NGUYÊN NHÂN GÂY SÂU RĂNG VÀ CÁCH
CHỮA
Sâu răng là b
ệnh rất phổ biến, có thể
I ở mọi lứa tuổi (từ những trẻ răng
sữa cho đến ngưi già).
Ngoài việc gây đau nhức và nhng biến chứng
viêm tuỷ, viêm quanh chân răng, sâu răng c
òn gây
ra những cản trở về giao tiếp như hơi thở hôi, ngả
màu men răng thế cần có những hiểu biết để
phòng ngừa và điều trị sớm nếu mắc bệnh.
Thế nào là bị sâu răng?
Răng bị sâu khác với bộ phận khác bị tổn thương,
đây là một quá trình và là một bộ phận duy nhất
trong cơ thể không có khả năng tự phục hồi, phải
chữa trị. Thông thường sâu răng phát triển liên tục
từ lớp nông đến lớp sâu của răng.
Triệu chứng ban đầu là răng đổi màu, lúc này
người bệnh chưa cảm thấy gì, lỗ sâu r
ăng chưa có
kích thích do thức ăn nóng, lạnh chưa xảy ra.
Một thời gian sau, răng biến đổi sang màu nâu
hoặc màu đen. Lỗu ở răng xuất hiện, người
bệnh cảm thấy khó chịu khi thức ăn giắt vào lỗ
u, cảm thy buốt khi ăn thức ăn nóng, lạnh, đau
do thức ănng giắt vào.
Nếu lỗ sâu tiếp tục bị sâu thì phần đáy lỗ bị bong
calcium và mềm hoá, nhiễm vào tầng sâu của
răng, làm cho bệnh nặng hơn. Khi răng đau kéo
dài, hoặc mức độ đau gia tăng thì rấtthể tu
răng đã bị viêm. Bên cạnh đó, khi bị sâu răng, hơi
thở của người bệnh còn có mùi hôi.
Những nguyên nhân gây đau răng
Người ta nói rằng có 4 nguyên tố như một chuỗi
ln hoàn y ra sâu răng là vi khu
ẩn bám vào mặt
răng và có khả năng y sâu răng. Chúng s
ản sinh
tiết ra chất hữu cơ, plyore, enzyme thuỷ phân
chất lòng trắng trứng (một thành phần trong nước
miếng), những chất đó có thể hoà tan chất hữu
phân hu chất vô cơ của kết cấu răng. Các vi
khuẩn nàym vào răngnh thành các đốm
khuẩn, đến lượt các đốm khuẩny phát triển tấn
ng răng.
Khả năng chống sâu của răng tuthuộc vào trạng
thái kết cấu của răng. Hàm răng không bị sứt mẻ,
không khiếm khuyết, mọc thẳng hàng, thẳng lối,
men răng trắng bóng, mức khoáng hoá r
ăng cao
những yếu tố quan trọng chống lại các tác nhân
gây sâu răng. Ngưc lại, các yếu tố y không
hoàn chỉnh thì nguy cơ sâu răng là rất lớn.
Sự gây ra sâu răng của thức ăn được nhắc đến
nhiều nhất là đường, là cơ sở quan trọng để vi
khuẩn bám vào đó sinh sôi nảy nở, nhất là ăn
nhiều đường, ăn đồ ngọt, không đánh răng trước
khi đi ngủ. Các gợn thức ăn còn bám o các k
răng, nếu không đánh răng thường xuyên hoặc
không ly cao răng định k cũng sẽ làm môi
trường thuận lợi cho vi khuẩn gây sâu răng phát
triển.
Quá trình từ răng mới sâu đến khi hình thành lỗ
u phải trải qua một thời gian, nhanh hay chậm
n phthuộc vào s vệ sinh, khả năng chống
sâu
của từng người và cũng phụ thuộc vào mức độ vi
khuẩn nhiều hay ít. Người ta cho rằng từ lúc xuất
hiện các đốm răng cho đến khi hình thành lỗ sâu
thể đến 1,5 năm, trong thời gian đó rất cần
được điều trị kịp thời.
Điều trị sâu răng như thế nào?
Dùng thuốc điều trị cho những trường hợp mới
chớm sâu, chưa hình thành lỗ. Thuốc dùng
thường là chấm vào chỗ bị sâu, đây là dung dịch
tính sát khuẩn. Phương pháp y chỉ dùng cho
những chỗ sâu của răng nghi
đổi màu men răng.
Biện pháp nạo bỏ phần răng bị sâu, áp dụng cho
mọi lỗ sâu răng, nhất là lỗ sâu rộng, nhằm ngăn
chặn sự phát triển tiếp theo của răng sâu.
Biện pháp tái khoáng phần bị sâu, dùng dung dịch
gồm các chất cacium, phosphate, florinê đổ vào
nơi răng bị sâu. Phương pháp này áp dụng cho
trường hợp răng mới chớm sâu, có khả năng thu
hẹp vùng có màu trắng vôi hoặc vùng đó ngừng
phát triển. Đây là phương pháp tái khoáng đơn
giản, hiệu quả, không đau an toàn.
Hàn vá lỗ sâu là phương pháp thường nhật để
chữa sâu răng, áp dụng đối với răng có khả năng
đ
ịnh vị sau khi bị sâu. Khi hàn vá sử dụng chất liệu
hàn vá vào chỗ khuyết của răng, khôi phục tính
năng của răng, nhằm giữ được thẩm mỹ và chức
năng cho hàm răng.
Phòng bệnh sâu răng
Trước hết phải vệ sinh rằng miệng sau khi ăn,
trước khi đi ngủ. Hạn chế ăn thc ăn chứa nhiều
đường. Trẻ em thời k mọc răng, thay răng càng
phải đặc biệt quan tâm đến hàm răng, như cho trẻ
ăn đủ chất tạo răng, đánh răng và dạy cho trẻ biết
đánh răng cho mình.
Dùng kem đánh răng có chứa florine, có thể dùng
thêm nước súc miệng, diệt khuẩn sau bữa ăn.
Những phụ nữ mang thai cần bổ sung calcium đ
trẻ sinh ra không bị thiếu chất tạo răng. Mọi người
ng cần khám răng định k 6 tháng/lần đ
ể kịp thời
phát hiện những biến đổi của răng, các biện
pháp điều trị phù hợp.