Nuôi cấyvà tế bào
Đầu thế k 20, Haberlandt đã nhấn mạnh nh toàn
năng của tế bào soma thực vật ch ra kh
năng tạo ra cây hoàn chỉnh bằng con đường nuôi
cấy tế o. Tuy nhiên, đến 50 năm sau vic
tái sinh cây hoàn chỉnh từ tế bào đơn hoặc tế bào
trần (protoplast) mới trở thành hiện thực.
Nuôi cấy mô và tế bào kỹ thuật nuôi cấy tế bào
thực vật phân lập hay mảnh thực vật tách rời
trên môi trường dinh dưỡng trong điều kiện
trùng. Sau đó, các cấy được cho i sinh thành
cây hoàn chỉnh. Người ta đã y dựng được các
quy trình tương đối hoàn chỉnh để tái sinh cây cho
một số loài như thuốc lá, khoai tây, mía, hoa lan,
một số cây ăn qu v.v. Đối với phần lớn cây trồng
trên đồng ruộng, như bông và đậu lấy hạt thì việc
thiết lập các quy trình đáp dụng rộng rãi khó hơn
nhiều. những loài cây này tần stái sinh thấp
kết quả tái sinh từ nuôi cấy không chỉ thay đi theo
loài mà còn phụ thuộc vào kiểu gene trong một loài,
nguồn cy, tuổi và sức khoẻ của mô cy, môi
trường dinh dưỡng và nhiều yếu tố khác. Nhìn
chung, công nghệ nuôi cấy mô tế bào cho phép
nhân nhanh những kiểu gene giá trhay vật liệu
chọn giống trong một môi trường có kiểm soát. Một
số khả năng ng dụng của nhân nhanh đối với cây
trồng là: Nn quy lớn kiểu gene dị hợp tử,
nhân kiểu gene tự bất hợp, nhân b m bất dục
trong chương trình chọn giống lai, nhân vật liệu
sạch bệnh, bảo quản trao đổi nguồn gene quốc
tế...
đây ch giới thiệu sơ lược một skỹ thuật nuôi
cấy in vitro liên quan trực tiếp tới q trình chọn
giống.
(1) Nuôi cấy phôi, noãn và thụ phấn in vitro
Các nhà chọn giống chủ yếu đã và đang tận dụng
biến dị di truyền hiện có trong nguồn gene trồng trọt
bằng cách sử dụng nhiều sơ đ lai chọn lọc
khác nhau. Tuy nhiên với thâm canh và độc canh,
một ít kiểu gene chọn lọc về những tính trạng ý
nghĩa kinh tế biến dị di truyền ngày một giảm trong
nguồn gene trồng trọt. Thậm chí trong một s
trường hợp, nguồn biến dị đối với một stính trạng
ý nghĩa kinh tế kng đủ thoả mãn, ví dụ: tính
kháng bệnh vàng lụi, sâu đục thân, chịu mặn
lúa...
Để khắc phục những vấn đ nghiêm trọng ảnh
hưởng đến năng suất, nhà chọn giống cần
nguồn gene kháng sâu bệnh từ các loài hoang dại
thân thuộc hoặc không thân thuộc. Một k khăn
lớn khi sử dụng các loài hoang di để lai với cây
trồng tính bất hợp khi lai. Trong một số trường
hợp, các phôi lai từ các tổ hợp lai giữa c loài
quan hệ xa nhau thường yếu không có khả năng
sống do sự cung cấp dinh ng từ nội nkhông
đầy đủ chúng thường bị chết trong một thời gian
ngắn sau khi hình thành hợp tử không thể phát
triển thành hạt khả năng sống. vậy, nuôi cy
phôi hay cứu phôi một phương pháp để khắc
phục hàng rào bất hợp, bảo đảm để phôi non sinh
trưởng, nảy mần, phát triển thành cây con.
Thông qua sử dụng phương pháp này người ta đã
tạo ra nhiều con lai khác loài nhiều loại cây trồng
n lúa mì, lúa nước, đại mạch, bông, đậu, đỗ, các
loài cây ăn quả, cây cảnh và nhờ vậy nhiều gene có
ích đã được chuyển vào cây trồng.
Noãn đã thụ tinh đôi khi được nuôi cấy đcu phôi
từ các thợp lai xa mà không cần tách phôi ra khỏi
noãn. Noãn chứa phôi lai non được tách ngay sau
khi thụ tinh trong điều kiện vô trùng rồi nuôi cấy trên
môi trường dinh dưỡng. Bằng con đường nuôi cy
noãn phôi có thể nuôi cấy giai đoạn sớm hơn so
với nuôi cấy phôi tách rời. Hơn nữa, phôi phát triển
trong noãn môi trường hoá học học thuận
lợi hơn phôi nuôi cấy bên ngoài noãn.
Th phấn thụ tinh in vitro gồm việc thu nhập
noãn chưa thụ tinh, cấy noãn trên môi trường dinh
dưỡng trong điều kin trùng, thụ phấn cho
noãn với các hạt phấn tươi. ng phấn xuyên qua
thành noãn túi phôi sthụ tinh cho tế bào trứng.
