BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƢỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHAN HỮU HÊN
NGHIÊN CỨU SỰ THAY ĐỔI NỒNG ĐỘ
CORTISOL MÁU, HOC MON TĂNG TRƢỞNG,
HOC MON TUYẾN GIÁP VÀ HOC MON TUYẾN SINH DỤC
Ở BỆNH NHÂN CHẤN THƢƠNG SỌ NÃO
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
TP Hồ Chí Minh – Năm 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƢỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHAN HỮU HÊN
NGHIÊN CỨU SỰ THAY ĐỔI NỒNG ĐỘ
CORTISOL MÁU, HOC MON TĂNG TRƢỞNG,
HOC MON TUYẾN GIÁP VÀ HOC MON TUYẾN SINH DỤC
Ở BỆNH NHÂN CHẤN THƢƠNG SỌ NÃO
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Chuyên ngành: NỘI – NỘI TIẾT
Mã số: 62.72.20.15
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. PGS TS BS Nguyễn Thy Khuê
2. PGS TS BS Dƣơng Minh Mẫn
TP Hồ Chí Minh – Năm 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả, số liệu nêu trong luận án này là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Ký tên
PHAN HỮU HÊN
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
1 ĐẶT VẤN ĐỀ .........................................................................................
3 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ..................................................................
4 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ..............................................
1.1. Các vấn đề liên quan chấn thương sọ não ....................................... 4
1.2. Tổng quan suy thùy trước tuyến yên ............................................... 8
1.3. Suy thùy trước tuyến yên sau chấn thương sọ não .......................... 21
32 CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .
2.1. Thiết kế nghiên cứu ......................................................................... 32
2.2. Đối tượng và tiêu chuẩn chọn bệnh ................................................. 32
2.3. Cỡ mẫu ............................................................................................. 32
2.4. Cách chọn mẫu và phương pháp tiến hành .................................... 33
2.5. Định nghĩa các biến số .................................................................... 36
2.6. Xét nghiệm ...................................................................................... 39
2.7. Phân tích số liệu ............................................................................... 41
2.8. Vấn đề y đức .................................................................................... 41
42 CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................
3.1. Đặc điểm bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp ................. 43
3.2. Tỷ lệ tử vong trong vòng 06 tháng sau chấn thương sọ não và
mối liên quan với suy tuyến yên giai đoạn cấp ....................................... 56
3.3. Tỷ lệ suy tuyến yên giai đoạn 06 tháng sau chấn thương sọ não và
các yếu tố liên quan ................................................................................. 60
70 CHƢƠNG 4: BÀN LUẬN .....................................................................
4.1. Đặc điểm bệnh nhân và tỷ lệ suy tuyến yên ở bệnh nhân chấn
thương sọ não giai đoạn cấp .................................................................... 70
4.2. Tỷ lệ tử vong trong vòng 06 tháng sau chấn thương sọ não và mối
liên quan với suy tuyến yên giai đoạn cấp .............................................. 78
4.3. Tỷ lệ suy tuyến yên ở bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn
sau 06 tháng và các yếu tố liên quan ....................................................... 81
99 KẾT LUẬN ..........................................................................................
100 KIẾN NGHỊ ..........................................................................................
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC:
DANH SÁCH BỆNH NHÂN
PHẦN NGOẠI KIỂM XÉT NGHIỆM
GIẤY CHẤP THUẬN ĐẠO ĐỨC NGHIÊN CỨU
BẢNG ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ ANH VIỆT
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BN Bệnh nhân
CTSN Chấn thương sọ não
DMC Dưới màng cứng
Hct Hematocrit
KTC Khoảng tin cậy
NV Nhập viện
NMC Ngoài màng cứng
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng
Nội dung
Trang
1.1. Các nguyên nhân của suy tuyến yên .......................................................
9
1.2. Tỷ lệ suy thượng thận thứ phát ở bệnh nhân CTSN giai đoạn cấp của
một số nghiên cứu ...................................................................................
28
3.3. Các đặc điểm chung khác của BN tham gia nghiên cứu ........................
44
3.4. Các đặc điểm lâm sàng của BN tham gia nghiên cứu ............................
45
3.5. Các đặc điểm tổn thương não trên chụp cắt lớp điện toán sọ .................
47
3.6. Xét nghiệm cận lâm sàng và nồng độ các hoc mon................................
48
3.7. Tỷ lệ suy tuyến yên giai đoạn cấp CTSN ...............................................
49
3.8. Tỷ lệ suy tuyến yên theo thời điểm khảo sát ..........................................
50
3.9. Mối liên quan của tuổi, điểm Glasgow và điểm Marshall lúc nhập
viện với suy giáp thứ phát giai đoạn cấp CTSN .....................................
51
3.10. Mối liên quan của giới tính, phân loại điểm Glasgow và điểm
Marshall lúc nhập viện với suy giáp thứ phát giai đoạn cấp CTSN .......
51
3.11. Mối liên quan của tuổi, điểm Glasgow và điểm Marshall lúc nhập
viện với suy thượng thận thứ phát giai đoạn cấp CTSN ........................
52
3.12. Mối liên quan của giới tính, phân loại điểm Glasgow và điểm
Marshall lúc nhập viện với suy thượng thận thứ phát giai đoạn cấp
CTSN ......................................................................................................
53
3.13. Mối liên quan của tuổi, điểm Glasgow và điểm Marshall lúc nhập
viện với suy sinh dục thứ phát giai đoạn cấp CTSN ..............................
53
3.14. Mối liên quan của giới tính, phân loại điểm Glasgow và điểm
Marshall lúc nhập viện với suy sinh dục thứ phát giai đoạn cấp CTSN
54
3.15. Mối liên quan của tuổi, điểm Glasgow và điểm Marshall lúc nhập
viện với giảm GH giai đoạn cấp CTSN ..................................................
54
3.16. Mối liên quan của giới tính, phân loại điểm Glasgow và điểm
Marshall lúc nhập viện với giảm GH giai đoạn cấp CTSN ....................
55
3.17. Nồng độ các hoc mon giai đoạn cấp CTSN trên hai nhóm bệnh nhân ...
57
3.18. Mối liên quan của tuổi, độ nặng chấn thương với tỷ lệ tử vong trong
vòng 06 tháng sau CTSN ........................................................................
58
3.19. Mối liên quan của suy tuyến yên giai đoạn cấp với tỷ lệ tử vong trong
vòng 06 tháng sau CTSN ........................................................................
58
3.20. Đặc điểm về thời gian tái khám và huyết áp của bệnh nhân CTSN giai
đoạn sau 06 tháng ...................................................................................
60
3.21. Đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân CTSN giai đoạn sau 06 tháng .........
61
3.22. Nồng độ các hoc mon và chỉ số sinh hóa máu của bệnh nhân CTSN
giai đoạn sau 06 tháng ............................................................................
62
3.23. Đặc điểm cortisol máu trước và sau nghiệm pháp synacthen của bệnh
nhân CTSN giai đoạn sau 06 tháng ........................................................
63
3.24. Điểm cắt của cortisol nền chẩn đoán suy thượng thận thứ phát ở bệnh
nhân CTSN giai đoạn sau 06 tháng ........................................................
64
3.25. Tỷ lệ suy tuyến yên ở bệnh nhân CTSN giai đoạn sau 06 tháng ............
64
3.26. Các yếu tố liên quan đến suy tuyến yên giai đoạn 06 tháng sau CTSN .
66
3.27. Mối liên quan giữa suy tuyến yên giai đoạn 06 tháng và di chứng
CTSN ......................................................................................................
67
3.28. Tổng hợp tỷ lệ suy tuyến yên giai đoạn cấp và 06 tháng sau CTSN ......
67
4.29. So sánh đặc điểm và tỷ lệ suy tuyến yên giai đoạn cấp CTSN với một
số nghiên cứu ..........................................................................................
71
4.30. So sánh tỷ lệ suy tuyến yên giai đoạn 12 tháng của Tanriverdi .............
86
4.31. Tỷ lệ suy tuyến yên ở các giai đoạn trong nghiên cứu của Agha ...........
87
4.32. So sánh với tỷ lệ suy tuyến yên trong nghiên cứu của Klose .................
88
4.33. Tỷ lệ suy tuyến yên trong nghiên cứu của Aimaretti .............................
91
4.34. Tóm tắt tỷ lệ suy tuyến yên của một số nghiên cứu cắt ngang thực
hiện ở đối tượng chấn thương sọ não .....................................................
95
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu Đồ Nội Dung Trang
2.1. Các bước tiến hành nghiên cứu ........................................ 35
3.2. Tóm tắt kết quả của quá trình nghiên cứu ........................ 42
3.3. Đặc điểm giới tính của bệnh nhân tham gia nghiên cứu 43
3.4. Phân bố nhóm tuổi của bệnh nhân tham gia nghiên cứu 43
3.5. Đặc điểm Glasgow lúc nhập viện của bệnh nhân tham
gia nghiên cứu .................................................................. 46
3.6. Thời gian khảo sát chức năng tuyến yên sau CTSN ........ 46
3.7. Nồng độ cortisol máu qua 3 ngày khảo sát ...................... 49
3.8. Đặc điểm bệnh nhân suy số lượng trục tuyến yên giai
đoạn cấp CTSN ................................................................ 50
3.9. Tỷ lệ tử vong trong vòng 06 tháng sau CTSN ................ 56
3.10. Mối liên quan của suy tuyến yên giai đoạn cấp với tỷ lệ
tử vong .............................................................................. 59
3.11.. Đặc điểm thang điểm tiên lượng Glasgow giai đoạn 06
tháng sau CTSN ............................................................... 61
3.12. Đường cong ROC ............................................................. 63
3.13. Đặc điểm bệnh nhân suy số lượng trục tuyến yên giai
đoạn 06 tháng sau CTSN.................................................. 65
3.14. Số lượng bệnh nhân suy 02 trục tuyến yên giai đoạn 06
tháng sau CTSN ............................................................... 65
3.15. Tỷ lệ hồi phục suy tuyến yên 06 tháng sau CTSN ........... 68
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chấn thương sọ não (CTSN) là một trong những nguyên nhân gây tử
vong và tàn phế nhiều nhất, với nhiều hậu quả nghiêm trọng như: mất ý thức,
thay đổi hành vi, rối loạn tâm thần… Tại Mỹ, có khoảng 180-250 người bị
chấn thương sọ não mỗi năm trên 100.000 dân [23]. Tại Việt Nam, theo thống
kê của Cục Cảnh sát giao thông đường bộ - đường sắt trong năm 2013 cả
nước đã xảy ra 31.266 vụ tai nạn giao thông, làm chết 9.805 người, bị thương
32.253 người (trung bình mỗi ngày có 27 người chết, 88 người bị thương)
trong đó chủ yếu là chấn thương sọ não. Tại bệnh viện Chợ Rẫy, trong 06
tháng đầu năm 2014 có 7.183 bệnh nhân chấn thương sọ não nhập viện, trong
đó có 521 bệnh nhân tử vong, chiếm tỷ lệ 7,3%.
Chấn thương sọ não có thể dẫn đến suy tuyến yên. Phẫu thuật tử thi trên
những bệnh nhân chết do chấn thương sọ não nặng đã phát hiện hoại tử tuyến
yên trên 1/3 các trường hợp [30],[31],[76]. Nhiều nghiên cứu hồi cứu, báo cáo
ca bệnh và các nghiên cứu tiền cứu gần đây đã chứng minh có tình trạng suy
tuyến yên cấp hoặc mạn tính sau chấn thương sọ não [25],[54]. Trên thế giới
đã có nhiều công trình nghiên cứu khảo sát chức năng tuyến yên trên bệnh
nhân chấn thương sọ não. Nghiên cứu của tác giả Fatih Tanriverdi (2006) cho
thấy tỷ lệ thiếu hụt hoc mon ACTH, FSH/LH, TSH trong giai đoạn cấp của
chấn thương sọ não lần lượt là 9,8%, 41,6%, 5,8%; và tỷ lệ này sau 12 tháng
theo dõi là 19,2%, 7,7%, 5,8% [96].
Hoạt động của tuyến yên là cơ chế bảo vệ quan trọng trong giai đoạn cấp
sau chấn thương sọ não, đặc biệt là trục hạ đồi - tuyến yên - thượng thận. Rối
loạn của trục này có thể đe dọa tính mạng người bệnh; suy thượng thận không
được điều trị có thể làm tình trạng huyết động không ổn định và dự hậu xấu.
Nghiên cứu của tác giả Bernard [26] cho thấy việc dùng hydrocortisone trên
bệnh nhân suy thượng thận sau chấn thương sọ não sẽ cải thiện di chứng
2
(đánh giá bằng thang điểm tiên lượng Glasgow) sau 6 tháng. Ngoài ra, thiếu
hụt các hoc mon khác của tuyến yên như hoc mon tăng trưởng, hoc mon
hướng giáp và hoc mon hướng sinh dục có thể xảy ra trong giai đoạn cấp hoặc
giai đoạn di chứng sau chấn thương sọ não. Tỷ lệ mới mắc suy tuyến yên gia
tăng theo thời gian sau chấn thương sọ não, những bệnh nhân có chức năng
tuyến yên bình thường trong giai đoạn cấp có thể trở nên suy tuyến yên sau 03
– 06 tháng. Suy tuyến yên, đặc biệt là suy thượng thận thứ phát, trong giai
đoạn cấp CTSN có thể đe dọa tính mạng người bệnh; trong khi suy tuyến yên
giai đoạn di chứng sau CTSN có thể làm suy giảm quá trình hồi phục và giảm
chất lượng cuộc sống bệnh nhân [48],[54],[88].
Suy tuyến yên sau chấn thương sọ não vẫn chưa được quan tâm trong
khi số lượng bệnh nhân chấn thương sọ não ở Việt Nam rất nhiều. Tại Việt
Nam hiện nay chưa có nghiên cứu nào đánh giá chức năng tuyến yên trên
bệnh nhân chấn thương sọ não trong giai đoạn cấp, cũng như trên bệnh nhân
bị di chứng sau chấn thương sọ não. Vì những lý do trên, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu này nhằm xác định tỷ lệ của suy tuyến yên trong giai đoạn cấp và
giai đoạn 06 tháng sau chấn thương sọ não. Mục đích nghiên cứu nhằm đánh
giá thực trạng và cần chẩn đoán sớm suy tuyến yên sau chấn thương sọ não tại
Việt Nam.
3
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Xác định tỷ lệ suy thượng thận thứ phát, giảm hoc mon tăng trưởng,
suy giáp thứ phát và suy sinh dục thứ phát ở bệnh nhân chấn thương sọ
não giai đoạn cấp.
2. Xác định mối liên quan của thiếu hụt các hoc mon tuyến yên giai đoạn
cấp và tử vong trong vòng 06 tháng sau chấn thương sọ não.
3. Xác định tỷ lệ mới mắc và tỷ lệ hồi phục suy thượng thận thứ phát,
giảm hoc mon tăng trưởng, suy giáp thứ phát và suy sinh dục thứ phát ở
bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn sau 06 tháng.
4. Xác định mối liên quan của độ nặng chấn thương sọ não, di chứng chấn
thương sọ não, tuổi, giới tính với tỷ lệ suy tuyến yên.
4
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN CHẤN THƢƠNG SỌ NÃO
1.1.1. Định nghĩa, dịch tễ học và phân loại chấn thƣơng sọ não
Chấn thương sọ não là tổn thương gây nên bởi ngoại lực tác động đến
sọ não, tạo ra những rối loạn chức năng thần kinh nhất thời hoặc vĩnh viễn về
mặt nhận thức, thể chất và tâm thần. Tỷ suất mới mắc của chấn thương sọ não
tại các quốc gia phát triển khoảng 200/100.000 dân/năm, trong đó tại Mỹ:
180-250/100.000 dân, Châu Âu: 90-546/100.000 dân, Úc: 322/100.000 dân
[23]. Số liệu này không phản ánh đúng thực trạng của chấn thương sọ não vì
không tính đến những trường hợp chấn thương sọ não nhẹ hoặc những nạn
nhân chết ngay sau tai nạn giao thông.
Đối tượng bị chấn thương sọ não thường là những người trẻ 15-24 tuổi
(do tai nạn giao thông) và sau 75 tuổi (do té ngã) [23],[36]. Nam giới bị
CTSN nhiều hơn nữ giới với tỷ lệ từ 1,2/1 - 4,4/1; 50% nguyên nhân chấn
thương sọ não là do tai nạn giao thông; 20-30% do té ngã; 20% chấn thương
sọ não liên quan đến hung khí: súng đạn, dao [32]…
Có nhiều bảng phân loại để đánh giá độ nặng của chấn thương sọ não;
trong đó thang điểm hôn mê Glasgow được dùng rộng rãi nhất. Thang điểm
này đánh giá đáp ứng của bệnh nhân: Mở mắt, lời nói, vận động với nhiều
mức độ khác nhau. Glasgow 13-15 điểm: CTSN mức độ nhẹ; Glasgow 9-12:
CTSN mức độ trung bình và Glasgow < 9 điểm là CTSN mức độ nặng [92].
Độ nặng về mặt lâm sàng của chấn thương sọ não còn dựa vào thời gian mất ý
thức, mất trí nhớ ngay hoặc sau tai nạn, tổn thương trong sọ… Ngoài ra
những thương tổn biểu hiện trên CT scan hoặc MRI sọ não cũng giúp đánh
giá mức độ nặng, trong đó phân loại mức độ nặng CTSN của Marshall được
dùng nhiều nhất [70].
5
Di chứng của bệnh nhân chấn thương sọ não được đánh giá qua thang
điểm tiên lượng Glasgow gồm 5 tiêu chí chính: Chết, sống thực vật, tàn phế
mức độ nặng, tàn phế mức độ vừa, phục hồi tốt [92].
1.1.2. Sinh lý bệnh của CTSN
Tổn thương não do chấn thương có thể chia làm 2 loại chính: tổn
thương tiên phát và tổn thương thứ phát; tổn thương tiên phát gây nên do cơ
chế đụng dập mô não xảy ra ngay sau chấn thương; tổn thương thứ phát xuất
hiện vài giờ hoặc vài ngày sau chấn thương ban đầu tạo nên những tổn thương
lan rộng và những dự hậu thần kinh nặng nề về sau. Tình trạng phù não sau
chấn thương, rối loạn tuần hoàn tại chỗ, giảm oxy mô, tăng áp lực nội sọ là
những yếu tố gây nên tổn thương thứ phát [46],[47]. Phù não có hai loại: phù
tế bào và phù do nguyên nhân mạch máu; có nhiều yếu tố làm cho phù não
nặng hơn: rối loạn thông khí, sốt cao, động kinh [4]… Những chất trung gian
của quá trình viêm (cytokine, các gốc tự do, acid amin và nitric oxide…) cũng
có vai trò trong tạo lập tổn thương thứ phát [46]. Cytokine, đặc biệt là
cytokine 6 kích thích bài tiết vasopressin, có liên quan trong sinh bệnh học
của hội chứng tiết ADH không thích hợp sau CTSN [46],[47].
Tổn thương tiên phát hoặc thứ phát có thể khu trú hoặc lan tỏa; tổn
thương khu trú thường liên quan đến lực tác động trực tiếp; tổn thương lan tỏa
thường gây nên chấn động dội hoặc chấn động xoay, những lực này thường
gây các tổn thương dạng sợi trục, chất trắng và làm lan rộng tổn thương. Tổn
thương kiểu đứt gãy thường thấy ở cấu trúc đường giữa của não và có thể là
cơ chế gây nên rối loạn chức năng tuyến yên ở bệnh nhân chấn thương sọ não
[46]. Ngoài ra tổn thương xương sọ vùng đáy não cũng có thể làm tổn thương
trực tiếp tuyến yên, cuống tuyến yên và hạ đồi [14],[56].
6
1.1.3. Các rối loạn sau CTSN
CTSN do tai nạn giao thông đang là một thảm họa, gây thất thoát nhiều
tiền của con người; các di chứng CTSN là gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Chi phí điều trị cho các di chứng CTSN gấp nhiều lần so với chi phí điều trị
khi bị CTSN, chẩn đoán và điều trị tốt các di chứng nặng giúp bệnh nhân có
chất lượng cuộc sống tốt hơn.
1.1.3.1. Ý thức: Rối loạn ý thức hồi phục tốt ở bệnh nhân trẻ tuổi hơn.
Tiến triển phục hồi ý thức sẽ chậm và xấu khi có các bệnh lý kèm theo: nhiễm
trùng, rối loạn điện giải thiếu O2, tăng CO2, rối loạn nội tiết, động kinh,…
1.1.3.2. Rối loạn thần kinh tự chủ: Biểu hiện qua thay đổi: nhịp tim
– nhịp thở - huyết áp – nhiệt độ. Thường xuất hiện ở thương tổn trục lan tỏa,
thân não, CTSN nặng, thiếu O2 nặng trước khi vào viện, trẻ tuổi …
1.1.3.3. Kích động: Gặp ở 70% bệnh nhân CTSN. Cần điều trị các
bệnh kèm theo: đau, nhiễm trùng, rối loạn điện giải, thiếu oxy, động kinh,...
cần tránh làm bệnh nhân bị kích thích bởi môi trường xung quanh nhất là giai
đoạn chấn thương ban đầu: dây cột, giới hạn các ống đặt vào người bệnh
nhân…
1.1.3.4. Rối loạn giấc ngủ
Gặp ở 30 – 70% bệnh nhân CTSN, nhiều ở nữ, CTSN nhẹ, có trầm
cảm, mỏi mệt, đau nhức…
1.1.3.5. Động kinh sau CTSN
Thường xảy ra khi có thương tổn: nứt sọ, máu tụ trong não, dập não,
nhiều thương tổn trong não.
1.1.3.6. Thuyên tắc tĩnh mạch
Thường xảy ra ở bệnh nhân nằm lâu (săn sóc đặc biệt), thở máy, tuổi
trên 45, phái nam, kèm thương tổn cột sống, xương chậu, xương đùi.
1.1.3.7. Co cứng
7
Thường gặp ở bệnh nhân di chứng CTSN mức độ nặng. Phục hồi chức
năng bằng tập kéo – duỗi cơ với các dụng cụ, khung nắn làm giảm lực co
cứng.
1.1.3.8. Nuốt khó
Nuốt khó gặp ở 25 – 61% bệnh nhân CTSN, gặp ở thương tổn sọ não
nặng, rối loạn nhận thức, thở máy. 90% trường hợp hồi phục trong vòng 06
tháng sau chấn thương.
1.1.3.9. Rối loạn dinh dƣỡng
Bệnh nhân hôn mê, biến dưỡng tăng, dị hóa đạm tăng kéo dài sẽ làm
teo cơ, suy giảm chức năng miễn dịch..
1.1.3.10. Trầm cảm
Gặp khoảng 25 – 60%, dấu hiệu: mệt mỏi, kích động,.. Tổn thương
thường gặp ở thùy trán, nhân xám đáy não.
1.1.3.11. Rối loạn đi tiêu
Liên quan đến rối loạn nhận thức và đặc biệt khi có thương tổn vùng
thùy trán. Điều trị dinh dưỡng hợp lý, làm mềm phân, thụt tháo.
1.1.3.12. Rối loạn đi tiểu
Thường gặp giai đoạn đầu ở bệnh nhân CTSN nặng do bàng quang mất
trương lực, có thể đi kèm với thương tổn vùng khung chậu, cột sống.
1.1.3.13. Nhức đầu
Thường gặp sau CTSN, nhiều ở bệnh nhân có nhức đầu trước đó; nhức
đầu sau CTSN thường xuất hiện hai tuần sau CTSN và giảm dần sau 2 tháng,
tuy nhiên có loại nhức đầu mạn tính kéo dài hơn 8 tháng.
Các biến chứng không chỉ xảy ra tức thì sau chấn thương mà còn tiếp tục
tồn tại nhiều tháng sau hoặc trở nên mạn tính. Ngoài ra người bệnh còn có các
vấn đề về tâm lý ở các mức độ khác nhau.
8
Ngoài ra, ngày nay chấn thương sọ não được xem là nguyên nhân hàng
đầu của suy tuyến yên. Suy tuyến yên sau CTSN không còn hiếm gặp mà rất
phổ biến, với tỷ lệ khá cao [88]. Với số lượng lớn bệnh nhân bị chấn thương
sọ não hằng năm, chấn thương sọ não đã trở thành một vấn đề sức khoẻ cộng
đồng đòi hỏi phải có những chiến lược hữu hiệu để cải thiện tỷ lệ tử vong,
nâng cao chất lượng cuộc sống và và giảm thiểu tàn tật.
1.2. TỔNG QUAN SUY TH Y TRƢỚC TUYẾN YÊN
Suy tuyến yên có thể do tổn thương tại tuyến yên hoặc vùng hạ đồi.
Điều trị cũng như tiên lượng phụ thuộc vào mức độ suy giảm chức năng của
tuyến yên, bệnh lý nền, vị trí tổn thương tại trục hạ đồi-tuyến yên.
1.2.1. Nguyên nhân suy tuyến yên
Từ lâu, nguyên nhân suy tuyến yên được xác định là u tuyến yên
(61%), các nguyên nhân không liên quan đến tổn thương tuyến yên (9%),
nhóm không liên quan đến ung thư (30%) bao gồm cả 11% vô căn. Gần đây
các nguyên nhân khác được xác định như: chấn thương sọ não, xuất huyết
dưới nhện, nhồi máu não, phẫu thuật thần kinh và xạ trị não. Hiện nay chấn
thương sọ não được xếp là nguyên nhân hàng đầu của suy tuyến yên và số
người bị chấn thương sọ não rất nhiều, nhất là ở các nước đang phát triển
[87],[90].
9
Bảng 1.1. Các nguyên nhân của suy tuyến yên. Nguồn: The pituitary, third
edition. Academic Press is an imprint of Elsevier, pp 338 – 368 (2011)[90]
Nguyên nhân suy tuyến yên
Tổn thương não Chấn thương sọ não, xuất huyết dưới nhện, phẫu thuật
thần kinh, xạ trị, nhồi máu não
U tuyến yên Adenoma, u khác
U ngoài tuyến U sọ hầu, u màng não, u thần kinh đệm, u di căn…
yên
Nhiễm trùng Áp xe, viêm tuyến yên, viêm màng não, viêm não
Nhồi máu Đột quỵ tuyến yên, Hội chứng Sheehan
Tự miễn Viêm tuyến yên thâm nhiễm lympho bào
Thâm nhiễm Bệnh Sarcoidosis, bệnh Hemochromatosis, bệnh tổ chức
bào
Hố yên rỗng (empty sella)
Bất sản hay thiểu sản tuyến yên
Bất thường gen
Vô căn
1.2.2. Cơ chế bệnh sinh suy tuyến yên
Cơ chế bệnh sinh của suy tuyến yên phụ thuộc vào nguyên nhân gây
bệnh. Đối với u não, cơ chế đè ép mạch máu tuyến yên và cuống tuyến yên
dẫn đến thiếu máu nuôi một phần hay hoàn toàn tuyến yên. Ngoài ra u tuyến
yên hay hạ đồi có kích thước lớn còn gây tăng áp lực nội sọ dẫn đến thiếu
máu nuôi tuyến yên và cuống tuyến yên [60],[90]:
10
1.2.2.1. Khối u
Các khối u của hệ thần kinh trung ương: u màng não, u thần kinh đệm
dây thần kinh thị, nang Rathke, nang màng nhện, bướu tế bào mầm, u màng
não.... chèn ép gây giảm tiết hoc mon vùng hạ đồi, tuyến yên [2]. Các dị tật ở
vùng hạ đồi-tuyến yên như: thoát vị não, túi phình động mạch cảnh cạnh hố
yên cũng gây suy tuyến yên.
U tuyến yên được xem là u nội sọ thường gặp nhất, chiếm 10,7% các
khối u nguyên phát của thần kinh trung ương. U được chia theo kích thước: u
tuyến yên kích thước lớn (macroadenoma) khi đường kính u ≥ 10mm và u
tuyến yên kích thước nhỏ (microadeoma) khi đường kính u < 10 mm và phân
chia theo chức năng: khối u có tiết các hoc mon hay không. Trong số các u
tuyến yên thì adenoma là loại thường gặp nhất, với tỷ lệ 1 – 35% qua các
nghiên cứu tử thiết và 1 – 40% qua các nghiên cứu khảo sát bằng MRI. Tần
suất của macroadenoma vào khoảng 0,16 - 0,2% [43],[90].
1.2.2.2. Nhồi máu tuyến yên
Đã được biết từ lâu, nhồi máu tuyến yên là một trong các nguyên nhân
gây suy tuyến yên. Cơ chế gây thiếu máu tuyến yên là do co thắt động mạch,
hạ huyết áp gây tổn thương thuỳ trước tuyến yên. Trong thai kỳ, tuyến yên phì
đại để đáp ứng nhu cầu cơ thể nên rất dễ bị tổn thương khi thiếu máu, oxy.
Mức độ tổn thương tại tuyến yên quyết định sự xuất hiện nhanh hay chậm,
cũng như mức độ suy giảm chức năng tuyến yên. Tuyến yên có dự trữ hoc
mon lớn, nên chỉ khi nào hơn 70% hoc mon dự trữ thiếu hụt thì triệu chứng
lâm sàng mới biểu hiện r . Trong hội chứng Sheehan thì triệu chứng khởi đầu
thường là không tiết sữa sau khi sinh, vô kinh thứ phát. Triệu chứng nhiều khi
nhẹ, dễ bị bỏ qua, chẩn đoán thường muộn, kéo dài nhiều năm sau với đầy đủ
các triệu chứng suy sinh dục, suy giáp, suy thượng thận [2].
11
1.2.2.3. Miễn dịch
Viêm tuyến yên thâm nhiễm lympho bào dẫn tới suy tuyến yên xảy ra ở
phụ nữ mang thai hoặc sau khi sinh. Tuyến yên bị thâm nhiễm bởi các tế bào
lympho, tương bào do cơ chế tự miễn dẫn tới sự phá huỷ các tế bào của thùy
trước tuyến yên. Quá trình tự miễn ở đây cũng giống như trong các trường
hợp bệnh tự miễn khác của tuyến giáp, thượng thận... Khoảng 50% bệnh nhân
có các bệnh tự miễn khác kèm theo, tự kháng thể kháng tuyến yên cũng được
phát hiện trong nhiều trường hợp [2].
1.2.2.4. Tổn thƣơng tuyến yên do điều trị
Thường xảy ra sau phẫu thuật hay xạ trị vùng tuyến yên, hạ đồi. Suy
tuyến yên trong các trường hợp này thường tiến triển âm thầm và là hậu quả
của tổn thương cả hạ đồi và tuyến yên. Xạ trị làm phá hủy mô tuyến yên – hạ
đồi, mức độ phá hủy tùy thuộc vào liều và thời gian phơi nhiễm với phóng xạ.
