ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
_______________________
LƯU MẠNH QUỲNH
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO VẬT LIỆU NANO BÁN DẪN PbS,
NANO KIM LOẠI QUÝ Au, Ag
VÀ ỨNG DỤNG TRONG CHẾ TẠO CẢM BIẾN SINH HỌC
Chuyên ngành: Vật lý chất rắn
Mã số: 9441030.02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VẬT LÝ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS. TS. LÊ VĂN VŨ
2. PGS. TS. NGUYỄN NGỌC LONG
Hà Nội – 2020
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Lê Văn Vũ và
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Long đã luôn tận tình hƣớng dẫn, dìu dắt tôi trong quá trình
nghiên cứu thực hiện luận án này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Trung tâm Khoa học Vật liệu, Khoa Vật lý,
Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc Gia Hà Nội đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi để tôi có thể hoàn thành quá trình học tập nghiên cứu, thực hiện luận án.
Tôi cũng xin cảm ơn Bộ môn Sinh học tế bào, Khoa Sinh học, Trƣờng Đại
học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội; Viện nghiên cứu tế bào gốc và
công nghệ gen, Bệnh viện Đa khoa Quốc Tế VINMEC đã tận tình giúp đỡ, tạo điều
kiện để tôi thực hiện các nghiên cứu ứng dụng sinh học liên quan đến đề tài.
Xin gửi lời cảm ơn tới ThS. Nguyễn Quang Hòa, ThS. Vƣơng Văn Hiệp, ThS.
Sái Công Doanh cùng tập thể anh chị em Khoa Vật lý, Trƣờng Đại học Khoa học Tự
nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội đã luôn hỗ trợ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận
án.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ sự biết ơn tới những ngƣời thân trong gia đình, các
em sinh viên Khoa Vật lý luôn sát cánh cùng tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu thực hiện luận án. Cảm ơn bạn bè và đồng nghiệp đã luôn động viên, cổ vũ để tôi
hoàn thành luận án này.
Tác giả
i
Lƣu Mạnh Quỳnh.
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoạn đây là công trình nghiên cứu riêng của tác giả dƣới sự
hƣớng dẫn của PGS. TS. Lê Văn Vũ và PGS. TS. Nguyễn Ngọc Long. Các số liệu và
kết quả trong luận án là trung thực và chƣa đƣợc tác giả khác công bố trong bất kỳ
công trình nào.
Hà Nội, tháng 2 năm 2020.
Tác giả
ii
Lƣu Mạnh Quỳnh
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................................ i LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................................... ii MỤC LỤC ..................................................................................................................................... iii DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT ...................................................................... v DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................................... vii DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ..................................................................................................... viii MỞ ĐẦU ......................................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................................... 1 2. Mục tiêu luận án .......................................................................................................................... 4 3. Nội dung nghiên cứu .................................................................................................................... 4 4. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................................................. 5 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án .................................................................................. 5 6. Những đóng góp mới của luận án ................................................................................................ 6 Cấu trúc của luận án ......................................................................................................................... 6 CHƢƠNG 1.TỔNG QUAN ............................................................................................................ 8 1.1. CẢM BIẾN SINH HỌC ........................................................................................................... 8 1.2. CẢM BIẾN SINH HỌC XÁC ĐỊNH NỒNG ĐỘ GLUCOSE .............................................. 11 1.2.1. Cảm biến sinh học điện hóa đo nồng độ glucose ................................................................. 11 1.2.2. Cảm biến sinh học đo nồng độ glucose sử dụng vật liệu nano ............................................ 16 1.2.3. Lựa chọn đối tƣợng vật liệu ................................................................................................. 18 1.3. CẢM BIẾN ĐO ĐẠC NỒNG ĐỘ TẾ BÀO GỐC MÁU ...................................................... 18 1.3.1. Nguyên lý kháng nguyên – kháng thể trong nhận biết tế bào .............................................. 19 1.3.2. Cảm biến sinh học sử dụng phép đo tổng trở trong đo đạc tế bào ....................................... 22 1.3.3. Vật liệu nano trong cảm biến đo đạc tế bào ......................................................................... 25 1.3.4. Lựa chọn đối tƣợng vật liệu ................................................................................................. 27 1.4. CÁC PHƢƠNG PHÁP CHẾ TẠO VẬT LIỆU ...................................................................... 28 1.4.1. Vật liệu sulfide kim loại ....................................................................................................... 28 1.4.2. Vật liệu nano kim loại .......................................................................................................... 29 1.4.3. Vật liệu đa chức năng từ tính – kim loại .............................................................................. 31 1.5. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƢỚC ....................................................................... 32 KẾT LUẬN CHƢƠNG I ............................................................................................................... 36 CHƢƠNG 2: CHẾ TẠO VẬT LIỆU VÀ CÁC PHƢƠNG PHÁP PHÂN TÍCH ......................... 37 2.1. CHẾ TẠO VẬT LIỆU ............................................................................................................ 37 2.1.1. Chế tạo vật liệu PbS bằng phƣơng pháp hóa siêu âm kết hợp ủ laser ................................. 37 2.1.2. Chế tạo các hạt nano kim loại bằng phƣơng pháp nuôi mầm .............................................. 38 2.1.3. Chế tạo các hạt nano đa chức năng bằng phƣơng pháp hóa ƣớt .......................................... 39
iii
MỤC LỤC
2.2. CÁC PHƢƠNG PHÁP PHÂN TÍCH ..................................................................................... 43 2.2.1.Các phƣơng pháp thực nghiệm ............................................................................................. 43 2.2.2.Phƣơng pháp tính toán lý thuyết ........................................................................................... 54 KẾT LUẬN CHƢƠNG II .............................................................................................................. 55 CHƢƠNG 3: VẬT LIỆU NANO PbS, NANO VÀNG VÀ NANO ĐA CHỨC NĂNG Fe3O4-Au, Fe3O4-Ag ...................................................................................................................... 57 3.1. VẬT LIỆU NANO PbS .......................................................................................................... 57 3.2. VẬT LIỆU NANO VÀNG ..................................................................................................... 63 3.3. VẬT LIỆU NANO ĐA CHỨC NĂNG Fe3O4-Au, Fe3O4-Ag ............................................... 72 3.3.1. Vật liệu nano từ tính Fe3O4 .................................................................................................. 72 3.3.2. Vật liệu nano đa chức năng Fe3O4-Au ................................................................................. 74 3.3.3. Vật liệu nano đa chức năng Fe3O4-Ag ................................................................................. 84 KẾT LUẬN CHƢƠNG III ............................................................................................................ 88 CHƢƠNG 4: ỨNG DỤNG VẬT LIỆU NANO TRONG CHẾ TẠO CẢM BIẾN SINH HỌC ............................................................................................................................................... 90 4.1. CHẾ TẠO CẢM BIẾN GLUCOSE SỬ DỤNG CÁC HẠT NANO PbS .............................. 90 4.1.1. Thiết kế cảm biến và phƣơng pháp đo đạc .......................................................................... 90 4.1.2. Kết quả và thảo luận ............................................................................................................ 93 4.1.3. Tƣơng tác giữa hạt PbS với phân tử 4-ATP ...................................................................... 100 4.2. ỨNG DỤNG CÁC HẠT NANO TỪ TÍNH – KIM LOẠI TRONG PHÂN LẬP TẾ BÀO GỐC MÁU TỪ MẪU TỦY XƢƠNG ............................................................................... 102 4.2.1. Thiết kế cảm biến và phƣơng pháp đo đạc ........................................................................ 103 4.2.2. Kết quả và thảo luận .......................................................................................................... 107 KẾT LUẬN CHƢƠNG IV .......................................................................................................... 123 KẾT LUẬN .................................................................................................................................. 125 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ............................................ 126 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................... 127
iv
Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt
4-ATP A2P-TRP
ADN ADP ATP APTES CE CNT CPE CTAB CV DFT ĐH BKHN ĐH KHTN ECD
EDC FACS
FAD FADH Fe(cp2) [Fe(CN)6]3-/4- FITC
v
G-6P-D GHD GOx HIV HR-TEM 4-aminothiophenol Phƣơng pháp hai pha nƣớc sử dụng polymer nhạy với nhiệt độ (Aquaeous two-phase system using temperature responsive polymer) A xít Deoxyribose nucleotide Adenosine diphosphate Adenosine triphosphate (3-Aminopropyl)triethoxysilane Điện cực đếm (Counter Electrode) Ống nano các bon (Carbon nanotube) Phần tử pha hằng số (Constant phase element) Cetyltrimethyl ammonium bromide Hiệu điện thế quét vòng (Cyclic voltammetry) Lý thuyết hàm mật độ (Density Funtional Theory) Trƣờng Đại học Bách Khoa Hà Nội Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội Chất huỳnh quang hữu cơ, phát ánh sáng đỏ (Phycoerythrin – Texas Red) 1-Ethyl-3-(3-dimethylaminopropyl) carbodiimide Phƣơng pháp lọc phân lập tế bào kích hoạt huỳnh quang (Fluorescence-activated cell sorting) Flavin adenine dinucleotide Dạng khử của FAD khi thêm một nguyên tử hydrogen Ferrocencemonocarbolxylic acid Dung môi Ferrocianide Chất huỳnh quang hữu cơ phát ánh sáng xanh lá cây (Fluorescein isothiocyanate) Enzyme Glucose-6P-dehydrogenase Enzyme Glucose-1-dehydrogenase Enzyme Glucose Oxidase Virus gây suy giảm miễn dịch (Human immunodeficiency virus) Hiển vi điện tử truyền qua phân giải cao (High resolution TEM)
LDA
MACS
MetS NAD+ NADH NADP+ NADPH NAFOSTED PBS PGSTATS PS PVP QDs RE SDS SELEX
SEM SER SERS
TA TAA TEM truyền qua (Transmitted electron tử
TO TOAB UV-vis VSM trên hệ
vi
WE XRD Phƣơng pháp tính toán gần đúng dựa trên hàm mật độ định xứ (Localized Density Approximation). Phƣơng pháp phân lập tế bào kích hoạt từ (magnetic-activated cell sorting) Vật liệu sulfide kim loại Nicotinamide adenine dinucleotide Dạng khử của NAD khi thêm một nguyên tử hydrogen Nicotinamide adenine dinucleotide phosphate Dạng khử của NADP+ khi thêm một nguyên tử hydrogen Quỹ phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia Đệm phosphate (Phosphate buffer solution) Hệ điện hóa tích hợp (Nhà sản xuất và cung cấp: MetroOhm) Polystyrene Polyvinyl pyrolidone Chấm lƣợng tử (Quantum dots) Điện cực tham chiếu (Reference Electrode) Sodium dodecyl sulphate Phƣơng pháp phát triển hệ thống các phối tử bởi sự làm giàu theo hàm mũ (systematic evolution of ligands by exponential enrichment) Kính hiển vi điện tử quét Raman tăng cƣờng bề mặt (Surface enhanced Raman) Tín hiệu Raman tăng cƣờng bề mặt (Surface enhanced Raman signal) Dao động âm ngang (transverse aucostic) Thioacetamide Kính hiển vi điện microscope) Dao động quang ngang (transverse optic) Tetraoctyl ammonium bromide Tử ngoại – khả kiến (phổ hấp thụ quang học trong vùng UV-vis) Phép đo từ kế mẫu rung (Vibrating sample measurement) Điện cực làm việc (Working Electrode) Giản đồ nhiễu xạ tia X (X-ray diffraction)
Danh mục các bảng
Bảng 1.1. Các phần tử có thể đƣợc dùng để chế tạo cảm biến sinh học .............................. 9
Bảng 1.2. Thống kê một số nghiên cứu ứng dụng vật liệu nano để chế tạo cảm biến sinh học xác định nồng độ glucose .................................................................................... 17
Bảng 1.3. Ƣu và nhƣợc điểm một số phƣơng pháp sử dụng cơ chế cảm biến sinh học để lọc tế bào gốc ................................................................................................................. 21
Bảng 1.4. Thống kê nghiên cứu về chế tạo cảm biến sinh học tại một số cơ sở nghiên cứu trong nƣớc ................................................................................................................... 35
Bảng 3.1. So sánh giá trị hằng số mạng và kích thƣớc tinh thể tính toán từ giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu chứa các hạt PbS trƣớc và sau khi ủ nhiệt laser ........................... 61
Bảng 4.1. Bảng thống kê các kết quả tính toán lý thuyết và đo đạc vị trí đỉnh đặc trƣng Raman tăng cƣờng bề mặt của phân tử 4-ATP trên bề mặt các hạt nano vàng ...... 109
vii
Bảng 4.2. Bảng các tham số fit đƣợc từ các kết quả đo tổng trở ..................................... 121
Danh mục các hình vẽ
Hình 1.1. Sơ đồ khối của cảm biến sinh học ...................................................................... 10
Hình 1.2. Mô hình các thế hệ cảm biến sinh học xác định nồng độ glucose. .................... 13
Hình 1.3. Cấu trúc thƣờng thấy của WE trong cảm biến sinh học đo nồng độ glucose .... 15
Hình 1.4. Đồ thị hiệu chỉnh đặc trƣng của cảm biến sinh học sử dụng enzyme GOx ....... 16
Hình 1.5. Mô hình nguyên lý liên kết kháng nguyên - kháng thể trong cảm biến sinh học khảo sát, đo đạc tế bào ................................................................................................. 20
Hình 1.6. Nghiên cứu sử dụng kháng thể cố định trên bề mặt điện cực để đo nồng độ tế bào (ở đây là E. Coli) và sự thay đổi của Rct theo nồng độ tế bào ................................. 22
Hình 1.7. Ứng dụng mô hình đơn giản R//C trong khảo sát tế bào bám trên bề mặt điện cực .............................................................................................................................. 24
Hình 1.8. Một số mô hình điện cực kích thƣớc micromet đƣợc thiết kế để khảo sát tế bào ...................................................................................................................................... 25
Hình 1.9. Mô hình cảm biến sử dụng còi carbon làm điện cực để tăng diện tích tiếp xúc cũng nhƣ độ tƣơng thích sinh học; sau đó các hạt nano vàng đƣợc chức năng hóa, bắt cặp với kháng thể đặc hiệu rồi cố định lên trên bề mặt tế bào để làm tăng tín hiệu điện hóa ...................................................................................................................... 26
Hình 1.10. Thống kê số đề tài NAFOSTED về cảm biến sinh học từ năm 2011 đến năm 2016 ............................................................................................................................ 33
Hình 2.1. Chế tạo các hạt nano PbS bằng phƣơng pháp hóa siêu âm. Hình A mô tả các bƣớc thí nghiệm chế tạo hạt. Hình B là ảnh thực tế quá trình chế tạo hạt. .................. 37
Hình 2.2. Quy trình chế tạo và nghiên cứu sự phát triển của các hạt nano vàng trong dung dịch chứa chất hoạt động bề mặt. .............................................................................. 39
Hình 2.3. Quy trình chế tạo các hạt nano Fe3O4 bằng phƣơng pháp đồng kết tủa ............ 41
Hình 2.4. Mô tả tán xạ của chùm tia X trên bề mặt tinh thể .............................................. 44
Hình 2.5. Cấu trúc và hoạt động của máy đo nhiễu xạ tia X (XRD). Hình A: mô hình hoạt động của một máy XRD. Hình B: Ảnh của máy XRD Siemens D5005 tại Trung tâm Khoa học Vật liệu, Khoa Vật lý, Trƣờng Đại học KHTN. ......................................... 45
Hình 2.6. Hình ảnh hệ đo LabRAM HR800, Horiba tại Trung tâm Khoa học Vật liệu, Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội . ..................................... 46
viii
Hình 2.7. Cấu trúc đơn giản của hệ hiển vi điện tử truyền qua (TEM) ............................. 47
Hình 2.8. Hệ đo UV-2450, Shimadzu tại Trung tâm Khoa học Vật liệu, Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. .......................................................... 48
Hình 2.9. Phƣơng pháp hiệu điện thế quét vòng. Hình A biểu diễn sự phụ thuộc thời gian của điện thế đặt vào WE dạng xung tam giác với chu kỳ 2T. Hình B biểu diễn sự phụ thuộc dòng điện đi qua CE phụ thuộc vào hiệu điện thể đặt vào WE – giản đồ I-V ...................................................................................................................................... 50 Hình 2.10. Mô hình mạch tƣơng đƣơng của dung dịch chứa ion Mn+ (Mô hình của Randles). Hình A là mô hình mạch tƣơng đƣơng. Hình B là giản đồ Nyquist của mạch điện tƣơng đƣơng với các giá trị Rct khác nhau........................................................ 52
Hình 2.11. Hệ đo PGSTAT302N tại Trung tâm Khoa học Vật liệu, Khoa Vật lý, Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. ...................................... 53
Hình 3.1. Ảnh TEM (A) và HRTEM (B) và ảnh chụp nhiễu xạ điện tử (C) của mẫu các hạt nano PbS đƣợc chế tạo bằng phƣơng pháp hóa siêu âm ........................................ 57
Hình 3.2. Nghiên cứu ảnh hƣởng của quá trình ủ nhiệt laser đến phổ tán xạ Raman của mẫu bột chứa các hạt nano PbS ................................................................................... 58
Hình 3.3. Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu chứa các hạt nano PbS trƣớc (a) và sau khi (b) ủ nhiệt laser ................................................................................................................... 60
Hình 3.4. Tính toán độ rộng vùng cấm của các hạt nano PbS đƣợc chế tạo bằng phƣơng pháp hóa siêu âm từ phổ hấp thụ quang học. Hình trong: phổ hấp thụ quang học đo trên hệ UV245, Shimadzu của mẫu dung dịch chứa các hạt nano PbS ................. 63
Hình 3.5. Ảnh hiển vi điện tử truyền qua (TEM) của các hạt nano Au. Hình A: ảnh TEM của các hạt ngay sau khi chế tạo. Hình B: ảnh TEM của các hạt sau khi ngâm trong 70 mM CTAB 4 tháng. Hình C: phổ phân bố kích thƣớc hạt của hai trƣờng hợp trên ...................................................................................................................................... 65
Hình 3.6. Phổ hấp thụ của dung dịch chứa các hạt nano vàng ngâm trong 70 mM CTAB, đƣợc đo ở các thời gian sau khi ngâm khác nhau lần lƣợt từ 1h đến 720h ........... 66
Hình 3.7. Sự phụ thuộc của vị trí đỉnh phổ hấp thụ UV-vis vào kích thƣớc hạt nano Au. Hình vẽ là kết quả tổng hợp từ các tài liệu tham khảo và các kết quả đo đƣợc từ các hạt nano vàng đã đƣợc chế tạo với các công nghệ khác nhau để có kích thƣớc khác nhau............................................................................................................................ 68
ix
Hình 3.8. Sự phụ thuộc của kích thƣớc hạt nano Au theo thời gian khi đƣợc ngâm trong các môi trƣờng dung môi khác nhau. Kích thƣớc hạt đƣợc tính toán từ lý thuyết Mie ..................................................................................................................................... 70
Hình 3.9. Giản đồ nhiễu xạ tia X (XRD) của mẫu chứa các hạt nano Fe3O4 đƣợc chế tạo bằng phƣơng pháp đồng kết tủa ................................................................................... 72
Hình 3.10. Ảnh TEM và HRTEM của mẫu các hạt Fe3O4 làm bằng phƣơng pháp đồng kết tủa ........................................................................................................................ 73
Hình 3.11. Đƣờng cong từ trễ của mẫu bột chứa các hạt nano Fe3O4 đƣợc chế tạo bằng phƣơng pháp đồng kết tủa ......................................................................................... 74
Hình 3.12. Đƣờng I-V thế quét vòng của mẫu chứa 1 mM HAuCl4 tại pH 3 ................... 75
- có tổng nồng Hình 3.14. Tổng điện tích điện hóa trong quá trình ion Au(OH)xCl4-x độ là 1 mM bị khử tại các pH khác nhau (hình trái) và phần trăm lƣợng ion bị hấp phụ lên bề mặt hạt nano Fe3O4 sau khi ngâm trong thời gian 30 phút (hình phải) ............ 78
Hình 3.13. Đƣờng phụ thuộc I-V phép đo điện thế quét vòng giới hạn trên đƣờng khử từ 0,1V đến 1,2 V của mẫu chứa dung dịch HAuCl4 1 mM ở các giá trị pH khác nhau ... 77
Hình 3.15. Ảnh TEM các hạt nano Fe3O4-Au dạng phức hợp đƣợc tạo thành từ việc khử dung dịch HAuCl4 bằng NaBH4 sau khi hạt Fe3O4 đƣợc ngâm trong dung dịch HAuCl4 ở pH 3 ................................................................................................................... 79
Hình 3.16. Ảnh TEM các hạt nano Fe3O4 trƣớc và sau khi gắn với các hạt nano Au. Hình A: Ảnh TEM của các hạt nano từ trƣớc khi gắn với các hạt nano Au.Hình B: các hạt nano Fe3O4 dạng phức hợp đƣợc tạo thành từ việc khử dung dịch HAuCl4 bằng NaBH4 sau khi ngâm các hạt Fe3O4 trong dung dịch 30 phút ở pH 8 ....................... 80
Hình 3.17. Giản đồ nhiễu xạ tia X (XRD) của mẫu chứa các hạt nanophức hợp Fe3O4-Au và của mẫu chứa các hạt nano Fe3O4................................................................................................. 81
Hình 3.18. Phổ hấp thụ của dung dịch chứa các hạt nano vàng tại các thời điểm khác nhau sau khi đặt nam châm bên cạnh cuvette .................................................................... 82
Hình 3.19. So sánh kích thƣớc các hạt nano Fe3O4 và Fe3O4-Ag. Hình A: Ảnh TEM của mẫu hạt Fe3O4. Hình B:Ảnh TEM của mẫu Fe3O4-Ag................................................ 84
Hình 3.20. Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu chứa các hạt nano Fe3O4 và các hạt nano phức hợp Fe3O4-Ag ............................................................................................................ 85
Hình 3.21. Đƣờng cong từ trễ của mẫu bột chứa các hạt nano Fe3O4 (□), Fe3O4- APTES (○) và Fe3O4-Ag (∆). Các đƣờng nét liền là các đƣờng khớp hàm Langevin....... 86
Hình 3.22. Biểu diễn sự phụ thuộc của cƣờng độ hấp thụ vào nồng độ hạt đa chức năng Fe3O4-Ag ................................................................................................................... 87
x
Hình 3.23. Sự giảm của nồng độ các hạt Fe3O4-Ag trong dung dịch khi sử dụng nam châm để hút ........................................................................................................................ 88
Hình 4.1. Mô tả cấu tạo điện cực làm việc của cảm biến sinh học xác định nồng độ glucose có sử dụng các hạt nano PbS ................................................................................. 92
Hình 4.2. Vai trò của GOx trong quá trình ô xi hóa của glucose và cảm biến xác định nồng độ glucose bằng điện cực vàng ................................................................................. 93
Hình 4.3. So sánh kết quả đo điện thế quét vòng (CV) của dung dịch chứa 0,2 mM glucose khi sử dụng điện cực chế tạo từ PbS-GOx với kết quả đo CV của mẫu dung dịch chứa GOx ................................................................................................................... 94
Hình 4.4. Kết quả đo CV của dung dịch chứa glucose với nồng độ tăng từ 0,1 M đến 1,3 M trên hệ điện hóa với điện cực WE có PbS-GOx ...................................................... 95
Hình 4.5. So sánh độ nhạy của cảm biến glucose đo trên hệ điện cực PbS với cảm biến glucose đo trên điện cực vàng .................................................................................... 97
Hình 4.6. Tính toán độ nhạy của cảm biến từ đỉnh ô xi hóa tại 1,14 V với điện cực làm việc WE có PbS-GOx .................................................................................................. 98
Hình 4.7. Mô tả phƣơng pháp tính toán phản ứng liên kết giữa phân tử 4-ATP và bề mặt PbS ............................................................................................................................ 100
Hình 4.8. Phụ thuộc tổng năng lƣợng của hệ PbS-4ATP phụ thuộc vào khoảng cách giữa hai nguyên tử tham gia liên kết (A) và giản đồ phân bố mật độ electron tại vị trí có tổng năng lƣợng thấp nhất (B) – liên kết là bền nhất .................................................. 101
Hình 4.9. Cấu hình bền vững của hệ PbS-4ATP sau khi liên kết: mặt phẳng phân tử 4-ATP tạo với mặt phẳng (001) của tinh thể một góc là 23,14o ...................................... 102
Hình 4.14. Cơ chế hoạt động của cảm biến sinh học sử dụng các hạt nano Fe3O4-Ag để phân lập và khảo sát tế bào gốc máu từ tủy xƣơng ..................................................... 103
Hình 4.15. Thiết kế điện cực sử dụng trong cảm biến đo nồng độ tế bào bằng phƣơng pháp điện tổng trở (A) và ảnh SEM của bề mặt điện cực (B) .......................................... 103
Hình 4.16. Ảnh chụp trên kính hiển vi phƣơng pháp đếm tế bào bằng buồng đếm – Diện tích của một buồng nhỏ là 5 μm × 5 μm, chiều cao của buồng là 100 μm ............. 106
Hình 4.17. Mô hình sự có mặt của các tế bào gốc máu trên bề mặt điện cực.................. 107
Hình 4.18. Nghiên cứu phổ tán xạ Raman của các mẫu chứa các hạt nano sau khi gắn kháng thể .......................................................................................................................... 108
xi
Hình 4.19. Sự phụ thuộc của cƣờng độ huỳnh quang tại 610 nm của dung dịch chứa kháng thể ECD-antiCD34 vào nồng độ đƣợc pha loãng trong dung dịch đệm PBS ....... 110
Hình 4.20. Đánh giá hiệu suất gắn kháng thể lên các hạt Fe3O4-Au phụ thuộc vào tỉ lệ thể tích của dung dịch chứa hạt và thể tích dung dịch gốc chứa kháng thể ECD- antiCD34 .......................................................................................................................... 111
Hình 4.21. Kết quả hiển vi huỳnh quang của mẫu tủy xƣơng trƣớc (A, B) và sau (C, D) khi sử dụng các hạt nano Fe3O4-Ag-antibody để tách chiết tế bào gốc. A,C: huỳnh quang chỉ thị tế bào CD45+ và B,B: huỳnh quang chỉ thị tế bào CD34+ ........................ 113
Hình 4.22. Ảnh hiển vi trƣờng sáng (ảnh trên) và trƣờng tối (ảnh dƣới) của mẫu tế bào sau khi lọc và phổ tán xạ Raman tại các vị trí dƣợc đánh dấu trong hình ................ 114
Hình 4.23. Kết quả phép đo tổng trở trên hệ điện cực đã thiết kế với các nồng độ tế bào lần lƣợt là C0/5, C0/10, C0/20 và C0/50...................................................................... 116
Hình 4.24. Mô hình tổng trở của phần thể tích chiếm chỗ của 1 tế bào (ô cơ sở) ........... 117
Hình 4.25. Mô hình mạch tƣơng đƣơng của dung dịch chứa tế bào đƣợc để giữa hai điện cực đối song.............................................................................................................. 118
Hình 4.26. Mô hình mạch tƣơng đƣơng của phần dung dịch chứa tế bào ....................... 119
Hình 4.27. Kết quả khớp số liệu đo tổng trở với mô hình mạch tƣơng đƣơng của mẫu chứa tế bào nồng độ C0/5 ................................................................................................. 120
Hình 4.28. hình biểu diễn kết quả fit hai hàm và vào các
thông số đo đƣợc – khoảng dữ liệu lấy để fit [5:50] kHz ................................................ 121
xii
) ................................... 122 Hình 4.29. Khảo sát sự phụ thuộc tuyến tính của các giá trị trở tƣơng đƣơng 1/RC (hình A) và CC (hình B) vào nồng độ tế bào theo chiều dài (
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cảm biến sinh học chuyển hóa tín hiệu sinh học thành các tín hiệu đọc đƣợc,
đƣợc ứng dụng nhiều trong công nghệ sinh học; chuyên để theo dõi, đánh giá các đối
tƣợng sinh học [12,16]. Ƣu điểm của cảm biến sinh học là có tính chọn lọc đặc hiệu,
vì vậy đƣợc ứng dụng trong nhiều ngành khoa học, nhƣ công nghệ môi trƣờng [118]
hay công nghệ thực phẩm [14,44]. Nhờ sự phát triển của công nghệ điện tử, các tín
hiệu điện có thể điều khiển đến mức đủ nhỏ để không phá hủy mẫu sinh học, nhƣng
vẫn đảm bảo các tín hiệu đầu ra có thể đọc đƣợc [132]. Không chỉ vậy, tín hiệu điện
thƣờng dễ xử lý hơn so với các tín hiệu vật lý khác nhƣ tín hiệu quang hay tín hiệu
hóa. Vì thế, những cảm biến sinh học thế hệ đầu tiên là các cảm biến có tín hiệu đầu
ra là tín hiệu điện hóa ở dạng giản đồ thế quét vòng (CV) [44,117,118]. Cùng với
CV, các quá trình điện hóa xảy ra trên bề mặt điện cực của cảm biến điện hóa có thể
đƣợc khảo sát thông qua phƣơng pháp đo tổng trở (total impedance) [57,85,128].
Trong các cảm biến sinh học điện hóa, vật liệu nano thƣờng đƣợc đƣa lên trên
bề mặt điện cực để làm tăng diện tích tiếp xúc giữa đối tƣợng sinh học với điện cực,
nhằm tăng cƣờng tín hiệu đọc đƣợc; dẫn đến tăng độ nhạy của cảm biến [15]. Cảm
biến sinh học điện hóa xác định nồng độ glucose trong dung dịch thƣờng đƣợc sử
dụng để đánh giá vai trò của vật liệu nano trong chế tạo điện cực. Nếu nhƣ trong
những khảo sát ban đầu của D’Costa [23] và của Cass [11] - cảm biến chỉ sử dụng điện cực là các bon - độ nhạy của cảm biến lần lƣợt là 12 µAcm-2mM-1 và 5 µAcm- 2mM-1, thì khi cho thêm các vật liệu nano lên bề mặt điện cực, độ nhạy của cảm biến
tăng lên nhiều lần [1,2,70]. Đặc biệt, năm 2012, nhóm của Yang kết hợp đƣa vật liệu
nano vàng (Au) lên nền điện cực phủ grapheme, giúp cho độ nhạy của cảm biến xác định glucose đạt 711 µAcm-2mM-1[15].
Cùng hƣớng chế tạo cảm biến sinh học điện hóa xác định nồng độ glucose
trong dung dịch, nhiều vật liệu nano đã đƣợc các nhóm nghiên cứu trong nƣớc sử
1
dụng. Nhóm nghiên cứu của TS. Tống Duy Hiển thuộc Đại học Quốc gia TP HCM
sử dụng vật liệu dây Pt xốp đã đƣa đƣợc giới hạn khảo sát xuống 125 µM [60,101].
Nhóm nghiên cứu của PGS. Nguyễn Ngọc Long thuộc Trƣờng Đại học Khoa học Tự
nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội sử dụng tín hiệu điện hóa của các dây 4 chân
(tetrapod) ZnO làm tín hiệu chỉ thị để xác định nồng độ glucose trong dung dịch cho độ nhạy 166 µAcm-2mM-1 [70].
Các nghiên cứu cảm biến sinh học điện hóa hầu nhƣ chỉ tập trung vào khai
thác khả năng làm tăng độ nhạy thông qua việc làm tăng diện tích tiếp xúc giữa vật
liệu nano đƣợc cố định trên bề mặt điện cực và đối tƣợng sinh học là các enzyme ô xi
hóa khử nhƣ glucose oxidase (GOx) hay glucose dehydrogenase (GDH). Một số
nghiên cứu tính chất quang của các chấm lƣợng tử đã bƣớc đầu cho thấy sự tƣơng
thích sinh học và khả năng chuyển hóa electron giữa các phân tử GOx với các chấm
lƣợng tử chứa lƣu huỳnh nhƣ ZnS [136] hay PbS [130]. Điều này cho thấy các chấm
lƣợng tử chứa lƣu huỳnh là đối tƣợng vật liệu phù hợp cho các nghiên cứu làm tăng
độ nhạy của cảm biến sinh học điện hóa xác định nồng độ glucose trong dung dịch.
Nghiên cứu chế tạo vật liệu sulfide kim loại là thế mạnh của Trung tâm Khoa học
Vật liệu, Khoa Vật lý, Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà
Nội. Loại vật liệu này là thích hợp để ứng dụng trong chế tạo cảm biến sinh học [61].
Tuy vậy, việc nghiên cứu chế tạo vật liệu cho một loại cảm biến với đối tƣợng ứng
dụng cụ thể vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu.
Bên cạnh cảm biến sử dụng tín hiệu điện thế quét vòng, cảm biến tổng trở
cũng thƣờng đƣợc sử dụng để khảo sát các đối tƣợng sinh học, trong đó tế bào là một
trong những đối tƣợng đƣợc nhiều nhóm nghiên cứu quan tâm [128]. Ở kích thƣớc
nhỏ chỉ bằng 1/10 đến 1/100 kích thƣớc tế bào, trong cảm biến sinh học khảo sát tế
bào, các hạt nano thƣờng đƣợc điều khiển để bám lên bề mặt của tế bào một cách đặc
hiệu. Sau đó, tín hiệu điện [29,106] hay tín hiệu quang [43,63] có nguồn gốc từ các
hạt nano đƣợc sử dụng nhƣ tín hiệu đầu ra của cảm biến sinh học. Song song với tính
chất điện, quang, tính chất từ của vật liệu cũng đƣợc nhiều nhóm nghiên cứu ứng
dụng trong tách chiết tế bào [72,97,121]. Việc đƣa các hạt nano từ lên bề mặt tế bào
2
một cách đặc hiệu không chỉ hỗ trợ cho quá trình theo dõi, quan sát tế bào bằng các
phép đo từ [82], mà còn phân lập tế bào ra khỏi môi trƣờng có nhiều cơ chất, hỗ trợ
rất nhiều cho các bƣớc khảo sát, đo đạc tiếp theo. Ý tƣởng tạo ra một loại vật liệu đa
chức năng vừa có từ tính vừa có tính chất quang nhƣ các hạt nano kim loại nhằm
tách chiết chụp ảnh và đo đạc tế bào đƣợc rất nhiều nhóm nghiên cứu quan tâm
[59,88,121]. Tuy nhiên, toàn bộ các bƣớc chế tạo vật liệu, chức năng hóa để gắn đặc
hiệu lên tế bào, sau đó tách lọc tế bào trƣớc khi khảo sát tính chất điện tổng trở là
một quá trình kéo dài và cần sự kết hợp của nhiều nhóm nghiên cứu.
Trong các đối tƣợng tế bào đƣợc nghiên cứu, tế bào gốc máu đóng vai trò rất
quan trọng trong y học hiện đại. Việc theo dõi số lƣợng tế bào gốc máu có thể sử
dụng để theo dõi tình trạng sức khỏe [32]. Tế bào gốc máu có thể nuôi biệt hóa thành
các loại tế bào khác nhằm ứng dụng trong y học [51,62]. Ít thấy các nghiên cứu kết
hợp tách lọc và đếm tế bào gốc máu [25,97]. Chƣa có nhóm nghiên cứu nào sử dụng
hạt từ đa chức năng vừa tách lọc, vừa theo dõi và đếm tế bào gốc máu từ mẫu phẩm.
Một số nhóm nghiên cứu trong nƣớc đã thành công chế tạo các hạt từ đa chức năng
có đính các hạt nano kim loại nhƣ nhóm nghiên cứu của PGS. TS. Phạm Thành Huy,
Viện Tiên tiến Khoa học và Công nghệ, Trƣờng Đại học Bách Khoa Hà Nội [58] hay
nhóm nghiên cứu của PGS. TS. Nguyễn Hoàng Nam, Trung tâm Khoa học Vật liệu,
Khoa Vật lý, Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc Gia Hà Nội [31].
Trƣớc đó, nhóm nghiên cứu của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Long, Trung tâm Khoa học
Vật liệu đã thành công ứng dụng vật liệu nano vàng trong đánh dấu, chụp ảnh tế bào
ung thƣ vú [104]. Có thể thấy việc thực hiện toàn bộ quy trình từ chế tạo vật liệu,
chức năng hóa để gắn lên bề mặt tế bào gốc máu, tách chiết tế bào, chụp ảnh và đo
đạc nồng độ tế bào có tính khả thi rất cao.
Tóm lại, thông qua việc nghiên cứu tài liệu đã đƣợc công bố trong và ngoài
nƣớc, việc nghiên cứu cảm biến sinh học điện hóa tập trung vào các nội dung nhƣ
sau:
- Tín hiệu điện trong các cảm biến sinh học thƣờng là tín hiệu thế quét vòng, tín
3
hiệu điện trở hay tín hiệu điện tổng trở.
- Gắn liền với tín hiệu thế quét vòng là đối tƣợng glucose. Mặc dù là đối tƣợng
đã cũ, nhƣng cảm biến sinh học điện hóa xác định nồng độ glucose vẫn luôn đƣợc
dùng để đánh giá phẩm chất của cảm biến. Thông qua đây, vai trò của vật liệu nano
trong việc hỗ trợ làm tăng độ nhạy của cảm biến thể hiện rõ rệt.
- Một trong những đối tƣợng quan trọng của cảm biến sinh học điện tổng trở là
tế bào. Trong đó, tế bào gốc máu là đối tƣợng mới, có tính ứng dụng trong y học cao
và đang đƣợc nhiều nhóm nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên, việc sử dụng vật liệu
nano đa chức năng trong tách lọc tế bào gốc kết hợp với chụp ảnh và đo đạc nồng độ
tế bào vẫn còn nhiều tranh luận.
Từ việc đánh giá tổng quan những ƣu điểm, hạn chế của các nghiên cứu gần
đây; đồng thời kết hợp với việc phân tích tình hình nghiên cứu cũng nhƣ điều kiện
hiện có tại Trung tâm Khoa học Vật liệu, Khoa Vật lý, Trƣờng Đại học Khoa học Tự
nhiên, Đại học Quốc Gia Hà Nội, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu của luận án
là:
“Nghiên cứu chế tạo vật liệu nano bán dẫn PbS, nano kim loại quý Au, Ag
và ứng dụng trong chế tạo cảm biến sinh học”.
2. Mục tiêu luận án
- Chế tạo đƣợc các vật liệu nano PbS, nano Vàng và nano đa chức năng từ tính
– kim loại Fe3O4-Au, Fe3O4-Ag.
- Ứng dụng vật liệu nano bán dẫn PbS để chế tạo cảm biến sinh học xác định
nồng độ glucose trong dung dịch.
- Ứng dụng vật liệu nano từ tính – kim loại trong phân lập và khảo sát tế bào
gốc máu từ mẫu tủy xƣơng.
3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu chế tạo các hạt nano chì sulfide (PbS) bằng phƣơng pháp hóa
siêu âm kết hợp ủ nhiệt laser.
- Nghiên cứu chế tạo các hạt nano Au bằng phƣơng pháp nuôi mầm và chế tạo
các hạt nano đa chức năng Fe3O4-Au, Fe3O4-Ag bằng phƣơng pháp hóa ƣớt.
- Nghiên cứu ứng dụng các hạt nano PbS để chế tạo cảm biến sinh học xác
4
định nồng độ glucose trong dung dịch sự dụng phƣơng pháp đo thế quét vòng.
- Nghiên cứu ứng dụng các hạt nano Fe3O4-Ag trong chế tạo cảm biến sinh
học phân lập và đếm tế bào gốc máu sử dụng phƣơng pháp đo tổng trở.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án là thực nghiệm kết hợp với mô phỏng
tính toán. Các vật liệu nano PbS đƣợc chế tạo bằng phƣơng pháp đồng kết tủa kết
hợp ủ laser. Các hạt nano vàng đƣợc chế tạo bằng phƣơng pháp nuôi mầm trong
dung dịch. Các hạt nano đa chức năng từ tính – kim loại đƣợc chế tạo bằng phƣơng
pháp hóa ƣớt. Sự gắn kết của các phân tử chất hữu cơ trên bề mặt tinh thể PbS đƣợc
nghiên cứu đánh giá thông qua phƣơng pháp tính toán mô phỏng.
Hình thái của vật liệu đƣợc nghiên cứu trên các hệ kính hiển vi điện tử truyền
qua (TEM) và hiển vi điện tử truyền qua phân giải cao (HR-TEM). Cấu trúc của vật
liệu đƣợc nghiên cứu thông qua giản đồ nhiễu xạ tia X (XRD). Tính chất quang của
vật liệu đƣợc nghiên cứu thông qua phổ hấp thụ quang học vùng tử ngoại khả kiến
(UV-vis), phổ huỳnh quang (PL) và phổ tán xạ Raman.
Cảm biến sinh học xác định nồng độ glucose trong dung dịch sử dụng enzyme
glucose oxidase (GOx) đƣợc khảo sát thông qua phép đo hiệu điện thể quét vòng.
Tế bào gốc máu đƣợc thu thập từ mẫu tủy xƣơng bằng phƣơng pháp lọc từ sử
dụng các hạt nano từ tính – kim loại. Sau đó, phổ tán xạ Raman tăng cƣờng bề mặt
dùng để khảo sát vị trí của tế bào gốc. Nồng độ tế bào gốc đƣợc đo đạc, tính toán từ
giản đồ Nyquist – phép đo tổng trở.
Các tín hiệu đầu ra của cảm biến là các tín hiệu điện bao gồm giản đồ thế quét
vòng (CV) và tổng trở đƣợc đo trên hệ điện hóa tích hợp (PGSTATS).
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Việc ứng dụng vật liệu nano PbS để chế tạo cảm biến sinh học điện hóa xác
định nồng độ glucose trong dung dịch không những để làm tăng độ nhạy cho cảm
biến, mà còn bƣớc đầu đánh giá ảnh hƣởng của sự tƣơng thích sinh học giữa vật liệu
nano với các phân tử sinh học trong việc làm tăng độ nhạy cảm biến.
