BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA,THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Trần Việt Anh

NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC GỖ THẾ KỶ XVII - XIX Ở THANH HÓA Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật Mã số: 9210101

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT

Hà Nội – 2018

Công trình được hoàn thành tại:

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

Người hướng dẫn khoa học 1: PGS.TS. Trần Lâm Biền

Người hướng dẫn khoa học 2: PGS.TS. Lê Văn Tạo

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện họp tại:

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Số 32, Hào Nam, Ô chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội

Vào hồi ….. giờ, ngày … tháng… năm 2018

Có thể tìm hiểu luận án tại:

- Thư viện Quốc gia Việt Nam

- Thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do lư ̣a cho ̣n đề tài Kiến trúc, chạm khắc gỗ truyền thống Thanh Hóa là một bộ phận

của mỹ thuật Việt Nam, mang những giá trị và sắc thái nghệ thuật độc

đáo.

Đã có nhiều học giả nghiên cứu về nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc

gỗ truyền thống ở Thanh Hóa, nhưng chủ yếu tiếp cận theo góc độ văn

hóa học, khảo cổ học, bảo tàng học hay du lịch học, chưa có công trình

chuyên sâu về nghệ thuật chạm khắc gỗ truyến thống một cách hệ

thống.

Việc trùng tu, tôn tạo các di tích truyền thống cũng không được làm

một cách bài bản, khoa học. Trong khi đó Nghị quyết Trung ương 5

(khóa VIII) năm 1998 về phát triển “xây dựng nền văn hóa Việt Nam

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” và Nghị quyết Trung ương 9 (khóa

XI) năm 2014 nhấn mạnh “xây dựng và phát triển văn hóa, con người

Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” cho thấy vị thế

văn hóa rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất

nước ta. Vật liệu gỗ lại không chịu được thời gian và khí hậu, chính vì

vậy nghiên cứu nghệ thuật chạm khắc gỗ là việc làm cần thiết.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứ u 2.1. Mục đích nghiên cứu: Luận án là nhận diện, lý giải về đặc

trưng, sắc thái riêng nghệ thuật chạm khắc gỗ TK XVII đến TK XIX

trên đất Thanh Hóa.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận án chứng minh, khẳng định diễn

biến của nghệ thuật chạm khắc gỗ TK XVII - XIX có những đặc trưng

bởi sự chi phối về kinh tế, dân cư làng xã xứ Thanh đương thời. Mối

quan hệ hợp tác, liên kết lao động của các hiệp thợ từ Trấn Sơn Nam

(Nam Định), Hà Tây (nay thuộc Hà Nội) và thợ mộc người bản địa, đã

2

tạo ra những sự tương đồng và sắc thái mới trong nghệ thuật chạm

khắc gỗ TK XVII - XIX ở Thanh Hóa.

Nhận diện phong cách nghệ thuật, đồ án chạm khắc trang trí gỗ TK

XVII - XIX trong các di tích ở Thanh Hóa

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu hê ̣ thống các biểu trươ ̣ng, hình tươ ̣ng nghê ̣ thuâ ̣t, nội dung, đề tài, kỹ thuật, phong cách cha ̣m khắc gỗ hiện còn trên cấu kiê ̣n kiến trú c còn lại ở Thanh Hóa, tại 13 di tích điển hình (đình Phú Điền, Bảng Môn Đình, Thượng Phú, Trung;

đền Cả Đế Thích, Độc Cước, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Khát

Chân; chùa Hoa Long; nhà ông Hoàng Ngọc Quỹ, ông Phạm Ngọc

Tùng).

3.2. Phạm vi nghiên cứ u Tập trung nghiên cứu 13 di tích điển hình về chạm khắc gỗ, trên các

vấn đề niên đại, phong cách chạm khắc và loại hình: đình làng, đền

thờ, chùa, nhà dân (không bao gồm đồ thờ và đồ dùng sinh hoạt…).

Đồng thời có thể mở rộng nghiên cứu đối chiếu, so sánh với nghệ thuật

chạm khắc gỗ vùng đồng bằng Bắc Bộ cùng thời để làm sáng tỏ những

vấn đề cần thiết.

4. Giả thuyết khoa học

4.1. Câu hỏi nghiên cứu: Cơ sở hình thành và phát triển nghệ thuật cha ̣m khắc gỗ Thanh Hóa TK XVII - XIX là gì? Ảnh hưởng từ văn hóa, lịch sử, kinh tế, xã hội ở TK XVII - XIX được phản ánh trong

nghệ thuật chạm khắc gỗ Thanh Hóa ra sao? Nghệ thuật chạm khắc gỗ

TK XVII - XIX ở Thanh Hóa có gì giống và khác với địa phương

khác? Giá trị đặc trưng của nghệ thuật chạm khắc gỗ TK XVII- XIX ở

Thanh Hóa?

4.2. Giả thuyết nghiên cứu: Nghệ thuật chạm khắc gỗ TK XVII -

XIX ở Thanh Hóa có những tương đồng so với vùng đồng bằng Bắc

3

Bộ, nhưng đồng thời cũng thể hiện sắc thái riêng (1). Đồ án chạm khắc

trang trí trên gỗ thuộc các di tích đình làng, đền thờ, nhà dân TK XVII

- XIX ở Thanh Hóa, in đậm dấu ấn kinh tế - văn hóa - xã hội của nông

thôn đương thời (2). Giao lưu giữa các tốp thợ vùng đồng bằng Bắc Bộ

và thợ địa phương đã tạo nên giá trị biểu đạt mới trong nghệ thuật

chạm khắc gỗ TK XVII – XIX ở Thanh Hóa (3).

5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp khảo cổ học mỹ thuật 5.2. Phương pháp dân tộc học mỹ thuật

5.3. Phương pháp so sánh - thực chứng lịch sử

5.4. Phương pháp nghiên cứu liên ngành

6. Những đóng góp mới của luận án

Luận án góp phần hệ thống, xác định giá trị nghệ thuật chạm khắc

gỗ thế kỷ XVII - XIX ở Thanh Hóa với những đặc trưng riêng bối cảnh

chung của nghệ thuật chạm khắc gỗ truyền thống Việt Nam.

Thông qua nghệ thuật chạm khắc gỗ thế kỷ XVII - XIX ở Thanh

Hóa cung cấp thông tin số liệu về di vật chạm khắc gỗ hiện tồn trong

các đình, đền, chùa, nhà dân một cách chân thực, khách quan, khoa

học.

Kết quả nghiên cứu luận án góp phần nâng cao hiểu biết của

cộng đồng xã hội về giá trị lịch sử, văn hóa - nghệ thuật thông qua

một số di tích điển hình xứ Thanh, thế kỷ XVII - XIX, có thể làm tư

liệu trong công tác giáo dục thẩm mỹ và tư liệu cho các cơ quan

nghiên cứu văn hóa, giúp cho công tác quản lý, tu bổ, tôn tạo có được

thông tin chính xác hơn.

