
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế
Tập 25, Số 1D (2024)
197
MÔ HÌNH VÀ MÔ THỨC BẢO TỒN BỀN VỮNG DI SẢN ĐÔ THỊ
Lê Nguyên Phương*, Lê Hoàng Phương
Đại học Cincinnati, Ohio, Hoa Kỳ
*Email: pln@mqlpau.com.vn
Ngày nhận bài: 21/4/2024; ngày hoàn thành phản biện: 11/7/2024; ngày duyệt đăng: 24/7/2024
TÓM TẮT
Bài viết này xem xét các mô hình ứng xử với di sản và các mô thức tổ chức không
gian bảo tồn di sản tại Việt Nam và trên thế giới. Kết quả nghiên cứu cho thấy có ba
mô hình ứng xử chính: Thôn tính di sản, cạnh tranh di sản và cộng sinh di sản. Trong
đó, mô hình cộng sinh di sản được xem là hiệu quả nhất để dung hòa giữa bảo tồn
và phát triển. Mô hình này tổ chức không gian đô thị thành các khu vực chuyên biệt
như khu lịch sử trung tâm, khu du lịch trung tâm và khu thương mại trung tâm. Bài
viết cũng giới thiệu các mô thức tổ chức không gian di sản và cộng đồng dân cư,
trong đó nổi bật là mô thức cộng đồng chung sống với vai trò chủ nhân của cộng
đồng địa phương trong bảo tồn di sản. Ngoài ra, các đặc trưng của “đô thị di sản”
cũng được đề xuất và một số đồ án quy hoạch tại các đô thị di sản tiêu biểu tại Việt
Nam dựa trên mô hình cộng sinh di sản và mô thức cộng đồng chung sống được đề
cập.
Từ khóa: Cộng sinh di sản, cộng đồng chủ nhân, đô thị di sản, kinh tế di sản, quy
hoạch di sản.
1. MỞ ĐẦU
Quan điểm đồng nhất các khu di sản với các di tích lịch sử, khảo cổ hoặc kiến
trúc, nghệ thuật đã trở thành một tiêu chuẩn phổ biến trong thời gian dài. Mà từ đó, dẫn
tới giải pháp bảo tồn chủ yếu là khoanh vùng bảo vệ “cứng” để bảo quản, tu bổ, phục
hồi, “đóng băng” di sản trong trạng thái hiện hữu1, ngăn chặn sự biến đổi do yếu tố thời
gian hoặc con người. Mặc dù giúp bảo vệ di sản khỏi sự xuống cấp và mất mát, nhưng
cách tiếp cận này có thể khiến di sản không được nhận diện một cách toàn vẹn, trở nên
xa rời với bản sắc và đời sống của cộng đồng, cũng như khiến di sản bị coi thành trở ngại
1 Phương pháp bảo tồn phổ biến hiện nay tại Việt Nam và một số nước khác trên thế giới, khoanh
vùng khu vực bảo vệ đúng theo quy định mà bỏ qua các yếu tố như vùng đệm, vùng phát huy
giá trị,… từ đó sẽ bảo vệ di sản một cách thụ động, cô lập và hạn chế khả năng phát triển.

Mô hình và mô thức bảo tồn bền vững di sản đô thị
198
cho sự phát triển kinh tế - xã hội hiện đại. Việc bảo tồn di sản trở thành đặc quyền và
nghĩa vụ của nhà nước, các cấp chính quyền và các chuyên gia; dân cư và công chúng
hoàn toàn đứng ngoài, thậm chí trở thành chướng ngại.
Vì những hạn chế đó, tập quán này đang trở nên lỗi thời và dần được thay thế
bằng quan điểm nhìn nhận di sản trong một bối cảnh tổng thể, đưa di sản trở về với
cộng đồng và mang lại lợi ích cho cộng đồng, như tinh thần của UNESCO: “Các cộng
đồng chủ nhân và dân cư bản địa phải được tham gia lập quy hoạch cho bảo tồn và du lịch” và
“Hoạt động du lịch và bảo tồn phải có lợi cho cộng đồng chủ nhân” (Công ước quốc tế về du
lịch văn hoá ICOMOS, 1999). Trước đó, UNESCO đã đưa ra các khái niệm Cảnh quan
Văn hóa vào năm 1992, cũng như điều chỉnh và sửa đổi các tiêu chí về Giá trị Nổi bật
Toàn cầu của di sản văn hóa thế giới theo hướng ngày càng hướng đến các truyền thống
văn hoá và các di sản “sống” (living heritage).
Đồng thời với đó, quan điểm hiện nay của UNESCO là “có thể tạo nhiều hơn một
vùng đệm cho một di sản để tăng cường tính toàn vẹn và quản lý. Ví dụ, ranh giới của một khu
vực để bảo tồn các điểm nhìn và bối cảnh quan trọng của khu vực đô thị có thể khác với ranh giới
cần thiết để quản lý các tác động giao thông hoặc áp lực của du khách” và kiến nghị về sự hữu
ích của “một khu vực ảnh hưởng (an area of influence) nằm bên ngoài vùng lõi di sản và bất
kỳ vùng đệm nào”/ Trích từ Báo cáo 25 - Di sản thế giới và vùng đệm (Hội nghị Chuyên
gia UNESCO, Davos, Thụy Sĩ 2008).
