
Duy vật lịch sử Câu 3 -
1
Ôn tập MacLênin
Câu 1 : Quan diểm Mác - xít về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT và vận dụng
để phân tích những sai lầm khuyết điểm trong việc nhận thức và vận dụng mối quan hệ này
thời kỳ trước đổi mới và dể phân tích bài học kinh nghiệm sau đây của Đảng ta:"kết hợp chặt
chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
đồng thời từng bước đổi mới chính trị" (VK8 trang 71).
Bài làm
Tổng kết chặng đường đổi mới 10 năm (1986 - 1996), Đại hội VIII rút ra những bài học kinh
nghiệm quý báu trong đó có bài học: "kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi
mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị".
Đây chính là sự vận dụng đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT vào hoàn
cảnh cụ thể của nước ta hiện nay.
Mỗi xã hội trong lịch sử có một kiểu những quan hệ vật chất cơ bản nhất định đó là những
QHSX. Phù hợp với kiểu QHSX đó là một hệ thống những quan hệ về chính trị, pháp quyền,
đạo đức, nghệ thuật...Những quan hệ chính trị, tinh thần này được thể hiện thông qua những
thiết chế xã hội tương ứng như: Nhà nước, Đảng phái, tòa án, giáo hội và các tổ chức xã hội
khác...Sự liên hệ và tác động lẫn nhau giữa những quan hệ kinh tế của xã hội và các quan hệ
kinh tế đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử phản ánh trong các phạm trù CSHT và KTTT,
trong nguyên lý về quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT.
CSHT là toàn bộ những QHSX của một xã hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp
thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó. Toàn bộ QHSX hợp thành cơ cấu Kinh tế của một xã hội
nhất định bao gồm QHSX thống trị, những QHSX mầm mống, những QHSX tàn dư. Trong
những QHSX đó, QHSX thống trị giữ địa vị chi phối, có vai trò chủ đạo và tác dụng quyết
định với toàn bộ CSHT. CSHT của một xã hội cụ thể được đặc trưng trước hết bởi kiểu
QHSX thống trị tiêu biểu cho xã hộ ấy.

Duy vật lịch sử Câu 3 -
2
KTTT là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những tư tưởng xã hội: Chính trị, pháp quyền, triết
học, đạo đức, tôn giáo...cùng với những thiết chế xã hội tương ứng với chúng như nhà nước,
các đảng phái, các đoàn thể xã hội... được hình thành, được xây dựng trên nền tảng của một
CSHT nhất định. Trong xã hội có giai cấp, KTTT bao gồm quan điểm tư tưởng và thể chế
của giai cấp thôÙng trị, tàn dư của các quan điểm của xã hội trước để lại; quan điểm tổ chức
của các giai cấp và tầng lớp mới ra đời.Tính chất cơ bản của KTTT trong một chế độ xã hội
nhất định do tính chất hệ tư tưởng của giai cấp thống trị quyết định. Đồng thời trong xã hội
này Nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có quyền lực mạnh nhất tiêu biểu cho chế độ
thống trị hiện đang tồn tại. Chính nhờ nhà nước đó, giai cấp thống trị gắn cho xã hội hệ tư
tưởng của mình.
CSHT với tư cách là cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội sản sinh KTTT tương ứng, quy định
tính chất của KTTT. Tính chất của CSHT như thế nào thì tính chất của KTTT như thế ấy.
QHSX nào giữ vị trí thống trị sẽ tạo ra KTTT tương ứng. Giai cấp nào thống trị xã hội về
kinh tế cũng chiếm địa vị thống trị xã hội về chính trị. Tất cả những yếu tố của KTTT đều
trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào CSHT, do CSHT quyết định. Nếu CSHT thay đổi thì
KTTT sớm hay muộn cũng sẽ diễn ra. Sự thay đổi đó không chỉ diễn ra từ xã hội nay sang
xã hội khác mang tính cách mạng, mà còn diễn ra ngay trong một xã hội, như lịch sử phát
triển của xã hôi đã chứng minh. Khi CSHT cũ mất đi thì KTTT do nó sinh ra cũng mất theo.
Khi CSHT mới ra đời thì KTTT mới phù hợp với nó cũng xuất hiện.
Sự thay đổi của CSHT dẫn đến sự thay đổi của KTTT là quá trình diễn ra hết sức phức tạp.