7. Bố cục của luận án

Luận án bao gồm 166 trang nội dung chính và 75 trang phụ lục. Cụ

thể: Phần mở đầu 13 trang; Chương 1: 35 trang; Chương 2: 34 trang;

4

Chương 3: 33 trang; Chương 4: 31 trang; Kết luận: 5 trang; Các công

trình NCKH đã công bố: 1 trang

Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về nghệ thuật chạm khắc gỗ

truyền thống Thanh Hóa (35 trang)

Chương 2: Niên đại, nội dung và phong cách kiến trúc, chạm khắc

gỗ thế kỷ XVII - XIX ở Thanh Hóa (34 trang)

Chương 3: Đặc trưng cơ bản chạm khắc gỗ thế kỷ XVII - XIX ở

Thanh Hóa (33 trang)

Chương 4: Luận bàn về giá trị nghệ thuật chạm khắc gỗ TK XVII -

XIX ở Thanh Hóa (31 trang)

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ NGHỆ THUẬT

CHẠM KHẮC GỖ TRUYỀN THỐNG THANH HÓA

1.1. Cơ sở lý luận và khái lược diễn biến nghệ thuật chạm khắc

gỗ truyền thống ở Thanh Hóa

1.1.1. Cơ sở lý luận về nghệ thuật chạm khắc gỗ TK XVII- XIX ở

Thanh Hóa

- Vấn đề lý thuyết văn hóa vùng và văn hóa truyền thống Thanh

Hóa: Nhiều nhà khoa học nêu quan điểm xem Thanh Hóa được xem là

một tiểu vùng văn hóa hạ lưu sông Mã [27], [32], [138], [139]... Áp

dụng trong nghiên cứu chạm khắc gỗ Thanh Hóa TK XVII-XIX cho

thấy những sắc thái riêng trong kỹ thuật, nghệ thuật là có cơ sở từ đặc

thù kinh tế xã hội làng xã Thanh Hóa đương thời, cũng như phong

cách của các nhóm nghệ nhân bản địa từng bước khẳng định rõ nét trên

di vật.

- Vấn đề Mỹ thuật và sự phản chiếu lịch sử thông qua ngôn ngữ

biểu đạt: Ngôn ngữ biểu đạt mỹ thuật truyền thống chủ yếu là đường

nét, hình mảng, khối, diện… Thông qua nghệ thuật kiến trúc, chạm

5

khắc truyền thống chúng ta có thể thấy được những mối liên hệ, phản

ánh về lịch sử xã hội đương thời [23], [31], [33], [34]...

- Vấn đề môi trường kinh tế -văn hóa - xã hội chi phối nghệ thuật

chạm khắc gỗ Thanh Hóa TK XVII-XIX: Kinh tế xã hội Thanh Hóa ở

TK XVI-XVII rất khó khăn do hậu quả nặng nề từ hai cuộc nội chiến

đã làm cho xã hội xứ này kiệt quệ nặng nề vì vậy có thể nghệ thuật

kiến trúc, chạm khắc gỗ ở Thanh Hóa từ TK XVI trở về trước không

còn [1], [5], [6], [11], [12],…

Từ cuối TK XVII-XIX Xứ Thanh được phục hồi kinh tế mạnh mẽ,

thu hút một số lượng lớn di dân từ Bắc Bộ về sinh tụ, mang theo các

nghề thủ công, trong đó có nghề mộc, liên kết lao động của hiệp thợ đã

tạo ra những sắc thái mới trong phong cách chạm khắc gỗ TK XVII -

XIX ở Thanh Hóa [1], [11], [22], [27], [32],…

1.1.2. Hình ảnh kiến trúc gỗ phản chiếu trên các di vật của văn

hóa Đông Sơn: Kiến trúc của người Đông Sơn là loại nhà sàn có mái

cong mô phỏng đầu chim lạc (Hình khắc trên trống đồng Ngọc Lũ,

Quảng Xương, Sông Đà), một loại nhà khác cũng ở vòng quay cận tâm

trống đồng Ngọc Lũ và trống Quảng Xương cho thấy nhà bé, bằng lá

che, có vách ngăn, cửa trang trí nhiều vòng tròn, sàn tầng I thấp, tầng

II cao bằng 2 lần chiều cao của người.

1.1.3. Dấu tích kiến trúc, chạm khắc gỗ các di tích thời Lý, Trần,

Lê ở Thanh Hóa: Thời Lý, sử sách còn ghi lại về số chùa được xây

dựng lớn như chùa Báo Ân (1100), chùa Linh Xứng (1101), chùa

Hương Nghiêm, chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh (1116)…

Thời Trần (1226-1400), chủ yếu vẫn là kiến trúc Phật giáo, điển

hình như chùa Cam Lộ, chùa Hưng Phúc ở Quảng Hùng, huyện Quảng

Xương, được dựng từ năm 1264, đến năm 1324 xây lại và hoàn thành

1326…

6

Thời Lê sơ hiện nay không tìm thấy di vật chạm khắc gỗ, ngoại trừ

kiến trúc ở điện Lam Kinh với qui mô lớn, được nhận biết thông qua

130 chân tảng hiện tồn. Nghệ thuật kiến trúc chạm khắc ở Thanh Hóa

cho thấy sự phát triển liên tục và liền mạch.

1.1.4. Nghề mộc và sự giao lưu của phường thợ mộc Đạt Tài ở

Thanh Hóa và các địa phương khác: Làng nghề mộc Đạt Tài, Thanh

Hóa đã nổi tiếng cách nay 400, 500 năm. Ông tổ của nghề người trấn

Nam Sơn (Nam Định) là thợ cả một toán thợ vào Thanh Hóa truyền

nghề cho dân Đạt Tài và sau đó là Hạ Vũ và Hà Thái (Hoằng Hoá).

Làng nghề này đã tham gia nhiều công trình kiến trúc, chạm khắc cho

xứ Thanh và các tỉnh khác.

1.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu nghệ thuật chạm khắc

gỗ Thanh Hóa

1.2.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến nghệ thuật chạm

khắc gỗ truyền thống Việt Nam nói chung

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về nghệ thuật chạm khắc gỗ

truyền thống Việt Nam, giai đoạn TK XVII - XIX, phần lớn chú trọng

đến vùng Bắc Bộ, Thanh - Nghệ vốn là vùng phên dậu, vùng chuyển

tiếp phát triển xuống phương Nam của lịch sử trung - cận đại lại chưa

được nghiên cứu đầy đủ.

1.2.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến nghệ thuật chạm

khắc gỗ thế kỷ XVII – XIX ở Thanh Hóa

Các công trình nghiên cứu liên quan đến nghệ thuật chạm khắc gỗ

thế kỷ XVII - XIX ở Thanh Hóa theo hướng lịch sử, khảo cổ học, văn

hóa học, chủ yếu đề cập đến nghề thủ công trong một bối cảnh kinh tế,

xã hội cụ thể.

Nhóm nghiên cứu về nghệ thuật chạm khắc gỗ Thanh Hóa TK

XVII đến XIX còn tương đối mỏng và nhiều điểm trống như: thể loại

7

phong cách theo mỗi giai đoạn lịch sử, nghệ thuật chạm khắc con

người, đồ thờ, trang trí chạm khắc gỗ trong nhà dân…

1.3. Một số khái niệm, thuật ngữ liên quan đến nghệ thuật chạm

khắc gỗ

- Hình tượng nghệ thuật, biểu tượng nghệ thuật, họa tiết, hoa văn,

nhịp điệu, khối, đầu dư, cốn…

Tiểu kết

Nghệ thuật chạm khắc gỗ Thanh Hóa có mối liên hệ chặt chẽ giữa

các phường thợ bản địa và vùng Bắc Bộ.

Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về văn hóa nghệ thuật xứ Thanh

nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về nghệ

thuật chạm khắc gỗ truyền thống ở Thanh Hóa TK XVII- XIX.