Theo những tôn chỉ đó, ở mọi cấp độ (không chỉ đối với những di sản có tầm ảnh
hưởng lớn, các đô thị di sản), quy hoạch đều cần đề xuất những giải pháp có thể tạo ra,
chuyển hóa những tài nguyên sản nghiệp văn hóa trở thành động lực phát triển kinh tế,
tác động tích cực trực tiếp và gián tiếp đến các ngành khác, đảm bảo kết dư tài chính,
đồng thời phải mở rộng khu vực nghiên cứu, những khu vực ảnh hưởng và những khu
vực tương tác phát triển để đưa ra những định hướng về thiết kế đô thị, thiết kế cảnh
quan để bảo tồn cảnh quan văn hóa của di tích, tạo ra nguồn sinh kế cho người dân địa
phương, giải phóng những nguồn lực xã hội, tạo ra tâm lý tích cực để cộng đồng tự giác
bảo tồn di tích cùng các giá trị di sản vật thể và phi vật thể.
2. CÁC MÔ HÌNH ỨNG XỬ, BẢO TỒN DI SẢN TẠI VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ
GIỚI
Trong những thập niên gần đây, cách tiếp cận bảo tồn di sản trên thế giới đã có
nhiều thay đổi, từ việc chú trọng bảo tồn nguyên trạng sang xu hướng kết hợp bảo tồn
với phát triển bền vững. UNESCO đã nhận thức được vấn đề này và đưa ra những chính
sách tích hợp quan điểm phát triển bền vững với bảo tồn di sản (UNESCO, 2015). Tại
một số quốc gia, di sản bị xem nhẹ trước áp lực phát triển kinh tế, dẫn đến tình trạng di
sản bị xâm lấn hoặc phá hủy. Ở nơi khác, di sản được bảo tồn nghiêm ngặt, tạo ra sự

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế
Tập 25, Số 1D (2024)
199
tách biệt giữa khu vực di sản và phần còn lại của đô thị. Tuy nhiên, cũng có những mô
hình thành công trong việc hài hòa giữa bảo tồn di sản và phát triển đô thị. Từ những
nghiên cứu về các mô hình di sản tại Việt Nam và trên thế giới, chúng tôi nhận định 3
mô hình ứng xử với di sản cơ bản thường thấy gồm (1) Mô hình thôn tính di sản; (2) Mô
hình cạnh tranh di sản; và (3) Mô hình cộng sinh di sản.
MÔ HÌNH A: THÔN TÍNH DI SẢN
Mô hình này xuất phát từ việc phát triển và xây dựng các dự án cùng vị trí hoặc
tranh đoạt không gian với di sản. Tình huống này xuất hiện khi địa điểm đó quá đắc địa,
hoặc là nhu cầu phát triển bành trướng đến mức không thỏa hiệp được với bảo tồn, hoặc
là ý thức và luật lệ quy định về bảo tồn còn kém. Kết quả là di sản bị phá hủy hoàn toàn
hoặc mất đi yếu tố nguyên gốc, cốt lõi2. Tuy mô hình này đem lại lợi ích ngắn hạn cho
sự phát triển kinh tế và hạ tầng, nhưng lại gây tổn hại nghiêm trọng đến di sản và mất
mát những yếu tố vô cùng quý giá về lịch sử, văn hóa và kinh tế ở quy mô lớn hơn nhiều
lần so với nguồn lợi ngắn hạn.
H: Không gian có nhu cầu bảo tồn di sản; B:
Không gian có nhu cầu phát triển mới; T:
Không gian có nhu cầu hoạt động dịch vụ du
lịch; HO: Khu vực dân cư truyền thống
Hình 1. Mô hình A - Thôn tính di sản. Nguồn: Liên danh MQL và Các đối tác, 2023
Tình trạng này thường xảy ra khi nhu cầu phát triển được coi là ưu tiên số một
và việc bảo tồn di sản chỉ được thực hiện từ lòng hảo tâm của một bộ phận trong cộng
đồng. Mô hình này xuất hiện rõ ràng ở các nước đang có nhu cầu phát triển mạnh mẽ,
đề cao sự cạnh tranh về kinh tế xã hội và phát triển hiện đại như các trường hợp Đập
Tam Hiệp (Trung Quốc); Suối Cheonggyechen (Hàn Quốc); Nhà ga Pennsylvania (Hoa
Kỳ).
Đập Tam Hiệp ở Trung Quốc là công trình thủy điện lớn nhất thế giới. Con đập
đã làm ngập hơn 100 thị trấn, hàng nghìn địa điểm khảo cổ và khiến hơn 1,3 triệu người
phải di dời. Tháng 6 năm 2000, Ủy ban Xây dựng Dự án Tam Hiệp của Hội đồng Nhà
nước Trung Quốc đã phê duyệt một chiến dịch cứu hộ quy mô lớn (khoảng 125 triệu
2 Ở trường hợp ngược lại, việc khoanh vùng “cứng” để bảo tồn các di sản cũng có thể chiếm hữu
không gian dẫn đến bóp nghẹt phát triển.

