Một số giả thuyết về nguồn gốc ngôn ngữ

Ngay từ thời cổ đại người ta đã quan tâm đến vấn đề nguồn gốc của ngôn ngữ.

Nhưng suốt trong một thời gian dài từ thời cổ đại đến thời trung thế kỉ người ta

vẫn lẫn lộn vấn đề nguồn gốc của ngôn ngữ với vấn đề lí luận nhận thức. Từ cuộc

tranh luận về bản chất của tên gọi và đối tượng giữa Democrit và Platon thời cổ Hi

Lạp, cho tới cuộc tranh luận giữa phái duy danh và duy thực thời trung cổ chung

quy vẫn xoay quanh vấn đề ngôn ngữ do con người tạo ra hay do tự nhiên (thượng

đế) tạo ra. Chỉ từ thời kì Phục Hưng trở đi, vấn đề nguồn gốc của ngôn ngữ mới

được rọi dưới những ánh sáng mới. Sau đây là một số giải thuyết về nguồn gốc

của ngôn ngữ.

1. Thuyết tượng thanh

Thuyết tượng thanh manh nha từ thời cổ đại, phát triển mạnh vào thế kỉ XVII đến

thế kỉ XIX và đến nay vẫn có người ủng hộ. Theo lí thuyết này, toàn bộ ngôn ngữ

nói chung và các từ riêng biệt của nó đều là do ý muốn tự giác hay không tự giác

của con người bắt chước những âm thanh của thế giới bao quanh. Sự bắt chước âm

thanh mà các học giả nói tới bao hàm những nội dung khác nhau. Nội dung sự bắt

chước âm thanh, theo Platon và Augustin thời cổ đại thực chất là dùng đặc điểm

của âm thanh để mô phỏng đặc điểm của sự vật khách quan. Thí dụ, trong tiếng

Hi Lạp [r] là một âm rung, âm thanh phát ra nhờ sự rung động của lưỡi cho nên nó

đã được dùng để gọi tên sông ngòi – những sự vật có đặc điểm lưu động. Trng

tiếng Latin, âm mel (mật ong) có tính mềm mại, biểu thị một thứ gì ngọt ngào, còn

âm acer (thép) thì biểu thị một thứ gì cứng rắn...

Quan niệm phổ biến nhất về sự bắt chước âm thanh là con người dùng cơ quan

phát âm của mình mô phỏng những âm thanh do sự vật phát ra, như tiếng chim

kêu, tiếng gió thổi, tiếng nước chảy v.v... Thí dụ, cái xe máy kêu bình bịch nên có

tên gọi là “cái bình bịch”, con mèo kêu meo meo nên mới gọi là “mèo” v.v...

Trong ngôn ngữ học hiện đại, sự bắt chước âm thanh còn được giải thích là

dùng đặc điểm của tư thế bộ máy phát âm mô phỏng đặc điểm của sự vật khách

quan. Thí dụ [ku], [gu] hoặc [nu] có đặc điểm âm tròn môi, trong nhiều ngôn ngữ

dều được dùng để tạo nên từ căn của những từ biểu thị các sự vật có đặc điểm

"hình lõm", "trống rỗng", "hình tròn" hoặc "kéo dài" (khi phát âm môi kéo dài ra

trước).

Cơ sở cả những quan điểm trên là ở chỗ, trong tất cả các thứ tiếng đều có một

số lượng nhất định các từ tượng thanh và từ sao phỏng, thí dụ các từ: mèo, bò,

bình bịch, lom khom, ép, úp, mỉm v.v... trong tiếng Việt.

2. Thuyết cảm thán

Thuyết cảm thán phát triển mạnh vào thế kỉ XVIII–XIX. Những người chủ trương

thuyết này Russo, Humboldt... đều cho rằng ngôn ngữ loài người bắt nguồn từ

những âm thanh của mừng, giận, buồn, vui, đau đớn v.v... phát ra lúc tình cảm bị

xúc động. Trong một số trường hợp, đó là những từ – những tín hiệu của cảm xúc

và ý chí của chúng ta. Trong các trường hợp khác thì có thể xem xét mối liên hệ

gián tiếp giữa âm hưởng của từ và trạng thái cảm xúc của con người: những kết

hợp âm tố nào đó gây ra trong tâm hồn chúng ta những ấn tượng giống như những

ấn tượng mà các sự vật đã gây cho chúng ta. Cơ sở của thuyết này là sự tồn tại

trong các ngôn ngữ những thán từ và những từ phái sinh từ thán từ. Chẳng hạn,

các từ: ối, ái, a ha, chao ôi... trong tiếng Việt.

3. Thuyết tiếng kêu trong lao động

Thuyết này xuất hiện vào thế kỉ XIX trong các công trình của các nhà duy vật như

L.Naure, K.Biukher. Theo thuyết này, ngôn ngữ đã xuất hiện từ những tiếng kêu

trong lao động tập thể. Một phần có thể là những tiếng hổn hển do hoạt động cơ

năng mà phát ra, nhịp theo lao động, những âm thanh đó sau này trở thành tên gọi

của động tác lao động, một phần là những tiếng kêu của người nguyên thuỷ muốn

người khác đến với mình trong quá trình lao động... Lí thuyết này cũng có cơ sở

thực tế trong sinh hoạt lao động của con người hiện nay.