Kiến trúc nhà ở của người Việt có từ thời kỳ văn minh Đông Sơn,

thông qua hình khắc nhà sàn trên đồ đồng hiện có. Sau này, thời Lý -

Trần, Lê ở Thanh Hóa cũng có nhiều công trình, chủ yếu là đình,đền,

chùa. Nghệ thuật chạm khắc gỗ Thanh Hóa còn lại đến nay chủ yếu có

phong cách nghệ thuật từ TK XVII trở về sau.

Sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành để nghiên cứu

đình, đền, chùa, nhà dân, lấy13 di tích điển hình, phân tích đối sánh

làm rõ nhận định khoa học.

Chương 2

NIÊN ĐẠI, NỘI DUNG VÀ PHONG CÁCH KIẾN TRÚC,

CHẠM KHẮC GỖ THẾ KỶ XVII - XIX Ở THANH HÓA

2.1. Phân nhóm niên đại kiến trúc gỗ

Phân loại nhóm niên đại, mục đích tìm ra được quá trình khởi dựng,

trùng tu; góp phần vào nhận định, đánh giá phong cách, giá trị nghệ

thuật chạm khắc gỗ ở di tích.

Nhóm 1 gồm 8 di tích Bảng Môn Đình, đền Cả Đế Thích, đền Độc

Cước, đền thờ Lê Hoàn, đền thờ Lý Thường Kiệt, đền thờ Trần Khát

8

Chân, chùa Hoa Long, đình Đông Môn: Có thông tin về thời gian khởi

dựng, trùng tu sớm; nhiều lớp nhà, nhiều lớp trùng tu tôn tạo. Hệ thống

chạm khắc trên di tích thuộc nhóm này phong phú về nội dung, chủ đề,

phong cách, thủ pháp nghệ thuật.

Nhóm 2 gồm 3 di tích đình Thượng Phú, đình Trung, đình Phú

Điền: Có niên đại kiến trúc TK XVII, trùng tu vào cuối thế kỷ XIX,

nhóm này ít đơn nguyên kiến trúc, thời gian trùng tu muộn, theo đó lớp

chạm khắc có phong cách ổn định ít bị ảnh hưởng do nhiều giai đoạn

trùng tu.

Nhóm 3 gồm 2 nhà dân, nhà ông Hoàng Ngọc Quỹ, ông Phạm

Ngọc Tùng, niên đại kiến trúc TK XIX, nhóm này thể hiện rõ niên đại,

khởi dựng muộn, không thấy nhiều lớp trùng tu thông qua nghệ thuật

chạm khắc thống nhất ở công trình.

2.2. Phân loại phong cách kiến trúc gỗ

Phân loại theo phong cách kiến trúc là: theo nhóm có cùng một đồ án mặt bằng như bố cục chữ Nhất (一), chữ Nhị (二), chữ Công (工), chữ Đinh (丁)…

Nhóm kiến trúc có nhà hậu cung (chuôi vồ) gồm 9 di tích: Bảng

Môn Đình, đình Đông Môn, đình Phú Điền, đình Thượng Phú, đền

Độc Cước, đền thờ lê Hoàn, đền thờ Lý Thường Kiệt, đền thờ Trần

Khát Chân, chùa Hoa Long. Nhóm này thường tương đương như nhóm

1, mục 2.1. Nhìn chung nhóm này có nhiều đơn nguyên kiến trúc,

phong phú về phong cách nghệ thuật chạm khắc.

Nhóm kiến trúc không có nhà hậu cung (chuôi vồ) gồm 3 di tích:

nhà ông Hoàng Ngọc Quỹ, ông Phạm Ngọc Tùng và đình Trung.

Phong cách nghệ thuật chạm khắc gỗ ổn định.

Nhóm kiến trúc theo mặt bằng hình vuông hai tầng, 4 mái, nhóm

này thuộc các đình làng chủ yếu của TK XX, không thuộc diện 13 di

tích điển hình.

9

2.3. Phân loại nội dung chạm khắc gỗ trên kiến trúc

Đình Phú Điền, Bảng Môn Đình,Thượng Phú; đền Trần Khát Chân;

chùa Hoa Long là nhóm di tích có chạm khắc, nội dung, đề tài khá

phong phú bao gồm 4 nhóm hình tượng như: (1) thần tiên, (2) người

bình dân, (3) tứ linh, (4) tứ quí cùng với cỏ cây muông thú dân gian.

Đình Trung, đền Cả Đế Thích, Lý Thường Kiệt, đình Đông Môn là

bốn di tích đề cao tứ linh tứ quý, cỏ cây hoa là chim muông; Đền thờ

Lê hoàn, Trần Khát Chân có các biểu tượng người, có thể gắn với nhân

vật anh hùng vốn là biểu tượng thiêng của thần chủ ở di tích; Nhà ông

Hoàng Ngọc Quỹ, ông Phạm Ngọc Tùng có niên đại vào đầu TK XIX,

chủ yếu chạm đề tài cỏ cây hoa lá, muông thú.

2.4. Phân loại phong cách nghệ thuật chạm khắc gỗ

2.4.1. Nhóm phong cách chạm khắc gỗ TK XVII

Phong cách nghệ thuật chạm khắc gỗ TK XVII ở Thanh Hóa ảnh

hưởng nghệ thuật đồng bằng Bắc Bộ: Chủ yếu ở hậu cung Bảng Môn

Đình, hậu cung đền Trần Khát Chân, đặc biệt các bố cục đình Thượng

Phú… Kỹ thuật chủ yếu chạm nông, khối dương chừng 1-1,5cm, khối

âm đục xuống nền gỗ 1cm, bố cục giản đơn, ít chú tạo diễn khối, hay

tả thực mà chủ yếu biểu đạt hình tượng hoa sen, cúc, mặt trời, tiên thần

theo kiểu hình kỷ hà; cuối TK XVII Kỹ thuật chạm bong, kênh đã xuất

hiện với độ cao hơn nền 7 - 10cm.

2.4.2. Nhóm phong cách chạm khắc gỗ TK XVIII

Với đại diện điển hình là chạm khắc gỗ ở đền thờ Lê Hoàn, đền

Độc Cước, nhà tiền tế đền Trần Khát Chân... Tuy nhiên hai phong cách

chạm khắc ở 4 di tích này lại chuyển biến thành 3 hướng; (1) Tại đền

Độc Cước phong cách vẫn còn bảo lưu cách chạm nông, nền bức chạm

và đỉnh khối không quá 1,5cm, nhưng do cách lấn khối, nhấn đậm

chân nét khá tinh vi nên hiệu quả ánh sáng rất tốt. (2) Đền thờ Lê

Hoàn, lại kết hợp hài hòa nghệ thuật tinh tế, mềm mại diễn khối

10

TKXVII với những nhịp điệu khỏe khoắn ở TK XVIII. (3) Còn ở nhà

tiền tế đền Trần Khát Chân đã thể hiện hình hổ phù ngậm chữ Thọ trên

các vì nóc, chồng rường, khối nông trông không dữ tợn.

2.4.3. Nhóm phong cách chạm khắc gỗ TKXIX

Phong cách chạm khắc gỗ Thanh Hóa TK XIX, còn biểu hiện hầu

hết ở các di tích cũ TK XVII - XVIII được trùng tu (phần làm mới nhà

tiền tế). Có 2 nhà dân, do điều kiện kinh tế, chức năng của nhà mà các

mảng chạm khắc ở đây thể hiện khối nông, kỹ thuật tinh xảo.

