
5.
MÃ HÓA VÀ GIẢI MÃ *
_____________________________________________________________________
Stuart Hall
(Đỗ Anh Đức dịch)
Truyền thống nghiên cứu truyền thông đại chúng đã khái niệm hóa qúa trình truyền
thông trong phạm vi chu kỳ hay vòng quay của lưu thông. Mô hình này phù hợp với
một trật tự tuyến tính - nguồn/thông điệp/người tiếp nhận - với sự quan tâm chủ yếu
đến cấp độ trao đổi thông điệp và với sự hiện diện của một khái niệm cấu trúc về
những công đoạn khác nhau với tư cách là một cấu trúc phức tạp của những mối quan
hệ. Tuy nhiên, có thể, hoặc nên, nhìn nhận quá trình này trong phạm vi một cấu trúc
được thiết lập và duy trì thông qua sự ăn khớp của những công đoạn được kết nối
nhưng khác biệt - đó là sản xuất, lưu thông, phân phối/tiêu thụ, tái sản xuất. Điều đó
dẫn đến một sự nhìn nhận quá trình này như là một “cấu trúc phức tạp chủ đạo”, được
duy trì thông qua sự ăn khớp của các hoạt động liên kết, mà mỗi hoạt động có sự khác
biệt riêng và phương thức riêng, hình thức riêng và những điều kiện tồn tại của nó.
Hướng tiếp cận thứ hai này, tương đồng với sự hình thành mô hình sản xuất hàng hóa
mà Marx đã nêu ra trong bộ Tư bản và bộ Bản thảo kinh tế chính trị, có ưu thế trong
việc chỉ ra một cách sâu sắc hơn về sự kéo dài một chu kỳ liên tục của sản xuất-phân
phối-sản xuất thông qua một “sự dịch chuyển các dạng thức”.1 Nó cũng nhấn mạnh
tính riêng biệt của những dạng thức mà qua đó sản phẩm của quá trình này “xuất
hiện” ở mỗi thời điểm, và do đó, nhận diện được kiểu “sản xuất” rời rạc với những
kiểu sản xuất khác trong xã hội của chúng ta và trong hệ thống phương tiện truyền
thông hiện đại.
“Đối tượng” của những nghiên cứu này là ý nghĩa và thông điệp trong dạng thức của
các phương tiện ký hiệu của một kiểu cụ thể, giống như bất kỳ dạng thức nào của
truyền thông và ngôn ngữ, được tổ chức thông qua sự hoạt động của các mã trong
phạm vi chuỗi ngữ cảnh của một ngôn bản. Những cơ cấu, những mối quan hệ và
những hoạt động của sản xuất do đó thể hiện ra, ở một công đoạn nhất định (công
đoạn của sản xuất/lưu thông), trong dạng thức của những phương tiện ký hiệu cấu
thành nên quy luật của “ngôn ngữ”. Nó nằm trong dạng thức rời rạc nơi sự lưu thông
của “sản phẩm”diễn ra. Quá trình này do đó đòi hỏi, ở công đoạn cuối của sản xuất,
những công cụ vật chất - đó là “ý nghĩa” của nó - cũng như hàng loạt những mối quan
hệ xã hội (hoặc quan hệ sản xuất) của nó - sự tổ chức và phối hợp hoạt động trong
phạm vi cơ cấu của các phương tiện truyền thông. Nhưng nó cũng nằm trong dạng
* Trích từ S.Hall, “Mã hóa/Giải mã”, Chương 10, trong Stuar Hall, Dorothy Hobson, Andrew Lowe và Paul
Willis (biên soạn), Văn hóa, Phương tiện truyền thông, Ngôn ngữ (London: Hutchinson, 1980), tr. 128-138; một
đoạn trích từ S.Hall, “Mã hóa và giải mã trong ngôn bản truyền hình”, tạp chí khoa học số 7 (Birmingham:
Trung tâm Nghiên cứu văn hóa đương đại, 1973)
1

thức rời rạc nơi sự lưu thông diễn ra, cũng như sự phân phối của nó đến những công
chúng khác nhau. Khi đã hoàn thành, ngôn bản đó cần phải được chuyển dịch ý nghĩa
- thay đổi dạng thức một lần nữa - thành những thực tiễn xã hội nếu chu kỳ này được
hoàn thành và đạt hiệu quả. Trong trường hợp không có “ý nghĩa” nào được chuyển
dịch, sẽ không thể có “sự tiêu thụ”. Nếu ý nghĩa không được khớp với thực tiễn, nó sẽ
không đạt hiệu quả. Giá trị của hướng tiếp cận này là ở chỗ, trong khi mỗi công đoạn
cần được khớp nối trong một chu kỳ như một chỉnh thể, thì không có công đoạn nào
có thể đảm bảo hoàn toàn cho công đoạn kế tiếp mà nó được khớp nối. Bởi vì mỗi
công đoạn có phương thức riêng biệt và điều kiện tồn tại của nó, nên chúng có thể tạo
nên sự đổ vỡ hoặc đứt gãy của “sự dịch chuyển các dạng thức” mà tính liên tục của sự
dịch chuyển này quyết định xuyên suốt đến dòng chảy các quá trình sản xuất (cụ thể
là, công đoạn “tái sản xuất”).