Các tế bào tiết hoc mon tăng trưởng somatotrop là tế bào dễ bị ảnh hưởng
nhất bởi tia xạ, kế đến là tế bào tiết hoc mon hướng sinh dục gonadotrop, tế
bào tiết hoc mon hướng tuyến giáp thyrotrop và sau cùng là tế bào tiết hoc
mon hướng thượng thận corticotrop [95]. Tác giả Littley nghiên cứu các
trường hợp adenoma tuyến yên sau xạ trị [65]. Kết quả cho thấy 100% trường
hợp bị thiếu GH sau xạ trị 5 năm, tỷ lệ tương tự với thiếu hoc mon sinh dục,
ACTH và TSH lần lượt là 57%, 61% và 27,5%.
Đối với các trường hợp u sọ hầu, tỷ lệ thiếu hụt GH, hoc mon sinh dục,
ACTH và TSH 5 năm sau xạ trị lần lượt là 63,5%, 31%, 27% và 15% [64].
1.2.2.5. Vô căn:
Một số ca suy tuyến yên không tìm được nguyên nhân. Suy tuyến yên
có thể là toàn bộ hay đơn độc một loại hoc mon nào đó của thuỳ trước tuyến
yên. Đặc điểm là bệnh có tính chất gia đình, không liên quan kích thước hố
yên. Di truyền theo nhiễm sắc thể thường hay theo giới tính đều có thể gặp[2].
12
1.2.3. Biểu hiện lâm sàng của suy thùy trƣớc tuyến yên
Bao gồm nhóm các triệu chứng của bệnh nền hay nguyên nhân gây suy
tuyến yên như u vùng tuyến yên hạ đồi có thể gây giảm thị lực, đau đầu… và
nhóm các triệu chứng của hoc mon tuyến yên thiếu hụt [60], [90].
1.2.3.1. Suy giáp thứ phát (thiếu hụt TSH)
Các triệu chứng lâm sàng của suy giáp thứ phát cũng tương tự như suy
giáp nguyên phát, bao gồm các triệu chứng giảm chuyển hóa chung toàn cơ
thể, nhưng ít nghiêm trọng hơn, triệu chứng âm tính trong suy giáp thứ phát là
phù niêm. Ngoại trừ do chấn thương sọ não, suy giáp thứ phát thường xuất
hiện giai đoạn trễ sau thiếu hụt các hoc mon khác như GH, sinh dục [90].
1.2.3.2. Suy thƣợng thận thứ phát (thiếu hụt ACTH)
Thiếu hụt ACTH là dạng thiếu hụt nguy hiểm nhất trong số các hoc
mon thùy trước tuyến yên. Các triệu chứng của suy thượng thận như: mệt
mỏi, sụt cân, ngủ gà, đau bụng không đặc hiệu, hạ đường huyết, đau đầu, đổ
mồ hôi. Bệnh nhân có thể tụt huyết áp, hạ huyết áp tư thế. Suy thượng thận do
thiếu hụt ACTH không có triệu chứng xạm da như trong suy thượng thận
nguyên phát. Khi bệnh nhân bị bệnh nặng hay có stress, rất dễ dẫn đến cơn
suy thượng thận cấp với các biểu hiện hạ natri máu, tụt huyết áp và có thể đe
dọa tính mạng người bệnh. Bệnh nhân bị suy thượng thận thứ phát ít vào cơn
suy thượng thận cấp so với suy thượng thận nguyên phát do bệnh nhân vẫn
còn trục angiotensin – adosterone trong giới hạn bình thường [90].
1.2.3.3. Suy sinh dục thứ phát (thiếu hụt hoc mon hƣớng sinh dục)
Thiếu hụt hoc mon sinh dục có biểu hiện tùy thuộc vào giới tính và độ
tuổi bệnh nhân. Giai đoạn tuổi vị thành niên, trẻ dậy thì muộn hay không thể
dậy thì. Kích thước tinh hoàn thay đổi tùy theo mức độ thiếu hụt hoc mon
sinh dục, lông sinh dục có thể có nhưng rất thưa do còn nguồn androgen từ
13
thượng thận (trong trường hợp không thiếu ACTH). Ở nữ triệu chứng r rệt
với chậm phát triển ngực, vô kinh nguyên phát…
Khi thiếu hụt hoc mon sinh dục đơn thuần, chiều cao phát triển bình
thường trong giai đoạn thiếu niên nhưng chậm lại trong giai đoạn dậy thì.
Nam giới trưởng thành bị thiếu hoc mon sinh dục có chiều cao và thể trạng
bình thường, lông sinh dục thưa hay bị rụng dần, tinh hoàn giảm kích thước,
mềm, giảm hoạt động tình dục, vô sinh… Thiếu testosterone còn gây các triệu
chứng không đặc hiệu như mệt mỏi, giảm sức cơ, giảm khả năng gắng sức,
giảm mật độ khoáng xương, loãng xương, tăng nguy cơ gãy xương [90].
Các triệu chứng suy sinh dục ở nam giới đa số không đặc hiệu và
thường tồn tại một thời gian dài trước khi được phát hiện. Ngược lại ở nữ
giới, suy sinh dục thường được phát hiện sớm ngay khi có triệu chứng thiểu
kinh hay vô kinh. Hơn nữa, các triệu chứng của thiếu hụt estrogen ở nữ giới
cũng r ràng hơn nam giới: khô niêm mạc âm đạo, đau khi giao hợp, ngực
kém phát triển… Lông sinh dục vẫn còn trừ khi có kèm theo thiếu hụt ACTH
gây thiếu androgen thượng thận [90].
1.2.3.4. Thiếu hụt GH
Triệu chứng lâm sàng của thiếu hụt GH tùy thuộc vào tuổi; trẻ sơ sinh
bị thiếu hụt GH sẽ bị hạ đường huyết và nguy cơ co giật cao. Ngoài ra trẻ còn
bị vàng da kéo dài, hạ thân nhiệt và tinh hoàn không phát triển ở bé nam [75].
Những bé vượt qua giai đoạn này sẽ đối mặt với nguy cơ chậm phát triển về
thể chất. Nhiều triệu chứng lâm sàng và các thay đổi bệnh lý trên đối tượng
người lớn bị thiếu hụt GH. Bệnh nhân bị giảm chất lượng cuộc sống, mệt m i,
thiếu năng lượng, thiếu ngủ [18],[51].
Khi bị thiếu hụt GH, sự chuyển hóa protein, mỡ và đường bị ảnh hưởng
[16]. Khối lượng cơ và mỡ bị giảm, gây béo phì trung tâm, tăng mỡ tạng
[17],[66]. Bệnh nhân còn bị đề kháng insulin, rối loạn mỡ máu, tăng LDL và
14
triglyceride trong khi HDL không đổi hay giảm nhẹ [15],[21],[27],[34]. Các
thay đổi khác như: nội mạc mạch cảnh dày lên, thay đổi nồng độ CRP và
interleukin [57],[68],[77]. Bệnh nhân bị thiếu hụt GH làm gia tăng nguy cơ tử
vong do tim mạch gấp hai lần [19],[20],[79],[94].
Thiếu GH làm giảm mật độ khoáng xương; thay đổi này tùy thuộc vào
tuổi và r ràng hơn ở người trẻ trưởng thành; sau 60 tuổi thiếu hụt GH không
làm giảm mật độ khoáng xương so với nhóm bình thường cùng độ tuổi, cùng
giới [50],[71]. Ngoài ra thiếu GH còn làm gia tăng gãy xương: nghiên cứu của
tác giả Rosen và cộng sự cho thấy nguy cơ gãy xương tăng gấp ba lần [80].
1.2.4. Xét nghiệm chẩn đoán suy tuyến yên
1.2.4.1. Đánh giá dự trữ hoc mon hƣớng giáp (TSH)
Thiếu hụt TSH được xác định khi fT4 thấp và TSH thấp hoặc bình
thường kèm với các triệu chứng lâm sàng. Để chẩn đoán suy giáp do nguyên
nhân trung ương cần thiết phải đo cả TSH và fT4. Trong khi TSH có giá trị
cao trong chẩn đoán suy giáp nguyên phát, có thể chỉ đo TSH là đủ chẩn đoán
[60].
1.2.4.2. Đánh giá dự trữ hoc mon hƣớng vỏ thƣợng thận (ACTH)
Gồm 2 nhóm xét nghiệm: (1) Định lượng cortisol huyết tương buổi
sáng; (2) những nghiệm pháp động kích thích dùng các yếu tố kích thích tiết
cortisol như: nghiệm pháp ACTH (synacthen) liều cao 250 µg, nghiệm pháp
ACTH liều thấp 1µg, nghiệm pháp hạ đường huyết bằng insulin, nghiệm pháp
metyrapone.
Cần đảm bảo bệnh nhân không dùng glucocorticosteroid ngoại sinh khi
đo cortisol để chắc chắn cortisol đo được là do vỏ thượng thận sản xuất ra.
Nói chung cần ngưng thuốc glucocorticosteroid trước 24 - 48 giờ trước khi đo
cortisol máu.
15
a. Đo tĩnh nồng độ hoc mon
Xét nghiệm tĩnh cortisol có giá trị nhất vào thời điểm 7 – 9 giờ sáng vì
đây là thời điểm cortisol được tiết nhiều nhất trong ngày. Khi cortisol máu >
180 ng/mL (500 nmol/L) được xem là chức năng trục hạ đồi – tuyến yên –
thượng thận bình thường [74],[107]. Khi cortisol máu < 40 ng/mL (110
nmol/L) khả năng rất cao bị suy trục hạ đồi – tuyến yên – thượng thận. Khi
nồng độ cortisol máu giữa hai giá trị này cần phải làm nghiệm pháp kích thích
để đánh giá. Khi cortisol máu thấp, ACTH có nồng độ thấp hoặc bình thường
phù hợp với suy thượng thận thứ phát [60].
b. Nghiệm pháp hạ đƣờng huyết bằng insulin
Chỉ định: Đánh giá bất thường trục hạ đồi - tuyến yên – thượng thận.
Nghiệm pháp hạ đường huyết bằng insulin được xem là tiêu chí vàng để đánh
giá chức năng trục hạ đồi – tuyến yên – thượng thận trong trường hợp nghi
ngờ suy thượng thận, đặc biệt suy thượng thận thứ phát.
Cơ sở lý luận của nghiệm pháp: Khi bị stress hạ đường huyết, cơ thể
sẽ đáp ứng bằng cách tăng tiết nhiều hoc mon trong đó có ACTH và cortisol.
Vùng hạ đồi tiết CRH kích thích tuyến yên tiết nhiều ACTH và dẫn đến tăng
tiết nhiều cortisol từ lớp bó của vỏ thượng thận. Trong trường hợp tuyến yên
hoặc thượng thận bị tổn thương hay bệnh lý sẽ giảm tiết ACTH và cortisol.
Nếu có stress hạ đường huyết mà nồng độ ACTH, cortisol không tăng như
người bình thường được xem là suy thượng thận thứ phát. Nếu ACTH tăng
mà cortisol không tăng được xem là suy thượng thận nguyên phát [10],[12].
Cách thực hiện: Truyền tĩnh mạch insulin 0,1 U/kg, thử ĐH mỗi 0,5 –
1 giờ cho đến khi ĐH < 40 mg/dL, dùng liều insulin cao hơn trong trường hợp
đề kháng insulin hay có bệnh to đầu chi. Ở người mập có hội chứng Cushing,
to đầu chi liều là 0,2 đến 0,3 đơn vị / kg; ở người nghi có suy tuyến yên dùng
liều 0,05 đơn vị / kg [83].
16
Mẫu xét nghiệm: Trong lúc đang thực hiện nghiệm pháp, lấy máu đo
đường huyết mỗi 15 – 30 phút.
Tác dụng phụ và chống chỉ định :
Phải có bác sĩ theo d i sát tình trạng sinh hiệu, tri giác và đường huyết.
Sau 20 đến 30 phút truyền insulin, bệnh nhân thường có triệu chứng đổ mồ
hôi, nhức đầu, tim đập nhanh, cảm thấy yếu cơ... nếu có hạ đường huyết nặng
biểu hiện triệu chứng của hệ thần kinh trung ương phải tiêm mạch 25 - 50mL
glucose 50%. Thông thường nghiệm pháp này sẽ kết thúc bằng một bữa ăn
hoặc uống nước đường. Chống chỉ định trong trường hợp bệnh nhân > 60
tuổi, có nguy cơ động kinh, co giật, tiền căn chấn thương sọ não hay có bệnh
lý tim mạch.
Kết quả:
Khi ĐH < 40 mg/dL lấy máu đo cortisol và ACTH. Khi nồng độ
cortisol máu > 200 ng/mL được xem là đáp ứng bình thường [60],[83].
c. Nghiệm pháp Metyrapone
Nghiệm pháp metyrapone không gây hạ đường huyết như nghiệm
pháp hạ đường huyết bằng insulin nên có thể thực hiện ngoài bệnh viện. Tuy
nhiên do nguy cơ suy thượng thận nên không có chỉ định dùng cho đối tượng
có nồng độ cortisol nền < 70 ng/mL [74],[82],[107]. Nghiệm pháp này ngày
nay ít được sử dụng do độc tính của thuốc [60].
d. Nghiệm pháp synacthen (kích thích bằng ACTH nhanh)
Synacthen là hoc mon hướng vỏ thượng thận được tổng hợp có hoạt
tính của ACTH nội sinh. Nó là một chuỗi polypeptide dài gồm 24 acid amin
đầu tiên của ACTH tự nhiên. Synacthen tiêm bắp hay tĩnh mạch hấp thu
nhanh vào máu và biến mất khỏi tuần hoàn nhanh chóng do sự thủy phân bởi
enzyme. Thời gian bán hủy T1/2 khoảng 15 phút; 1 ống synacthen chứa 250
µg/1 ml.
17
Mục đích: Chẩn đoán suy thượng thận nguyên phát và thứ phát
Nguyên lý: Nghiệm pháp synacthen có giá trị cao trong các trường hợp
suy thượng thận nguyên phát mạn tính, nghiệm pháp cũng có giá trị tương đối
trong trường hợp suy thượng thận thứ phát vì tuyến thượng thận không có
ACTH kích thích lâu ngày dẫn đến bị teo sẽ không tiết hay tiết không đủ
cortisol [60],[90].
Phƣơng pháp: Nghiệm pháp được thực hiện như sau: Lấy máu đo
cortisol vào thời điểm 0, 30 và 60 phút sau tiêm ACTH. Có thể thực hiện
nghiệm pháp bất kỳ thời điểm nào trong ngày và không cần nhịn đói.
Có 2 vấn đề về việc đánh giá kết quả của nghiệm pháp:
- Chọn tiêu chí nào tốt hơn để đánh giá đáp ứng của thượng thận: đỉnh đáp
ứng cortisol sau tiêm synacthen hay là mức độ gia tăng cortisol.
- Chọn ngưỡng nồng độ cortisol nào sau khi tiêm synacthen để xác định
thượng thận đáp ứng đầy đủ.
Tiêu chí nào đánh giá đáp ứng của thƣợng thận
Trước đây cả 2 tiêu chí đánh giá mức độ gia tăng cortisol và nồng độ
cortisol tuyệt đối sau tiêm synacthen đều được xem là quan trọng. Tuy nhiên
tiêu chí mức độ gia tăng cortisol sau tiêm synacthen có độ tin cậy không cao
vì nó không phân biệt được bệnh nhân bình thường và bệnh nhân suy chức
năng vỏ thượng thận; 1/3 người bình thường có mức độ gia tăng cortisol dưới
70 ng/mL sau tiêm synacthen. Bởi vì biên độ tăng cortisol tỷ lệ nghịch với
cortisol nền, do đó vào buổi sáng ACTH và cortisol nội sinh cao nên mức độ
tăng cortisol sau tiêm synacthen sẽ nhỏ hơn. Trong khi đáp ứng cortisol tối đa
sau tiêm ACTH không bị ảnh hưởng bởi thời điểm trong ngày, do đó có thể
dùng để đánh giá chức năng thượng thận tốt hơn so với mức độ gia tăng
cortisol [60].
18
Đáp ứng bình thƣờng: 30 - 60 phút sau khi chích ACTH, cortisol
trong huyết tương đạt đỉnh cao, vượt quá 200 ng/mL (>540 –550 nmol/L).
Đáp ứng tăng cortisol ở phút thứ 30 với ACTH hằng định và không tùy thuộc
ở nồng độ cortisol cơ bản. Đỉnh nồng độ cortisol ở phút thứ 30 không thay đổi
dù chích 250g, 5g hay 1g ACTH.
Đáp ứng bình thường với nghiệm pháp kích thích bằng ACTH cho
phép loại trừ chẩn đoán suy thượng thận nguyên phát và cả suy thượng thận
thứ phát lâu ngày. Tuy nhiên có thể gặp đáp ứng bình thường trong trường
hợp thiếu ACTH một phần (giảm dự trữ tuyến yên) do bệnh nhân còn đủ
ACTH để ngăn ngừa teo thượng thận. Tuy nhiên khi gặp stress hay hạ đường
huyết, bệnh nhân sẽ đáp ứng dưới mức bình thường vì không thể tăng thêm
ACTH. Các bệnh nhân này thường được chỉ định làm thêm nghiệm pháp
Metyrapon hay nghiệm pháp hạ đường huyết [60],[90].
Đáp ứng dƣới mức bình thƣờng: Sau khi chích ACTH nếu cortisol
tăng không đủ (< 200 ng/mL) tức là có suy thượng thận. Trong trường hợp
suy thượng thận nguyên phát, nồng độ ACTH tăng cao, khi chích ACTH vào,
tuyến thượng thận cũng không thể tăng thêm sự tiết cortisol. Trên bệnh nhân
có suy thượng thận thứ phát do thiếu ACTH, vùng bó và vùng lưới bị teo, do
đó thượng thận không đáp ứng với kích thích nhanh bằng ACTH. Trong cả
hai trường hợp suy thượng thận nguyên phát và thứ phát, đáp ứng dưới mức
bình thường với nghiệm pháp kích thích nhanh bằng ACTH cho phép tiên
đoán trục tuyến yên-tuyến thượng thận giảm đáp ứng với stress hay phẫu
thuật [60],[90].
Các loại nghiệm pháp synacthen:
Có hai loại nghiệm pháp: Liều cao 250 µg và liều thấp 1 µg. Có thể tiêm
mạch hay tiêm bắp đều cho tác dụng tương tự [41],[107]. Dùng nghiệm pháp
19
250 µg ACTH sẽ tạo ra nồng độ kích thích quá liều sinh lý gấp 1000 lần do
đó kết quả có thể âm tính giả [69],[107].
Nghiệm pháp synacthen có giá trị cao trong các trường hợp suy thượng
thận nguyên phát mạn tính, nghiệm pháp cũng có giá trị trong trường hợp suy
thượng thận thứ phát kéo dài vì tuyến thượng thận không có ACTH kích thích
lâu ngày dẫn đến bị teo sẽ không tiết hay tiết không đủ cortisol. Bệnh nhân bị
thiếu bán phần ACTH hay thiếu toàn phần do chấn thương hay phẫu thuật
trong thời gian ngắn sẽ cho đáp ứng âm tính giả với nghiệm pháp synacthen.
Nghiệm pháp synacthen 250 µg có thể dùng để chẩn đoán suy thượng thận
thứ phát nếu nguyên nhân suy giảm ACTH tồn tại ít nhất 4 tuần, nếu trước
thời gian này nghiệm pháp sẽ cho kết quả âm tính giả do tuyến thượng thận
hai bên có thể vẫn còn hoạt động. So sánh nghiệm pháp synacthen 250 µg với
tiêu chí vàng (nghiệm pháp hạ đường huyết bằng insulin) trong việc chẩn
đoán suy thượng thận thứ phát. Kết quả cho thấy độ nhạy và độ chuyên của
nghiệm pháp synacthen 250µg đều là 83,5% (KTC 79,6% – 87,4%) [87].
Đo cortisol tại thời điểm 30 phút sau tiêm ACTH, nếu cortisol máu >
180 ng/mL có thể loại trừ suy thượng thận [90]. Một nghiên cứu gộp năm
2008, phân tích 13 nghiên cứu (n= 679 bệnh nhân) được công bố trong
khoảng thời gian từ năm 1996 – 2006 [101]. Mục đích nghiên cứu đánh giá
hiệu quả của nghiệm pháp synacthen liều thấp 1 µg và liều chuẩn 250 µg
trong chẩn đoán suy thượng thận thứ phát. Kết quả cho thấy cả hai nghiệm
pháp có giá trị cao chẩn đoán suy thượng thận thứ phát mạn tính (sau phẫu
thuật hay sau nguyên nhân khác 4 tuần) và nghiệm pháp synacthen liều thấp 1
µg ưu thế hơn liều chuẩn 250 µg với diện tích dưới đường cong lần lượt là
0,94 và 0,85 (p =0,02). Tuy nhiên điểm bất lợi của nghiệm pháp liều thấp là
không có lọ thuốc pha sẵn và bảo quản khó.
20
Chọn thời điểm 30 phút hay 60 phút sau nghiệm pháp synacthen là tối
ƣu:
Một nghiên cứu khảo sát mối tương quan của cortisol nền và cortisol
máu ở thời điểm 20 phút, 30 phút và 60 phút sau nghiệm pháp synacthen. Kết
quả cho thấy cortisol nền có mối tương quan cao nhất với độ tăng cortisol
máu ở thời điểm 30 phút sau nghiệm pháp [84].
Theo William textbook 2008, chẩn đoán suy thượng thận khi cortisol
máu < 200 ng/mL (550 nmol/L) ở thời điểm 30 phút sau tiêm ACTH [60].
Thực ra không có nghiệm pháp nào đánh giá chính xác 100%, trong những
trường hợp không r ràng tốt nhất là đánh giá lâm sàng và theo d i diễn biến
bệnh để có hướng điều trị thích hợp [87].
1.2.4.3. Đánh giá dự trữ hoc mon hƣớng sinh dục (FSH/LH)
a. Nam giới trƣởng thành
Bao gồm đo testosterone, FSH, LH vào buổi sáng. Cả hai FSH và LH
có thời gian bán hủy ngắn, nếu cần có thể đo lặp lại nhiều lần mỗi 30 phút để
tăng độ chính xác. Nghiệm pháp động thường không cần thiết [90].
b. Nữ giới trƣởng thành
Đánh giá chức năng sinh dục ở nữ trưởng thành trước tuổi mãn kinh bao
gồm đánh giá chu kỳ kinh nguyệt và đo nồng độ FSH, LH, estradiol. Sau mãn
kinh buồng trứng không còn đáp ứng với FSH, LH và không còn kinh nguyệt,
phóng noãn… nên nồng độ FSH, LH được xem là yếu tố chính đánh giá chức
năng trục tuyến yên – sinh dục. Nồng độ FSH, LH tăng cao chứng tỏ chức
năng sinh dục của tuyến yên hoạt động bình thường [90]. Ngược lại, nồng độ
thấp hay bình thường cho thấy rối loạn chức năng tuyến yên. Tuy nhiên sự gia
tăng nồng độ FSH, LH sau mãn kinh về mặt sinh lý sẽ giảm dần theo tuổi.
21
1.2.4.4. Đánh giá dự trữ hoc mon tăng trƣởng (GH)
Tác dụng tăng trưởng của GH gián tiếp thông qua chất somatomedin-C
(IGF-1). Hoc mon tăng trưởng kích thích trực tiếp sinh IGF-1 ở gan. GH còn
làm tăng sản xuất IGF-1 trong nhiều loại mô có thụ thể GH như thận, mô
xương, các tuyến sinh dục, các tế bào miễn dịch. GH tác động theo hai cách:
thông qua kích thích sinh IGF-1 tại gan tác động kiểu nội tiết ở các mô, và
thông qua kích thích sinh IGF-1 tại mô theo kiểu tự tiết tại mô sinh ra nó
[1],[3],[90].
Trong hầu hết trường hợp, việc chẩn đoán thiếu hụt GH ở người trưởng
thành cần dựa vào nghiệm pháp động. Tuy nhiên thường không cần trong
trường hợp thiếu hụt nhiều hoc mon tuyến yên và có nồng độ IGF1 thấp. Có
nhiều nghiệm pháp động khác nhau, nghiệm pháp hạ đường huyết bằng
insulin được xem là nghiệm pháp có giá trị nhất chẩn đoán thiếu hụt GH
nhưng ít được dùng ở Mỹ do có nhiều tác dụng phụ và chống chỉ định
[35],[90]. Nghiệm pháp thay thế thường dùng là GHRH kết hợp arginine và
nghiệm pháp glucagon.
1.3. SUY TH Y TRƢỚC TUYẾN YÊN SAU CTSN
1.3.1. Lịch sử phát hiện, quan niệm hiện nay về suy tuyến yên sau
chấn thƣơng sọ não
Suy thùy trước tuyến yên do bệnh lý được Simmonds mô tả lần đầu tiên
vào năm 1914, vì thế có lúc người ta gọi là bệnh Simmonds. Báo cáo đầu tiên
của suy thùy trước tuyến yên do chấn thương sọ não vào năm 1918 của tác giả
Cyran [48].
Năm 1942 y văn ghi nhận có 595 bệnh nhân bị bệnh Simmonds, trong
đó chỉ có 4 trường hợp (0,7%) liên quan đến chấn thương sọ não. Năm 1986,
22
đã có 52 trường hợp suy tuyến yên sau chấn thương được báo cáo trong y văn
[42],[48].
Các nghiên cứu và tổng kết sau đó xác định suy tuyến yên sau chấn
thương sọ não không còn là bệnh hiếm gặp [41],[49],[67],[85].
Đến năm 2000, tổng kết của tác giả Benvenga và cộng sự trong giai
đoạn từ năm 1942 đến năm 1998 cho thấy có 367 bệnh nhân bị suy tuyến yên
do chấn thương sọ não, hầu hết các trường hợp (71%) suy tuyến yên được
chẩn đoán trong năm đầu tiên sau chấn thương sọ não, có những ca phát hiện
sau 20 năm, bệnh nhân thường có các triệu chứng của thiếu hụt 01 hay nhiều
hoc mon thùy trước tuyến yên trước khi được chẩn đoán [22].
Từ các nghiên cứu trước đó cho thấy suy tuyến yên sau chấn thương sọ
não không còn hiếm gặp mà rất phổ biến, với tỷ lệ khá cao. Việc bỏ sót suy
tuyến yên, nhất là suy thượng thận thứ phát trong giai đoạn cấp CTSN, có thể
đe dọa tính mạng người bệnh; bỏ sót trong giai đoạn di chứng sẽ làm cản trở
quá trình phục hồi chức năng và giảm chất lượng cuộc sống người bệnh [88].
Vì vậy mà đến năm 2005, đã có khuyến cáo đầu tiên trên thế giới về việc cần
thiết phải tầm soát suy tuyến yên trên bệnh nhân chấn thương sọ não. Đó là
khuyến cáo của nhóm tác giả Ghigo, một tác giả người Ý cùng một số tác giả
khác từ Mỹ, Tây Ban Nha, Đức; khuyến cáo nên đo hoc mon tuyến yên trong
giai đoạn cấp của chấn thương sọ não vào buổi sáng, bao gồm cortisol, TSH,
fT4, IGF1, FSH, LH, testosterone (nam) và estradiol (nữ), prolactin ở tất cả
bệnh nhân có mức độ nặng và trung bình. Không cần thiết phải thực hiện
nghiệm pháp động vì cho kết quả không chính xác. Trong giai đoạn hồi phục,
tất cả bệnh nhân chấn thương sọ não bất kể độ nặng nhẹ đều phải được đánh
giá chức năng tuyến yên trong khoảng thời gian từ 03 tháng – 12 tháng sau
chấn thương để tránh bỏ sót suy tuyến yên [48].
23
Sau đó có nhiều nghiên cứu được thực hiện trên thế giới và xác định
nhiều bệnh nhân suy tuyến yên sau chấn thương sọ não, cũng như xác định
diễn tiến của suy tuyến yên qua các giai đoạn sau chấn thương sọ não
[6],[7],[8],[9],[11],[24],[28],[53].
Đến năm 2007, tác giả Schneider thực hiện một nghiên cứu gộp bao
gồm 14 nghiên cứu đã được thực hiện và công bố trong khoảng thời gian từ
năm 2000 – 2007, có tất cả 1015 bệnh nhân chấn thương sọ não, thời gian
khảo sát chức năng tuyến yên dao động từ 03 tháng – 20 năm sau CTSN. Tỷ
lệ suy tuyến yên chung là 27,5% (dao động 15% - 68%), kết quả còn cho thấy
chấn thương sọ não càng nặng càng tăng nguy cơ suy tuyến yên, thiếu hụt hoc
mon tuyến yên trong giai đoạn cấp có thể thoáng qua ở một số bệnh nhân, đa
số còn lại trở nên mạn tính, một số khác phát hiện suy tuyến yên trong giai
đoạn muộn sau chấn thương sọ não (sau 03 – 06 tháng). Suy tuyến yên góp
phần làm suy giảm chất lượng cuộc sống và chậm hồi phục các di chứng sau
chấn thương sọ não [88]. Theo tác giả Zaben Malik năm 2013, có đến 33% -
50% bệnh nhân sống sót sau CTSN bị suy tuyến yên một phần hay toàn bộ
[109].
Đến năm 2008, sách giáo khoa William textbook về nội tiết và sau đó
là sách giáo khoa về tuyến yên (The Pituitary 2011) đã đưa nguyên nhân chấn
thương sọ não là một trong những nguyên nhân hàng đầu của suy tuyến yên,
bên cạnh u tuyến yên, sau phẫu thuật u tuyến yên; và khuyến cáo cần tầm soát
suy tuyến yên giai đoạn cấp CTSN và những bệnh nhân còn sống sót sau đó
để tránh bỏ sót chẩn đoán [60],[90].
Tại Việt Nam chưa có nghiên cứu nào đánh giá chức năng tuyến yên
trên các đối tượng chấn thương sọ não trong giai đoạn cấp, cũng như trên các
đối tượng bị di chứng sau chấn thương sọ não. Suy tuyến yên sau chấn thương
24
sọ não vẫn chưa được quan tâm trong khi số lượng bệnh nhân chấn thương sọ
não ở Việt Nam rất nhiều.
1.3.2. Sinh lý bệnh của suy tuyến yên sau chấn thƣơng sọ não
Cấu trúc hình phễu của vùng hạ đồi tuyến yên dễ bị tổn thương do đặc
điểm về giải phẫu và mạch máu. Thùy trước và thùy sau tuyến yên nhận máu
chủ yếu từ động mạch cảnh trong, hệ mạch cửa yên dài nhận máu từ động
mạch trên yên và cung động mạch Willis. Chúng cung cấp 70 – 90% lượng
máu cho tuyến yên. Trong khi hệ mạch cửa yên ngắn xuất phát từ động mạch
yên dưới, cung cấp khoảng 20 – 30% lượng máu tuyến yên. Tổn thương mạch
máu có thể là một nguyên nhân quan trọng của suy tuyến yên sau chấn thương
[90].