Phương pháp này đã đưc áp dụng để tạo con lai
giữa các loài ống phấn không thể sinh trưởng
và xuyên vào noãn bình thường sau khi thụ phấn.
(2) Nuôi cấy bao phấn và sản xuất cây đơn bội:
Trong phần lớn các chương trình chọn giống việc
tạo giống mới cải tiến bao gồm việc gieo trồng quần
thể F2 lớn chọn lọc các dòng mong muốn trong
các thế hệ phân ly từ F2 đến F7 để cuối ng tạo ra
các dòng đồng hợp tử. Nuôi cấy bao phấn hay hạt
phấn một kthuật hữu hiệu đtạo ra các dòng
đồng hợp tử ngay từ thế hđầu tiên (dòng đơn bội
kép), do đó tiết kim nguồn lực rút ngắn thời
gian cần thiết để tạo ra giống mới.
Nuôi cấy bao phn kthuật nuôi cấy in vitro các
bao phấn chứa tiểu bào tử hay hạt phấn chưa
thành thục trên môi trường dinh dưỡng đ tạo ra
cây đơn bội. S nhiễm sắc thể của cây đơn bội
được nhân đôi để tạo ra cây lưỡng bội đồng hợp tử
hoàn toàn, gọi là thể đơn bội kép. Việc nuôi cấy bao
phấn rất ích đối với nhà chọn giống thế đơn
bội kép th được sử dụng để làm các dòng
thuần ccây tự thụ phấn cây giao phấn. Thời
gian cần thiết để tạo ra một giống hay mt dòng tự
phối bằng phương pháp đơn bội kép được rút ngắn
nhiều thế hệ so với phương pháp truyền thng. Các
dòng đơn bội kép tạo ra hội duy nhất để cải
thiện hiệu quchọn lọc đối vi nhiều tính trạng
trong quần thể không có phương sai trội, đồng thời
gene lặn ng biểu hiện ra kiểu hình. K thuật này
đã được áp dng thành ng Trung Quốc trong
việc tạo ra giống a lúa mì. Tuy nhiên, hạn chế
trong việc áp dụng rng rãi phương pháp này là khả
năng nuôi cấy khó tính đặc thù cao của kiu
gene. dụ, các n chọn giống lúa Indica không
thể sdụng k thuật này có hiệu qubằng các nhà
chọn giống lúa Japonica do các kiểu gene Indica
khó nuôi cấy hạt phấn n bị ảnh hưởng bởi giai
đoạn phát triển của bao phấn, điều kiện sinh ca
cây cho phấn, điều kiện xử trước khi nuôi cấy,
môi trường dinh dưỡng, điều kiện nuôi cấy hiu
quả lưng bội hoá bằng colchicine.
(3) Biến dị dòng soma và chọn lọc dòng tế bào:
Ban đầu nuôi cấy được s dụng làm kthuật
mới để tạo sinh khối phương pháp nhân giống
tưởng để sản xuất hàng loạt cây dồng nhất như
bố mẹ ban đầu của các giống ưu tú.
Tuy nhiên, với thời gian các công trình nghiên cứu
nhiều loài cây trồng giá tr kinh tế người ta
thấy rằng tế bào được nuôi cấy trong môi
trường nhân tạo thường xuất hiện các biến đổi di
truyền bao gồm s ợng cấu trúc nhiếm sắc
thể, s sắp xếp lại trong nhiễm sắc thể, đột biến
gene v.v. Các biến dị này được truyền lại cho cây
khi tái sinh. Tập hợp các biến dị di truyền nh
thành do quá trình nuôi cấy được gọi biến dị
dòng soma (somaclonal variation) (Larkin
Scowcroft, 1983). Biến dị dòng soma chịu nh
hưởng bởi loài y, kiểu gene trong loài và cấy,
chế độ nuôi cấy, thời gian nuôi cấy in vitro, và tính
n định của genome. N vậy bản thân nuôi cấy
tế bào là một nguồn biến ddi truyền quan
trọng, mới mphong phú trong các điều kiện đã
thích ng và rất có ích cho s cải thiện giống cây
trồng. Một s thể biến ddòng soma có ích đã được
phân lập, đó là khả năng đ kháng virus Fiji, bệnh
đốm vàng viền nâu bệnh sương mai mía
(Heinz cộng sự, 1977); khả năng kháng bệnh
đốm nhỏ ngô (Bretell Ingram, 1979); kháng
sương mai ở khoai tây (Shepard và cộng sự, 1980);
chịu hạn chịu lạnh lúa ( trần Bình và cs,
1996).
Một ưu điểm của biến dị di truyền trong quá trình
nuôi cấy khnăng chọn lọc dòng tế bào in vitro.
Có thể nuôi cấy và x lý hàng triệu tế bào trong mt
không gian hạn chế, chẳng hạn trong đĩa petri
chọn lọc bằng cách xử lý tế bào nuôi cấy trong điều
kiện bất lợi là tác nhân chọn lọc. ng có thể kết
hợp x đột biến trong nuôi cấy để tăng tần số
biến dị di truyền. Tuy nhiên, chỉ những tính trạng