Các phong cách nghệ thuật chạm khắc TK XIX được chạm với một

mật độ dày hơn kết hợp nhiều phong cách nhưng sự tinh tế và khả

năng biểu đạt vẫn chưa thể vượt trội được nhóm phong cách điển hình

TK XVII, XVIII.

2.5. Một số đồ án chạm khắc gỗ điển hình

2.5.1. Bảng Môn Đình: Ở hậu cung (vì số 1, vì số 2 và số 3) là

nghệ thuật chạm khắc có sớm, với nhiều nội dung, chủ đề và hình thức,

kỹ thuật chạm khắc có giá trị nghệ thuật cao, mang đặc trưng phong

cách thể kỷ XVI, XVII.

2.5.2. Đền Độc Cước: Hình tượng thần Độc Cước và bộ vì “bắt

quyết” là những đồ án chạm khắc tiêu biểu thể kỷ XVII, đặc biệt hình

tượng hổ phù ở trung tâm vì “bắt quyết” với những đao mác lượn sóng

thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật cuối TK XVII.

2.5.3. Đền Trần Khát Chân: Đồ án chạm khắc gỗ khá tiêu biểu đó là

bộ vì kèo “bắt quyết” nối gian hậu cung với nhà tiền tế và hình trúc hóa

long, tiên nữ ở trước cửa nhà tiền tế là những tác phẩm chạm khắc chi tiết,

kỹ thuật cao, phong cách tạo hình gần gũi với nghệ thuật ở đồng bằng Bắc

Bộ có phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII.

2.5.4. Chùa Hoa Long: Đồ án chạm khắc gỗ đặc biệt đó là vách

thưng phía ngoài mặt trước chùa Hoa Long, là đồ án điển hình và đặc

11

trưng cho nghệ thuật chạm khắc gỗ thế kỷ XVII ở Thanh Hóa với đầy

đủ nội dung đề tài vui chơi, lễ hội...

2.5.5. Đền Lê Hoàn: Bộ vì trước hậu cung, phong cách nghệ thuật

TK XVIII, được phủ bởi các hình tượng rồng, hoa văn đao mác, trong

đó có hai hình tượng người được tạc ở vị trí trung tâm nói về “bảng

rồng” (biểu tượng tiến sĩ) và “bảng hổ” (biểu tượng cử nhân) trong

nhận thức “phi trí bất hưng”.

2.5.6. Đền thờ Lý Thường Kiệt: Vì kèo “bắt quyết” ở đền nghệ

nhân đã chạm một bức hổ phù khá to, khối cao, rồng 5 móng, gây cho

cảm giác choáng ngợp bởi vị trí của bức chạm này nằm ngay gian giữa

tiền đường, phong cách nghệ thuật TK XIX.

Tiểu kết

Nghệ thuật chạm khắc gỗ là một thành tố của kiến trúc. Do nhiều

lần trùng tu từng phần kiến trúc hư hại nên dẫn đến trong một di tích,

nhiều nhóm di vật kiến trúc gỗ, thường phản ánh khác biệt về niên đại.

Về niên đại chủ yếu dựa vào số liệu ghi trên Thượng lương, bia ký,

gia phả… Tuy nhiên, nhiều di tích, di vật phải phân tích đoán định

theo phong cách và kỹ thuật chạm khắc. Nhiều di tích nhà Hậu cung và

nhà Tiền đường là các nhóm phóng cách nghệ thuật khác nhau, do

nhiều lần trùng tu, tôn tạo.

Có 3 nhóm: (1) di tích còn đầy đủ các đơn nguyên kiến trúc như nhà

tiền tế, hậu cung… phong cách nghệ thuật sớm (chùa Hoa Long; Bảng

Môn Đình; đền Cả Đế Thích, hậu cung Trần Khát Chân); (2) các di tích

có phong cách nghệ thuật muộn cuối TKXVII, XVIII như đền Độc Cước,

đền Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Khát Chân, đình Thượng Phú; (3)

các di tích có phong cách nghệ thuật cuối TK XVIII, XIX như đình Đông

Môn, đình Trung, nhà ông Hoàng Ngọc Quỹ và nhà ông Phạm Ngọc

Tùng.

12

Nội dung chạm khắc gỗ Thanh Hóa TK XVII-XIX cơ bản tiếp nối

mạch nguồn truyền thống của nghệ thuật chạm khắc gỗ vùng đồng bằng

Bắc Bộ; Mật độ chạm khắc gỗ TK XVII-XIX ở Thanh Hóa trên kiến trúc

thường thấp hơn so với các di tích đồng bằng Bắc Bộ (diện tích chạm

khắc che phủ bề mặt kiến trúc trong các đình làng, đền, chùa Thanh Hóa

TK XVII - XIX đạt từ 20- 30%), trong khi đó các đình làng đồng bằng

Bắc Bộ có mật độ chạm khắc nhiều hơn.

Nghệ thuật chạm khắc gỗ TK XVII- XIX ở Thanh Hóa theo 3 nhóm

đặc trưng: (1) phong cách nghệ thuật chạm khắc gỗ TK XVII mang sự

tinh tế trau chuốt, khối mỏng, nhưng giầu chất trang trí; (2) phong cách

chạm khắc gỗ TK XVIII mang tính khỏe khoắn, nhưng vẫn chú trọng đến

tính trang trí và sự dàn trải mô típ che kín bề mặt một số vị trí kiến trúc;

(3) Phong cách nghệ thuật chạm khắc gỗ TK XIX chú trọng biểu hiện về

khối và hình lớn có tính chát áp chế. Kỹ thuật chạm bong, kết hợp chạm

lộng, chạm thủng ở đình, đền, chùa; kỹ thuật chạm nông thường vận dụng

ở nhà dân.

Chương 3

ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CHẠM KHẮC GỖ

THẾ KỶ XVII-XIX Ở THANH HÓA

3.1. Hình tượng con người, thần tiên

3.1.1. Hình tượng con người, thần tiên ở chùa Hoa Long

Hình tượng người bình dân được thể hiện với nhiều đề tài như:

chơi trồng nụ trồng hoa, đấu vật, uống rượu... nhưng thể hiện với diện

tích nhỏ, ngôn ngữ chạm khắc khá mềm mại, khối âm không quá 2cm,

nhưng hiệu quả ánh sáng khá cao, do lối nhấn nét rất tài hoa.

Hình tượng thần tiên ở di tích này cũng khá tiêu biểu như hình

tượng người cưỡi trâu, với nhiều nhận định khác nhau như tích vua

nước Ma Kiệt Đà (Bimbisara) hay Lão tử cưỡi trâu gắn với tích chuyện

của nhà Phật; rồi hình tượng tiên đứng trên đài xen nhiều người cho là

13

Phật bà, xong thủ pháp tạo hình lại gần gũi với hình tượng tiên nữ ở

các đình làng đồng bằng Bắc Bộ TK XVII.

3.1.2. Hình tượng con người, thần tiên ở Bảng Môn Đình

Hình người ngồi trong khám cao 13cm, chạm phác mảng, kiểu như

điêu khắc nhà mồ Tây Nguyên. Hai bức chạm đối xứng ở vì 1 nhà hậu

cung cảnh người cưỡi voi, người cưỡi ngựa đả hổ với phong cách bố

cục, tạo hình rất thô phác, nhưng hiệu quả biểu đạt rất ấn tượng, phong

cách nghệ thuật TKXVII giống người cưỡi ngựa đả hổ ở đình Chảy -

Hà Nam.

