BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
--- ---
LƯƠNG THỊ NHƯ NGỌC
PHÁT TRIỂN GIAO DỊCH GIAO SAU
CÀ PHÊ TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – Năm 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
--- ---
LƯƠNG THỊ NHƯ NGỌC
PHÁT TRIỂN GIAO DỊCH GIAO SAU
CÀ PHÊ TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính – Ngân hàng
Mã số:
60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – Năm 2011
1
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 4 DANH MỤC CÁC BẢNG ......................................................................................... 6 DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ .................................................................................... 7 MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 8 CHƯƠNG 1: KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ GIAO DỊCH GIAO SAU .................................................................................... 12 1.1Khung lý thuyết về giao dịch giao sau: ............................................................ 12 1.1.1 Lợi ích của giao dịch giao sau: ................................................................. 12 1.1.1.1 Đối với những người tham gia giao dịch giao sau: .......................... 12 1.1.1.2 Đối với việc quản lý kinh tế của Nhà nước: ...................................... 17 1.1.2 Rủi ro của việc giao dịch những hợp đồng giao sau: ............................... 17 1.1.2.1 Rủi ro thị trường: ............................................................................. 17 1.1.2.2 Rủi ro basic: ..................................................................................... 18 1.1.2.3 Rủi ro bị thanh lý hợp đồng trước hạn: ........................................... 19 1.1.2.4 Rủi ro không thể đóng vị thế trước khi hợp đồng đáo hạn: ............. 19 1.1.2.5 Rủi ro khi hàng hóa giao dịch không đạt tiêu chuẩn: ...................... 19 1.1.2.6 Rủi ro tổ chức: .................................................................................. 20 1.2 Các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới và ở Việt Nam: ............................. 20 1.2.1 Các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới: ............................................... 20 1.2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam: ............................................... 31 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ......................................................................................... 34 CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN NGÀNH CÀ PHÊ VIỆT NAM VÀ THỰC TRẠNG GIAO DỊCH GIAO SAU CÀ PHÊ Ở VIỆT NAM .................................................. 35 2.1 Tổng quan ngành cà phê Việt Nam: ................................................................ 35 2.1.1 Giá cả và một số yếu tố dẫn đến biến động giá: ....................................... 36 2.1.2 Sự thiếu liên kết giữa các doanh nghiệp xuất khẩu: ................................. 40 2.1.3 Phương thức ký kết hợp đồng xuất khẩu cà phê với nước ngoài: ............. 40 2.1.4 Vấn đề ký gửi: ............................................................................................ 42 2.1.5 Rủi ro đối với người sản xuất và kinh doanh cà phê Việt Nam do biến động giá cà phê: ................................................................................................. 44 2.2 Thực trạng giao dịch giao sau cà phê ở Việt Nam: ......................................... 48 2.2.1 Giao dịch giao sau cà phê tại các Sở giao dịch hàng hóa ở nước ngoài: 48 2.2.2 Giao dịch giao sau cà phê tại Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam: ............. 53 2.2.3 Giao dịch giao sau cà phê tại Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột: ................................................................................................................. 54 2.2.3.1 Giới thiệu Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột: .................. 54 2.2.3.2 Thực trạng giao dịch giao sau cà phê tại BCEC: ............................. 56 2.3 Khảo sát: .......................................................................................................... 59 2.3.1 Quy trình khảo sát: .................................................................................... 59 2.3.2 Kết quả khảo sát: ....................................................................................... 60
2
