
CÁC QUAN ĐI
ỂM KHÁC NHAU TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC VỀ VẤN
ĐỀ MƯU CẦU HẠNH PHÚC CÁ NHÂN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI
XÃ HỘI TA HIỆN NAY
NGUYỄN TẤN HÙNG (*)
Hạnh phúc và mưu cầu hạnh phúc cá nhân là vấn đề luôn được quan tâm
trong lịch sử triết học. Bài viết điểm qua các quan niệm trong lịch sử triết học
– cả phương Đông và phương Tây – về vấn đề quan trọng này. Từ đó, bài viết
nêu lên quan điểm của chủ nghĩa Mác: phản đối những quan điểm hạnh phúc
mang tính ảo tưởng, cực đoan; hạnh phúc cá nhân không thể tách rời hạnh
phúc cộng đồng; quan niệm về hạnh phúc phải được xem xét từ phương diện
toàn diện và lịch sử cụ thể; vấn đề hạnh phúc liên quan chặt chẽ đến sự xác
định và thực hiện lý tưởng sống của mỗi cá nhân, v.v.. Thông qua cách nhìn
mácxít về hạnh phúc, bài viết xác định một vài vấn đề đang đặt ra trong xã hội
ta hiện nay.
Trong cuộc sống của mỗi người, ai cũng hướng tới mục đích mưu cầu hạnh
phúc. “Quyền được mưu cầu hạnh phúc” là một trong những quyền con người
đã được nêu lên trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên
ngôn Độc lập của nước ta năm 1945. Đây không chỉ là vấn đề chính trị và đạo
đức, mà còn là một vấn đề triết học; nó đã được đặt ra từ thời cổ đại và được
tranh luận trong suốt lịch sử phát triển của triết học. Tìm hiểu cuộc tranh luận
đó là việc làm cần thiết để có được những quan niệm đúng đắn về vấn đề này,
bởi lẽ đây là vấn đề có ý nghĩa lớn trong việc xác định lẽ sống cho mỗi người,
nhất là đối với việc giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
Ở Ấn Độ cổ đại, chủ nghĩa khổ hạnh tôn giáo đòi hỏi cá nhân người tu hành
phải hy sinh những ham muốn, dục vọng đời thường, dấn thân vào việc tu

luyện khắc khổ để mong được giải thoát khỏi kiếp đời đau khổ nơi trần gian.
Nó xuất phát từ triết lý trong Kinh Vêđa rằng, mọi đau khổ của con người đều
xuất phát từ những ham muốn dục vọng cá nhân; chúng làm cho linh hồn cá
thể (atman) mãi mãi gắn bó với thể xác trong một vòng luân hồi bất tận, là cái
nghiệp gây ra hậu quả đau khổ ở kiếp sau. Nó có nhiều biểu hiện đa dạng, từ
việc hạn chế ăn uống cho đến việc từ bỏ quan hệ tính dục. Ngoài ra, chủ nghĩa
này còn có những biểu hiện cực đoan khác như suốt đời chỉ sử dụng một tay
hoặc một chân; không dùng vải che thân... Tất cả những việc làm đó đều chỉ
nhằm một mục đích duy nhất là mưu cầu sự bất tử và hạnh phúc vĩnh cửu cho
linh hồn cá nhân người tu hành. Mục đích này có lẽ là điều hấp dẫn nhất của
tất cả mọi tôn giáo trong lịch sử. Tuy nhiên, suy cho cùng, đây chỉ là điều
mong ước chủ quan của con người, trái với quy luật khách quan và tính khả thi
của nó không có gì chứng thực được. Nhà thiên văn học Mỹ nổi tiếng Carl
Sagan đã có câu nói chí lý: “Thà rằng sự thật nghiệt ngã còn hơn điều tưởng
tượng để an ủi”.
Đối lập với chủ nghĩa khổ hạnh tôn giáo, phái Charvaka (còn gọi là Lokayata)
- một trào lưu triết học duy vật vô thần ở Ấn Độ cổ đại - lại bác bỏ ảo tưởng ở
kiếp sau, phản đối phương pháp tu luyện khổ hạnh. Họ khẳng định: quan niệm
cho rằng những khoái lạc gắn với những sự vật cảm tính là không tránh khỏi đi
liền với những đau khổ là những lý lẽ ngu ngốc. Nó cũng giống như bảo rằng
chúng ta hãy ném bỏ những hạt thóc đi vì chúng gắn liền với cái vỏ trấu và bụi
đất; không có thiên đường, không có sự giải thoát, không có linh hồn ở thế giới
khác; không có nghiệp báo; không ai có thể thoát khỏi cái chết. Khi đã có cuộc
sống thì bạn hãy sống một cách vui vẻ.