Việc phân lập, đồng thời đo đƣợc hàm lƣợng tế bào gốc đóng vai trò rất quan
5
trọng trong việc đánh giá tình trạng sức khỏe. Phƣơng pháp sử dụng hạt nano từ để
phân lập các tế bào gốc từ mẫu tủy xƣơng là phƣơng pháp đơn giản, hiệu quả. Công
nghệ có thể phát triển để phân lập tế bào gốc từ các mẫu khác, thậm chí có thể
chuyển hƣớng sang đối tƣợng là các tế bào khác. Đặc biệt, sau khi đã phân lập các tế
bào một cách đặc hiệu và phân tán lại dung dịch đệm, việc khảo sát nồng độ tế bào
còn loại bỏ đƣợc nhiễu do các cơ chất có thể bị lẫn ở trong mẫu.
6. Những đóng góp mới của luận án
- Đã chế tạo cảm biến sinh học điện hóa sử dụng vật liệu nano PbS với tín
hiệu đầu ra là giản đồ hiệu điện thế quét vòng. Cảm biến cho độ nhạy cao nhất đạt 546,2 µAcm-2mM-1.
- Sử dụng phƣơng pháp tính toán mô phỏng để khảo sát liên kết giữa các hạt
PbS với các phân tử hữu cơ, từ đó giải thích khả năng chuyển tiếp điện tích giữa các
hạt nano PbS với enzyme Glucose oxidase, làm tăng độ nhạy cảm biến.
- Sử dụng hạt nano đa chức năng từ tính – kim loại Fe3O4-Ag để phân lập tế
bào gốc máu từ mẫu tủy xƣơng; sau đó thiết kế điện cực đo tín hiệu tổng trở để xác định nồng độ tế bào gốc sau khi phân lập. Độ nhạy của phép đo là 1,48 × 10-4 ± 1,4% (Ω-1/tế bào.cm-1).
Cấu trúc của luận án Các kết quả nghiên cứu của luận án đƣợc viết thành 4 chƣơng với nội dung và
bố cục nhƣ sau:
Chƣơng 1: Tổng quan
Trình bày tổng quan về cảm biến sinh học điện hóa dựa trên hai phƣơng pháp
đo đạc là hiệu điện thế quét vòng và điện tổng trở. Gắn với hai phƣơng pháp đo là hai
đối tƣợng lần lƣợt là nồng độ glucose trong dung dịch và tế bào gốc máu.
Tổng quan về vai trò của vật liệu nano trong hai loại cảm biến điện hóa dựa
trên hai phƣơng pháp đo đạc đã nêu trên. Từ đó, đƣa ra định hƣớng lựa chọn vật liệu
sulfide kim loại – cụ thể là PbS để ứng dụng trong cảm biến xác định nồng độ
glucose và vật liệu nano kim quý, vật liệu nano đa chức năng từ tính – kim loại để
6
ứng dụng trong cảm biến đo nồng độ tế bào.
Đánh giá hiện trạng nghiên cứu ứng dụng vật liệu nano trong chế tạo cảm biến
sinh học trong nƣớc.
Chƣơng 2: Chế tạo vật liệu và các phƣơng pháp phân tích
Chƣơng II bao gồm hai phần chính: (i) các phƣơng pháp chế tạo và (ii) khảo
sát tính chất vật liệu nano PbS, vật liệu nano kim loại và vật liệu nano đa chức năng
từ tính kim loại thực hiện bởi nghiên cứu sinh tại Trung tâm Khoa học Vật liệu,
Khoa Vật lý, Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Chƣơng 3: Vật liệu nano PbS, nano Vàng và nano đa chức năng
Fe3O4-Au, Fe3O4-Ag
Trình bày các kết quả nghiên cứu chế tạo và khảo sát tính chất của các vật liệu
nano:
(i) Kết quả nghiên cứu hình thái, cấu trúc của vật liệu nano PbS thu đƣợc từ
phƣơng pháp hóa siêu âm kết hợp ủ laser.
(ii) Kết quả nghiên cứu hình thái, cấu trúc và tính chất quang của các hạt nano
vàng trong dung dịch thu đƣợc từ phƣơng pháp nuôi mầm.
(iii) Cấu trúc, hình thái của vật liệu nano đa chức năng từ tính – kim loại.
Chƣơng 4: Ứng dụng vật liệu nano trong chế tạo cảm biến sinh học
Chƣơng 4 bao gồm 2 nội dung chính:
(i) Ứng dụng các hạt nano PbS để chế tạo cảm biến sinh học xác định nồng độ
glucose trong dung dịch.
(ii) Các hạt nano từ tính – kim loại Fe3O4-Ag đƣợc ứng dụng trong phân lập
các tế bào gốc máu từ mẫu tủy xƣơng. Phổ tán xạ Raman tăng cƣờng bề mặt đƣợc
ứng dụng để phân biệt tế bào gốc máu với các vùng không phải tế bào gốc máu. Phép
đo tổng trở đƣợc sử dụng để khảo sát nồng độ tế bào sau khi phân lập.
Kết luận
7
Khái quát các kết quả đạt đƣợc
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN
Từ khi ra đời, công nghệ nano đã đƣợc ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực khác
nhau nhƣ xây dựng, nông nghiệp, thủy sản, y sinh. Trong các ứng dụng y sinh,các
quá trình sinh học thƣờng khó theo dõi một cách trực tiếp; vì vậy cần đƣợc gắn kết
với một đối tƣợng chuyển đổi tín hiệu để có thể đánh giá đƣợc một cách định lƣợng.
Đây cũng là cấu trúc lý thuyết của một cảm biến sinh học. Kích thƣớc nằm ở trong
dải từ 1 nm đến 100 nm, cùng một khoảng kích thƣớc với các phần tử sinh học nhƣ
ADN, protein, enzyme nên vật liệu nano đƣợc lựa chọn ứng dụng rộng rãi trong y
học, sinh học [55,129]. Trong đó, vật liệu nano có thể tham gia đóng vai trò chuyển
tiếp tín hiệu [52,70] hoặc vai trò phát tín hiệu [82,129].
Trong các nghiên cứu ứng dụng vật liệu nano trong y sinh, các nhóm nghiên
cứu đều bắt đầu từ cấu trúc của cảm biến sinh học để lựa chọn đƣợc phƣơng pháp
nghiên cứu phù hợp nhất với hiện trạng của phòng thí nghiệm nhƣ hệ thống máy đo,
vật liệu hay đối tƣợng nghiên cứu.
Chƣơng 1 tổng quan về cấu trúc của cảm biến sinh học, hƣớng tới việc lựa
chọn tín hiệu nghiên cứu là tín hiệu điện hóa bao gồm các phép đo thế quét vòng và
phép đo tổng trở. Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu lựa chọn hai đối tƣợng nghiên
cứu, bao gồm một đối tƣợng cổ điển gắn liền với phép đo thế quét vòng là glucose và
một đối tƣợng mới là tế bào gốc. Lựa chọn vật liệu nghiên cứu là bƣớc cuối cùng;
dựa vào thế mạnh của nhóm nghiên cứu, cũng nhƣ sự tƣơng thích của vật liệu đối với
đối tƣợng sinh học.
1.1. CẢM BIẾN SINH HỌC
Theo L.C. Clark, một cảm biến sinh học là “một thiết bị phân tích đƣợc tích
hợp bởi một phần tử nhận biết sinh học với phần tử chuyển đổi tín hiệu” [12]. Trong
cuốn sách có tiêu đề “Biosensor: Fundamental and Applications” xuất bản năm 1987,
Antony P. F. Tuner đã đƣa ra một bảng thống kê về các đối tƣợng sinh học cũng nhƣ
các loại phần tử chuyển đổi tín hiệu (bảng 1.1) [118]. Các phần tử đƣợc liệt kê trong
8
bảng 1.1 có thể không phủ hết các đối tƣợng nghiên cứu, nhƣng giúp ích rất nhiều
cho việc nghiên cứu và phát triển các loại cảm biến sinh học khác nhau. Tất nhiên,
việc mở rộng phạm vi hoạt động của cảm biến sinh học còn có thể thông qua việc
đƣa thêm nhiều đối tƣợng nghiên cứu khác nhau, hoặc tăng độ nhạy hay nới rộng tới
hạn khảo sát của cảm biến.
Từ năm 1962 đến nay, trải qua hơn nửa thế kỷ phát triển, cảm biến sinh học
đã dần hoàn thiện hơn cả về đối tƣợng nghiên cứu, cách tiếp cận, cũng nhƣ ứng dụng
các loại khoa học công nghệ mới nhƣ công nghệ nano [16]. Cấu trúc của một cảm
biến sinh học cũng đã thay đổi so với định nghĩa ban đầu của Clark [117].
Bảng 1.1. Các phần tử có thể được dùng để chế tạo cảm biến sinh học [117]
Phần tử sinh học/ Đối tƣợng sinh học Phần tử chuyển đổi/ Tín hiệu đo đƣợc
Hiệu điện thế Dòng điện Độ dẫn Tổng trở Tính chất quang Tính chất nhiệt Tín hiệu âm Tín hiệu cơ Điện tử phân tử (molecular electronic)
Các cơ thể sinh vật Mô Tế bào Bào quan Màng tế bào Enzyme Thành phần cấu tạo nên enzyme Thụ thể sinh học Kháng thể Acid nucleic Phân tử hữu cơ
Cảm biến sinh học bao gồm 3 bộ phận chính nhƣ trong hình 1.1: (i) phần tử
nhận biết sinh học hay đầu thu sinh học (biological recognition element hay
bioreceptor) dùng để phân biệt đối tƣợng cần nhận biết một cách đặc hiệu, (ii) phần
tử chuyển đổi tín hiệu (transducer) đóng vai trò chuyển đổitín hiệu sinh học thành tín
hiệu đo đƣợc, và (iii) phần tử xử lý tín hiệu (signal processing system) đóng vai trò
biến đổi tín hiệu đo đƣợc thành tín hiệu đọc đƣợc; từ đây đƣa ra thông tin về đối
tƣợng sinh học cần nhận biết [133].
Tƣơng tác giữa đối tƣợng cần nhận biết và phần tử nhận biết sinh học là tƣơng
tác đặc hiệu, nhƣ tƣơng tác kháng nguyên – kháng thể, bắt cặp DNA- DNA hay
9
tƣơng tác giữa đối tƣợng cần nhận biết (analyte) với enzyme. Việc ghép cặp “đầu thu
sinh học – đối tƣợng cần nhận biết” không chỉ giúp việc phân loại cảm biến sinh học
trở nên chi tiết hơn mà còn hƣớng các nghiên cứu tới việc đào sâu hơn về ảnh hƣởng
của quá trình sinh hóa đến tính năng, hiệu suất của cảm biến. Tín hiệu sinh hóa của
quá trình tƣơng tác đặc hiệu này thƣờng là tín hiệu không đọc đƣợc; vì vậy cần đƣợc
chuyển đổi thành tín hiệu đọc đƣợc thông qua phần từ chuyển đổi tín hiệu. Việc phân
loại cảm biến sinh học cũng có thể dựa vào kiểu hình tín hiệu nhận đƣợc sau quá
trình chuyển đổi tín hiệu; có thể là tín hiệu quang, tín hiệu điện, tín hiệu nhiệt hay
các tín hiệu vật lý khác. Sự hiểu biết rõ ràng về quá trình nhận biết sinh học giúp
chúng ta có thể đa dạng hóa kiểu hình cảm biến trên một đối tƣợng thông qua việc
thay đổi tín hiệu đầu ra của quá trình chuyển đổi tín hiệu, từ đó để có những nghiên
cứu tạo ra các cảm biến sinh học có hiệu quả cao hơn.
n 1.1. Sơ đồ khối của cảm biến sinh học
Các nghiên cứu về cảm biến sinh học không dừng lại ở các đối tƣợng là tế bào
hay phần tử sinh học, mà còn đƣợc mở rộng sang các đối tƣợng ở các lĩnh vực khác
nhƣ công nghệ môi trƣờng [119], công nghệ chế biến thực phẩm [116]. Các phƣơng
pháp đo đạc trong các cảm biến sinh học thƣờng tập trung khai thác các tín hiệu
10
huỳnh quang hoặc tín hiệu điện. Nhờ sự phát triển của công nghệ điện tử, các tín hiệu
điện có thể điều khiển đến mức đủ nhỏ để không phá hủy mẫu sinh học, nhƣng vẫn
đảm bảo các tín hiệu đầu ra có thể đọc đƣợc [132]. Không chỉ vậy, các tín hiệu điện
thƣờng dễ dàng xử lý hơn các tín hiệu quang; kèm theo đó là các hệ đo cũng đơn
giản và dễ dàng thiết kế hơn so với các hệ quang học. Vì vậy, phƣơng pháp điện hóa
bao gồm phƣơng pháp đo thế (potentiometric), phƣơng pháp dòng (amperometric) và
tổng trở (impedimetric) đƣợc ƣu tiên sử dụng trong các nghiên cứu chế tạo cảm biến
sinh học [44].
1.2. CẢM BIẾN SINH HỌC XÁC ĐỊNH NỒNG ĐỘ GLUCOSE
Cảm biến sinh học xác định nồng độ đƣờng đầu tiên đƣợc đề xuất bởi Clark
năm 1962 từ bệnh viện Nhi Cincinnati [133]. Với số lƣợng ca mắc bệnh tiểu đƣờng
ngày càng tăng, việc nghiên cứu ra những cảm biến sinh học nhận biết nồng độ
đƣờng trở nên cấp thiết trong những năm đầu thế kỷ XXI [20]. Nồng độ đƣờng trong
máu trƣớc khi ăn của một ngƣời bình thƣờng nằm trong khoảng [4,0 – 5,9] mM
(mmol/L), sau khi ăn xong giá trị này khoảng 7,8 mM. Đối với những ngƣời bị bệnh
tiểu đƣờng nhẹ, nồng độ đƣờng đo đƣợc trong máu trƣớc khi ăn trong khoảng [4,0 –
7,0] mM và sau khi ăn tăng lên đến 8,5 mM. Nhƣ vậy, để chuẩn đoán bệnh tiểu
đƣờng, cảm biến sinh học chỉ cần xác định khoảng hoạt động trong khoảng 3 mM
đến 11 mM với độ chính xác chỉ cần 0,1 mM. Khoảng hoạt động cũng nhƣ độ chính
xác này đã không còn là thách thức với các nghiên cứu hiện đại; ngay cả đối với các
nghiên cứu cảm biến sinh học trong nƣớc [70,86]. Mặc dù vậy, cảm biến sinh học
xác định nồng độ đƣờng vẫn đƣợc nhiều nhóm tiếp tục nghiên cứu [20,110]. Các
nghiên cứu này đều hƣớng tới giới hạn dƣới thấp hơn, độ chính xác cao hơn và độ
nhạy tốt hơn; nhằm nghiên cứu các mẫu phẩm có nồng độ glucose thấp; nhƣ nƣớc
bọt hay nƣớc dịch mồ hôi [65].
1.2.1. Cảm biến sinh học điện hóa đo nồng độ glucose
Cảm biến sinh học xác định nồng độ glucose đều dựa trên cơ sở tƣơng tác của
11
glucose với enzyme. Có 3 enzyme đƣợc sử dụng trong các cảm biến sinh học xác
định nồng độ glucose và đều đóng vai trò là các phần tử nhận biết sinh học:
hexokinase, glucose oxidase (GOx) [102] và glucose-1-dehydrogenase (GDH) [23].
Enzyme hexokinase đƣợc sử dụng thành cặp với enzyme Glucose-6P- dehydrogenase (G-6P-D) để có sản phẩm cuối cùng là H+, theo hệ phƣơng trình phản
ứng sau [26]:
(1.1)
Trong đó ATP và ADP là adenosine triphosphate và adenosine diphosphate, NADP+ và NADPH là nicotinamide adenine dinucleotide phosphate và dạng khử của NADP+.
Hai enzyme GOx và GDH là hai enzyme ô xi hóa khử. Khi tƣơng tác với D-
glucose xuất hiện quá trình trao đổi electron để biến D-glucose thành Glucolactone.
GOx cần phải có thêm phối tử (cofactor) là flavine adenine nucleotide (FAD) để
chuyển hóa glucose trong môi trƣờng giàu ô xi (phƣơng trình 1.2), còn GHD khi có phối tử NAD+ (nicotinamide adenine dinucleotide) chuyển hóa glucose mà không bị
ảnh hƣởng bởi ô xi môi trƣờng (phƣơng trình 1.3). Vì vậy GDH đƣợc ƣu tiên sử
dụng cho các cảm biến sinh học đƣợc chế tạo bởi các hãng danh tiếng nhƣ Bayer,
Roche hay Abbott [133]. Tuy nhiên, GDH cần yêu cầu bảo quản và giá thành cao;
nên hầu hết các nghiên cứu nhằm tăng tăng độ nhạy cảm biến lại sử dụng GOx
[70,78,137].
(1.2)
(1.3)
Tín hiệu sinh học có thể là nồng độ của các chất tham gia hoặc sản phẩm của
các phản ứng nhƣ ATP, ADP hay H2O2; cũng có thể là số electron cần thiết để
12
chuyển hóa glucose thành gluconic acid; thƣờng là các tín hiệu không đọc đƣợc.
Phần tử chuyển đổi tín hiệu gắn với các đối tƣợng mang tín hiệu sinh học, để chuyển
đổi tín hiệu sinh học thành tín hiệu đọc đƣợc. Ban đầu, dựa vào các phép đo đã đƣợc
biết trƣớc trong sinh học phân tử, các chất tham gia phản ứng đƣợc sử dụng làm đối
tƣợng gián tiếp để đo đạc nồng độ glucose. Nhóm nghiên cứu Deeg sử dụng phƣơng
pháp đo nồng độ ATP để đƣa ra nhận xét về tốc độc quá trình chuyển hóa glucose
của hexokinase [26]. Nhóm nghiên cứu Ziegenhorn sử dụng peroxidase và chất
nhuộm màu để nhận biết nồng độ H2O2 – sản phẩm của phƣơng trình 1.2 – từ đó đƣa
ra mối liên hệ với nồng độ glucose có trong mẫu dung dịch [142]. Cảm biến sinh học
xác định nồng độ glucose dựa trên các phản ứng thứ cấp nhƣ hai ví dụ kể trên đƣợc
gọi là cảm biến sinh học thế hệ I.
Hình 1.2. Mô hình các thế hệ cảm biến sinh học xác định nồng độ glucose.
Quá trình chuyển hóa glucose thành glucolactone là quá trình ô xi hóa.
Electron cần cho quá trình này đƣợc chuyển tiếp qua các enzyme đã gắn với các phối
tử. Ở cảm biến thể hệ II, các electron chuyển tiếp một lần nữa qua các dung môi điện
hóa trƣớc khi đi về phía các điện cực. Các loại dung môi điện hóa này có thể là
ferrocence, ferricyanide, quinines hay xanh methylene; bên cạnh hỗ trợ cho quá trình
chuyển tải điện tử, còn giúp làm tăng độ nhạy của cảm biến [14]. Cảm biến thế hệ II
đã loại bỏ đƣợc nhƣợc điểm của thế hệ I bằng cách đơn giản hóa quá trình chuyển
tiếp điện tử tới bề mặt điện cực, nhƣng vẫn cần phải bổ sung thêm dung môi điện hóa
13
trong mỗi một lần đo (hình 1.2). Ở cảm biến thế hệ III, điện tử đƣợc chuyển trực tiếp
tới bề mặt điện cực thông qua tiếp xúc giữa enzyme ô xi hóa khử với vật liệu đƣợc cố
định trên bề mặt điện cực [133].
Nhƣ vậy, phần tử chuyển đối tín hiệu trong cảm biến sinh học thế hệ II là các
dung môi điện hóa; và trong cảm biến sinh học thể hệ III là vật liệu làm điện cực.
Nếu nhƣ việc hòa tan thêm dung môi điện hóa để tăng quá trình chuyển hóa điện tử
đƣợc cho là phức tạp, thì sự có mặt của dung môi cũng làm loãng đi các ion vi lƣợng
có từ mẫu phẩm. Ngƣợc lại, các ion dung môi hữu cơ có tính tƣơng thích tốt với
phân tử enzyme trở thành ƣu điểm của cảm biến thế hệ II so với cảm biến thế hệ III.
Trong khi đó, tƣơng thích sinh học giữa vật liệu điện cực với các enzyme vẫn luôn là
thách thức rất lớn đối với các vật liệu mới nhằm ứng dụng trong chế tạo cảm biến
sinh học thế hệ III. Vì vậy, các nghiên cứu về cảm biến sinh học sử dụng tƣơng tác
của enzyme ô xi hóa khử với cơ chất hiện này vẫn xuất hiện đồng thời cả hai loại
cảm biến thế hệ II và III [20,70].
Cấu trúc thƣờng thấy của một cảm biến sinh học sử dụng enzyme đƣợc mô tả
nhƣ trong hình 1.3A [23], bao gồm 3 phần chính: thân điện cực, bề mặt điện cực và
lớp enzyme đƣợc cố định. Phần thân điện cực là một dây dẫn đƣợc bảo vệ bởi một
lớp cách điện – có thể là thủy tinh hoặc polymer cách điện khác. Dây dẫn đƣợc tiếp
xúc với bề mặt điện cực. Mặt điện cực đƣợc thiết kế riêng để có thể thay đổi kích
thƣớc, thậm chí thay đổi vật liệu. Vật liệu mặt điện cực có thể là kim loại, graphite
hoặc vật liệu dẫn điện khác. Enzyme sau đó đƣợc cố định lên trên bề mặt điện cực
bằng nhiều phƣơng pháp khác nhau: có thể sử dụng vật liệu kết nối để tạo thành liên
kết cộng hóa trị với bề mặt điện cực [60] và sử dụng polymer dẫn để bọc lại [70].
Hình 1.3B là đƣờng I-V biểu diễn quá trình ô xi hóa khử của dung môi điện
hóa là ferrocencemonocarbolxylic acid (Fecp2) trên bề mặt điện cực có cấu tạo nhƣ
14
trong hình 1.3A khi không có enzyme (a) và có enzyme GOx (b) [11].
Hình 1.3. Cấu trúc thường thấy của WE trong cảm biến sinh học đo nồng độ glucose (A) [23]: a: dây dẫn, b: vỏ thủy tinh, c: lớp nhựa cách điện, d: nhựa dẫn điện, e: keo Araldite – một loại keo dính dẫn điện, f: đĩa graphite, g: dimethylferrocence – cầu nối giữa điện cực và enzyme, h: enzyme. Đường I-V điện thế quét vòng khi dung môi điện hóa là ferrocencemonocarbolxylic acid (Fecp2) (B) [11]: a. khi không có enzyme, b: khi có enzyme.
Khi có sự có mặt của glucose trong dung dịch, enzyme sẽ tƣơng tác với
glucose để làm tăng quá trình chuyển hóa glucose thành glucolactone. Nhƣ vậy,
enzyme không chỉ đóng vai trò là phần tử nhận biết mà còn đóng vai trò tăng cƣờng
tín hiệu điện hóa.Điện tử cần để chuyển hóa glucose thành glucolactone đƣợc chuyển
tiếp đến điện cực thông qua phần tử chuyển tiếp, vì vậy tín hiệu điện hóa nhận đƣợc
là tín hiệu điện hóa của vật liệu chuyển tiếp. Khi nồng độ glucose tăng lên, xác xuất
chuyển hóa glucose thành glucolactone tăng, dẫn tới lƣợng điện tử đƣợc chuyển tải
tới bề mặt điện cực tăng. Cƣờng độ dòng điện điện hóa đo đƣợc tỉ lệ thuận với nồng
độ của glucose (hình 1.4) [11].
Để tăng độ nhạy của cảm biến, một số nghiên cứu thay đổi enzyme từ GOx
thành GDH vì cảm biến sử dụng GOx bị ảnh hƣởng bởi điều kiện ô xi có trong mẫu
dung dịch chứa glucose [11] và GDH đƣợc cho là có hoạt tính mạnh hơn nhiều so
với GOx [23]. Bên cạnh đó, độ nhạy của cảm biến đo nồng độ glucose cũng có thể
tăng lên bằng cách tăng diện tích tiếp xúc giữa điện cực và phần tử chuyển đổi tín
15
hiệu hoặc tăng sự tƣơng thích giữa phần tử chuyển đổi tín hiệu và enzyme.
Hình 1.4. Đồ thị hiệu chỉnh đặc trưng của cảm biến sinh học sử dụng enzyme GOx [11] - sự phụ thuộc của cường độ dòng đo được khi điện thế của WE là 160 mV (gần đỉnh ô xi hóa của dung môi điện hóa ferrocencecarboxylic acid) vào nồng độ glucose trong dung dịch: (*): đo khi dung dịch chứa glucose được xử lý argon, (O): đo khi không xử lý dung dịch chứa glucose, (+): đo khi dung dịch chứa glucose được sục ô xi tới bão hòa.
1.2.2. Cảm biến sinh học đo nồng độ glucose sử dụng vật liệu nano
Vật liệu nano đƣợc nghiên cứu trong các cảm biến sinh học glucose thƣờng là
các oxide kim loại, kim loại hoặc nano polymer dẫn (bảng 1.2). Tại pH 7 gần với
điểm đẳng điện của các enzyme, ô xít kim loại thƣờng là bán dẫn (ZnO, CuO) có
điểm đẳng điện lớn (pH~9,5) nên dễ tạo ra liên kết bền với các enzyme [140]. Liên
kết bền vững này làm tăng cƣờng quá trình trao đổi electron giữa enzyme và vật liệu
hoặc giữa chất điện môi và vật liệu, giúp làm tăng độ nhạy của cảm biến.
Vật liệu nano kim loại thƣờng sử dụng là các nano kim loại quý. Trong quá
trình điện hóa, vật liệu không bị ô xi hóa, vì vậy không làm mất tính dẫn điện của
cảm biến. Không chỉ vậy, kim loại quý thƣờng có độ dẫn điện tốt, nên thƣờng đƣợc
sử dụng trực tiếp làm điện cực. Các điện cực này thƣờng đƣợc thiết kế có cấu trúc
xốp để tổng diện tích tiếp xúc với vật liệu tăng lên. Bên cạnh đó, các hạt nano kim
loại quý thƣờng đƣợc gắn thêm vào vật liệu làm điện cực khác [131] hoặc gắn trực
16
tiếp với enzyme [5] để làm tăng độ nhạy của cảm biến.
Bảng 1.2. Thống kê một số nghiên cứu ứng dụng vật liệu nano để chế tạo cảm biến sinh học xác định nồng độ glucose.
Vật liệu Độ nhạy ( μAcm-2mM-1) Tài liệu tham khảo Giới hạn khảo sát ( μM) Thế hệ cảm biến (II/III)
30 III
trên [49] [113] 0,42 35,6 μAmM-1 9 III
[122] [19] 2 8,9 III III
Au trên 0,4 40 III [131]
46,8 7 II [67]
2,8 III [114]
- 18,85 μAmM-1 13 II [78]
III III [70] [1]
Kim loại Hạt Pt Hoa Pt xốp polyaniline Au trên dây nano Pb 135,5 Hạt Au trên graphene 711,1 Nano ZnO/Cu composite Điện cực nano Au hình cây Nano Au trên MoS2 Au-GOx trong dung dịch Ô xít kim loại Tetrapod ZnO Dây nano ZnO Thanh nano ZnO
[2] III Tỉ số hình dạng 5 Tỉ số hình dạng 30 Tỉ số hình dạng 60
Dây đơn ZnO xốp Dây nano ZnO 166,7 70,2 41,1 77,0 106,6 0,01 mAmM-1 18,7 - 1 1,0 0,3 0,1 - 500 III III [138] [111]
Polymer và vật liệu khác
CdTe trên CTN Dây polypyrrol Carbon xốp Au-Polymer 11,31 1,9 1,73 mAmM-1 63,2 - - 50,7 9,9×10-2 III III II III [68] [94] [17] [5]
Theo bảng 1.2, cảm biến cho độ nhạy cao nhất là của nhóm nghiên cứu Chen
[19] với cấu trúc phức tạp. Vật liệu điện cực đƣợc làm từ graphene, sau đó các hạt
nano vàng đƣợc cố định lên trên graphene bằng phƣơng pháp khử hóa học. Giải pháp
của nhóm Azak [5] khá mới và thú vị khi dùng điện hóa để polymer hóa GOx vào bề
17
mặt điện cực, vì vậy không cần phải có lớp polymer dẫn. Tuy nhiên, các nghiên cứu
kể trên đa phần đều nghiên cứu tăng độ xốp của vật liệu, hoặc đơn giản hơn là dựa
vào việc chế tạo vật liệu, sau đó ứng dụng; mà chƣa đề cập nhiều đến sự tƣơng thích
của enzyme với vật liệu nhằm nâng cao chất lƣợng quá trình trao đổi điện tử từ vật
liệu tới enzyme.
1.2.3. Lựa chọn đối tƣợng vật liệu
Một số nghiên cứu về chức năng hóa bề mặt vật liệu sulfide kim loại (MetS)
hay chấm lƣợng tử lõi CdSe (hoặc CdTe) vỏ CdS (hay ZnS) đều cho thấy vật liệu
MetS có khả năng liên kết rất tốt với các phân tử hữu cơ có nhóm thio (-SH) [37].
Cấu trúc protein có rất nhiều acid amin chứa gốc thiol, hoặc liên kết S-S, vì vậy vật
liệu nano MetS cũng có thể tạo liên kết bền vững với các protein [74]. Trong một số
nghiên cứu, protein cũng trở thành chất hoạt hóa cố định bề mặt để điểu khiển kích
thƣớc các hạt nano [130]. GOx cũng đƣợc sử dụng nhƣ chất hoạt hóa bề mặt để chế
tạo chấm lƣợng tử ZnS pha tạp Mn (ZnS/Mn). Sản phẩm ZnS/Mn có kích thƣớc khá
đồng đều, phát quang rất tốt. Liên kết giữa vật liệu và enzyme GOx không những
không làm cho hoạt tính của enzyme không mất đi; thậm chí quá trình chuyển tiếp
điện tử giữa enzyme GOx và glucose còn làm giảm cƣờng độ huỳnh quang của vật
liệu. Hiệu ứng này đƣợc ứng dụng để đo đạc nồng độ glucose có trong dung dịch
[135]. Sự trao đổi điện tử trực tiếp giữa MetS và GOx cho thấy vật liệu sulfide kim
loại có thể trở thành một vật liệu ứng dụng làm điện cực cảm biến sinh học xác định
nồng độ glucose.
Vật liệu bán dẫn sulfide kim loại nhƣ ZnS, ZnS pha tạp Mn hay PbS đã đƣợc
các nhóm nghiên cứu của Trung tâm Khoa học Vật liệu quan tâm trong những năm
gần đây [61]. Tuy nhiên, việc ứng dụng các vật liệu này trong chế tạo cảm biến sinh
học điện hóa vẫn còn rất hạn chế, đặc biệt là vật liệu PbS.
1.3. CẢM BIẾN ĐO ĐẠC NỒNG ĐỘ TẾ BÀO GỐC MÁU
Tế bào gốc máu gắn liền với lịch sử phát triển tế bào, khi vào những năm đầu
thể kỷ XX, những bệnh nhân thiếu máu hay bị bệnh bạch cầu đƣợc chăm sóc bằng
18
cách cho ngậm tủy xƣơng. Tại thời điểm này, các nhà khoa học Châu Âu tin rằng tất
cả các tế bào máu đều bắt nguồn từ một loại “tế bào gốc” nằm trong tủy xƣơng [64].
Là tế bào gốc trƣởng thành (somatic/adult stem cell), ban đầu tìm thấy nhiều trong
tủy xƣơng, nên phải đến đầu thế kỷ XXI, khi nhóm nghiên cứu của TS. Phan Toàn
Thắng, Đại học Quốc Gia Singapore đƣa ra phƣơng pháp tách chiết tế bào gốc máu
từ cuống rốn; thì việc sử dụng tế bào gốc máu mới đƣợc sử dụng rộng rãi. Bằng việc
điều khiển môi trƣờng nuôi, tế bào gốc máu có thể biệt hóa thành các dòng tế bào
khác nhau nhƣ tế bào biểu bì, tế bào biểu mô ngực hay tế bào giác mạc, hỗ trợ cho
quá trình trị bỏng, trị ung thƣ vú hay chữa trị khiếm thị do hỏng giác mạc [51]. Sử
dụng phƣơng pháp biến đổi gen, tế bào gốc máu còn có thể ứng dụng để trị các bệnh
hiểm nghèo nhƣ AIDS [62]. Không chỉ vậy, hàm lƣợng tế bào gốc trong máu hay tủy
xƣơng còn đƣợc coi là một trong những chỉ tiêu để đánh giá sức khỏe máu cũng nhƣ
để theo dõi sức khỏe của ngƣời mang bệnh máu [32]. Vì vậy, phân lập để thu hồi
cũng nhƣ chụp ảnh hay xác định hàm lƣợng tế bào gốc máu từ các bệnh phẩm luôn
đƣợc nhiều sự quan tâm.
1.3.1. Nguyên lý kháng nguyên – kháng thể trong nhận biết tế bào
Có nhiều phƣơng pháp đã và đang đƣợc ứng dụng để phân lập tế bào gốc máu
từ các nguồn khác nhau, trong đó có 4 phƣơng pháp chính sử dụng nguyên lý của
cảm biến sinh học: phƣơng pháp lọc phân lập tế bào kích hoạt huỳnh quang
(Fluorescence-activated cell sorting – FACS), phƣơng pháp phát triển hệ thống các
phối tử bởi sự làm giàu theo hàm mũ (systematic evolution of ligands by exponential
enrichment - SELEX), phƣơng pháp hai pha nƣớc sử dụng polymer nhạy với nhiệt độ
(Aquaeous two-phase system using temperature responsive polymer – A2P-TRP) và
phƣơng pháp phân lập tế bào kích hoạt từ (magnetic-activated cell sorting – MACS)
[141].
Các phƣơng pháp phân lập tế bào gốc hầu hết đều áp dụng nguyên lý liên kết
kháng nguyên-kháng thể nhƣ mô tả trong hình 1.5. Kháng nguyên là những chất sau
khi xâm nhập vào cơ thể sinh vật thì sẽ đƣợc hệ thống miễn dịch của sinh vật nhận
biết và đáp ứng, tức là sinh ra kháng thể tƣơng ứng có đặc tính kết hợp với kháng
19
nguyên đó. Theo định nghĩa kháng nguyên có hai đặc tính cơ bản: tính đặc hiệu và
tính sinh kháng thể. Nếu tính sinh kháng thể là khả năng kích thích hệ thống miễn
dịch sinh ra kháng thể tƣơng ứng thì đặc tính kết hợp với kháng thể là một kháng
nguyên chỉ đƣợc nhận biết bởi kháng thể mà nó tạo ra. Kháng nguyên có nhiều dạng
tốn tại khác nhau, phổ biến là các protein; trong đó có một số là protein màng tế bào.
Trong một số kháng nguyên là protein màng tế bào, kháng nguyên đặc trƣng cho
riêng một loại tế bào có thể đƣợc dùng để phân biệt với các dòng tế bào khác – nhƣ
biểu diễn trong hình 1.5, các kháng nguyên đặc trƣng đó có hình tam giác. Khi hệ
thống miễn dịch đƣợc kích thích để sinh ra kháng thể tƣơng thích với kháng nguyên
đặc trƣng của một dòng tế bào; thì kháng thể đó cũng có thể đƣợc coi là kháng thể
đặc trƣng cho chính dòng tế bào đó. Các tế bào gốc máu cũng có những cặp kháng
nguyên – kháng thể đặc trƣng.
Hình 1.5. Mô hình nguyên lý liên kết kháng nguyên - kháng thể trong cảm biến sinh học khảo sát, đo đạc tế bào – Vẽ lại theo cơ chế tham khảo từ các tài liệu số [104, 121] và [141].
Kháng thể nhận biết đặc hiệu tế bào gốc máu đã đƣợc gắn với tín hiệu đánh
dấu tìm tới bề mặt của tế bào và bắt cặp với kháng nguyên đặc trƣng. Tín hiệu đánh
dấu này thƣờng là tín hiệu quang (FACS, SELEX) quyết định xem tế bào có đƣợc
thu hồi hay loại bỏ [108]. Sau khi loại bỏ các chất hay tế bào không cần thiết, dung
dịch còn lại thu đƣợc chứa tế bào gốc với nồng độ cao hơn. Tƣơng tự vậy, tế bào gốc
đƣợc thu thập trên các đế polymer ở phƣơng pháp A2P-TRP [48] và bằng từ trƣờng ở
20
phƣơng pháp MACS [72] thông qua liên kết giữa kháng nguyên trên bề mặt tế bào
với kháng thể đƣợc cố định trên bề mặt các tấm polymer hay trên các hạt nano từ.
Bảng 1.3 thống kê một số ƣu và nhƣợc điểm của các phƣơng pháp kể trên [141].
Bảng 1.3. Ưu và nhược điểm một số phương pháp sử dụng cơ chế cảm biến sinh học để lọc tế bào gốc [141].
Tên phƣơng pháp Ƣu điểm
FACS Tính chính xác cao, độ nhạy và độ phân giải cao
SELEX Thu thập tế bào mà không cần thông tin, giảm giá thành thử nghiệm in vitro
Nhƣợc điểm Giá thành cao, ngƣời thực hiện phải có chuyên môn tốt, không biệt lập đƣợc lƣợng lớn mẫu. Quá trình sàng lọc sử dụng aptamer (một đoạn ADN hoặc ARN có thể liên kết đặc hiệu với phân tử đích) không hiệu quả do liên kết giữa aptamer và kháng nguyên khá yếu.
A2P-TRP Độ sạch thấp, tỉ lệ thu hồi không cao Đơn giản, có thể thu thập tế bào với lƣợng mẫu tùy ý, kháng thể tái sử dụng
MACS Đơn giản, giá thành thấp Tế bào sau khi thu thập bị dính hạt từ.
Ngành khoa học vật liệu tập trung nghiên cứu trên hai phƣơng pháp A2P-TRP
và MACS. Đối với phƣơng pháp A2P-TRP, hiệu suất thu hồi tế bào tăng lên khi diện
tích tiếp xúc giữa tế bào và bề mặt lớp polymer lớn (có thể thay thế bằng các loại vật
liệu khác và chức năng hóa bề mặt để gắn với kháng thể). Đối với phƣơng pháp
MACS, kích thƣớc hạt từ càng nhỏ càng làm tăng hiệu suất thu thập tế bào [105].
Các nghiên cứu về tế bào gốc thƣờng là chỉ tập trung vào phân lập tế bào gốc,
sau đó tiến hành nuôi biệt hóa với các mục đích khác nhau; hoặc nếu muốn khảo sát
hàm lƣợng tế bào gốc thì lại có những phép đo riêng biệt. Rất hiếm thấy những
nghiên cứu kết hợp việc phân lập tế bào gốc máu rồi xác định làm lƣợng [25,97].
Những nghiên cứu của De Wynter và Paulus cho thấy việc khảo sát hàm lƣợng tế
bào gốc trƣớc và sau khi phân lập dựa trên hai phƣơng pháp chính: đếm tế bào huỳnh
quang trên buồng đếm hoặc là dựa trên kỹ thuật phân tích tế bào theo dòng chảy
(flow cytometry). Nếu phƣơng pháp đếm bằng buồng đếm mang tính thủ công cao và
21
thƣờng cho sai số khá lớn khi nồng độ tế bào không cao, thì phƣơng pháp đếm bằng
flow cytometry lại rất phức tạp (tƣơng tự nhƣ FACS). Bên cạnh đó, việc kết hợp một
phƣơng pháp đếm tế bào đơn giản – nhƣ phƣơng pháp đo điện tổng trở với quá trình
phân lập tế bào bằng MACS là một hƣớng nghiên cứu đầy hứa hẹn.
Việc đo nồng độ tế bào một cách đặc hiệu – theo cơ chế của cảm biến sinh
học với tín hiệu đầu ra là điện có thể dựa trên tín hiệu thế quét vòng, tín hiệu điện trở
hoặc tín hiệu tổng trở. Tín hiệu đầu ra phụ thuộc vào hai yếu tố vật lý: bản chất tổng
trở của dung dịch chứa tế bào và tổng trở tƣơng đƣơng của tế bào.
1.3.2. Cảm biến sinh học sử dụng phép đo tổng trở trong đo đạc tế bào
Hình 1.6. Nghiên cứu sử dụng kháng thể cố định trên bề mặt điện cực để đo nồng độ tế bào (ở đây là E. Coli) và sự thay đổi của Rct theo nồng độ tế bào[106]. Hình A mô tả các tế bào vi khuẩn E. Coli bám một cách chọn lọc lên bề mặt điện cực đã được gắn với kháng thể đặc hiệu nhận biết E. Coli. Hình B biểu diễn sự thay đổi của Rct khi nồng độ E. Coli thay đổi.
Trong cảm biến khảo sát tế bào, kháng thể đặc trƣng cho tế bào đóng vai trò là
phần tử nhận biết sinh học [124]. Hình 1.6 là một ví dụ của việc sử dụng phép đo
tổng trở để xác định nồng độ của khuẩn E. Coli trong dung dịch [106]. Kháng thể đặc
trƣng nhận biết vi khuẩn E. Coli là O157:H7, đƣợc cố định trên bề mặt điện cực bằng
liên kết cộng hóa trị. Khi trong mẫu có vi khuẩn E. Coli, liên kết kháng nguyên –
kháng thể giữ vi khuẩn tại bề mặt điện cực. Phần tử chuyển đổi tín hiệu là ion dung môi Ferrocianide [Fe(CN)6]3-/4-. Khi nồng độ E. Coli tăng lên, số lƣợng vi khuẩn bám
22
lên bề mặt của điện cực cũng tăng lên, làm ngăn cản quá trình trao đổi ion giữa các
ion [Fe(CN)6]3-/4- và điện cực. Hình 1.6B biểu diễn giá trị Rct phụ thuộc vào nồng độ
vi khuẩn E. Coli có trong dung dịch. Trục hoành biếu diểu theo hàm Logarit của nồng độ E. Coli. Có thể thấy khoảng hoạt động của cảm biến từ 105 đến 108 tế bào
khuẩn E. Coli/ mL.