Do đó, dù không hề muốn giới hạn nghiên cứu đối với “việc chỉ theo đuổi những chỉ
dẫn mà phát sinh từ phương pháp phân tích nội dung”2, chúng ta phải nhận ra rằng,
dạng thức rời rạc của thông điệp có một vị trí đặc ân trong quá trình trao đổi truyền
thông (từ quan điểm về chu kỳ), và phải thấy rằng, những công đoạn của “sự mã hóa”
và “giải mã”, mặc dù chỉ có “tính tự thân tương đối” trong mối quan hệ với tổng thể
quá trình truyền thông, là những công đoạn quyết định. Một sự kiện có tính lịch sử
“dạng thô” không thể, trong dạng thức đó, được truyền phát bởi, chẳng hạn như, bản
tin truyền hình. Các sự kiện chỉ có thể được ký hiệu hóa trong những dạng thức nghe-
nhìn của ngôn bản truyền hình. Trong công đoạn mà một sự kiện lịch sử chuyển thành
dạng ký hiệu của ngôn bản, nó là chủ thể của tất cả những “quy tắc” định dạng phức
tạp mà qua đó ngôn ngữ được ký hiệu. Để làm cho nó có tính nghịch lý, sự kiện đó
phải trở thành một “câu chuyện” trước khi nó trở thành một sự kiện được truyền
thông. Trong công đoạn đó, những quy tắc phụ về định dạng ngôn bản có vai trò “nổi
trội”, tất nhiên, không làm giảm mức độ quan trọng của thực trạng mà sự kiện đó
được ký hiệu hóa, cũng như những mối quan hệ xã hội mà những quy tắc được thiết
lập để định hướng công việc, hoặc những hệ quả chính trị, xã hội của sự kiện được ký
hiệu hóa theo cách này. “Định dạng thông điệp” là sự “định dạng bên ngoài” cần thiết
của sự kiện trong quá trình chuyển dịch từ nguồn đến người tiếp nhận. Do đó, sự hoán
đổi trong và ngoài công đoạn “định dạng thông điệp” (hay phương thức trao đổi ký
hiệu) không phải là một “công đoạn” ngẫu nhiên mà chúng ta có thể tiếp nhận hay bỏ
qua một cách tùy ý. “Định dạng thông điệp” là một công đoạn quyết định; mặc dù, ở
một cấp độ khác, nó bao hàm những công đoạn bề mặt của hệ thống truyền thông và
đòi hỏi, ở một cấp độ khác, phải được hòa nhập vào mối quan hệ xã hội của tổng thể
quá trình truyền thông, mà trong đó nó chỉ chiếm một phần định dạng.
Từ quan điểm chung này, chúng ta có thể khái quát hóa đặc trưng của quá trình truyền
thông truyền hình như sau đây. Những cơ cấu thiết chế của phát thanh truyền hình,
trong môi trường thực tiễn và trong mạng lưới sản xuất, trong những mối quan hệ về
tổ chức và hạ tầng kỹ thuật, đều được đặt nhiệm vụ sản xuất chương trình. Sử dụng
phép suy luận của bộ Tư bản, đó là một “quá trình lao động” trong một phương thức
rời rạc. Ở đây, sự sản xuất tức là xây dựng nên những thông điệp. Do đó, một mặt,
2

chu kỳ bắt đầu từ đây. Tất nhiên, quá trình sản xuất không thể thiếu phương diện “rời
rạc” của nó: nó cũng được lên khung toàn bộ bởi ý nghĩa và những ý tưởng: tri thức-
được-sử dụng liên quan đến thói quen của sản xuất, những kỹ năng kỹ thuật được
hình thành từ lâu, những tư tưởng chuyên môn, tri thức về thiết chế, những quan niệm
và giả định, những giả định về khán thính giả, v.v…, đã xây dựng khung cho kết cấu
chương trình thông qua các cơ cấu sản xuất. Hơn nữa, mặc dù các cơ cấu sản xuất của
truyền hình khởi phát từ ngôn bản của loại hình này, nhưng chúng không tạo thành
một hệ thống khép kín. Chúng đưa ra các đề tài, những cách giải quyết, những chương
trình nghị sự, các sự kiện, nhân lực, những hình ảnh về khán giả, “những quan niệm
về tình huống” từ những nguồn khác và những mô hình rời rạc của cấu trúc chính trị
và văn hóa-xã hội rộng khắp mà chúng là một phần khác biệt trong đó. Philip Elliott
đã trình bày quan điểm này một cách súc tích, trong một khuôn khổ mang tính truyền
thống hơn, ở cuộc tranh luận của ông về cách thức mà khán giả vừa là “nguồn” vừa là
“người tiếp nhận” của thông điệp truyền hình. Do đó, trong sự vay mượn thuật ngữ
của Marx, có thể nói, sự lưu thông và sự tiếp nhận thực sự là những “công đoạn”
trong quá trình truyền thông của truyền hình và được tái sáp nhập, thông qua một số
“phản hồi” được cơ cấu và xuyên tạc, vào bản thân quá trình sản xuất. Sự tiêu thụ hay
sự tiếp nhận thông điệp truyền hình do đó cũng chính là một “công đoạn” của quá
trình sản xuất hiểu theo nghĩa rộng hơn của nó, mặc dù sự tiếp nhận có tính “chủ đạo”
bởi nó là “điểm đến đối với quá trình hiện thực hóa” của thông điệp. Sự sản xuất và
sự tiếp nhận của thông điệp truyền hình vì vậy không đồng nhất, nhưng chúng có liên
quan: chúng là những công đoạn khác biệt trong tổng thể được định hình bởi những
mối quan hệ xã hội của toàn bộ quá trình truyền thông.
chương trình như là
một ngôn bản “có ý nghĩa”
mã hóa giải mã
cấu trúc cấu trúc
ý nghĩa 1 ý nghĩa 2
khuôn khổ khuôn khổ
của tri thức của tri thức
--------------------- ---------------------
-
quan hệ sản xuất quan hệ sản xuất
--------------------- ---------------------
-
hạ tầng kỹ thuật hạ tầng kỹ thuật
3

Tuy nhiên, ở một phương diện nhất định, cấu trúc phát thanh truyền hình cần phải sản
xuất ra những thông điệp được mã hóa trong dạng thức của một ngôn bản có ý nghĩa.
