Những loại trà Việt có thể bạn chưa biết

Cứ khám phá đi rồi bạn sẽ thấy thích nó cho mà xem!

Từ lâu, văn hóa trà đã trở thành một nét văn hóa đặc

trưng và tinh tế của người Việt Nam. Không quá cầu

kỳ như trà đạo Nhật Bản, không huyền bí như trà

Trung Hoa, thói quen uống trà của người Việt đã có

từ lâu đời, giản đơn, mộc mạc và chứa đầy nghĩa tình.

Trà Việt thường được chia làm ba loại là: trà hương,

trà mạn và trà tươi.

Trà hương là loại trà đặc trưng của Việt Nam, thưởng

thức chén trà thấm đượm hương hoa mang lại cho

người uống cảm giác thư thái, dễ chịu vô cùng. Nó

vừa thể hiện sự sang trọng, lịch lãm, vừa thể hiện sự

giao hòa giữa thiên nhiên và con người. Trong trà

Việt, sáu loại hoa bắt hương nhất thường được dùng

để ướp trà là: nhài, cúc, ngâu, sói, mộc và sen.

Thưởng thức một chén trà Việt với màu nước trà

vàng – sáng – trong - xanh, hương trà và hương hoa

hòa quyện vào nhau tạo nên bao ý nghĩa sâu xa. Này

nhé… vị đắng chát của trà như gợi lên nỗi vất vả, cần

cù của người Việt thì vị dịu ngọt của hương hoa lại

gợi đến tâm hồn người Việt giàu tình, giàu nghĩa. Có

thế mà việc uống trà tưởng như giản đơn nhưng lại có

thể kết nối con người ta gần nhau hơn.

Trong các loại trà hương, phổ biến nhất có lẽ là trà

ướp hương nhài, loại hoa dễ trồng, có hương thơm

ngào ngạt. Hương nhài thường rất “bén” với trà xanh,

đặc biệt là trà Thái Nguyên, tạo nên một vị trà rất đặc

trưng. Hoa cúc thường được hái vào mùa thu, phơi

héo rồi cho trực tiếp vào ấm trà nóng để hương hoa

quyện vào trà. Hoa ngâu cánh mỏng như giấy, mang

lại cho vị trà hương thơm thoang thoảng, dìu dặt. Hoa

sói lại mang hương thơm dịu và ngọt hơn. Hoa mộc li

ti có mùi nồng đượm và lan xa. Mỗi dịp Tết đến,

người Việt xưa thường thưởng thức thứ trà ngũ

hương được chuẩn bị khá cầu kỳ. Năm loại hoa nhài,

sói, ngâu, mộc, cúc được đặt trên một chiếc khay đặc

biệt với năm ô trũng chứa từng loại hoa. Chén trà nhỏ

sau khi tráng qua nước sôi cho nóng được úp lên từng

cụm hoa, giữ khoảng ba phút cho hương hoa quyện

vào. Trà nóng bỗng trở nên thơm hương lạ lùng. Có

người thích rót trà với chén ướp từng loại hương

riêng, nhưng có người lại chuộng uống trà có sự tổng

hòa của ngũ hương.

Trà hương sen lại là một sản phẩm độc đáo của văn

hóa trà Việt, với cách cho trà vào ủ giữa từng cánh

sen rồi cột chặt lại và hương sen nhẹ nhàng cứ thế

thấm đượm vào từng lá trà.

Ngoài ra, ta còn có trà hoa sứ. Đây là một loại trà

hương đặc biệt bởi hoa sứ không thể ướp trực tiếp

vào trà như các loài hoa trong ngũ hương, chỉ có thể

thưởng hương bằng một chén nhỏ nóng úp lên hoa rồi

dùng chính chiếc chén đó để uống trà mà thôi.

Một loại trà phổ biến khác ở Việt Nam là trà mạn, thứ

trà không ướp hương nhưng chú trọng đến sự tinh tế

trong cách thưởng thức trà. Trà mạn có những tiêu

chuẩn phức tạp về trà, nước pha trà, ấm uống trà,

cách pha trà và cách thưởng trà. Trà mạn có hai loại

chính là: trà Tàu và trà thiền. Nếu như trà Tàu ảnh

hưởng nhiều từ tinh thần và phong cách của trà Trung

Hoa, thường thì trà thiền là cách uống trà mang nặng

tính thiền, lấy trà làm duyên để hướng vào nội tâm.

Trà thiền nhằm giáo dục con người, giúp người ta

qua cách thưởng trà mà tu tâm dưỡng tính. Theo

truyền tụng, hình thức uống trà thiền được khởi

nguồn từ các chùa chiền. Tại đây, nhà sư thường

uống trà trước các buổi thiền sớm chiều. Họ tâm

niệm rằng cuộc đời trần tục nhiều hệ lụy, trà giúp cho

con người tỉnh được mộng trần, rửa được lòng tục,

xoá tan cảm giác tĩnh mịch chốn thiền môn.