Thay đổi của Rs hay Cs và tổng trở của tế bào
Nhƣợc điểm của phƣơng pháp sử dụng kháng thể trên bề mặt điện cực là quá
trình rửa mẫu. Lực liên kết kháng nguyên – kháng thể chỉ bền ở mức độ tế bào. Khi
dòng nƣớc dùng rửa mẫu có tốc độ quá lớn sẽ làm bật tế bào ra, vì vậy thƣờng làm
ảnh hƣởng đến độ lặp lại cũng nhƣ độ nhạy của cảm biến. Không chỉ vậy, do kháng
thể rất dễ mất hoạt tính khi điều kiện bảo quản không phù hợp, nên điện cực chỉ sử
dụng 1 lần; gây ra khá nhiều bất tiện trong ứng dụng thực tế. Giải pháp là sử dụng
các hạt từ đã gắn kháng thể để phân lập tế bào trƣớc (phƣơng pháp MACS) rồi sau
đó đo nồng độ tế bào trên vi điện cực [121]. Quá trình khuếch tán của các ion trên bề
mặt điện cực không thay đổi mà giá trị tổng trở của dung dịch sẽ bị thay đổi theo bản
chất điện của tế bào.
Có nhiều nghiên cứu về tính chất điện của tế bào thông qua cấu trúc [107]. Tế
bào có cấu trúc nhân và tế bào chất có độ dẫn điện khá tốt đƣợc bọc bởi một lớp
màng kép lipid có độ dẫn điện kém hơn vì vậy thƣờng đƣợc mô tả đơn giản là một
điện trở song song với một tụ điện (R//C) [53] hoặc bởi hai hệ trở tụ song song mắc
nối tiếp nhau ((R1//C1)nt(R2//C2)) [128]. Nhƣ vậy, tổng trở dung dịch lúc này không
chỉ còn Rs mà là là một hệ tụ trở mắc song song (hoặc nối tiếp). Các nghiên cứu đều
cho thấy giá trị điện trở này phụ thuộc vào nồng độ của tế bào trong dung dịch [128].
Hình 1.7 là một ví dụ ứng dụng mô hình đơn giản R//C của tế bào trong khảo
sát nồng độ tế bào trong dung dịch. Lớp tế bào tiếp xúc với bề mặt điện cực đƣợc coi
là một hệ điện trở mắc song song với tụ điện (trong hình 1.9A: Rcl//Ccl). Nối tiếp với
lớp tế bào là điện trở dung dịch Rbulk và điện trở khuếch tán bao gồm Rsl và Ze (hình
23
1.7A).
Hình 1.7. Ứng dụng mô hình đơn giản R//C trong khảo sát tế bào bám trên bề mặt điện cực. Hình A mô hình mạch tương được của các lớp tế bào bám trên bề mặt điện cực. Hình B là kết quả đo giá trị tổng trở phụ thuộc tần số khi có và không có tế bào (b) [128].
Khi nồng độ tế bào tăng lên, hệ tụ Rcl//Cclsẽ giống nhƣ rất nhiều tế bào mắc
song song với nhau, vì vậy nên Rcl giảm và Ccl tăng. Hình 1.7B là biểu đồ sự phụ
thuộc của giá trị tổng trở vào lgf khi có và không có lớp tế bào. Ảnh hƣởng của lớp
tế bào đến giá trị tổng trở chỉ thấy rõ rệt trong khoảng tần số f từ 100 Hz đến 50000
Hz. Vì vậy giá trị tổng trở đo đƣợc tại 1000 Hz đƣợc dùng để làm tín hiệu khảo sát
nồng độ tế bào. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng, nếu tế bào nằm lơ lửng trong dung
dịch thì các giá trị Rsl và Ze không thay đổi khi nồng độ tế bào thay đổi. Tức là sự có
mặt của tế bào không làm ảnh hƣởng đến quá trình khuếch tán của ion chất điện hóa
24
về phía bề mặt điện cực mà chỉ làm ảnh hƣởng đến giá trị tổng trở của dung dịch.
1.3.3. Vật liệu nano trong cảm biến đo đạc tế bào
Hình 1.8. Một số mô hình điện cực kích thước micromet được thiết kế để khảo sát tế bào. Hình A1, A2 lần lượt là mô hình điện cực được thiết kế có các bẫy để bẫy tế bào và ảnh hiển vi quang học khi tế bào được đưa vào điện cực [52]. Hình B1, B2 ảnh SEM của lớp silicon tiếp xúc tế bào giữa hai điện cực và ảnh thực của mẫu điện cực được thiết kế [24].
Tế bào có kích thƣớc khá lớn, từ một vài μm đến vài chục μm. Với công nghệ
chế tạo điện cực hiện đại, các điện cực có kích cỡ μm đƣợc thiết kế để có thể khảo
sát đến từng đơn tế bào. Bên cạnh đó, tín hiệu điện có thể tăng cƣờng thông qua tăng
diện tích tiếp xúc với tế bào. Hình 1.8 là hai ví dụ về một số điện cực đƣợc thiết kế
nhằm đo đạc tế bào. Hình 1.8A1 và 1.8A2 là thiết kế của nhóm nghiên cứu Kobel
nhằm tạo ra các bẫy có kích cỡ bằng kích cỡ của tế bào để theo dõi tín hiệu điện mỗi
khi tế bào rơi vào bẫy [52]. Hình 1.8B1 và 1.8B2 là điện cực đƣợc thiết kế để lớp
Silicon tiếp xúc với tế bào có cấu trúc xốp. Cấu trúc này cho kết quả tổng trở tốt hơn
rất nhiều so với khi lớp Silicon không xốp [24].
Hiện tại, việc đƣa việc thiết kế các cấu trúc micromet trở thành một bộ phận
không thể thiếu của các phòng sạch nghiên cứu vi mạch đã đơn giản hóa các bƣớc
chế tạo các vi điện cực nhƣ hình 1.8. Thậm chí có những sản phẩm vi điện cực có
25
cấu trúc nanomet cũng đã đƣợc thiết kế. Các điện cực sau khi đƣợc chế tạo, đƣợc
chức năng hóa bề mặt để có thể bắt cặp đặc hiệu tế bào, từ đó nhờ theo dõi sự thay
đổi của tín hiệu điện: điện trở, điện tổng trở để đƣa ra các thông tin vật lý của tế bào
[129].
Vật liệu nano còn đóng vai trò đánh dấu, theo dõi tế bào hoặc làm tăng cƣờng
tín hiệu điện; đặc biệt là đối với các nghiên cứu tế bào có nồng độ thấp trong mẫu.
Các tín hiệu dùng để theo dõi tế bào rất đa dạng; có thể là tín hiệu quang nhƣ Raman
[125], huỳnh quang [36], tán xạ ánh sáng – trƣờng tối, quét ảnh tia X [104]. Vật liệu
nano từ tính cũng thƣờng đƣợc dùng để phân lập tế bào một cách đặc hiệu để các quá
trình khảo sát, đo đạc tiếp theo không bị ảnh hƣởng bởi nhiễu nền [127].
Hình 1.9. Mô hình cảm biến sử dụng còi carbon làm điện cực để tăng diện tích tiếp xúc cũng như độ tương thích sinh học; sau đó các hạt nano vàng được chức năng hóa, bắt cặp với kháng thể đặc hiệu rồi cố định lên trên bề mặt tế bào để làm tăng tín hiệu điện hóa [29].
Đối với cảm biến điện hóa, bên cạnh việc làm điện cực để tăng diện tích tiếp
xúc bề mặt, vật liệu nano còn đóng vai trò hỗ trợ tăng tín hiệu điện hóa. Vật liệu
nano kim loại quý và vật liệu nền carbon (CNT, graphene) do tính dẫn diện tốt và
tính tƣơng thích sinh học, đƣợc chức năng hóa bề mặt, gắn kháng thể và đƣa lên bề
mặt tế bào để tăng độ dẫn, hỗ trợ tăng độ nhạy của cảm biến [135]. Hình 1.9 là một
ví dụ của việc sử dụng cùng lúc còi carbon (carbon nano horn) và hạt nano vàng để
26
làm tăng độ nhạy cảm biến khảo sát tế bào sống [29].
1.3.4. Lựa chọn đối tƣợng vật liệu
Trong nghiên cứu của nhóm tác giả Wang [121], các tế bào vi khuẩn Listeria
monocytogenes có kích thƣớc khoảng 2 μm. Trong khi đó, các hạt nano vàng có kích
thƣớc 30 nm và các hạt nano từ có kích thƣớc 100 nm. Khi các hạt nano đƣợc gắn
với các kháng thể đặc hiệu nhận biết vi khuẩn, chúng bám trên bề mặt của tế bào vi
khuẩn. Các hạt nano từ đƣợc ứng dụng để phân lập các tế bào vi khuẩn ra khỏi mẫu
dung dịch. Các hạt nano vàng bám dày đặc hơn trên màng tế bào, hỗ trợ làm tăng độ
tƣơng phản của ảnh chụp tế bào do khả năng tán xạ ánh sáng.
Vật liệu đa chức năng kết hợp từ tính – kim loại với tính chất từ của vật liệu từ
dùng trong phân lập tế bào và tính chất quang/điện của vật liệu kim loại dùng để
đánh dấu trở thành một ý tƣởng đột phá trong nghiên cứu tế bào, cụ thể là tế bào gốc.
Vật liệu đa chức năng từ tính có nhiều cấu trúc khác nhau: cấu trúc hai vật liệu đính
vào nhau [59], cấu trúc lõi vỏ [93] hoặc cấu trúc hai loại vật liệu đƣợc gói trong một
gói có kích thƣớc lớn hơn [95].
Kích thƣớc của vật liệu từ nhỏ (<15 nm) có tính siêu thuận từ, vì vậy khi bổ
sung thêm lớp kim loại, vật liệu từ tính – kim loại vẫn đảm bảo tính siêu thuận từ.
Khi đặt từ trƣờng ngoài vào, các hạt nano có xu thế bị hút về phía từ trƣờng. Sau khi
tắt từ trƣờng ngoài, các hạt lại phân tán trở lại vào dung dịch. Vì vậy, vật liệu từ tính
– kim loại có thể sử dụng trong các ứng dụng tách chiết sinh học. Không chỉ vậy, lớp
nano kim loại có khả năng hoạt động Raman rất tốt [59]; có thể ứng dụng để đánh
dấu tế bào hay làm cảm biến sinh học [95]. Mặc dù các ứng dụng sử dụng vật liệu
nano từ tính – kim loại trong tách chiết tế bào và khảo sát khả năng đánh dấu thông
qua phổ SERS đã đƣợc nhiều nhóm nghiên cứu, nhƣng hiếm thấy nhóm nghiên cứu
nào sử dụng vật liệu từ tính – kim loại trong tách chiết, đánh dầu tế bào gốc máu; sau
27
đó dùng phƣơng pháp điện để đo nồng độ tế bào sau khi tách chiết
1.4. CÁC PHƢƠNG PHÁP CHẾ TẠO VẬT LIỆU
1.4.1. Vật liệu sulfide kim loại
Phản ứng tạo sulfide kim loại đã từ muối chứa ion kim loại và thioacetamide
(TAA) đã đƣợc nghiên cứu từ rất sớm bởi Peeters [98]. Theo đó, quá trình hình thành
sản phẩm MS đƣợc mô tả trong phƣơng trình sau (M là kí hiệu cho kim loại):
(1.4)
Dƣới tác dụng xúc tác của muối Acetate, ion chì tạo phức với các phân từ thioacetamide trƣớc khi phân hủy thành PbS và CH3CN ở nhiệt độ 80oC. Nhƣ vậy,
khi không có sự có mặt của muối Acetate, phản ứng tạo sulfide kim loại cần xảy ra
với các điều kiện xúc tác khác nhƣ nhiệt độ, áp suất trong phƣơng pháp thủy nhiệt.
Phƣơng pháp sử dụng sóng siêu âm để tác động lên quá trình phản ứng cũng là một
giải pháp đƣợc nhiều nhóm nghiên cứu ứng dụng, đặc biệt là trong chế tạo vật liệu
nano [8]. Tác dụng cơ học - nhƣ phá hủy bề mặt hay hiện tƣợng nhũ tƣơng hóa - của
sóng âm mạnh hơn tại tần số thấp. Khi sóng âm có tần số lớn (thƣờng là 20 KHz, 40
KHz. Trong một số hệ siêu âm tần số cao, tần số có thể lên tới vài trăm KHz đến
MHz), tác dụng cơ học của sóng giảm đi; các bóng khí hình thành trong dung dịch có
đƣờng kính ban đầu khoảng 20 μm . Qua mỗi một chu kỳ của sóng âm, các bóng khí
này nhận năng lƣợng, nhiệt độ trong bóng kèm theo kích thƣớc của bóng tăng lên.
Dƣới điều kiện phù hợp, kích thƣớc của bóng khí tăng lên khoảng 7-8 lần (đƣờng
kính khoảng 150 μm), nhiệt độ bên trong chúng có thể lên tới 5000 K và áp suất tức
thời lên tới 1000 bar, trƣớc khi vỡ ra [115]. Sau khi vỡ, nhiệt độ của khu vực có bóng khí giảm nhanh, với tốc độ có thể lên đến 1010 Ks-1. Vì thế, so với các phƣơng pháp
chế tạo cổ điển khác, phƣơng pháp sử dụng còi siêu âm tạo điều kiện đặc biệt phù
hợp cho các phản ứng chế tạo vật liệu trong môi trƣờng dung dịch. Bằng việc thay
đổi chất tham gia phản ứng, điều kiện phản ứng mà ta có thể chế tạo ra rất nhiều loại
vật liệu với nhiều hình thái khác nhau. Trong đó, khi thêm chất phản ứng có chứa lƣu
huỳnh nhƣ urea hay thioacetamid, ta có thể tạo ra các tinh thể sulfide kim loại nhƣ
28
ZnS, MoS2, CdS [8].
Hóa siêu âm cũng đƣợc các nhóm nghiên cứu tại Trung tâm Khoa học Vật
liệu, Khoa Vật lý, Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên sử dụng để chế tạo các loại
vật liệu nano nhƣ nano từ tính [85], đặc biệt là vật liệu nano PbS [61]. Một điều có
thể nhận thấy là dƣới tác dụng của sự thay đổi nhiệt độ nhanh, các hạt nano đƣợc chế
tạo bằng phƣơng pháp hóa siêu âm vẫn còn chứa một phần pha vô định hình. Vì vậy,
để tạo ra các hạt tinh thể có độ trật tự tốt hơn, các nhóm nghiên cứu tại Trung tâm
Khoa học Vật liệu thƣờng lựa chọn phƣơng pháp ủ nhiệt [85]. Nhƣợc điểm của
phƣơng pháp ủ nhiệt là thƣờng làm cho các hạt nano kết đám lại thành các hạt to
hơn; vì vậy làm giảm khả năng ứng dụng của chúng trong sinh học.
1.4.2. Vật liệu nano kim loại
Quá trình hình thành và phát triển kích thƣớc hạt nano kim loại đƣợc chia làm
3 giai đoạn: tạo mầm, hình thành hạt và phát triển Oswald. Giai đoạn đầu tiên, các
mầm hạt nano vàng hình thành một cách độc lập do sự tƣơng tác ngẫu nhiên giữa
chất khử (NaBH4) và dung dịch chứa ion kim loại (HAuCl4). Sau đó là giai đoạn tạo
hạt, thông qua quá trình phát triển nội (inrtra-particle ripening) hoặc kết hợp ngẫu
nhiên (fast random attachment). Thời gian phát triển của giai đoạn này phụ thuộc vào
bản chất dung môi. Nếu dung môi tạo ra môi trƣờng có chứa các chất hoạt động bề
mặt, các hạt mầm khó gặp nhau hơn, vì vậy quá trình hình thành kéo dài hơn. Giai
đoạn thứ ba, quá trình phát triển Oswald, khi nồng độ các hạt đủ lớn, các hạt có xu
thế tiến lại gần nhau và kết tụ để có kích thƣớc lớn hơn [35]. Từ các mầm là các hạt
nano có kích thƣớc nhỏ, dƣới các điều kiện phản ứng phù hợp – nhiệt độ, môi
trƣờng, pH, vật liệu nano có thể phát triển thành các đơn tinh thể có kích thƣớc lớn
hơn.
Phƣơng pháp nuôi mầm là phƣơng pháp phân lập đƣợc các bƣớc tạo mầm
(nucleation stage) và nuôi (growth state) thành hai bƣớc độc lập [90]; trong từng
bƣớc các hạt mầm hay quá trình nuôi thành cách hạt nano đƣợc điều khiển dựa vào
29
các điều kiện lý hóa nhƣ nhiệt độ, nồng độ chất hay sử dụng chất hoạt động bề mặt.
Trong bƣớc tạo mầm, chất hoạt động bề mặt đóng vai trò ổn định, làm cho tốc
độ phát triển của các hạt mầm chậm lại. Tùy thuộc vào chất hoạt động bề mặt khác
nhau mà kích thƣớc, hình dạng của các hạt mầm khác nhau [126]. Dung dịch tiền
chất chứa muối của kim loại A đƣợc nhỏ vào dung dịch đã có sẵn chất khử, chất hoạt
động bề mặt và mầm kim loại B. Kim loại A sẽ phát triển trên bề mặt của mầm kim
loại B. Vị trí phát triển ƣu tiên là tại các mặt tinh thể có năng lƣợng thấp. Khi này,
vai trò của các chất hoạt động bề mặt bên cạnh làm giảm quá trình phát triển, còn
đóng vai trò thay đổi thế năng bề mặt của kim loại B. Nhƣ vậy, ta có thể sử dụng chất
hoạt động bề mặt trong quá trình nuôi để điều khiển kích thƣớc, hình dạng của các
hạt nano kim loại.
Các hạt kim loại thƣờng có cấu trúc lập phƣơng tâm mặt. Các mặt tinh thể có
năng lƣợng bề mặt thấp thƣờng là các mặt ƣu tiên tiếp xúc với mặt thoáng, lần lƣợt là
{110}, {100} và {111}. Hệ quả là cấu trúc bền của các hạt tinh thể kim loại có cấu
trúc fcc có dạng truncated octahedron (hay dạng Wulff, là dạng tổ hợp của tám mặt
{111} và sáu mặt {100}) – vì vậy các hạt nano kim loại thƣờng có dạng giống nhƣ
hình cầu [126]. Trong quá trình nuôi, các phân tử chất hoạt động bề mặt tiếp xúc với
bề mặt của mầm kim loại, làm thay đổi năng lƣợng bề mặt của chúng; vì thế là thay
đổi hƣớng ƣu tiên phát triển của các hạt nano kim loại. Một số chất hoạt động bề mặt
thƣờng đƣợc các nhóm sử dụng khi chế tạo các hạt nano kim loại là citrate, cetyl
trimethyl ammonium bromide (CTAB), tetraoctyl ammonium bromide (TOAB),
cetylpyridinum chloride (CPC) hay polyvinyl pyrolidone (PVP) [83,90]. Các chất
hoạt động bề mặt này thƣờng làm cho năng lƣợng bề mặt của tinh thể kim loại lớn
lên, vì vậy làm giảm thời gian phát triển của hạt; đồng thời cũng gia cố thêm bề mặt,
giúp cho các hạt nano thành phẩm có kích thƣớc đồng đều hơn. Nếu nhƣ các phân tử
citrate làm cho các hạt nano có xu thế phát triển thành dạng bát diện (hƣớng ƣu tiên
phát triển là {111}), các phân tử PVP giúp cho hạt phát triển theo mặt {100} thành
các hạt lập phƣơng [126]; thì các phân tử CPC và CTAB định hƣớng hạt phát triển
30
thành cách hạt cầu lớn hoặc các thanh [83].
Nhƣ vậy, để tạo ra các hạt nano kim loại có kích thƣớc đồng đều, hoặc làm
cho các hạt vỏ kim loại có dạng cầu và đủ lớn thì phƣơng pháp nuôi mầm trong môi
trƣờng CTAB hay PVP là sự lựa chọn phù hợp.
1.4.3. Vật liệu đa chức năng từ tính – kim loại
Trong các loại vật liệu từ tính – kim loại, vật liệu đa chức năng Fe3O4 – kim
loại quý (Au, Ag) đƣợc nghiên cứu rất nhiều trong và ngoài nƣớc. Quy trình chế tạo
các vật liệu này thƣờng chia làm hai bƣớc: chế tạo vật liệu từ bằng phƣơng pháp
đồng kết tủa hay thủy nhiệt sau đó gắn thêm lớp kim loại. Do sự không tƣơng thích
giữa kim loại và ô xít, nên quá trình gắn một lớp kim loại với các hạt nano từ Fe3O4
thƣờng trải qua một giai đoạn chức năng hóa bằng APTES
(Aminopropyltriethoxysilane) hay bằng một lớp polymer trƣớc khi các ion kim loại
đƣợc hấp phụ lên trên bề mặt để khử thành kim loại [58,95].
Có nhiều phƣơng pháp thƣờng sử dụng để chế tạo các hạt nano Fe3O4 nhƣ
thủy nhiệt, thủy phân, vi nhũ tƣơng và đồng kết tủa. Trong các phƣơng pháp kể trên,
phƣơng pháp đồng kết tủa là phƣơng pháp đơn giản, thƣờng để dùng chế tạo các hạt
nano với lƣợng lớn [3]. Theo nhóm nghiên cứu của Ahn, khi độ pH của dung dịch chứa hỗn hợp hai muối Fe2+ và Fe3+ tăng lên một cách từ từ, thì các tinh thể Fe3O4
đƣợc hình thành thông qua các pha trung gian lần lƣợt là akaganeite (một dạng ô xít
sắt III chứa ion Cl) và goethite (một dạng tinh thể của FeOH(OH)). Ban đầu, khi tỉ lệ ion ba zơ trên tổng số ion muối sắt (Fe2+ và Fe3+) nhỏ hơn 2 – tỉ lệ này gọi là R, các
tinh thể akaganeite hình thành ở dạng thanh có kích thƣớc 2-3 nm. Khi R lớn hơn 2, các tinh thể akaganeite bị tan ra, do các ion Cl- bị thay thế dần bằng các ion OH-; tạo
thành các tinh thể goethite và magnetite bao xung quanh. Khi R đạt đến gia trị 2,5;
các tinh thể goethite bị tan hết, chỉ còn lại các tinh thể magnetite.
Cũng trong nghiên cứu của Ahn, nếu ta đột ngột tăng độ pH của dung dịch chứa hỗn hợp hai muối Fe2+ và Fe3+, cùng một lúc có nhiều quá trình tạo Fe3O4 cùng
xảy ra song song; bao gồm chu trình akaganeite goethite magnetite; hoặc quá
31
trình tạo akaganeite bị bỏ qua; hoặc Fe(OH)2 đƣợc hình thành trƣớc, sau đó các ion
Fe2+ bị thay thế bởi Fe3+. Các quá trình cùng xảy ra đồng loạt là do khi đƣa ba zơ vào
quá nhanh, gây ra chênh lệch pH nội tại trong dung dịch; vì thế có thể dẫn tới việc
khó điều khiển quá trình tạo hạt Fe3O4. Từ đây, cũng có thể thấy, trong các nghiên
cứu chế tạo các hạt nano Fe3O4 trong dung dịch thì chất ba zơ đƣợc nhỏ rất từ từ vào
trong dung dịch chứa các ion sắt. Bên cạnh đó, chất hoạt hóa bề mặt cũng đƣợc sử
dụng để điều chỉnh quá trình hình thành hạt.
Trong các phƣơng pháp gắn lớp kim loại lên bề mặt các hạt nano từ tính,
phƣơng pháp chức năng hóa bề mặt trƣớc khi cho hấp phụ các hạt mầm nano kim
loại đƣợc nhiều nhóm nghiên cứu sử dụng [56,80]. Trong đó, các phân tử hoạt hóa
bề mặt có gốc silane nhƣ (3-Aminopropyl)thiethoxysilane (APTES) thƣờng đƣợc
dùng để hoạt hóa bề mặt các hạt nhằm tạo ra lớp vỏ tích điện dƣơng với gốc NH3
[80]. Các hạt nano kim loại nhƣ nano vàng, nano bạc thƣờng tích điện âm, vì vậy dễ
bị hấp phụ lên bề mặt các hạt ô xít sau khi chức năng hóa dựa vào liên kết tĩnh điện.
Sau đó, các hạt nano kim loại bám trên bề mặt các hạt nano ô xít đƣợc tiếp tục nuôi
lớn lên giống nhƣ quy trình nuôi mầm đã bàn ở phần 1.4.2.
1.5. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƢỚC
Từ những năm đầu thế kỷ XXI, nghiên cứu vật liệu nano ứng dụng trong y
sinh đã đƣợc các nhóm nghiên cứu trong nƣớc quan tâm. Các đề tài nghiên cứu chế
tạo vật liệu nano định hƣớng ứng dụng trong đánh dấu sinh học thƣờng là những đề
tài lớn. Sau đó, từ năm 2011 đến nay, nhờ có sự kết hợp giữa các nhà khoa học vật
liệu và sinh học, các nhóm nghiên cứu ứng dụng vật liệu trong y sinh đã phát triển,
trong đó việc nghiên cứu vật liệu định hƣớng ứng dụng trong chế tạo cảm biến sinh
học cũng là một trong nhƣng hƣớng nghiên cứu rất đƣợc chú ý. Hình 1.10 thống kê
số lƣợng các đề tài liên quan đến chế tạo cảm biến sinh học đƣợc cấp bởi quỹ
NAFOSTED (quỹ phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia) từ năm 2011 đến năm
2016. Các đề tài này đều liên quan đến nghiên cứu chế tạo vật liệu định hƣớng ứng
dụng làm cảm biến sinh học nên đều đƣợc cấp cho hai ngành Lý và Hóa; trong đó
32
ngành Vật lý chiếm đại đa số.
Hình 1.10. Thống kê số đề tài NAFOSTED về cảm biến sinh học từ năm 2011 đến năm 2016. Hình A: số lượng đề tài phân bố theo năm. Hình B: số lượng đề tài phân bố theo đơn vị. ĐH BKHN: Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, ĐH KHTN: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Trong khoảng thời gian từ năm 2012 đến năm 2016, có 20 đề tài NAFOSTED
đƣợc cấp cho các nghiên cứu về chế tạo cảm biến sinh học. Số đề tài về chế tạo cảm
biến sinh học đƣợc cấp nhiều nhất trong một năm là 9, thuộc về năm 2012 (hình
1.10A). Sau đó, số lƣợng đề tài về nghiên cứu chế tạo cảm biến sinh học giảm nhanh.
Đến năm 2015 thì số lƣợng đề tài lại tăng lên đến 6. Thời gian trung bình từ lúc bắt
đầu đến khi kết thúc một đề tài NAFOSTED thƣờng là 2-3 năm, vì vậy việc lặp lại
đỉnh điểm về số lƣợng đề tài đăng ký tại các năm 2012 và 2015; thể hiện rõ việc
nghiên cứu chế tạo cảm biến sinh học dựa trên nền vật liệu cấu trúc nano tập trung tại
một số nhóm nghiên cứu cố định. Hình 1.10B mô tả phân bố số đề tài theo đơn vị
nghiên cứu. Số lƣợng đề tài nghiên cứu đƣợc tập trung nhiều tại Trƣờng Đại học
Bách khoa Hà Nội với 50% số đề tài đƣợc cấp. Những năm gần đây – từ 2013, có
một số nhóm nghiên cứu tại các trung tâm nghiên cứu khác cũng bắt đầu tăng cƣờng
nghiên cứu về cảm biến sinh học, cụ thể là Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại
học Quốc gia Hà Nội và Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; mỗi nơi
chiếm 15% số lƣợng đề tài về chế tạo cảm biến sinh học. Ngoài ra, có một số cơ sở
nghiên cứu khác cũng có các nhóm nghiên cứu độc lập về cảm biến sinh học nhƣ
33
Trƣờng Đại học Sƣ phạm kỹ thuật Hƣng Yên, Trƣờng Đại học Quốc tế - Đại học
Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trƣờng Đại học Khoa học – Đại học Huế,
Trƣờng Đại học Hoa Lƣ và Trƣờng Đại học Dầu khí).
Nghiên cứu cảm biến sinh học sử dụng vật liệu nano cần có sự kết hợp giữa
kiến thức sinh học và kiến thức về vật liệu bao gồm: phƣơng pháp chế tạo vật liệu và
tính chất vật liệu; vì vậy cần phải có sự gắn kết giữa các nhóm nghiên cứu vật liệu
với các nhóm nghiên cứu y sinh. Nhƣ vậy, những cơ sở nghiên cứu về cảm biến sinh
học không những phải đảm bảo có những nhóm nghiên cứu về vật liệu, sinh học
mạnh mà còn phải có sự hợp tác chặt chẽ giữa các nhóm này với nhau. Chính vì vậy
số nhóm nghiên cứu chế tạo cảm biến sinh học không nhiều và thƣờng tập trung tại
các trung tâm nghiên cứu lớn hoặc đã có lịch sử nghiên cứu vật liệu ứng dụng y sinh
từ trƣớc đó, cụ thể là Trƣờng Đại học Bách Khoa, Viện Hàn lâm Khoa học và Công
nghệ Việt Nam, Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại
học Quốc gia TP HCM. Sau đó, theo xu thế phát triển chung, có một số nhóm nghiên
cứu khác bắt đầu chuyển hƣớng sang ứng dụng y sinh; nhƣng vẫn cần phải hợp tác
với các nhóm mạnh kể trên. Bảng 1.4 thống kê tình hình nghiên cứu ứng dụng vật
liệu nano trong chế tạo cảm biến sinh học tại một số cơ sở kể trên.
Từ bảng 1.4 có thể thấy các nhóm nghiên cứu tập trung vào nghiên cứu chế
tạo vật liệu để tạo ra điện cực xốp; nhằm tăng cƣờng diện tích tiếp xúc giữa điện cực
và đối tƣợng nghiên cứu. Nhóm nghiên cứu của TS. Tống Duy Hiển, Đại học Quốc
gia TP HCM sử dụng dây nano Pt làm tăng diện tích tiếp xúc với enzyme GOx để
nhận biết nồng độ glucose trong dung dịch [101]. Nhóm nghiên cứu của PGS. Mai
Anh Tuấn, Trƣờng Đại học Bách Khoa Hà Nội sử dụng lớp polymer dẫn có độ xốp
cao nhƣ polyaniline [21] hay polypyrrol [75] để tăng sự tiếp xúc và tính tƣơng thích
sinh học của điện cực với các đối tƣợng sinh học. Vật liệu Pt xốp [100] hay ống nano
carbon [85] cũng đƣợc nhóm của PGS. Mai Anh Tuấn sử dụng để tăng diện tích tiếp
xúc bề mặt trong chế tạo cảm biến sinh học. Cùng chung phƣơng pháp, dây
polyalinine đƣợc mọc trên đế graphene đƣợc nhóm nghiên cứu của TS. Nguyễn Văn
Chúc, Viện Khoa học Vật liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
34
phát triển để khảo sát nồng độ atrazine trong dung dịch [87]. Nhóm nghiên cứu của
PGS. Nguyễn Ngọc Long sử dụng sự tăng cƣờng diện tích bề mặt của các tetrapods
(que 4 chân) ZnO để làm tăng độ nhạy của cảm biến sinh học điện hóa xác định nồng
độ glucose trong dung dịch [70].
Bảng 1.4. Thống kê nghiên cứu về chế tạo cảm biến sinh học tại một số cơ sở nghiên cứu trong nước
Cơ sở nghiên cứu Vật liệu Đối tƣợng Tín hiệu Tài liệu tham khảo
Trƣờng Đại học Bách Khoa Hà Nội trở, hóa, cực - DNA - Virus - Glucose, cơ chất Huỳnh - Điện điện tổng trở - quang [30,75,57,85,100]
Huỳnh
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam [37,81,84,87,120] - quang - Điện hóa Carbon,
- Điện cực xốp kim loại - Điện polymer - Sản phẩm nano carbon (CNT, grapheme) - Nano bán dẫn - Nano kim loại - Chấm lƣợng tử, chấm lƣợng tử bọc sulfide kim loại - graphene - Bán dẫn - Từ tính - Nano kim loại Trƣờng Đại học KHTN, Đại học QGHN - Điện hóa - Tín hiệu từ - Tán xạ ánh sáng, SERS. [27,70,82,104]
- DNA virus - Thuốc trừ sâu, hóa chất độc hại - Tế bào ung thƣ - Glucose - Tế bào ung thƣ tế - DNA bào gây bệnh, DNA virus - Glucose - DNA Đại học Quốc gia TP HCM - Dây nano Silicon, Pt [99,101] - Điện hóa - Tín hiệu transitor.
Tín hiệu có nguồn gốc từ vật liệu nano cũng đƣợc các nhóm nghiên cứu trong
nƣớc sử dụng làm tín hiệu của cảm biến sinh học. Tín hiệu điện từ các vật liệu khác nhau đƣợc sử dụng nhiều hơn cả. Tín hiệu ô xi hóa khử ion Zn2+ trong vật liệu ZnO
đƣợc sử dụng để khảo sát nồng độ glucose trong dung dịch [70]. Trong khi đó, sự
35
thay đổi của tín hiệu tổng trở hoặc độ dẫn khi có sự tƣơng tác sinh học đƣợc nhóm
nghiên cứu của PGS. Mai Anh Tuấn sử dụng nhiều hơn [57,75]. Tín hiệu huỳnh
quang của một số vật liệu bán dẫn kích thƣớc nano – chấm lƣợng tử - cũng thƣờng
xuyên đƣợc các nhóm nghiên cứu sử dụng trong khảo sát các đối tƣợng sinh học
khác nhau [81,120]. Các chấm lƣợng tử CdSe, CdTe hay CuInS2 thƣờng đƣợc bọc
thêm một lớp ZnS [37,63], không chỉ làm giảm tính độc hại của các kim loại nặng
xuất hiện trong chấm lƣợng tử mà còn tăng tính tƣơng thích sinh học của vật liệu.
Mặc dù đã có những nghiên cứu thể hiện khả năng tƣơng tác tốt giữa vật liệu sulfide
kim loại với các enzyme ô xi hóa khử, nhƣng chƣa có nghiên cứu nào về cảm biến
sinh học điện hóa dựa trên nền vật liệu sulfide kim loại.
KẾT LUẬN CHƢƠNG I
Trong chƣơng này, chúng tôi đã trình bày một số nội dung sau:
(1) Đƣa ra khái niệm về cấu trúc của một cảm biến sinh học và một số tiêu chí
đánh giá chất lƣợng cảm biến sinh học.
(2) Trên cơ sở khái niệm cấu trúc của cảm biến sinh học, trình bày tổng quan
về cảm biến điện hóa xác định nồng độ glucose và khảo sát tế bào bao gồm: cơ chế
hoạt động, lý thuyết quá trình chuyển đổi tín hiệu sinh học thành tín hiệu điện hóa và
cấu trúc thƣờng gặp của cảm biến.
(3) Trình bày tổng quan về ứng dụng vật liệu nano nhằm làm tăng độ nhạy và
mở rộng giới hạn khảo sát trong cảm biến xác định nồng độ glucose và khảo sát nồng
độ tế bào.
(4) Tổng quan về hiện trạng nghiên cứu trong và ngoài nƣớc về cảm biến sinh
36
học, đặc biệt là cảm biến sinh học điện hóa.
CHƢƠNG 2: CHẾ TẠO VẬT LIỆU VÀ CÁC PHƢƠNG PHÁP PHÂN TÍCH
Chƣơng 2 bao gồm hai phần chính: (i) chế tạo vật liệu và (ii) các phƣơng pháp
khảo sát tính chất vật liệu nano PbS, vật liệu nano kim loại và vật liệu nano đa chức
năng từ tính kim loại thực hiện bởi nghiên cứu sinh tại Trung tâm Khoa học Vật liệu,
Khoa Vật lý, Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội.
2.1. CHẾ TẠO VẬT LIỆU
2.1.1. Chế tạo vật liệu PbS bằng phƣơng pháp hóa siêu âm kết hợp ủ
laser
Quy trình chế tạo vật liệu nano PbS đƣợc chia thành hai bƣớc chính: sử dụng
phƣơng pháp hóa siêu âm để chế tạo vật liệu và sau đó ủ nhiệt laser.
Chế tạo vật liệu PbS bằng phương pháp hóa siêu âm
Hình 2.1. Chế tạo các hạt nano PbS bằng phương pháp hóa siêu âm. Hình A mô tả các bước thí nghiệm chế tạo hạt. Hình B là ảnh thực tế quá trình chế tạo hạt.
Các bƣớc tiến hành thí nghiệm chế tạo hạt nano PbS bằng phƣơng pháp hóa
siêu âm đƣợc mô tả nhƣ hình 2.1A. Dung dịch gốc chứa chì acetate (Pb(Ac)2) 0,25
M, TAA 0,06 M và CTAB 0,06 M đƣợc pha trƣớc. Lần lƣợt 2 mL dung dịch Pb(Ac)2
và 10 mL dung dịch TAA đƣợc cho vào 20 mL dung dịch CTAB, khuấy đều để tạo thành hỗn hợp chứa ion Pb2+ và TAA trong môi trƣờng CTAB. Sau đó, sóng siêu âm
có dạng xung tần số 40 kHz, công suất 390 W đƣợc cung cấp vào dung dịch từ hệ còi
siêu âm Sonic VCX 750 (hình 2.1B). Chế độ xung của sóng siêu âm là 5 s phát – 5 s
37
nghỉ. Sau 2 h siêu âm, dung dịch chuyển sang màu đen đặc trƣng của PbS. Sản phẩm
đƣợc lọc rửa vài lần bằng nƣớc cất hai lần và cồn tuyệt đối, trƣớc khi đƣợc lƣu trữ
trong nƣớc cất hai lần và bảo quản trong điều kiện khô thoáng, tránh ánh sáng mặt
trời.
Ủ nhiệt laser
Việc sử dụng phƣơng pháp ủ nhiệt laser không những có thể hoàn thiện tinh
thể vật liệu mà còn không làm cho các hạt tinh thể PbS bị kết đám với nhau nhƣ các
phƣơng pháp ủ nhiệt truyền thống, nếu chùm laser đƣợc chiếu trực tiếp vào các hạt
PbS.
Nguồn laser sử dụng trong quá trình ủ nhiệt là nguồn laser của hệ máy Raman
LABRAM HR800. Mẫu sau khi sấy khô, đƣợc đƣa vào trong buồng đo LinkCam để
hạn chế ảnh hƣởng của môi trƣờng trong quá trình ủ. Khi chiếu chùm laser lên mẫu,
vật kính laser để ở chế độ Macro và mẫu để ở chế độ quét.
Giản đồ nhiễu xạ tia X (XRD) của mẫu chứa các hạt PbS đƣợc khảo sát trên
hệ nhiễu xạ tia X (D5005, Bruker). Phổ tán xạ Raman của mẫu đƣợc đo trên hệ
LabRAM HR800, Horiba. Hình thái của các hạt đƣợc đo bằng hệ hiển vi phân giải
cao (HRTEM) TF20 FEG, Tecnai. Tính chất hấp thụ ánh sáng của mẫu chứa hạt PbS
đƣợc khảo sát trên hệ đo hấp thụ quang học UV2450, Shimadzu
2.1.2. Chế tạo các hạt nano kim loại bằng phƣơng pháp nuôi mầm
Quy trình thí nghiệm đƣợc chia làm hai bƣớc: chế tạo các mầm nano vàng có
kích thƣớc nhỏ, và phân tán vào các môi trƣờng chứa chất hoạt động bề mặt đƣợc mô
tả nhƣ trong hình 2.2. Bƣớc 1, HAuCl4 đƣợc pha vào trong dung dịch chứa CTAB để
thành hỗn hợp chứa 1 mM HAuCl4 và CTAB 0,1 M. Khuấy đều đến khi dung dịch
đồng nhất và có màu vàng nâu. Sau đó dung dịch chứa chất khử NaBH4 có nồng độ
0,1 M đƣợc nhỏ từ từ vào hỗn hợp HAuCl4 và CTAB. Dung dịch chuyển rất nhanh
sang màu nâu sẫm, đây cũng chính là màu đặc trƣng của dung dịch chứa các hạt nano
vàng có kích thƣớc nhỏ - từ 1 đến 5 nm (dung dịch chứa các hạt mầm nano vàng).
Trong bƣớc 2, dung dịch chứa các hạt mầm nano vàng đƣợc cho vào các cốc nghiệm
38
có thể tích giống nhau có chứa CTAB với các nồng độ lần lƣợt là 25 mM, 35 mM và
70 mM (dung dịch nuôi). Trong một ồng nghiệm chứa dung dịch nuôi khác, PVP
đƣợc bổ sung để có nồng độ CTAB và PVP cuối cùng lần lƣợt là 25 mM và 100
mg/L. (Do PVP là polymer nên nồng độ thƣờng để ở dạng khối lƣợng / thể tích). Các
dung dịch trên đƣợc ngâm trong thời gian 4 tháng. Sự tăng trƣởng kích thƣớc hạt
vàng trong các dung dịch đƣợc theo dõi theo thời gian thông qua nghiên cứu phổ hấp
thụ quang học trên hệ UV2450, Shimadzu.
Hình 2.2. Quy trình chế tạo và nghiên cứu sự phát triển của các hạt nano vàng trong dung dịch chứa chất hoạt động bề mặt.
Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu chứa các hạt nano vàng đƣợc đo trên hệ nhiễu
xạ tia X (D5005, Bruker). Bên cạnh đó, tại một số thời điểm trong quá trình phát
triển của hạt nano vàng, ảnh hiển vi điện tử truyền qua (TEM) của dung dịch chứa
các hạt đƣợc khảo sát trên hệ JEM-1010, JEOL (viện Vệ sinh dịch tễ Trung ƣơng).
2.1.3. Chế tạo các hạt nano đa chức năng bằng phƣơng pháp hóa ƣớt
2.1.3.1. Chế tạo các hạt nano Fe3O4
Các hạt nano Fe3O4 đƣợc chế tạo bằng phƣơng pháp đồng kết tủa. Tiền chất
39
sử dụng là FeCl2.4H2O, FeCl3.6H2O và dung dịch amoni NH4OH. Dung môi là nƣớc
cất hai lần đƣợc xử lý bằng cách sục khí Ar trong thời gian 15 phút để đuổi hết khí ô
xi khuếch tán giữa các phân tử nƣớc. Quy trình chế tạo các hạt nano Fe3O4 đƣợc mô
tả nhƣ trong hình 2.3. Cụ thể, 0,79 g FeCl2.4H2O (4 mmol) và 2,15 g FeCl3.6H2O (8
mmol) đƣợc pha vào nƣớc cất hai lần để tạo thành dung dịch có thể tích 100 mL.
Dùng máy khuấy từ khuấy đều để tạo thành dung dịch đồng nhất. Dung dịch nhận đƣợc trong suốt có màu vàng nâu chứa hai ion Fe2+ và Fe3+. Nâng nhiệt độ của dung dịch lên 60oC bằng cách ngâm cách thủy bình trong hệ cất quay điều nhiệt (Buchi R-
300, Thụy sĩ). Sau đó, 20 mL dung dịch NH4OH 25% đƣợc bổ sung thêm 30 mL nƣớc cất, trộn đều và nhỏ từ từ vào hỗn hợp chứa hai ion Fe2+ và Fe3+, thấy dung dịch
chuyển sang màu đen đặc trƣng của các hạt nano Fe3O4. Tiếp tục khuấy dung dịch trong vòng 30 phút, trong khi nhiệt dộ dung dịch vẫn giữ ở 60oC. Sản phẩm cuối
cùng đƣợc lọc rửa bằng nƣớc cất hai lần và cồn tuyệt đối. Mẫu đƣợc lƣu trữ trong
nƣớc cất hai lần đã xử lý sục Ar, bịt kín để chống ô xi hóa và bảo quản tại nơi khô
thoáng.
Các hạt nano Fe3O4 bảo quản trong nƣớc cất hai lần đƣợc định lƣợng bằng
phƣơng pháp cân. Các ống nhựa ependorf đƣợc rửa sạch, sấy khô đến khối lƣợng
không đổi. Sau đó, 1 mL dung dịch chứa các hạt nano Fe3O4 đƣợc nhỏ vào ống.
Dùng nam châm thu các hạt về phía đáy ống và đổ phần nƣớc bên trên đi. Lặp lại
nhƣ thế 3 lần, ta đƣợc lƣợng Fe3O4 chứa trong ống tƣơng đƣơng với khối lƣợng của Fe3O4 có trong 3 mL dung dịch chứa hạt. Sấy khô các ống ependorf ở nhiệt độ 60oC,
rồi cân khối lƣợng các ống ependorf lần nữa. Hiệu khối lƣợng nhận đƣợc sau khi cho
Fe3O4 và trƣớc khi cho Fe3O4 chính là khối lƣợng của các hạt nano Fe3O4 có trong 3
40
mL dung dịch chứa hạt.
Hình 2.3. Quy trình chế tạo các hạt nano Fe3O4 bằng phương pháp đồng kết tủa. Hình A là sơ đồ quy trình chế tạo. Hình B là hình ảnh thực tế hệ máy khuấy và hệ điều nhiệt sử dụng để chế tạo hạt.
Hình thái của các hạt nano Fe3O4 đƣợc khảo sát thông qua ảnh TEM (JEM- 1010, JEOL). Cấu trúc của các hạt đƣợc khảo sát dựa trên giản đồ nhiễu xạ tia X (đo trên hệ D5005, Bruker). Đƣờng cong từ trễ của mẫu chứa các hạt Fe3O4 đƣợc đo trên hệ từ kế mẫu rung (VSM-DMS 880, Digital Measurement Systems).
2.1.3.2. Chế tạo các hạt nano đa chức năng Fe3O4-Au
Các hạt nano từ sau khi đƣợc chế tạovà khảo sát tính chất từ, đƣợc nghiên cứu
để gắn thêm với các hạt nano kim loại. Các hạt kim loại này đóng vai trò vừa tăng độ
bền của vật liệu – chống ô xy hóa đối với Fe3O4, vừa có hoạt tính tốt vì khả năng
chức năng hóa bề mặt bởi nhóm thiol [18]; đồng thời cũng có khả năng hỗ trợ đánh
dấu nhƣ sử dụng phổ Raman tăng cƣờng bề mặt hay khả năng tán xạ ánh sáng dƣới
kính hiển vi trƣờng tối.
Quy trình chế tạo các hạt nano Fe3O4-Au đƣợc chia làm 2 giai đoạn: (i) hấp - lên bề mặt các hạt nano từ và (ii) khử trong môi thụ ion kim loại - ở đây là ion AuCl4
trƣờng có nồng độ chất hoạt hóa cao.
- lên bề mặt các hạt Fe3O4
41
(i) Hấp thụ ion AuCl4
Cho 10 mg hạt Fe3O4 vào 20 mL dung dịch chứa HAuCl4 ở các pH khác nhau
(pH ban đầu của dung dịch chứa HAuCl4 là 3; NaOH đƣợc sử dụng để điều chỉnh pH
của dung dịch tới các giá trị lớn hơn, lần lƣợt là 4, 5, 6, 7 và 8). Các hạt nano Fe3O4
đƣợc ngâm trong dung dịch chứa các hạt Fe3O4 trong thời gian 5 phút trƣớc khi sử
dụng nam châm để tách ra khỏi dung dịch. Phép đo thế quét vòng (Cyclic
voltammetry – CV) của dung dịch chứa HAuCl4 trƣớc và sau khi ngâm Fe3O4 đƣợc
đo trên hệ điện hóa PGSTAT302N.
(ii) Khử các ion kim loai trong môi trường có chất hoạt hóa nồng độ cao
Các hạt nano Fe3O4 sau khi đƣợc ngâm vào trong dung dịch chứa HAuCl4 tại
các pH khác nhau đƣợc phân tán trở lại dung dịch chứa chất hoạt động bề mặt là
CTAB (cũng đƣợc chỉnh pH sao cho bằng pH môi trƣờng dùng để ngâm hạt). Sau - thành kim loại. Sản phẩm đó, NaBH4 đƣợc sử dụng để khử các ion kim loại AuCl4
nhận đƣợc sau quá trình khử đƣợc ký hiệu là Fe3O4-Au.
Giản đồ nhiễu xạ tia X và ảnh TEM lần lƣợt sử dụng để khảo sát tính chất cấu
trúc và hình thái của các hạt nano trƣớc và sau khi gắn với các hạt nano vàng. Do
lƣợng hạt Fe3O4 sử dụng không đủ lớn để đo từ tính trên hệ từ kế mẫu rung (VSM-
DMS 880, Digital Measurement Systems) nên từ tính của các hạt đa chức năng đƣợc
khảo sát dựa vào phép đo hấp thụ kết hợp với nam châm vĩnh cửu. Đặt nam châm
vĩnh cửu bên cạnh cuvette có dung dịch chứa các hạt Fe3O4-Au để hút chúng về một
phía. Phổ hấp thụ quang học của mẫu chứa dung dịch còn lại đƣợc đo trên hệ hấp thụ
quang học UV2450, Shimadzu.
2.1.3.3. Chế tạo các hạt nano đa chức năng Fe3O4-Ag
Dung dịch chứa 100 mg hạt Fe3O4 đƣợc phân tán vào 400 mL cồn tuyệt đối.
Bổ sung 12 mL dung dịch NH4OH 25% vào cốc nghiệm chứa hạt, rồi cho cốc
nghiệm vào bể rung siêu âm để NH4OH khuếch tán đều trong dung dịch. Sau 15
phút, 18 mL dung dịch APTES đƣợc nhỏ một cách từ từ. Tiếp tục rung siêu âm 1,5 h,
sản phẩm nhận đƣợc là các hạt nano Fe3O4 đƣợc chức năng hóa bởi các phân tử
APTES (Fe3O4-APTES). Trong bƣớc tiếp theo, 20 mg hạt Fe3O4-APTES đƣợc phân
42
tán một lần nữa vào cốc nghiệm chứa 80 mL cồn tuyệt đối. NH4OH 25% đƣợc sử
dụng để điều chỉnh pH dung dịch thành 11, trƣớc khi bổ sung 4 mL dung dịch
AgNO3 20 mM. Sau 30 phút, 4 mL dung dịch NaBH4 20 mM đƣợc sử dụng để khử ion Ag+ thành Ag. Sau 12h, sản phẩm – ký hiệu là Fe3O4-Ag - đƣợc lọc rửa bằng
nam châm vĩnh cửu và bảo quản trong cồn tuyệt đối.
Cấu trúc và hình thái của mẫu Fe3O4-Ag đƣợc khảo sát bằng hệ đo nhiễu xạ
tia X (D5005, Bruker) và kính hiển vi điện tủ truyền qua TEM (JEM1010, JEOL).
Từ tính của mẫu chứa các hạt đa chức năng Fe3O4-Ag đƣợc phân tích trên hệ từ kế
mẫu rung (VSM-DMS 880, Digital Measurement Systems).
2.2. CÁC PHƢƠNG PHÁP PHÂN TÍCH
2.2.1. Các p ương p áp t ực ng iệm
2.2.1.1. Nhiễu xạ tia X
Cấu trúc tinh thể đƣợc xác định thông qua phƣơng pháp nhiễu xạ tia X. Khi
chùm tia X phản xạ trên bề mặt tinh thể, hình thành hiện tƣợng giao thoa. Cƣờng độ
tia X sau khi giao thoa đạt cực đại khi góc tới của chùm tia X thỏa mãn điều kiện
Bragg (hình 2.4):
(2.1) 2dhklsinθ=nλ
Trong đó:
dhkllà khoảng cách giữa các mặt phẳng nguyên tử có chỉ số mặt tinh thể là
(hkl).
θ là góc tia X tới hợp với mặt phẳng tinh thể đang xét.
λ là bƣớc sóng tia X.
n = 1, 2, 3… đƣợc gọi là bậc phản xạ.
Các cực đại nhiễu xạ có độ bán rộng B tùy thuộc vào độ rộng của khe chắn
Detector, kích thƣớc của các hạt tinh thể và ứng suất trong mẫu đo. Khi sử dụng khe
có độ mở nhỏ, từ độ bán rộng B cho phép xác định đƣợc kích thƣớc tinh thể theo
công thức Scherrer:
43
D = 0,9λ/(Bcosθ) (2.2)
Hình 2.4. Mô tả tán xạ của chùm tia X trên bề mặt tinh thể.
Cấu trúc và hoạt động của một máy nhiễu xạ tia X (XRD) đƣợc trình bày nhƣ
trong hình 2.5. Tia X đƣợc cung cấp bởi một ống phát tia X – trong hình 2.6A ký
hiệu là “nguồn tia X”. Ống phát tia X thƣờng đƣợc giữ cố định. Tia X tới bề mặt của
tinh thể đƣợc đặt trên giá đặt mẫu. Giá để mẫu có thể xoay tự do trong mặt phẳng tạo
bởi tia X và giá để mẫu (Hình 2.5A). Tia nhiễu xạ đƣợc thu nhận bởi một đầu thu ở
phía đối diện.
Nhƣ vậy, khi góc quay 2θ của đầu thu thay đổi, cƣờng độ nhiễu xạ nhận đƣợc
thay đổi và sẽ đạt đƣợc các cực đại ứng với θ thỏa mãn điều kiện Bragg. Giản đồ
nhiễu tạ tia X (XRD) nhận đƣợc là sự phụ thuộc của cƣờng độ tia nhiễu xạ vào góc
quay của đầu thu 2θ.
Các phép đo nhiễu xạ tia X trong luận án này đƣợc thực hiện trên hệ Siemens
D5005, Bruker đặt tại Trung tâm Khoa học Vật liệu, Khoa Vật lý, Trƣờng Đại học
44
Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội (hình 2.5B). Tia X Cu-Kα có bƣớc sóng 1,5406 Ǻ. Dải đo từ 10o đến 70o. Bƣớc đo 0,03o và thời gian tích phân là 1s.
Hình 2.5. Cấu trúc và hoạt động của máy đo nhiễu xạ tia X (XRD). Hình A: mô hình hoạt động của một máy XRD. Hình B: Ảnh của máy XRD Siemens D5005 tại Trung tâm Khoa học Vật liệu, Khoa Vật lý, Trường Đại học KHTN.
2.2.1.2. Tán xạ Raman
Tán xạ Raman là tán xạ bậc 2 của một sóng điện từ có tần số ν0khi tƣơng tác
với mô men lƣỡng cực gây ra bởi dao động của một liên kết hóa học. Điện trƣờng
của sóng điện từ tƣơng tác với một liên kếtgiữa hai nguyên tử, tạo
nên một moment lƣỡng cực điện có độ lớn phụ thuộc vào toán tử lƣỡng cực
theo công thức sau:
(2.2)
Các phần tử của ma trận lƣỡng cực αij(i,j = x,y,z) có thể khai triển Taylor theo
độ dịch chuyển của phonon và làm tròn đến hàm bậc nhất:
(2.3)
Lúc này giá trị của phối tử i của vector moment lƣỡng cực đƣợc tính theo công
thức:
45
(2.4)
Nếu nhƣ phần tử vi phân bậc một không bằng 0, ứng với việc sóng điện từ gây
ra thay đổi lƣỡng cực, thì phần tử chứa vi phân bậc 1 trong biểu thức số2.4 có thể
tách thành tổng của hai dao động có tần số (ν0– νk) và (ν0+ νk). Hay nói cách khác, sẽ
xuất hiện 2 loại sóng điện từ thứ cấp có bƣớc sóng ứng với các tần số dao động trên.
Hình 2.6.Hình ảnh hệ đo LabRAM HR800, Horiba tại Trung tâm Khoa học Vật liệu, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Hình 2.6 là ảnh của hệ đo Raman LabRAM HR800, Horiba đƣợc sử dụng
trong luận án, tại Trung tâm Khoa học Vật liệu, Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên,
Đại học Quốc gia Hà Nội. Phổ tán xạ Raman biểu diễn sự phụ thuộc của cƣờng độ ánh sáng tán xạ vào số sóng (cm-1). Mẫu đo đƣợc gắn với bàn để mẫu của một kính
hiển vi. Ánh sáng kích thích là một chùm laser có bƣớc sóng 532nm, sau khi qua
kính hiển vi, hội tụ trên bề mặt của mẫu. Ánh sáng tán xạ trên bề mặt mẫu đi ngƣợc
lại hệ kính hiển vi và đƣợc lọc bớt phần tán xạ đàn hồi (ánh sáng có tần số bằng tần
số của ánh sáng kích thích) bằng một phiến lọc chặn, trƣớc khi đƣợc thu bằng đầu đo
CCD 1024 × 256 pixel.
2.2.1.2.1. Hiển vi điện tử truyền qua – TEM
Kính hiển vi điện tử truyền qua thƣờng đƣợc dùng để khảo sát vật liệu có kích
thƣớc nhỏ nhƣ các hạt nano hay các màng mỏng nano. Về bản chất, kính hiển vi điện
46
tử TEM có nguyên lý hoạt động gần giống nhƣ kính hiển vi quang học; khác biệt là
chùm ánh sáng trong kính hiển vi quang học đƣợc thay thế bởi chùm điện tử. Các hệ
thống kính dùng để điều chỉnh đƣờng đi của chùm tia là thấu kính từ. Chùm điện tử
đi xuyên qua mẫu, bị tán xạ và phóng đại hình ảnh chi tiết của mẫu qua các thấu kính
điện từ và quan sát trên màn huỳnh quang.
Hình 2.7. Cấu trúc đơn giản của hệ hiển vi điện tử truyền qua (TEM)
Kính hiển vi điện tử thƣờng có hai chế độ chụp ảnh, bao gồm chế độ chụp ảnh
và chế độ chụp nhiễu xạ (hình 2.7). Khi chùm điện tử chiếu vào mẫu, sau vật kính có
hai chế độ tạo ảnh: ảnh hiển vị tại mặt phẳng ảnh và ảnh nhiễu xạ tại mặt phẳng tụ
tiêu.
Các phép đo hiển vi điện tử truyền qua trong luận án đƣợc thực hiện trên hệ
JEOL JEM-1010 đặt tại Viện Vệ sinh dịch tế Trung ƣơng. Chế độ đo trƣờng sáng,
47
với thế gia tốc đặt từ 40kV đến 100kV, độ phóng đại cực đại 500.000 lần.
2.2.1.3. Hệ đo hấp thụ quang học vùng tử ngoại – khả kiến
Nguyên lý của phép đo hấp thụ quang học dựa trên định luật Lambeer-Bert.
Khi chùm sáng có cƣờng độ I0 truyền tới môi trƣờng có bề dày d thì cƣờng độ bị hấp
thụ một phần I. Nếu I0 nhỏ và các hiện tƣợng phản xạ, tán xạ không đáng kể, ta có
với α là hệ số dập tắt (exctinction coefficient)phụ thuộc vào bản
chất của chất tan trong dung dịch, C (mol/l) là nồng độ dung dịch, d (cm) là bề dày
lớp dung dịch. Độ truyền qua T và độ hấp thụ A đƣợc tính bởi công thức:
(2.5)
Hình 2.8. Hệ đo UV-2450, Shimadzu tại Trung tâm Khoa học Vật liệu, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Phổ hấp thụ quang học trong vùng tử ngoại khả kiến (phổ hấp thụ UV-vis) là
giản đồ biểu diễn sự phụ thuộc của cƣờng độ hấp thụ A đƣợc tính theo công thức 2.5.
48
Các phổ hấp thụ UV-vis trong luận án này đƣợc đo đạc trên hệ UV-2450, Shimadzu
tại Trung tâm Khoa học Vật liệu, Khoa Vật lý, Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên,
Đại học Quốc gia Hà Nội (hình 2.8). Nguồn sáng của hệ đƣợc cấp bởi hai đèn: đèn
Deuterium cung cấp ánh sáng trong vùng tử ngoại và đèn Halogen cung cấp ánh sáng
trong vùng nhìn thấy. Ánh sáng đƣợc đơn sắc hóa bởi hệ cách tử phản xạ (hệ đơn sắc
hóa ảnh sáng - monochromator) trƣớc khi đi qua một khe hẹp để hƣớng tới buồng
chứa mẫu. Tại buồng chứa mẫu, chùm sáng đƣợc tách ra thành 2 chùm bởi một
gƣơng bán phản xạ; một chùm sáng đi qua cuvette tham chiếu và một chùm đi qua
cuvette chứa dung dịch mẫu. Đầu thu nhận nhiệm vụ thu thập tín hiệu và so sánh
cƣờng độ của hai tín hiệu sau khi đi qua cuvette tham chiếu (I0) và cuvette chứa mẫu
(I).
Dải quét của máy từ 200 nm đến 900 nm, vị trí chuyển đèn đƣợc đặt tại 315
nm và bƣớc quét (step) là 0,5 nm. Tốc độ đo mẫu để ở chế độ medium, thời gian tích
phân của một lần đo tại một bƣớc sóng là 0,5s.
2.2.1.4. Phép đo hiệu điện thế quét vòng và tổng trở trên hệ
PGSTAT302N
Phép đo hiệu điện thế quét vòng
Tín hiệu nhận đƣợc từ quá trình chuyển đổi tín hiệu là tín hiệu điện hóa. Hệ
đo bao gồm ba điện cực: điện cực làm việc (Working Electrode – WE), điện cực đếm
(Counter Electrode – CE) và điện cực tham chiếu (Reference Electrode – RE). RE có
cấu trúc là một cặp ô xi hóa khử ở trạng thái bão hòa (Ag/AgCl hoặc Hg/HgCl); vì
vậy có điện thế không đổi. Điện thế đặt trên WE đƣợc tham chiếu từ giá trị điện thế
của RE. Quá trình trao đổi điện tử của các phần tử chuyển đổi tín hiệu thƣờng xảy ra
trên bề mặt WE. CE có cấu tạo từ kim loại trơ nhƣ Pt hoặc Au dùng để đo dòng điện
hóa chạy trong dung dịch.
Phƣơng pháp đo thế quét vòng (cyclic voltammetry) là một trong những
phƣơng pháp hữu hiệu để khảo sát quá trình điện hóa của chất trao đổi ion trong
49
dung dịch. Điện áp đặt trên WE có dạng tam giác – có biểu thức nhƣ sau:
(2.6)
Theo công thức 2.6, chu kỳ của một xung tam giác là T; điện thế ban đầu đặt
vào WE là E0 và tốc độ tăng của hiệu điện thế là v – tốc độ quét. Sau nửa chu kỳ,
điện thế đạt Eend = E0+ vT/2, điện thế lại giảm với tốc độ quét v và về đến E0 trƣớc
khi bắt đầu chu kỳ mới (hình 2.9A).
Hình 2.9. Phương pháp hiệu điện thế quét vòng. Hình A biểu diễn sự phụ thuộc thời gian của điện thế đặt vào WE dạng xung tam giác với chu kỳ 2T. Hình B biểu diễn sự phụ thuộc dòng điện đi qua CE phụ thuộc vào hiệu điện thể đặt vào WE – giản đồ I-V.
Trong nửa đầu của chu kỳ quét vòng - , ban đầu điện thế của WE E0
nhỏ hơn điện thế ô xi hóa của dung môi điện hóa, quá trình khử xảy ra tại bề mặt
WE - . Trong đó O và R lần lƣợt là ký hiệu trạng thái ô xi hóa và trạng
thái khử của vật liệu dung môi điện hóa. Khi điện thế của WE tăng dần, lƣợng
electron tham gia quá trình khử tăng dần, dòng điện hóa sẽ tăng lên. Dòng điện hóa
đạt cực đại khi điện thế của WE đạt và giảm xuống khi giá trị điện thế tiếp tục
tăng. Tƣơng tự vậy, ở nửa chu kỳ sau, quá trình ô xi hóa của R thành O xảy ra và giá
trị cƣờng độ dòng điện hóa cũng sẽ đạt cực đại khi điện thế của WE là thế khử (hình
50
2.9B).
Giá trị cƣờng độ dòng điện hóa phụ thuộc vào nồng độ của dung môi điện
hóa, khả năng khuếch tán của các ion R và O về phía bề mặt điện cực, vào điện thế
của điện cực làm việc. Cƣờng độ dòng điện đạt cực đại tại và bằng:
(2.7)
R, T là hằng số khí lý tƣởng và nhiệt độ dung dịch điện hóa, F là hằng số
Faraday, A là diện tích tiếp xúc của dung môi điện hóa với WE, n và C0 là hóa trị và
nồng độ của ion chất ô xi hóa. D0 là hệ số khuếch tán, đặc trƣng cho khả năng
khuếch tán của ion tới bề mặt WE. K là hệ số phụ thuộc vào bản chất của dung môi
điện hóa và sự tƣơng thích giữa dung môi điện hóa với bề mặt điện cực. Phƣơng
trình 2.7 còn đƣợc gọi là phƣơng trình Randles-Sevcik đối với hệ điện hóa thuận
nghịch.
Phép đo tổng trở
Quá trình khuếch tán của các ion trên bề mặt của điện cực đƣợc Warbug lần
đầu tiên mô tả lại thông qua một hệ điện tổng trở. Lƣu lƣợng các hạt mang điện
hƣớng tới bề mặt điện cực tỉ lệ với gradiens nồng độ của chúng ở trên bề mặt điện
cực. Khi đặt điện trƣờng xoay chiều vào, , nghiệm riêng của quá trình
khuếch tán này cũng có dạng tuần hoàn, vì vậy pha của dòng điện đƣợc tính toán
không phụ thuộc vào dòng điện; còn gọi là phần tử Warbug hay phần tử “pha hằng
số” (Constant phase element - CPE). Bên cạnh đó, quá trình trao đổi điện tích trên bề
mặt điện cựctƣơng đƣơng với điện trở trao đổi điện tích – Rct. Song song với hệ CPE
nối tiếp với Rct, hệ tụ điện lớp kép cũng đƣợc đƣa thêm vào – double layer capacitor,
Cdl. Mạch điện này còn gọi là mạch Randles. Mạch Randles hay phần tử
Warbug/CPE đƣợc sử dụng rất nhiều để nghiên cứu quá trình khuếch tán của ion tại
bề mặt điện cực; đặc biệt là trong nghiên cứu chế tạo cảm biến sinh học [7]. Các giá
trị điện trở nhƣ sau:
51
(2.8)
(2.9)
Hình 2.10. Mô hình mạch tương đương của dung dịch chứa ion Mn+ (Mô hình của Randles). Hình A là mô hình mạch tương đương. Hình B là giản đồ Nyquist của mạch điện tương đương với các giá trị Rct khác nhau.
Bên cạnh quá trình trao đổi điện tích tại bề mặt điện cực, dung môi cũng dẫn
điện và có điện trở là Rs. Quá trình tích điện bề mặt của điện cực tạo thành một điện
cực Cdl(điện dung lớp kép – double layer capacitor). Mạch tƣơng đƣơng của một
dung dịch chứa chất điện hóa có thể đƣợc mô tả nhƣ hình 2.10A. Khi thay đổi tần số
góc ω của điện áp đặt lên điện cực, giá trị tổng trở Z của mạch thay đổi. Giản đồ
Nyquyst của mạch điện – giản đồ biểu diễn sự phụ thuộc của phần ảo của tổng trở Im(Z) vào phần thực Re(Z) khi tần số góc ω thay đổi từ 1 Hz đến 106 Hz - đƣợc biểu
diễn nhƣ trong hình 2.10B. Có thể chia đƣờng phụ thuộc Im(Z) vào Re(Z) thành hai
52
phần: phần đƣờng thẳng ứng với các giá trị Im(Z) và Re(Z) thu đƣợc khi tần số góc
ω nhỏ và phần nửa cung tròn ứng với các giá trị Im(Z) và Re(Z) thu đƣợc khi tần số
góc có giá trị lớn.
Từ công thức 2.9, khi tần số ω rất nhỏ, các giá trị Rct hay Cdl, thậm chí điện
trở dung dịch Rs nhỏ hơn giá trị CPE rất nhiều, lúc này giản đồ Nyquist chỉ còn là
một đƣờng thẳng thể hiện Im(Z) phụ thuộc tuyến tính vào Re(Z), với hệ số góc là .
Khi ω lớn, giá trị của CPE nhỏ, lúc này mạch sẽ tƣơng đƣơng với điện trở Rs nối tiếp
với Rct và Cdl mắc song song (Rs nt (Rct // Cdl)). Giản đồ Nyquist có dạng nửa hình
tròn giao với trục hoành tại các vị trí có giá trị Rs và (Rs + Rct).
Các phép đo điện thế quét vòng và tổng trở của luận án đều đƣợc thực hiện
trên hệ PGSTAT302N, Trung tâm Khoa học Vật liệu, Trƣờng Đại học Khoa học Tự
nhiên, Đại học Quốc Gia Hà Nội (Hình 2.11).
Hình 2.11. Hệ đo PGSTAT302N tại Trung tâm Khoa học Vật liệu, Khoa Vật lý, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Khi thực hiện phép đo thể quét vòng, tốc độ quét đƣợc cài đặt là 50 mV/s. Cứ
sau 10 mV máy sẽ đọc giá trị cƣờng độ dòng điện hóa một lần (reading step).
53
Khoảng quét (hiệu điện thế đầu và hiệu điện thể cuối) phụ thuộc vào phép đo. Đối
với dung dịch chứa muối vàng, khoảng quét từ 0,1V đến 1,7V. Đối với phép đo trên
hệ cảm biến glucose, khoảng quét từ -0,1V đến 1,5V.
Phép đo tổng trở đƣợc thực hiện trong khoảng tần số từ 1Hz đến 105Hz. Trong
khoảng này, tổng trở của mẫu đƣợc đo tại 200 điểm tần số. Biên độ của hiệu điện thế
xoay chiều đặt trên hệ mẫu là 0,01V. Mỗi một phép đo kéo dài khoảng 40 phút. Sau
mỗi phép đo trên tế bào, hình thái của tế bào đƣợc kiểm tra trên kính hiển vi và
không thấy hiện tƣợng tế bào bị vỡ.
2.2.2. P ương p áp tín toán lý t uyết Năng lƣợng E của một hệ tƣơng tác Coulomb là giá trị riêng của phƣơng trình
Schrödinger: , trong đó và Ψ lần lƣợt là toán tử Hamilton và hàm sóng
của hệ,
, (2.9)
Trong đó các thành phần , , lần lƣợt là
toán tử động năng, thế năng của hệ Coulomb và hàm tƣơng tác giữa các phần tử
trong hệ. Khi số lƣợng hạt của hệ tăng lên, phƣơng trình Schrödinger trở nên phức
tạp hơn và rất khó giải. Trong các phƣơng pháp giải gần đúng, lý thuyết hàm mật độ
thƣờng đƣợc ứng dụng trong việc tìm hiểu hoạt tính của hệ enzyme và zeolite, quá
trình chuyển tải điện tử, thiết kế thuốc và đặc biệt trong thiết kế và tìm hiểu về các
tính chất của vật liệu.
Lý thuyết Kohn-Sham
Theo Kohn-Sham, lý thuyết hàm mật độ thích hợp ứng dụng cho các hệ có
nhiều điện tử; tại đó, các hàm sóng bị giới hạn bởi các vách có cấu trúc hàm mũ
(exponential). Hệ điện tử đƣợc thay thế bởi mật độ điện tử với là
các giá trị hàm sóng giải đƣợc từ phƣơng trình Schrödinger. Khi này năng lƣợng của
54
hệ có thể biểu diễn ở dạng:
(2.10)
Trong đó: là động năng hệ, là thế năng tƣơng tác
nguyên tử - electron, là tƣơng tác electron-electron và
là năng lƣợng trao đổi. Nếu trong hệ có sự tham gia của A nguyên tử có điện
thì ta có tích ZA thì thế điện tƣơng tác nguyên tử - electron
. Công thức gần đúng của năng lƣợng trao đổi thay đổi tùy
theo đối tƣợng, sao cho kết quả tính toán có thể tiếp cận và giải thích đƣợc kết quả
thực nghiệm.
Phương pháp tính toán gần đúng dựa trên hàm mật độ định xứ (LDA)
Phƣơng pháp tính toán gần đúng đƣợc sử dụng nhiều trong tính toán trong
khoa học vật liệu. Theo đó, hệ điện tử đƣợc coi nhƣ là một hệ khí, và tƣơng tác trao
đổi lúc này có dạng: . Từ đây, về mặt lý thuyết ta có thể
giải đƣợc phƣơng trình Schrödinger và tính toán ra năng lƣợng cơ bản của hệ.
KẾT LUẬN CHƢƠNG II
Nhƣ vậy, chƣơng II trình bày về các phƣơng pháp chế tạo và khảo sát tính
chất vật liệu
Phương pháp chế tạo vật liệu
i, Phƣơng pháp hóa siêu âm kết hợp ủ nhiệt laser đƣợc sử dụng để chế tạo các
hạt nano PbS phân tán trong dung dịch.
ii, Phƣơng pháp nuôi mầm đƣợc sử dụng để tạo ra các hạt nano kim loại quý
có độ kết tinh, độ đồng đều cao; do có thể phân tách để điều khiển hai giai đoạn “tạo
mầm” và “hình thành hạt”.
iii, Các ion kim loại đƣợc hấp phụ lên trên bề mặt của các hạt nano ô xít từ
55
tính Fe3O4 trƣớc khi đƣợc khử thành kim loại. Sau đó lớp kim loại này đƣợc tiếp tục
phát triển bằng phƣơng pháp nuôi mầm để tạo ra lớp kim loại bao xung quanh các
hạt nano từ tính.
Các phương pháp nghiên cứu tính chất vật liệu
Hình thái của vật liệu đƣợc nghiên cứu trên hệ hiển vi điện tử truyền qua
TEM, hiển vi điện tử quét (SEM). Cấu trúc của vật liệu đƣợc khảo sát bằng hệ đo
nhiễu xạ tia X (XRD). Tính chất quang của vật liệu đƣợc nghiên cứu thông qua các
phép đo hấp thụ quang học vùng tử ngoại khả kiến (UV-vis), tán xạ Raman.
Phương pháp tính toán lý thuyết
Phƣơng pháp tính toán lý thuyết đƣợc sử dụng trong luận án là phƣơng pháp
sử dụng lý thuyết hàm mật độ (DFT – Density Functional Theory). Các phép tính
đều sử dụng phƣơng pháp tính toán gần đúng dựa trên hàm mật độ định xứ (LDA-
56
Localized Density Approximation).
CHƢƠNG 3: VẬT LIỆU NANO PbS, NANO VÀNG VÀ NANO ĐA CHỨC NĂNG Fe3O4-Au, Fe3O4-Ag
Chƣơng 3 trình bày về kết quả chế tạo và nghiên cứu tính chất của các hạt
nano, bao gồm:
i) Kết quả nghiên cứu tính chất của các hạt nano PbS đƣợc chế tạo bằng
phƣơng pháp hóa siêu âm kết hợp ủ laser
ii) Kết quả nghiên cứu tính chất của các hạt nano vàng chế tạo bằng phƣơng
pháp nuôi mầm.
iii) Kết quả nghiên cứu tính chất các hạt nano đa chức năng theo các bƣớc:
a) Tính chất các hạt nano từ tính Fe3O4.
- lên bề mặt các hạt nano Fe3O4.
b) Sự hấp phụ của các ion AuCl4
c) Tính chất các hạt nano đa chức năng Fe3O4@Au và Fe3O4@Ag.
3.1. VẬT LIỆU NANO PbS
Hình 3.1 là ảnh hiển vi điện tử truyền qua (TEM) (A), hiển vi điện tửtruyền
qua phân giải cao (HRTEM) (B) và ảnh nhiễu xạ điện tử (C) của mẫu chứa các hạt
nano PbS đƣợc chế tạo bằng phƣơng pháp hóa siêu âm.
Hình 3.1. Ảnh TEM (A) và HRTEM (B) và giản đồ nhiễu xạ điện tử (C) của mẫu các hạt nano PbS được chế tạo bằng phương pháp hóa siêu âm.
Sản phẩm hình thành có hai dạng chính: các hạt nano dạng lập phƣơng, dạng
cầu hoặc bát giác và các thanh nano PbS. Kích thƣớc các hạt nano PbS nhỏ và khá
đồng đều (~ 23 nm); trong khi đó các thanh có bề ngang bằng kích thƣớc các hạt và tỉ
57
số chiều dài / rộng từ 4 đến 5. Kết quả HRTEM cho thấy các hạt nano PbS có kích
thƣớc 23 nm không phải là đơn tinh thể mà là sản phẩm của sự kết đám nhiều tinh
thể PbS rất nhỏ hơn.
Giản đồ nhiễu xạ điện tử (hình 3C) bao gồm các vòng tròn đồng tâm ứng với
nhiễu xạ của chùm tia điện từ trên vật liệu đa tinh thể. Bán kính của các vòng tròn
ứng nhiễu xạ điện tử trên các mặt tinh thể (111), (200), (220), (311) và (222) đặc
trƣng của tinh thể lập phƣơng tâm mặt FCC – nhƣ đánh dấu trong hình. Từ đây, giá
trị của hằng số mạng đƣợc tính toán a 5,98 Ǻ, gần với giá trị công bố của hằng số
mạng tinh thể PbS (JCPDS No 05-0592).
Nhƣ vậy, có thể giả thuyết các hạt nano tinh thể PbS nhỏ đƣợc hình thành
ngay trong giai đoạn đầu của quá trình hóa siêu âm. Sau đó, do tác dụng của áp suất
và nhiệt độ lớn, các hạt có xu thế kết tụ lại với nhau để thành kích thƣớc lớn hơn.
Hiện tƣợng hình thành thanh nano PbS có thể do sự có mặt của chất hoạt hóa bề mặt
với đuôi alkali dài là SDS. Cơ chế của quá trình phát triển thành thanh dài của PbS
chƣa đƣợc giải thích một cách rõ ràng.
Ủ nhiệt laser
Hình 3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình ủ nhiệt laser đến phổ tán xạ Raman của mẫu bột chứa các hạt nano PbS.
58
Tác dụng nhiệt của laser lên vật liệu đã đƣợc nghiên cứu sử dụng ngay từ khi
laser đầu tiên ra đời. Ứng dụng này ban đầu đƣợc tập trung nghiên cứu trên vật liệu
năng lƣợng – vật liệu có trữ năng lƣợng hóa học, nhằm phục vụ cho các ứng dụng
kích nổ từ xa cho các ngành công nghiệp khai khoáng hoặc khảo sát địa chất. Cùng
với sự phát triển của các vật liệu năng lƣợng mới, công nghệ phát nhiệt bằng laser
vẫn đƣợc nhiều nhóm nghiên cứu khai thác [6]. Khi năng lƣợng của chùm laser đủ
mạnh, thậm chí laser có thể phá hủy vật liệu. Tuy nhiên, khi hạ năng lƣợng của chùm
laser xuống, hoặc hƣớng chuyển sang sử dụng laser xung, thì laser còn có thể đƣợc
dùng để làm hoàn thiện tinh thể vật liệu [79] hoặc tiêm vật liệu [77].
Năng lƣợng ánh sáng đƣợc hấp thụ từ chùm laser một phần chuyển thành
nhiệt và làm tăng nhiệt độ của vật liệu, thậm chí có thể lên tới nhiệt độ nóng chảy
[79]. Cƣờng độ laser giảm theo hàm mũ khi đi vào vật liệu. Tại các bƣớc sóng ánh
sáng vật liệu hấp thụ tốt – hệ số suy hao (absorption coefficient) lớn – cƣờng độ ánh
sáng giảm nhanh khi đi vào trong vật liệu. Khi này, phân bố nhiệt độ theo chiều sâu
của mẫu không đồng đều; dẫn đến sự không đồng đều của các quá trình nhiệt.
Kết quả đo Raman đƣợc trình bày trong hình 3.2. Trong dải từ 100 cm-1 đến 250 cm-1 chỉ xuất hiện một đỉnh tán xạ tại 133 cm-1. Để tìm ra thời gian ủ nhiệt phù
hợp, quá trình chiếu laser lên mẫu và đo Raman đƣợc chia thành các bƣớc nhỏ. Ở
mỗi bƣớc, mẫu đƣợc chiếu laser trong thời gian 30s, sau đó nghỉ 15 phút để mẫu
nguội, rồi tiến hành đo Raman. Các bƣớc “chiếu laser và đo Raman” (ủ nhiệt ngắn
30s bằng laser) nhƣ vậy đƣợc lặp lại cho đến khi cƣờng độ phổ tán xạ Raman của
mẫu không thay đổi.
Từ hình 3.2 có thể nhận thấy, cứ sau một lần ủ nhiệt ngắn bằng laser (kéo dài 30s), cƣờng độ tán xạ Raman tại đỉnh 133 cm-1 tăng lên, kèm theo đó là độ rộng của
vạch phổ cũng thu hẹp lại. Nhƣ phân tích ảnh hiển vi điện tử truyền qua phân giải
cao trong hình 3.1, mẫu PbS có dạng lập phƣơng hoặc thanh là tập hợp của các tinh
thể PbS rất nhỏ, giữa các tinh thể vẫn còn các phần biên chƣa kết tinh. Khi ủ nhiệt
59
bằng laser, tinh thể PbS hoàn thiện hơn, dẫn tới sự tăng cƣờng độ đỉnh và giảm độ rộng phổ tại đỉnh tán xạ 133 cm-1.
Nghiên cứu của Smith cho thấy phổ tán xạ Raman của vật liệu khối PbS xuất hiện các đỉnh tại 104 cm-1, 204 cm-1 và 454 cm-1 [112]. Trong khi đó, các nghiên cứu
của nhóm nghiên cứu của Cao [10] và của Zhao [139] cho thấy khi vật liệu PbS có kích thƣớc nano thì phổ tán xạ Raman có các đỉnh tại 135 cm-1, 174 cm-1 và 433 cm-1 - với đỉnh tán xạ có cƣờng độ cao nhất tại 135 cm-1. Khi đo tán xạ Raman của mẫu
PbS, cƣờng độ của chùm laser tới mẫu đƣợc giảm xuống để tránh hiện tƣợng cháy mẫu, dẫn tới chỉ xuất hiện một đỉnh có cƣờng độ cao nhất tại 133 cm-1 (hình 3.2).
Sau 5 lần ủ nhiệt ngắn 30s bằng laser, vẫn chỉ thấy xuất hiện đỉnh tán xạ tại xung quanh 133 cm-1, chứng tỏ mẫu chứa các hạt PbS, mặc dù đã kết tinh tốt hơn, nhƣng
vẫn có cấu trúc nano. Đỉnh tán xạ này đƣợc gán với sự kết hợp của hai dao động âm
ngang (transverse aucostic – TA) và quang ngang (transverse optic - TO) của tinh thể
PbS.