2.3.2.1 Mức độ nhận biết các sàn giao dịch cà phê: ..................................... 61 2.3.2.2 Mức độ thường xuyên giao dịch tại sàn giao dịch cà phê: ............... 62 2.3.2.3 Mức độ hài lòng khi tham gia sàn giao dịch BCEC: ........................ 63 2.3.2.4 Lý do tác động đến việc không muốn tham gia sàn giao dịch BCEC:65 2.4 Một số nguyên nhân làm cho hoạt động của BCEC chưa hiệu quả: ............... 67 2.4.1 Nguyên nhân khách quan: ......................................................................... 67
2.4.1.1 Nhận thức của các tác nhân ngành hàng cà phê đối với sàn giao dịch67 2.4.1.2 Cơ chế và các quy định hoạt động sàn giao dịch .............................. 68 2.4.1.3 Tình hình kinh tế trong giai đoạn hiện nay ....................................... 68 2.4.2 Nguyên nhân chủ quan: ............................................................................ 69 2.4.2.1 Nguồn nhân lực ................................................................................. 69 2.4.2.2 Phối hợp, hợp tác .............................................................................. 69 2.4.2.3 Tính thanh khoản của thị trường ....................................................... 69 2.5 Một số nguyên nhân giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam chưa phát triển: 70 2.5.1 Các quy định pháp lý chi tiết về thị trường phái sinh hàng hóa vẫn chưa đầy đủ: ................................................................................................................ 70 2.5.2 Việc Ngân hàng Nhà nước cấm đầu cơ trên thị trường phái sinh hàng hóa cũng làm hạn chế số lượng thành viên tham gia: .............................................. 72 2.5.3 Quan niệm chưa đúng về “lỗ” trên thị trường phái sinh hàng hóa: ........ 73 2.5.4 Trình độ kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm của các chủ thể tham gia giao dịch giao sau cà phê còn hạn chế: ..................................................................... 73 2.5.5 Thị trường hàng hóa cơ sở chưa phát triển: ............................................. 74 2.5.6 Thói quen, tập quán của nông dân và doanh nghiệp: ............................... 74 2.5.7 Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghệ chưa hoàn chỉnh: ............................... 75 2.5.8 Sự tham gia của các định chế tài chính không nhiều và thiếu vắng sự tham gia của các nhà đầu tư có tổ chức lớn ............................................................... 76 2.5.9 Công tác tuyên truyền và phổ cập kiến thức về giao dịch giao sau vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu: .............................................................................. 77 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ......................................................................................... 77 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ PHÁT TRIỂN GIAO DỊCH GIAO SAU CÀ PHÊ TẠI VIỆT NAM .................................................................... 79 3.1 Các giải pháp từ phía Nhà nước: ..................................................................... 79
3.1.1 Hoàn thiện hệ thống hành lang pháp lý cho hoạt động giao dịch giao sau:79 3.1.2 Hoàn thiện bộ máy quản lý hoạt động giao dịch giao sau: ...................... 80 3.1.3 Hỗ trợ phát triển thị trường cà phê giao ngay (physical market): ........... 81 3.1.4 Hỗ trợ tuyên truyền, quảng cáo, đào tạo về hoạt động giao dịch giao sau cà phê cho nhà đầu tư và xã hội: ....................................................................... 83 3.1.5 Ưu đãi nhất định trong chính sách thuế cho các đơn vị tham gia: ........... 84 3.2 Các giải pháp từ phía BCEC: ........................................................................... 85 3.2.1 Đẩy mạnh tuyên truyền về hoạt động giao dịch: ...................................... 85 3.2.2 Đào tạo nguồn nhân lực và các tác nhân ngành hàng: ............................ 86 3.2.3 Tăng thanh khoản thị trường và phát triển thành viên: ............................ 86 3.2.4 Đa dạng các tiêu chuẩn, phẩm cấp trong giao dịch giao ngay: ............... 88
3
3.2.5 Thực hiện chuyển đổi mô hình: ................................................................. 88 3.2.6 Tăng cường, phát triển các mối quan hệ hợp tác: .................................... 88 3.2.7 Thường xuyên cập nhật, thu thập, nắm bắt thông tin từ nhiều nguồn: ..... 89 3.2.8 Mở rộng hệ thống kho, kiểm định và chức năng của chứng thư gửi kho: 89 3.2.9 Tập trung phát triển song song hoạt động giao dịch cà phê giao ngay và giao sau: ............................................................................................................. 90 3.2.10 Đầu tư xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại: ....................... 90 3.3 Các giải pháp của các đơn vị khác ................................................................... 91 3.3.1 Đối với các ngân hàng thương mại:.......................................................... 91 3.3.2 Đối với các nhà môi giới: .......................................................................... 91 3.3.3 Đối với các doanh nghiệp: ........................................................................ 92 3.3.4 Đối với nông dân: ...................................................................................... 92
3.4 Một số kiến nghị với Chính phủ, các cơ quan Bộ, ngành Trung ương, Ngân hàng Nhà nước: ...................................................................................................... 93 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ......................................................................................... 96 KẾT LUẬN ............................................................................................................... 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 99 PHỤ LỤC ................................................................................................................ 104
4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Các từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
ASCE Abuja Securities and Sở Giao dịch Chứng khoán và
Commodity Exchange Hàng hóa Abuja
ATB Asia Trade Brokerage JS Công ty Cổ phần Môi giới
Co Thương mại Châu Á
BCEC Buon Ma Thuot Coffee Trung tâm giao dịch cà phê
Exchange Center Buôn Ma Thuột
Công ty Cổ phần Giám định cà Cafecontrol
phê và hàng hóa xuất nhập khẩu
– chi nhánh Tây Nguyên
CSRC China Securities Regulatory Uỷ ban quản lý chứng khoán
Commission Trung Quốc
Công ty Cổ phần CTCP
Hồ Chí Minh HCM
ICO International Coffee Hiệp hội Cà phê Thế giới
Organization
LIFFE London International Sở giao dịch hàng hóa Luân
Financial Futures and Đôn
Options Exchange
NYBOT New York Board of Trade Sở giao dịch hàng hóa New
York
SICOM Singapore Commodity Sở giao dịch hàng hóa Singapore
Exchange
Techcombank Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Kỹ Thương Việt Nam
THV Công ty cổ phần Tập đoàn Thái
Hòa Việt Nam
5
TMCP Thương mại Cổ phần
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
UNCTAD United Nations Conference Hội nghị liên hiệp quốc về
on Trade and Development thương mại và phát triển
USD United State Dollar Đô la Mỹ
VICOFA Vietnam Coffee and Cocoa Hiệp Hội Cà Phê Ca Cao Việt
Association Nam
Vietnam Dong Việt Nam đồng VNĐ
Vietnam Commodity Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam VNX
Exchange
6
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Rủi ro biến động giá đối với người bán và người mua
Bảng 2.2: Rủi ro do biến động giá chênh lệch trong trường hợp giá giao sau không
đổi
Bảng 2.3: Rủi ro do biến động giá chênh lệch trong trường hợp giá giao sau biến
động và “chốt sau”
Bảng 2.4: Kết quả lãi/ lỗ từ thị trường giao sau của CTCP cà phê PETEC và THV
Bảng 2.5: Số liệu giao dịch giao sau tại BCEC từ tháng 3/2011 đến tháng 6/2011
7
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 1.1: Gợi ý sơ đồ cấu trúc có tổ chức trong giao dịch giao sau
Hình 2.1: Giá cà phê Robusta tại thị trường Châu Âu và chỉ số giá tổng hợp ICO
tháng 11/2011
Hình 2.2: Giá cà phê xuất khẩu FOB tại cảng Thành phố Hồ Chí Minh và giá cà phê
tại Đăk Lăk tháng 11/2011
Hình 2.3: Nghề nghiệp của người được khảo sát
Hình 2.4: Trình độ học vấn của người được khảo sát
Hình 2.5: Mức độ nhận biết các sàn giao dịch cà phê
Hình 2.6: Mức độ thường xuyên giao dịch tại sàn giao dịch cà phê
Hình 2.7: Mức độ hài lòng khi tham gia sàn giao dịch BCEC
Hình 2.8: Lý do tác động đến việc không muốn tham gia sàn giao dịch BCEC
8
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Thị trường giao sau hàng hóa trên thế giới đã xuất hiện từ thế kỷ thứ 19 tại
Hoa Kỳ và đang tăng trưởng với tốc độ ngày càng nhanh hơn do giới đầu tư chuyển
hướng và nâng tỷ trọng của hàng hóa trong danh mục đầu tư bởi họ đã nhận thấy sự
mất cân bằng cung cầu trên thị trường hàng hóa và giao dịch hàng hóa trở nên dễ
dàng hơn với mọi đối tượng. Trong khu vực, những nền kinh tế có đặc điểm tương
tự với Việt Nam như Trung Quốc, Malaysia và Ấn Độ cũng có những bước phát
triển nhảy vọt trong thị trường giao sau hàng hóa.
Ở Việt Nam, thị trường giao sau hàng hóa chính thức xuất hiện từ cuối năm
2004 với sản phẩm hợp đồng giao sau hàng hóa được cung cấp bởi những nhà môi
giới là Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) và Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt Nam (BIDV). Những năm gần đây, lần lượt các ngân hàng như
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng TMCP Quân
đội, Ngân hàng TMCP Đông Á, Ngân hàng TMCP Hàng Hải, Ngân hàng TMCP
Xăng dầu Petrolimex... cũng bắt đầu triển khai dịch vụ giao dịch hợp đồng giao sau
hàng hóa.
