62 % so với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và 0,5 % so với các ngân hàng thương mại. Như vậy tỷ trọng của khối cho thuê tải chính trong hệ thống tài chính tín dụng hiện nay về mặt số lượng và giá trị tài sản có còn đang ở mức rất khiêm tốn . Xét về nguồn vốn của các công ty cho thuê tài chính năm 2001 thì vốn tự có của chính công ty là 823,4 tỷ đồng chiếm 79 % so với tổ chức tín dụng phi ngân hàng và 3,5 % so với các ngân hàng thương mại. Còn việc huy động vốn đang ở mức thấp, hầu hết các công ty CTTC mới hoạt động bằng nguồn vốn điều lệ .Về tình hình sử dụng vốn, tổng dư nợ CTTC đạt gần 581 tỷ chiếm 89% so với tổng dư nợ trung và dài hạn của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và 2,2% so với các ngân hàng thương mại. Nhìn chung hầu hết các công ty CTTC đều đã có lợi nhuận trước thuế. Tuy nhiên nếu tính cả thuế vốn thì một số công ty CTTC của các NHTM còn lỗ. Còn đối các công ty CTTC có vốn đầu tư nước ngoài thì trong những năm đầu hầu hết là bị lỗ.
- Nguyên nhân nào làm cho hoạt động CTTC lỗ và hầu hết các công ty CTTC chỉ mới sử dụng đến vốn điều lệ của mình, chiếm thị phần rất nhỏ (0,2%) và d ư nợ cho thuê cũng rất khiêm tốn trong hoạt động tín dụng của cả nước (0,9%). Nguyên nhân chủ yếu sau đã cản trở sự phát triển hình thức huy động vốn này: - Mặc dù đã ra đời gần 6 năm nhưng loại hình dịch vụ này còn rất mới mẻ đối với các DNVN do vậy sự hiểu biết vè nghiệp vụ này của các doanh nghiệp ,thậm chí của các công ty CTTC còn rất mơ hồ. Điều này làm giảm “ cầu “ về hoạt động CTTC . Phí thuê còn quá cao, cao hơn lãi xuất đi vay khoảng 20% vì các công ty CTTC phải chịu thuế trước bạ và thuế giá trị gia tăng cao. Ngoài ra còn chi phí bảo hiểm, quảng cáo, thẩm định dự án ... đã làm tăng phí thu. Tất cả điều đó đã gây nên những bất lợi khiến cho các công ty CTTC không hấp dẫn người thuê. - Chi phí cho việc mua máy móc thiết bị cao vì hầu hết là hàng nhập khẩu . - Các công ty CTTC xem trọng lịch sử người thuê hơn là xem xét phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có khả thi không. Ngoài ra thủ tục cho thuê của các công ty CTTC quá chặt chẽ, phức tạp, chưa có nhiều hình thức thích ứng với điều kiện hiện tại của các DNVN như bán và cho thuê lại, bảo lãnh đối với khách hàng trong các giao dịch cho thuê tài chính. Bên cạnh đó vốn điều lệ của các công ty CTTC quá thấp (5 công ty CTTC trực thuộc NHTMQD chỉ có vốn điều lệ khoảng 60 tỷ đồng) không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu đầu tư dây chuyền công nghệ lớn. - Để phát triển được hình thức tạo vốn này cần có các giải pháp thiết thực từ cả hai phía nhà nước và doanh nghiệp: + Về phía nhà nước: Cần có các chính sách thuế phù hợp đối với các công ty CTTC cũng như các doanh nghiệp đi thuê. Tại một số nước có hoạt đông này phát triển, bên thuê được phép tính toàn bộ số tiền thuê phải trả vào chi phí kinh doanh của mình nên thuế thu nhập doanh nghiệp giảm đánh kể, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư. Nên chăng VN có chính sách tương tự trong một số ngành ưu tiên đầu tư trước như máy móc sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu, máy móc sản xuất cong nghệ chế biến thực phẩm, hay các máy móc thiết bị xử lý môi trường... Khi cân nhắc một giao dịch CTTC, một trong những điểm quan trọng mà các bên tham gia CTTC muốn biết là giá trị còn lại của tài sản cho thuê và khả năng bán lại nó trên thị trường. Đối với một số máy móc thiết bị công nghiệp, các loại phương tiện giao thông
- vận tải,thị trường máy móc cũ tương đối phổ biến.Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa co một cơ quan hay tổ chức có thẩm quyền, có uy tín nào cung cấp các dịch vụ giám định, định giá giá trị máy móc một cách chuyên nghiệp. Việc định giá chỉ thực hiện theo cảm tính, dễ nảy sinh nhiều vấn đề tranh chấp do thiếu tính khách quan, khoa học trong định giá. Vì vậy nhà nước nên thành lập cơ quan giám định ,xác định giá trị máy móc, thiết bị mới và cũ. + Về phía doanh nghiệp : phải nhận thức được rằng hình thức này hết sức hữu hiệu để đầu tư thiết bị công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay việc đi thuê chưa hoàn toàn thuận lợi. Vì vậy phải tính toán kỹ lợi ích, chi phí của việc đi vay để mua máy móc thiết bị hay đi thuê. Huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu, trái phiếu công ty trên thị trường chứng khoán Một phương thức tạo vốn hết sức nhạy bén và hiệu quả của doanh nghiệp là thông qua TTCK . Nếu trước đây, việc tìm ra nguồn vốn tài trợ cho hoạt động SXKD của DN chủ yếu dựa vào ngân hàng hay tổ chức tín dụng khác, thì nay qua TTCK các DN huy động vốn trung và dài hạn từ các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước bằng cách phát hành cổ phiếu,trái phiếu công ty và bán ra công chúng. Cổ phiếu là một loại chứng khoán ( giấy tờ có giá ) được phát hành dưới dạng chứng chỉ vật chất hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở huữ và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Người nắm giữ cổ phiếu gọi là cổ đông. Thu nhập của cổ phiếu đem lại cho cổ đông thường không cố định, nó phụ thuộc vào tình hình SXKD (lãi, lỗ ) của DN. Cũng như cổ phiếu, trái phiếu công ty cũng là một loại chứng khoán được phát hành để vay vốn dài hạn nhưng xác định nghĩa vụ trả nợ (bao gồm cả vốn và lãi) của công ty cổ phần đối với người sở hữu trái phiếu. Thực chất trái phiếu thể hiện quan hệ chủ nợ, con nợ giữa người phát hành và người đầu tư. Trái chủ là chủ nợ của người đầu tư. Trên cương vị là chủ nợ,trái chủ có quyền đòi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và thời hạn, song không có quyền tham gia vào những vấn đề của bên phát hành. Thực chất, thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường CK, việc huy động vốn được tiến hành trực tiếp với những người có ý định đầu tư bằng cách tạo ra hangf loạt các lựa chọn khác nhau.
- 20/07/2000 TTCK tập trung chính thức của Việt Nam ra đời tại TPHCM đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam , mở ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn mới đầy hiệu quả đối với các DN. Nhưng việc đưa vào vận hành TTCK vừa tạo ra cơ hội, đồng thời cũng là thách thức lớn đối với các DN, các nhà đầu tư , đòi hỏi các chủ thể tham gia phải tư minh đổi mới,phát triển phù hợp với thể chế phức tạp và vô cùng hiện đại này. Để có thể tạo vốn thông qua TTCK, DN phải thỏa mãn các điều kiện sau: - Thứ nhất: Công ty cổ phần là chủ thể duy nhất được phép phát hành cổ phiếu để huy động vốn. Các loại hình doanh nghiệp khác bao gồm DNNN, công ty trách nhiệm hữu hạn ...chỉ được huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu. - Thứ hai : Bất cứ một loại CK nào muốn giao dịch trên sở GDCK đều phải đáp ứng tiêu chuẩn đặt ra và phải được sự phê chuẩn của hội đồng quản trị sở GDCK như: có sổ sách rõ ràng, đạt quy mô tối thiểu về vốn 10 tỷ đồng, hoạt động có lãi trong hai năm gần nhất, 20% vốn cổ phần dược bán cho trên 100 nhà đầu tư bên ngoài DN, cổ đông sáng lập phải nắm giữ 20% vốn cổ phần trong thời gian tối thiểu 3 năm. - Thứ ba: Sau khi CK được chấp nhận niêm yết công ty có nhiệm vụ thường xuyên cung cấp thông tin một cách công khai, nhanh chóng chính xác về tình hình tài chính của mình. - Thứ tư: hàng năm công ty phải nộp một chi phí niêm yết. Căn cứ theo Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán (văn bản pháp lý cao nhất hiện nay), TTGDCK thành phố HCM chỉ tổ chức và quản lý giao dịch các loại cổ phiếu phát hành ra công chúng có đủ tiêu chuẩn và ddược cấp giấy phép niêm yết trên Trung tâm. Để được cấp giấy phép niêm yết, cổ phiếu của công ty phải đủ tiêu chuẩn niêm yết, công ty phải lập hồ sơ theo đúng qui trình mà Thông tư 02/2001/TT-UBCK ngày 28/9/2001 hướng dẫn phát hành cổ phiếu trái phiếu ra công chúng quy định : Bước 1 Tổ chức họp Hộị đồng quản trị để đánh giá tình hình của công ty theo các điều kiện phát hành ra công chúng. Bước 2 Tổ chức họp đại hội đồng cổ đông . Bước 3 Chuẩn bị cho việc phát hành ra công chúng /đăng ký lại để niêm yết .Bước 4 Nộp hồ sơ xin phép phát hành ra công chúng/đăng ký lại để niêm yết. Bước 5 Phân phối chứng khoán (chỉ áp dụng cho trường hợp phát hành ra công chúng để niêm yết). Bước 6 Đăng ký niêm yết với Trung tâm giao dịch chứng khoán.