Tử thiết 496 bệnh nhân tử vong trong giai đoạn cấp của chấn thương sọ
não cho thấy xuất huyết hay hoại tử chiếm khoảng 21% trường hợp tại thùy
trước tuyến yên, 16% ở vùng cuống yên và 22% ở thùy sau tuyến yên
[30],[31],[76]. Tổn thương mạch máu xung quanh tuyến yên cũng thường gặp
ở khoảng 1/3 bệnh nhân, xuất huyết hay nhồi máu vùng hạ đồi gặp ở 22 trong
số 53 trường hợp (48%) [30]. Thêm vào đó, hình ảnh học sọ não (CTScan hay
MRI) ở 76 bệnh nhân bị suy tuyến yên sau chấn thương sọ não cho thấy có
79% bệnh nhân tổn thương mạch máu (xuất huyết hay nhồi máu) ở vùng hạ
đồi – tuyến yên [22].
Dạng tổn thương mạch máu trùng hợp với hệ thống cung cấp máu
vùng cửa của tuyến yên, đi qua vùng hố yên. Vị trí này rất dễ bị tổn thương
với những đè nén cơ học khi mô não hay tuyến yên bị phù nề. Ngược lại, sự
mất liên tục của vùng hạ đồi – tuyến yên được ghi nhận từ 14% – 74% trong
các ca tử thiết sau chấn thương sọ não cấp [30],[31],[76].
Tổn thương dạng sợi trục, thường liên quan với các cấu trúc đường
giữa cũng có thể gây ra rối loạn chức năng trục hạ đồi – tuyến yên. Những
25
thương tổn này có thể không được phát hiện bằng các phương tiện như CT
Scan và MRI ở giai đoạn đầu, do đó giúp giải thích kết quả hình ảnh thường
âm tính ở một số bệnh nhân bị suy tuyến yên sau chấn thương [44]. Kelly và
cộng sự ghi nhận có phù lan tỏa, lan vào vùng hạ đồi mà không có hình ảnh
nào của tổn thương xuất huyết hạ đồi trên CT scan hay MRI não ở cả 8 bệnh
nhân bị suy tuyến yên sau chấn thương [56].
Một cơ chế khác của suy tuyến yên sau chấn thương là do tổn thương
cơ học trực tiếp đến vùng tuyến yên, cuống tuyến yên hay vùng hạ đồi, chiếm
3,9%. Mặc dù tổn thương xuyên thẳng vào vùng hố yên hiếm gặp, nhưng
nhiều trường hợp suy tuyến yên do vỡ hố yên cũng đã được báo cáo [22].
Tóm lại, hoại tử và thiếu máu tuyến yên sau chấn thương sọ não có thể
do các cơ chế sau:
Tổn thương mạch máu hệ cửa tuyến yên gây hoại tử tuyến yên
[40],[55].
Tổn thương trực tiếp tuyến yên gây hoại tử và xuất huyết tuyến yên,
chứng minh qua các nghiên cứu tử thiết [31],[86]. Năm 2007, tác giả
Salehi đã tử thiết xác định tổn thương tuyến yên ở 42 ca tử vong sau chấn
thương sọ não, bệnh nhân được chia hai nhóm: nhóm 1 gồm 12 bệnh
nhân chết ngay sau chấn thương; nhóm 2 gồm 30 bệnh nhân chết sau
chấn thương 3 – 7 giờ. Kết quả cho thấy không có tổn thương tuyến yên
ở nhóm 1; trong khi có đến 43% mẫu tử thiết ở nhóm 2 có hoại tử tuyến
yên ở nhiều mức độ khác nhau [86].
Các tổn thương não thứ phát từ hạ huyết áp, thiếu oxy, thiếu máu, phù
não... dẫn đến thiếu máu tuyến yên [106].
Ngoài ra, những nghiên cứu gần đây cho thấy có mối liên quan giữa yếu
tố tự miễn và suy tuyến yên sau chấn thương sọ não. Các nghiên cứu cho thấy
26
có kháng thể kháng tuyến yên và kháng hạ đồi ở bệnh nhân bị suy tuyến yên
sau chấn thương sọ não [98],[100].
Năm 2008 tác giả Tanriverdi nghiên cứu mối liên quan giữa kháng thể
kháng tuyến yên và suy tuyến yên ở 29 bệnh nhân sau chấn thương sọ não 3
năm; kết quả cho thấy 45% bệnh nhân suy tuyến yên có kháng thể dương tính,
sự hiện diện của kháng thể kháng tuyến yên làm gia tăng nguy cơ suy tuyến
yên 2,25 lần (p < 0,05). Đây là nghiên cứu đầu tiên khảo sát mối liên quan
này [98].
Đến năm 2010 tác giả Tanriverdi lại nghiên cứu mối liên quan giữa
kháng thể kháng tuyến yên và kháng thể kháng vùng hạ đồi với suy tuyến yên
sau chấn thương sọ não ở vận động viên quyền anh. Kết quả cho thấy 13/61
bệnh nhân (21,3%) có kháng thể kháng vùng hạ đồi, 23% có kháng thể kháng
tuyến yên, không ghi nhận sự hiện diện của hai kháng thể này ở nhóm chứng;
kháng thể kháng hạ đồi làm tăng nguy cơ suy tuyến yên 7,4 lần (p < 0,05)
[100].
1.3.3. Chẩn đoán suy tuyến yên sau CTSN
Rối loạn chức năng tuyến yên sau khi bị chấn thương có thể phân chia
thành hai giai đoạn: (a) sự thay đổi chức năng tuyến yên trong giai đoạn cấp
sau chấn thương sọ não dẫn đến tình trạng tăng hoặc giảm tạm thời nồng độ
các hoc mon trong máu; (b) sự thay đổi tiết các hoc mon tuyến yên có thể xảy
ra bất cứ lúc nào sau chấn thương sọ não, dẫn đến suy tuyến yên vĩnh viễn do
tổn thương tại tuyến yên và / hoặc tại vùng hạ đồi [25].
Tuyến yên đáp ứng với chấn thương sọ não cấp tính thông qua hai kiểu
tiết: tăng bài tiết adrenocorticotropin (ACTH), prolactin (PRL), và hoc mon
tăng trưởng (GH), trong khi nồng độ các hoc mon hướng sinh dục (FSH/LH)
và hoc mon hướng giáp (TSH) giảm hoặc không thay đổi, kết hợp với giảm
hoạt động các cơ quan đích. Sự thay đổi nồng độ các hoc mon trong máu biểu
27
hiện r ràng trong những giờ đầu hay những ngày đầu sau chấn thương và có
thể tồn tại trong suốt thời gian cấp của bệnh. Những thay đổi này thể hiện sự
thích nghi của cơ thể, có thể bị ảnh hưởng bởi từng loại chấn thương và các
loại thuốc dùng để điều trị trong giai đoạn nguy kịch (như
glucocorticosteroid, thuốc giảm đau hoặc dopamine…) [25],[104].
Thiếu hụt GH là dạng thiếu hụt thường gặp nhất vì tế bào tiết GH nằm
hai bên cánh của tuyến yên, nhận máu và oxy từ hệ cửa. Tổn thương vùng này
sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng cung cấp máu và oxy dẫn đến tế bào
bị tổn thương. Ngược lại tế bào tiết ACTH và TSH nằm ở trung tâm của tuyến
yên nên được bảo vệ tốt hơn, ngoài việc nhận máu từ hệ cửa chúng còn nhận
máu từ động mạch tuyến yên [25],[90].
Suy tuyến yên sau chấn thương sọ não có diễn tiến đa dạng, rối loạn
này có thể thoáng qua trong giai đoạn cấp sau đó hồi phục hay trở nên suy
vĩnh viễn, cũng có trường hợp xuất hiện muộn sau đó vài tháng hay vài năm.
Các dấu hiệu và triệu chứng của suy tuyến yên sau chấn thương sọ não có thể
không r ràng, do đó khó phát hiện trong nhiều tháng hay nhiều năm
[28],[72],[88].
1.3.3.1. Suy giáp thứ phát (thiếu hụt TSH):
Bệnh nặng hay chấn thương sọ não cấp gây nên những thay đổi hoc
mon giáp trong vòng vài giờ. Mặc dù TSH thường vẫn còn bình thường, nồng
độ T4 trong máu tuần hoàn có thể giảm hay bình thường, trong khi T3 giảm
nhanh, chủ yếu là do giảm sự chuyển T4 thành T3. Những thay đổi này phù
hợp với hội chứng T3 thấp. Khi bệnh nhân hồi phục, hoc mon giáp trở lại
bình thường rất chậm sau nhiều tuần [33]. Ở những bệnh nhân chấn thương sọ
não, nồng độ TSH thấp hơn có thể hiện diện trong giai đoạn sớm sau chấn
thương, gợi ý sự giảm sản xuất hoc mon giáp do nguyên nhân trung ương.
28
Nồng độ T4 thấp kết hợp với nồng độ TSH không tăng chứng tỏ có tình
trạng suy giáp thứ phát. Cả trong giai đoạn cấp và giai đoạn hồi phục, suy
giáp thứ phát được xác định khi fT4 thấp và TSH bình thường hoặc thấp.
1.3.3.2. Suy thƣợng thận thứ phát (thiếu hụt ACTH)
a. Suy thƣợng thận thứ phát giai đoạn cấp CTSN
Tăng nồng độ cortisol máu thường gặp trong giai đoạn đầu sau chấn
thương, có liên quan với sự gia tăng phóng thích ACTH, cytokines và hoạt
hóa hệ thống noradrenergic. Trong một số trường hợp, những bất thường về
động học bài tiết cortisol có thể còn tồn tại nhiều tháng sau chấn thương sọ
não [38].
Bệnh nhân có thể có các triệu chứng nghi ngờ suy thượng thận như hạ
natri máu, hạ đường huyết, kém đáp ứng với thuốc vận mạch… Tuy nhiên các
triệu chứng này không đặc hiệu trên bệnh nhân CTSN giai đoạn cấp. Do đó
chẩn đoán suy thượng thận thứ phát giai đoạn cấp CTSN là vấn đề thách thức
do khó khăn trong việc lựa chọn một xét nghiệm đáng tin cậy để đánh giá sự
tiết cortisol vì các nghiệm pháp động cho kết quả không chính xác trong giai
đoạn cấp CTSN [48],[54].
Bảng 1.2. Tỷ lệ suy thượng thận thứ phát ở bệnh nhân chấn thương sọ não
giai đoạn cấp của một số nghiên cứu
Phƣơng tiện
Suy thƣợng
Nghiên cứu
Số lƣợng Ngày khảo sát
chẩn đoán
thận
Hackl 1991 [49]
21
< 3 tuần
Cortisol máu
0%
Cernark 1999 [37]
31
7 ngày
Cortisol máu
100%
Agha 2004 [6]
50
12
Cortisol máu
16%
Cohan 2005 [39]
80
1 - 9
Cortisol máu
53%
Tanriverdi 2006 [96]
52
24 giờ
Cortisol máu
9,8%
Klose 2007 [58]
45
24 giờ
ACTH test
4%
29
Trước đây, do chưa có đồng thuận về tiêu chí chẩn đoán suy thượng
thận thứ phát sau chấn thương sọ não nên tỷ lệ của suy thượng thận dao động
khá lớn giữa các nghiên cứu. Tác giả Klose [58] chọn cortisol nền và nghiệm
pháp synacthen, tác giả Tanriverdi [96] chọn mẫu cortisol nền trong vòng 24
giờ sau nhập viện và khi cortisol < 70ng/mL được xem là có suy thượng thận.
Tuy nhiên, ngưỡng chẩn đoán này có thể bỏ sót nhiều trường hợp suy thượng
thận. Do đó hiện nay, hầu hết các hiệp hội nội tiết và cấp cứu đều chấp nhận
tiêu chí cortisol máu lúc 8 giờ 00 sáng < 150 ng/mL kết hợp ACTH thấp hay
bình thường được xem là suy thượng thận thứ phát [39],[54].
b. Suy thƣợng thận thứ phát sau giai đoạn cấp (≥ 03 tháng sau
CTSN):
Bệnh nhân được đánh giá theo tiêu chí chẩn đoán thông thường, chấn
thương sọ não là một nguyên nhân suy tuyến yên như các nguyên nhân khác.
Nghiệm pháp hạ đường huyết bằng insulin bị chống chỉ đinh ở bệnh nhân
chấn thương sọ não sau 06 tháng, nghiệm pháp thay thế thích hợp nhất là
nghiệm pháp synacthen [48],[90].
1.3.3.3. Suy sinh dục thứ phát (thiếu hụt hoc mon hƣớng sinh dục):
Tỷ lệ thiếu hụt hoc mon sinh dục khá cao sau chấn thương sọ não.
Nồng độ testosterone ở nam và estrogen ở nữ giảm đáng kể trong vòng 24 giờ
sau khi bị tổn thương não và vẫn còn thấp trong 7 – 10 ngày. Nồng độ
testosterone có thể về bình thường sau 03 – 06 tháng hay vẫn còn thấp [103].
Sự tiết hoc mon hướng sinh dục ở nam được đánh giá bằng đo nồng độ
testosterone toàn phần huyết thanh vào buổi sáng. Nồng độ testosterone thấp
kết hợp với nồng độ LH thấp hoặc bình thường cho thấy có hiện tượng suy
sinh dục tại trung ương. Ở nữ giới, nồng độ estradiol thấp và nồng độ FSH,
LH không tăng cho thấy có tình trạng suy sinh dục tại trung ương [90]. Nồng
30
độ tĩnh của hoc mon hướng sinh dục và hoc mon sinh dục, kết hợp với bệnh
cảnh lâm sàng phù hợp, đủ để chẩn đoán suy sinh dục trung ương [48].
Cả trong giai đoạn cấp và giai đoạn hồi phục, suy sinh dục thứ phát
được xác định khi testosterone máu < 3 pg/mL (nam) hay estradiol (nữ) < 11
pg/mL và FSH, LH bình thường hoặc thấp [8],[96]. Ở phụ nữ sau mãn kinh
FSH và LH thấp so với tuổi.
1.3.3.4. Thiếu hụt hoc mon tăng trƣởng:
Thiếu hụt GH được xem là dạng thiếu hụt thường gặp nhất sau chấn
thương sọ não, liên quan đến giải phẫu học của tế bào tiết GH (somatotrop) dễ
bị tổn thương khi bị chấn thương sọ não [25].
Trong giai đoạn cấp chấn thương sọ não, các nghiệm pháp động để
đánh giá thiếu hụt GH không chính xác mà chủ yếu dựa vào nồng độ IGF1.
Trong giai đoạn di chứng sau chấn thương sọ não, không cần thiết phải làm
nghiệm pháp động để chẩn đoán thiếu hụt GH trong trường hợp thiếu hụt các
hoc mon tuyến yên khác, nghiệm pháp động chỉ thực hiện 6 – 12 tháng sau
khi đã bù đủ các hoc mon tuyến yên thiếu hụt [48],[90]. Nồng độ IGF1 tĩnh <
84ng/mL được xem là có thiếu hụt GH, với giá trị tiên đoán dương 96%. Khi
có ≥ 03 hoc mon thùy trước tuyến yên bị thiếu hụt thì có đến 95% bệnh nhân
bị thiếu hụt GH với độ nhạy và độ đặc hiệu lần lượt là 69% và 89%. Nếu kết
hợp cả hai (IGF1 < 84ng/mL và ≥ 03 hoc mon thùy trước tuyến yên bị thiếu
hụt) thì giá trị tiên đoán dương bị thiếu hụt GH lên đến 100%. Nếu IGF1 thấp
kết hợp với ≥ 2 hoc mon tuyến yên bị thiếu hụt thì khả năng bệnh nhân thiếu
hụt GH với độ đặc hiệu và giá trị tiên đoán dương 99%. Do đó trong bệnh
cảnh có thiếu hụt nhiều hoc mon khác của tuyến yên thì không cần làm
nghiệm pháp động để chẩn đoán thiếu hụt GH. Nghiệm pháp động để chẩn
đoán thiếu hụt GH ở người trưởng thành được thực hiện trong tất cả các
trường hợp khác ngoại trừ trường hợp trên [48],[90].
31
1.3.4. Hậu quả và điều trị suy tuyến yên sau CTSN
Trong giai đoạn cấp CTSN không được bỏ sót suy tuyến yên, nhất là
suy thượng thận thứ phát vì có thể đe dọa tính mạng người bệnh; khi xác định
bệnh nhân suy thượng thận thứ phát cần bổ sung glucocorticosteroid, nhất là
trong trường hợp bệnh nhân bị tụt huyết áp không đáp ứng với truyền dịch,
vận mạch, hạ natri máu hay hạ đường huyết. Các loại hoc mon khác không
cần thiết bổ sung trong giai đoạn cấp bao gồm: hoc mon sinh dục, GH. Tất cả
những bệnh nhân vượt qua được giai đoạn cấp CTSN, bất kể độ nặng nhẹ, đều
phải được đánh giá chức năng tuyến yên trong khoảng thời gian từ 03 tháng –
06 tháng sau chấn thương sọ não để tránh bỏ sót suy tuyến yên và để điều trị
kịp thời nhằm giảm thiểu di chứng cho bệnh nhân [48],[88].
32
CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu, phân tích
2.2. ĐỐI TƢỢNG VÀ TIÊU CHUẨN CHỌN BỆNH:
Đối tượng nghiên cứu là tất cả bệnh nhân chấn thương sọ não nhập
viện điều trị tại khoa Chấn thương sọ não và khoa Hồi sức ngoại thần kinh,
bệnh viện Chợ Rẫy.
2.2.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh:
a. Bệnh nhân chấn thương sọ não có điểm hôn mê Glasgow lúc nhập
viện từ trung bình (9-12 điểm) đến nặng (3-8 điểm).
b. Có tổn thương não trên phim chụp cắt lớp điện toán sọ (đánh giá
theo phân loại Marshall).
2.2.2. Tiêu chuẩn loại trừ:
Đang điều trị bằng những thuốc: Rifampicin, ketoconazole,
glucocorticosteroid.
Nhiễm trùng huyết đang được điều trị
Tiền sử có bệnh lý tuyến nội tiết, sử dụng glucocorticosteroid dài
hạn > 2 tuần trong vòng 01 năm trước đó
Bệnh nhân hay người nhà không đồng ý tham gia nghiên cứu
2.3. CỠ MẪU:
Cỡ mẫu được tính theo công thức: N= (Z1 – alpha/2 2 x P( 1-P))/ 2
Z: Trị số từ phân phối chuẩn, với khoảng tin cậy 95%, Z1 – alpha/2 = 1,96
: Độ chính xác mong muốn 7%
33
P: Tỷ lệ suy thượng thận thứ phát và suy giáp thứ phát. Theo tác giả
Fatih Tanriverdi năm 2006, tỷ lệ thiếu hụt hoc mon ACTH, TSH trong giai
đoạn cấp của chấn thương sọ não lần lượt là 9,8% và 5,8% [96].
Cỡ mẫu dự kiến: 3,8416 x 0,098 x (1-0,098)/ 0,072 # 69 bệnh nhân
Nghiên cứu đã thu nhận 156 bệnh nhân
2.4. CÁCH CHỌN MẪU VÀ PHƢƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
2.4.1. Cách chọn mẫu:
Chọn mẫu thuận tiện, liên tục trong khoảng thời gian từ 04/2011 –
04/2012 tại Khoa Hồi sức ngoại thần kinh, khoa Chấn thương sọ não và khoa
Khám bệnh – Bệnh viện Chợ Rẫy.
2.4.2. Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu: Qua hai giai đoạn
Chúng tôi tiến hành khảo sát các đối tượng nghiên cứu qua hai giai
đoạn: (1) giai đoạn cấp CTSN (bệnh nhân bị chấn thương sọ não ≤ 3 tuần) và
(2) giai đoạn 06 tháng sau chấn thương sọ não đối với những bệnh nhân còn
sống sót .
2.4.2.1. Phƣơng pháp nghiên cứu trong giai đoạn cấp CTSN
Bệnh nhân có đủ tiêu chuẩn nhận vào và không có tiêu chuẩn loại trừ sẽ
được đưa vào nghiên cứu. Người nhà bệnh nhân sẽ được giải thích mục
đích và cách thức thực hiện nghiên cứu và được sự đồng ý qua bản đồng
thuận nghiên cứu.
Bệnh nhân được ghi nhận các biến số về: Tuổi, giới, địa chỉ, nguyên nhân
chấn thương sọ não, thời gian từ lúc chấn thương đến nhập viện, dấu hiệu
sinh tồn, lượng nước xuất nhập, điểm Glasgow Coma Scale lúc nhập viện,
điểm Marshall lúc nhập viện, phẫu thuật lấy máu tụ, thời điểm khảo sát
chức năng tuyến yên, thời gian nằm viện, tiền sử các bệnh lý đi kèm.
Bệnh nhân được lấy máu đo nồng độ cortisol, ACTH, fT4, TSH,
testosterone (ở nam giới), estradiol (ở phụ nữ), FSH, LH và IGF1. Mẫu
34
máu được lấy từ 8 giờ 00 – 9 giờ 00 sáng cùng lúc với các xét nghiệm
thường qui cơ bản khác. Riêng cortisol, chúng tôi đo nồng độ cortisol máu
từ 8 giờ 00 - 9 giờ 00 sáng liên tiếp trong 3 ngày.
Các mẫu máu đo hoc mon được giữ trong thùng đá và đưa ngay đến
phòng xét nghiệm Bệnh viện Chợ Rẫy trong vòng 05 phút sau khi lấy máu.
Theo dõi:
Chúng tôi theo d i và ghi nhận thời điểm tử vong của bệnh nhân trong
thời gian nằm viện. Những bệnh nhân sống sót xuất viện sẽ được phát phiếu
hẹn tái khám nội tiết vào thời điểm 06 tháng sau. Trong thời gian chờ tái
khám về nội tiết, chúng tôi thường xuyên liên lạc bằng điện thoại mỗi 2
tuần/lần với bệnh nhân và/hoặc người nhà để biết tình trạng bệnh, tư vấn các
vấn đề liên quan đến y khoa và ghi nhận thời điểm bệnh nhân tử vong (nếu
có).
2.4.2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu giai đoạn 06 tháng sau CTSN
Thực hiện đối với những bệnh nhân còn sống sót sau 06 tháng theo d i.
Bệnh nhân đến hẹn 06 tháng sẽ được chúng tôi điện thoại, dặn nhịn ăn và
hướng dẫn đến bệnh viện Chợ Rẫy vào buổi sáng 8 giờ 00 - 9 giờ 00 sáng
từ thứ hai đến thứ sáu hàng tuần.
Bệnh nhân được tiếp nhận và đăng ký khám tại phòng khám Nội tiết -
bệnh viện Chợ Rẫy sau đó sẽ được đưa vào phòng nghiên cứu của khoa
Nội tiết để thăm khám và thực hiện xét nghiệm.
Chúng tôi trực tiếp khám lâm sàng: ghi nhận tuổi, giới, dấu hiệu sinh tồn,
các di chứng: liệt ½ người, khuyết sọ, đánh giá phân loại di chứng chấn
thương sọ não theo thang điểm tiên lượng Glasgow.
Điều dưỡng khoa Nội tiết lấy máu đo nồng độ cortisol, ACTH, fT4, TSH,
testosterone (ở nam giới), estradiol (ở phụ nữ), FSH, LH và IGF1. Sau đó
35
bệnh nhân được tiêm mạch 250µg ACTH tác dụng nhanh và lấy máu đo
nồng độ cortisol máu sau 30 phút (nghiệm pháp synacthen).
Các xét nghiệm cơ bản được lấy cùng lúc với xét nghiệm hoc mon: ion đồ,
đường huyết. Bệnh nhân được theo d i tại phòng nghiên cứu khoa Nội tiết
đến 2 giờ sau khi làm các xét nghiệm.
Các mẫu máu đo hoc mon được giữ trong thùng đá và đưa ngay đến phòng
Bệnh nhân CTSN giai đoạn cấp tại khoa Chấn thương sọ não, khoa Hồi sức ngoại thần kinh
Xét nghiệm chẩn đoán thiếu hụt các hoc mon tuyến yên
xét nghiệm Bệnh viện Chợ Rẫy trong vòng 05 phút sau khi lấy máu.
- Theo dõi, liên lạc bằng điện thoại mỗi 2 tuần/lần - Tư vấn y khoa
BN tạm ổn xuất viện
BN tử vong trong thời gian 06 tháng sau xuất viện
BN tái khám sau 06 tháng
Xét nghiệm chẩn đoán thiếu hụt các hoc mon tuyến yên, làm nghiệm pháp synacthen
Biểu đồ 2.1. Các bước tiến hành nghiên cứu
BN tử vong trong thời gian nằm viện
36
Các bước thực hiện nghiệm pháp synacthen 250µg
Thời điểm Mẫu máu Đo hoc mon
0 phút Cortisol
Lấy 1 ml máu Ngay sau đó TM 1 ống synacthen 250µg
30 phút Lấy 1 ml máu Cortisol
2.5. ĐỊNH NGHĨA CÁC BIẾN SỐ
2.5.1. Đánh giá mức độ nặng của bệnh nhân CTSN bằng thang điểm
Glasgow Coma Scale [92]. Thang điểm được đánh giá như sau:
Vận động Bệnh nhân đáp ứng Điểm
Mở mắt tự phát 4 Đáp ứng mở
Mở mắt khi nghe gọi 3 mắt
Mở mắt khi bị làm đau 2
Không mở mắt 1
Thực hiện theo yêu cầu đơn giản 6
Đáp ứng chính xác kích thích đau 5 Đáp ứng vận
Đáp ứng không chính xác kích thích đau 4 động tốt nhất
Co cứng (kiểu) mất vỏ khi đau 3
Duỗi cứng (kiểu) mất não khi đau 2
Không đáp ứng với đau 1
Trả lời chính xác 5 Đáp ứng bằng
Trả lời, nhưng nhầm lẫn 4 lời nói
3 Phát ngôn vô nghĩa
2 Phát âm khó hiểu
1 Hoàn toàn im lặng
37
Thang điểm Glasgow được chia thành 03 mức độ:
Mức độ nhẹ: 13 – 15 điểm
Mức độ trung bình: 9-12 điểm
Mức độ nặng: 3-8 điểm
2.5.2. Mức độ tổn thƣơng đầu theo phân loại của Marshall [70]
1. Không thấy thương tổn trong sọ
2. Hiện diện bể dịch não tủy quanh thân não, đường giữa bị di lệch từ
0-5 mm, không có tổn thương lớn hơn 25 ml
3. Bể não biến mất hoặc bị chèn ép, đường giữa bị di lệch từ 0-5 mm,
không có tổn thương lớn hơn 25 ml
4. Đường giữa bị di lệch lớn hơn 5 mm, không có tổn thương lớn hơn
25 ml
5. Bất kỳ tổn thương não có thể mổ được
6. Có tổn thương lớn hơn 25 ml, không thể mổ được
2.5.3. Di chứng của bệnh nhân chấn thƣơng sọ não được đánh giá
bằng thang điểm tiên lượng Glasgow [92]
1. Hồi phục tốt: Trở lại cuộc sống bình thường, có thể có ít rối
loạn về thần kinh hoặc tâm lý
2. Tàn phế mức độ vừa: Tàn phế, nhưng sống độc lập trong công
việc hàng ngày
3. Tàn phế mức độ nặng: Sống phụ thuộc vào sự giúp đỡ và
giám sát của người khác
4. Sống trạng thái thần kinh thực vật: không tiếp xúc với môi
trường, không thể nói chuyện
5. Tử vong
38
2.5.4. Định nghĩa bất thƣờng về nội tiết
2.5.4.1. Tiêu chí đánh giá trong đợt cấp:
Suy thượng thận thứ phát: Khi hai mẫu cortisol máu liên tiếp <
150 ng/mL (414 nmol/L) kết hợp với nồng độ ACTH máu thấp
hoặc bình thường [39],[54].
Suy giáp thứ phát: Suy giáp được chẩn đoán với FT4 < 8pg/mL
kết hợp với TSH bình thường hoặc thấp [96].
Suy sinh dục thứ phát: Suy sinh dục ở nam giới khi nồng độ
testosterone máu < 3 ng/mL cùng với FSH và LH bình thường
hoặc thấp [8]. Ở phụ nữ trước mãn kinh: Estradiol < 11 pg/mL
cùng với FSH và LH bình thường hoặc thấp. Ở phụ nữ sau mãn
kinh FSH và LH thấp so với tuổi [96].
Thiếu GH: Khi IGF1 < 84 ng/mL [90],[96]
2.5.4.2. Tiêu chí đánh giá sau 06 tháng
Suy thượng thận thứ phát: Đánh giá bằng nghiệm pháp
synacthen, cortisol máu < 200 ng/mL (550 nmol/L) vào thời
điểm 30 phút sau tiêm ACTH kết hợp với nồng độ ACTH máu
thấp hoặc bình thường [60].
Suy giáp thứ phát: Suy giáp được chẩn đoán với FT4 < 8pg/mL
kết hợp với TSH bình thường hoặc thấp [96].
Suy sinh dục thứ phát: Suy sinh dục ở nam giới khi nồng độ
Testosterone máu < 3 ng/mL cùng với FSH và LH bình thường
hoặc thấp [8]. Ở phụ nữ trước mãn kinh: Estradiol < 11 pg/mL
cùng với FSH và LH bình thường hoặc thấp. Ở phụ nữ sau mãn
kinh FSH và LH thấp so với tuổi [96].
Thiếu GH: Khi IGF1 < 84 ng/mL [90],[96]
39
2.6. XÉT NGHIỆM
Tất cả xét nghiệm đều được thực hiện tại Khoa Sinh Hóa – Bệnh viện
Chợ Rẫy. Các xét nghiệm đều được nội kiểm (mỗi đợt chạy đều kèm theo
control 03 mức nồng độ) và có ngoại kiểm.
- Cortisol máu: Đo bằng máy LIAISON, bằng phương pháp miễn dịch
gắn kết men thể rắn (SPALT principle – Solid Phase Antigen Linked
Technique). Test kit là REF 31326 của hãng Diasorin. Giá trị bình thường của
Cortisol máu lúc 8 giờ sáng là: 50-230 ng/mL; buổi chiều 14 giờ 00 -16 giờ
00 là 30 – 150 ng/mL. Qui đổi đơn vị: 1 ng/mL x 2,759 = 2,759 nmol/L.
- ACTH máu: Đo bằng máy LIAISON, phương pháp miễn dịch hoá phát
quang sandwich (sandwich chemiluminescence immunoassay). Test kit REF
313221 của hãng Diasorin. Giá trị bình thường 7,9 – 66,1 pg/mL. Qui đổi đơn
vị: 1 pg/mL x 0,2202 = 0,2202 pmol/L.
- FSH, LH: Đo bằng máy LIAISON, phương pháp miễn dịch hoá phát
quang sandwich (sandwich chemiluminescent immunoassay). Test kit REF
312251, 312201 của hãng Diasorin. Giá trị bình thường:
Đối tƣợng FSH LH (mIU/mL)
(mIU/mL)
0 – 6 tuổi 1 – 4 1 – 18
6 – 10 tuổi < 1 – 3 < 1 – 5
Giai đoạn nang trứng 3,5 – 9,2 1,9 – 9,2
Giai đoạn rụng trứng 4,7 – 25,9 6,1 – 49,1
Giai đoạn hoàng thể 1,7 – 5,6 1,3- 10,8
Mãn kinh 13,9 – 103,1 15,4 – 53,3
Nam giới 1,3 – 11,8 1 – 8
- Estradiol: Đo bằng máy LIAISON, phương pháp miễn dịch hoá phát
quang cạnh tranh (competitive chemiluminescent immunoassay). Test kit
40
REF 310400 của hãng Diasorin. Qui đổi đơn vị: 1 pg/mL x 3,671 = 3,671
pmol/L.
