
Thuốc sử dụng trong điều trị loét dạ dày
tá tràng
Loét dạ dày tá tràng là những bệnh gặp khá phổ biến ở nước ta, bệnh gặp ở mọi
lứa tuổi nhưng ở người lớn chiếm tỷ lệ cao hơn trẻ em.Về mặt cơ chế bệnh sinh
như chúng ta đã biết, loét dạ dày tá tràng là do mất cân bằng giữa yếu tố tấn công
(acid HCl, pepsin, vi khuẩn HP…) và yếu tố bảo vệ (niêm mạc, màng nhày,
bicarbonat, dòng máu...) do đó các nhóm thuốc điều trị loét dạ dày tá tràng đều
nhằm mục đích ổn định cân bằng giữa yếu tố tấn công và yếu tố bảo vệ...
1. Nhóm kháng cholin (anticholinergic).
Nhóm thuốc này từ lâu đã được dùng trong điều trị các loét tiến triển. Tác dụng
của chúng là ức chế họat động của dây thần kinh số X làm giảm co thắt dạ dày,
giảm tiết acid qua tác dụng trực tiếp lên tế bào thành và gián tiếp kìm hãm sản
xuất gastrin

Thuốc trước kia hay dùng là Atropin, Pirenzepine tuy nhiên hiện nay không dùng
thuốc nhóm này trong điều trị loét vì chúng có nhiều tác dụng phụ.
2. Nhóm thuốc kháng acid (antacid)
Các thuốc này có tác dụng tương tác với HCl tạo nên những loại muối không được
hấp thu hoặc ít hấp thu do đó làm tăng pH dạ dày, hạn chế khả năng hoạt động của
pepsin.
Cho đến nay có nhiều loại thuốc antacid dùng để chữa loét tiêu hoá; một thuốc
antacid được gọi là lý tưởng phải mạnh để trung hoà acid dạ dày, rẻ tiền, dễ uống,
ít hấp thu vào máu từ đường dạ dày ruột, đồng thời ít tác dụng phụ.
- Bicarbonat natri và canci carbonat là các antacid tác dụng nhanh, mạnh, rẻ tiền.
Nhưng Bicarbonat natri có khuynh hướng gây nhiễm kiềm toàn thân và chứa nhiều
natri (hội chứng sữa – kiềm), đồng thời nó gây một feed back làm tăng tiết Gastrin
dẫn đến HCl lại được tiết nhiều hơn trước. Canci carbonat cũng gây nên hội chứng
sữa kiềm và canci còn kích thích trực tiếp lên tế bào thành gây tăng tiết HCl. Do
đó các thuốc này hiện nay hầu như không dùng trong điều trị loét tiêu hoá.
- Hydroxit nhôm trung hoà HCl tạo ra clorua nhôm và nước. Dùng Hydroxit
nhôm xu hướng gây táo bón, nhôm bám chặt vào phosphat trong dạ dày ruột, do
đó phosphat dễ dàng bị bài tiết ra ngoài; dùng Hydroxit nhôm kéo dài nguy cơ cạn
kiệt phosphat, kết quả bệnh nhân có biểu hiện mệt mỏi, khó chịu chán ăn.

- Hydroxit magie là một antacid hiệu qủa hơn Hydroxit nhôm, trung hoà HCl tạo
clorua magie và nước. Hydroxit magie có thể làm phân lỏng, magie bị ruột non
hấp thu vào máu từ hydroxit khoảng 5 – 15% và thải qua thận. Do vậy khi sử dụng
các chế phẩm có magie cần thận trọng với bệnh nhân suy thận.
Tác dụng nhuận tràng của Hydroxit magie và tác dụng gây táo bón của Hydroxit
nhôm được khắc phục bằng cách phối hợp hai antacid này với nhau. Thuốc được
sủ dụng rộng rãi hiện nay là hỗn hợp hai chất này. Các thuốc này tương đối an
toàn, ít hấp thu tại niêm mạc dạ dày ruột, tác dụng trung hoà HCl mạnh.. Các chế
phẩm loại này trên thị trường có rất nhiều loại như Maalox, Gastrofulgit,
Phosphalugel, Noigel..
3. Các thuốc kháng thụ thể H2 của Histamin trên tế bào thành.
Các thuốc này gọi là thuốc chống H2 vì có tác dụng ức chế tiết chọn lọc các thụ
thể H2 ở màng đấy bên của tế bào thành. Do đó nó không chỉ ức chế sau khi kích
thích bằng Histamin mà còn cả sau kích thích bằng Gastrin hoặc Acetylcholin.
Liều lượng nhằm làm giảm tiết acid tương đương hiệu quả của cắt dây X.
- Cimetidin (biệt dược Tagamet) là thế hệ đầu tiên của thuốc kháng H2, ra đời năm
1976 nhanh chóng được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả trong điều trị loét dạ dày
tá tràng, có tác dụng cắt cơn đau nhanh, liền sẹo khoảng 80% sau 6 tuần điều trị,
liều hàng ngày là 800mg.