- Qua các điều kiện trên cho thấy, không phải công ty nào cũn g có đủ tiêu chuẩn để được niêm yết trên SGDCK . Chỉ riêng yêu cầu về lượng vốn tối thiểu đã là rất khó khăn đối với hầu hết các DNVN (90% DNVN là các DNV&N). Tính đến ngày 31/12/2001 Việt Nam có hơn 720 DNNN đã thực hiện cổ phàn hoá và khoảng hơn 1000 CTCP thành lập công ty và luật doanh nghiệp . Trong số đó , chỉ có gần 120 công ty có đủ tiêu chuẩn niêm yết xét về mặt quy mô vốn ( khoảng 100 DNNN được cổ phần hoá và 20 công ty cổ phần thành lập mới). Trong số 120 công ty kể trên chỉ có hơn 40 công ty đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn niêm yết và chỉ có 12 công ty niêm yết cổ phiếu trên TTCK với tổng số vốn diều lệ khoảng 500 tỷ. Phải chăng tiêu chuẩn niêm yết trên TTGDCK là quá cao so với thực trạng của các doanh nghiệp Việt Nam ? Nhưng nếu hạ thấp tiêu chuẩn niêm yết đương nhiên sẽ phải chấp nhận một thị trường cổ phiếu có chất lượng vừa phải đi kèm với tính rủi ro cao hơn, khả năng bảo vệ lợi ích của người đầu tư thấp hơn và rất khó để có thể duy trì tính hiệu quả và ổn định của thị trường. Giải pháp nào để cho các DNV&N có thể huy động vốn thông qua TTCK? Thực tế, trong gần 2 năm qua, hoạt động giao dịch ngoài TTGDCK đối với các loại cổ phiếu của các công ty CP ch ưa niêm yết đã diễn ra khá sôi động vì ngoài những CTCP đã có CK niêm yết trên TTCK tập trung, rất nhiều công ty với những quy mô khác nhau luôn có nhu cầu huy động vốn hoặc là đa dạng hoá nguồn vốn thông qua phát hành CK ra công chúng. Mặt khác,mặc dù CK của các công ty này chưa được niêm yết chính thức trên TTGDCK tập trung nhưng những chủ sở hữu các cổ phiếu này vẫn cố trao đổi mua bán cổ phiếu tuỳ theo mục đích kinh tế riêng của họ. Hoạt động trao đổi tự do này dã tạo cơ hội cho mọi DN có thể thu hút được vốn từ những nguồn nhanf rỗi trong dân cư, mặt khác quan trọng hơn là tạo khả năng lưu thông các cổ phiếu làm linh hoạt các luồng vốn.Tuy nhiên nó bộc lộ những rủi ro cao xuất phát từ tình trạng thiếu thông tin trong giao dịch, dễ xảy ra ép giá, lừa gạt,...Vì vậy nhất thiết phải thành lập một thị trường cho các loại cổ phiếu này(thị trường phi tập trung OTC) bằng các văn bản pháp luật cụ thể. Cho đến nay văn bản pháp luật cao nhất là NĐ48/ 1998ND-CP của chính phủ, sau một thời gian đi vào hoạt động nghị định này đã bộc lộ những hạn chế thiếu sót cần được tu sưả. Hiện nay luật doanh nghiệp không quy định về việc phát hành các cổ phiếu ra công chúng mà do các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán điều chỉnh nhưng tại nghị định 48 chỉ quy định phát hành ra công chúng tại TTGDCK hoặc sở GDCK, do vậy việc phát hành khác thì không biét điều chỉnh theo văn bản pháp lý nào ?