Đối tƣợng Giá trị (pg/mL)
Trước dậy thì (< 10 tuổi) 3 – 10
Giai đoạn nang trứng 20 – 112
Giai đoạn rụng trứng 36 - 251
Giai đoạn hoàng thể 31 – 136
Mãn kinh < 45
- Testosterone: Đo bằng máy LIAISON, phương pháp miễn dịch hoá
phát quang cạnh tranh (competitive chemiluminescent immunoassay). Test kit
REF 310410 của hãng Diasorin. Giá trị bình thường: nam: 1,9 – 6,17 ng/mL;
nữ: 0,17 – 1,88 ng/mL. Qui đổi đơn vị: 1ng/mL x 0,0347 = 0,0347 pmol/mL.
- TSH: Đo bằng máy LIAISON, phương pháp miễn dịch hoá phát quang
sandwich (sandwich chemiluminescent immunoassay). Test kit REF 311211
của hãng Diasorin. Giá trị bình thường: 0,4 – 7 mIU/mL.
- FT4: Đo bằng máy LIAISON, bằng phương pháp miễn dịch gắn kết
men thể rắn (SPALT principle – Solid Phase Antigen Linked Technique).
Test kit REF 311611 của hãng Diasorin. Giá trị bình thường: 8 – 20 pg/mL.
Qui đổi đơn vị: 1 pg/mL x 12,87 = 12,87 pmol/L.
- IGF1: Đo bằng máy LIAISON, phương pháp miễn dịch hoá phát quang
sandwich (sandwich chemiluminescent immunoassay). Test kit REF 313231
của hãng DiaSorin. Giá trị bình thường người trưởng thành: 35 – 155 ng/mL.
Qui đổi đơn vị: 1 ng/mL x 0,13 = 0,13 nmol/L.
41
2.7. PHÂN TÍCH SỐ LIỆU
Số liệu được phân tích bằng phần mềm SPSS 12.0
Biến số định tính được trình bày dưới dạng tỷ lệ, phần trăm. Biến số
định lượng có phân phối bình thường được trình bày dưới dạng trung
bình ± độ lệch chuẩn. Các biến định lượng không có phân phối bình
thường được trình bày dưới dạng trung vị (khoảng tứ phân vị: Q1- Q3)
Dùng phép kiểm Chi bình phương (có hiệu chỉnh theo Exact’s Fisher)
để so sánh các tỷ lệ. Kiểm định sự khác biệt giữa hai biến định lượng
có phân phối bình thường bằng phép kiểm t test; giữa hai biến định
lượng không có phân phối bình thường bằng phép kiểm Mann Whitney.
Dùng đường cong ROC để đánh giá độ nhạy, đặc hiệu của xét nghiệm
cortisol nền (trong nghiệm pháp synacthen) để chẩn đoán suy thượng
thận thứ phát ở giai đoạn 06 tháng sau chấn thương sọ não.
Khác biệt được xem có ý nghĩa thống kê khi P < 0,05; khoảng tin cậy
95%.
2.8. VẤN ĐỀ Y ĐỨC
Đề tài đã xin phép Hội đồng y đức Bệnh viện Chợ Rẫy trước khi lấy
mẫu.
Bệnh nhân và/hoặc người nhà sẽ được thông báo mục đích và cách
thức thực hiện nghiên cứu và được sự đồng ý qua bản đồng thuận
nghiên cứu.
Tiến hành xét nghiệm khảo sát cùng lúc với những đánh giá cơ bản
khác trong quá trình điều trị nên không gây tổn hại người bệnh.
Số liệu chỉ phục vụ nghiên cứu khoa học, không vì mục đích khác.
42
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chúng tôi nghiên cứu được 156 bệnh nhân CTSN giai đoạn cấp. Theo d i trong 06
tháng, chúng tôi ghi nhận có 53 bệnh nhân tử vong chiếm 34%. Chúng tôi hẹn tái
khám và khảo sát được chức năng tuyến yên của 88 bệnh nhân ở giai đoạn 06 tháng
sau chấn thương sọ não:
156 bệnh nhân CTSN giai đoạn cấp tại khoa Chấn thương sọ não, khoa Hồi sức ngoại thần kinh
Xét nghiệm chẩn đoán thiếu hụt các hoc mon tuyến yên
35 BN tử vong trong thời gian nằm viện
15 bệnh nhân không tái khám: 01 BN xuất ngoại định cư 02 BN chuyển nơi sinh sống ra miền
Bắc
121 BN tạm ổn xuất viện
02 BN làm việc xa 04 BN không đi lại được, khó khăn 06 BN không liên lạc được
18 BN tử vong trong thời gian 06 tháng sau xuất viện
88 BN tái khám sau 06 tháng
Xét nghiệm chẩn đoán thiếu hụt các hoc mon tuyến yên, làm nghiệm pháp synacthen
Biểu đồ 3.2. Tóm tắt kết quả của quá trình nghiên cứu
NỘI DUNG KẾT QUẢ
1. Tỷ lệ suy tuyến yên ở bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp
2. Mối liên quan của thiếu hụt các hoc mon tuyến yên giai đoạn cấp và tử vong
trong vòng 06 tháng sau chấn thương sọ não
3. Tỷ lệ mới mắc và tỷ lệ hồi phục suy tuyến yên ở bệnh nhân chấn thương sọ
não giai đoạn sau 06 tháng và các yếu tố liên quan
43
3.1. ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN CTSN GIAI ĐOẠN CẤP
3.1.1. Đặc điểm chung
3.1.1.1. Tuổi và giới
Trong số 156 trường hợp, có 137 bệnh nhân là nam giới (chiếm tỷ lệ
87,8%); 19 bệnh nhân nữ (chiếm tỷ lệ 12,2%). Tỷ lệ nam / nữ: 7,2. Tuổi trung
bình là 34,1 ± 15,4 năm. Có đến 53 bệnh nhân trong độ tuổi 21 – 30 tuổi,
chiếm tỷ lệ 34%; nhóm bệnh nhân < 40 tuổi chiếm 70%. Nhóm tuổi > 60 tuổi
chỉ có 09 bệnh nhân, chiếm 5,8%.
Biểu đồ 3.3. Đặc điểm giới tính của bệnh nhân tham gia nghiên cứu
Biểu đồ 3.4. Phân bố nhóm tuổi của bệnh nhân tham gia nghiên cứu
44
Bảng 3.3. Các đặc điểm chung khác của BN tham gia nghiên cứu
3.1.1.2. Các đặc điểm chung khác
Số lƣợng (n = 156)
Phần trăm
Đặc điểm
Tỉnh
140
89,7%
Địa chỉ
Thành phố
16
10,3%
6
3,8%
Nghề nghiệp Buôn bán
Nông dân
66
42,3%
Học sinh – sinh viên
31
19,9%
Công nhân viên
16
10,3%
Công nhân
29
18,6%
Hưu trí – Già
8
5,1%
90,4%
Tai nạn giao thông
141
Nguyên
nhân CTSN
Tai nạn lao động
6
3,8%
Tai nạn sinh hoạt
9
5,8%
74
47,4%
Mổ cấp cứu
Gãy tay
1
0,6%
Tổn thƣơng
khác kèm
Gãy chân
4
2,6%
theo
Dập phổi
3
1,9%
Tổn thương lách – gan
5
3,2%
Nhận xét: Có 140 bệnh nhân sống ở các tỉnh, chiếm 90%. Nông dân, học
sinh - sinh viên, công nhân, công chức chiếm lần lượt là 42,3%, 19,9%,
18,6% và 10,3%.
Có 141 bệnh nhân chấn thương sọ não do tai nạn giao thông, chiếm đến
90,4%; tai nạn sinh hoạt (5,8%) và tai nạn lao động (3,8%). Có 74 trường hợp
được mổ cấp cứu, chiếm tỷ lệ 47,4%.
45
3.1.2. Các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng
3.1.2.1. Đặc điểm lâm sàng
Bảng 3.4. Các đặc điểm lâm sàng của BN tham gia nghiên cứu
Đặc điểm Giá trị Nhỏ nhất Lớn nhất
Thời gian nằm viện (ngày)* 15,0 (8,0 – 22,0) 1 69
Thời gian từ lúc chấn thương 10,0 (6,0 – 12,0) 4 72
đến mổ cấp cứu (giờ)*
Thời điểm khảo sát chức năng 4,0 ( 2,3 – 6,0) 1 21
tuyến yên (ngày)* Điểm Glasgow lúc nhập viện 7,2 ± 2,2 3 12
Điểm Marshall 4,1 ± 1,1 1 6
(*)Biến được trình bày dưới dạng trung vị (khoảng tứ vị)
Nhận xét: Thời gian nằm viện trung bình là 15 ngày; thời gian từ lúc
chấn thương cho đến khi mổ cấp cứu (đối với những trường hợp có mổ cấp
cứu) là 10 giờ. Điểm Glasgow lúc nhập viện trung bình là 7,2 ± 2,2; điểm
Marshall 4,1 ± 1,1; thời điểm khảo sát chức năng tuyến yên sau CTSN trung
bình là 4,0 ngày.
3.1.2.2. Độ nặng CTSN và thời điểm khảo sát
Có 114 bệnh nhân có Glasgow lúc vào viện < 9 điểm, chiếm tỷ lệ
73,1%. Tỷ lệ bệnh nhân có điểm Marshall ≥ 3 điểm là 69,2%.
Gần 50% các trường hợp được khảo sát chức năng tuyến yên trong vòng
03 ngày sau chấn thương sọ não. Khảo sát trong vòng 01 tuần đầu chiếm đến
78,2%. Chỉ có 8 trường hợp khảo sát trong giai đoạn tuần thứ ba sau CTSN
(14 – 21 ngày).
46
Biểu đồ 3.5. Đặc điểm Glasgow lúc nhập viện của bệnh nhân tham gia
nghiên cứu
Biểu đồ 3.6. Thời gian khảo sát chức năng tuyến yên sau CTSN
47
3.1.2.3. Các đặc điểm tổn thƣơng não trên chụp cắt lớp điện toán sọ
Bảng 3.5. Các đặc điểm tổn thương não trên chụp cắt lớp điện toán sọ
Tổn thƣơng Số lƣợng Phần trăm
Dập, xuất huyết DMC hay trong 139 89,1% não
45 32,4% Bán cầu P
45 32,4% Bán cầu T
49 35,2 % Hai bên
92 59% Máu tụ NMC
39 42,4% Bán cầu P
50 54,3% Bán cầu T
3 3,3% Hai bên
132 84,6% Xuất huyết dƣới nhện
54 41,5% Lều tiểu não
37 28,5% Liềm đại não
39 30% Lan tỏa
59 37,8% Nứt sọ
21 35,6% Bán cầu P
21 35,6% Bán cầu T
14 23,7% Hai bên
3 5,1% Chẩm
97 62,2% Đƣờng giữa lệch
Nhận xét: Có đến 139 trường hợp dập, xuất huyết dưới màng cứng
(DMC) hay trong não (chiếm tỷ lệ 89,1%); máu tụ ngoài màng cứng (NMC),
xuất huyết dưới nhện, và nứt sọ lần lượt chiếm tỷ lệ : 59%, 84,6% và 37,8%.
48
3.1.2.4. Xét nghiệm cận lâm sàng và nồng độ các hoc mon
Bảng 3.6. Xét nghiệm cận lâm sàng và nồng độ các hoc mon
Đặc điểm Nhỏ nhất Lớn nhất
Giá trị (n=156) (trung bình ± độ lệch chuẩn) 133,9 ± 39,8 70 406
Đường huyết (mg/dL) Na+(mmol/L) 138,1± 5,4 117 167
Hematocrit (%) 36,3 ± 5,5 21,5 49,7
fT4 (pg/mL) 11,06 ± 3,23 5,2 22,4
TSH (mU/mL)* 0,68 (0,26 – 1,32) 0,3 7,1
ACTH (pg/mL)* 31,25(22,01 – 57,56) 6,4 735,0
Cortisol 1 (ng/mL)* 263,0 (193,0 – 369,0) 65 1077
Cortisol 2 (ng/mL)* 211,5 (159,0 – 297,3) 12 840
Cortisol 3 (ng/mL)* 193,0 (161,0 – 253,0) 9 406
FSH (mU/mL)* 2,30 (1,10 – 4,02) 0,2 99,9
LH (mU/mL)* 2,25 (1,10 – 4,87) 0,2 26,2
Testosterone (ng/mL)* 0,79 (0,45 – 1,18) 0,1 4,8
Estradiol (pg/mL)* 32,60 (23,42– 56,08) 8,0 523,0
361,4 IGF1 (ng/mL)* 119,00 (80,50 – 173,40) 29,1
(*)Biến được trình bày dưới dạng trung vị (khoảng tứ vị)
Nhận xét: Đường huyết trung bình của mẫu nghiên cứu 133,9 ± 39,8
mg/dL. Natri máu có giá trị dao động từ 117 – 167 mmol/L. Hematocrit dao
động từ 21,5% - 49,6%.
Nồng độ cortisol máu giảm dần qua 3 thời điểm khảo sát (3 ngày liên
tiếp): Ngày đầu có nồng độ trung bình 263 ng/mL, ngày thứ hai 211 ng/mL,
ngày thứ ba giảm còn 193 ng/mL.
49
Nồng độ trung bình của FSH, LH và testosterone khá thấp với giá trị lần
lượt là 2,3 mU/mL; 2,25 mU/mL và 0,79 ng/mL. Trong khi nồng độ estradiol
ở nữ giới trong giới hạn bình thường, với giá trị trung bình là 32,6 pg/mL.
Nồng độ IGF1 có giá trị trung bình là 119 ng/mL.
Biểu đồ 3.7. Nồng độ cortisol máu qua 3 ngày khảo sát
3.1.3. Tỷ lệ suy tuyến yên giai đoạn cấp CTSN
3.1.3.1. Tỷ lệ suy tuyến yên
Bảng 3.7. Tỷ lệ suy tuyến yên giai đoạn cấp CTSN
Suy tuyến yên Phần trăm N = 156
Suy giáp thứ phát 12,2% 18/147
Suy thượng thận thứ phát 9,9% 15/151
Suy sinh dục thứ phát 84,5% 125/148
Giảm hoc mon tăng trưởng 27,3% 39/143
50
Nhận xét: Tỷ lệ suy tuyến yên giai đoạn cấp CTSN: 12,2% suy giáp thứ
phát; 9,9% suy thượng thận thứ phát; 84,5% suy sinh dục thứ phát; 27,3%
giảm hoc mon tăng trưởng.
Biểu đồ 3.8. Đặc điểm bệnh nhân suy số lượng trục tuyến yên giai đoạn
cấp CTSN
Nhận xét: Có 84 bệnh nhân suy 01 trục tuyến yên, chiếm tỷ lệ 53,8%.
Có 37 bệnh nhân suy 02 trục, chiếm 23,7%; có 13 bệnh nhân suy 03 trục,
chiếm tỷ lệ 8,3%; 134 bệnh nhân suy ≥ 01 trục tuyến yên, chiếm 85,9%.
3.1.3.2. Tỷ lệ suy tuyến yên theo thời điểm khảo sát
Bảng 3.8. Tỷ lệ suy tuyến yên theo thời điểm khảo sát
< 7 ngày 7 – 14 ngày 14 – 21 ngày Suy tuyến yên (n = 122) (n = 26) (n = 8)
Suy giáp thứ phát 15 (12,9%) 2 (8,3%) 1 (14,3%)
Suy thượng thận thứ phát 11 (9,2%) 4 (16%) 0
Suy sinh dục thứ phát 99 (84,6%) 22 (91,7%) 4 (57,1%)
Giảm hoc mon tăng 32 (28,3%) 6 (25%) 1 (16,7%) trưởng
51
Nhận xét: Suy giáp thứ phát và giảm hoc mon tăng trưởng gặp nhiều
nhất ở thời điểm 7 ngày sau chấn thương sọ não. Suy thượng thận thứ phát
gặp nhiều nhất ở thời điểm 7 – 14 ngày sau chấn thương. Suy dinh dục thứ
phát gặp chủ yếu trong vòng 2 tuần lễ đầu sau chấn thương.
3.1.4. Các yếu tố liên quan đến suy tuyến yên giai đoạn cấp CTSN
3.1.4.1. Yếu tố liên quan đến suy giáp thứ phát giai đoạn cấp CTSN
Bảng 3.9. Mối liên quan của tuổi, điểm Glasgow và điểm Marshall lúc nhập
viện với suy giáp thứ phát giai đoạn cấp CTSN
Không suy
Suy giáp
Yếu tố
OR (95% KTC)
p
(n = 129)
(n = 18)
Tuổi (năm)
35,0 ± 16,1
30,2 ± 10,4
0,98 (0,94 – 1,01)
0,096
Điểm Glasgow
7,3 ± 2,3
6,3 ± 1,8
0,81 (0,64 – 1,04)
0,095
Điểm Marshall
4,2 ± 1,1
4,1 ± 1,4
0,97 (0,64 – 1,46)
0,883
Nhận xét: Suy giáp thứ phát giai đoạn cấp CTSN liên quan không có ý
nghĩa thống kê với tuổi, điểm Glasgow và điểm Marshall lúc nhập viện.
Bảng 3.10. Mối liên quan của giới tính, phân loại điểm Glasgow và điểm
Marshall lúc nhập viện với suy giáp thứ phát giai đoạn cấp CTSN
Không suy
Suy giáp
Yếu tố
OR (95% KTC)
p
(n = 129)
(n = 18)
Nữ
18 (100%)
0
-
Nam
111 (86%)
18 (14%)
Glasgow < 9 điểm
90 (84,1%)
17 (15,9%)
7,37 (1,47 – 57,31) 0,028┼
9 – 12 điểm
39 (97,5%)
1 (2,5%)
Marshall < 3 điểm
38 (90,5%)
4 (9,5%)
1,46 (0,45 – 4,73)
0,524
91 (86,7%)
14 (13,3%)
≥ 3 điểm (┼) Khác biệt có ý nghĩa thống kê
52
Nhận xét: Chấn thương sọ não mức độ nặng (Glasgow < 9, Marshall ≥ 3
điểm) làm tăng nguy cơ suy giáp thứ phát lần lượt 7,37; 1,46 lần. Tuy nhiên
chỉ có phân loại Glasgow có ý nghĩa thống kê, p = 0,028.
3.1.4.2. Yếu tố liên quan đến suy thƣợng thận thứ phát giai đoạn
cấp CTSN
Bảng 3.11. Mối liên quan của tuổi, điểm Glasgow và điểm Marshall lúc nhập
viện với suy thượng thận thứ phát giai đoạn cấp CTSN
Không suy
Suy thƣợng
Yếu tố
OR (95% KTC)
p
(n = 136)
thận (n = 15)
Tuổi (năm)
34,8 ± 15,8
31,3 ± 12,2
0,98 (0,95 – 1,02) 0,410
Điểm Glasgow
7,3 ± 2,2
6,0 ± 1,3
0,71 (0,53 – 0,96) 0,026┼
Điểm Marshall
4,1 ± 1,1
4,2 ± 1,5
1,06 (0,67 – 1,69) 0,799
(┼) Khác biệt có ý nghĩa thống kê
Nhận xét: Không có mối liên quan giữa tuổi và suy thượng thận thứ phát
với OR gần bằng 1. Bệnh nhân với Glasgow lúc vào viện cao hơn 01 điểm
làm giảm nguy cơ suy thượng thận thứ phát (OR = 0,71; p = 0,026).
Bệnh nhân với Marshall lúc vào viện cao hơn 01 điểm làm tăng nguy cơ
suy thượng thận thứ phát (OR = 1,06; p = 0,799).
53
Bảng 3.12. Mối liên quan của giới tính, phân loại điểm Glasgow và điểm
Marshall lúc nhập viện với suy thượng thận thứ phát giai đoạn cấp CTSN
Không suy
Suy thƣợng
Yếu tố
OR (95% KTC)
p
(n = 136)
thận (n = 15)
Nữ
19 (100%)
0
-
-
Nam
117 (88,6%)
15 (11,4%)
Glasgow < 9 điểm
95 (86,4%)
15 (13,6%)
-
-
0
9 -12 điểm
41 (100%)
Marshall < 3 điểm
40 (88,9%)
5 (11,1%)
0,83 (0,27 – 2,59) 0,753
≥ 3 điểm
96 (90,6%
10 (9,4%)
Nhận xét: 19 trường hợp suy thượng thận thứ phát đều là nam giới và chỉ
gặp ở bệnh nhân nặng có Glasgow < 9 điểm.
3.1.4.3. Yếu tố liên quan đến suy sinh dục thứ phát giai đoạn cấp
CTSN
Bảng 3.13. Mối liên quan của tuổi, điểm Glasgow và điểm Marshall lúc
nhập viện với suy sinh dục thứ phát giai đoạn cấp CTSN
Không suy
Suy sinh dục
Yếu tố
OR (95% KTC)
p
(n = 23)
(n= 125)
Tuổi (năm)
37,4 ± 20,4
34,0 ± 14,3
1,00 (0,96 – 1,01)
0,337
0,95 (0,78 – 1,15)
Điểm Glasgow
7,4 ± 2,5
7,1 ± 2,2
0,595
0,88 (0,59 – 1,31)
4,3 ± 1,0
4,1 ± 1,2
0,520
Điểm Marshall
Nhận xét: Suy sinh dục thứ phát giai đoạn cấp CTSN liên quan không có
ý nghĩa thống kê với tuổi, điểm Glasgow và điểm Marshall lúc nhập viện.
54
Bảng 3.14. Mối liên quan của giới tính, phân loại điểm Glasgow và điểm
Marshall lúc nhập viện với suy sinh dục thứ phát giai đoạn cấp CTSN
Không suy
Suy sinh dục
Yếu tố
OR (95% KTC)
p
(n = 23)
(n= 125)
17 (100%)
0
-
-
Nữ
6 (4,6%)
125 (95,4%)
Nam
Glasgow < 9 điểm 17 (15,7%)
91 (84,3%)
0,95 (0,34 – 2,59)
0,912
9 -12 điểm
6 (15%)
34 (85%)
Marshall < 3 điểm
6 (13,6%)
38 (86,4%)
0,81 (0,29 – 2,21)
0,679
≥ 3 điểm
17 (16,3%)
87 (83,7%)
Nhận xét: Không có mối liên quan giữa suy sinh dục thứ phát với điểm
Glasgow, điểm Marshall lúc nhập viện, với p > 0,05.
3.1.4.4. Yếu tố liên quan đến giảm GH giai đoạn cấp CTSN
Bảng 3.15. Mối liên quan của tuổi, điểm Glasgow và điểm Marshall lúc
nhập viện với giảm GH giai đoạn cấp CTSN
Giảm GH
Yếu tố
OR (95% KTC)
P
Không(n = 104) Có (n= 39)
Tuổi (năm) 32,4 ± 14,5 39,1 ± 17,3 1,03 (1,03 – 1,05) 0,022┼
Điểm Glasgow 7,2 ± 2,2 7,2 ± 2,3 1,00 (0,86 – 1,19) 0,927
(┼) Khác biệt có ý nghĩa thống kê
Điểm Marshall 4,1 ± 1,2 4,3 ± 0,9 1,24 (0,88 – 1,75) 0,208
Nhận xét: Bệnh nhân bị giảm hoc mon tăng trưởng có tuổi trung bình
39,1 tuổi, cao hơn nhóm không giảm hoc mon tăng trưởng (tuổi trung bình
32,4). Bệnh nhân lớn hơn 01 tuổi có nguy cơ giảm hoc mon tăng trưởng cao
hơn 3% (OR = 1,03), mối liên hệ có ý nghĩa thống kê với p = 0,022.
55
Không có mối liên quan giữa điểm Glasgow, điểm Marshall lúc vào viện
với giảm hoc mon tăng trưởng.
Bảng 3.16. Mối liên quan của giới tính, phân loại điểm Glasgow và điểm
Marshall lúc nhập viện với giảm GH giai đoạn cấp CTSN
Giảm GH
Yếu tố
OR (95% KTC)
P
Không(n = 104) Có (n= 39)
13 (72,2%) 5 (27,8%) Nữ 0,98 (0,32 – 2,93) 0,959 91 (72,8%) 34 (27,2%) Nam
Glasgow < 9 điểm 78 (75%) 26 (25%) 0,67 (0,30 – 1,48) 0,319
9 – 12 điểm 26 (66,7%) 13 (33,3%)
Marshall < 3 điểm 31 (75,6%) 10 (24,4%) 1,23 (0,54 – 2,83) 0,624
≥ 3 điểm 73 (71,6%) 29 (28,4%)
Nhận xét: Không có mối liên quan giữa giới tính, phân loại điểm
Glasgow, điểm Marshall lúc vào viện với giảm hoc mon tăng trưởng.
Tóm lại, qua phân tích các đặc điểm và tỷ lệ suy tuyến yên ở bệnh nhân
CTSN giai đoạn cấp, kết quả cho thấy:
1. Có 156 bệnh nhân chấn thương sọ não được khảo sát, nam giới chiếm tỷ
lệ 87,8%. Tuổi trung bình của dân số nghiên cứu là 34,1 ± 15,4 năm.
2. Tỷ lệ suy tuyến yên trong giai đoạn cấp CTSN: 12,2% suy giáp thứ phát;
9,9% suy thượng thận thứ phát; 84,5% suy sinh dục thứ phát; 27,3% giảm
hoc mon tăng trưởng.
3. Chấn thương sọ não mức độ nặng (Glasgow < 9 điểm) có liên quan đến
suy giáp thứ phát và suy thượng thận thứ phát. Không có yếu tố nào liên
quan có ý nghĩa thống kê đến suy sinh dục thứ phát giai đoạn cấp CTSN.
56
3.2. TỶ LỆ TỬ VONG TRONG VÒNG 06 THÁNG SAU CTSN VÀ
MỐI LIÊN QUAN VỚI SUY TUYẾN YÊN GIAI ĐOẠN CẤP
3.2.1. Tỷ lệ tử vong
Trong số 156, có 53 bệnh nhân tử vong trong vòng 06 tháng sau chấn
thương sọ não, chiếm tỷ lệ 34%. Trong đó, có 35 bệnh nhân tử vong trong
thời gian nằm viện, chiếm 22,4%. Sau xuất viện có 18 bệnh nhân tử vong,
chiếm tỷ lệ 14,8%.
Biểu đồ 3.9. Tỷ lệ tử vong trong vòng 06 tháng sau CTSN
3.2.2. Đặc điểm về giới tính và tuổi
Tuổi trung bình 38,8 ± 17,8 (tuổi nhỏ nhất 17, lớn nhất 85). Trong số 53
bệnh nhân tử vong có 44 bệnh nhân nam, chiếm 83%; 09 bệnh nhân nữ,
chiếm 17%.
3.2.3. Các yếu tố liên quan đến tỷ lệ tử vong
3.2.3.1. Nồng độ các hoc mon trên hai nhóm bệnh nhân
57
Bảng 3.17. Nồng độ các hoc mon giai đoạn cấp CTSN trên hai nhóm bệnh
nhân
Đặc điểm Sống (n = 103) Tử vong (n = 53) P
ACTH (U/mL)* 28,53 (20,71 – 49,96) 41,19 (22,44 – 85,27) 0,063
Cortisol 1 (ng/mL)* 236,0 (187,0 – 350,0) 291,5 (211,5 – 455,7) 0,047┼
Cortisol 2 (ng/mL)* 206,0 (154,7 – 282,7) 223,0 (165,7 – 338,5) 0,223
Cortisol 3 (ng/mL)* 193,0 (156,0 – 258,0) 193,0 (164,0 – 233,0) 0,980
0,030┼ TSH (mU/mL)* 0,79 (0,30 – 1,46) 0,51 (0,17 – 1,17)
0,730 fT4 (pg/mL) 11,14 ± 3,11 10,93 ± 3,46
0,881 LH (mU/mL)* 2,20 (1,20 – 4,90) 2,30 (0,70 – 4,50)
0,429 FSH (mU/mL)* 2,40 (1,40 – 4,03) 2,00 (0,80-4,52)
Testosterone 0,82 (0,44- 1,18) 0,68 (0,45 – 1,16) 0,526 (ng/mL)*
Estradiol (pg/mL)* 25,9 (20,0 – 32,1) 52,1 (40,5 – 62,6)
(*)Biến được trình bày dưới dạng trung vị (khoảng tứ vị; p: Mann - Withney test); (┼) Khác biệt có ý nghĩa thống kê
0,001┼ 0,030┼ IGF1 (ng/mL) 138,2 ± 59,7 114,1 ± 57,6
Nhận xét: Nồng độ của các hoc mon như ACTH, cortisol máu qua 3 thời
điểm, LH, estradiol ở nhóm tử vong đều cao hơn nhóm sống. Tuy nhiên chỉ
có nồng độ cortisol ở ngày đầu khảo sát và estradiol là có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa hai nhóm. Ngược lại, nồng độ TSH, fT4, FSH,
testosterone và IGF1 ở nhóm sống cao hơn nhóm tử vong, tuy nhiên chỉ có sự
khác biệt của TSH và IGF1 là có ý nghĩa thống kê.
3.2.3.2. Mối liên quan của tuổi, độ nặng CTSN và suy tuyến yên giai
đoạn cấp CTSN với tử vong
58
Bảng 3.18. Mối liên quan của tuổi, độ nặng chấn thương với tỷ lệ tử vong
trong vòng 06 tháng sau CTSN
Sống Tử vong OR Đặc điểm P (n = 103) (n = 53) (95% KTC)
Tuổi (năm) 31,8 ± 13,5 38,8 ± 17,8 1,03 (1,01 -1,05) 0,009┼
Điểm Glasgow 7,4 ± 2,1 6,7± 2,3 0,86 (0,73 – 1,01) 0,052
Điểm Marshall 3,9 ± 1,2 4,6 ± 0,9 1,78 (1,26 – 2,52) 0,001┼
(┼) Khác biệt có ý nghĩa thống kê
Nhận xét: Bệnh nhân lớn hơn 01 tuổi có nguy tử vong trong vòng 06
tháng sau CTSN tăng 3% (OR = 1,03; p = 0,009). Bệnh nhân có Glasgow lúc
vào viện cao hơn 01 điểm làm giảm nguy tử vong trong vòng 06 tháng sau
CTSN (OR = 0,86; p = 0,052).
Bệnh nhân có điểm Marshall lúc vào viện cao hơn 01 điểm có nguy tử
vong trong vòng 06 tháng sau CTSN tăng 78% ( p = 0,001).
