1
CHƯƠNG I:
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng huyết áp (THA) là yếu tố nguy cơ cao đối với các bệnh tim mạch
các nước công nghiệp bvà ngay tại nước ta. THA đã và đang trở thành một
vấn đề sức khoẻ lớn trên toàn cầu khi gia tăng tuổi thọ cùng các yếu tố nguy
khác. THA nguyên nhân gây tử vong cho 7.1 người trẻ tuổi, chiếm
4.5% bệnh tật toàn cầu.
Trị số THA liên quan chặt chẽ với tỉ lệ mắc: Nhồi máu cơ tim, tai biến
mạch máu não, suy tim, suy thận….
Điều trị THA làm giảm khoảng 40% nguy đột quỵ 15% nguy
nhồi máu tim. Không những thế, THA thường đi kèm với các yếu tố nguy
tim mạch khác như: hút thuốc lá, đái tháo đường, rối loạn mmáu, béo
phì… và đây cũng là yếu tố chính chi phôi bệnh THA.
Việt Nam, tần suất bị bệnh THA ngày càng gia tăng khi nền kinh tế
ngày càng phát triển. Số liệu điều tra dịch tể học Việt Nam cho thấy: Năm
1960 THA mới chiếm 1% dân số, đến năm 1992 THA tăng lên 11.79% dân
số và đến năm 2002 đã là 16.3%.
Tại Việt Nam, biến chứng THA chủ yếu là đột quị, sau đó bệnh
mạch vành.
Từ tất cả các vấn đđã nêu trên, tôi thực hiện đề tài: “Điều trị tăng
huyết áp tại khoa nội bệnh viện đa khoa Tuy An: Một vài nhận xét và bàn
luận” nhằm mục đích:
- Nhận xét và bàn luận về phương thức điều trị bệnh THA tại khoa
nội bệnh viện đa khoa Tuy An.
2
CHƯƠNG II:
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Lịch sử diễn biến và điều trị:
2.1.1. Thế kỷ 20, diễn biến về điều trị bệnh huyết áp cao như sau:
1930 Chủ yếu điều trị an thần.
1940 Xu hướng phẫu thuật cắt bỏ hạch giao cảm.
1945 Chủ trương hạn chế muối (Na) và sử dụng Nitroprusside
1950 Thuốc ức chế hạch (Lagartin)
1955 Chủ đạo là Reserpine
1960 Nhóm thay thế chuyển hoạt TR (faux neurotransmetteur)
(Methyldopa + lợi tiểu)
1965 Hướng nhiều về thuốc ức chế beta.
1970 Điều trị theo phát đồ phối hợp các quan điểm trên.
1980 Bắt đầu quan điểm điều trị theo địa bệnh nhân ức chế
men.
1990 đến nay Điều trị có chọn lọn giữa bốn thứ thuốc chính: lợi tiểu, ức
chế , ức chế canxi, ức chế men chuyển.
2.1.2. Đánh giá công tác điều trị huyết áp cao:
- Cơ thể khẳng định đưc điều tr ni khoa đã có c dụng vi cao huyết áp.
- Đã hạn chế được các biến chứng do huyết áp cao gây nên.
- Đã giảm được tỉ lệ tử vong của người bệnh có huyết áp.
2.1.3. Vấn đề còn lại là: Các loại bệnh nhân đã điều trị huyết áp tốt, vẫn
chưa giảm được tỷ lệ một số bệnh đặc biệt là thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim,
mặc dù đã hạn chế được tai biến tuần hoàn não và suy tim.
Thông thường đa số phương pháp điều trị của bệnh nhân điều trị triệu
chứng.
2.1.4. Cần quan niệm: Huyết áp biểu hiện của một số triệu chứng của
hiện tượng bất thường về sinh học hoặc có nhiều yếu tố bất thường phối hợp n
sinh học, nội tiết, thần kinh, sinh học phân tử; giải phẩu tế bào học; ngoài ra thì
3
các hiện tượng không ổn định để điều hòa chuyển hóa đường tăng trọng thể,
nhiều mtrong u, nhiều axi uric, rất thường gặp, và cũng các biểu hiện đại
thể về Lâm sàng.
2.1.5. Yêu cầu hiện nay biết trước được các biểu hiện báo hiệu của
bệnh huyết áp cao. Vấn đề dự phòng thời gian này yêu cầu đầu tiên
bản cho điều trị sau này.
Trên thị trường trong sách vhiện đến 100 thứ thuốc điều trị huyết
áp cao. Kinh nghiệm bản thân thống của các tác giả khác trong vòng 10
năm gần đây, thực tế chỉ sử dụng 10 loại thuốc.
Y học đã tổng kết thực tế chỉ còn 4 loại chính:
- Lợi tiểu.
- Ức chế
- Ức chế canxi
- Ức chế men chuyển.
Bên cạnh đó cần kết hợp điều trị và dự phòng các tai biến về tuần hoàn
dự phòng các tổn thương thành mạch.
2.2. Những vấn đề bản của chẩn đoán điều trị cần được thống
nhất:
2.2.1. Một vài nhận xét về đặc tính và đánh giá huyết áp cao theo cổ điển.
Huyết áp cao được phân loại thành nhóm, giai đoạn có danh từ không còn
được công nhận vẫn được áp dụng rộng rãi như huyết áp dao động (TTCY
thế giới) đã đề nghị không dùng.
Quan niệm mới cho rằng: Cánh tính, đánh giá cổ điển như trên không
phản ánh được thật sự tình trạng của bệnh nhân, theo quan niệm hiện đại, trị số
huyết áp Lâm sàng theo cánh tình này không đúng.