Có những yếu tố của KTTT cũ còn tồn tại day dẵng sau khi CSHT sinh ra nó đã bị diệt vong;
có những yếu tố của KTTT cũ được giai cấp thống trị mới duy trì, kế thừa,bổ sung để xây
dựng KTTT mới. Sự biến đổi đó xét đến cùng là do sự phát triển của LLSX quy định. Song
sự phát triển của LLSX chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi của CSHT và tác động đến sự biến
đổi của KTTT thông qua CSHT sinh ra nó.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chứng minh vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT song
cũng chỉ rõ KTTT cũng như các yếu tố của nó có tính độc lập tương đối. Sự phụ thuộc của
chúng vào CSHT thường không trực tiếp và không giản đơn. KTTT không phải là sản phẩm
thụ động của CSHT mà chúng có khả năng tác động trở lại rất mạnh mẽ đối với cơ cấu kinh

Duy vật lịch sử Câu 3 -
3
tế của xã hội và bản thân các yếu tố của KTTT có tác động qua lại lẫn nhau, tác động đến
CSHT.
Thực tế của đời sống xã hội chỉ ra rằng, không chỉ Nhà nước, pháp luật mới tác động to lớn
đến CSHT mà các yếu tố khác của KTTT cũng đều có khả năng gây ra những biến động
không nhỏ tới CSHT. Các yếu tố đó tác động đến CSHT bằng nhiều hình thức khác nhau,
theo những cơ chế khác nhau. Tác dụng của KTTT sẽ là tích cực, thúc đẩy sự phát triển, nếu
nó tác động cùng chiều với sự vận động của những quy luật kinh tế. Trái lại, nếu tác động
ngược chiều với sự vận động của những quy luật kinh tế thì KTTT sẽ là trở lại gây những tác
hại cho sự phát triển của sản xuất, cho sự phát triển của xã hội. Đương nhiên trong mỗi chế
độ xã hội, sự vận động của các yếu tố của KTTT không phải bao giờ cũng theo cùng một xu
hướng. Cũng có khi KTTT nảy sinh tình trạng không đồng bộ giữa các yếu tố, khả năng
mâu thuẫn với nhau, chống đối lẫn nhau giữa chúng.
Sự tác động tích cực trở lại của KTTT đối với CSHT thể hiện ở chức năng cơ bản của KTTT
là xây dựng, bảo vệ và phát triển CSHT hiện tồn, chống lại những nguy cơ làm suy yếu hoặc
phá hoại sự tồn tại của chế độ kinh tế - xã hội đang tồn tại. Trong việc thực hiện chức năng
xã hội đó, Nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng; nó chi phối và trong nhiều trường hợp
quyết định khả năng tác động của các yếu tố khác của KTTT đến toàn bộ đời sống xã hội nói
chung và đến CSHT nói riêng. Trong KTTT cũng diễn ra sự biến đổi phát triển có tính độc
lập tương đối. Quá trình đó diễn ra càng phù hợp với CSHT thì sự tác động của nó đối với
CSHT càng có hiệu quả.
Tóm lại, KTTT có nhiệm vụ duy nhất, bảo vệ và phát triển kinh tế. Tuy nhiên sự tác động
của nó đến kinh tế phụ thuộc vào trình độ năng lực chủ thể và lợi ích của giai cấp cầm
quyềøn, thậm chí phụ thuộc vào cả hoàn cảnh tâm lý dân tộc và cả đặc điểm mới của thời
đại. Do đó KTTT có thể tác động đúng, có hiệu quả đối với kinh tế hoặc trái với tính tất yếu
kinh tế và kìm hãm sự phát triển kinh tế.
Nhưng nếu chúng ta quá nhấn mạnh vai trò của sự tác động đó đến mức phủ định sự tác
động quyết định của những quy luật kinh tế, phủ địng tính tất yếu của sự vận động xã hội thì
sẽ rơi vào duy tâm chủ quan, không thấy được tiến trình khách quan của lịch sử. Đồng thời

Duy vật lịch sử Câu 3 -
4
sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống xã hội là nhân tố quyết định nếu xét đến cùng đối với
lịch sử trong đó có cả lĩnh vực văn hóa tinh thần nói chung. Không nên tuyệt đối hóa sự
thống nhất giữa kinh tế và chính trị, giữa chính trị và tinh thần trong CNXH đặc biệt là thời
kỳ quá độ. Chống lại hai khuynh hướng duy ý chí và chủ nghĩa duy kinh tế tầm thường.