Sau 5 lần ủ nhiệt ngắn bằng laser, cƣờng độ đỉnh tán xạ và độ rộng phổ tại 133 cm-1 hầu nhƣ không thay đổi, chứng tỏ quá trình kết tinh của các hạt PbS đã
hoàn thành. Hay nói cách khác, nếu ta kéo dài thời gian chiếu xạ laser tới mẫu lên tới
3 phút, thì mẫu sẽ kết tinh hoàn toàn. Từ đây, quy trình ủ nhiệt laser đƣợc tiến hành
nhƣ sau: để vật kính của hệ Raman ở chế độ Macro, dùng chế độ quét để quét bàn
mẫu, tại mỗi vị trí quét dừng lại 3 phút với tổng số điểm quét là 100 điểm.
Hình 3.3. Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu chứa các hạt nano PbS trước (a) và sau khi (b) ủ nhiệt laser.
60
Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu chứa hạt trƣớc và sau khi ủ nhiệt laser đƣợc
đo đạc và biểu diễn trong hình 3.3. Ở cả hai giản đồ nhiễu xạ của mẫu PbS trƣớc và
sau khi ủ nhiệt, đều thấy xuất hiện các đỉnh tán xạ đặc trƣng ứng với các mặt (111),
(200), (220), (311) và (222) của tinh thể PbS. Hằng số mạng của hai mẫu đƣợc tính
dựa theo định luật tán xạ Bragg. Kích thƣớc tinh thể đƣợc tính toán theo biểu thức
Debye-Scherrer từ đỉnh tán xạ tại (200) - do đỉnh này nằm độc lập so với các đỉnh
khác. Kết quả tính toán hằng số mạng và kích thƣớc tinh thể đƣợc thống kê trong
bảng 3.1.
Từ bảng 3.1 ta có thể thấy trƣớc khi chiếu laser, kích thƣớc tinh thể PbS trong
mẫu chứa hạt là 2,8 nm (sai số 5%). Sau khi ủ nhiệt, kích thƣớc tinh thể tăng lên 3,8
nm.
Bảng 3.1. So sánh giá trị hằng số mạng và kích thước tinh thể tính toán từ giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu chứa các hạt PbS trước và sau khi ủ nhiệt laser
Sai số Sai số Hằng số mạng (Å) Kích thƣớc tinh thể (nm)
5,98(4) <1% 2,8 5%
5,96(3) <1% 3,8 1% Trƣớc khi ủ nhiệt laser Sau khi ủ nhiệt laser
Nhƣ vậy, ban đầu các tinh thể PbS chỉ có kích thƣớc nhỏ (2-3 nm) đƣợc bao
bọc bởi một lớp biên vô định hình. Sau khi ủ nhiệt laser, các biên hạt này kết tinh
hoàn toàn, để tạo thành các hạt tinh thể có kích thƣớc 3-4 nm. Hằng số mạng của các
tinh thể PbS cũng đƣợc tính toán từ giản đồ nhiễu xạ tia X. Hằng số mạng tính toán
đƣợc của mẫu PbS trƣớc và sau khi ủ nhiệt lần lƣợt là 5,984 Å và 5,963 Å; đều lớn
hơn hằng số mạng của vật liệu khối (a = 5,936 Å, JCPDS No 05-0592). Theo Qi, khi
kích thƣớc tinh thể của vật liệu giảm, ứng suất bề mặt của vật liệu tăng lên do diện
tích bề mặt của vật liệu tăng [103]; dẫn đến, năng lƣợng tƣơng tác giữa các ion trong
tinh thể giảm đi; khoảng cách giữa các ion tăng lên. Hệ quả là hằng số mạng tinh thể
tăng khi kích thƣớc tinh thể giảm. Kết quả tính toán hằng số mạng của mẫu chứa các
61
hạt PbS từ giản đồ nhiễu xạ tia X trong luận án này phù hợp với nguyên lý trên.
Phổ hấp thụ trong vùng tử ngoại và khả kiến của mẫu chứa các hạt nano PbS
trong khoảng từ 260 nm đến 900 nm giốngnhƣ phổ hấp thụ của dung dịch chứa các
hạt nano PbS có dạng lập phƣơng đƣợc công bố bởi nhóm của Cao (hình 3.4 - hình
trong) [10]. Vật liệu PbS là vật liệu bán dẫn có vùng cấm thẳng, vì vậy sự phụ thuộc
của cƣờng độ hấp thụ vào năng lƣợng ánh sáng tới tuân theo công thức
, trong đó E và Eg lần lƣợt là năng lƣợng của ánh sáng tới và độ rộng
vùng cấm, α là hệ số hấp thụ và A là hằng số tỉ lệ. Hình 3.4 vẽ sự phụ thuộc của
vào năng lƣợng của ánh sáng tới - trong đó h là hằng số Planck, c là vận
tốc ánh sáng trong chân không và λ là bƣớc sóng ánh sáng tới. Tại xung quanh giá trị
phụ thuộc tuyến tính vào . Eg, ta có
Trong một số nghiên cứu, đƣờng khớp tuyến tính đƣợc vẽ trong khoảng năng
lƣợng photon lớn hơn 4,2 eV nên độ rộng vùng cấm khá lớn; trong khoảng từ 4,57
eV đến 5,04 eV [89]. Tuy nhiên, trên đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc của vào
, bên cạnh đoạn tuyến tính ứng với giá trị năng lƣợng photon lớn hơn 4,2 eV,
trong khoảng ứng với năng lƣợng photon từ 3,6 eV đến 4,2 eV, giá trị cũng
phụ thuộc tuyến tính vào . Từ khoảng này có thể tính ra đƣợc độ rộng vùng cấm
của vật liệu là 3,12 ± 0,02 eV. Giá trị này phù hợp với giá trị đƣợc công bố bởi nhóm
Mamiyev [76]; lớn hơn rất nhiều so với độ rộng vùng cấm của vật liệu khối (0,41
eV). Kết quả này đƣợc giải thích bởi vật liệu PbS có bán kính tƣơng tác Bohr lớn và
62
khối lƣợng điện tử hiệu dụng nhỏ.
Hình 3.4. Tính toán độ rộng vùng cấm của các hạt nano PbS được chế tạo bằng phương pháp hóa siêu âm từ phổ hấp thụ quang học. Hình trong: phổ hấp thụ quang học đo trên hệ UV245, Shimadzu của mẫu dung dịch chứa các hạt nano PbS.
3.2. VẬT LIỆU NANO VÀNG
Các hạt nano vàng ngay sau khi chế tạo có kích thƣớc trung bình 4 nm. Sau
khi lọc sạch, để phân tán trong môi trƣờng nƣớc cất, các hạt này có xu thế tiến lại
gần và kết tụ với nhau để tạo thành các hạt có kích thƣớc to hơn. Quá trình này còn
đƣợc gọi là quá trình phát triển hạt Oswald (Oswald ripening) [13]. Tốc độ quá trình
phát triển này phụ thuộc nhiều vào yếu tố môi trƣờng, nồng độ chất tham gia phản
ứng và nồng độ hạt nano có trong dung dịch [73]. Khi sử dụng thêm chất hoạt hóa bề
mặt, tốc độphát triển Oswald đƣợc cho là giảm xuống. Ở đây, các chất hoạt hóa bề
mặt tạo thành một lớp vỏ bao bọc xung quanh bề mặt của vật liệu, vì vậy hạn chế quá
trình tiếp xúc đồng chất giữa các hạt nano vật liệu với nhau; hệ quả là hệ số khuếch
tán trong công thức của Lyfshitz cũng giảm xuống đáng kể. Nói cách khác, khi nồng
độ chất bề mặt tăng thì làm cho các hạt nano Au trong dụng dịch ít bị phát triển thành
63
kích thƣớc lớn hơn, giúp chúng ổn định hơn. Một số chất hoạt động bề mặt còn có
thể phản ứng với bề mặt hạt nano Au (nhƣ gốc thiol), kết quả tạo ra liên kết Au-S
khá bền vững. Liên kết này làm cho thế năng bề mặt của vật liệu giảm đi rất nhiều, vì
vậy có thể tồn tại ở trạng thái khá bền ở kích thƣớc nhỏ [46].
Hình 3.5 là ảnh hiển vi điện tử truyền qua của các hạt nano vàng ngay sau khi
chế tạo (A), sau khi đƣợc ngâm trong 75 mM CTAB trong thời gian 6 tháng (B) và
phân bố kích thƣớc hạt trong hai trƣờng hợp trên (C). Phân bố kích thƣớc hạt đều có
dạng log-normal – nghĩa là tần suất xuất hiện hạt có kích thƣớc D phụ thuộc vào D
theo dạng hàm , trong đó σ và μ là phƣơng sai và số trung
vị của phân bố. Kích thƣớc hạt trung bình theo hàm phân bố . Theo đó ta
nhận đƣợc, kích thƣớc trung bình của các hạt nano vàng ngay sau khi chế tạo và sau
khi ngâm trong CTAB 4 tháng lần lƣợt là 4,2 ± 0,5 (12%) nm và 23,6 ± 1,2 (3%) nm.
Sai số tỉ đối của kích thƣớc hạt của mẫu chứa các hạt nano vàng ngay sau khi chế tạo
lớn hơn nhiều so với sau khi ngâm trong CTAB 4 tháng, thể hiện các hạt sau khi
64
ngâm trong CTAB 4 tháng có kích thƣớc đồng đều hơn.
Hình 3.5. Ảnh hiển vi điện tử truyền qua (TEM) của các hạt nano Au. Hình A: ảnh TEM của các hạt ngay sau khi chế tạo. Hình B: ảnh TEM của các hạt sau khi ngâm trong 70 mM CTAB 4 tháng. Hình C: phổ phân bố kích thước hạt của hai trường hợp trên.
Các phân tử CTAB phân ly trong dung dịch thành các ion dƣơng Ctyltrimethyl ammonium (CTA+) và Br-. Các ion CTA+ có một đầu mang điện tích
dƣơng là gốc amin cấp III – cả 3 nguyên tử H trong NH3 bị thay thế bằng các cụm
CH3, sẽ liên kết với bề mặt các hạt nano vàng bằng liên kết tĩnh điện – do điện tích bề mặt của các hạt nano vàng là âm [123]. Đầu còn lại của ion CTA+ là một chuỗi dài
phân tử hữu cơ (C16), vì vậy chúng chỉ có thể tạo liên kết kị nƣớc với các đuôi hữu cơ C16 của các ion CTA+ khác tạo thành một “gói” để bao bọc các hạt nano vàng lại. Chính cấu trúc “gói” này hạn chế quá trình khuếch tán của các hạt Au với nhau; đồng
thời làm cho các hạt sau khi phát triển có kích thƣớc đều hơn.
Để khảo sát kỹ hơn quá trình phát triển của các hạt nano Au trong dung dịch
chứa các chất hoạt hóa bề mặt, kích thƣớc của các hạt nano đƣợc đo gián tiếp thông
65
qua phổ hấp thụ UV-vis tại các điểm thời gian khác nhau. Trong quá trình này,
không đƣợc quyền làm sạch hạt bằng phƣơng pháp quay ly tâm; bởi khi quay li tâm,
các hạt có kích thƣớc lớn thƣờng đƣợc thu thập dễ hơn. Không chỉ vậy, sau khi lọc
sạch, các hạt lại phân tán vào trong dung môi có nồng độ chất hoạt hóa ngày càng
thấp, dẫn tới quá trình phát triển hạt đƣợc thúc đẩy; hệ quả là kích thƣớc đo đƣợc
không còn chuẩn xác nữa.
Hình 3.6 là kết quả đo hấp thụ của dung dịch chứa các hạt nano vàng trong
môi trƣờng có chứa 70 mM CTAB theo thời gian. Có thể thấy, sau 1h đƣa hạt vào
trong môi trƣờng nồng độ CTAB 70 mM vị trí đỉnh phổ hấp thụ dịch đến 517 ± 2
nm, ứng với đó là các hạt nano có kích thƣớc 9,4 ± 4,1 nm. Vị trí của đỉnh hấp thụ
tăng lên theo thời gian lƣu mẫu, lần lƣợt đạt 519 nm sau 4h, 520 nm sau 24h, 521 nm
sau 120h ( 5 ngày), 523 nm sau 720 h (30 ngày).
Hình 3.6. Phổ hấp thụ của dung dịch chứa các hạt nano vàng ngâm trong 70 mM CTAB, được đo ở các thời gian sau khi ngâm khác nhau lần lượt từ 1h đến 720h.
Lý thuyết Mie đƣợc sử dụng để tính toán dạng phổ hấp thụ, vị trí đỉnh hấp thụ
quang học của dung dịch chứa các hạt nano kim loại quý. Hằng số hấp thụ của dung
66
dịch chứa các hạt nano kim loại có kích thƣớc nhỏ hơn 200 nm phụ thuộc vào nồng
độ hạt, hằng số điện môi của dung môi và hằng số điện của vật liệu kim loại tạo ra
hạt:
(3.1)
Trong đó C là nồng độ hạt có trong dung dịch; εm, εr, εi lần lƣợt là hằng số điện
môi của dung môi, phần thực và phần ảo hằng số điện môi của vật liệu kim loại tạo
ra hạt. λ0 là hằng số có đơn vị độ dài.
Theo Drude, nếu chúng ta coi các electron trên bề mặt kim loại là chuyển
động tự do, thì hệ số điện môi ở dạng khối của kim loại đó phụ thuộc vào nồng độ
hạt tải - ở đây là electron và số sóng của ánh sáng tới theo công thức sau:
(3.2)
Trong đó γ là hệ số dập tắt (damping constant) và ωP là tần số plasmon của vật
liệu. Tần số plasmon phụ thuộc vào nồng độ n, khố lƣợng hiệu dụng meff của hạt tải
theo công thức .
Nhƣ vậy, theo công thức trên thì vị trí đỉnh hấp thụ không phụ thuộc vào kích
thƣớc của hạt. Tuy nhiên, khi hạt đạt tới kích thƣớc nano, chỉ có một mod cộng
hƣởng hoạt động - thì hệ số dập tắt tỉ lệ nghịch với kích thƣớc của hạttheo công thức
. Trong đó D là đƣờng kính hạt, là vận tốc Fermi. Công thức này
chỉ đúng khi các hạt nano có kích thƣớc nhỏ hơn 20 nm.
Từ công thức của phổ hấp thụ 3.1, có thể nhận ra đƣợc cƣờng độ hấp thụ đạt
cực đại - ứng với vị trí đỉnh hấp thụ, có tần số thỏa mãn điều kiện . Thay
hệ số dập tắt vào công thức 3.2 của hệ số điện môi vật liệu; từ đó ta có thể tính đƣợc
67
tần số của ánh sáng tại vị trí đỉnh hấp thụ.
(3.3)
(3.4)
Trong biểu thức trên là phụ thuộc trên bậc 2 của D-kích thƣớc hạt. Từ
đây,có thể làm gần đúng λmaxphụ thuộc tuyến tính vào kích thƣớc hạt D với hệ số
tuyến tính là kích thƣớc đủ nhỏ và λ0 là hằng số có đơn vị bƣớc sóng
thỏa mãn và c là vận tốc ánh sáng.
Hình 3.7. Sự phụ thuộc của vị trí đỉnh phổ hấp thụ UV-vis vào kích thước hạt nano Au. Hình vẽ là kết quả tổng hợp từ các tài liệu tham khảo và các kết quả đo được từ các hạt nano vàng đã được chế tạo với các công nghệ khác nhau để có kích thước khác nhau.
68
Đối với D>25 nm, nhóm của Haiss [38] đã đƣa ra sự phụ thuộc của bƣớc sóng
tại đỉnh hấp thụ vào kích thƣớc hạt nano vàng là một hàm mũ. Công thức này là một
công thức thực nghiệm có dạng: với λ0, L1, L2 là các hằng số thực
nghiệm. Ở đây, ta có thể sử dụng các công thức này một lần nữa thông qua việc kết
hợp giữa kết quả đo đƣợc với các kết quả đã công bố trƣớc đó; vừa để kiểm tra chéo
độ chính xác của phép đo UV-vis trong điều kiện phòng thí nghiệm tại Trung tâm
Khoa học Vật liệu, vừa có thể xây dựng lại hệ dữ liệu để có thể tính toán đƣợc kích
thƣớc hạt dựa vào phổ hấp thụ UV-vis. Hình 3.7 biểu diễn sự phụ thuộc của bƣớc
sóng cộng hƣởng – đỉnh hấp thụ (λmax) vào kích thƣớc hạt nano vàng đo đƣợc bằng
kính hiển vi điện tử truyền qua – kết quả lấy từ các công bố [45,54,66,71,143] và các
dữ liệu đƣợc công bố trên trang web thƣơng mại của Sigma Aldrich.
Hình 3.8 là kết quả tính toán thể tích của các hạt nano Au theo thời gian trong
môi trƣờng dung môi là CTAB có nồng độ 25 mM, 35 mM, 70 mM và CTAB có
nồng độ 25 mM bổ sung 100 mg/L PVP. Khi nồng độ CTAB thay đổi, sự phát triển
của kích thƣớc hạt nano vàng theo thời gian không thay đổi quá nhiều. Nhƣng khi bổ
sung thêm 500 mg PVP vào trong dung dịch thì tốc độ già hóa của các hạt nano vàng
tăng lên; không chỉ thế thể tích hạt nano Au cũng lớn hơn so với thể tích hạt Au khi
chỉ có CTAB. Có thể thấy, quá trình già hóa chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn đầu,
tốc độ phát triển kích thƣớc hạt rất nhanh, đạt đến ổn định sau 10h (hình 3.8– hình
nhỏ). Sau đó, trong giai đoạn sau kích thƣớc hạt phát triển chậm hơn rất nhiều, và chỉ
bắt đầu đạt ổn định sau 30 ngày ngâm trong dung dịch.
Khi các hạt nano Au có kích thƣớc lớn hơn 25 nm, sự phụ thuộc của vị trí
đỉnh hấp thụ vào kích thƣớc hạt tuân theo hàm mũ. Khi kích thƣớc hạt nano nhỏ hơn
25 nm, cũng nhƣ kết quả nhận đƣợc từ báo cáo của Haiss [38], vị trí các điểm thí
nghiệm nằm phía dƣới của đƣờng cong khớp - trong hình 3.7: đƣờng cong màu xanh
lục. Các điểm này nằm trên một đƣờng thẳng; phù hợp với phƣơng trình 3.4. Khớp
các điểm thực nghiệm với phƣơng trình 3.4- , nhận đƣợc các giá
trị tham số: λ0= 512,5 nm ± 0,26%, kAbs= 0,48 ± 4,17% (λ0, kAbslà các hằng số). Bên
69
cạnh đó, ở kích thƣớc tới hạn là 20 nm – khớp tuyến tính vẫn còn đúng – ta có thể
tính đƣợc bƣớc sóng hấp thụ của các hạt nano vàng là = 522,1 ± 2,7 nm. Nhƣ
vậy, khi giá trị của bƣớc sóng tại đỉnh phổ hấp thụ nhỏ hơn 525 nm, kích thƣớc của
hạt nano vàng có thể đƣợc tính toán dựa vào công thức:
Sau giai đoạn hạt phát triển, nếu nồng độ các hạt đủ lớn, các hạt có xu thế tiến
lại gần nhau và kết tụ để có kích thƣớc lớn hơn. Giai đoạn này còn đƣợc biết đến là
giai đoạn phát triển Oswald. Theo Harada [39], quá trình phát triển của kích thƣớc
hạt tuân theo công thức . Trong đó t0 là thời điểm bắt đầu
giai đoạn, K là hằng số phản ứng, x là hằng số phụ thuộc vào quá trình nằm trong
khoảng từ 1 đến 3. Quá trình phát triển Oswald ứng với x =3, và x=1 ứng với quá trình phát triển do phản ứng. Nhƣ vậy, nếu ta vẽ đồ thị sự phụ thuộc của D3 vào thời
gian t, ta sẽ nhận đƣợc đồ thị phụ thuộc tuyến tính và hệ số tuyến tính chính là K, là
đại lƣợng đặc trƣng cho quá trình khuếch tán bề mặt.
Hình 3.8. Sự phụ thuộc của kích thước hạt nano Au theo thời gian khi được ngâm trong các môi trường dung môi khác nhau. Kích thước hạt được tính toán từ lý thuyết Mie.
70
Khớp tuyến tính kết quả đo đƣợc (hình 3.8), giá trịKnhận đƣợc đối với mẫu
chứa các nano vàng ngâm trong CTAB tăng không đáng kể khi nồng độ CTAB tăng và đạt khoảng 10,5 ± 1,0 (h-1). Khi cho thêm PVP, giá trị K là 14,0 ± 0,9 (h-1). Nhƣ
vậy, do sự có mặt của PVP, tốc độ phát triển Oswald của các hạt nano vàng tăng lên.
Điều này có thể do PVP là dạng polymer phân cực tốt (tan tốt trong nƣớc), tạo ra các
khung để tụ tập các hạt nano kim loại lại. Trong khung này, các hạt có xu thế tiến lại
gần nhau dễ hơn vì vậy tốc độ phát triểncủa hạt tăng lên.
Quá trình phát triển Oswald không những có thể dùng để nghiên cứu chế tạo
cũng nhƣ hỗ trợ ổn định bề mặt hạt nano kim loại; mà còn có thể ứng dụng trong việc
bọc kim loại xung quanh bề mặt các hạt từ. Cụ thể, sau khi khử ion kim loại để tạo ra
một lớp kim loại bên ngoài các hạt nano từ, ta có thể tiếp tục ngâm chúng trong môi
trƣờng phản ứng để lớp kim loại bên ngoài tiếp tục phát triển thêm, để tạo thành lớp
vỏ bao bọc xung quanh các hạt nano từ. Tốc độ phát triển kích thƣớc hạt cũng có thể
tăng lên bằng cách tăng nhiệt độ, áp suất ở điều kiện thủy nhiệt. Quá trình này giúp
cho việc kết hợp các hạt nano kích thƣớc nhỏ thành các hạt nano có kích thƣớc lớn
hơn trong thời gian ngắn hơn nhƣng vẫn cho kích thƣớc đều và hình dạng giống nhau
[109]. Không chỉ vậy, ta cũng có thể thay đổi chất hoạt hóa bề mặt CTAB thành một
chất hoạt hóa có khả năng liên kết cộng hóa trị với bề mặt hạt nano kim loại, làm
hãm quá trình phát triển của hạt; từ đó có thể điều khiển kích thƣớc hạt nano kim loại
71
trong dung dịch.
3.3. VẬT LIỆU NANO ĐA CHỨC NĂNG Fe3O4-Au, Fe3O4-Ag
3.3.1. Vật liệu nano từ tính Fe3O4
Hình 3.9. Giản đồ nhiễu xạ tia X (XRD) của mẫu chứa các hạt nano Fe3O4 được chế tạo bằng phương pháp đồng kết tủa.
Hình 3.9 mô tả kết quả đo nhiễu xạ tia X (XRD) của mẫu chứa các hạt nano
Fe3O4 đƣợc chế tạo bằng phƣơng pháp đồng kết tủa. Có thể thấy các đỉnh nhiễu xạ xuất hiện tại các vị trí 30,1o, 35,6o, 43,3o, 57,0o và 62,7o lần lƣợt ứng với các góc
phản xạ từ các mặt (200), (311), (400), (511) và (440) của mạng spinnel Fe3O4. Từ
các thông số này có thể tính toán hằng số mạng của tinh thể thông qua công thức
Bragg; nhận đƣợc hằng số mạng của các hạt Fe3O4 là 8,38 ± 0,04Å. Kết quả này rất
phù hợp với công bố chuẩn JCPDS #75-0033. Tỉ lệ cƣờng độ các đỉnh khá phù hợp
với tỉ lệ cƣờng độ chuẩn (JCPDS #75-0033); vì vậy có thể kết luận các tinh thể nano
Fe3O4 phát triển đẳng hƣớng; nói cách khác là có thể có dạng cầu. Sử dụng công thức
Debye-Scherrer để tính toán kích thƣớc tinh thể, ta nhận đƣợc kích thƣớc trung bình
72
của các hạt Fe3O4 là 10,6 ± 0,3 nm
Hình 3.10. Ảnh TEM và HRTEM của mẫu các hạt Fe3O4 làm bằng phương pháp
đồng kết tủa.
Ảnh TEM (hình 3.10) cho thấy kích thƣớc trung bình của các hạt nano Fe3O4
cũng nằm trong khoảng 8-12 nm. Kết hợp với kết quả tính toán kích thƣớc tinh thể từ
giản đồ nhiễu xạ tia X, có thể giả thiết các hạt nano Fe3O4 ở kích thƣớc đủ nhỏ này
đều tồn tại ở dạng đơn tinh thể. Điều này đƣợc kiểm nghiệm thông qua ảnh hiển vi
điện tử truyền qua phân giải cao (HRTEM). Nhận thấy, tất cả các hạt nano Fe3O4
hình thành đều ở dạng đơn tinh thể.Hay nói cách khác, trong quá trình phản ứng tạo
thành từ phƣơng pháp đồng kết tủa, các hạt nano Fe3O4 hình thành từ các tâm phản
ứng độc lập và lớn đến kích thƣớc 10 nm. Tại đây, do sự hạn chế phát triển của các
chất hoạt hóa bề mặt, kích thƣớc của các hạt dừng lại và ổn định
Hình 3.11 là kết quả đo từ tính của mẫu bột chứa các hạt nano Fe3O4. Từ
trƣờng ngoài đặt lên mẫu thay đổi từ -12 kOe đến 12 kOe. Đƣờng cong từ trễ của
mẫu là đƣờng thuận nghịch, đi qua gốc tọa độ và thể hiện các hạt Fe3O4 có tính chất
của vật liệu siêu thuận từ. Khi nhiệt độ của mẫu đủ lớn (T>10Tb, trong đó Tb là nhiệt
độ tới hạn – blocking temperature), thì đƣờng từ trễ của vật liệu siêu thuận từ tuân
theo hàm Lagevin [69,96]; có dạng nhƣ sau:
73
(3.5)
Trong đó m, Ms là từ độ và từ độ bão hòa đo đƣợc của mẫu, đơn vị là emu/g; μ
là mô men từ của một hạt nano Fe3O4, kB là hằng số Boltzmann và T và H là nhiệt độ
đo và từ trƣờng đặt lên mẫu.
Hình 3.11. Đường cong từ trễ của mẫu bột chứa các hạt nano Fe3O4 được chế tạo bằng phương pháp đồng kết tủa.
Khớp hàm Lagenvin với số liệu thực nghiệm (chƣơng trình sử dụng là Gnuplot) ta nhận đƣợc các giá trị của Ms = 67,1 ± 1,1 emu/g và μ = 1,57 ± 0,05 ×10- 18 g. Từ đây có thể tính đƣợc kích thƣớc trung bình của một hạt nano Fe3O4 khoảng
8,3 nm. Kich thƣớc này nhỏ hơn so với kích thƣớc tính toán từ công thức Debye-
Scherrer và từ ảnh hiển vi điện tử truyền qua. Các tài liệu tham khảo đều cho thấy,
phƣơng pháp tính toán kích thƣớc hạt từ phép đo từ thƣờng cho kết quả nhỏ hơn so
với kích thƣớc thực của các hạt nano từ. Điều này đƣợc giải thích bởi một lớp “bất
hoạt từ” xuất hiện ở vỏ ngoài hạt trong phép đo từ trễ; làm cho kích thƣớc hiệu dụng
của các hạt từ bị thu nhỏ đi [69].
- lên bề mặt các hạt Fe3O4
74
3.3.2. Vật liệu nano đa chức năng Fe3O4-Au Quá trình hấp phụ của các ion AuCl4
Hình 3.12. Đường I-V thế quét vòng của mẫu chứa 1 mM HAuCl4 tại pH 3.
Hình 3.12 là đồ thị I-V phép đo thể quét vòng của dung dịch chứa 1 mM
HAuCl4 tại pH 3. Có thể thấy xuất hiện một đỉnh ô xi hóa tại 1,27 V và một đỉnh khử
tại 0,8 V. Vị trí này đƣợc cho là đỉnh khử của ion thành theo phƣơng
. Thế điện hóa tại pH gần 0 của dung dịch chứa trình
HAuCl4 là 0,9 V [134]. Khi giá trị pH tăng đến 3 thì vị trí thế điện hóa giảm và đạt
0,8 V.
Dung dịch muối vàng – chloroaurate – có thể tồn tại trong dung dịch ở các
dạng phức với theo công thức với x = 0, 1, 2, 3 hoặc 4. Sự chuyển
hóa của các ion chloroaurate trong dung dịch ở các pH khác nhau tuân theo các
phƣơng trình sau [50,91]:
(3.6)
Khi pH tăng thì tỉ phần của muối phức có giá trị x lớn sẽ tăng lên. Từ các giá
75
trị hằng số cân bằng của các phƣơng trình kể trên và hằng số cân bằng của nƣớc (
), có thể tính đƣợc tỉ phần các ion có trong dung dịch tại các pH
khác nhau. Theo nhóm Ogata khi pH của dung dịch nhỏ hơn 3, trong dung dịch chỉ
có . Khi pH tăng đến giá trị 4 thì nồng độ của ion chỉ còn khoảng
0,4 lần so với gốc. Khi này trong dung dịch đã xuất hiện cả và
. Hàm lƣợng còn lại rất ít tại pH 5, chỉ 0,05 nồng độ gốc, và
tiến đến 0 tại pH lớn hơn 6. Tƣơng tự vậy, hàm lƣợng ion đạt cực đại
tại pH 4,5, sau đó giảm xuống; ứng với đó là sự xuất hiện và tăng dần lên của các ion
có pH cao hơn.
Điều này cũng thể hiện rất rõ ràng ở trong đƣờng I-V biểu diễn trong hình
3.13. Ban đầu tại pH 3, thế ô xi hóa của ion muối vàng tại 0,8 V. Khi pH tăng đến 4,
giá trị của đỉnh điện hóa gắn với phƣơng trình khử của ion cũng giảm nhẹ.
Cƣờng độ dòng điện tại vị trí này cũng giảm xuống,gần bằng 0,45 lần so với tại pH
3; chứng tỏ nồng độ giảm xuống còn 0,45 lần so với tại pH 3, phù hợp với
kết quả tính toán của Ogata. Bên cạnh đó, thấy sự xuất hiện của 2 đỉnh điện hóa mới
lần lƣợt tại 0,62 V và 0,45 V; đƣợc cho là thế điện hóa của và
. Giá trị pH tiếp tục tăng lên, ta lại thấy xuất hiện thêm đỉnh ô xi hóa
thứ 4, tại 0,31 V. Tại pH 8 thì chỉ còn lại đỉnh tại 0,31 V, chứng tỏ đây là đỉnh gắn
với quá trình ô xi hóa của . Giá trị thế điện hóa của ion vàng tại pH 8
cũng đƣợc các nhóm nghiên cứu nhận đƣợc và kết quả cũng rất gần với kết quả nhận
đƣợc trong báo cáo này [15,41]. Các phƣơng trình khử, vì vậy, có thể đƣợc viết
chung nhƣ sau:
76
(3.7)
Hình 3.13. Đường phụ thuộc I-V phép đo điện thế quét vòng giới hạn trên đường khử từ 0,1V đến 1,2 V của mẫu chứa dung dịch HAuCl4 1 mM ở các giá trị pH khác nhau.
Ở đây, là tổ hợp hai ion và với tổng số ion âm là 2.
Hay nói cách khác số electron đƣợc cung cấp cho các ion trong quá trình ô xi hóa
luôn là n = 2. Thay vào phƣơng trình Randles-Sevcik (xem phần 1.1), ta có dòng
điện hóa luôn tỉ lệ thuận với nồng độ của ion điện hóa:
với là nồng độ của ion chloroaurate . Theo Ogata [91], tỉ phần các
ion trong dung dịch tại 1 giá trị pH là không đổi, nên , với
Cx là hằng số tỉ lệ và C0 là tổng nồng độ ion chloroaurate. Thay vào phƣơng trình
dòng điện và lấy tích phân ta có: . Nhƣ vậy tổng điện
tích chuyển qua bề mặt điện cực (sau này gọi là tổng điện tích điện hóa Q) tỉ lệ thuận
với nồng độ của ion chất ô xi hóa. Hằng số tỉ lệ phụ thuộc tuyến tính vào diện tích
77
điện cực và bản chất các quá trình khử của ion. Từ đây, ta có thể tính tổng nồng độ
ion chloroaurate có trong dung dịch thông qua tổng số điện tích điện hóa Q. Điện tích
Q đƣợc tính toán bằng cách lấy tích phân của đòng điện hóa theo thời gian.
- có tổng nồng độ là 1 Hình 3.14. Tổng điện tích điện hóa trong quá trình ion Au(OH)xCl4-x mM bị khử tại các pH khác nhau (hình trái) và phần trăm lượng ion bị hấp phụ lên bề mặt hạt nano Fe3O4 sau khi ngâm trong thời gian 30 phút (hình phải).
Trƣớc khi các hạt nano Fe3O4 đƣợc ngâm trong dung dịch chứa ion
chloroaurate ở các pH khác nhau, tổng nồng độ của các ion chloroaurate
trong dung dịch là 1 mM.Tổng điện tích điện hóalà một hàm phụ
thuộc vào độ pH của dung dịch chứa các ion chloroaurate nhƣ biểu diễn trong hình
3.14 (hình trái). Tổng điện tích này giảm dần khi độ pH tăng lên ứng với lƣợng ion
chloroaurate đƣợc khử ít hơn. Có nhiều nguyên nhân có thể gây ra hiện tƣợng này;
có thể là do quá trình khuếch tán của các ion với các giá trị x lớn kém
hơn so với các giá trị x nhỏ.
Sau khi ngâm các hạt Fe3O4 vào trong dung dịch chứa muối vàng ở các pH
khác nhau, dùng nam châm để thu lại các hạt Fe3O4, phép đo thế quét vòng lại đƣợc
thực hiện một lần nữa để tính tổng lƣợng điện tích điện hóa. Điện tích này tỉ lệ thuận
với tổng nồng độ muối vàng còn lại trong dung dịch. Từ tỉ lệ phần tổng lƣợng điện
tích điện hóa trƣớc và sau khi ngâm Fe3O4, ta tính đƣợc tỉ phần muối vàng bị hấp phụ
trên bề mặt hạt Fe3O4. Có thể nhận thấy tỉ phần muối vàng hấp phụ trên bề mặt các
hạt nano Fe3O4 tăng lên khi pH tăng (hình 3.18 – hình phải). Điều này có thể giải
78
thích bởi khi pH tăng lên, số gốc xuất hiện nhiều hơn trong phức ,
tƣơng thích hơn với bề mặt của ô xít sắt Fe3O4, vì vậy nên có xu thế bị hấp phụ lên
trên bề mặt Fe3O4 nhiều hơn.
Vật liệu nano đa chức năng Fe3O4-Au
Hình 3.15. Ảnh TEM các hạt nano Fe3O4-Au dạng phức hợp được tạo thành từ việc khử dung dịch HAuCl4 bằng NaBH4 sau khi hạt Fe3O4 được ngâm trong dung dịch HAuCl4 ở pH 3.
Trong môi trƣờng có độ pH cao, các ion chuyển dần thành các ion
với giá trị của x trong khoảng từ 1 đến 4 và tăng dần khi độ pH dung
dịch tăng dần; dẫn tới các ion vàng hấp phụ tốt hơn lên bề mặt của các hạt Fe3O4.
Nhƣ vậy, sau khi ngâm các hạt Fe3O4 trong HAuCl4 với pH cao hơn rồi sử dụng chất
khử để khử các ion vàng để tạo ra nhiều Au bám với Fe3O4 hơn.
Sau khi ngâm các hạt nano Fe3O4 trong dung dịch chứa muối vàng trong thời
gian 30 phút, NaBH4 đƣợc sử dụng để khử muối HAuCl4 thành Au. Khi không điều
chỉnh pH (pH của dung dịch là 3), nhận thấy có rất ít các hạt nano vàng bám vào với
các hạt Fe3O4. Hình 3.15 chỉ ra, các hạt nano vàng có kích thƣớc từ 15 nm đến 20 nm
hình thành một cách độc lập với các hạt Fe3O4 có kích thƣớc nhỏ hơn – khoảng 5 nm
79
đến 15 nm. Mặc dù việc sử dụng còi siêu âm công suất lớn trong quá trình lọc rửa
mẫu, nhƣng các hạt nano Au vẫn bám khá chắc với các hạt Fe3O4 và dung dịch vẫn
có màu đỏ đặc trƣng của dung dịch chứa các hạt nano Au. Phổ hấp thụ của dung dịch
cũng cho đỉnh hấp thụ tại 540 nm.
Hình 3.16. Ảnh TEM các hạt nano Fe3O4trước và sau khi gắn với các hạt nano Au. Hình A: Ảnh TEM của các hạt nano từ trước khi gắn với các hạt nano Au.Hình B: các hạt nano Fe3O4 dạng phức hợp được tạo thành từ việc khử dung dịch HAuCl4 bằng NaBH4 sau khi ngâm các hạt Fe3O4 trong dung dịch 30 phút ở pH 8.
Khi nâng độ pH của dung dịch chứa HAuCl4 lên 8 rồi ngâm Fe3O4 trong thời
gian 30 phút trƣớc khi dùng NaBH4 để khử, kết quả cho thấy có nhiều hạt nano vàng
bám vào các hạt Fe3O4 hơn (hình 3.16).Trong hình 3.16B, các hạt nano Au có kích
thƣớc khá lớn – 25-35 nm, có màu đậm hơn chiếm đa phần trong mẫu. Bên cạnh các
hạt nano Au, vẫn còn có các hạt có màu nhạt hơn, kích thƣớc gần bằng với kích
thƣớc của các hạt Fe3O4 ở trong hình 3.16A. Đây là các hạt Fe3O4 chƣa đƣợc “đính”
với các hạt nano Au.
Tƣơng tự nhƣ phần trên, khi lọc rửa còi siêu âm đƣợc dùng để lọc các hóa
chất còn dƣ, các hạt nano Au vẫn tồn tại cùng với các hạt Fe3O4 sau khi đƣợc hút
bằng nam châm. Cơ chế các hạt Au bám vào bề mặt của các hạt Fe3O4 vẫn chƣa
đƣợc làm rõ, nhƣng có thể giả thiết là giữa các hạt Fe3O4 và Au có một lớp hydrôxít
vàng (Au(OH)3) kết nối chúng lại với nhau. Chính sự tƣơng thích giữa lớp hydrôxít
80
này với ô xít Fe3O4 và Au giúp cho liên kết giữa hai vật liệu chặt chẽ hơn.
Hình 3.17. Giản đồ nhiễu xạ tia X (XRD) của mẫu chứa các hạt nanophức hợp Fe3O4-Au và của mẫu chứa các hạt nano Fe3O4.
Hình 3.17 là giản đồ nhiễu xạ tia X (XRD) của mẫu chứa các hạt nano Fe3O4
và của mẫu chứa các hạt nano phức hợp Fe3O4-Au. So với giản đồ XRD của mẫu
chứa các hạt nano Fe3O4 – đã phân tích trong phần 3.3.1, thì trên giản đồ XRD của
mẫu chứa các hạt nano phức hợp Fe3O4-Au xuất hiện thêm 3 đỉnh tại các vị trí có góc nhiễu xạ 2θ bằng 38,2o, 44,3o và 64,6o ứng với các mặt phản xạ (111), (200) và (220)
của tinh thể vàng (JCPDS #04-0784). Kích thƣớc tinh thể của các hạt nano vàng đƣợc tính từ công thức Debye-Scherrer, áp dụng cho đỉnh tán xạ tại 38,4o và bằng
13,9 ± 0,4 nm. So sánh với ảnh TEM trong hình 3.20B, kích thƣớc tinh thể tính toán
từ giản đồ XRD có giá trị gần với các hạt Au có kích thƣớc nhỏ nhất. Điều này thể
hiện, các tinh thể vàng sau khi đƣợc khử chỉ tạm thời đính lên trên bề mặt của các hạt
nano Fe3O4. Trong đó, có một số hạt nano vàng có xu thế kết đám lại để thành các
81
hạt có kích thƣớc lớn hơn.
Hình 3.18. Phổ hấp thụ của dung dịch chứa các hạt nano vàng tại các thời điểm khác nhau sau khi đặt nam châm bên cạnh cuvette; (a) phổ hấp thụ của mẫu tại thời điểm ban đầu khi chưa đặt nam châm, (b), (c), (d), (e), (f) lần lượt là phổ hấp thụ lần lượt tại các thời điểm 3 phút, 5 phút, 10 phút, 20 phút và 35 phút sau khi đặt nam châm. Hình trong: biểu diễn sự phụ thuộc của độ hấp thụ tại 540 nm vào thời gian.
Dung dịch chứa các hạt nano Fe3O4-Au có màu đỏ đặc trƣng của dung chứa
các hạt nano vàng. Khi sử dụng nam châm để hút (nam châm đất hiếm NdFeB có
kích thƣớc 100 × 50 × 10 mm, từ trƣờng lớn nhất trên bề mặt 1,5 T, lực kháng từ
10KOe, năng lƣợng từ ~64 MGOe), các hạt nano bị hút về phía của nam châm. Do
lƣợng hạt chế tạo không lớn, không đủ để thực hiện phép đo từ tính trên hệ từ kế mẫu
rung; vì vậy một thí nghiệm đơn giản để kiểm tra từ tính của hệ vật liệu, cũng đồng
thời hƣớng đến ứng dụng của vật liệu trong tách chiết y sinh đƣợc thực hiện. Cụ thể,
các hạt nano phức hợp Fe3O4-Au đƣợc phân tán đều trong dung dịch, đặt nam châm
vĩnh cửu bên cạnh và đo nồng độ của dung dịch theo thời gian thông qua sự giảm
cƣờng độ hấp thụ tại đỉnh 540 nm – đặc trƣng của các hạt nano vàng (hình 3.18). Các
khoảng thời gian đo lần lƣợt là 3 phút, 5 phút, 10 phút, 20 phút, 35 phút và 45 phút
sau khi đặt nam châm vĩnh cửu.