Mô hình và mô thức bảo tồn bền vững di sản đô thị
200
USD) để tài trợ cho Chương trình Cứu hộ Di tích Tam Hiệp. Những khám phá khảo cổ
học đã lần đầu tiên cho thấy rằng khu vực Tam Hiệp nên được công nhận là cái nôi của
nền văn minh Trung Quốc.
Bất chấp các nỗ lực, vô số dữ liệu cũng như bối cảnh khảo cổ đã bị mất. Sun Hua,
một nhà khảo cổ học của Đại học Bắc Kinh nói: “phải mất 500 năm để tìm được hết bảo
vật khảo cổ ở Tam Hiệp” (L. See, 2003). Cướp bóc cũng là một vấn đề lớn, nhiều cổ vật
từ khu vực Tam Hiệp đã được rao bán lén lút. Năm 2020, lũ lụt nghiêm trọng xảy ra ở
cả trên và dưới đập Tam Hiệp, bao gồm cả Phượng Hoàng cổ trấn nằm ở thượng nguồn.
Hình 2: Phượng Hoàng cổ trấn chìm trong biển lũ. Ảnh: Taiwan News, 2020.
Suối Cheonggyechen là một dòng suối cổ ở Hàn Quốc từ thời Joseon (1392 - 1897).
Suối bị lấp để xây đường cao tốc dài 5,6km vào năm 1968. Năm 2003, Thị trưởng Seoul
Lee Myung-bak (Tổng thống Hàn Quốc 2008 - 2013) đề xuất một dự án 281 triệu USD
nhằm phá bỏ đường cao tốc và hồi sinh con suối. Dự án này vào thời điểm đó đã bị chỉ
trích rất nhiều bởi các nhà đầu tư bất động sản và doanh nghiệp.
Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian ngắn, dự án này đã đem lại thành công toàn
diện cho kinh tế và xã hội Seoul. Số lượng doanh nghiệp ở khu Cheonggyecheon tăng
3,5% trong giai đoạn 2002 - 2003, cao gấp đôi tốc độ tăng trưởng ở trung tâm thành phố
Seoul; số việc làm ở khu Cheonggyecheon có tốc độ tăng trưởng 0,8%, so với mức giảm
ở trung tâm thành phố Seoul là -2,6%. Việc di dời đường cao tốc giảm ô nhiễm và tăng
lượng người đi phương tiện công cộng lên 15%. Bản thân dòng suối thu hút trung bình
64.000 lượt khách mỗi ngày, với 1.400 khách nước ngoài (A. Robinson, M. Hopton, 2011).

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế
Tập 25, Số 1D (2024)
201
Hình 3: Đường cao tốc và suối Cheonggyechen sau khi khôi phục. Ảnh: Benji Becker, 2014.
Nhà ga Pennsylvania lịch sử ở thành phố New York bị phá hủy vào năm 1963 để
nhường chỗ cho Madison Square Garden mới. Nhà ga mang phong cách Beaux-Arts
mang tính biểu tượng, một kiệt tác kiến trúc cổ điển và là một biểu tượng giao thông đã
bị phá bỏ một cách đầy tranh cãi, bất chấp các nỗ lực biểu tình của người New York,
trong đó có sự tham gia của Ray Rubinow, Jane Jacobs, và Philip Johnson. Là một bước
ngoặt trong lịch sử bảo tồn di sản của nước Mỹ, sự mất mát của Penn Station đã kích
hoạt một làn sóng phản đối mạnh mẽ đối với việc phá hủy các công trình có giá trị lịch
sử khác. Nó thúc đẩy việc thông qua các luật lệ bảo tồn nghiêm ngặt hơn.
MÔ HÌNH B: CẠNH TRANH DI SẢN
Trong mô hình này, di sản và các khu vực phát triển cùng chen chúc trong một
không gian hữu hạn, di sản phải cạnh tranh với sự phát triển kinh tế và đô thị, dẫn đến
tình trạng bất an và bất ổn. Các dự án phát triển thường xuyên chiếm dụng không gian
của di sản, khiến cho di sản phải chịu ảnh hưởng tiêu cực. Tương tự, nhiều khi di sản
chiếm hữu các không gian vốn phù hợp để phát triển gây cản trở cho đầu tư. Mô hình
này thể hiện khó khăn trong việc bảo tồn và phát triển cùng lúc, và đặt ra vấn đề nan
giải về va chạm lợi ích của các phía.
CH: Không gian bảo tồn di sản văn hóa, lịch sử,
cảnh quan; CB: Không gian phát triển mới,
thương mại, việc làm; CT: Không gian hoạt động
dịch vụ du lịch; HO: Khu vực dân cư truyền
thống, tái định cư
Hình 4: Mô hình B - Cạnh tranh di sản. Nguồn: Liên danh MQL và Các đối tác, 2023.
Đây là mô hình phổ biến nhất tại các nước trên thế giới. Mô hình này có thể dẫn
đến sự xâm phạm không gian và va chạm giữa các nhóm lợi ích, như tại Khu bến cảng