Mở rộng phạm vi kiểm toán đồng thời

nâng cao chất lượng kiểm toán của kiểm

toán nhà nước

1. Địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm

toán Nhà nước

Luật Kiểm toán Nhà nước đã được Quốc hội khoá 11 thông qua

và có hiệu lực thi hành từ 01 tháng 01 năm 2006 mở ra một giai

đoạn phát triển mới của KTNN, với vị thế là cơ quan chuyên môn

trong lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập,

hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Về địa vị pháp lý Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn về

lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt

động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 13).

Về chức năng: Kiểm toán Nhà nước có chức năng kiểm toán báo

cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ

quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà

nước(Điều 14).

Về nhiệm vụ: Điều 15 của Luật đã quy định 16 nhiệm vụ của

Kiểm toán Nhà nước (KTNN), như: Quyết định kế hoạch kiểm

toán hàng năm và báo cáo với Quốc hội, Chính phủ trước khi

thực hiện; Trình ý kiến của KTNN để Quốc hội xem xét, quyết

định dự toán ngân sách nhà nước, quyết định phân bổ ngân sách

trung ương, quyết định dự án, công trình trọng điểm quốc gia,

phê chuẩn quyết toán ngân sách; Tổ chức công bố công khai báo

cáo kiểm toán; Chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra và các cơ

quan khác của Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, xử lý những vụ

việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân đã được

phát hiện thông qua hoạt động kiểm toán;...

Về quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước: Điều 16 của Luật dã quy

định cụ thể 9 quyền hạn về: Yêu cầu đơn vị được kiểm toán và tổ

chức, cá nhân có liên quan cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời

thông tin, tài liệu phục vụ cho việc kiểm toán; đề nghị cơ quan

hữu quan phối hợp công tác để thực hiện nhiệm vụ được giao;

Yêu cầu đơn vị được kiểm toán thực hiện các kết luận, kiến nghị

của KTNN đối với các sai phạm trong báo cáo tài chính và các sai

phạm trong việc tuân thủ pháp luật; kiến nghị thực hiện các biện

pháp khắc phục yếu kém trong hoạt động của đơn vị do KTNN

phát hiện và kiến nghị; Kiểm tra đơn vị được kiểm toán trong việc

thực hiện kết luận và kiến nghị của KTNN; Kiến nghị cơ quan nhà

nước có thẩm quyền yêu cầu các đơn vị được kiểm toán thực

hiện các kết luận, kiến nghị kiểm toán đối với các trường hợp sai

phạm trong báo cáo tài chính và các sai phạm trong việc tuân thủ

pháp luật; đề nghị xử lư theo pháp luật những trường hợp không

thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, kịp thời các kết luận, kiến

nghị kiểm toán của KTNN; Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm

quyền xử lư những vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân đă

được làm rơ thông qua hoạt động kiểm toán; Đề nghị cơ quan có

thẩm quyền xử lư theo pháp luật đối với tổ chức, cá nhân có

hành vi cản trở hoạt động kiểm toán của KTNN hoặc cung cấp

thông tin, tài liệu sai sự thật cho KTNN và Kiểm toán viên nhà

nước; Trưng cầu giám định chuyên môn khi cần thiết; Được uỷ

thác hoặc thuê doanh nghiệp kiểm toán thực hiện kiểm toán cơ

quan, tổ chức quản lư, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà

nước; KTNN chịu trách nhiệm về tính chính xác của số liệu, tài

liệu và kết luận kiểm toán do doanh nghiệp kiểm toán thực hiện;

Kiến nghị Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ

tướng Chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước sửa đổi, bổ

sung các cơ chế, chính sách và pháp luật cho phù hợp.

2. Thực trạng và định hướng mở rộng phạm vi và nâng cao

chất lượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước

2.1. Về quy mô; phạm vi kiểm toán

Thực tế hiện nay: Yêu cầu kiểm toán hàng năm đối với KTNN là

rất lớn, theo quy định của Luật KTNN cũng như Luật Ngân sách

nhà nước năm 2002 thì tất cả báo cáo quyết toán ngân sách các

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi tắt là các địa phương)

phải được KTNN kiểm toán trước khi Hội đồng nhân dân phê

duyệt và báo cáo quyết toán NSNN phải được KTNN kiểm toán

trước khi Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn, báo cáo quyết

toán, báo cáo tài chính của các cơ quan, đơn vị, tổ chức có sử

dụng ngân sách nhà nước đều phải được kiểm toán. Hay nói

ngắn gọn là nhiệm vụ của KTNN rất nặng nề nhưng KTNN chưa

đáp ứng được. Hàng năm KTNN mới chỉ kiểm toán được khối

lượng hạn chế báo cáo quyết toán ngân sách các bộ, ngành, địa

phương, các dự án chương trình và các tổ chức kinh tế của Nhà

nước trong khi nhu cầu đòi hỏi phải được kiểm toán rất lớn. Thực

tế hoạt động của KTNN hiện nay vẫn còn một số hạn chế nhất

định bởi quy mô hoạt động kiểm toán của KTNN còn hạn chế so

với yêu cầu phải được kiểm toán hàng năm đối với các cơ quan,

đơn vị quản lý và sử dụng NSNN, tiền và tài sản nhà nước, nhất

là lĩnh vực kiểm toán ngân sách. Thực tế các đơn vị được kiểm

toán mới chỉ chiếm tỉ lệ khiêm tốn trong tổng số các đối tượng

thuộc phạm vi kiểm toán của KTNN. Trung bình hàng năm, KTNN

mới chỉ kiểm toán được 40-50% báo cáo quyết toán ngân sách

địa phương, trong đó, mỗi cuộc kiểm toán ngân sách địa phương

chỉ kiểm toán được khoảng 30-40% số huyện... (Năm 2005,

Ngoài Kiểm toán lĩnh vực NSNN tại Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch

và Đầu tư, Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán ngân sách,

tiền và tài sản nhà nước tại 11 Bộ, ngành; Năm 2006: 10 Bộ

ngành; Năm 2007: 17 Bộ ngành. Đối với Ngân sách Nhà nước

các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Năm 2005 kiểm toán

30 tỉnh; Năm 2006: 32 và Năm 2007: 29. Với khối Doanh nghiệp

nhà nước và tổ chức tài chính Ngân hàng, Năm 2005 kiểm toán

19 đơn vị; Năm 2006: 22; Năm 2007: 20....). Đây là khó khăn

không thể khắc phục ngay được mà cần phải có thời gian để

KTNN xây dựng lực lượng và cơ sở vật chất.

Định hướng: Tăng cường năng lực của KTNN theo yêu cầu,

nhiệm vụ được giao. Trước mắt, tiếp tục hoàn thiện bộ máy tổ

chức KTNN theo Nghị quyết số 916 ngày 15/9/2005 và thực hiện

Nghị quyết số 1123/NQ-UBTVQH11 ngày 28 tháng 5 năm 2007

của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc thành lập thêm 4 đơn vị

kiểm toán nhà nước Khu vực trực thuộc Kiểm toán Nhà nước.

Trong thời gian tới bộ máy của KTNN Trung ương về cơ bản ổn

định như hiện nay nhưng phải củng cố và phát triển theo hướng

chuyên môn hóa theo chức năng, nhiệm vụ được giao cho các

đơn vị, thực hiện tốt chế độ chuyên viên tại các đơn vị không có

cơ cấu phòng; tái cơ cấu các phòng chuyên môn của KTNN

chuyên ngành và khu vực sao cho gắn kết và phối hợp được với

tổ chức các phòng với các đoàn kiểm toán; kiên trì mục tiêu xây

dựng Học viện Kiểm toán. Lựa chọn địa điểm đặt 4 Kiểm toán

Nhà nước khu vực mới trên cơ sở các tiêu chí khách quan, thuận

lợi cho việc tuyển dụng cán bộ, phát triển tổ chức và đảm bảo

tính kinh tế, hiệu quả trong kiểm toán trên địa bàn từng khu vực.

Về lâu dài, sẽ kiến nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho phép

thành lập thêm một số Kiểm toán Nhà nước khu vực nữa, nâng

tổng số khu vực dự kiến 12-15.

Cùng với việc tăng số KTNN khu vực là nhu cầu tuyển dụng, đào

tạo cán bộ đáp ứng nhiệm vụ mới.