Các hạt nano vàng đính cùng với các hạt nano Fe3O4 tạo thành một thể phức
hợp; vì vậy, bên cạnh tính chất từ, chúng còn biểu hiện tính chất quang đặc trƣng của
82
dung dịch chứa các hạt nano vàng. Phổ hấp thụ quang học trong vùng khả kiến của
dung dịch chứa các hạt Fe3O4-Au xuất hiện đỉnh hấp thụ tại 540 nm – là đỉnh hấp thụ
plasmon của các hạt nano vàng (Hình 3.18). Khi đặt từ trƣờng ngoài, dƣới tác động
của lực từ, các hạt nano phức hợp Fe3O4-Au chuyển động về phía nam châm. Hệ quả
là nồng độ hạt trong dung dịch giảm dần theo thời gian. Theo định luật Lambert-
Beer, cƣờng độ hấp thụ của dung dịch tỉ lệ thuận với nồng độ dung dịch. Điều này
thể hiện rất rõ trong hình 3.18. Các phổ hấp thụ của dung dịch chứa các hạt nano
phức hợp Fe3O4-Au có cƣờng độ giảm dần theo thời gian. Khảo sát cƣờng độ hấp thụ
tại 540 nm. Ban đầu cƣờng độ hấp thụ là 1,98. Cƣờng độ hấp thụ còn 1,62 tại thời
gian 3 phút và giảm dần xuống 1,48, 1,03, 0,48, 0,25 và 0,13 lần lƣợt tại các thời
gian 5 phút, 10 phút, 20 phút, 35 phút và 45 phút sau khi đặt nam châm (hình 3.18 –
hình trong). Có thể thấy sau 30 phút lọc từ, trong dung dịch chỉ còn lại khoảng 10%
lƣợng hạt so với trƣớc khi lọc; hầu hết các hạt nano Fe3O4-Au đƣợc thu thập về phía
nam châm. Thời gian 30 phút này cũng là thời gian cần thiết cho các bƣớc thí nghiệm
tiếp theo, nhƣ tách lọc hạt từ sau khi chức năng hóa hay thu thập tế bào sau khi đã
đính các hạt từ lên trên.
Mặc dù đã thành công đính các hạt Au với các hạt Fe3O4, nhƣng có thể thấy
không phải tất cả các hạt nano Fe3O4 đều đƣợc gắn với các hạt Au (hình 3.15 và
3.16B). Điều này có thể do sự không tƣơng thích bề mặt giữa kim loại (Au) và ô xít
kim loại (Fe3O4). Nhiều nhóm nghiên cứu đã giải quyết điều này bằng cách tạo ra
thêm một lớp trung gian liên kết hai vật liệu [56,58,80]. Trong các phƣơng pháp đó,
các nano Au thƣờng đƣợc gắn với các hạt Fe3O4 thông qua 2 bƣớc: gắn các hạt mầm
Au lên lớp trung gian, sau đó nuôi thành các tinh thể lớn [56,80]. Nhóm nghiên cứu
của Chu Tiến Dũng, Trung tâm Khoa học Vật liệu đã cải tiến thành quy trình 1 bƣớc,
là cho hấp thụ các ion kim loại Bạc lên bề mặt các hạt Fe3O4 đƣợc chức năng hóa bởi
APTES và khử trực tiếp [31]. Bên cạnh đó, thực tế đo đạc cho thấy, các hạt nano Ag
có hoạt tính Raman tốt hơn so với các hạt nano vàng; có thể do quá trình tăng cƣờng
bề mặt do trao đổi điện tích giữa các hạt nano vàng và các chất hữu cơ mạnh [92]. Vì
thế, trong nghiên cứu tiếp theo, nhằm cải thiện cấu trúc của các hạt nano từ tính –
83
kim loại cũng làm tăng hiệu quả đánh dấu bằng tán xạ Raman định hƣớng ứng dụng
tách chiết, chụp ảnh và đo nồng độ tế bào, chúng tôi nghiên cứu gắn các hạt Ag lên
các hạt Fe3O4.
3.3.3. Vật liệu nano đa chức năng Fe3O4-Ag Ảnh kính hiển vi điện từ truyền qua (Hình 3.19) cho thấy kích thƣớc của các
hạt Fe3O4-Ag lớn hơn khá nhiều so với các hạt Fe3O4. Ở chế độ trƣờng sáng, vật liệu
Ag tán xạ electron tốt, vì vậy trong ảnh TEM có màu đậm hơn so với các hạt Fe3O4.
Kích thƣớc của các hạt Fe3O4-Ag nằm trong dải từ 30 nm đến 80 nm.
Hình 3.19. So sánh kích thước các hạt nano Fe3O4 và Fe3O4-Ag. Hình A: Ảnh TEM của mẫu hạt Fe3O4. Hình B:Ảnh TEM của mẫu Fe3O4-Ag.
Hình 3.20 là giản đồ XRD của mẫu chứa các hạt Fe3O4 và Fe3O4-Ag.Bên cạnh
các đỉnh đặc trƣng cho cấu trúc spinnel đảo của Fe3O4, xuất hiện thêm các đỉnh tại các vị trí góc tán xạ 2θ là 38,1o, 43,6o và 64,5otrên giản đồ XRD của mẫu Fe3O4-Ag,
tƣơng ứng với các mặt phản xạ (111), (200) và (220) của tinh thể bạc. Trong các đỉnh kể trên, đỉnh ứng với góc tán xạ 38,1o của mặt (111) đứng khá độc lập so với các
đỉnh khác; vì vậy đƣợc sử dụng để tính toán kích thƣớc tinh thể nano Ag. Dựa vào
công thức Debye-Scherrer, kích thƣớc tinh thể của lớp Ag đƣợc tính bằng 18,5 ± 0,5
nm. Kích thƣớc này nhỏ hơn so với kích thƣớc hạt nhìn thấy trong ảnh hiển vi điện
84
tử truyền qua (hình 3.19B). Có thể giả thiết là các hạt nano Ag đƣợc bám dính lên bề
mặt của các hạt Fe3O4 sau khi đã chức năng hóa, sau đó kết tụ lại với nhau thành các
hạt nano có kích thƣớc lớn.
Hình 3.20. Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu chứa các hạt nano Fe3O4 và các hạt nano phức hợp Fe3O4-Ag.
Độ từ hóa trên một đơn vị khối lƣợng của mẫu Fe3O4-Ag cũng giảm đi đáng
kể so với mẫu chỉ chứa hạt Fe3O4. Hình 3.21 biểu diễn kết quả phép đo từ trễ trên hệ
từ kế mẫu rung của các mẫu chứa các hạt nano Fe3O4, các hạt Fe3O4 sau khi đƣợc
chức năng hóa bởi APTES (Fe3O4-APTES) và các hạt Fe3O4-Ag. Tất cả các đƣờng từ
trễ đều thuận nghịch, đối xứng qua gốc tọa độ thể hiện tính chất siêu thuận từ của các
vật liệu Fe3O4, Fe3O4-APTES và của Fe3O4-Ag. Sử dụng hàm Langevin (phƣơng
trình 3.1) để khớp các số liệu thực nghiệm, ta nhận đƣợc các giá trị từ độ bão hòa của
các mẫu. Từ độ báo hòa của các hạt nano Fe3O4-APTES và Fe3O4-Ag lần lƣợt là 53,0
85
± 1,1 emu/g và 39,3 ± 3,3 emu/g.
Hình 3.21. Đường cong từ trễ của mẫu bột chứa các hạt nano Fe3O4 (□), Fe3O4-APTES (○) và Fe3O4-Ag (∆). Các đường nét liền là các đường khớp hàm Langevin.
Từ độ bão hòa đo đƣợc của vật liệu trên các mẫu Fe3O4-APTES và Fe3O4-Ag
khá gần với kết quả đƣợc công bố của nhóm tác giả Chu Tiến Dũng [31]. Theo đó,
có thể nhận định các hạt nano từ tính đa chức năng có cấu trúc ba lớp: lớp lõi là các
hạt Fe3O4, lớp chuyển tiếp là một lớp mỏng SiO2 đƣợc hình thành từ quá trình thủy
phân các phân tử APTES và lớp ngoài cùng là lớp chứa các hạt nano Ag.
Tƣơng tự nhƣ trong phần 3.3.2, quá trình thu thập các hạt Fe3O4-Ag bằng nam
châm vĩnh cữu cũng đƣợc đo đạc thông qua phổ hấp thụ quang học tử ngoại khả kiến
(UV-vis).
Đầu tiên, đƣờng chuẩn biểu diễn sự phụ thuộc của cƣờng độ hấp thụ vào nồng
độ dung dịch chứa Fe3O4-Ag đƣợc xây dựng. Phổ hấp thụ của dung dịch chứa hạt
nano đa chức năng tại các nồng độ khác nhau lần lƣợt là 5 ppm, 10 ppm, 20 ppm, 30
ppm, 40 ppm, 50 ppm, 72 ppm và 150 ppm đƣợc đo trên hệ đo hấp thụ quang học
UV2450, Shimadzu. Các phổ hấp thụ đều có hình dạng giống nhau và có đỉnh hấp
86
thụ tại 376 nm, khá phù hợp với đỉnh hấp thụ plasmon đặc trƣng của các hạt nano
bạc (hình con trong hình 3.19). Vẽ sự phụ thuộc của cƣờng độ hấp thụ tại đỉnh 376
nm vào nồng độ hạt Fe3O4-Ag, ta nhận đƣợc hình 3.22.
Hình 3.22. Biểu diễn sự phụ thuộc của cường độ hấp thụ vào nồng độ hạt đa chức năng Fe3O4-Ag.
Nhận thấy, cƣờng độ hấp thụ tại 376 nm phụ thuộc tuyến tính vào nồng độ
hạt, phù hợp với định luật Lambert-Beer: , trong đó A, l, ε lần lƣợt là cƣờng
độ hấp thụ, độ dày của cuvette, hệ số dập tắt và C là nồng độ của hạt nano có trong
dung dịch. Khớp tuyến tính (A = a + b×C) các điểm đo đƣợc, ta nhận đƣợc b = εl =
0.015 ± 2% (1/ppm). Sử dụng giá trị này, ta có thể tính toán đƣợc nồng độ của dung
dịch chứa hạt sau khi đo đƣợc cƣờng độ hấp thụ tại 376 nm.
Trong bƣớc tiếp theo, 3 ml dung dịch chứa 50 ppm các hạt Fe3O4-Ag đƣợc đặt
bên cạnh nam châm vĩnh cửu. Cƣờng độ hấp thụ tại 376 nm đƣợc đo liên tục và đƣợc
ghi lại tại các điểm thời gian lần lƣợt là 1 phút, 3 phút, 7 phút, 10 phút, 13 phút, 21
phút, 30 phút, 33 phút và 38 phút. Từ cƣờng độ hấp thụ tại 376 nm, nồng độ của hạt
nano tại các thời gian kể trên đƣợc tính toán và đƣợc vẽ trên đồ thị phụ thuộc thời
87
gian nhƣ hình 3.23. Nhận thấy cần 20 phút để có thể thu thập hầu hết các hạt nano
Fe3O4-Ag. Thời gian này sẽ đƣợc sử dụng trong các thực nghiệm ứng dụng trình bày
trong chƣơng 4.
Hình 3.23. Sự giảm của nồng độ các hạt Fe3O4-Ag trong dung dịch khi sử dụng nam châm để hút.
Từ ảnh hiển vi điện tử truyền qua TEM (hình 3.16 và 3.19) có thể thấy các hạt
nano Fe3O4-Ag phân tán trong dung dịch tốt hơn so với các hạt nano Fe3O4-Au. Bên
cạnh đó, việc có thể chế tạo với lƣợng nhiếu hơn, thời gian thu thập bằng từ trƣờng
ngoài ngắn hơn của các hạt nano Fe3O4-Ag (20 phút) so với các hạt nano Fe3O4-Ag
(30 phút) cũng đóng vai trò rất quan trọng cho các bƣớc ứng dụng trong y sinh. Vì
thế, hạt Fe3O4-Ag đƣợc lựa chọn trong ứng dụng phân lập và đo đạc nồng độ tế bào.
KẾT LUẬN CHƢƠNG III
Trong chƣơng này, một số kết quả nghiên cứu chế tạo vật liệu nano đã đƣợc
trình bày; cụ thể nhƣ sau:
(1) Đã chế tạo đƣợc các hạt nano PbS bằng phƣơng pháp hóa siêu âm kết hợp
ủ nhiệt laser. Các hạt nano PbS có dạng lập phƣơng và dạng thanh với kích thƣớc
chiều ngang khoảng 23 nm, đƣợc cấu tạo từ các hạt đơn tinh thể nhỏ. Kích thƣớc của
các hạt đơn tinh thể nhỏ trƣớc khi ủ nhiệt là 2-3 nm và tăng lên 3-4 nm sau khi ủ
88
nhiệt laser.
(2) Đã chế tạo đƣợc các hạt nano vàng bằng phƣơng pháp nuôi mầm. Các hạt
nano Au đồng đều và có kích thƣớc trung bình khi đƣợc nuôi trong dung dịch chứa
CTAB là 23,6 nm và trong dung dịch chứa CTAB kết hợp PVP là 25,1 nm.
(3) Đã chế tạo đƣợc các hạt nano đa chức năng từ tính – kim loại, Fe3O4-Au
và Fe3O4-Ag bằng phƣơng pháp hóa ƣớt.
Các hạt nano Fe3O4 đƣợc chế tạo bằng phƣơng pháp hóa – đồng kết tủa –
trong giai đoạn (i) có kích thƣớc trung bình 10,6 nm, có tính siêu thuận từ với từ độ
bão hòa là 67,1 emu/g.
Các hạt nano Fe3O4-Au có kích thƣớc nằm trong khoảng 20-25 nm, có đỉnh
hấp thụ plasmon tại 540 nm trên phổ hấp thụ ánh sáng UV-vis. Khi đặt từ trƣờng
ngoài, các hạt nano tiến lại gần phía có từ trƣờng mạnh và cần 30 phút mới có thể thu
thập hầu hết các hạt nano Fe3O4-Au.
Các hạt nano Fe3O4-Ag có kích thƣớc từ 30 đến 80 nm và có tính siêu thuận
từ và phân tán tốt trong dung dịch. Thời gian thu thập các hạt nano Fe3O4-Ag bằng từ
89
trƣờng ngoài là 20 phút.
CHƢƠNG 4: ỨNG DỤNG VẬT LIỆU NANO TRONG CHẾ TẠO CẢM BIẾN SINH HỌC
Nhƣ trình bày trong chƣơng 1, nguyên lý hoạt động của cảm biến sinh học là
chuyển đổi tín hiệu sinh học thành tín hiệu đo đƣợc. Ở cảm biến thể hệ III, vật liệu
nano không chỉ đóng vai trò tăng diện tích tiếp xúc giữa phần tử nhận biết và phần tử
chuyển đổi tín hiệu mà còn trực tiếp trở thành phần tử phát tín hiệu, vì vậy, thƣờng
đƣợc liên kết trực tiếp với phần tử nhận biết. Trên cơ sở đó, quy trình thiết kế cảm
biến sinh học thế hệ III ứng dụng các vật liệu nano thƣờng bao gồm các bƣớc gắn kết
vật liệu nano với phần tử nhận biết, tích hợp phức “vật liệu nano – phần tử nhận biết”
vào trong mô hình cảm biến và nghiên cứu tín hiệu nhận đƣợc từ vật liệu nano nhằm
đƣa ra các thông tin cần biết về đối tƣợng cần nhận biết (quá trình xử lý tín hiệu).
Trong chƣơng này, một số cảm biến sinh học sử dụng các vật liệu nano đã chế
tạo và nghiên cứu tính chất ở chƣơng 2 và chƣơng 3 đƣợc thiết kế và trình bày theo
trình tự: (i) thiết kế cảm biến và phƣơng pháp đo đạc và (ii) kết quả và thảo luận. Các
cảm biến bao gồm:
(1) Cảm biến sinh học xác định nồng độ glucose sử dụng các hạt nano PbS.
(2) Ứng dụng nguyên lý cảm biến sinh học trong tách chiết và nhận biết tế bào
gốc máu từ mẫu tủy xƣơng.
4.1. CHẾ TẠO CẢM BIẾN GLUCOSE SỬ DỤNG CÁC HẠT NANO PbS
4.1.1. Thiết kế cảm biến và phƣơng pháp đo đạc
4.1.1.1. Thiết kế cảm biến
Nguyên lý hoạt động cảm biến sinh học điện hóa sử dụng các hạt nano PbS
trong luận án này là cảm biến sinh học thế hệ III, dựa vào tƣơng tác enzyme – cơ
chất. Đối tƣợng cần nhận biết là glucose, phần tử nhận biết là enzyme glucose
oxidase (GOx) và tín hiệu của cảm biến là tín hiệu I-V thế quét vòng. Glucose bị ô xi
hóa thành glucolactone (phƣơng trình 1.2) nhờ sự xúc tác của enzyme GOx. Điện tử
tham gia vào quá trình ô xi hóa xuất phát từ điện cực, đƣợc trao đổi với các phân tử
90
glucose thông qua vật liệu làm điện cực - ở đây là PbS. Phƣơng pháp đo thể quét
vòng gắn liền với 3 điện cực: điện cực làm việc WE, điện cực đến CE và điện cực
tham chiếu RE. Quy trình chế tạo điện cực làm việc đƣợc mô tả nhƣ trong hình 4.1;
đƣợc chia làm 3 bƣớc: tạo điện cực vàng, tạo hỗn hợp PbS-GOx và nhỏ dung dịch
chứa hỗn hợp PbS-GOx lên điện cực để tạo thành màng không tan trong nƣớc.
Chế tạo điện cực vàng
Điện cực vàng đƣợc thiết kế sao cho có diện tích bề mặt cố định và hơi sâu
xuống so với mặt thoáng 1 mm để có thể giữ đƣợc 1 giọt hỗn hợp chứa PbS-GOx. Cụ
thể, một miếng vàng có dạng trụ đƣờng kính 3 mm, dài 1 mm đƣợc đặt cố định vào
trong một ống Teflon – điện cực vàng. Điện cực vàng đƣợc nối ra ngoài nhờ một lõi
dẫn điện bằng đồng (Cu) chạy suốt dọc ống Teflon. Epoxy đƣợc đổ vào lõi trụ sao
cho liên kết giữa sợi đồng và điện cực vàng cố định, vừa để giúp hệ lõi sợi đồng-điện
cực vàng có thể trƣợt dọc theo ống trụ Teflon. Mỗi lần chuẩn bị mẫu, điện cực vàng
đƣợc trƣợt ra ngoài một chút để mài phẳng; sau đó đẩy lùi lại so với mặt thoáng của
ống Teflon 1 mm.
Tạo hỗn hợp PbS-GOx
Các hạt PbS đƣợc pha vào trong dung dịch muối phosphate (Phosphate Buffer
– PBS) có pH 7 trong đó đã có chứa các phân tử enzyme Glucose oxidase (GOx) nồng độ 0,2 M (Dung dịch PbS+GOx). Để khô ở trong điều kiện thoáng tại 4oC để
cho dung dịch khô hết – lúc này các phân tử GOx có thời gian để hấp phụ lên trên bề
mặt của các hạt PbS. Sau khi dung dịch PbS+GOx khô, nhỏ dung dịch polystyrene
(PS) đƣợc hòa tan trong dichloromethane (CH2Cl2) vào sao cho tổng thể tích của hệ
bằng đúng thể tích của dung dịch PbS+GOx trƣớc khi khô. CH2Cl2không gây độc
tính phá hủy enzyme, là chất hòa tan tốt PS và bay hơi rất nhanh. Hỗn hợp chứa PS,
PbS và GOx tan trong CH2Cl2 đƣợc khuấy đều và nhỏ một giọt lên trên bể mặt điện
91
cực vàng.
Hình 4.1. Mô tả cấu tạo điện cực làm việc của cảm biến sinh học xác định nồng độ glucose có sử dụng các hạt nano PbS.
Cố định PbS-GOx lên bề mặt điện cực
Điện cực đƣợc mài phẳng và để thụt vào so với mặt thoáng 1 mm. Nhỏ 1 mL
dung dịch chứa hỗn hợp PbS-GOx lên mặt thoáng của điện cực. Sau 10 phút, CH2Cl2
bay hơi hết, trên bề mặt điện cực chỉ còn lại một lớp PbS-GOx đã đƣợc phân tán và
cố định trong polystyrene (PS). Lớp PS này không tan trong nƣớc vì vậy đảm bảo
các hạt nano PbS và GOx không bị phân tán vào dung dịch trong suốt quá trình đo
đạc. Bên cạnh đó, việc phân tán đều PbS-GOx vào trong PS cũng tạo ra sự liên kết
giữa các phân tử GOx cũng nhƣ các hạt PbS với dung dịch và điện cực vàng.
4.1.1.2. Phương pháp đo đạc
Đặc trƣng I-V hiệu thế quét vòng đƣợc đo trên máy PGSTAT302N với hệ 3
điện cực bao gồm điện cực chuẩn RE là điện cực Ag/AgCl bão hòa, điện cực đếm
CE làm bằng Pt và điện cực làm việc WE đƣợc chế tạo nhƣ trong phần 4.1.1.1. Đặt
hiệu điện thế quét vòng lên điện cực làm việc, khoảng làm việc [-0.1, +1,5], tốc độ
quét 50 mV/s. Khoảng cách giữa điện cực làm việc và điện cực đếm đƣợc giữ
nguyên là 1 cm. Bố trí thí nghiệm đƣợc làm lặp lại giống nhƣ trong công bố trƣớc đó
về cảm biến sinh học xác định nồng độ glucose sử dụng tetrapod ZnO để so sánh kết
92
quả [70].
4.1.2. Kết quả và thảo luận
Phép đo sử dụng hiệu điện thể quét vòng đƣợc thực hiện thêm trên hệ dung
dịch chứa chỉ có glucose, glucose oxidase và hỗn hợp glucose+glucose oxidase trong
PBS pH 7; điện cực sử dụng là điện cực vàng để khảo sát quá trình ô xi hóa khử của
glucose cũng nhƣ vai trò của GOx trong dung dịch (hình 4.2).
Hình 4.2. Vai trò của GOx trong quá trình ô xi hóa của glucose và cảm biến xác định nồng độ glucose bằng điện cực vàng. Hình A là kết quả đo thế quét vòng (CV) của dung dịch chứa 0,2 mM GOx, chứa 0,2 mM glucose và chứa hỗn hợp 0,2 mM glucose và 0,2 mM GOx. Hình B là kết quả đo CV của dụng dịch chứa hỗn hợp của 0,2 mM GOx với glucose với các nồng độ khác nhau.
Khi trong dung dịch chỉ có glucose 0,2 mM pha trong PBS pH 7 nhận thấy
xuất hiện đỉnh khử tại 0,14 V. So sánh với kết quả đƣợc công bố bởi Hsiao [41], thấy
vị trí đỉnh khử này rất trùng với vị trí đỉnh khử của dung dịch chứa sodium
gluconate. Theo Hsiao, sản phẩm của quá trình khử trong giản đồ CV của sodium
gluconate là glucolactone. Nhƣ vậy, có thể giả thiết glucose đƣợc ô xi hóa thành a xít
gluconic (là a xít của muối gluconate) khi điện thể của WE tăng từ -0,1 V đến 1,5 V.
Sau đó, ở chiều ngƣợc lại, khi điện thể của WE giảm từ 1,5 V xuống -0,1 V thì a xít
93
gluconic bị khử thành glucolactone; vị trí đỉnh khử là 0,14 V.
Khi trộn hai dung dịch GOx và glucose lại, nhận thấy có sự dịch đỉnh về phía
giữa của hai đỉnh của mẫu khi chỉ có Glocose hay GOx độc lập. Vị trí đỉnh I-V thu
đƣợc là 0,45 V. Điều này cũng đƣợc nhóm Qing Liu thảo luận và đƣợc cho là có sự
tƣơng tác giữa GOx và glucose trong dung dịch [68]. Trong dung dịch, các phân tử
glucose có kích thƣớc rất nhỏ, trong khi đó các phân tử GOx có 580-585 acid amin
của mình có kích thƣớc lớn hơn rất nhiều với cấu hình 3D đƣợc chia làm 2 domain
(N-terminal và C-terminal) [40]. Các phân từ glucose liên kết vào bên C-terminal và
sẽ chƣa chuyển hóa thành a xít gluconic khi chƣa có phân tử FAD (flavin adenine
dinucleotide) nào liên kết với N-termial. FAD giống nhƣ chất xúc tác, chuyển hóa
thành FADH2 (nhận thêm H từ môi trƣờng, vì vậy tạo ra H2O2 nhƣ là sản phẩm ở
trong dung dịch), kích hoạt GOx thay đổi cấu hình, kích hoạt quá trình chuyển hóa
glucose thành a xít gluconic. Vì vậy, khi nồng độ glucose tăng lên thì cƣờng độ dòng
khử GOx cũng tăng lên nhƣ biểu hiện trong hình 4.2B.
Hình 4.3. So sánh kết quả đo điện thế quét vòng (CV) của dung dịch chứa 0,2 mM glucose khi sử dụng điện cực chế tạo từ PbS-GOx với kết quả đo CV của mẫu dung dịch chứa GOx.
94
Khi dùng hệ điện cực đƣợc chế tạo từ PbS-GOx, xuất hiện hai đỉnh khử tại
0,49 V và 0,14 V. Hai đỉnh này rất gần với vị trí đỉnh khử của GOx và của a xít
gluconic với cƣờng độ tăng lên gần 15 lần (hình 4.3). Nhƣ vậy, trong quá trình khử
sẽ xuất hiện cả sự khử của a xít gluconic thành glucolactone và quá trình kích hoạt
của GOx. Không chỉ vậy, còn thấy xuất hiện thêm một đỉnh rất cao tại đƣờng cong ô
xi hóa – khi điện thể của WE tăng từ -0,1 V đến 1,4 V. Vị trí đỉnh này tại 1,14V.
Theo nghiên cứu của Cuharuc, quá trình ô xi hóa của PbS thành HPbO2 cũng đƣợc
đo trong khoảng này [22]. Nhƣ vậy, quá trình ô xi hóa glucose thành glucolactone
gắn liền với quá trình hoạt hóa GOx và ô xi hóa của PbS trên bề mặt điện cực.
Hình 4.4. Kết quả đo CV của dung dịch chứa glucose với nồng độ tăng từ 0,1 M đến 1,3 M trên hệ điện hóa với điện cực WE có PbS-GOx.
Hình 4.4 là kết quả đo CV của dung dịch chứa glucose với nồng độ tăng dần
từ 0,1 mM đến 1,3 mM – điện cực sử dụng là điện cực có PbS-GOx. Khi nồng độ
glucose tăng lên, số điện tử cần để hoạt hóa GOx cũng tăng lên, dẫn tới cƣờng độ
dòng khử tại đỉnh 0,49 V cũng tăng lên. Tƣơng tự vậy, cƣờng độ dòng ô xi hóa của
95
PbS thành PbSO2 cùng tăng lên, biểu hiện sự tiếp xúc tốt giữa PbS và GOx.
Trong trƣờng hợp lý tƣởng, mỗi một phân tử glucose bám vào một phân tử
GOx sẽ bị ô xi hóa thành glucolactone bằng 2 electron. Hai electron này sẽ chuyển
qua GOx để tới bề mặt điện cực. Glucolactone không bền và chuyển hóa thành a xít
gluconic. Theo định luật Fick, tại trạng thái cân bằng – khi không có các hoạt động
khử, ô xi hóa thì lƣợng glucose hấp phụ trên bề mặt điện cực tỉ lệ thuận với nồng độ
của glucose và diện tích bề mặt điện cực. Vì vậy, cƣờng độ dòng điện điện hóa
chuyển qua trên bề mặt điện cực sẽ tuân theo công thức Randles-Sevcik (công thức
2.7)
Ở đây A không chỉ là diện tích nhìn thấy của điện cực mà là diện tích tiếp xúc
của chất bị khử/ô xi hóa với bề mặt điện cực và D0 ở đây không chỉ còn là hằng số
khuếch tán đơn thuần mà còn là hệ số biểu hiện khả năng khuếch tán/ chuyển tiếp
của electron từ mẫu vào đến điện cực, thậm chí còn phụ thuộc vào thế năng ô xi hóa
khử của đối tƣợng khảo sát. Giá trị
lúc này tỉ lệ với nồng độ của glucose có trong dung dịch (khi lƣợng GOx đã đƣợc cố định). Nhƣ vậy, ta có thể viết lại công thức
2.10 cho phù hợp với cảm biến đã thiết kế:
(4.1)
Trong đó và là diện tích điện cực hiệu dụng và hệ số đặc trƣng cho độ
khuếch tán electron của vật liệu và K là hằng số. Theo nhƣ công thức này thì cƣờng
độ dòng tại đỉnh ô xi hóa khử sẽ tỉ lệ thuận với nồng độ của glucose trong dung dịch.
Giá trị này cũng sẽ không tăng mãi khi nồng độ glucose tăng lên mà sẽ dần đạt đến
bão hòa khi hàm lƣợng glucose quá lớn, dẫn đến lƣợng glucose bám vào C-domain
của GOx đạt tới hạn. Mặc dù vậy, ta có thể khảo sát đƣợc bản chất quá trình điện hóa
96
dựa vào khoảng tuyến tính của độ thị biểu diễn sự phụ thuộc của iP vào Cglucose.
Hình 4.5. So sánh độ nhạy của cảm biến glucose đo trên hệ điện cực PbS với cảm biến glucose đo trên điện cực vàng. Hình A là kết quả tính toán độ nhạy cảu cảm biến từ đỉnh khử tại 0,45 V với điện cực WE có PbS-GOx. Hình B là kết quả tính toán từ đỉnh khử tại 0,45 V với điện cực vàng.
Xét quá trình khử, tại đỉnh 0,45 V, nhận thấy sự phụ thuộc của cƣờng độ dòng
điện khử tại 0,45 V vào nồng độ của glucose trong dung dịch (Cglucose) đƣợc chia
thành hai khoảng ứng với Cglucose< 0,8 mM và Cglucose> 0,8 mM. Độ dốc của hai đoạn
này khác nhau, và có giá trị nhỏ hơn khi Cglucose < 0,8 mM.
Sử dụng công thức 4.1, ta nhận đƣợc hệ số nghiêng của đồ thị là =
23,2 ± 1,5 μAmM-1 khi Cglucose> 0,8 mM và bằng 5,8 ± 0,5 μAmM-1 khi Cglucose< 0,8
mM. Trong đó và làdiện tích hiệu dụng và hằng số khuếch tán đối với
trƣờng hợp WE đƣợc chế tạo từ PbS-GOx. Diện tích hiệu dụng của điện cực vàng
97
khi chƣa có vật liệu PbS là với R là bán kính của bề mặt điện cực và bằng 3
mm.Từ đóđộ nhạy của cảm biến đƣợc tính và bằng = 82,1 ± 5,3 μAcm-2mM-1 khi
Cglucose> 0,8 mM và = 20,5 ± 1,8 μAcm-2mM-1 khi Cglucose< 0,8 mM. Độ nhạy của
cảm biến xác định nồng độ glucose khi điện cực WE không có PbS-GOx, ta cũng
tính đƣợc và lần lƣợt là diện tích hiệu = 0,275 ± 0,06 μAmM-1. Ở đây
dụng và hằng số khuếch tán đối với trƣờng hợp chỉ có điện cực vàng. Từ đây, độ
nhạy của cảm biến khi chỉ dùng điện cực vàng là = 1,0 ± 0,2 μAcm-2mM-1 (hình
4.5B). Nếu coi hệ số K là không đổi thì độ nhạy của cảm biến tăng lên tới 82 lần, so
với khi dùng điện cực Au.
Hình 4.6. Tính toán độ nhạy của cảm biến từ đỉnh ô xi hóa tại 1,14 V với điện cực làm việc WE có PbS-GOx.
Tƣơng tự vậy, khi khảo sát độ nhạy của cảm biến tại vị trí ô xi hóa của PbS
98
(hình 4.5B), ta nhận đƣợc = 546,2 ± 24,6 μAcm-2mM-1 khi Cglucose> 0,8 mM và
= 322,1 ± 8,6 μAcm-2mM-1 khi Cglucose< 0,8 mM. Ở đây, có thể lƣu ý là diện
tích hiệu dụng đều đƣợc tính là tổng diện tích bề mặt tiếp xúc của PbS, nên giá trị có
thể coi là không đổi. Vì vậy sự khác biệt là do bản chất quá trình ô xi hóa của PbS
thành HPbO2 và quá trình khử của GOx. Mặc dù vậy, sự khác biệt này cũng không
quá nhiều (khoảng 3,9 lần).
So sánh kết quả này với kết quả đã công bố trƣớc đó với điện cực làm từ tetrapod ZnO – độ nhạy khi đó là 166,7 ± 8,3 μAcm-2mM-1[70]; ta nhận đƣợc độ
nhạy của cảm biến tăng lên 3 lần. Kết quả này có thể là do các phân tử GOx khi hấp
phụ trên bề mặt của vật liệu, chúng ƣu tiên liên kết chặt chẽ với các hạt nano PbS
hơn là so với ZnO.Trong cấu trúc 3D của GOx, vị trí liên kết với FAD – hay chính là
nơi liên kết để chuyển tiếp electron, rất gần với amino axit cystein tại vị trí thứ 512 –
là amino acid đặc trƣng có gốc thiol (-SH). Vì vậy, khi hấp phụ lên bề mặt của PbS,
các phân tử GOx có thể chủ động liên kết cộng hóa trị với amino axit này, giúp cho
quá trình chuyển tiếp electron giữa vật liệu và GOx trở nên dễ dàng hơn. Nhƣ vậy,
bằng thiết kế tƣơng tự, khi sử dụng vật liệu nano PbS, cảm biến sinh học nhận biết
nồng độ glucose cho độ nhạy có thể so sánh đƣợc so với các nghiên cứu khác nhƣ nghiên cứu của Wang sử dụng vật liệu nano vàng trên dây nano Pb (135,5 μAcm- 2mM-1) [122], của Ahmad trên thanh ZnO (106,6 μAcm-2mM-1) [2] và của Chen (711,1 μAcm-2mM-1) sử dụng vật liệu nano vàng trên điện cực grapheme [19]. Độ
nhạy lớn nhất theo tìm hiểu của chúng tôi đƣợc công bố bởi nhóm Chen năm 2011 đạt 711,1 μAcm-2mM-1. Dựa vào phƣơng pháp chế tạo điện cực, có thể thấy diện tích
điện cực của nhóm Chen xấp xỉ bằng diện tích điện cực công bố trong luận án này.
Nhƣng quá trình chế tạo điện cực của nhóm Chen đƣợc chia làm 2 bƣớc, lần lƣợt là
(i) cố định một lớp graphene sau đó (ii) phủ một lớp hạt nano vàng lên trên bề mặt
điện cực, trƣớc khi sử dụng điện hóa để gắn các phân từ GOx. Quá trình này phức
tạp hơn rất nhiều so với quá trình chế tạo điện cực trong luận án. Không chỉ vậy, vật
liệu PbS sử dụng trong luận án cũng đơn giản hơn so với vật liệu đƣợc nhóm Chen sử dụng. Ngƣợc lại, độ nhạy cao nhất đo đƣợc trong luận án đạt 546,2 μAcm-2mM-1;
99
không thấp hơn quá nhiều so với độ nhạy đƣợc nhóm Chen công bố.
4.1.3. Tƣơng tác giữa hạt PbS với phân tử 4-ATP
Nhƣ đã bàn luận ở phần trƣớc, luận án đã đề xuất giả thiết về khả năng liên
kết giữa các hạt PbS với các gốc liên kết thiol (-SH) của phân tử GOx. Để đơn giản
hóa, tƣơng tác giữa các hạt PbS và các phân tử hữu cơ có kích thƣớc nhỏ chứa gốc
thiol - ở đây là 4-ATP (4-aminothiophenol) - đƣợc đánh giá thông qua tính toán mô
phỏng. Phƣơng pháp tính toán đƣợc mô tả nhƣ trong hình 4.7. Đầu tiên, phân tử 4-
ATP đƣợc tối ƣu hóa cấu hình 3D bằng phƣơng pháp cực tiểu năng lƣợng (hình
4.7A). Sau đó, phân tử 4-ATP đƣợc dịch chuyển tới gần bề mặt của tinh thể PbS
hƣớng về các nguyên tử Pb (hình 4.7B) và nguyên tử S (hình 4.7C). Khả năng liên
kết giữa các phân tử 4-ATP với bề mặt tinh thể PbS đƣợc đánh giá thông qua tổng
năng lƣợng của hệ và khoảng cách liên kết giữa nguyên tử.
Hình 4.7. Mô tả phương pháp tính toán phản ứng liên kết giữa phân tử 4-ATP và bề mặt PbS.
Hình 4.8A là kết quả tính toán tổng năng lƣợng của hệ PbS và 4-ATP đối với
2 trƣờng hợp: Pb-S là khi nguyên tử S của phân tử 4-ATP tiến lại gần liên kết với
nguyên tử Pb trong tinh thể PbS và S-S là khi nguyên tử S của 4-ATP tiến lại gần
liên kết với nguyên tử S của tinh thể PbS. Tổng năng lƣợng của hệ Pb-S nhỏ hơn so
100
với tổng năng lƣợng của hệ S-S, tƣơng ứng với đó là khoảng cách giữa hai nguyên tử
liên kết trong hai trƣờng hợp lần lƣợt là 2,98 Å đối với Pb-S và 3,40 Å đối với S-S.
Bên cạnh đó, phân bố mật độ electron cho thấy nguyên tử 4-ATP hình thành liên kết
ion với nguyên tố Pb trên bề mặt, đồng thời còn có liên kết với hai nguyên tử S lân
cận của nguyên tử Pb trong tinh thể PbS (hình 4.8B). Điều này chứng tỏ phân tử 4-
ATP ƣu tiên liên kết chặt chẽ với bề mặt tinh thể PbS tại vị trí của nguyên tử chì
(Pb).
Hình 4.8. Phụ thuộc tổng năng lượng của hệ PbS-4ATP phụ thuộc vào khoảng cách giữa hai nguyên tử tham gia liên kết (A) và giản đồ phân bố mật độ electron tại vị trí có tổng năng lượng thấp nhất (B) – liên kết là bền nhất.
Kết quả tính toán cũng chỉ ra, sau khi liên kết mặt phẳng phân tử 4-ATP tạo thành một góc nghiêng 23,14o so với mặt phẳng (001) của tinh thểPbS (hình 4.3).
Không chỉ vậy, vị trí các phân tử Pb hay S trên bề mặt của tinh thể cũng đƣợc xếp
lại, hơi xô lệch một chút so với tinh thể hoàn hảo. Khoảng cách liên kết giữa nguyên
tử S của phân tử 4-ATP và nguyên tử Pb của tinh thể PbS xấp xỉ bằng khoảng cách
giữa hai nguyên tử Pb-S trong tinh thể PbS. Nhƣ vậy, nguyên tử S của 4-ATP đóng
vai trò lặp lại tuần hoàn của bề mặt tinh thể PbS, giúp bề mặt tinh thể hoàn hảo hơn,
giảm khuyết thiếu S (tƣơng tự nhƣ khuyết thiếu oxy). Hệ quả của điều này là sau khi
101
liên kết với các phân tử có nhóm thiol (SH) nhƣ 4-ATP, thioglycolic acid, L-
Cysteine hay thioglycerol huỳnh quang của vật liệu MetS thƣờng đƣợc cải thiện một
cách đáng kể [28].
Hình 4.9. Cấu hình bền vững của hệ PbS-4ATP sau khi liên kết: mặt phẳng phân tử 4-ATP tạo với mặt phẳng (001) của tinh thể một góc là 23,14o.
4.2. ỨNG DỤNG CÁC HẠT NANO TỪ - KIM LOẠI TRONG PHÂN
LẬP TẾ BÀO GỐC MÁU TỪ MẪU TỦY XƢƠNG
Vai trò của ứng dụng vật liệu nano trong công nghệ tế bào gốc đã đƣợc trình
bày trong chƣơng I, trong đó việc sử dụng vật liệu đa chức năng từ tính – kim loại
hứa hẹn đem lại nhiều lợi thế không chỉ trong quá trình phân lập tế bào gốc mà còn
có thể hỗ trợ trong chụp ảnh và khảo sát tế bào. Một lần nữa nguyên lý hoạt động của
cảm biến sinh học đƣợc áp dụng trong thí nghiệm phân lập tế bào gốc từ tủy xƣơng.
Đối tƣợng cần nhận biết là các tế bào gốc máu biểu hiện CD34+, phần tử nhận biết là
kháng thể anti-CD34 và phần tử chuyển tiếp tín hiệu là các hạt nano vàng trong ứng
dụng SER. Bên cạnh đó, tín hiệu tổng trở cũng đƣợc khảo sát để đo đạc nồng độ của
tế bào sau khi phân lập.
Cơ chế hoạt động của cảm biến đƣợc mô tả nhƣ trong hình 4.14. Các hạt nano
Fe3O4-Ag đƣợc chức năng hóa bề mặt và gắn với kháng thể nhận biết đặc hiệu tế bào
gốc CD34+ trƣớc khi đƣợc ngâm trong dung dịch chứa mẫu tủy xƣơng. Ái lực kháng
nguyên – kháng thể sẽ giúp các hạt nano đa chức năng tập trung trên bề mặt của các
102
tế bào gốc. Sử dụng nam châm để hút các hạt từ, theo đó các tế bào gốc cũng đƣợc
thu thập. Rửa sạch các tế bào khác và các cơ chất còn dƣ trong mẫu, ta nhận đƣợc
dung dịch chỉ chứa các tế bào gốc máu có đính các hạt nano Fe3O4-Ag ở trên bề mặt.
Cuối cùng, tín hiệu Raman tăng cƣờng bề mặt (SER) đƣợc sử dụng để phân biệt
những vùng có và không có tế bào. Bên cạnh đó, sử dụng phép đo tổng trở để khảo
sát nồng độ tế bào.