Bảng 3.19. Mối liên quan của suy tuyến yên giai đoạn cấp với tỷ lệ tử vong
trong vòng 06 tháng sau CTSN
Suy tuyến yên giai đoạn cấp CTSN
Sống
Tử vong
OR (95% KTC)
P
Không
91 (66,9%)
45 (33,1%)
1,01 (0,32 – 3,13) 0,985
Suy thượng thận thứ phát
Có
10 (66,7%)
5 (33,3%)
Không
87 (67,4%)
42 (32,6%)
Suy giáp thứ phát
3,25 (1,17 – 8,99) 0,023┼
Có
7 (38,9%)
11 (61,1%)
Không
11 (47,8%)
12 (52,2%)
0,43 (0,17 – 1,06) 0,067
Suy sinh dục thứ phát
Có
85 (68%)
40 (32%)
Không
75 (72,1%)
29 (27,95)
2,72 (1,27 – 5,82) 0,010┼
19 (48,7%)
20 (51,3%)
Giảm hoc mon tăng Có trưởng (┼) Khác biệt có ý nghĩa thống kê
59
Nhận xét: Tỷ lệ tử vong trong vòng 06 tháng sau CTSN không có mối
liên quan với suy thượng thận thứ phát và suy sinh dục thứ phát giai đoạn cấp,
chỉ liên quan đến suy giáp thứ phát và giảm hoc mon tăng trưởng trong giai
giai đoạn cấp CTSN. Bệnh nhân bị suy giáp thứ phát và giảm hoc mon tăng
trưởng giai đoạn cấp có nguy cơ tử vong trong vòng 06 tháng tăng lần lượt là
Biểu đồ 3.10. Mối liên quan của suy tuyến yên giai đoạn cấp với tỷ lệ tử vong
3,25 lần và 2,72 lần.
Tóm lại, qua phân tích tỷ lệ tử vong trong vòng 06 tháng sau CTSN và
mối liên quan với suy tuyến yên giai đoạn cấp, kết quả cho thấy:
1. Có 53 bệnh nhân tử vong trong vòng 06 tháng sau chấn thương sọ não,
chiếm tỷ lệ 34%. Tuổi trung bình 38,8 ± 13,8. Trong số 53 bệnh nhân tử vong
có 44 bệnh nhân nam, chiếm 83%.
2. Tỷ lệ tử vong trong vòng 06 tháng sau CTSN không liên quan đến suy
thượng thận thứ phát và suy sinh dục thứ phát, chỉ liên quan đến suy giáp thứ
phát và giảm hoc mon tăng trưởng giai đoạn cấp CTSN.
60
3.3. TỶ LỆ SUY TUYẾN YÊN GIAI ĐOẠN 06 THÁNG SAU
CHẤN THƢƠNG SỌ NÃO VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
3.3.1. Đặc điểm chung
3.3.1.1. Đặc điểm về tuổi và giới
Theo d i 156 bệnh nhân sau 06 tháng, chúng tôi hẹn tái khám và khảo
sát được chức năng tuyến yên của 88 bệnh nhân; 79 bệnh nhân nam, chiếm
89,8%. Tuổi trung bình nhóm bệnh nhân là 31,1 ± 13,7.
3.3.1.2. Đặc điểm về thời gian tái khám và huyết áp
Bảng 3.20. Đặc điểm về thời gian tái khám và huyết áp của bệnh nhân CTSN
giai đoạn sau 06 tháng
Trung bình ± độ Đặc điểm Nhỏ nhất Lớn nhất lệch chuẩn (n = 88)
Thời gian tái khám (tháng)* 5,8 ± 1,1 3,6 9,0
HA tâm thu (mmHg) 117,6 ± 11,4 90 140
HA tâm trương (mmHg) 75,2 ± 7,8 60 90
Mạch (lần/phút) 79,3 ± 4,8 67 90
(*)Thời gian tái khám sau chấn thương sọ não (tháng)
Nhận xét: Thời gian tái khám sau chấn thương sọ não trung bình 5,8 ±
1,1 tháng.
61
3.3.2. Đặc điểm lâm sàng
Bảng 3.21. Đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân CTSN giai đoạn sau 06 tháng
Số lƣợng (n=88) Phần trăm Đặc điểm
Liệt ½ người 38 43,2%
Khuyết sọ 16 18,2%
Di chứng chấn thương sọ não (thang điểm tiên lượng Glasgow)
Sống thực vật 5 5,7%
Tàn phế mức độ nặng 25 28,4%
Tàn phế mức độ vừa 24 27,3%
Hồi phục tốt 34 38,6%
Nhận xét: Có 43,2% bệnh nhân bị di chứng liệt ½ người; 18,2% bệnh
nhân khuyết sọ. Có 5 bệnh nhân sống thực vật, chiếm 5,7%; 25 bệnh nhân tàn
phế mức độ nặng, chiếm 28,4%. Tỷ lệ tàn phế mức độ vừa và hồi phục tốt lần
Biểu đồ 3.11. Đặc điểm thang điểm tiên lượng Glasgow giai đoạn 06
lượt là 27,3% và 38,6%.
tháng sau CTSN
62
3.3.3. Đặc điểm cận lâm sàng
3.3.3.1. Nồng độ các hoc mon và chỉ số sinh hóa máu
Bảng 3.22. Nồng độ các hoc mon và chỉ số sinh hóa máu của bệnh nhân
CTSN giai đoạn sau 06 tháng
Đặc điểm Giá trị (n = 88) Nhỏ nhất Lớn nhất
Đường huyết (mg/dL) 90,2 ± 13,5 73 158
Na máu (mmol/L) 140,3 ± 2,3 135 145
K máu (mmol/L) 4,0 ± 0,7 2,6 6,3
TSH (mU/mL)* 1,91 (1,22 – 3,09) 0,29 9,90
fT4 (pg/mL) 11,10 ± 2,68 6,2 19,4
9,66 ACTH (pg/mL)* 44,26 (32,91 – 64,97) 222,20
FSH (mU/mL) 6,0 (4,0 – 9,5) 1,6 99,7
LH (mU/mL)* 3,90 (2,70 – 6,80) 1,0 30,7
Testosterone (ng/mL) 3,97 ± 1,45 0,10 7,90
Estradiol (pg/mL)* 62,00 (39,75 – 213,50) 28,20 475,00
IGF1 (ng/mL) 252,1 ± 106,3 92,5 761,8
(*)Biến được trình bày dưới dạng trung vị (khoảng tứ vị)
Nhận xét: Nồng độ trung bình các xét nghiệm có giá trị trong giới hạn
bình thường. Đường huyết: 90,2 ± 13,5 mg/dL, natri máu 140,3 ± 2,3
mmol/L, TSH 1,91 (1,22 – 3,09) mU/mL, fT4 11,10 ± 2,68 pg/mL, ACTH
44,26 (32,91 – 64,97) pg/mL, LH 3,90 (2,70 – 6,80) mU/mL, testosterone
3,97 ± 1,45 ng/mL, estradiol 62,00 (39,75 – 213,50) pg/mL, IGF1 252,1 ±
106,3 ng/mL. Riêng nồng độ của TSH, ACTH, LH và estradiol có giá trị dao
động khá nhiều.
63
3.3.3.2. Nghiệm pháp synacthen 250µg
Bảng 3.23. Đặc điểm cortisol máu trước và sau nghiệm pháp synacthen của
bệnh nhân CTSN giai đoạn sau 06 tháng
Trung bình ± độ lệch Cortisol máu (ng/mL) p chuẩn
Cortisol máu trước tiêm ACTH 130,49 ± 61,20
0,000┼
(┼) Khác biệt có ý nghĩa thống kê
Cortisol sau tiêm ACTH 30 phút 273,20 ± 68,33
Nhận xét: Nồng độ cortisol máu trước tiêm ACTH là 130,49 ng/mL.
Nồng độ cortisol 30 phút sau tiêm ACTH là 273,2 ng/mL. Nồng độ cortisol
máu sau tiêm ACTH cao hơn 2 lần, mối liên quan có ý nghĩa thống kê với p =
0,000. Có 79 bệnh nhân được thực nghiệm pháp synacthen; 07 bệnh nhân có
nồng độ cortisol máu tại thời điểm 30 phút < 200 ng/mL kết hợp với ACTH
máu thấp hoặc bình thường.
Biểu đồ 3.12. Đường cong ROC
64
Đường cong ROC thể hiện giá trị chẩn đoán suy thượng thận thứ phát
của cortisol nền so với tiêu chí chính là nghiệm pháp synacthen.
Bảng 3.24. Điểm cắt của cortisol nền chẩn đoán suy thượng thận thứ phát ở
bệnh nhân CTSN giai đoạn sau 06 tháng
Ngƣỡng cortisol Độ nhạy Độ đặc hiệu
≤ 93,5 ng/mL 77,2% 71,4%
Nhận xét: Điểm cắt của cortisol nền trong chẩn đoán suy thượng thận thứ
phát là 93,5 ng/mL với độ nhạy và đặc hiệu lần lượt là 77,2% và 71,4%. Giá
trị 93,5 ng/mL là điểm cắt có độ nhạy và độ đặc hiệu tối ưu nhất so với các
điểm cắt khác. Diện tích dưới đường cong ROC là 0,755.
3.3.4. Tỷ lệ suy tuyến yên giai đoạn 06 tháng sau CTSN
Bảng 3.25. Tỷ lệ suy tuyến yên ở bệnh nhân CTSN giai đoạn sau 06 tháng
Suy tuyến yên Số lƣợng (n=88) Phần trăm
Suy giáp thứ phát 11/88 12,5%
Suy thượng thận thứ phát 7/86 8,1%
Suy sinh dục thứ phát 20/83 24,1%
Giảm hoc mon tăng trưởng 0/87 0 %
Nhận xét: Có 11 bệnh nhân suy giáp thứ phát, chiếm 12,5%. Có 7 bệnh
nhân suy thượng thận thứ phát, chiếm 8,1%. Có 20 bệnh nhân suy sinh dục
thứ phát, chiếm 24,1%. Không có bệnh nhân nào giảm hoc mon tăng trưởng.
65
Biểu đồ 3.13. Đặc điểm bệnh nhân suy số lượng trục tuyến yên giai đoạn 06
tháng sau CTSN
Nhận xét: Có 24 bệnh nhân suy 01 trục tuyến yên, chiếm tỷ lệ 27,3%.
Có 07 bệnh nhân suy 02 trục, chiếm 8%; 31 bệnh nhân suy ≥ 01 trục, chiếm
35,2%.
Biểu đồ 3.14. Số lượng bệnh nhân suy 02 trục tuyến yên giai đoạn 06 tháng
sau CTSN
66
3.3.5. Các yếu tố liên quan đến suy tuyến yên giai đoạn 06 tháng sau
CTSN
Bảng 3.26.Các yếu tố liên quan đến suy tuyến yên giai đoạn 06 tháng sau CTSN Suy tuyến yên giai đoạn
Giới
Glasgow giai đoạn cấp
06 tháng sau CTSN
Tuổi (năm)
Nam
Nữ
< 9 điểm
9 – 12
điểm
Có (n = 11)
39,6 ± 16,3
10(12,7%) 1(11,1%)
9 (14,1%)
2 (8,3%)
Suy
giáp
Không (n = 77)
29,8 ± 12,9
69(87,3%) 8(88,9%)
55(85,9%) 22(91,7%)
thứ
P
0,056
0,894
0,720
phát
Có (n = 7)
38,8 ± 15,4
7 (9,0%)
0
5 (7,9%)
2 (8,7%)
Suy
thƣợng
Không (n = 79)
30,4 ± 13,3
71(91,0%) 8 (100%)
58(92,1%) 21(91,3%)
thận
p
0,117
0,909
-
thứ
phát
Có (n = 20)
34,7 ± 16,3
20 (27%)
0
14 (23%)
6 (27,3%)
Suy
sinh
Không (n = 63)
29,6 ± 12,5
54 (73%)
9 (100%)
47 (77%)
16(72,7%)
dục
p
0,151
0,685
-
thứ
phát
Có (n = 31)
35,6 ± 16,0
30(38,0%)
1(11,1%)
22(34,4%) 9 (37,5%)
Suy ≥
Không (n = 57)
28,5 ± 11,7
49(62,0%) 8(88,9%)
42(65,6%) 15(62,5%)
01 trục
tuyến
0,066
0,151
0,785
p
yên*
(*)Tỷ lệ bệnh nhân suy ≥ 01 trục tuyến yên giai đoạn 06 tháng là 35,2%
Nhận xét: Suy tuyến yên giai đoạn 06 tháng sau chấn thương sọ não liên
quan không có ý nghĩa thống kê với tuổi, giới tính và điểm Glasgow giai đoạn
cấp CTSN. 07 trường hợp suy thượng thận thứ phát và 20 trường hợp suy sinh
dục thứ phát đều là nam giới.
67
Bảng 3.27. Mối liên quan giữa suy tuyến yên giai đoạn 06 tháng và di chứng
CTSN
Suy tuyến yên
Hồi phục tốt (n = 34)
Tàn phế mức độ vừa (n = 24)
Tàn phế mức độ nặng (n = 25)
Sống thực vật (n = 5)
0
0
9 (36%)
2 (40%)
Suy giáp thứ phát
0
1 (4,2%)
6 (25%)
0
Suy thượng thận thứ phát
Suy sinh dục thứ phát
2 (6,2%)
5 (20,8%)
11 (50%)
2 (40%)
Suy ≥ 01 trục tuyến yên
2 (5,9%)
5 (20,8%)
20 (80%)
4 (80%)
Nhận xét: Suy tuyến yên gặp chủ yếu ở bệnh nhân di chứng sống thực
vật và tàn phế mức độ nặng
3.3.6. Tổng hợp tỷ lệ suy tuyến yên giai đoạn cấp và 06 tháng sau
CTSN
Bảng 3.28. Tổng hợp tỷ lệ suy tuyến yên giai đoạn cấp và 06 tháng sau CTSN
Suy tuyến yên
Giai đoạn cấp (n)
Suy giáp thứ phát (số ca)
18
Tử vong (n) 11
Hồi phục (n) 06
Mạn tính (n) 01
Mới xuất hiện 10
Sau 06 tháng (n) 11
Suy thượng thận thứ phát
15
05
10
0
07
07
(số ca)
Suy sinh dục thứ phát
125
40
50
17
03
20
(số ca)
39
Giảm GH (số ca)
20
15
0
0
0
Nhận xét: Hầu hết các trường hợp suy tuyến yên ở giai đoạn cấp CTSN
đều hồi phục vào thời điểm sau 06 tháng, một số rất ít trở nên mạn tính. Đa số
68
những ca suy tuyến yên giai đoạn 06 tháng sau CTSN đều là những ca mắc
mới.
Sau 06 tháng, tỷ lệ hồi phục suy giáp thứ phát; suy thượng thận thứ phát;
suy sinh dục thứ phát và giảm hoc mon tăng trưởng lần lượt là: 85,7% (6/7);
100% (10/10); 70,4% (50/71) và 100% (15/15). Trong số 15 ca không tái
khám, có 14 trường hợp suy sinh dục thứ phát, 04 trường hợp giảm hoc mon
GH, không có trường hợp nào suy giáp thứ phát và suy thượng thận thứ phát
trong giai đoạn cấp CTSN.
Biểu đồ 3.15. Tỷ lệ hồi phục suy tuyến yên 06 tháng sau CTSN
Tóm lại, qua phân tích tỷ lệ mới mắc và tỷ lệ hồi phục của suy tuyến
yên giai đoạn 06 tháng sau CTSN và các yếu tố liên quan, kết quả cho
thấy:
1. Có 88 bệnh nhân tái khám ở thời điểm 06 tháng sau CTSN, nam giới
chiếm 89,8%. Tuổi trung bình nhóm bệnh nhân là 31,1 ± 13,7.
69
2. Tỷ lệ mới mắc suy tuyến yên: 12,5% suy giáp thứ phát; 8,1% suy
thượng thận thứ phát; 24,1% suy sinh dục thứ phát. Không có bệnh nhân nào
giảm hoc mon tăng trưởng. Tỷ lệ bệnh nhân suy ≥ 01 trục tuyến yên là 35,2%.
3. Tỷ lệ hồi phục suy giáp thứ phát, suy thượng thận thứ phát, suy sinh
dục thứ phát và giảm hoc mon tăng trưởng giai đoạn 06 tháng sau CTSN lần
lượt là: 85,7%; 100%; 70,4% và 100%. Đa số những trường hợp suy tuyến
yên giai đoạn 06 tháng sau CTSN đều là những ca mắc mới.
4. Suy tuyến yên gặp chủ yếu ở bệnh nhân di chứng sống thực vật và tàn
phế mức độ nặng. Suy tuyến yên giai đoạn 06 tháng sau chấn thương sọ não
liên quan không có ý nghĩa thống kê với tuổi, giới tính và điểm Glasgow giai
đoạn cấp CTSN.
70
CHƢƠNG 4: BÀN LUẬN
4.1. ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN VÀ TỶ LỆ SUY TUYẾN YÊN Ở BỆNH
NHÂN CHẤN THƢƠNG SỌ NÃO GIAI ĐOẠN CẤP
4.1.1. Đặc điểm chung
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có 156 trường hợp chấn thương sọ
não, 137 bệnh nhân là nam giới (chiếm tỷ lệ 87,8%). Tỷ lệ nam / nữ: 7,2. Tuổi
trung bình của dân số nghiên cứu là 34,1 ± 15,4 năm. Điểm Glasgow lúc nhập
viện trung bình là 7,2 ± 2,2; điểm Marshall 4,1 ± 1,1. Có 114 bệnh nhân có
Glasgow lúc vào viện < 9 điểm, chiếm tỷ lệ 73,1%; còn lại 42 bệnh nhân có
điểm Glasgow 9 – 12 điểm, chiếm 26,9%. Tỷ lệ bệnh nhân có điểm Marshall
≥ 3 điểm là 69,2%.
Thời điểm khảo sát chức năng tuyến yên trung bình là 4,0 ngày sau chấn
thương sọ não; sớm nhất là 1 ngày, dài nhất 21 ngày. Gần 50% các trường
hợp được khảo sát chức năng tuyến yên trong vòng 03 ngày sau chấn thương
sọ não. Khảo sát trong vòng 01 tuần đầu chiếm đến 78,2%. Chỉ có 8 trường
hợp khảo sát trong giai đoạn tuần thứ ba (14 – 21 ngày), chiếm tỷ lệ 5,1%.
Có 141 bệnh nhân chấn thương sọ não do tai nạn giao thông, chiếm đến
90,4%; tai nạn sinh hoạt (5,8%) và tai nạn lao động (3,8%). Có 74 trường hợp
được mổ cấp cứu, chiếm tỷ lệ 47,4%.
So sánh với một số nghiên cứu khác, chúng tôi nhận thấy:
71
Bảng 4.29. So sánh đặc điểm và tỷ lệ suy tuyến yên giai đoạn cấp CTSN với
một số nghiên cứu
Đặc điểm Tanriverdi 2006 [96] Tanriverdi 2007 [97] Chúng tôi 2014 Agha 2004 [7] Klose 2007 [58] Cohan 2005 [39]
Cỡ mẫu 52 104 50 46 80 156
Tuổi 36 38,8 37 38 29 34
Glasgow 3-15 3-15 3-9 3-15 3-13 3-13
Tỷ lệ 83% 75% 76% 72% 81% 88%
nam (%)
Tai nạn 60% 76% 28% 72% - 90,4%
(51% giao
té ngã) thông
< 24 giờ < 24 giờ 12 <12ngày < 9 4 ngày Thời
ngày ngày gian
khảo sát
Thiếu 5,8% 3,8% 2% 33% - 12,2% TSH
Thiếu 9,8% 8,8% 16% 4% 53% 9,9% ACTH
Thiếu 41,6% 40% 80% 67% - 84,5% FSH/LH
Thiếu 20,4% 20% 18% - - 27,3% GH
Về cỡ mẫu nghiên cứu, so với các tác giả khác (bảng 4.29) thì nghiên
cứu của chúng tôi có số lượng bệnh nhân tham gia nghiên cứu nhiều hơn.
72
Nghiên cứu chúng tôi được xem là một trong những nghiên cứu đoàn hệ có số
lượng bệnh nhân lớn trên thế giới, với cỡ mẫu lên đến 156 bệnh nhân. Có một
nghiên cứu đoàn hệ của tác giả Krahulik ở cộng hòa Zech năm 2010 khảo sát
đến 186 đối tượng chấn thương sọ não tuy nhiên có 13 bệnh nhân bị loại khỏi
nghiên cứu vì có dùng glucocorticosteroid trước đó, 01 bệnh nhân bị loại vì
có thai và tác giả khảo sát luôn các bệnh nhân CTSN mức độ nhẹ, Glasgow ≥
13 điểm, trong khi nghiên cứu chúng tôi chỉ nghiên cứu những bệnh nhân có
điểm Glasgow < 13 [61].
Chúng tôi chọn những bệnh nhân chấn thương sọ não mức độ vừa và
nặng để khảo sát chức năng tuyến yên là theo khuyến cáo năm 2005 của
nhóm tác giả Ghigo; tất cả bệnh nhân CTSN giai đoạn cấp mức độ vừa và
nặng nên được đánh giá chức năng tuyến yên [48]. Việc tầm soát tất cả bệnh
nhân chấn thương sọ não mức độ nhẹ giai đoạn cấp CTSN sẽ không mang lại
hiệu quả kinh tế (cost/benefit) vì tỷ lệ suy tuyến yên trên các đối tượng này
thấp [44],[48].
Tuổi bệnh nhân chấn thương sọ não tương tự với các nghiên cứu khác,
dao động từ 29 – 39 tuổi. Nghiên cứu của tác giả Trần Quang Vinh năm 2010
về tiên lượng bệnh nhân CTSN trong 48 giờ đầu sau chấn thương bằng thang
điểm Glasgow tại bệnh viện Chợ Rẫy cũng cho thấy tuổi bệnh nhân CTSN là
36,9 ± 15,5 tuổi [5]. Về mức độ nặng chấn thương sọ não tính theo thang
điểm Glasgow của các đối tượng tham gia nghiên cứu thì nghiên cứu chúng
tôi có khác biệt so với các tác giả khác: Tác giả Fatih Tanriverdi ở Thổ Nhĩ
Kỳ có 02 nghiên cứu năm 2006 và 2007 chọn tất cả bệnh nhân chấn thương sọ
não, Glasgow 3 - 15 điểm; tác giả Agha ở Ireland năm 2004 chỉ chọn những
bệnh nhân chấn thương sọ não mức độ nặng, Glasgow < 9 điểm; tác giả Klose
ở Đức và Cohan ở Mỹ chọn bệnh nhân tham gia nghiên cứu có mức độ nặng
73
giống nghiên cứu chúng tôi, bệnh nhân có mức độ chấn thương sọ não mức
độ vừa và nặng với Glasgow lúc nhập viện 3 - 13 điểm [7],[39],[58],[96],[97].
Về đặc điểm giới tính của bệnh nhân tham gia nghiên cứu, tỷ lệ bệnh
nhân nam trong nghiên cứu chúng tôi là 88%, tương đồng với các nghiên cứu
khác với tỷ lệ nam giới chiếm ¾ các trường hợp (dao động 72% - 83%).
Đa số nguyên nhân CTSN là do tai nạn giao thông, tỷ lệ này trong
nghiên cứu chúng tôi là 90,4%; các nghiên cứu khác nguyên nhân này chiếm
2/3 trường hợp (dao động 60% – 76%); trừ nghiên cứu của tác giả Agha, tỷ lệ
này là 28% (51% là do té ngã) [7]. So sánh với thế giới, tai nạn giao thông là
gánh nặng cho người Việt Nam ở độ tuổi lao động, trở thành một vấn nạn về
sức khoẻ cộng đồng gây thiệt hại lớn về nhân lực và tài lực.
4.1.2. Tỷ lệ suy tuyến yên và các yếu tố liên quan trong giai đoạn cấp
chấn thƣơng sọ não
Trong nghiên cứu chúng tôi, tỷ lệ suy giáp thứ phát, suy thượng thận
thứ phát, suy sinh dục thứ phát giai đoạn cấp CTSN lần lượt là 12,2%; 9,9%
và 84,5%. Có 39 trường hợp giảm hoc mon tăng trưởng, chiếm tỷ lệ 27,3%.
Có 84 bệnh nhân suy 01 trục tuyến yên, chiếm tỷ lệ 53,8%. Có 37 bệnh nhân
suy 02 trục, chiếm 23,7%. Có 13 bệnh nhân suy 03 trục, chiếm tỷ lệ 8,3%. Tỷ
lệ bệnh nhân suy ≥ 01 trục tuyến yên là 85,9%.
Nghiên cứu của tác giả Fatih Tanriverdi năm 2006 (bảng 4.29)
trên 52 bệnh nhân chấn thương sọ não cho thấy tỷ lệ thiếu hụt hoc mon TSH,
ACTH, FSH/LH, GH trong giai đoạn cấp của chấn thương sọ não lần lượt là
5,8%, 9,8%, 41,6% và 20,4% [96]. Tỷ lệ suy giáp thứ phát của nghiên cứu
chúng tôi cao hơn của tác giả Fatih Tanriverdi có thể các bệnh nhân trong
nghiên cứu chúng tôi có mức độ chấn thương sọ não nặng hơn (gồm những
bệnh nhân mức độ chấn thương trung bình và nặng, Glasgow lúc vào viện <
13) trong khi nghiên cứu của tác giả Fatih Tanriverdi có 31 bệnh nhân chấn
74
thương mức độ nhẹ (chiếm đến 60%), 08 bệnh nhân mức độ trung bình và 13
bệnh nhân mức độ nặng.
Một nghiên cứu khác của tác giả Tanriverdi năm 2007 với cỡ mẫu lên
đến 104 bệnh nhân, có 47% chấn thương mức độ nhẹ, cũng cho kết quả tương
tự [97]. Tỷ lệ suy tuyến yên trong giai đoạn cấp trong hai nghiên cứu của tác
giả Tanriverdi khá giống nhau mặc dù cỡ mẫu chênh lệch khá lớn là do tương
đồng về tiêu chí chẩn đoán suy tuyến yên, mức độ chấn thương giống nhau
với Glasgow lúc vào viện 3 – 15 điểm và thời gian khảo sát trong vòng 24 giờ
đầu sau chấn thương.
Nghiên cứu của chúng tôi còn khác với hai nghiên cứu của tác giả trên
về thời gian khảo sát chức năng tuyến yên, thời gian khảo sát trong nghiên
cứu chúng tôi trung bình là 4 ngày sau chấn thương. Ngoài ra, nghiên cứu
chúng tôi không chọn những bệnh nhân có mức độ chấn thương nhẹ
(Glasgow > 12 điểm).
Một nghiên cứu khác của tác giả Agha năm 2004 ở Ireland khảo
sát trên 50 bệnh nhân chấn thương sọ não có mức độ chấn thương nặng
(Glasgow < 9 điểm) [7]. Đây là nghiên cứu có đối tượng chấn thương tương
đồng với nghiên cứu chúng tôi nhưng hơi khác về tỷ lệ suy tuyến yên, tỷ lệ
thiếu hụt TSH, ACTH, FSH/LH, và GH là 2%, 16%, 80% và 18%. Có thể do
khác nhau về thời gian khảo sát, tác giả Agha khảo sát bệnh nhân trung bình
12 ngày sau chấn thương, chúng tôi là 4 ngày. Ngoài ra còn khác nhau về tiêu
chí chẩn đoán suy thượng thận thứ phát, tác giả sử dụng nghiệm pháp
glucagon để chẩn đoán thiếu hụt GH và ACTH, chúng tôi đo tĩnh cortisol
trong 3 ngày liên tiếp.
Một nghiên cứu khác cũng khảo sát chức năng tuyến yên ở bệnh
nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp. Tác giả Klose năm 2007 ở Đức
nghiên cứu trên 46 bệnh nhân bị chấn thương trong vòng 12 ngày, các đối
75
tượng có Glasgow lúc vào viện 3 – 15 điểm [58]. Tỷ lệ suy giáp thứ phát cao
hơn so với chúng tôi (33% so với 12,2%) và tỷ lệ suy thượng thận thứ phát
thấp hơn chúng tôi (4% so với 9,9%). Sự khác nhau này có thể do khác nhau
về số lượng bệnh nhân tham gia nghiên cứu và tiêu chí chẩn đoán suy thượng
thận thứ phát khác nhau, tác giả sử dụng nghiệm pháp synacthen để chẩn đoán
thiếu hụt ACTH, chúng tôi đo tĩnh cortisol máu 1 lần/ngày liên tiếp trong 3
ngày.
Nghiên cứu của tác giả Cohan ở Mỹ năm 2005 chỉ đánh giá suy
thượng thận thứ phát ở những bệnh nhân bị chấn thương sọ não trong vòng 12
ngày, tỷ lệ suy thượng thận rất cao, lên đến 53% [39]. Nghiên cứu này có một
số điểm tương đồng với nghiên cứu chúng tôi về độ tuổi, mức độ chấn thương
(tỷ lệ bệnh nhân có Glasgow < 9 điểm là 71% và 73% so với chúng tôi), tiêu
chí chẩn đoán suy thượng thận thứ phát giống nhau với nồng độ cortisol <
150 ng/mL ở hai lần đo liên tiếp. Tuy nhiên tỷ lệ suy thượng thận trong
nghiên cứu của tác giả Cohan và cộng sự cao hơn chúng tôi là do họ đo
cortisol nhiều thời điểm hơn chúng tôi (đo cortisol hai lần/ngày trong 9 ngày
liên tiếp so với đo ngày 1 lần trong 3 ngày liên tiếp của chúng tôi).
Suy tuyến yên sau chấn thương sọ não là một vấn đề mới trong y học
nên các nghiên cứu ban đầu trước đây chưa có tiêu chí chẩn đoán r ràng. Tất
cả các nghiên cứu trên đều giống với chúng tôi về tiêu chí chẩn đoán suy giáp
thứ phát (đo tĩnh hoc mon TSH, fT4), suy sinh dục thứ phát (đo tĩnh FSH,
LH, testosterone ở nam hay estradiol ở nữ), thiếu hụt GH (đo tĩnh GH hay
IGF1). Riêng nghiên cứu của Agha sử dụng nghiệm pháp glucagon để chẩn
đoán thiếu hụt GH. Ngoài ra, các nghiên cứu khác nhau về thời gian khảo sát
chức năng tuyến yên dẫn đến tỷ lệ suy tuyến yên dao động khá nhiều.
Chúng tôi nhận thấy các nghiên cứu trên hầu như chỉ khác nhau về tiêu
chí chẩn đoán suy thượng thận thứ phát, hai nghiên cứu của tác giả Tanriverdi
76
năm 2006 và 2007 dùng tiêu chí đo tĩnh cortisol < 70ng/mL để chẩn đoán, tác
giả Agha dùng nghiệm pháp glucagon để chẩn đoán, tác giả Klose dùng
nghiệm pháp synacthen; tác giả Cohan và chúng tôi sử dụng cortisol máu <
150 ng/mL ở hai lần đo liên tiếp để chẩn đoán. Các tiêu chí chẩn đoán suy
giáp thứ phát (đo tĩnh hoc mon TSH, fT4), suy sinh dục thứ phát (đo tĩnh
FSH, LH, testosterone ở nam hay estradiol ở nữ), thiếu hụt GH (đo tĩnh GH
hay IGF1) đều khá r ràng chỉ còn tiêu chí chẩn đoán suy thượng thận thứ
phát là thay đổi.
