
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2015. ISBN : 978-604-82-1710-5
416
NGHIÊN CỨU TÍNH TOÁN SỰ SUY GIẢM BÙN CÁT
TRÊN HỆ THỐNG SÔNG VU GIA – THU BỒN SAU
KHI XÂY DỰNG HỒ CHỨA Ở THƯỢNG NGUỒN
Trần Thanh Tùng, Mai Hoàn Thành, Thái Văn Bổng, Nguyễn Quang Chiến
Đại học Thủy lợi
1. GIỚI THIỆU CHUNG
Lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn có diện
tích 11.510 km2, với phạm vi trong khoảng vĩ
độ 16°03′14°55′B, kinh độ 107°15′
108°24′Đ. Hệ thống sông gồm có 78 sông
suối có chiều dài sông trên 10 km trở lên [2].
Gần đây có khá nhiều hồ chứa thủy điện lớn
được xây dựng trên hệ thống sông (bảng 1).
Việc xây dựng các hồ chứa thượng nguồn đã
làm suy giảm bùn cát ở vùng hạ lưu phía sau
đập do hầu hết bùn cát bị lắng đóng trong
lòng hồ.
Bảng 1. Các hồ chứa trên hệ thống sông
Dự án
thủy điện
Tháng/ quý
khởi công
Tháng / quý
hoàn thành
A Vương
08/2003
12/2008
Sông Côn 2
11/2005
08/2009
Sông Tranh 2
I/2006
IV/2011
Ðăk Mi 4
II/2007
I/2012
Sông Bung 4
II/2010
I/2014
Sông Bung 2
III/2011
IV/2014
Sông Bung 4A
IV/2009
IV/2012
Sông Bung 6
III/2010
IV/2012
A Vương
S. Bung 2 S. Bung 4
Đăk Mi 4
S. Tranh 2 TV. Nông Sơn
TV. Thành Mỹ
Trạm thủy văn
Hồ chứa
Hình 1. Sơ đồ vị trí hồ chứa và trạm thủy văn
trên hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn
2. PHÂN TÍCH CHUỖI SỐ LIỆU
Trên lưu vực nghiên cứu có 10 trạm thủy
văn, nhưng chỉ có 2 trạm đo lưu lượng và cát
bùn lơ lửng, là trạm Nông Sơn (trên Sông
Thu Bồn) và Thành Mỹ (S. Cái). Các trạm
được thành lập từ những năm 70 của thế kỷ
trước và số liệu quan trắc có chất lượng tốt.
Số liệu đo đạc độ đục được thu thập từ 1978
và khá đầy đủ (có số liệu liên tục từ năm
1991). Lưu lượng bùn cát được tính toán từ
độ đục là lưu lượng dòng chảy trung bình nên
có thể có sai số do đo đạc. Tuy nhiên sai số
này có thể chấp nhận khi sử dụng tính toán
suy giảm bùn cát trên lưu vực. Dựa trên
chuỗi số liệu này (hình 2), ta xác định được 3
giai đoạn thay đổi đặc trưng bùn cát.
Hình 2. Độ đục và lưu lượng bùn cát tại hai
trạm Nông Sơn – Thành Mỹ (1978 – 2013)
Trong giai đoạn từ năm 1977 đến năm
1995 độ đục khá ổn định, thường thấp hơn

Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2015. ISBN: 978-604-82-1710-5
417
100 g/m3. Giá trị độ đục lớn nhất vào năm
1983, tại trạm Nông Sơn là 152 g/m3, tại trạm
Thành Mỹ là 255 g/m3.
Giai đoạn từ 1996 đến 2009 lưu lượng bùn
cát có lúc tăng rất cao (đặc biệt là năm 2009,
riêng Nông Sơn là các năm 1996, 1999,
2000) do có nhiều những trận lũ lớn xảy ra và
diện tích rừng che phủ bị thu hẹp. Độ đục
trung bình trong giai đoạn này trên 300 g/m3,
trạm Nông Sơn năm 2009 độ đục tương ứng
là 412 g/m3 và trạm Thành Mỹ là 640 g/m3.
Tuy nhiên, giai đoạn từ năm 2010 đến năm
2013 độ đục của 2 trạm thay đổi theo xu
hướng trái chiều nhau. Tại trạm Nông Sơn độ
đục có xu hướng giảm dần nhưng tại trạm
Thành Mỹ lại tăng khá cao từ khoảng 400
g/m3 đến 701,5 g/m3 (năm 2013).
Tương quan độ đục giữa hai trạm là khá tốt
(hình 3) trong từng giai đoạn trước và sau khi
xây đập (2006 – nay); ở giai đoạn độ đục tại
Thành Mỹ có xu hướng tăng hơn so với tại
Nông Sơn. Có ba điểm biệt lập (các năm 1999,
2003 và 2013) bị loại khỏi tương quan này.
Hình 3. Tương quan độ đục hai trạm
3. ĐỊNH LƯỢNG SỰ SUY GIẢM BÙN
CÁT SAU KHI HỒ CHỨA HOẠT ĐỘNG
3.1. Đánh giá sự điều tiết nước của các
hồ chứa theo mùa
Hình 4. Lưu lượng nước tại trạm Nông Sơn
từ 2001 đến 2004
Từ hình 4 ta có thể nhận thấy mùa lũ trên
sông bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 12; lưu
lượng dao động trong khoảng từ 600 đến
1000 m3/s.