Hình 4.14. Cơ chế hoạt động của cảm biến sinh học sử dụng các hạt nano Fe3O4-Ag để phân lập và khảo sát tế bào gốc máu từ tủy xương.
4.2.1. Thiết kế cảm biến và phƣơng pháp đo đạc
Hình 4.15. Thiết kế điện cực sử dụng trong cảm biến đo nồng độ tế bào bằng phương pháp điện tổng trở (A) và ảnh SEM của bề mặt điện cực (B).
Cảm biến đo nồng độ tế bào là một hệ hai điện cực đƣợc thiết kế nhƣ trong
hình 4.15A. Điện cực làm việc WE có dạng hình tròn đƣờng kính 1 mm (diện tích A = 3,14 mm2). Điện cực đếm CE có dạng khuyên, dày 0,5 mm, bán kính trong 1,5
103
mm, bán kính ngoài 2 mm. Khoảng cách giữa hai điện cực là 1 mm. Từ hai điện cực,
có hai đƣờng thằng có độ dày 0,2 mm cũng làm bằng Pt nối ra chân cắm. Hình 4.15B
là ảnh SEM bề mặt của điện cực độ phóng đại 30 lần. Khi thực hiện phép đo tổng trở
điện cực chuẩn RE đƣợc nối tắt với điện cực đếm CE.
Quá trình đo đạc trên cảm biến đƣợc chia thành 4 bƣớc: (i) chức năng hóa và
gắn các hạt Fe3O4-Ag với kháng thể anti-CD34, (ii) phân lập tế bào gốc từ mẫu tủy
xƣơng, (iii) sử dụng tín hiệu SER để lựa chọn tế bào gốc và (iv) sử dụng phép đo
tổng trở để khảo sát nồng độ tế bào gốc sau khi phân lập; trong đó, bƣớc (iii) và (iv)
là hai bƣớc độc lập trong phần tử xử lý tín hiệu.
4.2.1.1. Chức năng hóa và gắn các hạt Fe3O4-Ag với kháng thể
antiCD34
Các phân tử kháng thể antiCD34 đƣợc cố định trên bề mặt của các hạt nano
Fe3O4-Ag bằng liên kết cộng hóa trị. Đầu tiên, 1,5 mg hạt Fe3O4 đƣợc cho vào dung
dịch chứa 45 mL 25 μM 4-aminothiophenol (4-ATP). Sản phẩm (Fe3O4-Ag-NH2)
đƣợc lọc rửa bằng nam châm vĩnh cửu để loại bỏ các sản phẩm phụ, trƣớc khi phân
tán vào dung dịch đệm phosphate (phosphate buffer solution – PBS). Nồng độ của
các hạt nano Fe3O4-Ag-NH2trong PBS đƣợc điều chỉnh để thành 50 ppm (50 mg/L).
Tiếp theo, 10 μL dung dịch chứa kháng thể antiCD34 đƣợc cho vào ống có chứa 400
μL dung dịch chứa 50 ppm hạt Fe3O4-Ag-NH2. Sau đó, chất xúc tác EDC (1-Ethyl-3-
(3-dimethylaminopropyl) carbodiimide) đƣợc sử dụng để xúc tác phản ứng liên kết
giữa gốc NH2 và các kháng thể. Sau khi lọc rửa các sản phẩm phụ bằng nam châm
vĩnh cửu, sản phẩm nhận đƣợc là các hạt nano đa chức năng đã đƣợc cố định kháng
thể (Fe3O4-Ag-antiCD34).
Phổ tán xạ Raman của các mẫu chứa Fe3O4-Ag-NH2 và Fe3O4-Ag-antiCD34
đƣợc nghiên cứu trên hệ LabRAM HR800, Horiba và so sánh với phổ tán xạ Raman
của dung dịch chứa các phân tử 4-ATP.
4.2.1.2. Tách lọc tế bào
Các hạt nano Fe3O4-Ag sau khi đƣợc chức năng hóa bởi nhóm chức amin và
104
gắn với kháng thể nhận biết tế bào gốc CD34+ (antiCD34) đƣợc sử dụng để tách lọc
tế bào gốc CD34+ từ mẫu tủy xƣơng. Mẫu tủy xƣơng đƣợc lấy từ Viện nghiên cứu tế
bào gốc và công nghệ gen, bệnh viện VINMEC. 20 μL mẫu chứa tủy xƣơng đƣợc cố
định trong 200 μL BSA (bovine serum albumin, nồng độ 0,05 g/mL) tại nhiệt độ 2-8 oC. Thời gian cố định là 30 phút. 10 μL dung dịch Fe3O4-Ag-antiCD34 đƣợc bổ sung
và lƣu trong thời gian 45 phút để các phản ứng liên kết kháng nguyên – kháng thể
xảy ra hoàn toàn. Sau 45 phút, sử dụng từ trƣờng ngoài để hút các hạt nano Fe3O4-
Ag-antiCD34. Do liên kết kháng nguyên-kháng thể, các hạt nano kéo theo các tế bào
CD34+. Dùng PBS lọc rửa mẫu 2 lần rồi phân tán mẫu vào 20 μL PBS.
Ảnh hiển vi huỳnh quang đƣợc dùng để đánh giá hiệu suất phân lập tế bào
gốc. Mẫu chứa tủy xƣơng trƣớc và sau khi xử lý bằng Fe3O4-Ag-antiCD34 đều đƣợc
ngâm trong dung dịch chứa hỗn hợp hai kháng thể antiCD34 và antiCD45. Trong đó
kháng thể antiCD34 đƣợc gắn với chất huỳnh quang ECD (phát ánh sáng màu đỏ) và
kháng thể antiCD45 đƣợc gắn với FITC (huỳnh quang xanh lá cây). Sau đó, cả hai
mẫu đều đƣợc soi trên kính hiển vi huỳnh quang ZEISS 510 ở 2 chế độ đặc trƣng cho
hai chất phát quang ECD và FITC.
4.2.1.3. Sử dụng tín hiệu SER để lựa chọn tế bào gốc sau phân lập
Mẫu chứa tủy xƣơng sau khi lọc đƣợc nhỏ trên đế kính mỏng (larmen) và
khảo sát tính chất tán xạ Raman. Đầu tiên, ảnh hiển vi của mẫu đƣợc chụp ở hai chế
độ - trƣờng sáng và trƣờng tối - để khảo sát các vị trí có tế bào. Sau đó, phổ tán xạ
Raman của các vị trí có tế bào và không có tể bào đƣợc đo đạc và so sánh trên hệ
105
LabRAM HR800, Horiba.
4.2.1.4. Sử dụng phép đo tổng trở để khảo sát nồng độ tế bào gốc sau
phân lập
Hình 4.16. Ảnh chụp trên kính hiển vi phương pháp đếm tế bào bằng buồng đếm – Diện tích của một buồng nhỏ là 5 μm × 5 μm, chiều cao của buồng là 100 μm.
Nồng độ tế bào đƣợc đo bằng buồng đếm. Buồng đếm tế bào có cấu trúc là
một hình khối có chiều cao 100 μm; trên bề mặt của đế có các vạch chia để xác định
diện tích - ở đây các vạnh chia có kích thƣớc 5 μm × 5μm (Hình 4.16). Dung dịch
chứa tế bào nhỏ lên trên bề mặt của buồng đếm, dùng kính phẳng để đậy lên. Nhƣ
vậy, trong một buồng có đánh dấu bằng một hình vuông có thể tích là 20 μm × 20 μm × 100 μm và bằng v0 = 4×10-6μL. Nếu số lƣợng tế bào trung bình đếm đƣợc trong một ô cơ sở có thể tích v0= 4×10-6μL là N, thì nồng độ của tế bào C có thể tính theo
công thức . Bằng phƣơng pháp đã mô tả kể trên,nồng độ tế bào tính đƣợc là
106
C0 = 2,93×105 ± 0,68×105 tế bào/μL (hình 4.15).
Hình 4.17. Mô hình sự có mặt của các tế bào gốc máu trên bề mặt điện cực.
Có thể mô tả sự có mặt của các tế bào trên bề mặt điện cựcmột cách đơn giản
nhƣ trong hình 4.17. Các hạt nano từ tính – kim loại Fe3O4-Ag đƣợc gắn với kháng
thể, hƣớng tới bắt cặp đặc hiệu trên bề mặt của các tế bào gốc máu. Sau khi đƣợc
phân lập khỏi dung dịch mẫu tủy xƣơng bằng từ trƣờng ngoài, đƣợc nhỏ lên trên bề
mặt điện cực và nằm lơ lửng trong dung dịch đệm PBS. Sử dụng hệ PGSTATS302N
để đo tổng trở (điện cực CE nối với điện cực RE). Các nồng độ tế bào khảo sát lần
lƣợt là: C0/5, C0/10, C0/20 và C0/50.
4.2.2. Kết quả và thảo luận
4.2.2.1. Chức năng hóa hạt nano từ - kim loại và liên kết với kháng thể
Các phân tử 4-ATP liên kết với bề mặt của Ag bằng liên kết cộng hóa trị Ag-S
[42], vì vậy khi cho 4-ATP nồng độ 25 μM vào trong dung dịch chứa các hạt nano
Fe3O4-Ag, gốc amine (NH2) của phân tử 4-ATP đƣợc thả tự do để có thể liên kết với
các gốc carboxyl của các phân tử kháng thể. Hình 4.18 mô tả kết quả đo Raman của
các mẫu chứa 1mM 4-ATP đo với thời gian tích phân là 30 phút (hình A), của mẫu
các hạt nano Fe3O4-Ag sau khi chức năng hóa với các phân tử 4-ATP (Fe3O4-Ag-
4ATP) (hình B) và của mẫu chứa các hạt sau khi đã gắn với kháng thể (Fe3O4-Ag-
antiCD34) (hình C) với thời gian tích phân là 30s. Các đỉnh Raman đặc trƣng của
107
phân tử 4-ATP hầu nhƣ đều tìm thấy ở trong phổ của mẫu (Fe4O4-Ag-4ATP) lần lƣợt
tại 1079 cm-1, 1138cm-1, 1175cm-1, 1340cm-1, 1390cm-1, 1425cm-1, 1473cm-1, 1484cm-1 và cm-1. Bên cạnh đó, cƣờng độ tại các đỉnh tán xạ của mẫu Fe3O4-Ag-
4ATP gấp khoảng 1000 lần so với cƣờng độ tán xạ đo đƣợc của mẫu 4-ATP 1 mM,
mặc dù thời gian tích phân khi đo mẫu Fe3O4-Ag-4ATP chỉ bằng 1/60 thời gian tích
phân khi đo mẫu 4-ATP.
Hình 4.18. Nghiên cứu phổ tán xạ Raman của các mẫu chứa các hạt nano sau khi gắn kháng thể. Hình A là phổ tán xạ Raman của mẫu chứa 10-3 M 4-ATP với thời gian tích phân là 30 phút. Hình B là phổ tán xạ Raman của mẫu chứa các hạt Fe3O4-Ag-4ATP, thời gian tích phân là 30 giây.Hình Clà phổ tán xạ Raman của mẫu chứa các hạt Fe3O4-Ag- antiCD34, thời gian tích phân là 30 giây.
Bảng 4.1 thống kê kết quả tính toán lý thuyết và đo đạc vị trí đỉnh đặc trƣng
108
Raman của dung dịch chứa mẫu Au-4ATP và Au-4ATP-antibody. Một số đỉnh SERS đặc trƣng của phân tử 4-ATP xuất hiện tại 1614 cm-1, 1493 cm-1, 1423cm-1, 1382cm- 1, 1170cm-1, 1134cm-1, 1075cm-1 và 1005cm-1, khá trùng với các kết quả đã công bố
trƣớc đó [43,47,92]. Bên cạnh đó, có sự xuất hiện mới của các đỉnh tại vị trí 1449 cm-1 và 1297 cm-1 ứng với dao động của các liên kết peptide (NH-CO-) và của gốc
carboxyl (-COOH).
Bảng 4.1. Bảng thống kê các kết quả tính toán lý thuyết và đo đạc vị trí đỉnh đặc trưng Raman tăng cường bề mặt của phân tử 4-ATP trên bề mặt các hạt nano vàng.
Kết quả theo tham khảo (cm-1) Các dao động tương ứng của các liên kết trong phân tử 4-ATP Mode Raman theo tính toán (cm-1) Khi được gắn với các hạt đa chức năng (cm-1)
1522 1614 1590
1448 1493
- - 1489 -
1395 1423 1427
1348 - 1180 1125 1382 - 1170 1134 1386 - 1179 1141
1104 1075 1081
943 1005 1007 νCC+δCCH+νCN (mạnh) νCC+πNH2+δCCH (yếu) - νCC+πNH2+δCCH (rất yếu) δCCH+νCN (mạnh) - δCCH (trung bình) δCH + πNH (yếu) νCS+δCCH+δCSH (rất mạnh) γCCH + γCCC (yếu)
Sau khi gắn kết với các phân tử kháng thể, nhận thấy cƣờng độ tán xạ Raman
bị giảm đi còn 1/3 so với trƣớc khi gắn kháng thể, có thể do lớp kháng thể hấp thụ
một phần ánh sáng tới tán xạ trên bề mặt hạt. Trên phổ tán xạ của mẫu Fe3O4-Ag- antiCD34 còn thấy một nền cong lên trong khoảng từ 1400 cm-1 đến 1600 cm-1.
Khoảng số sóng này cũng là khoảng số sóng có xuất hiện nhiều đỉnh tán xạ Raman
của các liên kết thuộc các protein [33,34]. Vì vậy, có thể khảng định các kháng thể
đã đƣợc cố định lên trên bề mặt các hạt nano Fe3O4-Ag.
Tính toán hiệu suất gắn kháng thể
Nồng độ của kháng thể đƣợc đo dựa vào phép đo huỳnh quang. Kháng thểđã
có gắn sẵn với chất nhạy quang ECD – Texas Red. Khi đƣợc kích thích bằng ánh
109
sáng có bƣớc sóng 494 nm (đƣợc đo từ phép đo kích thích huỳnh quang), ECD phát
huỳnh quang mạnh tại bƣớc sóng 610 nm. Hình 4.19 biểu diễn sự phụ thuộc của
cƣờng độ huỳnh quang của các mẫu chứa kháng thể gắn ECD ở các nồng độ thấp vào
nồng độ của kháng thể. Các nồng độ đƣợc pha loãng từ nồng độ gốc – là nồng độ của
kháng thể đƣợc xác định bởi nhà sản xuất. Tỉ lệ pha loãng lần lƣợt là 120 lần, 200
lần, 300 lần, 400 lần, 600 lần và 1200 lần.
Hình 4.19. Sự phụ thuộc của cường độ huỳnh quang tại 610 nm của dung dịch chứa kháng thể ECD-antiCD34 vào nồng độ được pha loãng trong dung dịch đệm PBS.
Ở nồng độ đủ thấp, cƣờng độ huỳnh quang này tỉ lệ thuận với nồng độ của
chất nhạy quang. Do chất nhạy quang (ECD) đƣợc gắn liền với kháng thể nên cƣờng
độ huỳnh quang cũng tỉ lệ thuận với nồng độ của kháng thể. Khớp hàm tuyến tính sự
phụ thuộc của đƣờng độ huỳnh quang I vào nồng độ của kháng thể C – ,
ta nhận đƣợc các giá trị của a và b. Các giá trị này đƣợc sử dụng để tính toán nồng độ
của kháng thể.
Để đo đƣợc hiệu suất gắn kháng thể lên trên bề mặt các hạt nano đa chức năng
Fe3O4-Ag, đầu tiên tiền hành đo cƣờng độ huỳnh quang của 600 μL dung dịch chứa
110
kháng thể có gắn chất nhạy quang ECD-antiCD34 trƣớc khi gắn với hạt Fe3O4-Ag
(dung dịch ban đầu). Sau khi gắn với hạt Fe3O4-Ag, các hạt nano từ đƣợc tách khỏi
dung dịch bằng nam châm vĩnh cửu và đƣợc rửa 3 lần bằng dung môi PBS, và đƣợc
phân tán vào 600 μL dung môi PBS. Huỳnh quang của phần dung dịch không chứa
hạt sau lần lọc từ thứ nhất (dung dịch chứa kháng thể còn dƣ) và của hạt sau khi đã
gắn với kháng thể cũng đƣợc đo để so sánh với kết quả đo huỳnh quang của dung
dịch ban đầu. Nhận thấy, tổng cƣờng độ huỳnh quang tại 610 nm của dung dịch chứa
hạt và dung dịch chứa kháng thể còn dƣ bằng với cƣờng độ huỳnh quang tại 610 nm
của dung dịch ban đầu. Điều này lặp lại trong tất cả các phép đo với các nồng độ
kháng thể khác nhau; khẳng định huỳnh quang của chất nhạy quang không bị giảm
trong suốt quá trình làm thí nghiệm và lƣợng kháng thể mất mát trong quá trình lọc
rửa là không đáng kể.
Hình 4.20. Đánh giá hiệu suất gắn kháng thể lên các hạt Fe3O4-Au phụ thuộc vào tỉ lệ thể tích của dung dịch chứa hạt và thể tích dung dịch gốc chứa kháng thể ECD-antiCD34.
Bằng việc tính toán nồng độ của kháng thể từ giá trị khớp hàm trƣớc đó, hiệu
111
suất gắn kháng thể đƣợc định nghĩa theo công thức khi nồng
độ của kháng thể còn dƣ là lớn. Trong đó Cinivà Csup là nồng độ của kháng thể trong
dung dịch ban đầu và trong dung dịch chứa kháng thể còn dƣ. Trong trƣờng hợp,
cƣờng độ huỳnh quang của dung dịch chứa hạt sau khi gắn kháng thể là lớn thì hiệu
suất đƣợc tính theo công thức , trong đó Cconj là nồng độ kháng thể
đo đƣợc trong dung dịch gắn với hạt. Từ đây, ta có thể vẽ đƣợc sự phụ thuộc của
hiệu suất gắn kháng thể vào tỉ lệ thể tích dung dịch chứa hạt Fe3O4-Au và thể tích
dung dịch gốc chứa kháng thể (VNP/VAB) (hình 4.20).
Khi lƣợng hạt rất ít (tại các tỉ lệ thể tích VNP/VAB thấp), sau quá trình gắn
kháng thể lên hạt, kháng thể còn dƣ nhiều, dẫn tới hiệu suất gắn kháng thể thấp. Khi
tỉ lệ VNP/VAB tăng lên, diện tích bề mặt của vật liệu tăng – diện tích bắt cặp kháng thể
tăng, lƣợng kháng thể không bắt cặp với hạt giảm đi, hiệu suất tăng. Khi VNP/VAB đạt
điểm tới hạn, nghĩa là diện tích bề mặt của vật liệu vừa đủ để cho kháng thể bám vào
thì lƣợng kháng thể có trong dung dịch chứa kháng thể dƣ hầu nhƣ không còn. Khi
này giá trị VNP/VAB nằm trong khoảng từ 300 đến 400. Tiếp tục tăng giá trị VNP/VAB
lên, lƣợng hạt đủ nhiều để hầu nhƣ tất cả các kháng thể đều đƣợc gắn với hạt. Hiệu
suất đạt cực đại (~92%). Thậm chí khi tỉ lệ VNP/VAB cao quá cũng có thể dẫn tới có
hạt không có gắn với kháng thể. Vì vậy, tỉ lệ VNP/VAB=300 là tỉ lệ an toàn để đảm
bảo hầu hết các hạt đều có gắn kháng thể. Tỉ lệ này đƣợc sử dụng để gắn hạt với
kháng thể cho tất cả các lần thí nghiệm tiếp theo
4.2.2.2. Tách lọc tế bào gốc từ mẫu tủy xương
Các hạt nano Fe3O4-Ag-antiCD34 có tính siêu thuận từ, vì vậy sau khi gắn đặc
hiệu lên trên bề mặt các tế bào CD34+, sẽ biến các tế bào CD34+ thành những tiểu
112
cầu có từ tính và dễ dàng thu thập đƣợc bằng từ trƣờng ngoài.
Hình 4.21. Kết quả hiển vi huỳnh quang của mẫu tủy xương trước (A, B) và sau (C, D) khi sử dụng các hạt nano Fe3O4-Ag-antibody để tách chiết tế bào gốc. A,C: huỳnh quang chỉ thị tế bào CD45+ và B,B: huỳnh quang chỉ thị tế bào CD34+.
Trƣớc khi cho ngâm với các hạt Fe3O4-Ag-antiCD34 và tách lọc tế bào
CD34+ bằng từ trƣờng, mẫu tủy xƣơng đƣợc nhuộm màu bằng hai chất huỳnh quang
ECD – chất huỳnh quang màu đỏ, đính đặc hiệu với tế bào CD34+ và FITC - chất
huỳnh quang màu xanh lá cây, có đính đặc hiệu với một loại tế bào khác là CD45+.
Vì vậy, trên ảnh hiển vi huỳnh quang đặc trƣng của ECD các tế bào phát quang màu
đỏ là các tế bào CD34+ (hình 4.121A). Tƣơng tự các tế bào phát huỳnh quang màu
xanh trong hình 4.18B là các tế bào CD45+. Có thể thấy trong mẫu tủy xƣơng có rất
nhiều tế bào CD45+, trong khi đó lƣợng CD34+ không nhiều. Theo một số nghiên
cứu trƣớc đó, lƣợng CD45+ trong mẫu tủy xƣơng của ngƣời có sức khỏe bình thƣờng
113
chiếm khoảng 60-70% số tế bào [9]; còn lƣợng CD34+ chiếm khoảng 5-7% [4]. Tỉ lệ
này cũng phù hợp với tỉ lệ số tế bào phát huỳnh quang màu xanh gấp khoảng 7-8 lần
so với các tế bào phát huỳnh quang màu đỏ (hình 4.21 A và B).
Sau khi sử dụng hạt nano từ đã gắn kháng thể Fe3O4-Ag-antiCD34 để phân
lập các tế bào CD34+, mẫu không còn tế bào phát huỳnh quang màu xanh (FITC)
nữa, chứng tỏ không còn dấu hiệu của CD45+ (hình 4.21C). Song song với đó, khi
chụp dƣới điều kiện phát quang của ECD, ta lại thấy tất cả các tế bào phát màu đỏ
(hình 4.21D).Hay nói cách khác, sau phép lọc từ, trong mẫu chỉ còn lại các tế bào
CD34+.
4.2.2.3. Khả năng đánh dấu bằng phổ tán xạ Raman tăng cường bề mặt
Hình 4.22. Ảnh hiển vi trường sáng (ảnh trên) và trường tối (ảnh dưới) của mẫu tế bào sau khi lọc và phổ tán xạ Raman tại các vị trí dược đánh dấu trong hình. Vị trí A: không có tế bào. Vị trí B: Có tế bào.
Nhƣ nghiên cứu ở trong phần 4.1.2, phổ tán xạ Raman tăng cƣờng bề mặt của
các phân tử bám trên bề mặt các hạt nano kim loại có thể đƣợc dùng để kháo sát vị trí
tập trung của các hạt nano kim loại. Bên cạnh đó, một báo cáo trƣớc đó đã đề xuất
114
việc sử dụng kính hiển vi trƣờng tối để khảo sát vị trí của các hạt nano kim loại[104].
Trong luận án này, cả hai phƣơng pháp đƣợc dùng kết hợp; vừa để xác định vị trí của
tế bào, vừa để xác định vị trí của các hạt nano từ - kim loại, đồng thời cùng để khẳng
định khả năng đánh dấu của các hạt nano từ - kim loại (hình 4.22). Ánh sáng khi
chiếu vào mẫu, tán xạ mạnh trên bề mặt các hạt nano kim loại, ngay cả khi không tồn
tại ánh sáng trực tiếp tới vật kính, thì các ánh sáng tán xạ này cũng đủ sáng để theo
theo dõi nơi nào tập trung nhiều hạt kim loại hơn. So sánh hai ảnh hiển vi trƣờng
sáng và trƣờng tối cho thấy các hạt nano từ - kim loại tập trung rất nhiều trên bề mặt
của các tế bào. Rất ít các hạt từ-kim loại đơn lẻ còn tồn tại trong dung dịch. Điều này
một lần nữa khẳng định hiệu suất bắt cặp hạt từ-kim loại với kháng thể: hầu hết các
hạt từ-kim loại đều gắn với kháng thể. Đánh dấu các vị trí không có tế bào (A) và vị
trí có tế bào (B), chùm laser đƣợc tập trung trong thời gian rất ngắn để đo phổ tán xạ
Raman tăng cƣờng bề mặt (thời gian tích phân là 30s). Theo hình 4.20, tại vị trí có tế bào, phổ Raman cho các tán xạ mạnh trong khoảng từ 1000 cm-1 đến 1600 cm-1. Các
đỉnh tán xạ đặc trƣng của các phân tử 4-ATP có trên bề mặt của các hạt nano không
còn thấy rõ, có thể là khi chức năng hóa, lƣợng phân tử 4-ATP chƣa đƣợc gắn nhiều lên trên bề mặt của các hạt Fe3O4-Ag. Tuy nhiên, dải tán xạ Raman từ 1000 cm-1 đến 1600 cm-1 cũng đƣợc dùng để nghiên cứu đặc trƣng của các liên kết hữu cơ có trên
bề mặt tế bào [34]. Cộng hƣởng plasmon tại bề mặt của lớp nano Ag trên các hạt
nano Fe3O4-Ag đã làm tăng cƣờng độ tán xạ của các protein này lên. Với thời gian
đo 30s, ta hoàn toàn có thể phân biệt đƣợc vị trí của các tế bào CD34+ với các vị trí
khác.
4.2.2.4. Đo đạc nồng độ tế bào bằng phương pháp điện
Đồ thị tổng trở - thƣờng đƣợc vẽ ở dạng sự phụ thuộc của phần ảo của tổng
trởIm(Z) vào phần thực của tổng trở Re(Z) (biểu đồ Nyquist)- đƣợc chia làm hai phần
khá rõ rệt. Một phần có dạng một nửa hình tròn nằm phía trên phần tƣ thứ nhất của
không gian Oxy ứng với các giá trị tần số lớn (f > 5 kHz) và tổng trở nhỏ (hình
4.23A). Ở phần thứ hai, các giá trị Im(Z) và Re(Z) lớn hơn ứng với giá tần số nhỏ (f <
4 kHz) có dạng đƣờng thẳng, đƣợc bàn đến gắn liền với quá trình khuếch tán, trao
115
đổi điện tích trên bề mặt điện cực của các ion có trong dung dịch.Nhƣ trong phần
1.2.2.1, khi quá trình khuếch tán xảy ra rất chậm, thì công thức của Randles suy biến
và dạng của biểu đồ Nyquist trở thành đƣờng thẳng tuyến tính – đƣờng “pha hằng
số” hay “constant phase”, CPE. Khi bề mặt điện cực đƣợc cố định, các ion trong
dung dịch cũng không đổi; nồng độ tế bào không ảnh hƣởng gì đến bản chất của
dung môi thì quá trình khuếch tán này không đổi, dẫn tới các đƣờng phụ thuộc tuyến
tính của Im(Z) vào Re(Z) luôn song song với nhau (hình 4.23B). Điều này cũng
chứng tỏ các tế bào vẫn chƣa lắng xuốngtrong suốt quá trình đo, vì vậy, không tƣơng
tác với bề mặt điện cực.
Hình 4.23. Kết quả phép đo tổng trở trên hệ điện cực đã thiết kế với các nồng độ tế bào lần lượt là C0/5, C0/10, C0/20 và C0/50. Hình A kết quảtổng trở đo được tại khoảng tần số cao (f> 4kHz).Hình B là kết quả tổng trở tại tần số thấp (f< 5kHz) – khi quá trình khuếch tán trên bề mặt được biểu hiện rõ.
Để mô hình hóa lại sự phụ thuộc của giá trị tổng trở vào nồng độ tế bào, luận
án đƣa ra mô hình ứng với các tế bào nằm lơ lửng và phân bố đều trong dung dịch.
Thể tích chiếm chỗ của mỗi một tế bào sẽ phụ thuộc vào nồng độ của tế bào và phần
116
chiếm chỗ này có dạng một khối lập phƣơng với 3 cạnh là a. Ta có thể tích chiếm
chỗ của một tế bào là: . Trong khuôn khổ của khối lập phƣơng có 3 cạnh
là a này, do nồng độ tế bào rất thấp nên thể tích của tế bào là không đáng kể. Vì vậy,
ta hoàn toàn có thể áp dụng mô hình đơn giản nhất cho tổng trở của một tế bào đó là
hệ tụ - trở mắc song song [53,128]. Ta gọi một ô này là một ô cơ sở (hình 4.24).
Hình 4.24. Mô hình tổng trở của phần thể tích chiếm chỗ của 1 tế bào (ô cơ sở)
Nhƣ đã mô tả trong hình 4.21, mỗi một ô cơ sở – phần thể tích
chiếm chỗ của một tế bào sẽ có mạch điện tƣơng đƣơng là cs//(rs nt (Ctb//Rtb)). Trong
đó rs, cs là điện trở và điện dung của phần dung dịch có thể tích V0, Rtb, Ctb là điện trở
và điện dung tƣơng đƣơng của một tế bào. Ký hiệu “//” và “nt” là biểu hiện hai phần
tử mắc song song và nối tiếp. Nếu dung dịch đƣợc chứa giữa hai điện cực đối song
và có tổng thể tích là V thì ta có thể chia dung dịch thành m× n phần có thể tích V0
sao cho mỗi thể tích V0 đều chứa một tế bào – với m chia theo diện tích của điện cực
117
(A) và n chia theo khoảng cách giữa hai điện cực (d); V = S × d. Ta có ,
và toàn bộ dung dịch tƣơng đƣờng với m hệ mắc song song, mỗi hệ có n ô cơ sở mắc
nối tiếp (hình 4.25).
Nhận thấy, do vai trò của các cụm ô cơ sở giống nhau, nên dòng điện đi qua
các tụ điện cs có bằng nhau. Tƣơng tự, dòng điện đi qua các rs cũng bằng nhau. Ta có
thể tách tất cả các tụ điện csthành một cụm có giá trị Cs – tƣơng đƣơng với m cụm
mắc song song, mỗi cụm có ncs mắc nối tiếp. Csnày cũng chính là giá trị điện cung
của toàn bộ dung dịch khi không có tế bào.
Hình 4.25. Mô hình mạch tương đương của dung dịch chứa tế bào được để giữa hai điện cực đối song. Tổng thể tích của dung dịch là V được chia thành m × n thể tích V0 – thể tích ô cơ sở chứa một tế bào; với m là số ô chia theo mặt song song với bề mặt điện cực, n là số ô chia dọc theo khoảng cách giữa hai điện cực.
Phần còn lại là một cụm tƣơng đƣơng có tổng trở Z là một hệ gồm có m cụm
mắc song song, mỗi cụm có n hệ z = (rs nt (Ctb//Rtb). Ta sẽ tính toán phần này. Đầu
tiên, giá trị của z đƣợc tính toán dựa vào rs, Ctb và Rtb, nhận đƣợc:
(4.2)
Từ đó, ta có thể tính đƣợc Z(ω):
118
(4.3)
Nếu K là hệ số hiệu chỉnh giữa điện cực dạng tròn sang điện cực dạng đối
song. V lúc này là thể tích của giọt dung dịch nhỏ vào và d là khoảng cách giữa hai
điện cực. Thay và - là điện trở của dung dịch khi không có tế bào
– vào 4.3 ta có:
(4.4)
Đặt và ta có:
(4.5)
Có thể thấy tổng trở Z tƣơng đƣơng với mạch Rs nt (RC//CC), trong đó RC và
CC phụ thuộc vào nồng độ của tế bào. Tổng trở của hệ bao gồm dung dịch chứa tế
bào tƣơng đƣơng với Cs//(Rs nt (RC//CC)) nhƣ mô tả trong hình 4.26.
Hình 4.26. Mô hình mạch tương đương của phần dung dịch chứa tế bào. Rs, Cs là điện trở và điện dung của dung dịch khi không có tế bào. RC, CC là hai điện trở hiệu dụng phụ thuộc vào nồng độ và bản chất của tế bào.
Phương pháp xử lý số liệu
Phƣơng pháp tính toán kể trên đã bỏ qua phần tổng trở gây ra bởi quá trình
khuếch tán ion của dung dịch lên bề mặt điện cực. Nhƣ thảo luận trong phần 4.3.2.4,
khi tần số dòng điện nhỏ (f < 4 kHz), biểu hiện của quá trình ion khuếch tán và trao
đổi điện tử trên bề mặt điện cực là đáng kể - ứng với khu vực giá trị của phần tử “pha
hằng số” – CPE lớn. Thành phần trở kháng này không thay đổi khi nồng độ tế bào
119
thay đổi, chứng tỏ quá trình trao đổi ion trên bề mặt điện cực không bị ảnh hƣởng bới
nồng độ tế bào; vì vậy, ta không khảo sát kỹ phần này mà chỉ khảo sát sự thay đổi
của tổng trở dung dịch chứa tế bào. Dữ liệu đo đƣợc tại các tần số dòng điện lớn (f >
5kHz) đƣợc sử dụng để khớp vào mô hình mạch tƣơng đƣơng Cs//(Rs nt (RC//CC))
(hình 4.23). Chƣơng trình dùng để khớp EIS Spectrum Analyser đƣợc sử dụng miễn
phí từ trang web http://www.abc.chemistry.bsu.by/vi/analyser/.
Hình 4.27. Kết quả khớp số liệu đo tổng trở với mô hình mạch tương đương của mẫu chứa tế bào nồng độ C0/5.
Số liệu cần đƣợc chuyển thành dạng số liệu phù hợp với chƣơng trình bao
gồm: dòng đầu tiên ghi số điểm thí nghiệm; từ dòng thứ hai trở đi là dữ liệu đƣợc
chia thành 3 cột: Re(Z), Im(Z) và f (Giá trị thực, giá trị ảo của trở kháng và tần số).
Mạch tƣơng đƣơng đƣợc thiết kế và tiến hành khớp sao cho khoảng cách giữa các
điểm thực nghiệm và đƣờng khớp là tối thiểu. Hình 4.27 mô tả kết quả khớp số liệu
đo tổng trở trên mẫu C0/5. Đƣờng khớp rất phù hợp với số liệu thực nghiệm, trong đó
điện trở Rs và điện dung của dụng dịch Cs có các giá trị 670,7 Ω ( ± 1,6%) và 223,1
120
pF (± 1,7%) rất phù hợp với kết quả đo đƣợc khi không có tế bào.
Tƣơng tự vậy, ta tiến hành khớp số liệu đo đƣợc trên các nồng độC0/5, C0/10,
C0/20 và C0/50. Bảng 4.2 thống kê lại các tham số RC và CC sau khi khớp, ứng với
đó là nồng độ tế bào tính đƣợc từ phƣơng pháp đếm trên buồng đếm của các mẫu
C0/5, C0/10, C0/20 và C0/50. Hình 4.28 biểu diễn kết quả khớp đối với các mẫu.
Bảng 4.2.Bảng các tham số fit được từ các kết quả đo tổng trở
Nồng độ (tế bào.cm-1)
và
vào các thông
C (103 tế bào/μL) 58,6 29,3 14,7 5,9 38,8 30,8 24,5 18,0 RC (Ω) 168,7 ± 7,5 219,3 ± 6,4 287,1 ± 6,6 364,4 ± 8,5 CC (nF) 4,65 ± 0,20 4,61 ± 0,13 3,21 ± 0,10 2,38 ± 0,07 Tên mẫu C0/5 C0/10 C0/20 C0/50
Hình 4.28. hình biểu diễn kết quả fit hai hàm số đo được – khoảng dữ liệu lấy để fit [5:50] kHz.
121
Hình 4.29 biểu diễn sự phụ thuộc của nghịch đảo điện trở tƣơng đƣơng - ,
ứng với độ dẫn σ của dung dịch (hình A) và cảm kháng tƣơng đƣơng CC vào
(hình B).Ở đây, đơn vị của nồng độ là [tế bào/μL] nên đơn vị tƣơng đƣơng của là
[tế bào/cm hay tế bào.cm-1], là nồng độ tế bào theo chiều dài. Nhận thấy các điểm thí
nghiệm đều có xu thế nằm trên một đƣờng tuyến tính, phù hợp với mô hình đề xuất
trong luận án. Trên hình 4.29B, điểm thực nghiệm ứng với nồng độ tế bào C0/5cho
thấy giá trị CC tƣơng đƣơng nhỏ hơn, có thể là do kích thƣớc của tế bào có gây ảnh
).
hƣởng đến giá trị cảm kháng tƣơng đƣơng khi nồng độ tế bào lớn.
Hình 4.29. Khảo sát sự phụ thuộc tuyến tính của các giá trị trở tương đương 1/RC (hình A) và CC (hình B) vào nồng độ tế bào theo chiều dài (
Từ 4.5 ta có và . Khớp các số liệu
thí nghiệm từ hình 4.27A và 4.27B với đƣờng thẳng tuyến tính đi qua gốc tọa độ, ta
nhận đƣợc các hệ số tuyến tính lần lƣợt là và . Ta có k1 =
14,8 × 10-5 ± 0,2 × 10-5 (S/tế bào.cm-1)và k2 = 0,13 ± 0,01 (nF/tế bào.cm-1) – S:
122
Siemens đơn vị độ dẫn. Có thể nhận thấy, trong khoảng đo đạc, việc sử dụng độ dẫn
cho sai số ít hơn – 1,4%. Dựa vào việc khớp mạch tƣơng đƣơng, ta nhận đƣợc sai số trung bình của độ dẫn (∆σ) là 6,4 × 10-5 (S). Sai số này lớn hơn rất nhiều sai số do hệ
đo, đƣợc cấu thành từ các lần làm thí nghiệm độc lập với nhau, cũng biểu hiện tới
hạn có thể phân biệt đƣợc hai mẫu đo. Từ đây, ta có thể tính đƣợc giới hạn phát hiện của phép đo là ∆C = ∆σ/k1 ~0,4 tế bào.cm-1. Nghĩa là trong khoảng đã khảo sát ~ [18,40] tế bào.cm-1 nồng độ theo chiều dài, hệ đo có thể nhận biết đƣợc khi thêm 1 tế
bào theo chiều dài (tƣơng đƣơng với 130 tế bào/µL – nếu ta coi mỗi cạnh còn lại của
buồng chứa có 18 tế bào). Cùng phƣơng pháp thí nghiệm, đó là phân lập tế bào một
cách đặc hiệu, sau đó đo tổng trở, giới hạn phát hiện của nghiên cứu này vẫn còn cao
hơn so với kết quả đƣợc nhóm nghiên cứu của Wang [121] công bố năm 2017 (của Wang là 1,6 × 103 tế bào/mL). Điều này đƣợc giải thích bởi cấu trúc điện cực của
nhóm Wang phức tạp hơn – là một chuỗi các điện cực đồng tâm xen kẽ nhau dạng
răng lƣợc, vì vậy nên diện tích điện cực cũng nhƣ khoảng cách giữa các điện cực nhỏ
hơn rất nhiều so với điện cực đƣợc sử dụng trong nghiên cứu này. Việc tăng độ nhạy
của phép đo có thể tiếp tục phát triển khi chúng ta thay đổi vi cấu trúc của điện cực.
Tƣơng tự nhƣ nghiên cứu của Wang [121], luận án đã đề xuất ra phƣơng pháp
sử dụng các hạt nano có từ tính để phân lập các tế bào lơ lửng và sử dụng tổng trở để
xác định hàm lƣợng tế bào. Nếu nhƣ nhóm của Wang tiến hành trên các tế bào khuẩn
Listeriasp., thì nghiên cứu này thực hiện trên các tế bào gốc máu. Phƣơng pháp này
đƣợc đánh giá là đơn giản và ít chi phí hơn so với các phƣơng pháp hiện đang đƣợc
sử dụng để xác định hàm lƣợng tế bào gốc máu là phân lập tế bào kích hoạt huỳnh
quang kết hợp dòng chảy (Cytometry FACS). So với nhóm của Wang, luận án đƣa
thêm lớp nano bạc có khả năng cho tín hiệu Raman tăng cƣờng bề mặt; vì thế bổ
sung thêm chức năng theo dõi, chụp ảnh tế bào trong quá trình khảo sát.
KẾT LUẬN CHƢƠNG IV
Nhƣ vậy, chƣơng 4 trình bày các kết quả ứng dụng các vật liệu nano PbS và
123
Fe3O4-Ag để chế tạo các cảm biến sinh học. Hai cơ chế nhận biết đặc hiệu sinh học,
lần lƣợt enzyme – cơ chất và kháng nguyên – kháng thể, đƣợc trình bày trên hai đối
tƣợng khác nhau:
(i) Đối tƣợng đầu tiên là glucose. Phần tử nhận biết sinh học đặc hiệu là
các phân tử enzyme glucose oxidase (GOx). Các hạt nano PbS đƣợc sử dụng để làm
vật liệu chuyển tiếp tín hiệu, gắn kết với các phân tử GOx, dẫn tới tăng cƣờng khả
năng trao đổi điện tử giữa glucose và điện cực trong quá trình ô xi hóa glucose thành
glucolactone. Độ nhạy cao nhất của cảm biến, đƣợc đo bằng tỉ lệ cƣờng độ điện hóa
tại 1,14V ứng với quá trình ô xi hóa của PbS thành PbSO2 với nồng độ glucose, đạt 546,2 ± 24,6 μAcm-2mM-1.