Việt Nam là nước có sản lượng cà phê đứng thứ hai trên thế giới chỉ sau
Brazil. Sản xuất cà phê của Việt Nam vẫn ở trong quy mô nhỏ lẻ. Trong những năm
qua đã không ít lần phải chứng kiến cảnh các địa phương, các doanh nghiệp kinh
doanh cà phê do không ổn định đầu ra nên sản xuất mang tính tự phát, còn nông dân
trồng cà phê thì bị cuốn vào vòng luẩn quẩn “trồng – chặt – trồng” và “được mùa
mất giá, mất mùa được giá” khiến việc lập kế hoạch sản xuất - kinh doanh, định giá
rất bị động, thu nhập người sản xuất và kinh doanh cà phê đều không ổn định. Hơn
nữa, ngành cà phê Việt Nam vẫn tồn tại những phương thức kinh doanh mua bán
cũ, không phù hợp để có thể cạnh tranh với các nước trên thế giới, nền sản xuất
trong nước phụ thuộc vào biến động giá cà phê thế giới mà giá này được người mua
là các doanh nghiệp chế biến cà phê nước ngoài “sắp đặt sẵn” cho doanh nghiệp
xuất khẩu cà phê Việt Nam.
9
Thực tiễn cho thấy, đã đến lúc cần phát triển thị trường giao sau cà phê một
cách đúng nghĩa nhằm giúp các doanh nghiệp quản lý rủi ro biến động giá cà phê,
tạo điều kiện cho cả doanh nghiệp và những người sản xuất tập trung vào hoạt động
kinh doanh cốt lõi với chiến lược phát triển dài hạn, đảm bảo sự bình đẳng cho các
doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia cuộc cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp
nước ngoài trong bối cảnh thị trường hàng hóa liên tục biến động.
Hiện tại, ở Việt Nam đã có Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam (VNX) cùng với
Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC) tổ chức thực hiện giao dịch
giao sau mặt hàng cà phê. Sự ra đời và hoạt động của VNX và BCEC đã bước đầu
hoàn chỉnh kết cấu của thị trường tài chính Việt Nam theo tiêu chuẩn quốc tế. Tuy
nhiên, hoạt động giao dịch giao sau cà phê thông qua VNX và BCEC vẫn còn rất
khiêm tốn về số lượng và giá trị giao dịch.
Vì vậy, việc tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân làm cho hoạt động giao dịch
giao sau cà phê tại Việt Nam chưa sôi động từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp
để phát triển giao dịch giao sau cà phê ở Việt Nam đưa thương hiệu cà phê Việt
Nam vươn lên vững mạnh trên thế giới là việc làm cấp thiết. Đề tài “Phát triển
giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam” đã được tác giả thực hiện để giải quyết
những vấn đề trên nhằm góp phần thúc đẩy giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam
ngày càng hoàn thiện hơn.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu tập trung vào ngành cà phê, tìm hiểu những tồn tại vướng
mắc trong việc phát triển giao dịch giao sau cà phê.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu là các hoạt động giao dịch giao sau cà
phê tại Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC), tỉnh Đắk Lắk.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là thực trạng ngành cà phê Việt Nam và thực
trạng giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam nhằm tìm ra những giải pháp phát triển
giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam, đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp và người
nông dân.
10
4. Phương pháp nghiên cứu:
Tác giả đã dùng phương pháp tổng hợp các thông tin, tài liệu liên quan đến
giao dịch giao sau từ các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới và ở Việt Nam, báo,
tạp chí, internet…và hệ thống hóa các thông tin để cho thấy cái nhìn tổng quát về
thực trạng giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, tác giả cũng kết hợp với phương pháp nghiên cứu thông qua
khảo sát bằng bản câu hỏi nhằm đánh giá mức độ nhận biết các sàn giao dịch cà
phê, mức độ thường xuyên giao dịch tại sàn, mức độ hài lòng khi tham gia sàn
BCEC và lý do tác động đến việc không muốn giao dịch tại sàn BCEC của cộng
đồng kinh doanh cà phê tại tỉnh Đắk Lắk.
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu được đề cập ở trên, luận văn nghiên cứu
tập trung trả lời những câu hỏi nghiên cứu sau:
1) Lợi ích của giao dịch giao sau đối với những người tham gia giao dịch
giao sau và đối với Nhà nước?
2) Rủi ro của việc giao dịch những hợp đồng giao sau?
3) Thực trạng ngành cà phê Việt Nam có những tồn tại, khó khăn gì?
4) Thực trạng giao dịch giao sau cà phê ở Việt Nam trong thời gian qua như
thế nào?
5) Những giải pháp nào cần phải đặt ra để phát triển giao dịch giao sau cà
phê ở Việt Nam?
5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài nghiên cứu:
Thông qua quá trình khảo sát thực tế giao dịch giao sau cà phê tại BCEC của
cộng đồng kinh doanh cà phê tại tỉnh Đắk Lắk – tỉnh có sản lượng cà phê lớn nhất
nước Việt Nam, đề tài nghiên cứu đã đưa ra cái nhìn tổng quan về nhận thức của họ
đối với hoạt động giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam, từ đó thấy được nguyên
nhân tại sao hoạt động giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam chưa phát triển.
Dựa trên tình hình thực tế của ngành sản xuất kinh doanh cà phê Việt Nam,
thực trạng giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam, đề tài đề xuất một số giải pháp
11
khả thi nhằm phát triển giao dịch giao sau cà phê ngày càng hoàn thiện, đưa ngành
cà phê Việt Nam phát triển xứng tầm với tiềm lực vốn có của mình.
6. Kết cấu của luận văn:
Mở đầu.
Chương 1: Khung lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về giao dịch giao
sau.
Chương 2: Tổng quan ngành cà phê Việt Nam và thực trạng giao dịch giao
sau cà phê ở Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị phát triển giao dịch giao sau cà phê
tại Việt Nam.
Kết luận.
12
CHƯƠNG 1: KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC
NGHIỆM VỀ GIAO DỊCH GIAO SAU
1.1 Khung lý thuyết về giao dịch giao sau:
1.1.1 Lợi ích của giao dịch giao sau:
1.1.1.1 Đối với những người tham gia giao dịch giao sau:
Giao dịch giao sau là công cụ phòng ngừa rủi ro
Những người có nhu cầu phòng ngừa rủi ro bao gồm người sản xuất, người
sở hữu hàng hóa, người xuất khẩu, người nhập khẩu,…sử dụng hợp đồng giao sau
để phòng ngừa rủi ro cho hoạt động kinh doanh của mình. Họ phòng ngừa những
rủi ro không lường trước được về giá cả hàng hóa, tỷ giá hối đoái, lãi suất… Lợi ích
của người có nhu cầu phòng ngừa rủi ro khi mua hợp đồng giao sau của cùng loại
và cùng số lượng hàng hóa là để chốt giá mua và đạt được mục đích bảo hộ khi giá
tăng. Còn khi họ bán hợp đồng giao sau của cùng loại và cùng số lượng hàng hóa là
để chốt giá bán và đạt được mục đích bảo hộ khi giá giảm. Họ có thể lựa chọn, một
là thực hiện đúng như hợp đồng, hoặc hai là thanh lý hợp đồng bằng thanh toán bù
trừ. Thông thường, vì những lý do bị động về thời gian, địa điểm giao hàng, người
có nhu cầu phòng ngừa rủi ro vẫn thích thực hiện nghiệp vụ thanh toán bù trừ để
bảo vệ cho rủi ro của họ.
Ví dụ cho thấy lợi ích của giao dịch giao sau đối với nông dân:
Hiện tại là tháng 04, một nông dân trồng cà phê dự trù bán 4 tấn cà phê sau
khi thu hoạch vào tháng 07. Nông dân dự kiến vào thời điểm thu hoạch nhiều khả
năng giá sẽ giảm mạnh và nông dân sẽ bán được giá thấp dẫn đến thua lỗ. Nếu
không bán ra tại thời điểm thu hoạch, thì chỉ có thể là giữ hàng chờ cho đến khi nào
giá lên. Lúc đó, nông dân sẽ đối mặt với nhiều rủi ro như: biết khi nào giá lên,
không có vốn tái sản xuất, tốn tiền và thâm hụt do trữ hàng trong kho, lãi ngân hàng
và mất đi rất nhiều chi phí cơ hội khác mà lẽ ra nếu bán trước thì nông dân đã có
được khoản tiền thực hiện rất nhiều việc khác, chứ không phải chờ giá lên. Để bảo
13
hộ rủi ro về giá, đồng thời tăng tính chủ động cho chính mình, nông dân thực hiện
vị thế là bán trước cà phê bằng hợp đồng giao sau tại Trung tâm giao dịch cà phê
Buôn Ma Thuột (BCEC) (Giả sử hoạt động giao dịch tại BCEC sôi động). Giả sử
hiện tại hợp đồng cà phê tháng 07 được giao dịch trên BCEC tại mức giá 42.000
VNĐ/kg. Sau khi tính toán thấy có lợi nhuận ở mức giá bán 42.000 VNĐ/kg, nông
dân thực hiện bán 2 hợp đồng giao sau tháng 07 trên sàn BCEC (khối lượng mỗi
hợp đồng giao sau là 2 tấn). Giả sử không có các loại phí và giá thị trường giao sau
bằng với giá thị trường giao dịch tiền mặt. Chúng ta cùng xem xét vấn đề gì sẽ xảy
ra với nông dân khi thời điểm tháng 07 đến.