- Một hiện tượng nữa là còn thiếu bình đẳng về thuế trong đầu tư chứng khoán. Thi trường đang tồn tại nghịch lý: Khi các cá nhân đầu tư vào chứng khoán được hưởng ưu đãi miễn thuế thu nhập thì nhà đầu tư chứng khoán là tổ chức lại phải chịu gánh nặng về thuế thu nhập, lên tới 32%, đối với phần lợi nhuận thu từ lãi cổ tức, lãi trái phiếu, chênh lệch mua bán chứng khoán...do đó làm giảm khả năng cung ứng vốn cho các doanh nghiệp .v.v. Thị trường mới ra đời cho nên cung pháp lý chưa thể đầy đủ, đồng bộ và thống nhất nên chưa tạo điều kiện cho việc thu hút vốn của các công ty tham gia niêm yết tuy nhiên qua gần 2 năm đi vào hoạt động thị trường đã có những thành tựu bước đầu: Lượng chứng khoán giao dịch đạt 1090 tỷ VND (Năm 2001 là 997 tỷ) chiếm khoảng 0,7%GDP.Phiên có giá trị cao nhất đạt 30,45 tỷ với 424300 cổ phiếu được khớp lệnh vào ngày 11/6/2001. Qua TTGDCK các công ty tham gia niêm yết đã thu hút được lượng vốn lớn, đảm bảo quá trình SXKD tăng trưởng liên tục,tạo điều kiện để các công ty đầu tư công nghệ phát triển sản xuất như HAP, REE,...Tuy nhiên thị trường trái phiếu công ty vẫn đang ở tình trạng “đông cứng”. Tính đến ngày 29/3/2001 số lượng trái phiếu được giao dịch trên thị trường chiếm tỷ lệ rất thấp so với tổng số giao dịch. Diều này do nhiều nguyên nhân chủ yếu do lãi suất trái phiếu quá thấp, tính thanh khoản kém... Để phát triển khả năng huy động vốn cho các DNVN thông qua TTCK cần phối hợp thực hiện các biện pháp sau: - Hoàn thiện môi trường pháp lý: + Nghị định 48/1998-CP sau một thời gian hoạt động đã có những vấn đề phát sinh không phù hợp với thực tiễn ví dụ như : các tiêu chuẩn về phát hành, niêm yết trên thị trường chứng khoán còn chưa được phân điịnh rỏ ràng, nguyên tắc và cơ chế giao dịch chưa thể hiện rõ, một số chính sách về tài chính và hạch toán kế toán đối với công ty cổ phần chưa đồng bộ Xuất phát từ những yêu cầu đó đòi hỏi phải nghiên cứu , sửa chữa, bổ xung nghị điịnh này cho phù hợp với các luật khác cũng như nghiên cứu các văn bản pháp lụât khác như : QĐ139/TTG, 145/1999/QĐ-TTG... đẻ làm căn cứ cho việc xây dựng các văn bản pháp quy cao hơn như pháp lệnh hoặc luật chứng kháon nhằm tạo ra môi trường, khung pháp lý tốt, an toàn cho những nhười niêm yết. + Cần có những chính sách ưu đãi về thếu đối với các công ty cổ phần cũng như các doanh nghiệp khi tham gia niêm yết cổ phiếu, trái phiếu trên thị tr ường như: tăng thời hạn thuế thu hnập 50%sau 3-5 năm niêm ết điieù này sẽ khiến các công ty tham gia ít lo nhại
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: Một số vấn đề về vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty cầu 75 thuộc Tổng công ty công trình giao giao thông 8 - Bộ Giao Thông Vận tải
53 p | 1056 | 643
-
Luận văn - Vốn lưu động và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty Vật liệu Xây dựng Bưu điện
82 p | 1101 | 482
-
Luận văn: Vốn sản xuất kinh doanh và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh tại Công ty TNHH Bao Bì Đức Lâm
73 p | 387 | 195
-
Luận văn: Vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty Cổ phần Thiết bị thương mại
61 p | 409 | 170
-
Luận văn: Vốn lưu động và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty thương mại và Đầu tư phát triển miền núi Thanh Hoá
46 p | 320 | 106
-
Luận văn " VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TẠI DOANH NGHIỆP "
74 p | 226 | 88
-
Luận văn: Một số vấn đề cơ bản về vốn và kế toán huy động vốn tại chi nhánh NHNN & PTNN Quận Tây Hồ
62 p | 310 | 88
-
LUẬN VĂN: Vốn lưu động và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty TNHH Thương mại Điện tử Hoàng
66 p | 179 | 83
-
LUẬN VĂN: Vốn và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp
82 p | 164 | 73
-
Luận văn: Vốn lưu động và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty Vật liệu Xây dựng Bưu điện
61 p | 165 | 61
-
Luận văn: Vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
72 p | 208 | 52
-
Luận văn: Vốn kinh doanh và các biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức và sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty cổ phần xây dựng thuỷ lợi 3 Nghệ An
78 p | 174 | 43
-
Luận văn:Vốn và các yếu tố cấu thành nên thế mạnh về vốn cho hoạt động dài hạn các doanh nghiệp
74 p | 156 | 29
-
Luận văn: Vốn lưu động và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Vật liệu Xây dựng Bưu điện
82 p | 167 | 24
-
Luận văn: Một số vấn đề vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty cầu 75 thuộc tổng công ty công trình giao thông 8 - Bộ giao thông vận tải
62 p | 116 | 23
-
Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Tài chính: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng Thái Thịnh
63 p | 110 | 19
-
Luận văn:Vốn và các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty Thương mại kỹ thuật và đầu tư Petec
51 p | 96 | 12
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn