Mặt nạ trong Tuồng cổ
Viết về một kỷ vật không quên trong cuộc đời mình, GS.
Hoàng Châu (nguyên Tổng Thư đầu tiên Hội Nghệ Sân
khấu Việt Nam) nhắc ngay đến mặt nạ Tuồng. Chiếc mặt nạ hóa
trang đã mang tải một vẻ đẹp độc đáo của bộ môn nghệ thuật sân
khấu truyền thống này…
* Bắt nguồn từ đâu?
Theo nhà nghiên cứu Hồ Đắc Bích trong giáo trình Nghệ thuật hát
Tuồng, bước ban đầu diễn viên ng mặt nạ "đeo" thuở ấy, người
khả năng biểu diễn không nhiều, một diễn viên phải sắm nhiều vai, vậy,
họ dùng mặt nạ đeo để thay đổi vai cho dễ dàng. Nhưng mặt nạ đã
mặt trong nghệ thuật Tuồng từ bao giờ thì chẳng biết.
Tuy nhiên, đọc i viết: Điệu múa Chàm lưu lạc trên đất Nhật của
nhà nghiên cứu Ngọc Liễn, chúng tôi để ý thấy mấy điểm đáng chú ý.
Trước hết, nhà nghiên cứu Ngọc Liễn khẳng định: sự hình thành sân
khấu hát bội nh Định sau này vốn dính u với kịch Lâm p. Bên cạnh
đó, ba bức ảnh in kèm bài viết này giới thiệu về điệu múa hát tên La
Lăng Vương của Chàm truyền sang Nhật Bản hiện lưu giữ tại Bảo tàng
Dân tộc học thành phố Osaka (Nhật Bản) thì diễn viên khi múa mang
mặt nạ.
Vậy phải chăng, mặt nạ trong nghệ thuật Tuồng đã bắt nguồn từ
mặt nạ trong kịch nhà chùa của Chàm? Trao đổi với chúng tôi về vấn đề
này, nhà nghiên cứu Ngọc Liễn "bật mí" rằng đây cũng một vấn đề
đang được ông để tâm nghiên cứu.
Đến hóa trang kiểu mặt nạ
Dẫu quan điểm đó đúng hay sai thì mặt nạ đã mặt trên sân khấu
hát bội tlâu lắm. Theo NSƯT Hòa Bình, ngay tthời Đào Tấn, đã không
còn diễn mặt nạ. Người ta thay mặt nạ đeo bằng mặt vẽ, mới đây,
người ta dùng cách hóa trang để chân thật hơn, gần cuộc sống n. u
sắc dùng để hóa trang kiểu mặt nạ phổ biến trắng hồng, màu đỏ
màu mốc.
Cố NSND Nguyễn Lai đã nghiên cứu, đúc kết ra một số nh ảnh
mẫu hóa trang thành các loại mặt: mặt trắng (diện mạo đẹp đẽ, tính cách
trầm tĩnh), mặt đỏ (người trí dũng, chững chạc), mặt rằn (diện mạo xấu
xí, tính cách nóng nảy), mặt tròng xéo đen (tướng phản, hai bên thái
dương vết đỏ người nóng nảy, nếu tròng xéo đen nền đỏ thắm hay
xanh người dũng), mặt mốc (nịnh), mặt lưỡi cày (người đoản hậu,
nhát gan).
Theo nhà nghiên cứu Mịch Quang, hai loại mặt nạ đáng lưu ý
nhất mặt trắng mặt rằn. Sáng tạo ra hai loại mặt này, nghệ thuật
Tuồng đã cý đến cái đẹp của nh động chứ không phải cái đẹp diện
mạo. Bởi mặt trắng phe trung như Địch Thanh, Hứa Hớn Văn, thì cũng
có mặt trắng phe nịnh như Lữ Bố, Thông; có vai mặt rằn trung như Lưu
Khánh, Trương Phi, thì cũng mặt rằn nịnh như Tạ Ôn Đình, Xích Bảo
Như vậy, chỉ riêng trong hóa trang thôi, đã thể hiện cụ thể phạm trù cái
đẹp trong mỹ học dân tộc.
Dẫu a trang theo kiểu mặt nào thì một điểm chung khuôn
mặt của những nhân vật này được bôi màu, riêng vùng sát xung quanh
mắt được để tự nhiên. nhà nghiên cứu cho đây là dấu vết của việc đeo
mặt nạ ngày trước, còn người lại giải thích, trong hát bội, con mắt của
diễn viên cũng phải tích cực tham gia diễn xuất nên phải chừa trống như
thế mới thấy được tinh thần của đôi mắt.
* Một nét đặc sắc của Tuồng cổ
Diễn viên tuồng xưa nay phải tự a trang để ra biểu diễn chứ
không họa hóa trang. Bởi vậy, hóa trang kiểu mặt nạ đòi hỏi người
diễn viên trở thành một họa n dạng do đó, hóa trang cũng mang
theo cá tính của diễn viên. Khi hóa trang xong, diễn viên bước ra sân khấu
thì khán giả biết ngay vai trung hay nịnh. Đây cũng một biểu hiện
nét của tính ước lệ, tượng trưng và cách điệu cao của nghệ thuật Tuồng.