Vì kèo số 2, hình tiên cưỡi rồng khá độc đáo bởi cách tạo hình được

các nghệ nhân xưa sử dụng. Có thể yếu tố Nho giáo được đề cao trong

quá trình phát triển ở một làng khoa bảng.

3.1.3. Hình tượng con người ở đền thờ Lê Hoàn

Hình tượng người được chạm khắc trên trang trí kiến trúc đền này

là bức ván nong vì nóc gian giữa, khắc 2 võ sĩ mình trần đóng khố, mặt

hoan hỉ giang rộng hai tay, cưỡi trên lưng rồng và hổ, xung quanh vần

vũ đao mác và mây cuộn.

3.1.4. Hình tượng con người, thần tiên ở đình Đông Môn

Hình tượng chủ yếu ở đây là rồng, lân, phượng làm trung tâm

phong cách nghệ thuật TK XIX. Tại vì nách, một hình người rất nhỏ,

ngồi trong tư thế của nhà Phật (ngồi kiết già), kích thước cao không

quá 15cm, tuy hình người nhỏ nhưng những chi tiết như nếp áo, quần

cũng được thể hiện rõ.

3.1.5. Hình tượng con người, thần tiên ở đình Phú Điền

Tại vì nách gian bên hữu, phía Tây ngôi đình có bức chạm 3 chiến

binh cưỡi ngựa giao đấu, nét chạm gợi khối âm kết hợp với khối nổi

không quá 1cm, không chạm bong, nhưng hiệu quả diễn cảm khá ấn

tượng. Các hình ảnh người đều có trang phục giống nhau đóng khố,

đội mũ Đinh Tự, giống dũng sĩ đánh hổ hiện vật chạm khắc ở bảo tàng

14

mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XVII, phần nào động tác cũng tương tự như

hai võ sĩ cưỡi ngựa đấu giáo ở đền Đệ Tứ, Mỹ Lộc, Nam Định. Điều

đặc biệt hiện nay ở hầu hết các đình làng chúng ta chưa tìm thấy hình

tượng chiến binh nào, trong khi đó nội chiến thế kỷ XVII, XVIII diễn

ra liên tục.

3.1.6. Hình tượng con người, thần tiên ở đình Thượng Phú

Ngôi đình được chạm khắc nhiều hình tượng con người bình dân,

thần tiên nhất ở Thanh Hóa, nhưng chỉ tập trung tại hai bộ vì phía Tây,

bộ vì phía Đông lại chủ yếu là hình tượng tứ linh: Hình người chơi

chọi gà, hình người “cướp” lục lạc của nghê, hình người nâng chữ

“phúc”, người bắn cung… chủ yếu là có bố cục một đến hai người,

một bố cục khác có 4 người thì trong đó có hai người bình dân và hai

hình tiên gần giống hình tiên ở đình Trùng Thượng - Ninh Bình.

3.1.7. Hình tượng con người, thần tiên ở đền thờ Trần Khát Chân

Hình tượng người của đền này chủ yếu tập trung ở hậu cung trong

một bộ vì tương tự như vì kèo số 1 Bảng Môn Đình, hình người quản

tượng đội mỹ Đinh Tự, đóng khố, kỹ thuật khá tinh tế, tạo hình voi và

người khỏe, tỷ lệ hài hòa với voi.

Một bố cục tiên nữ tạo hình thành bốn nhóm hoa vân, đao lửa trước

cửa nhà hậu cung thuộc loại độc đáo nhất về tạo hình, kỹ thuật chạm

khắc, mang phong cách nghệ thuật TK XVII và gần gũi với bố tiên

đứng trên đầu rồng ở đình Viên Đình, Đông Lỗ, Ứng Hòa, Hà Nội.

Một hình tượng tiên khác được tạc ở mái bẩng của nhà tiền tế như hình

tiên cưỡi rồng ở đình Tây Đằng, hình tiên được tạc trên lưng rồng có

trang phục và dải lụa, mặt tròn đầy đặn, hai tai dài như tai Phật, nhìn

tổng thể hình tượng tiên nữ như hình một thôn nữ.

3.1.8. Hình tượng con người, tiên ở đền cả Đế Thích

Ở di tích này không có hình tượng người. Hình tượng tiên được chạm

dạng phù điêu nổi trên vì xà, điều đặc biệt chúng ta bắt gặp là hình chạm

15

này thể hiện tiên có đầy đủ mắt mũi tai và hai cánh dang lên qua đầu,

thông thường các hình tượng tiên trên công trình kiến trúc tôn giáo được

chạm đầy đủ toàn thân, nhưng ở đây hình chạm chỉ thể hiện chân dung,

hình tượng tiên chạm liền với thân gỗ. Theo quan điểm của nhà khoa học,

hình tượng chạm một nửa như hổ phù ngậm mặt trăng, chữ thọ hay hoa

cúc…đều là biểu tượng của mặt trăng hoặc liên quan đến mặt trăng (đồng

nhất với hình thức hổ phù ở đền Lý Thường kiệt, đền Độc Cước).

3.2. Hình tượng con vật linh

3.2.1. Hình tượng rồng

Ở Bảng Môn Đình, hình rồng có thân và đuôi giống như đuôi rắn;

hay trên bức cốn chạm đầy rồng của đền Độc Cước như bầu trời đầy

mây nước theo ướng vọng, hình rồng được gắn với các hoa văn đao

mác dạng vân xoắn, đôi khi tạc cả sống đao kết hợp bởi vân xoắn hoặc

những hàng hạt nhỏ… Nhiều khi hình rồng được thể hiện như muốn

thoát ra khỏi ý nghĩa biểu thị uy quyền, thế lực của nhà vua (với số

móng một chân dưới 5 ngón). Rồng đã được nghệ nhân sáng tạo kết hợp

trong những cảnh sinh hoạt rất đời thường. Như hình rồng được chạm

chung với cảnh người cưỡi rồng (có thể là thần mây mưa được nhân

cách hóa), hoặc với cảnh đi săn cũng có hình rồng, nghĩa là hình tượng

rồng không còn cách biệt với người bình dân, đấy cũng có thể là một

triết lý hay là một biểu thị khát vọng...

3.2.2. Hình tượng chim phượng

Hình phượng xuất hiện với tần số chỉ sau hình tượng rồng trong

chạm khắc gỗ TK XVII - XIX ở Thanh Hóa. Tại đình Thượng Phú, đình

Phú Điền, đền thờ Trần Khát Chân, hình chim phượng đang vờn múa

cùng các đám mây, một chân đứng thẳng, một chân đang co theo nhịp

múa, mỏ ngậm cành hoa, đôi cánh dang rộng, chiếc đuôi xòe, phong

cách nghệ thuật thế kỷ XVII. Ở đình Đông Môn, đền Lý Thường Kiệt

phượng được chạm chủ yếu các vì nách kết hợp với nghê, rồng, khối

16

khỏe, phong cách nghệ thuật TK XIX. Đôi chỗ phượng được chạm ở vị

trí trọng tâm của mảng đồ án như đình Thượng Phú (vì nóc phía Đông).

3.2.3. Hình tượng long mã

Ở đình Phú Điền, hình long mã được chạm nổi, mặc dù có những

nét rất gần với dạng lân, sư tử Trung Hoa, song các chi tiết của chúng

lại khá thuần Việt. Phổ biến hơn cả vẫn là hình long mã, dưới dạng hóa

rồng, trên bức cốn của đền thờ Lý Thường Kiệt, đó là những long mã

với đầu hình rồng có mào hoặc sừng, tai hình cánh chim xòe, hoặc tai

thú, thân dài có mây đao mác, chân hươu, móng ngựa, miệng ngậm

chữ thọ…Ở Bảng Môn Đình lại được thể hiện theo kiểu ngồi chầu với

hai chân chống xuống đất, mồm rộng nhiều răng, cặp mắt rất to, lồi,

trông có phần dữ tợn.