Quan điểm này, về cơ bản là đúng, nhưng còn mang tính chất thô thiển nên bị
các khuynh hướng tôn giáo chống đối mãnh liệt và bị coi là một thứ chủ nghĩa
khoái lạc.
Ở Trung Hoa, Việt Nam và một số nước khác, trong suốt thời kỳ phong kiến,

tuy không biết đến biểu hiện cực đoan của chủ nghĩa khổ hạnh hay chủ nghĩa
khoái lạc, nhưng lối sống của xã hội cũng chịu ảnh hưởng của hai khuynh
hướng đối lập nhau. Trước hết là khuynh hướng nhập thế của Nho gia, chủ
trương người trí thức phải học hành đến nơi đến chốn và đem tài năng của
mình ra giúp đời, giúp nước. Hạnh phúc lớn nhất của người quân tử là được
cống hiến cho xã hội, lập được công danh. Khổng Tử đã từng phân biệt quan
niệm về hạnh phúc của người quân tử với quan niệm của kẻ tiểu nhân. Ông
nói: “Quân tử nghĩ đến đức, tiểu nhân nghĩ đến chỗ ở; quân tử quan tâm đến
phép tắc, tiểu nhân quan tâm đến ân huệ”(1).
Ngược lại, những người theo phái Đạo gia (do Lão Tử sáng lập, Trang Tử phát
triển) đã coi hạnh phúc cá nhân là ở cuộc sống vô vi, nhàn hạ, hòa hợp với tự
nhiên. Sống hạnh phúc là sống thanh đạm, biết đủ, biết dừng, không tham lam,
không bon chen, không cạnh tranh. Lối sống này cũng trở thành lối sống của
nhiều người trí thức khi chưa gặp thời hoặc khi đã hoàn thành nghĩa vụ đối với
xã hội.
Hai quan niệm về hạnh phúc của Nho gia và Đạo gia, tuy đối lập nhau về cơ
bản, nhưng cũng có những khía cạnh tương đồng, như coi khinh và phản đối
lối sống chạy theo lợi ích vật chất tầm thường, ích kỷ của cá nhân, gắn hạnh
phúc với đạo đức, phản đối việc mưu cầu hạnh phúc bằng con đường bất
chính… nên cả hai quan niệm đều được những người trí thức phương Đông,
trong đó có những người trí thức Việt Nam, vận dụng trong những điều kiện,
hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống.
Trong triết học phương Tây, từ thời cổ Hy Lạp, cũng đã có cuộc đấu tranh gay
gắt giữa chủ nghĩa khoái lạc (hedonism) và chủ nghĩa khổ hạnh (asceticism),
nhưng dưới những hình thức khác. Chủ nghĩa khổ hạnh Hy Lạp tuy không
mang màu sắc tôn giáo, nhưng lại gắn liền với triết lý phủ nhận mọi giá trị của
văn hóa, văn minh; coi văn hóa, văn minh là nguồn gốc của đau khổ, kêu gọi
con người quay trở về với cuộc sống mông muội. Đó là lối sống của phái

Xinich (Cynics) do Antixten (Antisthenes, khoảng 445 - 365 TCN.), một môn đồ
của Xôcrát, sáng lập và được Điôgien ở Xinôp (Diogenes of Sinope, khoảng 404
- 323 TCN.) phát triển. Phái này chủ trương thực hiện lối sống đạo đức bằng
việc coi khinh và từ bỏ tất cả những thành quả của văn minh, văn hóa, sống một
cuộc sống lang thang, rách rưới, bẩn thỉu như súc vật.
Bên cạnh phái Xinich còn có phái Xtôít (Stoicism), hay còn gọi là phái Khắc
kỷ, do Dênôn ở Xiti (Zeno of Citium, khoảng 334–262 TCN.) sáng lập, được
nhà triết học Hy Lạp Epictetuyt (Epictetus, khoảng 55-135) và Hoàng đế La
Mã Marcus Aurelius (121-180) phát triển. Phái Xtôít cho rằng, vũ trụ được
điều khiển bằng lý trí (logos), bằng luật lệ tuyệt đối. Người có lý trí là người
hành động theo quy luật tự nhiên. “Hãy sống phù hợp với tự nhiên” là câu
châm ngôn của phái Xtôít. Để đạt được hạnh phúc, phái Xtôít chủ trương sống
có đạo đức, có lý trí, dửng dưng trước tất cả mọi ham muốn vật chất. Bằng
cách chế ngự được ham muốn và xúc cảm, những người Xtôít tin rằng có thể
loại trừ được những tác động từ thế giới bên ngoài và tìm thấy sự yên bình bên
trong tâm hồn.