Mối quan hệ thiết chế-xã hội của sản xuất cần phải tuân thủ những quy tắc rời rạc của
ngôn ngữ vì sản phẩm truyền hình cần được “hiện thực hóa”. Điều này dẫn đến một
công đoạn khác xa hơn, trong đó những quy tắc định dạng của ngôn bản và ngôn ngữ
có vai trò chủ đạo. Trước khi thông điệp này có thể có được một hiệu quả bất kỳ, thỏa
mãn “nhu cầu” hoặc được đưa vào “vận dụng”, nó trước hết phải phù hợp với tư cách
một ngôn bản có ý nghĩa và được giải mã một cách có ý nghĩa. Chính những ý nghĩa
được giải mã này “có một hiệu quả”, một sự ảnh hưởng, giải trí, chỉ dẫn hay thuyết
phục, với những kết quả về tư tưởng và hành vi, về tình cảm, nhận thức, và quan niệm
một cách phức hợp. Trong một công đoạn “quyết định”, cấu trúc này sử dụng một mã
hóa và tạo ra một “thông điệp”: ở một công đoạn quyết định khác, “thông điệp”, nhờ
việc giải mã nó, sẽ chuyển vào trong cấu trúc của môi trường thực tiến xã hội. Hiên
nay chúng ta hoàn toàn nhận thức rằng việc thông điệp đi vào môi trường thực tiễn
tiếp nhận của công chúng và sự “vận dụng” không thể chỉ được hiểu đơn thuần trong
thuật ngữ về hành vi. Những quá trình điển hình được nhận diện trong nghiên cứu của
chủ nghĩa thực chứng về những nhân tố tách biệt - hiệu quả, sự vận dụng, “sự thỏa
mãn” - được đóng khung bởi cơ cấu của sự hiểu, cũng như được sản xuất bởi những
mối quan hệ kinh tế và xã hội, những mối quan hệ định hình sự “hiện thực hóa” của
chúng ở điểm cuối của sự tiếp nhận trong dây chuyền sản xuất và cho phép những ý
nghĩa được ký hiệu hóa trong ngôn bản có thể truyền tải vào môi trường thực tiễn
hoặc sự nhận thức (để tiếp nhận những giá trị sử dụng mang tính xã hội và hiệu quả
về chính trị).
Rõ ràng, cái chúng ta đã đặt tên trong biểu đồ là “cấu trúc ý nghĩa 1” và “cấu trúc ý
nghĩa 2” có thể không hoàn toàn giống nhau. Chúng không cấu thành nên một “sự
nhận diện trung gian”. Các loại mã của quá trình mã hóa và giải mã có thể không đối
xứng hoàn toàn. Mức độ đối xứng - cụ thể là mức độ của “sự hiểu” hoặc “hiểu lầm”
trong việc trao đổi truyền thông - phụ thuộc vào mức độ đối xứng/không đối xứng
(những mối quan hệ tương đồng) được thiết lập giữa vị trí của “tư cách cá nhân hóa”,
người mã hóa-nhà sản xuất, người giải mã-người tiếp nhận. Nhưng điều này cũng phụ
thuộc vào mức độ nhận diện/không-nhận diện được giữa các mã truyền đi một cách
hoàn hảo hay không hoàn hảo, ngắt quãng hay xuyên tạc một cách hệ thống những gì
được truyền tải. Sự thiếu cân đối giữa các mã này có liên quan đến sự khác biệt về cấu
trúc của mối quan hệ và vị trí giữa nhà sản xuất phát thanh truyền hình và khán thính
giả, nhưng nó cũng liên quan đến sự không đối xứng giữa các mã của “nguồn” và
“người tiếp nhận” ở công đoạn biến đổi vào trong và ra ngoài dạng thức rời rạc. Cái
được gọi là “sự bóp méo, xuyên tạc” hoặc “hiểu lầm” hoàn toàn nảy sinh từ sự thiếu
tương đồng giữa hai mặt của sự trao đổi truyền thông. Một lần nữa, điều đó đã định
nghĩa cho “tính tự thân tương đối”, ngoại trừ “tính quyết định”, của đầu vào và đầu ra
của thông điệp trong những công đoạn rời rạc của nó.