Tình huống 1: Giá giao sau tháng 07 đạt 35.000 VNĐ/kg, giảm 7.000
VNĐ/kg so với mức giá mong muốn bán của nông dân. Nông dân mua 2 hợp đồng
giao sau tháng 07 tại mức giá 35.000 VNĐ/kg để bù trừ vị thế và thanh lý hợp đồng.
Nông dân lời từ thị trường giao sau là (42.000-35.000) VNĐ/kg x 4 tấn =
28.000.000 VNĐ. Nông dân bán 4 tấn cà phê thực trên thị trường giao dịch tiền mặt
với giá 35.000 VNĐ/kg và thu được 140.000.000 VNĐ. Tổng số tiền lời từ thị
trường giao sau và số tiền bán cà phê thực trên thị trường giao dịch tiền mặt là
28.000.000 VNĐ + 140.000.000 VNĐ = 168.000.000 VNĐ, tương đương với giá
bán mong muốn là 42.000 VNĐ/kg. Nông dân hoàn toàn làm chủ được nguồn vốn
của mình mà không bị lệ thuộc chờ giá thị trường.
Tình huống 2: Giá giao sau tháng 07 đạt 50.000 VNĐ/kg. Để thanh lý hợp
đồng, nông dân mua 2 hợp đồng giao sau tháng 07 tại mức giá 50.000 VNĐ/kg và
lỗ (50.000-42.000) VNĐ/kg x 4 tấn = 32.000.000 VNĐ. Đồng thời, nông dân bán 4
tấn cà phê thực trên thị trường giao dịch tiền mặt với giá 50.000 VNĐ/kg và thu
được 200.000.000 VNĐ. Số tiền nông dân bán cà phê trên thị trường giao dịch tiền
mặt trừ đi khoản lỗ từ thị trường giao sau là 200.000.000 – 32.000.000 =
168.000.000 VNĐ, tương đương với giá bán mong muốn là 42.000 VNĐ/kg.
Như vậy, trong trường hợp nếu như giá giảm mà nông dân không bảo hộ giá
trên thị trường bằng việc bán trước hợp đồng giao sau, thì khi vào vụ thu hoạch
tháng 07 nông dân sẽ bị thiệt hại rất lớn và bị thụ động về vốn chuẩn bị cho mùa vụ
14
kế tiếp của mình. Còn trong trường hợp giá tăng, mặc dù nông dân không được
hưởng lợi từ việc tăng giá nhưng ít nhiều đã chủ động và phòng tránh được rủi ro
trong trường hợp giá giảm là điều quan trọng nhất đối với nông dân trồng cà phê.
Để tăng tính hiệu quả trong trường hợp giá tăng, thì điều nhất thiết nông dân phải
biết phân tích và dự báo được xu hướng sắp tới của giá cà phê, để từ đó ra quyết
định có nên vào trạng thái bán trước hợp đồng giao sau hay không và bán vào thời
điểm nào.
Ví dụ cho thấy lợi ích của giao dịch giao sau đối với doanh nghiệp kinh
doanh cà phê:
Vào tháng 04, một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cà phê vừa ký
hợp đồng bán cho một đối tác nước ngoài 100 tấn cà phê nhân, giao hàng trong
vòng ba tháng tại mức giá cố định 43.000 VNĐ/kg. Hiện tại giá hợp đồng giao sau
tháng 07 là 38.000 VNĐ/kg. Sau khi tính toán tất cả chi phí và thấy có lợi nhuận,
doanh nghiệp quyết định mua 50 hợp đồng giao sau cà phê tháng 07 trên sàn BCEC
tại mức giá 38.000 VNĐ/kg. Giả sử hoạt động giao dịch tại BCEC sôi động, không
có các loại phí và giá thị trường giao sau bằng với giá thị trường giao dịch tiền mặt.