3.2.4. Hình tượng voi

Hình tượng voi là đặc trưng của nghệ thuật chạm khắc gỗ Thanh

Hóa bởi con vật thiêng này gắn với các sự kiện lịch sử và nhân vật anh

hùng ở đất này, hình tượng voi thường thấy nhiều mảng chạm, đôi khi

được tạc thành tượng voi có kích cỡ nhỏ.

3.2.6. Hình tượng rùa

Thông thường hình tượng rùa được tạc, gắn với ý nghĩa tầng dưới:

mảng chạm có hình tượng rùa trong hồ sen (nhà tiền tế đền Trần Khát

Chân); vì nách phía tây nhà ông Phạm Ngọc Quỹ, hình mai rùa mang

hình cánh sen úp; hình nét khắc các gân lá sen dầy đặc, như một liên

tưởng về sự huyền thông, uy lực của Phật pháp. Hình tượng rùa ở đình

Đông Môn lại nhỏ so với rồng phượng.

3.2.7. Hình tượng hươu

Theo các nhà nghệ thuật học thì hình tượng hươu và ngựa còn là

một biểu tượng của ánh sáng, chính vì vậy hình tượng hươu xuất hiện

nhiều trên di tích như ở hậu cung Bảng Môn Đình, đầu dư đền Độc

Cước, vì nách đình Đông Môn.

17

3.2.8. Hình tượng mèo, chuột

Trong một bộ xà ở đình Thượng Phú, có cả hình tượng mèo và

chuột, mèo thì đang ngậm cá, ở một vị trí khác lại thấy hình tượng

chuột đang nhảy múa. Có thể đây là ý của nhân dân, biểu hiện mùa

màng tươi tốt.

3.3. Hình tượng thực vật

Nghệ thuật chạm khắc gỗ truyền thống Thanh Hóa do hạn chế việc

diễn tả chủ đề về con người, nên tập trung khai thác tối đa họa tiết

mang tính trang trí như mô típ liên quan đến cây cỏ, chim thú tự nhiên,

mặc dù chủ đề “Tứ linh - Tứ quý” vẫn luôn được coi trọng. Đây cũng

là một thứ “ẩn dụ” trong biểu đạt nghệ thuật, đem cây cỏ, muông thú

vốn rất “tầm thường” đặt ngang với “thú linh, cây linh”.

3.3.1. Hình tượng cây tùng

Biểu tượng cho người quân tử vượt lên trên những va đập đời

thường, vượt qua phong ba của cuộc sống, chính vì ý nghĩa đó hình

tượng cây tùng thường được tạc với hình tượng người cưỡi trâu ở chùa

Hoa Long. Tuy nhiên, nhiều hình tượng tùng hóa long, tùng hóa long

mã, tùng hòa quyện với lân, cá chép...như các bức chạm trên đền thờ

Lý Thường Kiệt, đình Đông Môn, đình Trung, nhà ông Hoàng Ngọc

Quỹ... phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII, XIX.

3.3.2. Hình tượng cúc

Hình tượng cúc, thuộc loài hoa quí (nhóm tứ quí) được chạm khắc

nhiều ở di tích truyền thống Thanh Hóa, phong cách nghệ thuật thế kỷ

XVII, thế kỷ XVIII, XIX hình tượng cúc được chạm khắc ở nhà dân.

3.3.3. Hình tượng trúc

Hình tượng trúc được thể hiện nhiều ở di tích Thanh Hóa TK XVII-

XIX chủ yếu là trúc hóa long (trước cửa hậu cung đền Trần Khát Trân,

bức ván thưng chùa Hoa Long… phong cách nghệ thuật TK XVII, kỹ

thuật tinh tế). TK XVIII, XIX hình tượng trúc được chạm nhiều ở các

18

bẩy hiên, cũng biểu hiện trúc hóa long xong hình tượng như những cây

cổ thụ (bẩy hiên đền Lý Thường Kiệt, đình Đông Môn), phong cách

tạo tác khỏe khoắn, khối cao.

3.3.4. Hình tượng mai

Mai hóa long phong cách TK XIX ở bẩy hiên đền thờ Lý Thường

Kiệt, đình Đông Môn hình chạm bong kết hợp chạm lộng, phát huy nét

mau, thưa, dầy, mỏng mà tạo ra nhịp điệu sống động nhưng đầy triết lý;

trong khi đó hình tượng mai hóa nghê ở đền thờ Lê Hoàn có niên đại

đầu TK XVIII lại có phong cách khỏe, khối căng, mập, mạnh mẽ, với kỹ

thuật chạm khắc xem ra có phần ít cầu kỳ hơn, với kỹ thuật chạm bong

kênh, chạm lộng, người nghệ nhân đã lột tả được nội dung chủ đề của đề

tài chạm khắc.

3.4. Mô típ trang trí

3.4.1. Hoa văn vân xoắn

Hoa văn vân xoắn tượng cho mây, thường được vân hóa hoặc chạm

với rồng, nhiều khi chuyển hóa thành đao mác thể hiện là vây rồng

(Bảng Môn Đình, Đền Độc Cước, hình hoa văn vân xoắn được thể

hiện đơn giản, các đao mác ngắn hơn so với ở Bảng Môn Đình), phong

cách nghệ thuật TK XVII, hoa văn vân xoắn đã biến thể, các đao mác

như hình ngọn lửa phong cách nghệ thuật TK XVIII, ở đền thờ Lê

Hoàn và nhà dân.

3.4.2. Hoa văn mặt trời

Đây là nhóm mô típ được thể hiện nhiều nhất chạm khắc gỗ Thanh

Hóa TK XVII-XIX, ở vị trí trung tâm của mảng chạm, đóng vai trò

quan trọng, xuất hiện hầu hết các di tích, mỗi di tích biểu hiện một

cách khác nhau (mặt trời và mây, mặt bên trong có hình gà trống, mặt

mặt trời bên trong có hoa cúc cách điệu, mặt trời có hươu cõng...). Hoa

văn mặt trời không thấy ở nhà dân.

19

3.4.3. Chạm chữ

Chạm chữ trên cấu kiện kiến trúc truyền thống ở Thanh Hóa khá

phong phú: chùa thì chạm chữ ít như chùa Hoa Long chỉ có chạm chữ

ở hai bức ván thưng bên ngoài; đền Cả Để Thích chạm chữ ở các vì

nách độc lập xung quang là hoa văn; chạm chữ có hình tượng người

nâng ở đình Thượng Phú, mỗi bộ vì một chữ; chạm chữ nhiều nhất là

Bảng Môn Đình, với nhiều nội dung khác nhau và thường được chạm

ở vị trí trung tâm của mảng chạm; còn chạm chữ nhà dân cũng ít và

thường ở trung tâm bộ vì.

3.4.4. Chạm khắc trên kiến trúc nhà ở

Trong luận án có 2 nhà dân tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc, chạm

khắc gỗ thế kỷ XIX, trên kiến trúc này chủ yếu là hình tượng Nho

giáo: tứ linh - tứ quý; nhà của ông Phạm Ngọc Tùng có thể xem là một

điển hình về nghệ thuật chạm khắc, nghệ thuật nội thất, nghệ thuật

không gian nhà ở điển hình của tầng lớp quan lại địa phương.