Năm 2005 khuyến cáo của nhóm tác giả Ghigo về sự cần thiết phải
khảo sát suy tuyến yên ở bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp. Tất cả
bệnh nhân chấn thương sọ não mức độ trung bình và nặng đều phải đánh giá
chức năng tuyến yên để tránh bỏ sót suy tuyến yên, nhất là suy thượng thận
thứ phát và suy giáp thứ phát. Suy thượng thận thứ phát có thể gây tử vong
nếu không chẩn đoán và điều trị kịp thời. Khuyến cáo đo tĩnh các hoc mon
tuyến yên để chẩn đoán, không dùng các nghiệm pháp động vì giá trị thay đổi
và không chính xác trong điều kiện bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn
cấp [48]. Tuy nhiên ngưỡng chẩn đoán là bao nhiêu và triệu chứng lâm sàng,
cận lâm sàng nào là đặc hiệu nhằm tránh bỏ sót suy thượng thận thứ phát là
điều quan trọng.
Tăng nồng độ cortisol máu thường gặp trong giai đoạn đầu tiên sau
chấn thương, có liên quan với sự gia tăng phóng thích ACTH, được kích thích
bởi yếu tố phóng thích corticotropin (CRF), cytokines và hoạt hóa hệ thống
noradrenergic [38]. Trong một số trường hợp, những bất thường về động học
bài tiết cortisol (tăng cortisol máu lúc đói, sự mất nhịp điệu chu kỳ bình
thường và ức chế không hoàn toàn với dexamethasone) có thể còn tồn tại
nhiều tháng sau chấn thương sọ não. Khi bệnh nhân có triệu chứng nghi ngờ
suy thượng thận như hạ natri máu, hạ đường huyết, kém đáp ứng với thuốc
77
vận mạch… Tuy nhiên các triệu chứng này không đặc hiệu trên bệnh nhân
chấn thương sọ não giai đoạn cấp.
Trong bệnh cảnh nặng, nồng độ protein máu thay đổi dẫn đến nồng độ
cortisol toàn phần thay đổi, không thể biết được nồng độ cortisol tự do cũng
như tác dụng thực sự của nó. Nghiên cứu của tác giả Cohan được xem là
nghiên cứu lớn nhất đến thời điểm hiện tại và đã đề ra tiêu chí chẩn đoán suy
thượng thận thứ phát trong giai đoạn cấp chấn thương sọ não [39]. Tác giả đo
nồng độ cortisol máu hai lần / ngày trong 9 ngày liên tiếp. Hiện nay, hầu hết
các hiệp hội nội tiết và cấp cứu đều chấp nhận tiêu chí cortisol máu lúc 8 giờ
00 sáng < 150 ng/mL kết hợp ACTH thấp hay bình thường được xem là suy
thượng thận thứ phát [39],[54].
Về các yếu tố liên quan đến suy tuyến yên giai đoạn cấp, nghiên cứu
chúng tôi cho thấy chấn thương sọ não mức độ nặng (Glasgow < 9 điểm) có
liên quan đến suy giáp thứ phát và suy thượng thận thứ phát. Không có yếu tố
nào liên quan có ý nghĩa thống kê đến suy sinh dục thứ phát. Giảm hoc mon
tăng trưởng chỉ có liên quan đến tuổi.
Tương tự với nghiên cứu của tác giả Wagner năm 2010 trên 102 bệnh
nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp, Glasgow 3 – 15; 87% mức độ nặng,
82% là nam giới, tuổi trung bình 35. Tác giả đo FSH, LH, testosterone và
Estradiol, IGF1 mỗi ngày trong 10 ngày liên tiếp sau chấn thương. Kết quả
93% nam giới giảm testosterone trong tất cả các lần đo, 83% giảm LH, 63%
giảm FSH, 39% nữ chưa mãn kinh giảm estradiol trong tất cả các lần đo. Kết
quả cho thấy tuổi có liên quan đến suy sinh dục và giảm GH [108].
78
4.2. TỶ LỆ TỬ VONG TRONG VÒNG 06 THÁNG SAU CTSN VÀ
MỐI LIÊN QUAN VỚI SUY TUYẾN YÊN GIAI ĐOẠN CẤP
Trong số 156 bệnh nhân được theo d i, có 53 bệnh nhân tử vong trong
vòng 06 tháng sau chấn thương, chiếm tỷ lệ 34%; trong đó có 35 bệnh nhân tử
vong trong thời gian nằm viện; sau xuất viện có 18 bệnh nhân tử vong. Tuổi
trung bình 38,8 ± 17,8; có 44 bệnh nhân nam, chiếm 83%. Nồng độ của các
hoc mon như ACTH, cortisol máu qua 3 thời điểm, LH, estradiol ở nhóm tử
vong đều cao hơn nhóm sống. Ngược lại, nồng độ TSH, fT4, FSH,
testosterone và IGF1 ở nhóm sống cao hơn nhóm tử vong. Tuy nhiên chỉ có
cortisol ở ngày khảo sát đầu, TSH, estradiol, và IGF1 là có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa hai nhóm.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tử vong trong vòng 06 tháng sau
CTSN có liên quan đến tuổi, độ nặng chấn thương sọ não. Bệnh nhân lớn hơn
01 tuổi có nguy tử vong trong vòng 06 tháng sau chấn thương sọ não tăng 3%
(OR = 1,03; p = 0,009). Bệnh nhân có Glasgow lúc vào viện cao hơn 01 điểm
làm giảm nguy tử vong trong vòng 06 tháng sau chấn thương sọ não (OR =
0,86; p = 0,052). Bệnh nhân có Marshall lúc vào viện cao hơn 01 điểm có
nguy tử vong trong vòng 06 tháng sau chấn thương sọ não tăng 78% (OR =
1,78; p = 0,001).
Nghiên cứu của tác giả Krahulik trên 186 đối tượng chấn thương sọ não
có Glasgow từ 3 – 14 điểm [61]. Bệnh nhân được khảo sát chức năng tuyến
yên giai đoạn cấp, 03 tháng, 06 tháng và 01 năm sau chấn thương. Kết quả có
54 bệnh nhân tử vong trong giai đoạn cấp, chiếm 29%. Tỷ lệ tử vong trong
giai đoạn cấp của nghiên cứu chúng tôi là 22,4%, thấp hơn so với nghiên cứu
của tác giả tuy nhiên sau xuất viện có thêm 15% bệnh nhân tử vong trong khi
nghiên cứu của tác giả không có bệnh nhân tử vong sau xuất viện. Tỷ lệ thiếu
79
hụt TSH, ACTH, FSH/LH và GH lần lượt là 3%, 10%, 33% và 37%. Có 17
bệnh nhân (17%) đái tháo nhạt.
Tương tự nghiên cứu năm 2009 của Wachter trên bệnh nhân CTSN,
Glasgow lúc nhập viện 3 – 15 điểm. Nghiên cứu bao gồm 196 bệnh nhân, 41
bệnh nhân tử vong (21%) trong đó 25 bệnh nhân chết trong thời gian nằm
viện, 16 bệnh nhân chết trong vòng 2 năm [106]. Tỷ lệ tử vong thấp hơn
nghiên cứu chúng tôi (21% so với 34%) do đối tượng nghiên cứu của tác giả
Wachter bao gồm cả những bệnh nhân có mức độ chấn thương nhẹ, Glasgow
13 – 15 điểm.
Nghiên cứu chúng tôi còn cho thấy tỷ lệ tử vong trong vòng 06 tháng
sau CTSN không có mối liên quan với suy thượng thận thứ phát và suy sinh
dục thứ phát giai đoạn cấp, chỉ liên quan đến suy giáp thứ phát và giảm hoc
mon tăng trưởng trong giai đoạn cấp CTSN. Bệnh nhân bị suy giáp thứ phát
và giảm hoc mon tăng trưởng giai đoạn cấp có nguy cơ tử vong trong vòng 06
tháng tăng lần lượt là 3,25 lần và 2,72 lần.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tử vong sau chấn thương sọ não và thiết
kế nghiên cứu của chúng tôi không phải mục đích là tìm các yếu tố tiên lượng
tử vong nên chúng tôi chỉ phân tích đơn biến để tìm các yếu tố liên quan đến
tử vong, không phân tích đa biến và không nghiên cứu các yếu tố tiên lượng
tử vong khác.
Tương tự, nghiên cứu của Malekpour B, Mehrafshan A năm 2012 khảo
sát chức năng trục tuyến yên – tuyến giáp trên 72 bệnh nhân chấn thương sọ
não mức độ nặng trong vòng 24 giờ sau chấn thương [73]. Kết quả cho thấy tỷ
lệ tử vong là 19,4% và giảm hoc mon T4 sẽ làm gia tăng tỷ lệ tử vong.
Ngược lại, nghiên cứu của tác giả Fatih Tanriverdi và cộng sự năm
2007 ở Thổ Nhĩ Kỳ trên 104 bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp
[97]. Có 20 bệnh nhân tử vong, trong đó 15 bệnh nhân có mức độ chấn
80
thương nặng. Không có mối liên quan của nồng độ các hoc mon giữa hai
nhóm sống và tử vong. Độ tuổi của nhóm tử vong lớn hơn nhóm sống (48 ±
15,8 và 36,7 ± 14,4; p =0,001); mức độ chấn thương nặng hơn (Glasgow 7,4 ±
4,5 và 11,7 ± 3,3; p = 0,0001); phân tích hồi qui đa biến cho thấy tử vong
không liên quan đến nồng độ các hoc mon nhưng liên quan với tuổi (p =
0,003) và Glasgow (p = 0,0001). Không có mối liên quan giữa estradiol và
mức độ nặng chấn thương, có thể do số lượng bệnh nhân nữ ít. Nghiên cứu
này có điểm giống nghiên cứu chúng tôi là bệnh nhân chấn thương càng nặng
càng làm tăng nguy cơ tử vong.
Tử vong không liên quan với suy thượng thận thứ phát giai đoạn cấp
CTSN. Điều này có thể do can thiệp điều trị, những bệnh nhân bị suy thượng
thận thứ phát giai đoạn cấp CTSN chúng tôi theo d i sát về huyết động, điện
giải đồ… nếu bệnh nhân bị tụt huyết áp không giải thích được nguyên nhân
và điều trị không hiệu quả với các biện pháp như bù đủ dịch, vận mạch… thì
chúng tôi có dùng hydrocortisone 50mg x 4/ngày trong 5 – 7 ngày theo
khuyến cáo; bệnh nhân huyết áp ổn định, tình trạng ổn và xuất viện [54],[88].
Một nghiên cứu được công bố năm 2011 của Antoine Roquilly, là một
nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng, đa trung tâm bao gồm 149 bệnh
nhân chấn thương sọ não (Glasgow < 9 điểm) bị đa chấn thương [13]. Bệnh
nhân được chia thành hai nhóm có và không có thiếu hụt cortisol dựa vào:
cortisol máu < 150 ng/mL hay không đáp ứng nghiệm pháp synacthen 1µg
(nồng độ cortisol sau 30 phút không tăng quá 90 ng/mL so với cortisol nền).
Bệnh nhân được chia ngẫu nhiên dùng và không dùng hydrocortisone 50mg x
4/ngày (trong 7 ngày) sau đó giảm liều và ngưng. Kết cục chính là viêm phổi
bệnh viện trong vong 28 ngày. Kết cục phụ là thời gian thở máy, tử vong
trong thời gian nằm viện. Kết quả nhóm có dùng glucocorticosteroid giảm
nguy cơ viêm phổi bệnh viện (35,6% so với 51,3%), giảm thời gian thở máy
81
(12 ngày so với 16 ngày). Không có sự khác biệt về tỷ lệ tử vong giữa hai
nhóm. Tuy nhiên đây là nghiên cứu cỡ mẫu chỉ tính cho kết cục chính, do đó
khó có thể kết luận mối liên quan giữa tử vong và suy thượng thận.
Ngoài ra, giảm hoc mon tăng trưởng có liên quan đến tử vong trong
nghiên cứu chúng tôi cũng tương tự với nghiên cứu của tác giả Stochholm
[89]. Đây là nghiên cứu đoàn hệ theo d i 1794 bệnh nhân thiếu hụt GH và
8014 đối tượng nhóm chứng trong 20 năm ở Đan Mạch từ 1980 – 2001. Kết
quả cho thấy thiếu hụt GH làm gia tăng tử vong từ 1,9 – 3,4 lần (p < 0,05).
Nghiên cứu này không nói r nguyên nhân gây thiếu hụt GH.
4.3. TỶ LỆ SUY TUYẾN YÊN Ở BỆNH NHÂN CTSN GIAI ĐOẠN
SAU 06 THÁNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
4.3.1. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng
Trong số 103 bệnh nhân sống sót đến thời điểm 06 tháng, có 88 bệnh
nhân đến tái khám, còn 15 bệnh nhân không đến tái khám vì nhiều lý do khác
nhau như: 01 BN xuất ngoại định cư; 02 BN chuyển nơi sinh sống ra miền
Bắc, 02 BN làm việc xa; 04 BN không đi lại được, khó khan; 06 BN không
liên lạc được.
Tuổi trung bình nhóm bệnh nhân là 31,1 ± 13,7. Thời điểm tái khám sau
chấn thương sọ não trung bình 5,8 ± 1,1 tháng.
Chúng tôi đánh giá chức năng tuyến yên bằng cách khám lâm sàng và
thực hiện các xét nghiệm. Lâm sàng suy tuyến yên bao gồm nhóm các triệu
chứng của hoc mon tuyến yên thiếu hụt. Các triệu chứng của suy tuyến yên
không r ràng, không đặc hiệu và dễ nhầm lẫn với các triệu chứng của bệnh
nhân bị di chứng chấn thương sọ não [48]. Thiếu hụt hoc mon sinh dục và
tăng trưởng rất ít có triệu chứng và thường tồn tại thời gian dài trước khi phát
82
hiện. Bệnh xuất hiện từ từ với các biểu hiện lâm sàng ở tuyến đích do thiếu
hoc mon.
Thiếu hụt ACTH là dạng thiếu hụt nguy hiểm nhất trong số các hoc mon
thùy trước tuyến yên. Các triệu chứng của suy thượng thận như: mệt mỏi, sụt
cân, ngủ gà, đau bụng không đặc hiệu, hạ đường huyết, tụt huyết áp... Khi
bệnh nhân bị bệnh nặng hay stress rất dễ bị suy thượng thận cấp với các biểu
hiện hạ natri máu, tụt huyết áp và có thể đe dọa tính mạng người bệnh. Các
triệu chứng lâm sàng của suy giáp thứ phát cũng tương tự như suy giáp
nguyên phát, bao gồm các triệu chứng giảm chuyển hóa chung toàn cơ thể,
nhưng ít nghiêm trọng hơn, triệu chứng âm tính trong suy giáp thứ phát là phù
niêm. Ngoại trừ do chấn thương sọ não, suy giáp thứ phát thường xuất hiện
giai đoạn trễ sau thiếu hụt các hoc mon khác như GH, sinh dục [90].
Ở bệnh nhân sống sót sau chấn thương sọ não có nhiều mức độ di
chứng, các triệu chứng suy tuyến yên có thể bị che lấp bởi các dấu hiệu hay
triệu chứng của di chứng [48]. Kết quả nghiên cứu chúng tôi cho thấy 43,2%
bệnh nhân bị di chứng liệt ½ người; 18,2% bệnh nhân khuyết sọ. Về di chứng
chấn thương sọ não theo thang điểm tiên lượng Glasgow: Có 5 bệnh nhân
sống thực vật, chiếm 5,7%; 25 bệnh nhân tàn phế mức độ nặng, chiếm 28,4%.
Tỷ lệ tàn phế mức độ vừa và hồi phục tốt lần lượt là 27,3% và 38,6%. Đánh
giá tiêu chí lâm sàng theo thang điểm tiên lượng Glasgow về sống thực vật
khác với tiêu chí đánh giá đời sống thực vật mà qua đó BN được xác định
chết não bằng EEG. Thang điểm này dùng để theo d i diễn tiến về mặt tri
giác, vận động sau CTSN, được đánh giá lại sau mỗi 1 – 3 tháng. Theo diễn
tiến tự nhiên bệnh nhân sẽ hồi phục dần theo thời gian sau CTSN.
Theo khuyến cáo của nhóm tác giả Ghigo năm 2005, những bệnh nhân
bị di chứng CTSN sẽ có lợi rất lớn khi được bù hoc mon tuyến yên thiếu hụt:
bệnh nhân sẽ cải thiện tri giác, vận động… mức độ rất lớn. Do đó tất cả bệnh
83
nhân chấn thương sọ não sống sót sau đợt cấp, bất kể độ nặng, nên được đánh
giá chức năng tuyến yên sau 3 -12 tháng để tránh bỏ sót suy tuyến yên [48].
Nghiên cứu của tác giả Krahulik năm 2010 thực hiện nghiệm pháp synacthen
và glucagon trên tất cả 89 bệnh nhân bị di chứng CTSN sau 01 năm, việc bổ
sung hoc mon thiếu hụt sẽ làm cải thiện thang điểm tiên lượng Glasgow [61].
4.3.2. Đặc điểm nghiệm pháp synacthen 250µg
Chúng tôi đánh giá chức năng trục tuyến yên – thượng thận bằng nghiệm
pháp synacthen 250µg. Nồng độ cortisol máu thời điểm 30 phút sau tiêm
ACTH cao hơn 2 lần so với trước tiêm (273,20 ng/mL so với 130,49 ng/mL),
mối liên quan có ý nghĩa thống kê với p = 0,000. Có 79 bệnh nhân được thực
nghiệm pháp synacthen; 07 bệnh nhân có nồng độ cortisol máu tại thời điểm
30 phút < 200 ng/mL kết hợp với ACTH máu thấp hoặc bình thường. Bệnh
nhân không được thực hiện nghiệm pháp synacthen do một số bệnh nhân
nhập viện tại phòng khám Ngoại thần kinh để ghép sọ; một số khác phải thăm
khám thêm các chuyên khoa liên quan như mắt, tai mũi họng, nội thần kinh…
những trường hợp này chúng tôi khảo sát tĩnh hoc mon tuyến yên.
Đường cong ROC thể hiện giá trị chẩn đoán suy thượng thận thứ phát
của cortisol nền so với tiêu chí chính là nghiệm pháp synacthen. Chúng tôi
chọn điểm cắt của cortisol nền là 93,5 ng/mL với độ nhạy và đặc hiệu lần lượt
là 77,2% và 71,4% (kết hợp với ACTH thấp hoặc bình thường) để chẩn đoán
suy thượng thận thứ phát. Giá trị 93,5 ng/mL là điểm cắt có độ nhạy và độ đặc
hiệu tối ưu nhất so với các điểm cắt khác. Diện tích dưới đường cong ROC
khá lớn (với giá trị là 0,755), cho thấy xét nghiệm cortisol nền có thể tin cậy
để chẩn đoán suy thượng thận thứ phát.
So sánh với nghiên cứu của tác giả Schneider và cộng sự năm 2006,
chúng tôi thấy có một số điểm tương đồng trong phương pháp nghiên cứu, tuy
nhiên điểm cắt cortisol nền khá cao so với chúng tôi [85]. Tác giả khảo sát 78
84
bệnh nhân chấn thương sọ não tại thời điểm 03 tháng, Glasgow 3- 15 điểm,
52 nam, tuổi trung bình 36 tuổi. Bệnh nhân được làm nghiệm pháp synacthen
250µg, đo cortisol thời điểm 0 và 30 phút sau tiêm ACTH. Điểm cắt cortisol
nền 154 ng/mL có độ nhạy 90 % và điểm cắt 93 ng/mL có độ chuyên 90%
trong chẩn đoán suy thượng thận thứ phát. Có thể do cỡ mẫu nhỏ nên giá trị
cortisol dao động khá cao giữa các đối tượng nghiên cứu dẫn đến điểm cắt
khác nhau.
Thời gian và mức độ thiếu ACTH liên quan trực tiếp đến mức độ teo vỏ
thượng thận. Thời gian thiếu ACTH bao lâu sẽ dẫn đến teo vỏ thượng thận rất
thay đổi, tuy nhiên không nên làm nghiệm pháp trong vòng 2 tuần sau nguyên
nhân tác động đến tuyến yên hay vùng hạ đồi, có thể làm nghiệm pháp sau
01- 03 tháng sẽ cho kết quả chính xác [90]. Nghiệm pháp synacthen 250µg có
thể dùng để chẩn đoán suy thượng thận thứ phát nếu nguyên nhân suy giảm
ACTH tồn tại ít nhất 4 tuần, nếu trước thời gian này nghiệm pháp sẽ cho kết
quả âm tính giả do tuyến thượng thận hai bên có thể vẫn còn hoạt động [87].
Nghiệm pháp synacthen liều thấp 1µg sẽ giúp làm tăng độ nhạy của xét
nghiệm so với nghiệm pháp chuẩn 250µg. Tuy nhiên trên thị trường không có
chế phẩm 1µg, muốn sử dụng phải pha loãng từ lọ 250µg và việc pha chế có
thể không chính xác. Nhiều nghiên cứu cho thấy nghiệm pháp liều thấp làm
tăng độ nhạy chẩn đoán suy thượng thận thứ phát [93]. Độ nhạy của nghiệm
pháp synacthen liều cao và liều thấp trong chẩn đoán suy thượng thận thứ
phát tương tự nhau, lần lượt là 57% và 61% (cả hai cùng có độ đặc hiệu 95%).
4.3.3. Tỷ lệ suy tuyến yên sau 06 tháng và các yếu tố liên quan
Nghiên cứu chúng tôi cho thấy có 11 bệnh nhân suy giáp thứ phát,
chiếm 12,5%; có 7 bệnh nhân suy thượng thận thứ phát, chiếm 8,1%; có 20
bệnh nhân suy sinh dục thứ phát, chiếm 24,1%. Không có bệnh nhân nào
giảm hoc mon tăng trưởng.
85
Suy tuyến yên giai đoạn 06 tháng sau CTSN liên quan không có ý
nghĩa thống kê với tuổi, giới tính và điểm Glasgow giai đoạn cấp CTSN. 07
trường hợp suy thượng thận thứ phát và 20 trường hợp suy sinh dục thứ phát
đều gặp ở nam giới. Suy tuyến yên gặp chủ yếu ở bệnh nhân di chứng sống
thực vật và tàn phế mức độ nặng. Hầu hết các trường hợp suy tuyến yên ở giai
đoạn cấp CTSN đều hồi phục vào thời điểm sau 06 tháng. Đa số những ca suy
tuyến yên giai đoạn 06 tháng sau CTSN đều là những ca mắc mới. Tỷ lệ hồi
phục suy giáp thứ phát, suy thượng thận thứ phát, suy sinh dục thứ phát và
giảm hoc mon tăng trưởng sau 06 tháng lần lượt là: 85,7% (6/7); 100%
(10/10); 70,4% (50/71); 100% (15/15).
Theo khuyến cáo của nhóm tác giả Ghigo, suy tuyến yên sau chấn
thương sọ não có thể xảy ra trong giai đoạn cấp, giai đoạn hồi phục và sau
nhiều năm. Tất cả những bệnh nhân vượt qua được giai đoạn cấp CTSN nên
được đánh giá lại toàn bộ chức năng tuyến yên sau 03 - 06 tháng nhằm chẩn
đoán và điều trị kịp thời suy tuyến yên. Việc theo d i lâu dài những bệnh
nhân này là cần thiết để tránh khả năng suy tuyến yên không được chẩn đoán
sau nhiều tháng hoặc nhiều năm và làm cản trở quá trình phục hồi di chứng
[48].
Đa số các nghiên cứu trên thế giới đều thực hiện ở giai đoạn bệnh
nhân sống sót sau CTSN nhiều tháng đến nhiều năm. Chỉ có một số nghiên
cứu đoàn hệ khảo sát chức năng tuyến yên ở giai đoạn cấp CTSN và theo dõi
sau 06 tháng giống nghiên cứu chúng tôi sau đây:
Nghiên cứu của tác giả Fatih Tanriverdi năm 2006 là nghiên cứu
đoàn hệ đầu tiên đánh giá chức năng tuyến yên ở giai đoạn cấp và 01 năm sau
chấn thương sọ não. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thiếu hụt hoc mon TSH,
ACTH, FSH/LH, GH trong giai đoạn cấp của chấn thương sọ não lần lượt là
5,8%, 9,8%, 41,6% và 20,4% và tỷ lệ này sau 01 năm theo d i là 5,8%,
86
19,2%; 7,7% và 37,7% [96]. Nồng độ IGF1 < 84 ng/mL trong giai đoạn cấp
sẽ dẫn đến 33% thiếu hụt GH sau 01 năm .
Bảng 4.30. So sánh tỷ lệ suy tuyến yên giai đoạn 12 tháng của Tanriverdi
Thiếu hụt hoc mon Tanriverdi 2006 (n = 52) Chúng tôi 2014 (n = 88)
TSH 5,8% 12,5%
ACTH 19,2% 8,1%
FSH/LH 7,7% 24,1%
GH 37,7% 0%
Tỷ lệ suy giáp thứ phát và suy sinh dục thứ phát của nghiên cứu chúng
tôi cao hơn của tác giả Tanriverdi [96] có thể là do khác nhau về thời gian
khảo sát (01 năm sau chấn thương sọ não so với 06 tháng của chúng tôi) và
mức độ chấn thương của các đối tượng nghiên cứu chúng tôi nặng hơn; 60%
bệnh nhân trong nghiên cứu của Tanriverdi có mức độ nhẹ trong khi trong
nghiên cứu chúng tôi không có bệnh nhân mức độ nhẹ. Về tiêu chí chẩn đoán,
suy giáp thứ phát và suy sinh dục thứ phát giống nhau giữa hai nghiên cứu;
ngược lại tỷ lệ suy thượng thận thứ phát và giảm hoc mon tăng trưởng trong
nghiên cứu của tác giả Tanriverdi cao hơn nghiên cứu chúng tôi (19,2%,
37,7% so với 8,1% và 0% của nghiên cứu chúng tôi), sự khác nhau này chủ
yếu là do khác nhau về tiêu chí chẩn đoán.
Tác giả sử dụng nghiệm pháp GHRH để đánh giá thiếu hụt GH và
nghiệm pháp synacthen liều thấp 1µg hoặc cortisol < 70 ng/mL để đánh giá
thiếu hụt ACTH. Nghiên cứu chúng tôi chỉ đo tĩnh IGF1 để chẩn đoán thiếu
hụt GH vì ở Việt Nam không thể sử dụng nghiệm pháp động GHRH hoặc
glucagon do không có thuốc, trong khi nghiệm pháp hạ đường huyết bằng
insulin bị chống chỉ định ở bệnh nhân CTSN sau 06 tháng. Ngoài ra, trong
giai đoạn di chứng sau chấn thương sọ não, không cần thiết phải làm nghiệm
87
pháp động để chẩn đoán thiếu hụt GH trong trường hợp thiếu hụt các hoc mon
tuyến yên khác, nghiệm pháp động chỉ thực hiện 6 – 12 tháng sau khi đã bù
đủ các hoc mon tuyến yên thiếu hụt [48],[90]
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy hầu hết các trường hợp suy tuyến yên
giai đoạn cấp đều hồi phục. Tương tự nghiên cứu của tác giả Fatih Tanriverdi
[96] cho thấy các rối loạn hoc mon giai đoạn cấp đa số đều thoáng qua và
không tiên đoán được tình trạng suy tuyến yên trong tương lai. Cơ chế tại sao
các rối loạn hoc mon tuyến yên hồi phục hay xuất hiện mới sau chấn thương
sọ não vẫn chưa r . Tình trạng hồi phục có thể được giải thích bằng việc bù
trừ của vùng hạ đồi – tuyến yên sau chấn thương [30]. Cơ chế giải thích sự
xuất hiện mới các trường hợp suy tuyến yên sau chấn thương sọ não là các tổn
thương tuyến yên sẽ trầm trọng hơn theo thời gian [8].
Một nghiên cứu khác của tác giả Agha năm 2005 trên 50 bệnh
nhân chấn thương sọ não, đây là nghiên cứu theo d i tiếp theo các đối tượng
của nghiên cứu khảo sát trong giai đoạn cấp của chính tác giả đã công bố năm
2004 [9]. Nghiên cứu khảo sát chức năng tuyến yên giai đoạn cấp, sau 06
tháng và 12 tháng. Tuổi trung bình 35 tuổi, 38 bệnh nhân nam. Nghiên cứu
này có kết quả như sau:
Bảng 4.31. Tỷ lệ suy tuyến yên ở các giai đoạn trong nghiên cứu của Agha
06 tháng
Hồi phục
12 tháng
Chúng tôi 2014
Hồi phục
Thiếu hụt hoc mon TSH
Giai đoạn cấp 1 (2%)
Xuất hiện mới 1
1 (2%)
1 (2%) 12,5 %
0
1
ACTH
8 (16%)
9 (18%)
-
8,1 %
-
4
5
FSH/LH 40(80%) 29
11(22%) 5
6(12%) 24,1%
-
2
GH
9 (18%)
4
6 (12%) 1
5(10%) 0 %
88
Giống như nghiên cứu chúng tôi, một số trường hợp suy tuyến yên
thoáng qua, một số ít trở nên mạn tính. Tỷ lệ suy các trục tuyến yên tại thời
điểm 06 tháng và 12 tháng tương đương nhau, chứng tỏ sau 06 tháng các
trường hợp suy tuyến yên đã trở nên mạn tính. So với thời điểm 06 tháng, tỷ
lệ suy tuyến yên của nghiên cứu chúng tôi cao hơn của tác giả Agha. Mặc dù
tác giả chỉ nghiên cứu trên đối tượng chấn thương nặng (Glasgow < 9 điểm)
nhưng tỷ lệ suy tuyến yên thấp hơn có thể do tiêu chí chẩn đoán khác nhau.
Về tiêu chí chẩn đoán suy giáp thứ phát và suy sinh dục thứ phát giống nhau
giữa hai nghiên cứu. Tác giả sử dụng nghiệm pháp glucagon để chẩn đoán
thiếu hụt GH và ACTH, chúng tôi dùng nghiệm pháp synacthen 250µg để
đánh giá thiếu hụt ACTH và đo tĩnh IGF1 để đánh giá thiếu GH. Ngoài ra có
thể do cỡ mẫu nghiên cứu của tác giả Agha nhỏ hơn nghiên cứu chúng tôi.
Nghiên cứu của Klose năm 2007 khảo sát chức năng tuyến yên ở
giai đoạn cấp và sau 12 tháng tương tự nghiên cứu chúng tôi. Nghiên cứu trên
46 bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp và 12 tháng sau chấn thương,
có 22 bệnh nhân mức độ nhẹ, 9 mức độ trung bình và 15 bệnh nhân mức độ
nặng [58].
