Mở cửa cho quỹ m
UBCKNN cho thy quỹ mở là loi hình quỹ rất phổ biến trên thế gii: tính
đến cuối 2009 trên toàn cầu có 65.735 quỹ mở với mức vn qun lý tới 22,9
ngàn tỉ USD. Tại VN hiện có 22 quỹ đầu tư đang hoạt động, trong đó có 5
quỹ đại chúng và 17 quỹ thành viên nhưng chưa có quỹ mnào dù Luật CK
đã ghi nhn loại hình qu này.
Ngày 18.6, UBCKNN đã tchức bui hội thảo lấy ý kiến đóng góp về pháp
lý dọn đường cho việc thành lập quỹ mở trên TTCK Việt Nam. Nhiều ý kiến
nhìn nhận việc cho ra đời quỹ mở sẽ thi một luồng sinh k mới cho thị
trường.
Quỹ mở là một loại hình quỹ khác căn bản vi dạng quỹ đóng như VF1,
VF4 đang niêm yết trên thị trường hin nay. Cùng là quỹ đầu tư công chúng
(chào bánng khai chứng chỉ quỹ cho NĐT) nhưng quỹ mở được phép
mua lại chính chứng chỉ quỹ của mình theo yêu cu của NĐT.
Khác vi quỹ đóng, NĐT muốn thoái vn khi quỹ thì cách duy nhất là bán
li trên th trường thứ cấp, chẳng hnn ra chứng chỉ quỹ VFMVF1 trên
sàn HoSE. Vi quỹ mở, NĐT có thyêu cu quỹ mua lại chứng chỉ trực tiếp
mà không giao dch trên thị trường thứ cấp và qu phải thực hin yêu cu đó
NĐT không chịu rủi ro thanh khoản.
Một khác biệt quan trọng khác mà c NĐT lẫn Cty quản quỹ “thích” loại
hình qumở là việc định giá được tiến hành trên cơ sở giá trị tài sản ròng
(NAV). Các Cty quản lý quỹ như VFM đangđau đầu” vì hiện tượng định
giá của thị trường vi chứng chỉ quỹ thấp hơn nhiều NAV. Chẳng hạn, quỹ
VF4 với chứng chỉ VFMVF4 đang niêm yết tại HoSE chỉ được giao dịch
hàng ngày với giá khoảng 7.400đ/chứng chỉ trong khi mức NAV mi nhất là
10.870đ. Quỹ VF1 có NAV cho mỗi chứng chỉ quỹ là 24.027đ, trong khi
VFMVF1 chỉ được giao dịch có 11.900đ/chứng chỉ.
Việc thị trường định giá thấp chứng chỉ quỹ so với NAV khiến cả NĐT góp
vốn lẫn tổ chức qun quỹ chịu thit. Chng hn, NĐT góp vn ban đầu
với VF4 muốn thi vn bằng cách bán trên sàn s chịu lỗ dù giá trị thực ca
quỹ vẫn cao hơn giá vn ban đầu. Với Cty quản quỹ, nếu nhìn vào giá th
trường hng ngày ca chứng chỉ quỹ thì dường như quỹ đầu tư rất kém hiu
quả và Cty khó có thể huy động thêm vn.
Việc cho ra đời quỹ mở, mức NAV của quỹ sẽ được nhìn nhận đúng hơn.
Khi NĐT yêu cầu quỹ mua lại chứng chỉ, Cty quản quỹ và NH giám sát s
phối hợp tính toán NAV của mỗi đơn vị quỹ để định giá mua. Như vậy,
NĐT có thể bán được chứng chỉ quỹ bằng với giá tr thực có của quỹ tại thời
điểm rút vn.
Theo đại diện Cty qun lý quỹ SSI, thời đim này các quỹ đang gặp nhiều
khó khăn trong việc huy động vốn mới. Vic cho phép thành lập quỹ mhy
vọng sẽ đem lại sức sống mi cho TTCK.
Đại diện này cho rng, một số quy định về điu kiện thành lập quỹ còn mơ
hồ, chng hạn nhân sự phải có tối thiểu hai người có kinh nghiệm quản lý
quỹ, qun danh mục đầu tư hiu quả. Những yếu tố định tính như vy sẽ
rất khó xác định. Mt svn đề kỹ thuật như thời gian thực hiện đóng tin
mua chứng chỉ quỹ kéo dài tới 3 tháng, trong khi tin “nm chết” trong tài
khoản phong tỏa với lãi suất không k hạn là không kinh tế, đặc biệt nếu quỹ
ln tới vài ngàn t đồng.
Đại diện Cty quản lý quỹ VFM kiến nghị xem xét lại quyền hủy ngang hợp
đồng mua chứng chỉ quỹ của NĐT, nhưng Cty quản lý quỹ li phi chịu chi
phí liên quan. Theo đại din này, sau khi NĐT nghiên cứu và quyết định góp
vốn vào quỹ thì vic hủy ngang không phải xut phát từ Cty quản quỹ mà
NĐT phải chịu các phí tổn liên quan đến quyết định của mình.
Chẳng hạn một đối thủ muốn chơi Cty quản lý quỹ, họ có thlợi dụng
điều này để gây khó. Họ có thể cho người đến đăng ký mua khối lượng lớn
nhưng sát ngày đóng quỹ li hủy ngang tn bộ. Cty quản lý quỹ vừa tốn
phí, vừa không xoay xở kp khối lượng bán cần thiết”.
Một số đại din khác đến từ CTCK và ngân hàng đầu tư cũng đóng góp các
ý kiến vmặt k thuật. Tiếp thu, đại din UBCKNN cho biết dự thảo đang
trong quá trình hoàn thiện và scó nhiu sửa đổi. Tuy nhiên, đim nổi bật
của dự thảo lần này là đưa vào rất nhiều các quy định mang tính thông lệ của
quốc tế để phù hợp trong quá trình hi nhập.