Bênh cạnh đó, phương pháp theo t“lưu động” ambulatoire ng không
đúng bệnh nhân hoàn toàn không bị giới hạn phạm vi hoạt độnkg. Trong lúc
đó huyết áp, thực tế nữ giới dễ bị huyết áp cao stress và 20% bệnh nhân huyết áp
cao có liên quan đến hoàn cảnh sinh hoạt, tác phong.
4
2.2.2. Đã chứng minh được:
- Huyết áp thay đổi chỉ là một yế tố dễ dự đoán.
- Trái lại nhiều trường hợp chưa thống nhất được sự liên quan giữa huyết
áp cao và tổn thương các cơ quan: não, tim, thận.
- Huyết áp không giảm thấp lúc ngủ, loại này thường nguy biến
chứng về tim.
- Đa số thường gặp ở bệnh nhân đã có tuổi, bệnh nhân có tiểu đường.
- khi tỉnh giấc huyết áp vẫn tăng cao, lại dễ bị nhồi máu cơ tim tai
biến tuần hoàn não, cơ thể đột tử.
2.3. Yêu cầu của điều trị:
2.3.1. Yêu cầu đại cương:
- Thuốc có tác dụng kéo dài, ổn định huyết áp trong thời gian 24h.
- Quan trọng nhất khi bệnh nhân tỉnh dậy huyết áp vẫn không biến đổi
theo chiều hướng tăng cao.
- Nghiên cứu chứng minh: huyết áp không giảm thấp khi ngủ là đã tổn
thương não kín đáo yên lặng và thường gặp ở bệnh nhân có dày thất trái. (6)
Vấn đề cần lưu ý: Cholesterol liên quan đến áp lực tâm trương tai biến
tuần hoàn não. (10) Nghiên cứu trên 450.000 người từ 5 đến 30 năm.
Đặc điểm nghiên cứu trên 45 sắc tộc dân tộc, theo dõi trung bình 16 năm
là: 13397/450.000 có tai biến tuần hoàn não đều rất nặng.
- Nhận xét: Tỷ lệ tai biến tăng thêm 80% khi huyết áp tâm trương tăng lên
10 mmHg thường đi theo tuổi. Tuổi trên 65 thường có tỷ lệ tai biến gấp đôi 45
(P < 0.001)
2.3.2. Yêu cầu của một loại thuốc hạ huyết áp:
- Có tỷ lệ tác dụng tối đa.
- Tác dụng vẫn còn khi đậm độ trong huyết tương còn ở mức tối thiểu.
- Duy trì được huyết áp trong vòng 24h.
- Tỷ lệ tác động dưới 50% chưa đạt yêu cầu. Nghĩa thuốc đó phải
dùng nhiều lần trong 24h hoặc cần phối hợp với 1 hoặc 2 loại khác.
2.3.3. Tính an toàn của thuốc:
5
Mọi th thuc được gọi là an toàn cho điu tr là thuc không thay đi
nng đ trong huyết thanh nhanh vì: Khi đm độ thuc thay đổi trong
huyết thanh nhanh sẽ: Thay đi nhanh v tác dng vn mạch; s tăng t l
tác dng ph.
2.4. Hiện tượng rối loạn chức năng lớp nội mạc:
2.4.1. vữa động mạch là một nguy cơ đã chứng minh liên
quan với một sự mất cân bằng những yếu tố này (do rối loạn chức năng lớp nội
mạc). tỷ lệ Endothelin thể tăng, trong ng lúc (cùng thời gian) hoạt động
NO có thể giảm hiện tượng này đã được nhận xét và chứng minh trên các bệnh
nhân hội chứng mạch vàng, tăng lipid máu, hút nhiều thuốc lá, đặc biệt trên
bệnh nhân cao huyết áp.
2.4.2. Cố mối liên quan chặt chẽ khi rối loại chức năng lớp nội mạc và
tổn thương thành mạch. Trên thực nghiệm đã thấy tổn thương tim mạch xuất
hiện khi đã một quá trình vữa động mạch, thời gian của quá trình này co
thể được gọi là sự rồi loại chức năng lớp nội mạc. Biểu hiện rõ nét trên lâm sàng
ở bệnh nhân bị tiểu đường và cao huyết áp.
Tổn thương thường biểu hiện co mạch bất thường (rối loạn vận mạch) tích
tụ tiểu cầu, kết dính bạch cầu, gia tăng tính thẩm thấu thành mạch với những loại
phân tử như lipoprotein và tăng sinh tế bào cơ trơn mạch máu.
2.4.3. Rối loạn chức năng lớp nội mạc và suy thận:
Rối loạn chức năng lớp nội mạc liên quan với phát triển của suy thận
mãn.
Bản chất suy thận mãn tiến triển sự phát triển củ cao huyết áp tại mạch
vi cầu thận, theo cơ chế giả định sự giản tiểu động mạch vào (afferent) xuất hiện
là để báo trước cho việc giảm số lượng nephron, dễ làm tăng áp lực mao mạch vi
cầu thận và tăng lọc.
Điều đáng lưu ý sự gia tăng áp lực mao mạch trong vi cầu thận này sẽ
có bất lợi là cũng thúc đẩy quá trình sơ hóa vi cầu thận.
Vòng xoắn bệnh này snặng thêm khi đã huyết áp cao, tất nhiên
bệnh nhân này thường kèm theo bệnh thận kín đáo.