
95
Số 9/2024
CHÍNH SÁCH - CUỘC SỐNG
Phát huy vai trò của phụ nữ Việt Nam
trong phát triển nền kinh tế xanh
VŨ THỊ THÚY
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Hiện nay, phụ nữ là đối tượng phải chịu nhiều tác động tiêu cực nhưng đồng thời cũng là nhân tố tích cực
trong công tác BVMT, thích ứng và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH), đóng góp không
nhỏ vào phát triển xanh, bao trùm và bền vững. Ở Việt Nam, theo số liệu từ Tổng cục Thống kê (Bộ Kế
hoạch và đầu tư), tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nữ giới chiếm khoảng 62,6%; tỷ lệ lao động nữ
trong lực lượng lao động ngành nông nghiệp chiếm 47,4%. Riêng tại các hợp tác xã (HTX), tỷ lệ này lên
đến 80%, trong đó, nữ giám đốc/chủ doanh nghiệp (DN), HTX chiếm tới 28,2%. Những con số này cho
thấy, phụ nữ Việt Nam đang là lực lượng lao động chủ lực, có nhiều đóng góp tích cực vào quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước theo hướng bền vững. Bài viết khái quát về vai trò, sự tham gia tích cực,
chủ động, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục khẳng định vị thế và phát huy tiềm năng, thế
mạnh của lực lượng phụ nữ trong phát triển nền kinh tế xanh (KTX), hướng đến mục tiêu phát triển bền
vững (PTBV) ở nước ta.
1. PHỤ NỮ - TƯƠNG LAI CỦA NỀN KINH TẾ XANH
Theo Chương trình Môi trường của Liên hợp
quốc (UNEP, 2011), KTX là nền kinh tế vừa mang
đến hạnh phúc cho con người, công bằng cho xã hội,
vừa giảm thiểu đáng kể rủi ro về môi trường và khủng
hoảng sinh thái. Hiểu một cách đơn giản, KTX là nền
kinh tế ít phát thải các-bon, tiết kiệm tài nguyên, tạo
ra việc làm và đảm bảo công bằng xã hội. Trong nền
KTX, sự tăng trưởng kinh tế, cơ hội việc làm, giảm
thiểu đói nghèo đều được điều tiết bởi sự đầu tư có
mục tiêu vào môi trường - xã hội. Không chỉ có ý
nghĩa về kinh tế bền vững, KTX còn đề cao việc gìn
giữ bản sắc văn hóa, phát triển dựa trên nguồn lực
địa phương, mang hạnh phúc, công bằng đến với mọi
người. Tại Việt Nam, phát triển xanh, bền vững là
quan điểm xuyên suốt của Đảng và Chính phủ, điều
này được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và cụ thể hóa
bằng Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh (TTX)
giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 của
Chính phủ (được phê duyệt tại Quyết định số 1658/
QĐ-TTg ngày 1/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ)
với các nhiệm vụ: Giảm cường độ phát thải khí nhà
kính, thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng
tái tạo; xanh hóa sản xuất; xanh hóa lối sống và thúc
đẩy tiêu dùng bền vững. Chiến lược cũng hướng đến
xanh hóa sản xuất với việc thực hiện công nghiệp
hóa sạch, thông qua rà soát, điều chỉnh những quy
hoạch ngành hiện có, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài
nguyên, khuyến khích phát triển công nghiệp xanh,
nông nghiệp xanh với cơ cấu ngành nghề, công nghệ,
thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân thiện môi trường,
tích cực ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm. Mục tiêu Chiến
lược đề ra đến năm 2020, giá trị sản phẩm ngành công
nghệ cao, công nghệ xanh trong GDP đạt 42 - 45%;
tỷ lệ cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn môi
trường là 80%; áp dụng công nghệ sạch hơn chiếm
50%; đầu tư phát triển các ngành hỗ trợ BVMT và
làm giàu vốn tự nhiên phấn đấu đạt 3 - 4% GDP. Để
đạt được mục tiêu đề ra, thời gian qua, Chính phủ đã
ban hành nhiều chính sách liên quan đến phát triển
KTX, bao gồm các giải pháp sản xuất sạch hơn và sử
dụng nguồn năng lượng sạch; phát triển công nghệ
ít chất thải; đẩy mạnh sản phẩm thân thiện với môi
trường; ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ thuật số
trong quản lý TN&MT…
Theo các kết quả nghiên cứu, 65% phụ nữ kiểm
soát chi phí hộ gia đình trong tổng chi tiêu toàn
cầu (khoảng 40 nghìn tỷ USD), điều này cho thấy,
phụ nữ là người có vai trò quan trọng tạo nên tổng
cầu của nền kinh tế. Tại Việt Nam, kết quả điều tra
của Công ty Nielsen Việt Nam công bố tại Hội thảo
“Chiến lược thương hiệu gắn với phát triển xanh”
do Cục Xúc tiến Thương mại (Bộ Công Thương) tổ
chức ngày 19/4/2017 tại Hà Nội cho thấy, người tiêu
dùng Việt Nam đang ngày càng quan tâm và sẵn sàng
chi trả cho các thương hiệu có cam kết “xanh” và
“sạch”. Cụ thể, có tới 80% người tiêu dùng lo ngại về
tác hại lâu dài của các nguyên liệu nhân tạo và 79%
sẵn sàng trả thêm tiền để mua những sản phẩm như
mong muốn. Mặt khác, Tổ chức Lương thực và nông
nghiệp (FAO) nhận định, nếu nữ nông dân được tiếp
cận bình đẳng với các nguồn lực sản xuất, năng suất
lao động của họ sẽ tăng từ 20 - 30%, góp phần giảm
nạn đói toàn cầu từ 12 - 17%, giúp từ 100 - 150 triệu
người không bị đói. Chiếm tỷ lệ tương đối trong lực