Tiểu kết

Nhiều đồ án chạm khắc gỗ Thanh Hóa ở TK XVII - XIX mang những

nét độc đáo, thông qua các bố cục vừa đề cao “thần tiên, linh vật”, nhưng

cũng xuất hiện nhiều bố cục đề cập đến khát vọng hồn nhiên về một sự no

ấm, yên bình đầy tính nhân hóa với các mô típ “hoa lá, chim chóc, thú

vật”.

Số lượng hình khắc liên quan đến hình tượng con người bình dân trong

chạm khắc gỗ Thanh Hóa TK XVII - XIX là khá khiêm tốn so với các di

tích cùng thời ở đồng bằng Bắc Bộ.

Nhiều thủ pháp diễn đạt truyền thống của nghệ thuật chạm khắc gỗ có

từ TK XVI - XVII ở các di tích đồng bằng Bắc Bộ tiếp tục được các hiệp

thợ áp dụng vào công trình chạm khắc gỗ Thanh Hóa một cách sáng tạo.

Nghiên cứu hình tượng, mô típ, chủ đề, hình thức, cách thức chạm

khắc gỗ của các di tích ở Thanh Hóa TK XVII-XIX. Tìm thấy những giá

20

trị biểu hiện khác biệt về quy mô, mật độ trang trí, nội dung, đề tài và

phong cách. Đồng thời thông qua đó có thể nhận biết phần nào đó đặc

trưng về văn hóa - kinh tế - xã hội đương thời.

Chương 4

LUẬN BÀN VỀ GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT

CHẠM KHẮC GỖ TK XVII - XIX Ở THANH HÓA

4.1. Sự tương đồng giữa nghệ thuật chạm khắc gỗ vùng đồng

bằng Bắc Bộ và Thanh Hóa ở TK XVII – XIX

Phần lớn phong cách nghệ thuật, kỹ thuật chạm khắc gỗ Thanh Hóa

TK XVII - XIX khá tương đồng với nghệ thuật vùng đồng bằng Bắc

Bộ. Là sự trao truyền từ các phường thợ vùng châu thổ sông Hồng đến

định cư lâu dài ở Thanh Hóa. Trong mối quan hệ hỗ tương trong quá

trình sáng tạo, có 3 hình thái là động lực thúc đẩy tạo ra bản sắc mới

trong nghệ thuật chạm khắc gỗ Thanh Hóa là: (1) Những giá trị nghệ

thuật, kỹ thuật chạm khắc truyền thống của các hiệp thợ Nam Định, Hà

Tây mang từ quê nhà đến Thanh Hóa được tiếp tục bảo lưu; (2) Sự nỗ

lực tiếp thu và sáng tạo mới của các hiệp thợ người Thanh Hóa; (3)

Vai trò dẫn dắt, chi phối văn hóa địa phương và vai trò chi phối của

các nhà bảo trợ công trình vốn là tầng lớp quan tướng đương thời.

4.2. Phong cách đặc trưng trong nghệ thuật chạm khắc gỗ thế

kỷ XVII – XIX ở Thanh Hóa

Hình ảnh đa diện về con người trong chạm khắc gỗ ở Thanh Hóa

TK XVII – XIX. Hình tượng Thần tiên chiếm vị trí trung tâm về đề tài

liên quan đến hình ảnh con người ở nghệ thuật chạm khắc gỗ truyền

thống Thanh Hóa.

4.3. Kỹ thuật, phương pháp tạo hình nghệ thuật chạm khắc gỗ

TK XVII - XIX ở Thanh Hóa

Nhóm chạm kênh, khối nông là nhóm phong cách khá gần gũi với

nghệ thuật cham khắc gỗ đầu TK XVII ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.

21

Nhóm chạm khắc gỗ có bố cục kết hợp các loại khối bong, lộng,

kênh. Đây là phong cách được xác định tiếp tục truyền thống đầu TK

XVII nhưng được bổ sung nhiều kỹ thuật mới, biểu hiện sự sung mãn

của thời kỳ phục hồi kinh tế nông thôn Thanh Hóa TK XVIII.

Nhóm chạm khắc gỗ có bố cục khối bong, chạm lộng và thiên sang

tượng tròn, biểu cảm mạnh mẽ, phong cách nghệ thuật TK XIX.

Nghệ nhân chạm khắc gỗ Thanh Hóa cùng với các hiệp thợ vùng

châu thổ Bắc Bộ, chính là những tác giả trực tiếp chạm khắc làm nên

những tác phẩm mang nhiều ý nghĩa văn hóa và nghệ thuật quí giá trên

đất Thanh: Cảm hứng sáng tạo của nghệ nhân được hưng phấn, khuyến

khích cao trong mối liên hệ đặc biệt với các công trình đình, đền, chùa

vốn là những yêu cầu nghiêm chặt về tín ngưỡng, tôn giáo (1). Hiện

trạng kinh tế xã hội làng xã nông thôn, đời sống nông dân xứ Thanh ở

TK XVII - TK XIX có nhiều khó khăn do sự kiêm tính đất đai của các

thế lực quan tướng đương thời cũng như sự ảnh hưởng nặng nề từ hai

cuộc nội chiến trong TK XVI-XVII mà Thanh Hóa vốn là địa bàn bị vắt

kiệt sức dân một cách khắc nghiệt (3). Những tác động nhất định về mặt

tư tưởng của tầng lớp quan tướng, họ là mạnh thường quân cho việc xây

dựng đền, đình, chùa ở Thanh Hóa TK XVII - XIX.

4.4. Hiệu quả mới trong giao lưu của các hiệp thợ Thanh Hóa

với vùng đồng bằng Bắc Bộ trong nghệ thuật chạm khắc gỗ

Tiếp thu kỹ thuật chạm khắc gỗ ở các làng nghề vùng đồng bằng

Bắc Bộ, phát triển, tạo ra những nét độc đáo riêng về chủ đề, tạo hình

dự trên ba yếu tố: Cảm hứng sáng tạo của người thợ; ảnh hưởng của

kinh tế xã hội làng xã; tác động của quan tướng, mạnh thường quân.

4.5. Nghệ thuật chạm khắc gỗ thế kỷ XVII - XIX ở Thanh Hóa

từ góc nhìn Mỹ thuật học

4.5.1. Thủ pháp về không gian đồng hiện: Không gian đồng hiện

đã được sử dụng để ghép nối những hoạt cảnh sinh hoạt trong cuộc

22

sống hàng ngày của người dân như đấu vật, thuần dưỡng vật nuôi,

cùng biểu hiện với không gian thiêng như tiên thần, tứ linh, tứ quý.

4.5.2. Thủ pháp cường điệu: Thủ pháp cường điệu còn được các

nhệ nhân sử dụng khi lược bỏ những chi tiết không quan trọng, nhằm

nhấn mạnh nội dung hoặc diễn tả nội tâm, tình cảm của nhân vật trong

mảng chạm chủ yếu là hình tượng người và thần tiên.

4.5.3. Thủ pháp nhiều điểm nhìn: Thủ pháp nhiều điểm nhìn đã

đóng vai trò quan trọng, góp phần tạo nên những nhịp điệu và sự cân

bằng của bố cục, cũng như khẳng định giá trị thẩm mỹ ở từng bức

chạm.