Đối lập với các khuynh hướng khắc kỷ nêu trên, chủ nghĩa khoái lạc cũng phát
triển mạnh trong suốt lịch sử triết học phương Tây, từ cổ đại đến hiện đại.
Phái Xirenait (Cyrenaics) do Arixtíp (Aristippus, khoảng 430-350 TCN.), một
môn đồ của Xôcrát, sáng lập, là một thứ chủ nghĩa khoái lạc tầm thường, vị kỷ,
đưa ra một học thuyết mà theo đó, sự thỏa mãn những dục vọng trực tiếp của
cá nhân, không cần quan tâm đến người khác, được coi là mục đích tối cao.
Những khoái cảm xác thịt, theo phái này, còn đáng giá hơn những niềm vui trí
tuệ hư ảo và phức tạp. Thực tế lịch sử đã cho thấy sai lầm cơ bản trong quan
điểm của phái này, vì khi cá nhân con người chạy theo những khoái cảm xác
thịt tầm thường thì không thể có được hạnh phúc toàn diện, lâu dài được.
Trái với chủ nghĩa khoái lạc vị kỷ, chủ nghĩa khoái lạc Êpiquya, gắn với

trường phái triết học do Êpiquya (Epicurus, 341 - 271 TCN.) sáng lập, là một
thứ chủ nghĩa khoái lạc lý tính. Phái Êpiquya cho rằng, khoái lạc chân chính
chỉ có thể đạt được bằng lý trí. Họ đề cao những phẩm hạnh như tính tự chủ và
sự cẩn trọng. Khoái lạc lớn nhất là ở cuộc sống bình dị và điều độ, tiêu dao với
bè bạn và cùng đàm luận triết học với họ. Họ lập luận rằng, sẽ là không tốt nếu
làm điều gì đó để có được khoái cảm nhất thời nhưng lại gây ra hậu quả xấu
cho tương lai, chẳng hạn, sự hoang dâm quá độ sẽ có hậu quả bất hạnh về sau.
Ở thế kỷ XVIII và XIX, những nhà triết học Anh, như Gierơmi Bentam
(Jeremy Bentham, 1748 - 1832), và Giôn Xtuat Minlơ (John Stuart Mill, 1806
– 1873) đã đề xuất học thuyết khoái lạc phổ quát, được gọi là chủ nghĩa vị lợi
(utilitarianism). Theo Bentam, tiêu chuẩn cuối cùng của hành vi đạo đức của
cá nhân là làm điều lợi cho xã hội theo nguyên tắc “hạnh phúc lớn nhất cho số
đông người nhất” (the greatest happiness for the greatest number). Minlơ đã
phát triển và hoàn thiện tư tưởng của Bentam. Song, khác với Bentam, Minlơ
đã phân biệt sự khác nhau về chất giữa các loại khoái cảm (pleasures). Ông
cho rằng, những khoái cảm tinh thần và đạo đức cao hơn những khoái cảm vật
chất. Cũng có sự khác nhau giữa hạnh phúc (happiness) và sự mãn nguyện
(contentment), “thà làm một Xôcrát không thỏa mãn còn hơn một tên ngu đần
mãn nguyện”. Minlơ cũng phân biệt những trình độ cao thấp của hạnh phúc,
chẳng hạn, thưởng thức nhạc kịch (opera) là hạnh phúc ở trình độ cao hơn so
với việc chơi những trò chơi trẻ con đơn giản, mặc dù chúng có thể làm cho
nhiều người vui thích hơn là đi xem biểu diễn nhạc kịch. Cũng theo Minlơ,
những người ít học thức thường chạy theo những khoái cảm đơn giản, tầm
thường; chỉ có những trí thức mới hiểu biết được giá trị của những khoái cảm
tinh thần ở trình độ cao.
Thuyết vị lợi của Minlơ đã được nhiều nhà triết học chấp nhận và tán dương,
vì nó khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa khoái lạc vị kỷ, tầm
thường, nâng chủ nghĩa khoái lạc lên một trình độ khác khi đề cao giá trị tinh