Bảng 4.32. So sánh với tỷ lệ suy tuyến yên trong nghiên cứu của Klose
Thiếu hụt hoc Cấp 03 tháng 06 tháng 12 tháng Chúng tôi
mon (n = 46) (n = 41) ( n = 35) ( n = 46) 2014
TSH 33% 1 1 0 12,5 %
ACTH 4% 2 2 2 8,1 %
FSH/LH 67% 1 1 0 24,1%
GH - 5 5 4 0 %
≥ 01 trục 67% 13% 18% 11% 35,2%
89
Nghiên cứu của tác giả Klose cho thấy tỷ lệ suy tuyến yên thay đổi
không đáng kể ở thời điểm 03 tháng, 06 tháng và 12 tháng. Tỷ lệ này khá thấp
hơn so với nghiên cứu chúng tôi và các tác giả Agha và Tanriverdi [9],[96].
Có thể do bệnh nhân chấn thương mức độ nhẹ nhiều (22 bệnh nhân nhẹ, 48%)
trong khi nghiên cứu chúng tôi không có bệnh nhân nào mức độ nhẹ. Ngoài ra
tiêu chí chẩn đoán cũng khác nhau, tác giả dùng nghiệm pháp hạ đường huyết
để chẩn đoán suy thượng thận thứ phát, GHRH để chẩn chẩn đoán thiếu hụt
GH và nghiên cứu này có cỡ mẫu khá nhỏ, tại thời điểm 06 tháng chỉ còn 35
bệnh nhân (ban đầu 46 bệnh nhân). Nghiên cứu này cho thấy mức độ nặng
của chấn thương có liên quan đến tỷ lệ suy tuyến yên và hầu hết các trường
hợp suy tuyến yên sau 03 tháng đều không hồi phục giống với nghiên cứu của
Agha, hơn nữa các trường hợp suy tuyến yên trong giai đoạn cấp không có
liên quan với tỷ lệ suy tuyến yên từ 03 tháng trở đi.
Nghiên cứu của tác giả Krahulik năm 2010 trên 186 đối tượng
chấn thương sọ não có Glasgow từ 3 – 14 điểm. Bệnh nhân được khảo sát
chức năng tuyến yên giai đoạn cấp, 03 tháng, 06 tháng và 01 năm sau chấn
thương sọ não [61]. Trong giai đoạn cấp tác giả đo tĩnh cortisol máu, ACTH,
TSH và fT4, không thực hiện nghiệm pháp động giống nghiên cứu chúng tôi.
Giai đoạn 03 – 06 tháng bệnh nhân được đo tĩnh cortisol máu, ACTH, TSH,
fT4, IGF1, testosterone hay estradiol, FSH, LH. Sau 01 năm tác giả thực hiện
nghiệm pháp synacthen, arginine hay glucagon. Kết quả có 54 bệnh nhân tử
vong trong giai đoạn cấp, chiếm 29%, không có bệnh nhân tử vong sau xuất
viện; 13 bệnh nhân bị loại khỏi nghiên cứu vì có dùng glucocorticosteroid
trước đó và 01 bệnh nhân bị loại vì có thai; 15% bệnh nhân bị mất dấu trong
thời gian theo d i.
Tóm lại, tương tự kết quả nghiên cứu của chúng tôi, các nghiên cứu
trên cho thấy đa số các trường hợp suy tuyến yên trong giai đoạn cấp đều hồi
90
phục và tỷ lệ suy tuyến yên giai đoạn 06 tháng sau CTSN liên quan không có
ý nghĩa thống kê với thiếu hụt hoc mon tuyến yên giai đoạn cấp. Các nghiên
cứu trên của tác giả Agha, Klose, Krahulik và Tanriverdi là các nghiên cứu
đoàn hệ khảo sát chức năng tuyến yên bệnh nhân giai đoạn cấp chấn thương
sọ não sau đó khảo sát lại những bệnh nhân sống sót vào thời điểm 03 tháng,
06 tháng hay 01 năm sau giống với nghiên cứu chúng tôi [9],[58],[61],[96].
Còn nhiều nghiên cứu khác trên thế giới chỉ là mô tả cắt ngang, thời
gian khảo sát thay đổi từ giai đoạn cấp, nhiều tháng đến nhiều năm sau CTSN
và tỷ lệ suy tuyến yên cũng dao dộng khá nhiều do tiêu chí chẩn đoán một số
trục tuyến yên như trục thượng thận, GH khác nhau và còn do nhiều lý do
khác như độ nặng chấn thương, cỡ mẫu... như một số nghiên cứu sau đây:
Một nghiên cứu khác của tác giả Agha năm 2004 ở Ireland cắt
ngang trên 102 bệnh nhân chấn thương sọ não mức độ trung bình và nặng giai
đoạn 17 tháng sau chấn thương, tuổi trung bình 28, nam giới chiếm 84% [6].
Tỷ lệ suy ít nhất một trục tuyến yên là 28,4%; trong đó: suy giáp thứ phát 1%,
suy thượng thận thứ phát 13%, suy sinh dục thứ phát 11,8%, thiếu hụt GH
17,6%. Thiếu hụt GH và ACTH không liên quan đến tuổi, điểm Glasgow lúc
nhập viện, hay thiếu các hoc mon khác.
Nghiên cứu của tác giả Aimaretti năm 2005 trên 70 bệnh nhân
chấn thương sọ não (33 bệnh nhân mức độ nhẹ, 22 bệnh nhân mức độ trung
bình và 15 bệnh nhân mức độ nặng), tuổi trung bình 39,3 ± 2,4; 78% là nam
giới, các rối loạn hoc mon tuyến yên bình thường vào giai đoạn sau 03 tháng
và gần 60% trở về bình thường sau 01 năm, điều này cho thấy chức năng
tuyến yên hồi phục theo thời gian [8]. Ngược lại, có 5,5% bệnh nhân có chức
năng tuyến yên bình thường lúc 03 tháng được phát hiện có suy tuyến yên lúc
12 tháng, điều này cho thấy suy tuyến yên có thể xuất hiện muộn theo thời
gian sau chấn thương sọ não.
91
Bảng 4.33. Tỷ lệ suy tuyến yên trong nghiên cứu của Aimaretti
Sau 03 tháng Sau 01 năm
Thiếu hụt hoc mon TSH 5,7% Chúng tôi 2014 12,5 % 5,7%
ACTH 8,5% 8,1 % 7,1%
FSH/LH 17,1% 24,1% 11,4%
GH 22,8% 0 % 20%
Suy ít nhất 1 trục 32,8% 35,2% 22,2%
Đây là nghiên cứu theo d i các bệnh nhân CTSN giai đoạn 3 và 12
tháng, không khảo sát giai đọan cấp giống nghiên cứu chúng tôi. Tỷ lệ suy
tuyến yên tương đương nhau ở hai giai đoạn và thấp hơn nghiên cứu chúng
tôi. Tương tự nghiên cứu của chúng tôi cho thấy hầu hết các trường hợp suy
tuyến yên giai đoạn cấp CTSN đều hồi phục, một số ít trở nên mạn tính, còn
lại đa số đều là những ca mới xuất hiện sau 12 tháng.
Một nghiên cứu tương tự của tác giả Schneider và cộng sự năm
2006 khảo sát 78 bệnh nhân chấn thương sọ não có Glasgow từ 3 - 15 điểm,
52 nam, tuổi trung bình 36 tuổi [85]. Bệnh nhân được đánh giá chức năng
tuyến yên tại thời điểm 03 tháng và 06 tháng sau chấn thương sọ não. Kết quả
suy ít nhất 1 trục tuyến yên chiếm 56% tại thời điểm 03 tháng và 36% tại thời
điểm 06 tháng.
Tỷ lệ suy thượng thận thứ phát sau 06 tháng trong nghiên cứu của tác
giả tương đương chúng tôi (9% so với chúng tôi là 8,1%). Tỷ lệ suy giáp thứ
phát thấp hơn chúng tôi (3% so với 12,5%). Nghiên cứu sử dụng nghiệm pháp
động giống chúng tôi; bệnh nhân được làm nghiệm pháp synacthen 250µg, đo
cortisol thời điểm 0 và 30 phút sau tiêm ACTH. Suy sinh dục tại thời điểm
03 tháng có liên quan với mức độ nặng của chấn thương sọ não (đánh giá qua
thang điểm Glasgow lúc chấn thương).
92
Một nghiên cứu khác của tác giả Klose và cộng sự năm 2007,
nghiên cứu cắt ngang 104 bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn 13 tháng
sau chấn thương, Glasgow lúc nhập viện 3 - 15 điểm [59]. Tác giả dùng
nghiệm pháp hạ đường huyết trong 86% các trường hợp; nghiệm pháp
arginine – GHRH và synacthen trong 14% các trường hợp. Kết quả nghiên
cứu cho thấy suy tuyến yên 15%; 9,6% suy 1 trục; 3,8% suy 2 trục và 1,9%
suy > 2 trục. Tỷ lệ suy giáp, thượng thận, sinh dục thứ phát và thiếu GH lần
lượt là: 2%, 5%, 2% và 15%. Suy tuyến yên liên quan đến mức độ nặng chấn
thương (OR 10,1; p =0,004).
Tác giả Bondenalli năm 2007 nghiên cứu 72 bệnh nhân có
Glasgow lúc chấn thương từ 3 - 9 điểm, khảo sát chức năng tuyến yên giai
đoạn 6 – 12 tháng sau chấn thương, tuổi trung bình 37 tuổi [28]. Tỷ lệ thiếu
hụt TSH, ACTH, FSH/LH và GH lần lượt là 4%, 4%, 13,9% và 13,9%. Kết
quả cho thấy chấn thương sọ não nặng là yếu tố nguy cơ của suy tuyến yên
giống với các nghiên cứu của tác giả khác là Bondenalli năm 2004, Kelly năm
2000 và Klose 2007 [24],[56],[59]. Kết quả này khác với chúng tôi, suy tuyến
yên giai đoạn 06 tháng sau chấn thương sọ não liên quan không có ý nghĩa
thống kê với điểm Glasgow giai đoạn cấp CTSN.
Nghiên cứu của tác giả Bavisety năm 2008 trên 70 bệnh nhân
chấn thương sọ não, tuổi trung bình 32, Glasgow 3-15 điểm, 81% là nam giới
[29]. Nghiên cứu khảo sát chức năng tuyến yên tại thời điểm từ 6 đến 9 tháng
sau chấn thương sọ não; tỷ lệ suy tuyến yên 20%. Thiếu hụt GH liên quan đến
các di chứng chấn thương sọ não, tàn tật và giảm chất lượng cuộc sống.
Nghiên cứu của Wachter năm 2009 có số lượng mất dấu khá cao.
Trong số 171 bệnh nhân chỉ có 55 bệnh nhân đồng ý quay lại tái khám và
tham gia nghiên cứu (mất dấu 68%) [106]. Tỷ lệ tái khám thấp hơn nghiên
93
cứu chúng tôi khá nhiều, nghiên cứu chúng tôi cho thấy trong số 156 bệnh
nhân có 15 bệnh nhân không tái khám (tỷ lệ mất dấu 9,6%).
Nghiên cứu của tác giả Kokshoorn ở Hà Lan năm 2011 trên 112
bệnh nhân chấn thương sọ não có tiền căn chấn thương sọ não > 01 năm,
Glasgow lúc nhập viện 3 – 15 điểm, 75 bệnh nhân nam, tuổi trung bình 48
[62]. Kết quả cho thấy tỷ lệ suy tuyến yên 5,4% (6 bệnh nhân), 3 bệnh nhân
thiếu GH, 2 bệnh nhân thiếu ACTH và 01 bệnh nhân suy sinh dục thứ phát.
Tỷ lệ suy tuyến yên trong nghiên cứu này khá thấp vì có đến 57% bệnh nhân
chấn thương mức độ nhẹ.
Ngược lại, nghiên cứu của tác giả Kozlowski 2012 trên 55 bệnh
nhân chấn thương mức độ nặng, tuổi trung bình 36 tuổi, nam giới chiếm 84%,
thời gian khảo sát > 01 năm sau chấn thương sọ não [63]. Kết quả có đến 69%
bệnh nhân suy ít nhất một trục tuyến yên, tỷ lệ thiếu TSH, ACTH, FSH/LH và
GH là 21,8%, 27,3%, 3,6% và 40%. Nghiên cứu cho thấy mối liên quan
không có ý nghĩa thống kê giữa mức độ chấn thương và tỷ lệ suy tuyến yên
sau 01 năm chấn thương. Kết quả này giống với chúng tôi, suy tuyến yên giai
đoạn 06 tháng sau chấn thương sọ não liên quan không có ý nghĩa thống kê
với điểm Glasgow giai đoạn cấp CTSN. Tỷ lệ suy tuyến yên của của nghiên
cứu này cao hơn nghiên cứu chúng tôi và các nghiên cứu khác có thể do tất cả
bệnh nhân đều có mức độ chấn thương nặng. Về tiêu chí chẩn đoán suy tuyến
yên cũng tương tự nghiên cứu chúng tôi, chỉ có khác là tác giả sử dụng
nghiệm pháp hạ đường huyết và arginine – GHRH để đánh giá suy thượng
thận thứ phát và thiếu GH.
Một nghiên cứu khác năm 2013 của tác giả Rosario ER [102]
cũng cho thấy tỷ lệ suy tuyến yên khá cao giống nghiên cứu của tác giả
Kozlowski [63]. Đây là nghiên cứu trên 59 nam bệnh nhân chấn thương sọ
não, tuổi ≥ 16, thời gian khảo sát chức năng tuyến yên sau 06 tháng chấn
94
thương. Kết quả cho thấy tỷ lệ suy tuyến yên 70%, tỷ lệ thiếu TSH, FSH/LH
và GH là 46%, 66% và 26%. Nghiên cứu cũng cho thấy suy tuyến yên gặp
nhiều ở bệnh nhân có mức độ di chứng nặng sau CTSN và nồng độ IGF1 có
liên quan đến mức độ hồi phục sau chấn thương. Kết quả này giống với
nghiên cứu chúng tôi, suy tuyến yên giai đoạn 06 tháng sau CTSN gặp chủ
yếu ở bệnh nhân di chứng sống thực vật và tàn phế mức độ nặng.
Một nghiên cứu được xem là có cỡ mẫu lớn nhất cho đến nay là
một nghiên cứu ở Đức năm 2011 [91]. Tuy nhiên đây là nghiên cứu hồi cứu
trên 825 bệnh nhân từ 13 trung tâm ở Đức. Đối tượng nghiên cứu là các bệnh
nhân sống sót sau chấn thương sọ não nhiều tháng hay nhiều năm, có
Glasgow trung bình lúc chấn thương là 13, tuổi trung bình 45 tuổi. Kết quả
cho thấy tỷ lệ suy tuyến yên ở đối tượng chấn thương < 5 tháng là 39% và ở
đối tượng chấn thương > 5 tháng là 38%. Hơn 1/3 các trường hợp sống sót
sau chấn thương bị suy tuyến yên và tỷ lệ gần như nhau ở đối tượng chấn
thương trước hay sau 5 tháng.
Suy tuyến yên sau chấn thương sọ não là vấn đề mới của y học, trước
năm 2000 chỉ có một số nghiên cứu nhỏ lẻ, cỡ mẫu nhỏ. Sau năm 2000 giới y
học quan tâm nhiều hơn và suy tuyến yên sau chấn thương sọ não không còn
được xem là biến chứng hiếm gặp mà là biến chứng phổ biến với tỷ lệ cao. Có
thể tóm tắt các nghiên cứu đã thực hiện trong thời gian qua cho đến nay bằng
bảng sau:
95
Bảng 4.34. Tóm tắt tỷ lệ suy tuyến yên của một số nghiên cứu cắt ngang thực
hiện ở đối tượng chấn thương sọ não
Suy trục
Suy
Nghiên
Sau
N
Glasgow
tuyến
cứu
CTSN
TSH ACTH LH/FSH GH
yên*
Kelly 2000
22
26 tháng 3-15
4,5%
4,5%
22,7%
18,2% 37%
[56]
Popoviv
67
1 – 22
3-13
4,5%
7,5%
9%
14,9% 34,3%
2004 [78]
năm
Agha 2005
50/48
12 ngày/
3-15
2,1%
18,8% 12,5%
10,4% -
[9]
06 tháng
Schneider
78/70
3 và 12
3-15
2,9%
8,6%
20%
10%
35,7%
2006 [85]
tháng
Herrmann
76
5 – 47
-
2,6%
2,6%
17,1%
7,9%
23,7%
2006 [52]
tháng
Klose 2007
104
13 tháng 3-15
1,9%
4,8%
1,9%
15,4% 15,4%
[58]
Tanriverdi
30
36 tháng 3-15
-
7%
-
23%
30%
2008 [99]
Kokshoorn
112
>1 năm
3 – 15
0
1,8%
0,9%
2,7%
5,4%
2012 [62]
Kozlowski
55
>1 năm
< 9
21,8% 27,3% 3,6%
40%
69%
2012 [63]
Rosario
59
06 tháng < 13
46%
-
66%
26%
70%
2013 [102]
Chúng tôi
156
06 tháng < 13
12,5% 8,1%
24,1%
0
35,2%
năm 2014
(*) suy ít nhất 01 trục tuyến yên
96
Từ các nghiên cứu được thực hiện trong thời gian qua, chúng tôi nhận
thấy rằng suy tuyến yên sau chấn thương sọ não có thể xảy ra trong giai đoạn
cấp hay trong giai đoạn phục hồi ở những bệnh nhân sống sót, những trường
hợp suy tuyến yên trong giai đoạn cấp thường không có liên quan đến suy
tuyến yên sau 06 tháng. Từ 03 – 06 tháng sau CTSN, đa số các trường hợp
suy tuyến yên đều ít hồi phục và có nhiều trường hợp mới mắc theo thời gian.
Các nghiên cứu cho kết quả khác nhau về tỷ lệ suy tuyến yên là do các tác giả
dùng tiêu chí chẩn đoán suy tuyến yên khác nhau, nhất là suy thượng thận thứ
phát và giảm hoc mon GH. Ngoài ra còn khác nhau về mức độ chấn thương,
cỡ mẫu, thời gian khảo sát chức năng tuyến yên… giữa các nghiên cứu.
Suy tuyến yên có thể có nhiều hậu quả nghiêm trọng, có thể làm trầm
trọng thêm các bệnh lý về thực thể và tâm thần kinh sau chấn thương sọ não.
Suy tuyến yên, đặc biệt là suy thượng thận thứ phát, trong giai đoạn cấp
CTSN có thể đe dọa tính mạng người bệnh; trong khi suy tuyến yên giai đoạn
di chứng sau CTSN có thể làm suy giảm quá trình hồi phục và giảm chất
lượng cuộc sống bệnh nhân [48].
Suy tuyến yên sau chấn thương sọ não có thể xảy ra ở mọi mức độ chấn
thương, về thời gian có thể xảy ra trong giai đoạn cấp hay trong giai đoạn di
chứng sau CTSN. Trong giai đoạn cấp, suy giáp thứ phát, suy thượng thận thứ
phát sẽ dẫn đến dự hậu xấu nếu không phát hiện và điều trị kịp thời. Sau chấn
thương 3- 12 tháng tất cả bệnh nhân phải được đánh giá chức năng tuyến yên
để phát hiện và điều trị kịp thời nhằm giảm di chứng cho bệnh nhân [48].
Trước đây, vào năm 1996 có đến 64% các trung tâm chấn thương ở Mỹ
sử dụng glucocorticosteroid điều trị bệnh nhân chấn thương sọ não [45]. Từ
đó các trung tâm ở Châu Á cũng sử dụng glucocorticosteroid [105]. Việc sử
dụng glucocorticosteroid trên bệnh nhân chấn thương sọ não kết thúc năm
2004 khi có kết quả của nghiên cứu CRASH [81]. Đây là nghiên cứu ngẫu
97
nhiên mù đôi có nhóm chứng, đa quốc gia, đa trung tâm với hơn 10.000 bệnh
nhân chấn thương sọ não. Nghiên cứu đánh giá hiệu quả của
methylprednisolone trong việc làm giảm tỷ lệ tử vong trong vòng hai tuần và
tàn phế sau 06 tháng so với giả dược. Nghiên cứu phải kết thúc sớm hơn dự
kiến vì tỷ lệ tử vong trong vòng 2 tuần sau chấn thương sọ não của nhóm sử
dụng glucocorticosteroid cao hơn nhóm chứng 18%. Tuy nhiên những bệnh
nhân trong nghiên cứu CRASH không được đánh giá chức năng thượng thận.
Nghiên cứu mới nhất về vấn đề dùng glucocorticosteroid trên bệnh
nhân chấn thương sọ não là nghiên cứu HYPOLYTE [13]. Nghiên cứu được
công bố năm 2011, là một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng, đa
trung tâm bao gồm 149 bệnh nhân chấn thương sọ não (Glasgow < 9 điểm) bị
đa chấn thương. Bệnh nhân được chia thành hai nhóm có và không có thiếu
hụt cortisol dựa vào: cortisol máu < 150 ng/mL hay không đáp ứng nghiệm
pháp synacthen 1µg (nồng độ cortisol sau 30 phút không tăng quá 90 ng/mL
so với cortisol nền). Bệnh nhân được chia ngẫu nhiên dùng và không dùng
hydrocortisone 50mg x 4/ngày (trong 7 ngày) sau đó giảm liều và ngưng. Kết
cục chính là viêm phổi bệnh viện trong 28 ngày. Kết cục phụ là thời gian thở
máy, tử vong trong thời gian nằm viện. Kết quả cho thấy, nhóm có dùng
glucocorticosteroid giảm nguy cơ viêm phổi bệnh viện (35,6% so với 51,3%),
giảm thời gian thở máy (12 ngày so với 16 ngày). Không có sự khác biệt về tỷ
lệ tử vong giữa hai nhóm. Đây là nghiên cứu cỡ mẫu chỉ tính cho kết cục
chính, do đó khó có thể kết luận mối liên quan giữa tử vong và suy thượng
thận.
Việc bổ sung hoc mon sinh dục và GH trong giai đoạn cấp không có
nhiều ý nghĩa vì không giúp cải thiện dự hậu của bệnh nhân chấn thương sọ
não, chỉ có ý nghĩa trong giai đoạn 03 – 06 tháng sau CTSN. Việc theo d i lâu
dài những bệnh nhân này là cần thiết để tránh khả năng suy tuyến yên không
98
được chẩn đoán sau nhiều tháng hoặc nhiều năm và làm cản trở quá trình
phục hồi chức năng [48]. Tuy nhiên việc theo d i và chẩn đoán bệnh nhân
không phải lúc nào cũng dễ dàng, những bệnh nhân nặng, tàn phế, kinh tế khó
khăn... có thể sẽ không đến khám được tại các bệnh viện chuyên khoa hay
thậm chí bệnh nhân chết trước khi tái khám [72].
ĐIỂM MẠNH CỦA NGHIÊN CỨU:
Đây là nghiên cứu có số lượng lớn, có theo dõi, số lượng mất dấu
thấp.
Bệnh viện Chợ Rẫy là tuyến sau cùng nhận hầu hết các trường hợp
chấn thương sọ não nặng. Đây là nghiên cứu đầu tiên đánh giá tình trạng chức
năng tuyến yên ở giai đoạn cấp và sau 06 tháng.
Tiêu chí đánh giá dựa trên khuyến cáo của nhóm tác giả Ghigo, các
nghiên cứu tương tự và các sách giáo khoa về nội tiết (William textbook, The
Pituitary).
Một số kinh nghiệm thực tế:
1) Suy giáp thứ phát, suy thượng thận thứ phát giai đoạn cấp chấn
thương sọ não có liên quan đến mức độ nặng của chấn thương.
2) Sau giai đoạn cấp của chấn thương sọ não, suy tuyến yên chủ yếu
gặp ở bệnh nhân di chứng sống thực vật và tàn phế mức độ nặng.
HẠN CHẾ CỦA NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu không khảo sát tình trạng bệnh nhân chấn thương sọ não
sau thời gian nhiều hơn 6 tháng.
Có 1 số nghiệm pháp động không thực hiện được do không có thuốc
tại Việt Nam (glucagon, GHRH…). Tuy nhiên những nghiệm pháp này không
được thường qui chỉ định trên những bệnh nhân như nghiên cứu chúng tôi.
99
KẾT LUẬN
Nghiên cứu bao gồm 156 bệnh nhân chấn thương sọ não (137 nam, 19 nữ);
tuổi trung bình 34,1 ± 15,4 năm; nguyên nhân thường gặp nhất của chấn
thương sọ não là tai nạn giao thông; có 53 bệnh nhân tử vong trong vòng 06
tháng; 88 bệnh nhân đến tái khám ở thời điểm 06 tháng sau CTSN, nghiên
cứu có các kết luận sau:
1. Tỷ lệ suy tuyến yên trong giai đoạn cấp CTSN: 12,2% (18/147) suy giáp
thứ phát; 9,9% (15/151) suy thượng thận thứ phát; 84,5% (125/148) suy sinh
dục thứ phát và 27,3% (39/143) giảm hoc mon tăng trưởng. Tỷ lệ bệnh nhân
suy ≥ 01 trục tuyến yên là 85,9% (134/156).
2. Có 53 bệnh nhân tử vong trong vòng 06 tháng sau CTSN. Tử vong chỉ
liên quan đến suy giáp thứ phát và giảm hoc mon tăng trưởng giai đoạn cấp
CTSN.
3. Tỷ lệ mới mắc của suy tuyến yên ở thời điểm 06 tháng sau CTSN: 12,5%
(11/88) suy giáp thứ phát; 8,1% (7/86) suy thượng thận thứ phát; 24,1%
(20/83) suy sinh dục thứ phát; không có bệnh nhân nào giảm hoc mon tăng
trưởng. Tỷ lệ bệnh nhân suy ≥ 01 trục tuyến yên là 35,2% (31/88). Đa số
những trường hợp suy tuyến yên giai đoạn 06 tháng sau CTSN đều là những
ca mắc mới. Sau 06 tháng, tỷ lệ hồi phục suy giáp thứ phát, suy thượng thận
thứ phát, suy sinh dục thứ phát và giảm hoc mon tăng trưởng lần lượt là:
85,7%; 100%; 70,4% và 100%.
4. Ở giai đoạn cấp CTSN, suy giáp thứ phát và suy thượng thận thứ phát có
liên quan với mức độ nặng của chấn thương (Glasgow < 9 điểm). Ở giai đoạn
06 tháng sau CTSN, suy tuyến yên gặp chủ yếu ở bệnh nhân có di chứng sống
thực vật và tàn phế mức độ nặng. Suy tuyến yên giai đoạn 06 tháng sau CTSN
không liên quan có ý nghĩa thống kê với tuổi, giới tính và điểm Glasgow giai
đoạn cấp CTSN.
100
KIẾN NGHỊ
1. Cần tầm soát chức năng tuyến yên ở tất cả bệnh nhân chấn thương sọ não
mức độ nặng và trung bình (Glasgow 3-13 điểm) giai đoạn cấp để tránh
bỏ sót suy tuyến yên, nhất là suy thượng thận thứ phát và suy giáp thứ
phát. Suy giáp thứ phát làm tăng nguy cơ tử vong trong vòng 06 tháng sau
chấn thương sọ não.
2. Cần đánh giá chức năng tuyến yên ở tất cả bệnh nhân chấn thương sọ não
sống sót sau 06 tháng vì tỷ lệ suy tuyến yên sau 06 tháng chiếm 1/3 các
trường hợp.
3. Có thể đo tĩnh cortisol nền và ACTH máu để chẩn đoán bệnh nhân bị suy
thượng thận thứ phát giai đoạn 06 tháng sau chấn thương sọ não ở các cơ
sở y tế không thực hiện được nghiệm pháp synacthen.
4. Củng cố các biện pháp làm giảm độ nặng của chấn thương sọ não: Giáo
dục về an toàn giao thông, đội mũ bảo hiểm nhất là ở giới trẻ.
5. Cần thêm những nghiên cứu theo d i dài hơn để đánh giá tỷ lệ mới mắc
suy tuyến yên sau chấn thương sọ não về lâu dài, cũng như tìm mối liên
quan với các yếu tố ảnh hưởng.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ
1. Phan Hữu Hên, Dương Minh Mẫn, Nguyễn Thy Khuê (2013). “Tần suất suy
thượng thận thứ phát giai đoạn 06 tháng sau chấn thương sọ não”. Y học thực
hành (856), số 1/2013, trang 21 – 26.
2. Phan Hữu Hên, Dương Minh Mẫn, Nguyễn Thy Khuê (2013). “Nghiên cứu
sự thay đổi nồng độ cortisol máu, hoc mon tăng trưởng, hoc mon tuyến giáp,
hoc mon tuyến sinh dục và các yếu tố khác liên quan đến tử vong trong vòng
06 tháng sau chấn thương sọ não”. Y học thực hành (857), số 1/2013 , trang
19 – 24.
3. Phan Hữu Hên, Dương Minh Mẫn, Nguyễn Thy Khuê (2012). “Tần suất suy
giáp thứ phát ở bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp”. Y học TP Hồ
Chí Minh, phụ bản của tập 16, số 2, trang 46 – 51.
4. Phan Hữu Hên, Dương Minh Mẫn, Nguyễn Thy Khuê (2012). “Tần suất suy
sinh dục thứ phát và giảm hocmon tăng trưởng ở bệnh nhân chấn thương sọ
não giai đoạn cấp”. Y học TP Hồ Chí Minh, phụ bản của tập 16, số 2, trang
52 – 58.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Phạm Thị Minh Đức (2005). Sinh lý học y khoa tập 2, Đại học y Hà Nội
– Tuyến yên. Nhà xuất bản y học, trang 52 – 67.
2. Mai Thế Trạch, Nguyễn Thy Khuê (2007). “Nội tiết học đại cương –Suy
tuyến yên trước”, Nhà xuất bản y học, trang 97 - 107.
3. Phạm Đình Lựu (2005). Sinh lý học y khoa tập 2, Đại học y dược Tp
HCM – Tuyến yên. Nhà xuất bản y học, trang 64 – 79.
4. Trương Văn Việt, Trần Quang vinh (2002). “Điều trị nội khoa chấn
thương sọ não”. Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 6, phụ bản số 1, chuyên đề
Ngoại thần kinh.
5. Trần Quang Vinh, Lê Hoàng Tùng Uyên (2010). “Tiên lượng chấn
thương sọ não trong 48 giờ đầu bằng thang điểm Glasgow”. Y học TP. Hồ
Chí Minh, tập 14, phụ bản số 2, trang 639 – 643.
TIẾNG ANH
6. Agha A, Rogers B, Sherlock M, O’Kelly P, Tormey W, Phillips J
(2004). “Anterior pituitary dysfunction in survivors of traumatic brain
injury”. Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism, 89, pp 4929
– 4936.
7. Agha A, Rogers B (2004). “Neuroendocrine dysfunction in the acute
phase of traumatic brain injury”. Clinical Endocrinology, 60, pp 584 –
591.
8. Aimaretti G, Ambrosio MR (2005). “Residual pituitary function after
brain injury – induced hypopiyuitarism: A prospective 12 month study”.
JCEM, 90, pp 6085 – 6092.
9. Agha A, Phillips J, O'Kelly P (2005). “The natural history of post-
traumatic hypopituitarism: implications for assessment and treatment”.
Am J Med, 118(12), pp 1416 -1419.
10. Ascoli P, Cavagnini F (2006). “Hypopituitarism”. Pituitary, 9(4), pp
335–342.