Hình 5. Lưu lượng nước tại trạm Nông Sơn
từ 2010 đến 2013
Sau khi hồ chứa đi vào hoạt động, việc
điều tiết nước của hồ chứa đã làm thay đổi
lưu lượng nước trung bình các tháng trong
năm (Hình 5). Lưu lượng nước sông tháng 12
giảm rất thấp, khoảng 200 m3/s so với trước
khi xây dựng hồ chứa (lưu lượng đạt khoảng
400 đến 600 m3/s). Mặt khác, lưu lượng nước
sông các tháng mùa kiệt lại khá ổn định từ
100 đến 200 m3/s so với giai đoạn trước khi
xây dựng (thấp dưới 100 m3/s).
Chính vì việc điều tiết nước của hồ chứa
không tuân theo quy luật của tự nhiên đã trực
tiếp làm thay đổi lưu lượng nước sông là
nguyên nhân làm cho độ đục tại các trạm đo
thay đổi (mục 2).
3.2. Định lượng sự suy giảm bùn cát
3.2.1. Công thức tính toán lượng bùn cát [1]
Độ đục năm:
ρnăm = (ΣRnăm×1000)/ΣQnăm (g/s)
trong đó: Qnăm là lưu lượng nước trung bình
năm (m3/s) còn Rnăm là lưu lượng bùn cát
trung bình năm (kg/s).
Lượng bùn cát trung bình năm = Rnăm ×
3600 × 24 × 365 / 1000 (tấn/năm).
Lượng bùn cát suy giảm hay tăng thêm =
lngbï nc¸ ttrc- lngbï nc¸tsau
lngbï nc¸ ttrc
×100%
3.2.2. Suy giảm bùn cát tại hai trạm Nông
Sơn và Thành Mỹ
Tại trạm Nông Sơn lưu lượng trung bình
bùn cát năm từ giai đoạn 1996–2009 là

Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2015. ISBN : 978-604-82-1710-5
418
2,57×106 tấn/năm, giai đoạn sau khi hồ chứa
hoạt động từ năm 2010 - 2013 là 1,71×106
tấn/năm. Như vậy, lượng bùn cát suy giảm
trung bình năm của thời gian hồ chứa hoạt
động và thời gian khi chưa có sự hoạt động
của hồ chứa là 0,86×106 tấn/năm, tức là giảm
tới 33,5%. Ảnh hưởng của hồ chứa tới lưu
lượng bùn cát (R) tại trạm Nông Sơn là
khá lớn.
Tại trạm Thành Mỹ, lưu lượng bùn cát
trong bình năm trong giai đoạn 1996–2009 là
1,55×106 tấn/năm, và giai đoạn 2010–2013,
là 1,98×106 tấn/năm, tức là đã tăng thêm
0,42×106 tấn/năm hay 27%. Lưu lượng bùn
cát tăng mạnh có thể do ảnh hưởng của việc
chuyển dòng nước sang sông Thu Bồn làm
dòng chảy của sông bị thay đổi, địa hình đáy
và bờ sông bị xói dẫn đến gia tăng lưu lượng
bùn cát tại trạm đo. Như vậy tính chung hai
đoạn sông hạ lưu hai trạm Nông Sơn và
Thành Mỹ thì lượng bùn cát giảm 0,44×106
tấn/năm (11%).
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Từ các kết quả tính toán lưu lượng bùn cát
và độ đục tại 2 trạm Nông Sơn và Thành Mỹ
trên hệ thống Vu Gia – Thu Bồn có thể kết
luận rằng lưu lượng trung bình tháng của các
trạm chịu sự ảnh hưởng của việc điều tiết
nước của hồ chứa thượng nguồn và đã làm
giảm độ đục so với những năm trước khi xuất
hiện hồ chứa. Kết quả tính toán (trạm Nông
Sơn) cho thấy lưu lượng bùn cát đã giảm tới
33,5% trước so với trước khi xây dựng hồ
chứa. Tuy nhiên, kết quả tính toán tại trạm
Thành Mỹ cho thấy lưu lượng bùn cát giai
đoạn từ năm 2010 – 2013 lại tăng tới 27% so
với trung bình nhiều năm. Song lượng tăng
bùn cát trên trạm Thành Mỹ cũng chỉ bằng
0,5 lần lượng giảm bùn cát trung bình năm
của trạm Nông Sơn. Kết quả là lượng bùn cát
tổng hợp trên hai sông này giảm đi 11%.
Hai trạm Thành Mỹ và Nông Sơn nằm khá
xa về phía hạ lưu các hồ chứa nên kết quả đo
đạc chưa phản ánh hết được sự suy giảm
lượng bùn cát do lắng đọng trong hồ chứa vì
khi nước từ hồ chứa chảy tới trạm đo có thể
xảy ra hiện tượng xói lở đáy sông và thay đổi
địa hình sông làm cho lưu lượng bùn cát đo
được ở các trạm đo không giảm. Mặc dù
chuỗi số liệu tính toán đã cập nhật tới năm
2013, nhưng vẫn chưa đủ dài để đánh giá đầy
đủ ảnh hưởng của các hồ chứa tới bùn cát ở
hạ lưu. Để đánh giá đầy đủ và chính xác hơn
các tác động này, cần phải có thêm các số
liệu đo đạc đầy đủ về bùn cát ở trước và sau
các hồ chứa và bố trí thêm các trạm đo.
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đỗ Tất Túc, Phạm Thị Lan Hương, Nguyễn
Năng Minh, 2009, Giáo trình đo đạc và
chỉnh lý số liệu thủy văn. Đại học Thủy lợi.
[2] Trần Thanh Xuân, 2007. Đặc điểm thủy văn
và nguồn nước sông Việt Nam. NXB
Nông nghiệp.