Trà hương và trà mạn đều là những loại trà phổ biến,

độc đáo của người Việt nhưng cổ xưa nhất thì phải kể

tới trà tươi. Lá chè tươi được vò nhẹ, cho vào nồi

nấu, sau đó thưởng thức bằng bát sành lớn. Tại những

làng cổ, các gia đình trong làng thường luân phiên

nấu trà mỗi tối để thiết đãi cả làng. Người ta cũng có

thể dùng lá chè tươi rửa sạch rồi đem hãm giống như

cách pha trà khô. Tức là đun nước sôi rồi chế vào ấm

có bỏ sẵn lá trà. Sau 3-5 phút là có thể có chén trà

ngon. Qua đó, ta có thể thấy rằng trà tươi chính là

cách thưởng trà hun đúc tình làng nghĩa xóm, làm

con người thân thiện và gần gũi nhau hơn.

Từ lâu, trà đã đi vào tâm hồn người Việt một cách tự

nhiên, tĩnh lặng, văn hóa trà Việt không chỉ thể hiện

một thứ thức uống phổ biến trong đời sống hàng ngày

mà còn trở thành một phong tục tập quán, một thú vui

thanh cao của người Việt.

Khách đến nhà, gia chủ phải đích thân pha trà mời

khách như một cách tiếp đón nồng hậu. Bởi mời trà là

một cách biểu hiện tình hiếu khách của hầu hết các

gia đình Việt Nam. Người Việt dù ở tầng lớp nào, là

người miền xuôi hay miền ngược, từ thành thị đến

nông thôn cũng đều coi trọng nét văn hóa trà Việt.

Người Việt thưởng thức trà theo từng ngụm nhỏ để

cảm nhận hết cái dư vị thơm ngon của trà và cảm

nhận hơi ấm của chén trà đủ để làm nóng bàn tay

trong mùa đông lạnh giá. Uống để đáp lại lòng mến

khách của người mời trà, để dốc bầu tâm sự. Chính

những cách thể hiện này tạo nên nét văn hóa, sự

thanh cao, tình tri âm, tri kỷ giữa người với người.

Uống trà đôi khi còn là sự độc thoại với nội tâm, là

sự xét đoán tâm lý người đối thoại, là tìm đến sự tỉnh

táo, tĩnh tâm, xua tan mọi phiền muộn trong cuộc

sống.

Trong những dịp lễ tết, lễ ma chay, cưới hỏi, trà là

thứ không thể thiếu. Trà xuất hiện trên ban gia tiên

của mỗi gia đình, trên mâm lễ hỏi của nhà trai sang

nhà gái, trà dùng để mời khách khứa, họ hàng hai

bên... Vui cũng trà mà buồn cũng trà.

Cũng không phải ngẫu nhiên mà trong văn hóa trà

Việt, người xưa hay có câu: "Nhất thủy, nhì trà, tam

bôi, tứ bình, ngũ quần anh", đó chính là cái thú

thưởng trà thực thụ.

Nhất thủy - để có một ấm trà ngon, trước tiên phải

chú ý đến nước. Nước dùng pha trà thường phải là

thứ nước mưa được hứng giữa trời, hay từ các nguồn

suối tự nhiên, cầu kỳ hơn nữa là thứ sương đọng trên

lá sen mà người đi thuyền hứng từng giọt vào buổi

sớm mai. Thứ nước tinh khiết đó khi đun cũng không

được phép mất độ thanh tịnh để không làm ảnh

hưởng đến hương vị của trà.

Nhì trà - đứng thứ hai sau nước là cách chọn trà: tùy

theo sở thích mỗi người, có người thích dùng trà

nguyên, hay chính là "trà mộc" cánh trà sao quăn

giống hình móc câu, cánh tròn, trôi tay, có mốc trắng như mốc cây cau. Trà này được pha ở nhiệt độ 80oC.

Tam bôi, tứ bình chính là dùng để chỉ chén trà và

bình trà: một bộ đồ trà thường có bốn chén quân, một

chén tống để chuyên trà; chén thường là loại chén

dạng hạt mít (mắt trâu). Bình cũng có bình chuyên và

bình tống. Tùy theo lối uống "độc ẩm", "song ẩm",

"tứ ẩm" hay "quần ẩm" mà có những loại bình tương

ứng. Trước khi pha trà, phải dùng nước sôi để tráng

sơ chén và bình.

Và cuối cùng, ngũ quần anh là bạn trà. Tìm "bạn trà"

còn khó tìm hơn "bạn rượu". Vì bạn trà là người bạn

tri âm, cùng nhau thưởng trà, ngâm thơ, bộc bạch nỗi

niềm, hay bàn chuyện gia đình, xã hội, nhân tình thế

thái để cảm thấy trong trà có cả hương vị của đất trời,

cỏ cây, cuộc sống.

Ngày nay, có lẽ hơi khó để tìm được nơi giữ nguyên

cái thú thưởng trà thực thụ "Nhất thủy, nhì trà, tam

bôi, tứ bình, ngũ quần anh. Thế nhưng, bình trà vẫn

sẽ luôn được hãm nóng, chén trà vẫn luôn dậy hương

thơm vị trà, và người dùng trà vẫn sẽ khoan thai, từ

tốn mà thưởng thức, nhâm nhi từng ngụm trà, để nét

văn hóa trà Việt vẫn sẽ được gìn giữ mãi về sau.