(ii) Đối tƣợng thứ hai là các tế bào gốc máu CD34+. Nguyên lý kháng
nguyên – kháng thể đƣợc áp dụng. Các kháng thể đặc hiệu là các phân tử antiCD34,
sau khi đƣợc cố định lên bề mặt các hạt đa chức năng từ tính – kim loại Fe3O4-Ag,
hƣớng đích các hạt nano bám vào bề mặt tế báo gốc máu CD34+, biến các tế bào
thành các tiểu cầu micro có từ tính. Sau khi sử dụng từ trƣờng ngoài để phân lập các
tế bào CD34+ có đính các hạt Fe3O4, tán xạ Raman đƣợc sử dụng để khảo sát khả
năng phân biệt vị trí có các tế bào với các vị trí không có tế bào. Bên cạnh đó, tín
124
hiệu đo tổng trở đƣợc sử dụng để khảo sát nồng độ tế bào. Độ dẫn của dung dịch tỉ lệ thuận với nồng độ tế bào. Độ nhạy của cảm biến đạt14,8×10-5± 0,2×10-5 (S/tế bào.cm-1).
KẾT LUẬN
Luận án tập trung nghiên cứu chế tạo một số vật liệu nano bán dẫn, nano kim
loại, và vật liệu đa chức năng từ tính – kim loại nhằm ứng dụng để chế tạo các cảm
biến sinh học để xác định nồng độ glucose và tế bào.
(i) Chế tạo vật liệu nano PbS, nano Au và vật liệu nano đa chức năng từ
tính kim loại Fe3O4-Au, Fe3O4-Ag
a. Đã chế tạo thành công các hạt nano PbS bằng phƣơng pháp hóa siêu
âm.Các hạt nano PbScó dạng lập phƣơng và dạng thanh với kích thƣớc chiều ngang
khoảng 23 nm; đƣợc cấu thành từ tập hợp các hạt đơn tinh thể nhỏ có kích thƣớc 3-4
nm.
b. Đã chế tạo thành công vật liệu nano Au bằng phƣơng pháp nuôi mầm
trong môi trƣờng nuôi chứa chất hoạt hóa CTAB. Các hạt nano Au đồng đều và có
kích thƣớc trung bình 23,6 ± 1,2 nm.
c. Đã chế tạo thành công các hạt nano đa chức năng từ tính – kim loại
bằng phƣơng pháp hóa trong môi trƣờng ái nƣớc. Các hạt Fe3O4-Au có kích thƣớc
25-35 nm và các hạt Fe3O4-Ag có kích thƣớc 30-80nm.
(ii) Ứng dụng vật liệu PbS và Fe3O4-Ag trong chế tạo cảm biến sinh học
a. Đã sử dụng vật liệu nano PbS trong chế tạo cảm biến sinh học xác định
nồng độ glucose trong dung dịch. Độ nhạy cao nhất của cảm biến đạt 546,2 ± 24,6 μAcm-2mM-1.
Bằng phƣơng pháp tính toán, các hạt nano PbS đƣợc chứng minh là đính
với các gốc chứa lƣu huỳnh của phân tử GOx, làm tăng quá trình trao đổi điện tích
giữa GOx tới bề mặt điện cực, dẫn đến làm tăng độ nhạy của cảm biến.
125
b. Đã sử dụng các hạt nano Fe3O4-Ag trong chế tạo cảm biến sinh học đo nồng độ tế bào gốc máu từ mẫu tủy xƣơng.Độ nhạy của cảm biếnlà 14,8 × 10-5 ± 0,2× 10-5 (S/tế bào.cm-1).
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Luu Manh Quynh, Chu Tien Dung, Bach Thi Mai, Hoang Van Huy, Nguyen
Quang Loc, Nguyen Quang Hoa, Pham Tuan Thach, Bui Viet Anh, Chu Thi
Thao, Nguyen Hoang Nam, Hoang Thi My Nhung, Nguyen Ngoc Long, Le Van
Vu (2018), “Development of Fe3O4/Ag core/shell-based multifunctional
immunomagnetic nanoparticles for isolation and detection of CD34+ stem
cells”Journal of Immunoassay and Immunochemistry 39(3), pp. 308-322.
2. Cong Doanh Sai, Manh Quynh Luu, Van Vu Le, Phuong Mai Nguyen, Nguyen
Hai Pham, Viet Tuyen Nguyen, Xuan Quy Nguyen, Quoc Khoa Doan, Thi Ha
Tran (2017), “Fast Synthesis of PbS Nanoparticles for Fabrication of Glucose
Sensor with Enhanced Sensitivity”, Journal of Electronic Materials 46(6), pp.
3674-3680.
3. Nguyen Thuy Trang, Luu Manh Quynh, Tran Van Nam, Hoang Nam Nhat
(2013), “Charge transfer at organic-inorganic interface of surface-activated PbS
by DFT method”, Surface Science 608, pp 67-73.
4. Luu Manh Quynh, Nguyen Hoang Nam, K. Kong, Nguyen Thi Nhung, I.
Notingher, M. Henini, Nguyen Hoang Luong (2016), “Surface-Enhanced Raman
Spectroscopy Study of 4-ATP on Gold Nanoparticles for Basal Cell Carcinoma
Fingerprint Detection”, Journal of Electronic Materials 45(5), pp. 2563-2568.
5. Luu Manh Quynh, Nguyen Minh Hieu, Nguyen Hoang Nam (2014), “Fast DNA
diagnostic using Fe3O4 magnetic nanoparticles and light emitting ZnS/Mn
nanoparticles”, VNU Journal of Science: Mathematics – Physics 30(3), pp. 1-11.
6. Sai Cong Doanh, Luu Manh Quynh (2015) “Highly sensitive enzyme based
glucose sensor using lead sulfide nanocrystals”, VNU Journal of Science:
126
Mathematics – Physics 31(2), pp. 61-67.
Tài liệu tham khảo
1. Ahmad M., Pan C., Luo Z., Zhu J. (2010), “A Single ZnO Nanofiber-Based Highly Sensitive Amperometric Glucose Biosensor”, The Journal of Physical Chemistry C 114, pp. 9308–9313.
2. Ahmad R., Tripathy N., Kim J. H., Hahn,Y. B. (2012), “Highly selective wide linear- range detecting glucose biosensors based on aspect-ratio controlled ZnO nanorods directly grown on electrodes”, Sensors and Actuators B 174, pp. 195–201.
3. Ahn T., Kim J. H., Yang H. M., Lee J. W., Kim J. D. (2012), “Formation Pathways of Magnetite Nanoparticles by Coprecipitation Method”, The Journal of Physical Chemistry C 116, pp. 6069-6076.
bone marrow”, British Journal of Heamatology 114, pp. 201–210.
generation DTP
conducting
type
new
via
4. Allen J. E., Henshaw D. L. (2001), “An in situ study of CD34+ cells in human fetal
5. Azak H., Kurbanoglu S., Yildiz H. B., Ozkan S. A. (2016), “Electrochemical glucose polymers/gold biosensing nanoparticles/glucose oxidase modified electrodes”, Journal of Electroanalytical Chemistry 770, pp. 90-97.
6. Bachurin, L. V.; Kolesov, V. I.; Konovalov, A. N.; Ul'yanov, V. A.; Yudin, N. V. (2018), “Heating of Energetic Materials by Continuous-Wave Near-IR Laser Irradiation”, Combustion, Explosion, and Shock Waves 54(4), pp. 461-471.
Artificial Cells, Nanomedicine, and Biotechnology 44, pp. 248-262.
7. Bahadır E. B., Sezginturk M. K. (2016), “A review on impedimetric biosensors”,
Nanostructured Materials”, Materials Views 22, pp. 1039–1059.
8. Bang J. H., Suslick K. S. (2010), “Applications of Ultrasound to the Synthesis of
9. Brooimans R. A., Kraan J., van Putten W., Cornelissen J. J., Lowenberg B., Gratama J. W. (2009), “Flow Cytometric Differential of Leukocyte Populations in Normal Bone Marrow: Influence of Peripheral Blood Contamination”, Cytometry Part B 76B, pp. 18–26.
properties of PbS nanocubes”, Nanotechnology 17, pp. 3280–3287.
10. Cao H., Wang G., Zhang S., Zhang X. (2006), “Growth and photoluminescence
11. Cass A. E., Graham D., Francis G. D., Hill H. A. (1984), “Ferrocene-Mediated Enzyme Electrode for Amperometric Determination of Glucose”, Analytical Chemistry 56, pp. 667-671.
(2002), “Mediated biosensors”, Biosensors and
12. Chambers J. P., Arulanandam B. P., Matta L. L., Weis A., Valdes J. J. (2008), “Biosensor Recognition Elements”, Current Issues in Molecular Biology 10, pp. 1-12. 13. Chang C. C., Wu H. L., Kuo C. H., Huang M. H. (2008), “Hydrothermal Synthesis of Monodispersed Octahedral Gold Nanocrystals with Five Different Size Ranges and Their Self-Assembled Structures”, Chemistry of Materials 20, pp. 7570-7574.
127
14. Chaubey A., Malhotra B. Bioelectronics 17, pp. 441-456.
15. Chen A., Lipkowski J. (1999), “Electrochemical and Spectroscopic Studies of Hydroxide Adsorption at the Au(111) Electrode”, The Journal of Physical Chemistry B 103, pp. 682-691.
Biotechnology Advances 22, pp. 505–518.
16. Chen J., Miao Y., He N., Wu X., Li S. (2004), “Nanotechnology and Biosensors”,
17. Chen J., Zhu R., Huang J., Zhang M., Liu H., Sun M. và những tác giả khác (2015), “A glucose biosensor based on glucose oxidase immobilized on three-dimensional porous carbon electrodes”, Analyst 140, pp. 5578-5584.
18. Chen J., Pang S., He L., Nugen S. R. (2016), “Highly sensitive and selective detection of nitrite ions using Fe3O4@SiO2/Au magnetic nanoparticles by surface-enhanced Raman spectroscopy”, Biosensors and Bioelectronics 85, pp. 726–733.
19. Chen Y., Li Y., Sung D., Tian D., Zhang J., Zhu J. J. (2011), “Fabrication of gold nanoparticles on bilayer graphene for glucose electrochemical biosensing”, Journal of Materials Chemistry 21, pp. 7604-7611.
20. Chi L.B., Pratt M. H. (2018), “Toward the Development of a Glucose Dehydrogenase- Based Saliva Glucose Sensor Without the Need for Sample Preparation”, Journal of Diabetes Science and Technology 12(1), pp. 83-89.
21. Chu V. T., Tran Q. H., Nguyen V. H., Mai A. T., Tran T. (2013), “Polyaniline Nanowires-Based Electrochemical Immunosensor for Label Free Detection of Japanese Encephalitis Virus”, Analytical Letters 46, pp. 1229–1240.
22. Cuharuc A. S., Kulyuk L. L., Lascova R. I., Mitioglu A. A., Dikusar A. I. (2012), “Electrochemical Characterization of PbS Quantum Dots Capped with Oleic Acid and PbS Thin Films – a Comparative Study”, Surface Engineering and Applied Electrochemistry 48, pp. 193–211.
and its application in an amperometric glucose sensor”, Biosensors 2, pp. 71-87.
23. D’Costa E. J., Higgins I. J., Turner A. P. (1986), “Quinoprotein glucose dehydrogenase
24. Das R. D., Mondal N., Das S., RoyChaudhuri C. (2012), “Optimized Electrode Geometry for an Improved Impedance Based Macroporous Silicon Bacteria Detector”, IEEE Sensor Journal 12, pp. 1868-1877.
25. De Wynter E. A., Coutinho L. H., Pei X., Marsh J. C., Hows J., Luft T., và những tác giả khác (1995), “Comparison of purity and enrichment of CD34+ cells from bone marrow, umbilical cord and peripheral blood (primed for apheresis) using five separation systems”, Stem Cells 13, pp. 524-532.
26. Deeg R., Kraemer W., Ziegenhorn J. (1980), “Kinetic Determination of Serum Glucose by Use of the Hexokinase/Glucose-6-phosphate Dehydrogenase Method”, Journal of Clinical Chemistry and Clinical Biochemistry 18, pp. 49-52.
128
27. Devkota J., Wingo J., Mai T. T., Nguyen X. P., Huong N. T., Mukherjee P., và những tác giả khác (2014), “A highly sensitive magnetic biosensor for detection and quantification of anticancer drugs tagged to superparamagnetic nanoparticles”, Journal of Applied Physics 115, pp. 17B503-1-3.
28. Diaz-Diestra D., Thapa B., Beltran-Huarac J., Weiner B. R. (2017), “L-cysteine capped ZnS:Mn quantum dots for room-temperature detection of dopamine with high sensitivity and selectivity”, Biosensors and Bioelectronics 87, pp. 693-700.
29. Ding L., Ji Q., Qian R., Cheng W., Ju H. (2010), “Lectin-based nanoprobes functionalized with enzyme for highly sensitive electrochemical monitoring of dynamic carbohydrate expression on living cells”, Analytical Chemistry 82, pp. 1292–1298. 30. Do T. N., Phi V. T., Nguy P. T., Wagner P., Eersels K., Vestergaard M. C., và những tác giả khác (2017), “Anisotropic In Situ-Coated AuNPs on Screen-Printed Carbon Surface for Enhanced Prostate-Specific Antigen Impedimetric Aptasensor”, Journal of Electronic Materials 46(6), pp. 3542-3552.
31. Dung C. T., Doanh S. C., Quynh L. M., Hong T. T., Truong D. Q., Dong H. K., và các tác giả khác (2017), “Synthesis of Bifunctional Fe3O4@SiO2-Ag Magnetic–Plasmonic Nanoparticles by an Ultrasound Assisted Chemical Method”, Journal of Electronic Materials 46(6), pp. 3646–3653.
immunotherapy: mapping the way”, Nature Medicine 10, pp. 475-480.
32. Figdor C. G., de Vries I. J., Lesterhuis W. J., Melief C. J. (2004), “Dendritic cell
33. Gniadecka M., Philipsen P. A., Sigurdsson S., Wessel S., Nielsen O. F., Christensen D. H., và các tác giả khác (2004), “Melanoma Diagnosis by Raman Spectroscopy and Neural Networks: Structure Alterations in Proteins and Lipids in Intact Cancer Tissue”, Journal of Investigative Dermatology 122, pp. 443 –449.
34. Gniadecka M., Wulf H. C., Nielsen O. F., Christensen D. H., Hercogova J. (1997), “Distinctive Molecular Abnormalities in Benign and Malignant Skin Lesions: Studies by Raman Spectroscopy”, Photochemistry and Photobiology 66(4), pp. 418-423.
35. Gubicza J., Labar J. L., Quynh L. M., Nam N. H., Luong, N. H. (2013), “Evolution of size and shape of gold nanoparticles during long-time aging”, Materials Chemistry and Physics 138, pp. 449-453.
36. Guo S., Chen Y. Q., Lu N. N., Wang X., Xie M., Sui W. P. (2014), “Ultrasonication- assisted one-step self-assembly preparation of biocompatible fluorescent-magnetic nanobeads for rare cancer cell detection”, Nanotechnology 25, pp. 505603.
37. Hai N. N., Chinh V. D., Thuy U. T., Chi T. K., Yen N. H., Cao D. T., và những tác giả khác (2013), “Detection of the pesticide by functionalised quantum dots as fluorescence-based biosensor”, International Journal of Nanotechnology 10, pp. 137- 145.
38. Haiss W., Thanh N. T., Aveyard J., Fernig D. G. (2007), “Determination of Size and Concentration of Gold Nanoparticles from UV-Vis Spectra”, Analytical Chemistry 79, pp. 4215-4221.
129
39. Harada M., Katagiri E. (2010), “Mechanism of Silver Particle Formation during Photoreduction Using In Situ Time-Resolved SAXS Analysis”, Langmuir 26(23), pp. 17896-17905.
40. Hecht H. J., Schomburg D., Kalisz H., Schmid R. D. (1993), “The 3D structure of glucose oxidase from Aspergillus niger. Implications for the use of GOD as a biosensor enzyme”, Biosensors and Bioelectronics 8, pp. 197-203.
41. Hsiao M. W., Adzic R. R., Yeager E. B. (1996), “Electrochemical Oxidation of Glucose on Single Crystal and Polycrystalline Gold Surfaces in Phosphate Buffer”, Journal of the Electrochemical Society 143, pp. 759-767.
42. Huang X., Sayed M. A. (2010), “Gold nanoparticles: Optical properties and implementations in cancer diagnosis and photothermal therapy”, Journal of Advanced Research 1, pp. 13-28.
43. HuangY. F., Zhu H. P., Liu G. K., Wu D. Y., Ren B., Tian Z. Q. (2010), “When the Signal Is Not from the Original Molecule To Be Detected: Chemical Transformation of para-Aminothiophenol on Ag during the SERS Measurement”, Journal of the American Chemical Society 132, pp. 9244–9246.
44. Iqbal M. A., Gupta S. G., Hussaini S. S. (2012), “A Review on Electrochemical Biosensors: Principles and Applications”, Advances in Bioresearch 3(4), pp. 158 - 163. 45. Jain P. K., Lee K. S., El-Sayed I. H., El-Sayed M. A. (2006), “Calculated Absorption and Scattering Properties of Gold Nanoparticles of Different Size, Shape, and Composition: Applications in Biological Imaging and Biomedicine”, The Journal of Physical Chemistry B 110, pp. 7238-7248.
46. Jiang Y., Huo S., Mizuhara T., Das R., Lee Y. W., Hou S., và những tác giả khác (2015), “The Interplay of Size and Surface Functionality on the Cellular Uptake of Sub- 10 nm Gold Nanoparticles”, ACS Nano 9(10), pp. 9986-9993.
4-aminothiophenol/Au
monolayer”,
on
derivatization Communications 7, pp. 219-222.
47. Jiao L. S., Niu L., Shen J., You T., Dong S., Ivaska A. (2005), “Simple azo Electrochemistry
Advances in Biochemical Engineering/Biotechnology 106, pp. 173-193.
48. Kamihira M., Kumar A. (2007), “Development of separation technique for stem cells”,
49. Karam P., Xin Y., Jaber S., Halaoui, L. I. (2008), “Active Pt Nanoparticles Stabilized with Glucose Oxidase”, The Journal of Physical Chemistry C 112, pp. 13846–13850. 50. Karoonian F. S., Etesami M., Mohamed N. (2012), “Facile electrogenerative deposition of Au nanoparticles on a reticulated vitreous carbon electrode at various pH values for the electrooxidation of ethanol”, Chemija 4, pp. 269–277.
130
51. Kita K., Gauglitz G. G., Phan T. T., Herndon D. N., Jeschke M. G. (2010), “Isolation and Characterization of Mesenchymal Stem Cells From the Sub-Amniotic Human Umbilical Cord Lining Membrane”, Stem cells and Development 19, pp. 491-502. 52. Kobel S., Valero A., Latt J., Renaud P., Lutolf M. (2010), “Optimization of microfluidic single cell trapping for long-term on-chip culture”, Lab on a Chip 10, pp. 857–863.
53. Krinke D., Jahnke H. G., Panke O., Robitzki A. A. (2009), “A microelectrode-based sensor for label-free in vitro detection of ischemic effects on cardiomyocytes”, Biosensors and Bioelectronics 24, pp. 2798–2803.
54. Kumar D., Mutreja I., Chitcholtan K., Sykes P. (2017), “Cytotoxicity and cellular uptake of different sized gold nanoparticles in ovarian cancer cells”, Nanotechnology doi: 10.1088/1361-6528/aa935e.
55. Kuzyk A., Schreiber R., Fan Z., Pardatscher G., Roller E. M., Hogele A., và những tác giả khác. (2012), “DNA-based self-assembly of chiral plasmonic nanostructures with tailored optical response”, Nature 483, pp. 311-314.
56. Kwizera E. A., Chaffin E., Shen X., Chen J., Zou Q., Wu Zh., Gai Zh., Bhana S., O'Connor R. T., Adhikari H., Mishra S. R., Wang Y., Huang X. (2016), “Size- and Shape-Controlled Synthesis and Properties of Magnetic-Plasmonic Core-Shell Nanoparticles”, The Journal of Physical Chemistry C 120(19), pp. 10530–10546.
57. Le M. H., Fradetal L., Delabouglise D., Mai A. T., Stambouli V. (2015), “Fluorescence and Label Free Impedimetric DNA Detection on SnO2 nanopillars”, Electroanalysis 27, pp. 1-10.
58. Le T. H., Le T. T., Vu N. P., Tran T., Le M. T., Doan T. N., và những tác giả khác (2016), “Effect of Synthesis Parameters on the Structure and Magnetic Properties of Magnetic Manganese Ferrite/Silver Composite Nanoparticles Synthesized by Wet Chemistry Method”, Journal of Nanoscience and Nanotechnology 16, pp. 7919–7928. 59. Le T. H., Le T. T., Tran V. S., Nguyen D. C., Man H. C., Le K. V., và những tác giả khác (2017), “Photochemical Decoration of Silver Nanocrystals on Magnetic MnFe2O4 Nanoparticles and Their Applications in Antibacterial Agents and SERS-Based Detection”, Journal of Electronic Materials 46(6), pp. 3412–3421.
60. Le T. T., Tran P. D., Pham X. T., Tong D. H., Dang M. C. (2010), “Glucose oxidase immobilization on different modified surfaces of platinum nanowire for application in glucose detection”, Advances in Natural Sciences: Nanoscience and Nanotechnology 1, pp. 035004 .
61. Le V. V., Sai C. D., Le T. N., Long N. N. (2011), “Properties of PbS Nanocrystals Synthesized by Sonochemical and Sonoelectrochemical Methods”, e-Journal of Surface Science and Nanotechnology 9, pp. 494-498.
62. Li L., Krymskaya L., Wang J., Henley J., Rao A., Cao L. F., Tran C. A., Coronado M. T., Gardner A., Gonzales N., Kim K. và các tác giả khác (2013), “Genomic Editing of the HIV-1 Coreceptor CCR5 in Adult Hematopoietic Stem and Progenitor Cells Using Zinc Finger Nucleases”, Molecular Therapy 21, pp. 1259–1269.
63. Li L., Daou T. J., Texier I., Tran T. K., Nguyen Q. L., Reiss, P. (2009), “Highly Luminescent CuInS2/ZnS Core/Shell Nanocrystals: Cadmium-Free Quantum Dots for In Vivo Imaging”, Chemistry of Materials 21, pp. 2422–2429.
and Developmental Biology 21, pp. 605-631.
131
64. Li L., Xie T. (2005), “Stem cell niche: structure and function”, Annual Review of Cell
65. Lin C., Pratt B., Honikel M., Jenish A., Ramesh B., Alkhan A., và những tác giả khác (2017), “Toward the Development of a Glucose Dehydrogenase-Based Saliva Glucose Sensor Without the Need for Sample Preparation”, Journal of Diabetes Science and Technology doi: 10.1177/1932296817712526.
66. Link S., El-Sayed M. A. (1999), “Spectral Properties and Relaxation Dynamics of Surface Plasmon Electronic Oscillations in Gold and Silver Nanodots and Nanorods”, The Journal of Physical Chemistry B 126, pp. 8410-8426.
67. Liu H. C., Tsai C. C., Wang, G. J. (2013), “Glucose biosensors based on a gold nanodendrite modified screen-printed electrode”, Nanotechnology 24, pp. 215101. 68. Liu Q., Lu X., Li J., Yao X., Li J. (2007), “Direct electrochemistry of glucose oxidase and electrochemical biosensing of glucose on quantum dots/carbon nanotubes electrodes”, Biosensors and Bioelectronics 22, pp. 3203–3209.
69. Liu Z. L., Liu Y. J., Yao K. L., Ding Z. H., Tao J., Wang X. (2002), “Synthesis and Magnetic Properties of Fe3O4 Nanoparticles”, Journal of Materials Synthesis and Processing 10(2), pp. 83-87.
70. Loan N. T., Quynh L. M., Dai N. X., Long N. N. (2011), “Electrochemical biosensor for glucose detection using zinc oxide nanotetrapods”, International Journal of Nanotechnology 8, pp. 300-311.
71. Long N. N., Vu L. V., Kiem C. D., Doanh S. C., Nguyet C. T., Hang P. T., và những tác giả khác (2009), “Synthesis and optical properties of colloidal gold nanoparticles”, Journal of Physics: Conference Series 187, pp. 012026.
72. Lv X. J., Zhou G. D., Liu Y., Liu X., Chen J. N., Luo X., và những tác giả khác (2012), “In vitro proliferation and differentiation of adipose-derived stem cells isolated using anti-CD105 magnetic beads”, International Journal of Molecular Medicine 30, pp. 826-834.
solid solution”, Journal of Physics and Chemistry of Solid 19, pp. 35-50.
73. Lyfshitz I. M., Slyozov V. V. (1961), “The kinetics of precipitation from supersatuated
74. Mahal A., Tandon L., Khullar P., Ahluwalia G. K., Bakshi M. S. (2016), “pH Responsive Bioactive Lead Sulfide Nanomaterials: Protein Induced Morphology Control, Bioapplicability, and Bioextraction of Nanomaterials”, ACS Sustainable Chem. Eng. 5(1), pp. 119–132.
75. Mai A. T., Pham D. T., Chu T. X., Nguyen M. H., Nguyen H. H. (2014), “Highly sensitive DNA sensor based on polypyrrole nanowire”, Applied Surface Science 309, pp. 285-289.
nanoparticles”, Optical Materials46, pp. 522-525.
76. Mamiyev Z. Q., Balayeva N. O. (2015), “Preparation and optical studies of PbS
132
77. Meier M., Harrision M. J., Spalsbury S., McGregor D. S. (2009), “Laser-induced thermomigration of Te precipitates in CdZnTe crystals”, Journal of Crystal Growth 311, pp. 4247-4250.
78. Muthurasu A., Ganesh V. (2016), “Glucose oxidase stabilized fluorescent gold nanoparticles as an ideal sensor matrix for dual mode sensing of glucose”, RSC Advances 6, pp. 7212-7223.
79. Newmann-Spallart M., Lesvy-Clément C., Grabner G. (1994), “Fast annealing of II-IV compounds by pulse laser irradiation”, Journal of Physics D: Applied Physics 27, pp. 407-413.
80. Nghiem, T. H. L.; Le, T. N.; Do, T. H.; Vu, T. T. D.; Do, Q. H.; Tran, H. N. (2013), “Preparation and characterization of silica–gold core–shell nanoparticles”, Journal of Nanoparticles Research 15, pp. 2091.
in
81. Nguyen D. N., Ngo T. T., Nguyen Q. L. (2012), “Highly sensitive fluorescence resonance energy transfer (FRET)-based nanosensor for rapid detection of clenbuterol”, Advances in Natural Sciences: Nanoscience and Nanotechnology 3, pp. 035011.
82. Nguyen H. L., Nguyen H. N., Nguyen H. H., Luu M. Q., Nguyen, M. H. (2015), “Nanoparticles: synthesis and applications life science and environmental technology”, Advances in Natural Sciences: Nanoscience and Nanotechnology 6, pp. 15008.
83. Nguyen, N. L.; Le, V. V.; Chu, D. K.; Sai, C. D.; Cao, T. N.; Pham, T. H.; Nguyen, D. T.; Luu, M. Q. (2009), “Synthesis and optical properties of colloidal gold nanoparticles”, Journal of Physics: Conference Series 187, 012026.
84. Nguyen T. H., Ung T. D., Vu T. H., Trang T. K., Dong V. Q., Dinh D. K., và những tác giả khác (2012), “Fluorescence biosensor based on CdTe quantum dots for specific detection of H5N1 avian influenza virus”, Advances in Natural Sciences: Nanoscience and Nanotechnology 3, pp. 1-5.
85. Nguyen T. T., Phuong D. T., Mai A. T., Nguyen D. C., Vu V. T. (2013), “Impact parameters investigation of DNA immobilisation process on DNA sensor response”, International Journal of Nanotechnology 10, pp. 146-153.
86. Nguyen V. A., Nguyen L. H., Nguyen T. D., Do P. Q., Tran D. L. (2017), “Electrosynthesized poly(1,5-diaminonaphthalene)/polypyrrole nanowires bilayer as an immunosensor platform for breast cancer biomarker CA 15-3”, Current Applied Physics 17, pp. 1422-1429.
87. Nguyen V. C., Nguyen H. B., Cao T. T., Nguyen V. T., Nguyen L. H., Nguyen T. D., và những tác giả khác (2016), “Electrochemical Immunosensor for Detection of Atrazine Based on Polyaniline/Graphene”, Journal of Materials Science & Technology 32, pp. 539-544.
88. Nguyen V. L., Yong Y., Toshiharu T., Cao M. T., Yanqin C., Masayuki N. (2015), “Biomedical Applications of Advanced Multifunctional Magnetic Nanoparticles”, Journal of Nanoscience and Nanotechnology 15, pp. 10091–10107.
133
89. Niasari M. S., Ghanbari D., Estarki M. R. (2012), “Star-shaped PbS nanocrystals prepared by hydrothermal process in the presence of thioglycolic acid”, Polyhedron 35, pp. 149–153.
90. Niu W. X., Zhang L., Xu G. B. (2012), “Seed-mediated growth method for high- quality noble metal nanocrystals”, Science China Chemistry 55(11), pp. 2311-2317. 91. Ogata T., Nakano Y. (2005), “Mechanisms of gold recoveryfrom aqueous solutions using a novel tannin gel adsorbent synthesized from natural condensed tannin”, Water Research 39, pp. 4281-4286.
92. Osawa M., Matsuda N., Yoshii K., Uchida I. (1994), “Charge transfer resonance Raman process in surface-enhanced Raman scattering from p-aminothiophenol adsorbed on silver: Herzberg-Teller contribution”, Journal of Physical Chemistry 98, pp. 12702–12707.
93. Ouyang L., Zhu L., Jiang J., Tang H. (2014), “A surface-enhanced Raman scattering method for detection of trace glutathione on the basis of immobilized silver nanoparticles and crystal violet probe”, Analytica Chimica Acta 816, pp. 41-49.
94. Palod P. A., Singh V. (2015), “Facile synthesis of high density polypyrrole nanofiber network with controllable diameters by one step template free electropolymerization for biosensing applications”, Sensors and Actuators B 209, pp. 85-93.
95. Pang Y., Wang C., Wang J., Sun Z., Xiao R., Wang S. (2016), “Fe3O4@Ag magnetic nanoparticles for microRNA capture and duplex-specific nuclease signal amplification based SERS detection in cancer cells”, Biosensors and Bioelectronics 79, pp. 574–580. 96. Parvin K., Ma J., Ly J., Sun X. C., Nikles D. E., Sun K., và những tác giả khác. (2004), “Synthesis and magnetic properties of monodisperse Fe3O4 nanoparticles”, Journal of Applied Physics 95(11), pp. 7121-7123.
97. Paulus U., Dreger P., Viehman K., Neuhoff N. V., Schmitz N. (1997), “Purging Peripheral Blood Progenitor Cell Grafts from Lymphoma Cells: Quantitative Comparison of Immunomagnetic CD34+ Selection Systems”, Stem Cells 15, pp. 297- 304.
98. Peeters O. M., Blaton N. M., De Ranter C. J. (1978), “Kinetics and mechanisms of the reaction between thioacetamide and lead(II), cadmium(II), and cobalt(II) ions in acetate buffered solution”, Journal of the Chemical Society, Perkin Transaction 2 2, pp. 23-26. 99. Pham V. B., Pham X. T., Dang N. T., Le T. T., Tran P. D., Nguyen T. C., và những tác giả khác (2011), “Detection of DNA of genetically modified maize by a silicon nanowire field-effect transistor”, Advances in Natural Sciences: Nanoscience and Nanotechnology 2, pp. 025010.
100. Pham V. H., Pham D. T., Chu T. X., Nguyen H. H., & Mai A. T. (2017), “Development of a DNA Sensor Based on Nanoporous Pt-Rich Electrodes”, Journal of Electronic Materials46(6), pp. 3491–3498.
101. Phan T. H., Tran P. D., Pham X. T., Dang N. T., NguyenV. L., Tran V. M., và những tác giả khác (2013), “Glucose biosensor based on platinum nanowires: a clinical study”, International Journal of Nanotechnology 10, pp. 166.
and Laboratory Medicine 41, pp. 1213–1219.
134
102. Price C. P. (2003), “Point-of-Care Testing in Diabetes Mellitus”, Clinical Chemistry
metallic nanoparticles”, Journal of Nanoparticle Research 7, pp. 51–57.
103. Qi W. H., Wang M. P. (2005), “Size and shape dependent lattice parameters of
104. Quynh L. M., Tuan T. Q., Luong N. H., Long N. N., Hai N. H., Thoa T. T., và các tác giả khác (2011), “Application of Gold Nanoparticles for Early Detection of Breast Cancer Cells”, e-J. Surf. Sci. Nanotech. 9, pp. 544-547.
105. Richel D. J., Johnsen H. E., Canon J., Guillaume T., Schaafsma M. R., Schenkeveld C., và những tác giả khác (2005), “Highly purified CD34+ cells isolated using magnetically activated cell selection provide rapid engraftment following high-dose chemotherapy in breast cancer patients”, Bone Marrow Transplantation 25, pp. 243– 249.
Escherichia Coli O157:H7 Using Electrochemical Analytical Chemistry 74, pp. 4814-4820.
106. Ruan C., Yang L., Li Y. (2002), “Immunobiosensor Chips for Detection of Impedance Spectroscopy”,
107. Salahuddin S., Porter E., Krewer F., O'Halloran M. (2017), “Optimised analytical models of the dielectric properties of biological tissue”, Medical Engineering and Physics 0, pp. 1-9.
of Chemical Research 41, pp. 130-138.
108. Shamah S. M., Healy J. M., Cload S. T. (2008), “Complex target SELEX”, Account
109. Shen L., Zhou X., Wang A., Yin H., Yin H., Cui W. (2017), “Hydrothermal conversion of high-concentrated glycerol to lactic acid catalyzed by bimetallic CuAux (x = 0.01–0.04) nanoparticles and their reaction kinetics”, RSC Advances 7, pp. 30725- 30739.
110. Shrabani, M.; Rashmi; Prashant, K. S. (2017), “Probing the Shape-Specific Electrochemical Properties of Cobalt Oxide Nanostructures for its Application as Selective and Sensitive Non-Enzymatic Glucose Sensor Non-Enzymatic Glucose Sensor”, Journal of Materials Chemistry C 5, pp. 6497-6506.
111. Shukla M., Pramila Dixit T., Prakash R., Palani A. I., Singh V. (2017), “Influence of aspect ratio and surface defect density on hydrothermally grown ZnO nanorods towards amperometric glucose biosensing applications”, Applied Surface Science 422, pp. 798– 808.
galena PbS”, Journal of Applied Physics 92(8), pp. 4375-4380.
112. Smith G. D., Firth S., Clark R. J. (2002), “First- and second-order Raman spectra of
113. Song M. J., Huang S. W., Whang D. (2009), “Amperometric Glucose Biosensor Based on a Pt-Dispersed Hierarchically Porous Electrode”, Journal of Korean Physical Society 54, pp. 1612-1618.
114. Su S., Sun H., Xu F., Yuwen L., Fan C., Wang L. (2014), “Direct electrochemistry of glucose oxidase and a biosensor for glucose based on a glass carbon electrode modified with MoS2 nanosheets decorated with gold nanoparticles”, Microchim Acta 181, pp. 1497–1503.
135
115. Suslick K. S. (1990), “Sonochemistry”, Science 247, pp. 1439-1445.
Food Science and Technology 50(4), pp. 625–641.
116. Thakur M. S., Ragavan K. V. (2013), “Biosensors in food processing”, Journal of
117. Thévenot R., Toth K., Durst A. R., WilsonS. (1999), “Electrochemical biosensors: recommended deffinitions and classification”, Pure and Applied Chemistry 71(12), pp. 2333-2348.
Oxford University Press.
118. Tuner A. P. (1987), Biosensor: Fundamentals and Applications. New York, USA:
119. Turdean L. G. (2011), “Design and Development of Biosensors for the Detection of Heavy Metal Toxicity”, International Journal of Electrochemistry 2011, ID 343125 pp.1-15.
120. Ung T. D., Tran T. K., Pham T. N., Nguyen D. N., Dinh D. K., Nguyen Q. L. (2012), “CdTe and CdSe quantum dots: synthesis, characterizations and applications in agriculture”, Advances in Natural Sciences: Nanoscience and Nanotechnology 3, ID 043001 .
121. Wang D., Chen Q., Huo H., Bai S., Cai G., Lai W., và những tác giả khác (2017), “Efficient separation and quantitative detection of Listeria monocytogenes based on screen-printed interdigitated electrode, urease and magnetic nanoparticles”, Food Controll 73, pp. 555-561.
122. Wang H., Wang X., Zhang X., Qin X., Zhao Z., Miao Z., và những tác giả khác (2009), “A novel glucose biosensor based on the immobilization of glucose oxidase onto gold nanoparticles-modified Pb nanowires”, Biosensors and Bioelectronics 25, pp. 142-146.
123. WangW., Ding X., Xu Q., Wang J., Wang L., Lou X. (2016), “Zeta-potential data reliability of gold nanoparticle biomolecular conjugates and its application in sensitive quantification of surface absorbed protein”, Colloids and Surfaces B: Biointerfaces 148, pp. 541-548.
System for Rapid Detection of Salmonella Typhimurium”, Sensors 17, pp. 1-15.
124. Wen T., Wang R., Sotero A., Li Y. (2017), “A Portable Impedance Immunosensing
125. Wu X., Luo L., Yang S., Ma X., Li Y., Dong C., và những tác giả khác (2015), “Improved SERSNanoparticles for direct detection of circulating tumor cells in the blood”, ACS Applied Materials and Interfaces 7, pp. 9965–9971.
126. Xia Y., Gilroy K. D., Peng H. C., Xia X. (2017), “Seed-Mediated Growth of Colloidal Metal Nanocrystals, Angewandte Chemie - International Edition 56(1), pp. 60-95.
127. Xu H., Aguilar Z. P., Yang L., Kuang M., Duan H., Xiong Y., và những tác giả khác (2011), “Antibody conjugated magnetic iron oxide nanoparticles for cancer cell separation in fresh whole blood”, Biomaterials 32, pp. 9758–9765.
136
128. Xu Y., Xie X., Duan Y., Wang L., Cheng Z., Cheng J. (2016), “A review of impedance measurements of whole cells”, Biosensors and Bioelectronic 77, pp. 824- 836.
129. Yan W., Xu L., Xu C., Ma W., Kuang H., Wang L., và những tác giả khác (2012), “Self-Assembly of Chiral Nanoparticle Pyramids with Strong R/S Optical Activity”, Journal of American Chemical Society 134, pp. 15114–15121.
130. Yang G., Qin D., Zhang L. (2014), “Controllable synthesis of protein-conjugated lead sulfide nanocubes by using bovine hemoglobin as a capping agent”, Journal of Nanopartical Research 16, pp. 2438.
131. Yang Y., Xu C., Wang X. (2012), “ZnO/Cu Nanocomposite: A Platform for Direct Electrochemistry of Enzymes and Biosensing Applications”, Langmuir 28, pp. 4580−4585.
Practice”, Sensors 10, pp. 4558-4576.
132. Yogeswaran U., Chen S. M. (2008), “A Review on the Electrochemical Sensors and Biosensors Composed of Nanowires as Sensing Material”, Sensors 8, pp. 290-313. 133. Yoo E. H., Lee S. Y. (2010), “Glucose Biosensors: An Overview of Use in Clinical
134. Young J. K., Lewinski N. A., Langsner R. J., Kenedy L. C., Satyanarayan A., Nammalvar V., và những tác giả khác (2011), “Size-controlled synthesis of monodispersed gold nanoparticles via carbon monoxide gas reduction”, Nanoscale Research Letters 6, pp. 428.
135. Zhang J., Lei J., Pan R., Leng C., Hu Z., Ju H. (2011), “In situ assembly of gold nanoparticles on nitrogen-doped carbon nanotubes for sensitive immunosensing of microcystin-LR”, Chemical Communications 47, pp. 668–670.
136. Zhang J., Zhu A., Zhao T., Wu L., Wu P., Hou X. (2015), “Glucose oxidase- directed, instant synthesis of Mn-doped ZnS quantum dots in neutral media with retained enzymatic activity: mechanistic study and biosensing application”, Journal of Materials Chemistry B 3, pp. 5942-5950.
137. Zhao C., Wu X., Zhang X., Li P., Qian X. (2017), “Facile synthesis of layered CuS/RGO/CuS nanocomposite on Cu foam for ultrasensitive nonenzymatic detection of glucose”, Journal of Electroanalytical Chemistry 785, pp. 172-179.
138. Zhao M., Huang J., Zhou Y., Chen Q., Pan X., He H., và những tác giả khác (2013), “A single mesoporous ZnO/Chitosan hybrid nanostructure for a novel free nanoprobe type biosensor”, Biosensors and Bioelectronics 43, pp. 226–230.
139. Zhao N., Qi, L. (2006), “Low-Temperature Synthesis of Star-Shaped PbS Nanocrystals in Aqueous Solutions of Mixed Cationic/Anionic Surfactants”, Advanced Materials 18, pp. 359–362.
140. Zhou S., Feng X., Shi H., Chen J., Zhang F., Song, W. (2013), “Direct growth of vertically aligned arrays of Cu(OH)2 nanotubes for the electrochemical sensing of glucose”, Sensors and Actuators B 177, pp. 445–452.
in Chemical Engineering 2, pp. 3-7.
137
141. Zhu B., Murthy S. K. (2013), “Stem cell separation technologies”, Current Opinion
142. Ziegenhorn J., Neumann U., Hagen A., Bablok W., Stinshoff K. (1977),“Kinetic Enzymatic Method for Automated Determination of Glucose in Blood and Serum”,J. Clin. Chem. Clin. Biochem.15, pp. 13-19.
138
143. Zuber A., Purdey M., Schartner E., Forbes C., van der Hoek B., Giles D., và những tác giả khác (2016),“Detection of gold nanoparticles with different sizes using absorption and fluorescence based method”,Sensors and Actuators B 227, pp. 117-127.