11. Agha A, Phillips J & Thompson CJ (2007). “Hypopituitarism following
traumatic brain injury (TBI)”. British Journal of Neurosurgery, 21, pp
210–216.
12. Andrew A. Toogood (2008). “Hypopituitarism: Clinical Features,
Diagnosis, and Management”. Endocrinol Metab Clin N Am, 37, pp 235–
261.
13. Antoine Roquilly, MD, Pierre Joachim Mahe, MD, Philippe Seguin
(2011). “Hydrocortisone therapy for patients with multiple trauma”,
JAMA, 305(12), pp 1201-1209.
14. Bistritzer T, Theodor R, Inbar D, Cohen BE & Sack J (1981). “Anterior
hypopituitarism due to fracture of the sella turcica”, American Journal of
Diseases of Children, 135, pp 966–968.
15. Boer H, Blok GJ, Voerman HJ, et al (1994). “Serum lipid levels in
growth hormone deficient men”. Metabolism, 43, pp 199–203.
16. Beshyah SA, Henderson A, Niththyanathan R, et al (1994). “Metabolic
abnormalities in growth hormone deficient adults: carbohydrate tolerance
and lipid metabolism”. Endocrinol Metab, 1, pp 173–80.
17. Beshyah SA, Freemantle C, Thomas E, et al (1995). “Abnormal body
composition and reduced bone mass in growth hormone deficient
hypopituitary adults”. Clin Endocrinol (Oxf), 42, pp 179–89.
18. Burman P, Broman JE, Hetta J, et al (1995). “Quality of life in adults
with growth hormone (GH) deficiency: response to treatment with
recombinant human GH in a placebo-controlled 21-month trial”. J Clin
Endocrinol Metab, 80(12), pp 3585–3590.
19. Bates AS, Van’t Hoff W, Jones PJ, et al (1996). “The effect of
hypopituitarism on life expectancy”. J Clin Endocrinol Metab, 81(3), pp
1169–1172.
20. Bulow B, Hagmar L, Mikoczy Z, et al (1997). “Increased
cerebrovascular mortality in patients with hypopituitarism”. Clin
Endocrinol (Oxf), 46(1), pp 75–81.
21. Beshyah SA, Johnston DG (1999). “Cardiovascular disease and risk
factors in adults with hypopituitarism”. Clin Endocrinol (Oxf), 50(1), pp
1–15.
22. Benvenga S, Campenni A, Ruggeri RM, Trimarchi F (2000).
“Hypopituitarism secondary to head trauma”. Journal of Clinical
Endocrinology and Metabolism, 85, pp 1353–1361.
23. Bruns J Jr & Hauser WA (2003). “The epidemiology of traumatic brain
injury: a review”. Epilepsia, 44 (Suppl 10), pp 2–10.
24. Bondanelli M, de Marinis L, Ambrosio MR (2004). “Occurrence of
pituitary dysfunction following traumatic brain injury”. Journal of
Neurotrauma, 21, pp 685–696.
25. Bondanelli M, Rosrio M (2005). “Hypopituitarism after traumatic brain
injury”. European journal of Endocrinology, 152, 679 – 691.
26. Bernard F, Outtrim J, Lynch AG, Menon DK (2006). “Hemodynamic
steroid responsiveness is predictive of neurological outcome after
traumatic brain injury”. Neurocrit Care, 5(3), pp 176 – 179.
27. Brooke AM, Kalingag LA, Miraki-Moud (2006).
“Dehydroepiandrosterone (DHEA) replacement reduces growth hormone
(GH) dose requirement in female hypopituitary patients on GH
replacement”. Clin Endocrinol (Oxf), 65(5), pp 673 – 680.
28. Bondanelli M, Maria Rosaria, Ambrosio J (2007). “Anterior pituitary
function may predict functional and cognitive outcome in patients with
traumatic brain injury undergoing rehabilitation”. Neurotrauma, 24(11),
pp 1687 - 1697.
29. Bavisety S, David L (2008). “Chronic hypopituitarism after traumatic
brain injury: risk assessment and relationship to outcome”.
Neurosurgery, 62(5), pp 1080 - 1093.
30. Ceballos R (1966). “Pituitary changes in head trauma (analysis of 102
consecutive cases of head injury)”. Alabama Journal of Medical Sciences,
3 (2), pp 185–198.
31. Crompton MR (1971). “Hypothalamic lesions following closed head
injury”. Brain, 94, pp 165–172.
32. Cooper KD et al (1983). “The epidemiology of head injury in the
Bronx”. Neuroepidemiology, 2, 70 – 88.
33. Chiolero RL, Lemarchand-Beraud (1988). “Thyroid function in severely
traumatized patients with or without head injury”. Acta Endocrinologica
(Copenhagen), 117, pp 80–86.
34. Cuneo RC, Salomon F, Watts GF et al (1993). “Growth hormone
treatment improves serum lipids and lipoproteins in adults with growth
hormone deficiency”. Metabolism, 42(12), pp 1519 – 1523.
35. Consensus guidelines (1998). “Diagnosis and treatment of adults with
growth hormone deficiency, summary statement of the Growth Hormone
Research Society Workshop on Adult Growth Hormone Deficiency”. J
Clin Endocrinol Metab, 83 (2), pp 379 -381.
36. Consensus Conference (1999). “Rehabilitation of persons with traumatic
brain injury. NIH Consensus Development Panel on Rehabilitation of
Persons with Traumatic Brain Injury”. Journal of the American Medical
Association, 282, pp 974–983.
37. Cernak I, Savic VJ, Lazarov (1999). “Neuroendocrine responses
following graded traumatic brain injury in male adults”. Brain Injury,
13(12), pp 1005–1015.
38. Chesnokova V, Melmed S (2002). “Minireview: Neuro-immuno-
endocrine modulation of the hypothalamic-pituitary-adrenal (HPA) axis
by gp130 signaling molecules”. Endocrinology, 143, pp 1571–1574.
39. Cohan P, Wang C, Mcarthur DL et al (2005). “Acute secondary adrenal
insufficiency after traumatic brain injury: a prospective study”. Critical
Care Medicine Oct; 33(10), pp 2358–2366.
40. Daniel P.M, Prichard M.M.and Treip (1959). “Traumatic infarction of
the anterior lobe of the pituitary gland”. Lancet, 2, pp 927–931.
41. Dorin RI, Qualls CR, Crapo LM (2003). “Diagnosis of adrenal
insufficiency”. Ann Intern Med; 139, pp 194–204.
42. David J. Pownera and Cristina Boccalandrob (2008). “Adrenal
insufficiency following traumatic brain injury in adults”. Current Opinion
in Critical Care, 14, pp163– 166.
43. Ezzat S, Asa SL, Couldwell WT, et al (2004). “The prevalence of
pituitary adenomas: a systematic review”. Cancer, 101(3), pp 613 – 619.
44. Eva Fernandez Rodriguez, Ignacio Bernabeu, Ana Isabel Castro (2011).
“Hypopituitarism following traumatic brain injury: determining factors
for diagnosis”. Frontiers in Endocrinology Pituitary Endocrinology
August, 2, pp 1- 6.
45. Ghajar J, Hariri R, Narayan R, Lacono L (1995). “Survey of critical care
management of comatose head injured patients in the United States”. Crit
Care Med, 23, pp 560–67.
46. Greenwald BD, Burnett DM & Miller MA (2003). ”Congenital and
acquired brain injury: epidemiology and pathophysiology”. Archives of
Physical Medicine and Rehabilitation, 84, pp S3–S7.
47. Gaetz M (2004). “The neurophysiology of brain injury”. Clinical
Neurophysiology, 3, pp 1154 –1158.
48. Ghigo E, Masel E, Aimaretti G, et al (2005). “Consensus guidlines on
screening for hypopituitarism following traumatic brain injury”. Brain
Injury, 19, pp 711– 724.
49. Hackl JM, Gottardis M, Wieser C et al (1991). “Endocrine
abnormalities in severe traumatic brain injury–a cue to prognosis in
severe craniocerebral trauma?”. Intensive Care Med, 17(1), pp 25–29.
50. Holmes SJ, Economou G, Whitehouse RW, et al (1994). “Reduced bone
mineral density in patientswith adult onset growth hormone deficiency”. J
Clin Endocrinol Metab, 78, pp 669 – 674.
51. Holmes SJ, Shalet SM (1995). “Characteristics of adults who wish to
enter a trial of growth hormone replacement “. Clin Endocrinol (Oxf), 42,
pp 613 – 618.
52. Herrmann BL, Rehder J (2006). “Hypopituitarism following severe
traumatic brain injury”. Experimental and Clinical Endocrinology and
Diabetes, 114, pp 316–321.
53. Harald Schneider; Ilonka Kreitschmann-Andermahr; Ezio Ghigo (2007).
“Hypothalamopituitary dysfunction following traumatic brain injury and
aneurysmal subarachnoid hemorrhage”. JAMA, 298(12), pp 1429-1438.
54. Hannon HJ, Mrcpi HP (2011), “Pituitary dysfunction following
traumatic brain injury or subarachnoid haemorrhage – In Endocrine
Management in the Intensive Care Unit”, Best Practice and Research
Clinical Endocrinology & Metabolism, 25, pp 783–798.
55. Kornblum, R.N, Fisher (1969). “Pituitary lesions in cranio-cerebral
injuries”. Arch Patho, 88, pp 242–248.
56. Kelly DF, Gaw Gonzalo IT, Cohan P, Berman N, Swedloff R, Wang C
(2000). “Hypopituitarism following traumatic brain injury and
aneurysmal subarachnoid hemorrhage: a preliminary report”. Journal of
Neurosurgery, 93, pp 743–752.
57. Klibanski A (2003). “Growth hormone and cardiovascular risk
markers”. Growth Horm IGF Res 13(Suppl): S109–15.
58. Klose M, Juul A, Struck J et al (2007). “Acute and long-term pituitary
insufficiency in traumatic brain injury: a prospective single-centre study”.
Clinical Endocrinology (Oxf), 67(4), pp 598–606.
59. Klose M, Juul A, Poulsgaard L, Kosteljanetz M (2007).” Prevalence and
predictive factors of post-traumatic hypopituitarism”. Clinical
Endocrinology, 6, pp 193–201.
60. Kronenberg (2008). “Williams textbook of endocrinology”. 11th ed,
Saunders, an imprint of elsevier, Chapter 8 – anterior pituitary, pp 512 –
560.
61. Krahulik D, Zapletalova J (2010). “Dysfunction of hypothalamic –
hypophysis axis after traumatic brain injury in aldult”. J Neurosurg, 113,
pp 581 – 584.
62. Kokshoorn NE, J W A Smit, W A Nieuwlaat (2011) “Low prevalence of
hypopituitarism after traumatic brain injury: a multicenter study”. Eur J
Endocrinol, 165, pp 225-231.
63. Kozlowski MO, Yollin E (2012). “Lasting pituitary hormone deficiency
after traumatic brain injury”. Journal of Neurotrauma, 29, pp 81 – 89.
64. Lam KSL, Wang C, Yeung RTT et al (1986). “Hypothalamic
hypopituitarism following cranial irradiation for nasopharyngeal
carcinoma”. Clin Endocrinol (Oxf), 24, pp 643 – 651.
65. Littley MD, Shalet SM, Beardwell CG et al (1989). “Hypopituitarism
following external radiotherapy for pituitary tumours in adults”. Q J Med,
70, pp 145–160.
66. Lonn L, Kvist, Granga U, et al (1993). “CT-determined body
composition changes with recombinant human growth hormone treatment
to adults with growth hormone deficiency”. Basic Life Sci, 60, pp 229–
231.
67. Lieberman SA, Oberoi AL, Gilkinson CR, Masel BE (2001).
“Prevalence of neuroendocrine dysfunction in patients recovering from
traumatic brain injury”. Journal of Clinical Endocrinology and
Metabolism, 86, pp 2752–2756.
68. Leonsson M, Hulthe J, Johannsson G et al (2003). “Increased
Interleukin-6 levels in pituitary deficient patients are independently
related to their carotid intima-media thickness”. Clin Endocrinol (Oxf),
59(2), pp 242–250.
69. Mayenknecht J, Diederich S (1998). “Comparison of low and high dose
corticotrophin stimulation tests in patients with pituitary disease”. J Clin
Endocrinol Metab, 83 (5), pp 1558 - 1562.
70. Marshall LF, Marshall SB, Klauber MR (1992). “The diagnosis of head
injury requires a classification based on computed axial tomography”.
Journal of Neurotrauma, 9, pp S287–S292.
71. Murray RD, Columb B, Adams JE et al (2004). “Low bone mass is an
infrequent feature of the adult growth hormone deficiency syndrome in
middle-age adults and the elderly”. J Clin Endocrinol Metab, 89(3), pp
1124–1130.
72. Masel BE (2004). “Rehabilitation and hypopituitarism after traumatic
brain injury”. Growth Hormon and IGF Research, 14, pp S108–S113.
73. Malekpour B, Mehrafshan A (2012). “Effect of posttraumatic serum
thyroid hormone levels on severity and mortality of patients with severe
traumatic brain injury”. Acta Medica Iranica, 50 (2), pp 113- 116
74. Oelkers W (1996). “Adrenal insufficiency”. N Engl J Med, 335 (16), pp
1206 - 1212.
75. Ogilvy-Stuart AL (2003). “Growth hormone deficiency (GHD) from
birth to 2 years of age: diagnostic specifics of GHD during the early phase
of life”. Horm Res, 60 (1), pp 2–9.
76. Pierucci G, Gherson G, Tavani M (1971). “Pituitary changes –
especially necrotic – following craniocerebral injuries”. Pathologica, 63,
pp 71–88.
77. Pfeifer M, Verhovec R, Zizek B et al (1999). “Growth hormone (GH)
treatment reverses early atherosclerotic changes in GH-deficient adults”.
J Clin Endocrinol Metab, 84(2), pp 453–457.
78. Popovic V, Pekic S, Pavlovic D (2004). “Hypopituitarism as a
consequence of traumatic brain injury (TBI) and its possible relation with
cognitive disabilities and mental distress”. Journal of Endocrinological
Investigation, 27, pp 1048–1054.
79. Rosen T, Bengtsson B (1990). “Premature mortality due to
cardiovascular disease in hypopituitarism”. Lancet, 336, pp 285–288.
80. Rosen T, Wilhelmsen L, Landin-Wilhelmsen K, et al (1997). “Increased
fracture frequency in adult patients with hypopituitarism and GH
deficiency”. Eur J Endocrinol, 137, pp 240–245.
81. Roberts I, Yates D, Sandercock P, Farrell B (2004). “Effect of
intravenous corticosteroids on death within 14 days in 10008 adults with
clinically significant head injury (MRC CRASH trial): randomised
placebo-controlled trial”. Lancet, 364, pp 1321–1328.
82. Rasa Kazlauskaite, Arthur T. Evans, Carmen V. Villabona, Tariq (2008).
“Corticotropin Tests for Hypothalamic-Pituitary- Adrenal Insufficiency:
A Metaanalysis”. J Clin Endocrinol Metab, 93, pp 4245–4253.
83. Salvatori R (2005). “Adrenal insufficiency”. JAMA, 294 (19), pp 2481 -
2488.
84. Suhail AR, Lasheen I (2006). “Relationship between cortisol increment
and basal cortisol: Implication for the low dose short ACTH hormone
stimulation test”. Clinical chemistry, 52 (4), pp 743 – 749.
85. Schneider HJ, Schneider M, Saller B (2006). “Prevalence of anterior
pituitary insufficiency 3 and 12 months after traumatic brain injury”.
European Journal of Endocrinology, 154, pp 259–265.
86. Salehi, F, Kovacs, Scheithauer (2007). “Histologic study of the human
pituitary gland in acute traumatic brain injury”. Brain Inj, 21, pp 651–
656.
87. Schneider . H, Aimaretti. G (2007). “Hypopituitarism”. Lancet, 369, pp
1461 – 1470.
88. Schneider H, Ghigo E, Agha A (2007). “Hypothalamopituitary
dysfunction following traumatic brain injury and aneurysmal
subarachnoid hemorrhage: A systemic review ”. JAMA, 298 (12), pp 1429
– 1438.
89. Stochholm K, Gravholt C (2007). “Mortality and GH deficiency: a
nationwide study”. European journal of Endocrinology, 157, pp 9 -18.
90. Shlomo melmed (2011). The pituitary, third edition. Academic Press is
an imprint of Elsevier. Chapter 10: anterior pituitary failure, pp 338 –
368.
91. Schneider H, Schneider M (2011). “Structure assessment of
hypopituitarism after traumatic brain injury and aneurismal subarachnoid
hemorrhage in 1242 patients: The German interdisciplinary database”. J
of Neurotrauma, 28, pp 1693 – 1698.
92. Teasdale G, Jennett B (1974). “Assessment of coma and impaired
consciousness, A practical scale”. Lancet, 2, pp 81–84.
93. Tordjman K, Jaffe M (2000). “Low-dose (1 microgram)
adrenocorticotrophin (ACTH) stimulation as a screening test for impaired
hypothalamoepituitaryeadrenal axis function: Sensitivity, specificity and
accuracy in comparison with the high-dose (250 microgram) test”. Clin
Endocrinol (Oxf), 52 (5), pp 633 - 640.
94. Tomlinson JW, Holden N, Hills RK, et al (2001). “Association between
premature mortality and hypopituitarism. West Midlands Prospective
Hypopituitary Study Group”. Lancet, 357(9254), pp 425–431.
95. Toogood AA (2004). “Endocrine consequences of brain irradiation”.
Growth Horm IGF Res, 14, pp S118–S124.
96. Tanriverdi F, Senyurek H, Unluhizarci K et al (2006). “High risk of
hypopituitarism after traumatic brain injury: a prospective investigation of
anterior pituitary function in the acute phase and 12 months after trauma”.
The Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism, 91(6), pp 2105–
2111.
97. Tanriverdi F; Halil Ulutabanca (2007). “Pituitary functions in the acute
phase of traumatic brain injury: Are they related to severity of the injury
or mortality?”. Brain Injury, 21(4), pp 433–439.
98. Tanriverdi .F, DeBellis A, Bizzarro. A, Sinisi.A, Bellastella.A (2008).
“Antipituitary antibodies after traumatic brain injury: is head trauma-
induced pituitary dysfunction associated with autoimmunity?“. Eur J
Endocrinol, 159, pp 7–13.
99. Tanriverdi .F, Halil Ulutabanca, Kursad Unluhizarci (2008). “Three
years prospective investigation of anterior pituitary function after
traumatic brain injury: a pilot study” Clinical Endocrinology, 68, pp 573–
579.
100. Tanriverdi .F, DeBellis. A (2010). “Investigation of antihypothalamus
and antipituitary antibodies in amateur boxers: is chronic repetitive head
trauma-induced pituitary dysfunction associated with autoimmunity?”.
Eur J Endocrinol, 162, pp 861–867.
101. Rasa Kazlauskaite, Arthur T. Evans, Bruno Ambrosi (2008).
“Corticotropin Tests for Hypothalamic - Pituitary- Adrenal Insufficiency:
A Metaanalysis”. J Clin Endocrinol Metab, 93, pp 4245–4253.
102. Rosario ER (2013). “Hypothalamic-Pituitary Dysfunction Following
Traumatic Brain Injury Affects Functional Improvement During Acute
Inpatient Rehabilitation”. J Head Trauma Rehabil, 28 (5), pp 390 -396.
103. Woolf PD (1986). “Transient hypogonadotropic hypogonadism after
head trauma: effects on steroid precursors and correlation with sympathic
nervous system activity”. Clinical Endocrinology, 25, pp 265 – 274.
104. Woolf PD (1992). “Hormonal responses to trauma”. Critical Care
Medicine, 20, pp 216–226.
105. Wang Z, Jiang J (1999). “Current status of trauma care in China”.
Trauma Q, 14, pp 233–240.
106. Wachter. D, Gündling.K (2009). “Pituitary insufficiency after traumatic
brain injury”. J. Clin Neu rosci, 6, pp 202–208.
107. Wallace I, Cunningham S, Lindsay J (2009). “The diagnosis and
investigation of adrenal insufficiency in adults”. Ann Clin Biochem, 46
(5), pp 351 - 367.
108. Wagner J, Dusick JR (2010). “Acute gonadotroph and somatotroph
hormonal suppression after traumatic brain injury”. Journal of
Neurotrauma, 27, pp 1007 – 1019.
109. Zaben Malik, Wessam E (2013). “Post - traumatic head injury pituitary
dysfunction”. Disability & Rehabilitation, 35 (6), pp 522 – 525.
Ẫ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do –Hạnh phúc
BỆNH VIỆN CHỢ RẪY PHÒNG KẾ HOẠCH TỔNG HỢP
XÁC NHẬN DANH SÁCH BỆNH NHÂN NẰM VIỆN
Ngƣời yêu cầu xác nhận: Bs Phan Hữu Hên – Học viên nghiên cứu sinh Nội tiết
SỐ NHẬP
STT
HỌ VÀ TÊN
NĂM SINH GIỚI TÍNH
VIỆN
1.
33050
Đỗ Hoàng T.
1974
Nam
2.
30558
Hứa Bửu H.
1980
Nam
3.
31989
Hoàng Văn P.
1935
Nam
4.
26242
Nguyễn Đăng Kh.
1991
Nam
5.
32041
Lê văn L.
1958
Nam
6.
33210
Trịnh Ngọc B.
1973
Nam
7.
33689
Trần Văn D.
1961
Nam
8.
33215
Trần Tuấn Kh.
1965
Nam
9.
35445
Dương Văn K.
1990
Nam
10.
46960
Đồng Văn C.
1988
Nam
11.
47095
Tăng Văn Q.
1984
Nam
12.
44506
Trần Cao S.
1993
Nam
13.
37909
Nguyễn Quốc H.
1992
Nam
14.
48979
Phạm Thị Hồng Th.
1958
Nữ
15.
49369
Ngọc Thị Đ.
1940
Nữ
16.
46678
Nguyễn M.
1940
Nam
17.
44550
V Văn H.
1957
Nam
18.
49431
Lê Văn O.
1990
Nam
19.
42362
Vũ Thế C.
1982
Nam
20.
50090
Đỗ Văn R.
1952
Nam
21.
49425
Lương Thị Mỹ L.
1993
Nữ
22.
50244
Hồ Văn Đ.
1953
Nam
23.
49276
Nguyễn Văn N.
1996
Nam
24.
51953
Nguyễn Duy S.
1970
Nam
25.
51159
Nguyễn Quôc Kh.
1988
Nam
26.
51861
Đỗ Văn T.
1987
Nam
27.
47069
Nguyễn Văn M.
1986
Nam
28.
51857
Trương Minh T.
1987
Nam
29.
51596
Nguyễn Thanh V.
1980
Nam
30.
52388
Hứa Văn T.
1968
Nam
31.
51459
Nguyễn Thị H.
1926
Nữ
32.
53305
Lê Hữu T.
1953
Nam
33.
54213
Trần Thanh T.
1995
Nam
34.
53247
Lê Hữu T.
1973
Nam
35.
54225
Trần Đình G.
1985
Nam
36.
54417
Trần Thanh T.
1991
Nam
37.
51818
Lê Thị S.
1988
38.
55320
Hố Văn S.
1945
Nam
39.
54155
Huỳnh Hồng N.
1990
Nữ
40.
55327
Lê Văn Châu T.
1972
Nam
41.
54170
Nguyễn Hoàng N.
1963
Nam
42.
52884
Nguyễn Văn T.
1951
Nam
43.
57238
Trần Ngọc T.
1959
Nam
44.
56363
Lê Thành H.
1974
Nam
45.
55983
Huỳnh Văn P.
1959
Nam
46.
56402
Trần Văn T.
1972
Nam
47.
57566
Huỳnh Quốc C.
1991
Nam
48.
57152
Trần Bé S.
1978
Nam
49.
57646
Dương Minh N.
1988
Nam
50.
57265
Lê Thị N.
1960
Nữ
51.
58828
V Đăng C.
1971
Nam
52.
59172
Đỗ Văn G.
1982
Nam
53.
59683
Phan Hữu B.
1982
Nam
54.
59175
Nguyễn Thị Diễm T.
1974
Nữ
55.
61265
Thân Văn T.
1992
Nam
56.
62043
Hoàng Văn C.
1981
Nam
57.
61411
Nhan Thị G.
1954
Nữ
58.
62124
Phạm Ngọc T.
1968
Nam
59.
62080
Nguyễn Thanh Q.
1981
Nam
60.
61379
Trịnh Xuân D.
1983
Nam
61.
61604
Hồ Quốc C.
1996
Nam
62.
61626
Trần Mạnh H.
1988
Nam
63.
60370
Võ Thành T.
1968
Nam
64.
64098
Bùi Trần Phương D.
1988
Nam
65.
61681
Lê Văn C.
1984
Nam
66.
63853
Trịnh Văn L.
1963
Nam
67.
62977
Huỳnh Văn B.
1936
Nam
68.
63846
Huỳnh Văn Y
1967
Nam
69.
63881
Võ Minh T.
1992
Nam
70.
64351
Cao Hoàng V.
1989
Nam
71.
64551
Nguyễn Văn B.
1946
Nam
72.
65751
Nguyễn Văn T.
1962
Nam
73.
65546
Phan Văn Đ.
1969
Nam
74.
61120
Nguyễn Thị N.
1967
Nữ
75.
64543
Trần Văn V.
1956
Nam
76.
66644
Nguyễn Thị N.
1978
Nữ
77.
67174
Nguyễn Văn H.
1988
Nam
78.
67588
Bùi Văn B.
1994
Nam
79.
65219
Huỳnh Trung T.
1990
Nam
80.
64140
Trần Văn K.
1989
Nam
81.
63989
Nguyễn Hoàng Q.
1991
Nam
82.
68713
Đặng Thế V.
1994
Nam
83.
69181
Lê Văn B.
1938
Nam
84.
69250
Lâm Trung D.
1986
Nam
85.
69689
Nguyễn Thị Mộng C.
1985
Nữ
86.
69009
Lê Vũ H.
1990
Nam
87.
70860
Dương Văn B.
1979
Nam
88.
72007
Lê Phước T.
1972
Nam
89.
70988
Lê Công B.
1970
Nam
90.
71692
Hồ Trần Trúc N.
1992
Nữ
91.
72124
Huỳnh Ngọc H.
1955
Nam
92.
68820
Trần Quốc D.
1981
Nam
93.
71736
Nguyễn Văn T.
1992
Nam
94.
71521
Võ Thành N.
1989
Nam
95.
72365
Mai Văn N.
1993
Nam
96.
70530
Nguyễn Văn T.
1992
Nam
97.
72645
Nguyễn Đức V.
1990
Nam
98.
71650
Đoàn Dũng S.
1982
Nam
99.
74013
Ngô Đức Minh H.
1971
Nam
100.
74637
Ngô Quốc A.
1951
Nam
101.
73715
Phan Văn T.
1937
Nam
102.
73785
Vũ Minh H.
1982
Nam
103.
72694
Nguyễn Anh T.
1985
Nam
104.
73417
Lê Văn C.
1962
Nam
105.
75009
Kiên Phước L.
1993
Nam
106.
77063
Bùi Văn T.
1966
Nam
107.
75828
Phan Thanh P.
1983
Nam
108.
77035
V Văn P.
1972
Nam
109.
76193
Nguyễn Văn S.
1966
Nam
110.
76440
Huỳnh Hữu N.
1987
Nam
111.
75899
Nguyễn Khương S.
1983
Nam
112.
77141
Phạm Văn T.
1967
Nam
113.
77121
Nguyễn Hoàng Phong B.
1986
Nam
114.
79510
Ngô Văn L.
1983
Nam
115.
77625
Phan Văn C.
1940
Nam
116.
76459
Lương Ngọc Đ.
1985
Nam
117.
78970
V Thế L.
1971
Nam
118.
79059
Nguyễn Ngọc S.
1979
Nam
119.
79797
Phạm Văn T.
1981
Nam
120.
80325
Mai Văn N.
1993
Nam
121.
80814
Nguyễn Hữu H.
1973
Nam
122.
81081
Phạm Thanh B.
1985
Nam
123.
82453
Giảng Thanh H.
1977
Nam
124.
82263
Lê Văn D.
1973
Nam
125.
82477
Nguyễn Hữu T.
1978
Nam
126.
81236
Nguyễn Thị L.
1990
Nữ
127.
82116
Đàng Năng P.
1994
Nam
128.
79823
Nguyễn Thị Thanh Q.
1990
Nữ
129.
83340
Lê Xuân N.
1968
Nam
130.
83722
Lê Văn D.
1992
Nam
131.
82738
Phạm Hoàng Minh T.
1985
Nam
132.
83463
Nguyễn Văn P.
1959
Nam
133.
82910
Nguyễn Văn T.
1976
Nam
134.
83503
Nguyễn Quang T.
1986
Nam
135.
84171
Nguyễn Hữu P.
1987
Nam
136.
86150
Lê Hồng T.
1985
Nam
137.
84533
Trịnh Thị Thu H.
1992
Nữ
138.
82431
Phạm Thanh H.
1964
Nam
139.
85669
Đỗ Văn H.
1980
Nam
140.
83532
Hà Nhị T.
1965
Nam
141.
86080
Nguyễn Thành M.
1962
Nam
86666
Nguyễn Văn L.
1976
Nam
142.
88517
Phan Thanh N.
1990
Nam
143.
88423
Đặng Đình T.
1988
Nam
144.
90957
Nguyễn Tiên C.
1980
Nam
145.
89525
V Văn L.
1960
Nam
146.
90951
Nguyễn Huỳnh N.
1994
Nữ
147.
87283
Trần Thị T.
1994
Nữ
148.
92629
Trần Lê Ngọc H.
1998
Nữ
149.
93290
Đặng Minh Đ.
1990
Nam
150.
93288
Trương Hoàng V.
1996
Nam
151.
93451
Nguyễn Tài H.
1992
Nam
152.
95613
Thái Văn M.
1968
Nam
153.
95741
Lê Thanh S.
1985
Nam
154.
94405
Trần Văn T.
1989
Nam
155.
70920
Nguyễn Văn T.
1986
Nam
156.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 12 năm 2013
TRƯỞNG PHÒNG (đã ký)
BẢNG ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ ANH – VIỆT
ACTH Hoc mon kích thích vỏ thượng thận
(Adrenocorticotropic hormone)
CT scan Chụp cắt lớp điện toán (Computerized Tomography
Scan)
Hoc mon kích thích nang trứng (Follicle Stimulating FSH
Hormone )
Hoc mon T4 tự do (Free T4) fT4
Hoc mon tăng trưởng (Growth Hormone) GH
Glasgow Outcome Thang điểm tiên lượng Glasgow
Scale
Glasgow Coma Scale Thang điểm hôn mê Glasgow
Insulin-like growth factor 1 IGF1
Hoc mon kích thích hoàng thể (Luteinizing Hormone) LH
Tỷ số chênh (Odd Ratio) OR
Độ lệch chuẩn (Standard deviation) SD
Hoc mon kích thích tuyến giáp (Thyroid – stimulating TSH
hormone)
TRH Hoc mon giải phóng TSH (Thyrotropin-releasing
hormone)