4

Sự áp dụng môt hình thô sơ này đã bắt đầu biến đổi cách hiểu của chúng ta về một
thuật ngữ cũ hơn, “nội dung” truyền hình. Chúng ta vừa bắt đầu nhìn nhận xem liệu
nó có thể thay đổi cách hiểu của chúng ta về sự tiếp nhận của khán giả như thế nào,
cũng như sự “nhận hiểu thông tin” và phản hồi của họ. Điểm khởi đầu và điểm kết đã
được đề cập trong nghiên cứu truyền thông trước đây, vì vậy chúng ta cần phải cẩn
trọng. Nhưng dường như có một cơ sở cho việc suy nghĩ về một loại nào đó mởi mẻ,
mà một cụm từ mới và thú vị trong cái gọi là nghiên cứu khán giả đã mở ra. Ở một
điểm kết bất kỳ của chu kỳ truyền thông, việc áp dụng môt hình ký hiệu học cam kết
xóa đi những rơi rớt của chủ nghĩa hành vi đã đeo đẳng nghiên cứu phương tiện
truyền thông đại chúng trong suốt một thời gian dài, đặc biệt trong hướng tiếp cận về
nội dung. Mặc dù, chúng ta biết chương trình truyền hình không phải là một nguồn
của hành vi, nhưng giống cái chỏm dính liền trên đầu gối, các nhà nghiên cứu theo
truyền thống dường như hoàn toàn không thể khái niệm hóa quá trình truyền thông
mà không sa đà vào một vài phương diện của chủ nghĩa hành vi thiển cận. Chúng ta
biết, như Gerbner đã nhận định, sự biểu đạt của bạo lực trên truyền hình “không phải
là bạo lực mà là thông điệp về bạo lực”3: nhưng chúng ta vẫn tiếp tục nghiên cứu vấn
đề về bạo lực, cứ như là chúng ta không thể hiểu được sư phân biệt có tính nhận thức
luận này.
Ký hiệu truyền hình là một kiểu ký hiệu phức tạp. Bản thân nó được cấu thành bởi sự
kết hợp giữa hai kiểu phương tiện biểu đạt, nghe và nhìn. Hơn nữa, nó là một ký hiệu
mang tính biểu đạt, theo hệ thuật ngữ của Peirce, bởi vì “nó sở hữu một số đặc điểm
của cái đươc biểu đạt”.4 Đây là quan điểm dẫn đến một sự hiểu lầm tai hại và mang
đến một loạt những tranh cãi gay gắt trong nghiên cứu về ngôn ngữ hình ảnh. Bởi vì
phương tiện biểu đạt hình ảnh chuyển đổi thế giới 3 chiều thành mặt phẳng hai chiều,
nên nó đương nhiên không thể, là vật ám chỉ hay ý niệm cho cái được ký hiệu. Con
chó trong phim có thể sủa gâu gâu nhưng không thể cắn! Hiện thực tồn tại bên ngoài
ngôn ngữ, nhưng nó được chuyển tải trung gian bởi và qua ngôn ngữ: và điều chúng
ta có thể biết, có thể nói phải được sản xuất trong và qua phương tiện biểu đạt. “Tri
thức” rời rạc là sản phẩm không phải của sự biểu đạt rõ ràng về cái “hiện thực” trong
ngôn ngữ, mà là của sự liên tưởng của ngôn ngữ trong những điều kiện và những mối
quan hệ hiện thực. Do đó, không có phương tiện biểu đạt nào dễ hiểu mà không có sự
tác động của một mã hóa. Những ký hiệu mang tính biểu đạt do đó cũng là những ký
hiệu mã hóa - cho dù những mã ở đây hoạt động khác với những kiểu ký hiệu khác.
Không có cấp độ KHÔNG trong ngôn ngữ. Tính tự nhiên và “tính hiện thực” - mức
độ trung thực rõ ràng của sự biểu đạt đối với một sự vật hoặc ý niệm được biểu đạt -
là kết quả, là hiệu quả của một sự liên tưởng cụ thể nhất định của ngôn ngữ về cái
“hiện thực”. Đó là kết quả của những kinh nghiệm rời rạc.
Tất nhiên, những mã nhất định có thể được phân bố rộng rãi trong một cộng đồng
ngôn ngữ hoặc văn hóa cụ thể, và có thể được tiếp thu ở một giai đoạn rất sớm, mà ở
đó chúng có vẻ như không phải được xây dựng - hiệu quả của một sự liên tưởng giữa
ký hiệu và sự ngụ ý - mà là để được trao nhận một cách “tự nhiên”. Những ký hiệu
5