Cimetidin dùng lâu có thể có tác dụng phụ như rối loạn tinh thần (ở người già,
người suy thận), nhịp tim chậm, hạ huyết áp, tăng nhẹ men gan, vú to, liệt dương..
các tác dụng phụ này khi ngừng thuốc thì hết. Thuốc có tác dụng giao thoa làm
chậm chuyển hoá trong gan các thuốc khác như coumarin, diazepam,
propranolon…
- Ranitidin (Biệt dược Zantac, Azantac) là thế hệ thứ hai, ra đời sau Cimetidin,
cấu trúc hơi khác với Cimetidin, gây giảm tiết dịch vị gấp 5 – 10 lần Cimetidin khi
sử dụng cùng liều, liều thường dùng là 300mg /ngày.
Tuy nhiên thuốc cũng không làm thay đổi diễn tiến tự nhiên của bệnh. Sau đợt
điều trị ngắn hạn mà dừng thuốc tỷ lệ tái phát là 50% trong vòng 6 tháng, 85% tái
phát sau 1 năm. Thuốc có ít tác dụng phụ hơn Cimetidin, chủ yếu là nhức đầu,
chóng mặt, ngứa.. ngừng thuốc thì hết.
Sau này các thuốc thế hệ 3 (Nizatidin) thế hệ 4 (Famotidin) ra đời có tác dụng
mạnh hơn và ít tác dụng phụ hơn Cimetidin rất nhiều.
Hiệu quả làm liền sẹo tương tự nhau của thuốc nhóm kháng H2 khi dùng liều hàng
ngày: Cimetidin 800mg; Ranitidin 300mg; Nizatidin 300mg; Famotidin 40mg thời
gian điều trị 4 – 6 tuần.Thuốc có thể uống buổi tối hoặc chia hai lần trong ngày.
4. Thuốc ức chế bơm Proton

Năm 1973, Gauses & cs đã chứng minh sự hiện diện của men H+ K+ ATPase ở
vòi bơm proton của tế bào thành có vai trò quan trọng trong sự tiết acid ở giai
đoạn cuối cùng. Các thuốc ức chế bơm proton (PPI = Proton Pump Inhibitor) lần
lượt ra đời đã đem lại hiệu quả rõ rệt trong điều trị bệnh loét. Hiện đã có 5 thế hệ
thuốc thuộc nhóm ức chế bơm proton được sử dụng rộng rãi hiện nay.
- Omeprazole (biệt dược Losec, Omef) viên 20mg được tổng hợp năm 1979, có
tác dụng ức chế đặc hiệu không hồi phục đối với bơm proton H+ K+ ATPase của
tế bào thành có vai trò quan trọng trong sự tiết acid ở giai đoạn cuối cùng. Thuốc
có tác dụng ức chế tiết acid mạnh, có thể tạo ra vô toan. Với liều 20mg/ ngày có
thể làm giảm tiết 80%.
Các triệu chứng lâm sàng hết ngay từ những ngày đầu, với liều 20mg/ ngày dùng
trong 2 tuần thì tỷ lệ liền sẹo là 70 – 80% và tăng lên 85% sau 4 tuần. Với liều
40mg/ ngày tỷ lệ liền sẹo đạt 90% và có hiệu quả cao trong liền sẹo các vết loét
ngoan cố. Nhưng nếu dùng liều đơn độc cũng không ngăn cản được loét tái phát.
Omeprazole có thể làm giảm acid kéo dài dẫn đến làm tăng Gastrin máu, mức
gastrin sẽ trở về bình thường vài tuần sau khi ngưng thuốc. Các tác dụng phụ
thường thấy là ỉa chảy, táo bón, đau đầu.
- Lansoprazole hàm lượng 30mg (biệt dược lansoliv, Prevacid) là thuốc ức chế
bơm proton thế hệ thứ hai, với liều 30mg/ ngày điều trị trong 8 tuần tỷ lệ liền sẹo