Có 2 tình huống xảy ra:
Tình huống 1: Giá giao sau tháng 07 đạt 48.000 VNĐ/kg. Doanh nghiệp
đóng vị thế bằng cách bán 50 hợp đồng giao sau cà phê tháng 07 tại mức giá 48.000
VNĐ/kg và lời (48.000 – 38.000) VNĐ x 100 tấn = 1.000.000.000 VNĐ. Tuy
nhiên, doanh nghiệp phải mua 100 tấn cà phê thực với giá 48.000 VNĐ/kg để thực
hiện cam kết với đối tác. Doanh nghiệp phải bỏ ra 4.800.000.000 VNĐ, trong khi
mức ký kết bán cho đối tác với tổng giá trị đơn hàng là 43.000 VNĐ x 100 tấn =
4.300.000.000 VNĐ, có nghĩa doanh nghiệp lỗ 500.000.000 VNĐ. Số tiền doanh
nghiệp bỏ ra mua trên thị trường giao dịch tiền mặt trừ đi số tiền lời từ thị trường
giao sau là 3.800.000.000 VNĐ, tương đương với mức giá kỳ vọng ban đầu là
38.000 VNĐ/kg.
Tình huống 2: Giá giao sau tháng 07 đạt 32.000 VNĐ/kg. Doanh nghiệp
đóng vị thế bằng cách bán 50 hợp đồng giao sau cà phê tháng 07 tại mức giá 32.000
15
VNĐ/kg và lỗ từ thị trường giao sau là (38.000 – 32.000) VNĐ/kg x 100 tấn =
600.000.000 VNĐ. Đồng thời, doanh nghiệp mua 100 tấn cà phê thực với giá
32.000 VNĐ/kg để thực hiện cam kết với đối tác. Doanh nghiệp phải bỏ ra
3.200.000.000 VNĐ, trong khi mức ký kết bán cho đối tác với tổng giá trị đơn hàng
là 4.300.000.000 VNĐ, có nghĩa doanh nghiệp sẽ lời 1.100.000.000 VNĐ. Số tiền
doanh nghiệp phải bỏ ra mua trên thị trường giao dịch tiền mặt cộng với khoản lỗ từ
thị trường giao sau là 3.800.000.000 VNĐ, tương đương với mức giá kỳ vọng ban
đầu là 38.000 VNĐ/kg.
Như vậy, nếu như giá tăng mà doanh nghiệp không bảo hộ giá trên thị trường
bằng việc mua hợp đồng giao sau, thì khi tới thời điểm giao hàng vào tháng 07,
doanh nghiệp sẽ bị thiệt hại rất lớn và rất dễ bị bội tín với đối tác. Còn trong trường
hợp giá giảm, mặc dù doanh nghiệp không được hưởng lợi từ việc giảm giá nhưng
ít nhiều đã chủ động và phòng tránh được rủi ro trong trường hợp giá tăng là điều
quan trọng nhất trong kinh doanh. Việc chọn thời điểm mua sẽ tùy thuộc vào khả
năng phân tích - dự báo giá của doanh nghiệp, càng phân tích – dự báo giá tốt,
doanh nghiệp càng chọn được thời điểm tốt để ra quyết định thực hiện mua hợp
đồng cà phê, đồng thời doanh nghiệp càng có lợi. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp,
doanh nghiệp sẽ phòng tránh được rủi ro biến động giá cà phê tăng cao dẫn đến việc
không thu mua được hàng giao cho đối tác hoặc gây lỗ nặng cho doanh nghiệp.
Giao dịch giao sau là công cụ đầu cơ:
Giao dịch giao sau hấp dẫn các nhà đầu cơ tham gia kiếm lời vì khi tham gia
giao dịch giao sau, họ không phải bỏ ra đầy đủ số tiền như mình đã ký kết trong hợp
đồng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình, thay vào đó là đóng tiền ký
quỹ cho mỗi lần giao dịch và đạt mức duy trì tài khoản ký quỹ. Thông thường, mức
tiền ký quỹ chỉ nằm trong khoảng từ 2% đến 20% giá trị hợp đồng giao sau tùy
thuộc vào loại hàng hóa. Mức tiền ký quỹ càng thấp thì khả năng đòn bẩy tài chính
càng cao và càng hấp dẫn các nhà đầu cơ sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Các nhà đầu cơ
mua hợp đồng giao sau nhằm kiếm lời từ việc tăng giá và bán hợp đồng giao sau
nhằm kiếm lời từ việc giảm giá.