Trong cách mạng XHCN, thời kỳ trước đổi mới, Đảng ta đã có nhiều cố gắng tìm tòi, nghiên
cứu, vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa CSHT vàKTTT. Nhưng Đảng ta đã có nhiều sai
lầm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, nóng vội trong cải tạo XHCN, xóa bỏ
ngay nền kinh tế nhiều thành phần, có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp
nặng, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương
sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương. Mặt khác trong KTTT đã buông lõng
chuyên chính vô sản, bộ máy nhà nước nặng nề, nhiều tầng, nhiều nấc, cồng kềnh kém hiệu
lực, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Tóm lại, những sai lầm trên,đã làm cho CSHT XHCN ở nước ta bị biến dạng với một KTTT
quan liêu, bảo thủ. Công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta trên tất cả các lĩnh vực Kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, là nhằm xây dựng lại CSHT XHCN với một KTTT tương ứng.
Tổng kết chặng đường đổi mới 10 năm (1986 - 1996). Đại hội VIII đã rút ra 06 bài học chủ
yếu. Một trong những bài học chủ yếu đó là: " kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế
với đổi mới chính trị, lấy đổi mới KT làm trọng tâm đồng thời từng bứơc đổi mới chính trị”.
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong
việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại, không có sự đổi mới đó thì
không có sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ đổi mới KT, khắc phục tình trạng khủng hoảng KT- XH, tạo tiền đề cần
thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của
nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội.
KT và chính trị là hai mặt cốt lõi của mối quan hệ giữa CSHT và KTTT. Trong mối quan hệ
giữa KT và chính trị thì KT giữ vai trò quyết định vì KT là nội dung vật chất của chính trị
còn chính trị là biểu hiện tập trung của nền KT. Cơ sở KT với tính cách là kết cấu hiện thực
sản sinh ra hệ thống chính trị tương ứng và quy định hệ thống đó. Nói cách khác, tính chất

Duy vật lịch sử Câu 3 -
5
xã hội, giai cấp của chính trị bao giờ cũng phản ánh tính chất xã hội và giai cấp của CSHT.
Từ đó dẫn đến sự biến đổi căn bản của KT, sự biến đổi căn bản của chính trị. Tuy nhiên
chính trị cũng có sự tác động trở lại đối với KT. Chính trị được biểu hiện tập trung ở nhà
nước có sức mạnh vật chất tương ứng. Nhà nước có tác động quyết định năng lực, hiện thư
ïc hóa những tất yếu KT. Anghen nói: " bạo lực ( nghĩa là quyền lực nhà nước) cũng là một
lực lượng KT" ( Mác - Anghen, Tuyển tập, tập 02, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1971, trang 604).
Sau khi giành được chính quyền thì bất cứ giai cấp nào cũng muốn thống trị vững chắc toàn
xã hội cho nên giai cấp đó phải đưa ra đường lối mở rộng, phát triển KT trên quy mô toàn xã
hội để từng bước thống trị KT đối với toàn xã hội. KT vững mạnh thì Nhà nước được tăng
cường, Nhà nước được tăng cường lại tạo thêm phương tiện vật chất để củng cố địa vị KT-
XH của giai cấp thống trị.
Trong công cuộc đổi mới xã hội hiện nay, chúng ta cần tiến hành đổi mới đồng bộ. Trước
hết là đổi mới KT: đổi mới cơ cấu KT, đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới phương thức phân
phối, đổi mới mục tiêu của sản xuất, đổi mới quy trình công nghệ... nhằm đáp ứng những đòi
hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở
vật chất kỷ thuật của CNXH, làm cho nền KT nước ta phát triển hòa nhập với trình độ phát
triển KT của thế giới và coi đó là điều kiện, là tiền đề quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi
mới trong lĩnh vực chính trị. Để làm được điều đó ngay từ Đại hội lần VI, Dảng ta đã đề ra
chủ trương cho phép sử dụng nhiều hình thức KT, khai thác mọi khả năng của các thành
phần KT, trong đó KT quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, coi đây là một giải pháp có ý nghĩa
chiến lược góp phần giải phóng mọi khả năng để phát triển lực lượng sản xuất. Đến Đại hội
VII, cương lĩnh của Đảng khẳng định: phát triển nền KT hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trên cơ sở
mô hình này Đại hội lần IX đã xác định đường lối phát triển KT của đất nước ta trong thời
kỳ qua độ là: Đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nền KT độc lập tự chủ đưa nước ta trở thành
một nước công nghiệp... và tiếp tục thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền
KT nhiều thành phần định hướng XHCN nhằm phát triển LLSX và xây dựng QHSX phù
hợp theo định hướng XHCN.