4.6. Kế thừa và phát huy giá trị của nghệ thuật chạm khắc gỗ

thế kỷ XVII-XIX ở Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay

Nghệ thuật chạm khắc gỗ có thể xem là những tín hiệu, ngôn ngữ,

thông điệp đặc biệt đối với cộng đồng dân chúng ở làng quê, đặc biệt

trong bối cảnh TK XVII - XIX ở Thanh Hóa không chỉ làm tăng mỹ

cảm cho một kiến trúc, mà hơn nữa có còn thu hút, khai thông khả

năng tư duy liên tưởng về một vấn đề nhân sinh nào đó.

Cần nâng cao nhận thức cộng đồng và trách nhiệm của cơ quan

quản lý văn hóa

Cần cao chất lượng nghiên cứu và quảng bá các giá trị của nghệ

thuật chạm khắc gỗ Thanh Hóa cho cộng đồng cùng tham gia bảo vệ.

Tiểu kết

Nghệ thuật chạm khắc gỗ ở Thanh Hóa TK XVII - XIX tương đồng

với nghệ thuật chạm khắc gỗ vùng đồng bằng Bắc Bộ trong kỹ thuật, và

biểu đạt hình tượng.

Kỹ thuật và phương pháp biểu đạt hình tượng trong nghệ thuật chạm

khắc gỗ TK XVII - XIX ở Thanh Hóa từ cuối TK XVIII, XIX đã thể

hiện những giá trị mới, tiết tấu hình khối mạnh mẽ, khúc chiết, hình

23

tượng gia đình rồng (rồng ổ, rồng Cha, Mẹ, rồng con và các linh vật, cây

cỏ hòa đồng) xuất hiện nhiều hơn trên các bố cục.

Nghệ thuật chạm khắc gỗ thế kỷ XVII - XIX ở Thanh Hóa dưới góc

nhìn của Mỹ thuật học cho thấy những thành tựu trong tạo hình dân

gian ở TK XVII - XIX có những bước tiến nhất định. Đó là khả năng

tả thực và khả năng sử lý trang trí bề mặt kiến trúc một cách độc đáo.

Đặc trưng chung trong bố cục chạm khắc gỗ Thanh Hóa là nghệ nhân

thường coi trọng thủ pháp lấy ý diễn hình hơn là lấy hình diễn ý.

KẾT LUẬN

Thông qua nghiên cứu đề tài luận án Nghệ thuật chạm khắc gỗ TK

XVII-XIX ở Thanh Hóa, NCS đưa ra một số kết luận như sau:

1. Nghệ thuật chạm khắc gỗ Thanh Hóa là một bộ phận quan trọng

của mỹ thuật truyền thống Việt Nam. Chính vì vậy nghiên cứu về nghệ

thuật chạm khắc gỗ TK XVII-XIX ở Thanh Hóa là rất cần thiết.

2. Nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc ở Thanh Hóa phát triển từ lâu

đời, từ thời Đông Sơn, Lý, Trần, Lê... hiện còn để lại nhiều dấu tích,

cho thấy sự phát triển liên tục và liền mạch của loại hình nghệ thuật

này.

3.Về niên đại, từ TK XVII về trước chưa tìm thấy công trình chạm

khắc gỗ ghi chép niên đại khởi dựng hay trùng tu trên thượng lương.

4. Về nội dung, đề tài chạm khắc gỗ Thanh Hóa TK XVII-XIX cơ

bản tiếp nối mạch nguồn truyền thống của nghệ thuật chạm khắc gỗ

vùng châu thổ Bắc Bộ. Những điểm khác là hình tượng tứ linh, tứ quý

nhiều hơn.

5. Mật độ chạm khắc gỗ Thanh Hóa ở TK XVII-XIX trên kiến trúc

thường thấp hơn so với các di tích đồng bằng Bắc Bộ. Trong khi đó

các đình làng đồng bằng Bắc Bộ có mật độ chạm khắc cao hơn.

6. Phong cách nghệ thuật chạm khắc gỗ TK XVII- XIX ở Thanh

Hóa có thể chia theo 3 nhóm đặc trưng: (1) phong cách nghệ thuật

24

chạm khắc gỗ TK XVII mang sự tinh tế trau chuốt, khối mỏng, nhưng

giầu chất trang trí (đại diện là chạm khắc ở chùa Hoa long, Hậu cung

Bảng Môn Đình, Hậu cung đền Trần Khát Chân); (2) phong cách chạm

khắc gỗ TK XVIII mang tính khỏe khoắn, nhưng vẫn chú trọng đến

tính trang trí và sự dàn trải mô típ che kín bề mặt một số vị trí kiến trúc

(đình Thượng Phú, đình Phú Điền, đình Trung, đền Độc Cước); (3)

phong cách nghệ thuật chạm khắc gỗ TK XIX chú trọng biểu hiện về

khối và hình lớn có tính chất áp chế. Kỹ thuật chạm bong, kết hợp

chạm lộng, chạm thủng ở đình, đền, chùa; kỹ thuật chạm nông thường

vận dụng ở nhà dân (tiêu biểu là đình Đông Môn, đền Lý Thường Kiệt,

nhà tiền tế đền Trần Khát Chân).

7. Nghệ thuật chạm khắc gỗ Thanh Hóa ở TK XVII-XIX mang

những nét độc đáo, thông qua các bố cục vừa đề cao “thần tiên, linh

vật”, nhưng cũng xuất hiện nhiều bố cục đề cập đến khát vọng hồn

nhiên về một sự no ấm, yên bình đầy tính nhân hóa với các mô típ

“hoa lá, chim chóc, thú vật”. Số lượng hình khắc liên quan đến hình

tượng con người bình dân trong chạm khắc gỗ Thanh Hóa TK XVII-

XIX là khá khiêm tốn so với các di tích cùng thời ở đồng bằng Bắc

Bộ.

8. Về kỹ thuật: chạm khắc gỗ Thanh Hóa từ TK XVII chịu ảnh

hưởng sâu sắc từ phường thợ Hà Tây, Nam Định. Từ TK XVIII- XIX

các phường thợ Thanh Hóa từng bước học việc và khẳng định phong

cách riêng (đền Lý Thường Kiệt, Đình Đông Môn…)

9. Nghệ thuật chạm khắc gỗ TK XVII- XIX ở Thanh Hóa là một loại

hình di sản nghệ thuật độc đáo cần tiếp tục nghiên cứu và có giải pháp bảo

tồn và phát huy hiệu quả trong bối cảnh mới.

25

NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG LUẬN ÁN

1. Trần Việt Anh (2012), “Vài đặc điểm về chạm khắc gỗ trên di

sản văn hóa xứ Thanh, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 2 (31), tr

76-79.

2. Trần Việt Anh (2013), “Xứ Thanh trên dòng chảy lịch sử”, Tạp

chí Di sản Văn hóa, số 2 (43), tr 67-69.

3. Trần Việt Anh (2014), “Sông Mã - Dòng sông chở phù sa văn

hóa”, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 3 (48), tr 40-43.

4. Trần Việt Anh (2016), “Về hình tượng con người trong di sản

văn hóa ở Thanh Hóa”, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 2 (55), tr

42- 45.

5. Trần Việt Anh (2017), “Về nghệ thuật của chùa Hoa Long và đền

Trần Khát Chân ở Thanh Hóa”, Tạp chí Văn hóa học, số 1

(29), tr 93-97.

6. Trần Việt Anh (2017), “Về nghệ thuật tạo hình gà trên di sản văn

hóa xứ Thanh”, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 4 (61), tr 67- 70.