16
Ví dụ cho thấy lợi ích của giao dịch giao sau đối với nhà đầu cơ:
Khi nhà đầu cơ cho rằng giá cà phê sẽ giảm trong tháng tới, nhà đầu cơ quyết
định bán 5 hợp đồng giao sau trên sàn BCEC tại mức giá 44.000VNĐ/kg (Giả sử
hoạt động giao dịch tại BCEC sôi động và không có các loại phí). Tổng giá trị cho
hợp đồng là 5 x 2 tấn x 44.000 VNĐ/kg = 440.000.000 VNĐ (khối lượng mỗi hợp
đồng giao sau là 2 tấn). Và để thực hiện hợp đồng này, nhà đầu cơ cần ký quỹ giao
dịch là 15% x 440.000.000 VNĐ = 66.000.000 VNĐ. Giả sử vào tháng sau, giá
hợp đồng giao sau cà phê giảm 10% tức đạt 39.600 VNĐ/kg, nhà đầu cơ quyết định
đóng trạng thái hợp đồng đã bán trước đó bằng cách mua 5 hợp đồng giao sau trên
sàn BCEC tại mức giá 39.600 VNĐ/kg. Nhà đầu cơ thu được lợi nhuận 440.000.000
– 5 x 2 tấn x 39.600 VNĐ/kg = 44.000.000 VNĐ. Tỷ lệ lợi nhuận/tiền ký quỹ là
67%.
Đòn bẩy tài chính giúp nhà đầu cơ tham gia giao dịch giao sau kiếm lời
nhiều. Tuy nhiên, nếu như nhà đầu cơ không biết quản lý rủi ro và không có kỹ
năng phân tích – dự báo giá thì khi giá đi ngược xu hướng, nhà đầu cơ buộc phải
đóng thêm tiền ký quỹ theo quy định để duy trì tài khoản và có thể thua lỗ nặng nề.
Giao dịch giao sau là công cụ điều chỉnh giá cả trên thị trường:
Việc các bên mua bán hàng hóa với giá cả dự kiến trong tương lai giúp cho
thị trường tự điều chỉnh giá. Nếu có một tin xấu (chẳng hạn như thời tiết khó khăn
có thể gây mất mùa) hoặc tin tốt (được mùa) sẽ xảy ra trong tương lai thì giá cả của
mặt hàng đó sẽ tự động điều chỉnh trong một thời gian trên thị trường giao sau trước
khi có sự thay đổi giá thực sự trên thị trường tự do. Nhờ biết trước được giá cả dự
kiến trong tương lai nên những người cần bảo hộ có thể điều tiết sản xuất, tự động
cân bằng cung cầu. Hơn thế nữa, việc niêm yết giá cả công khai trên thị trường sẽ
giúp cho các nhà kinh doanh không lo việc mua bán không đúng giá, ép giá. Giá cả
được niêm yết công khai không chỉ lợi cho những người giao dịch giao sau mà nó
còn là căn cứ để các nhà kinh doanh trong nước, khu vực hoặc thế giới thực hiện
việc mua bán của mình.
17
1.1.1.2 Đối với việc quản lý kinh tế của Nhà nước:
Giao dịch giao sau giúp cho Nhà nước và các thành phần tham gia giao dịch
giao sau nắm được quan hệ cung cầu và giá cả. Sự giao dịch tập trung giúp cho diễn
tiến giá trên thị trường phản ánh được quan hệ cung cầu, đặc biệt hơn ở chỗ là giá
cả đó lại là giá cả dự kiến trong tương lai. Những người bảo hộ sẽ không lo bị ép
giá và tự động điều tiết việc sản xuất của mình dựa trên quan hệ cung cầu trên thị
trường. Còn Nhà nước thì biết được quan hệ cung cầu và giá cả để định hướng sản
xuất, thực hiện việc quản lý kinh tế vĩ mô của mình.
Việc tiêu chuẩn hóa trong giao dịch giao sau giúp Nhà nước tiêu chuẩn hóa
và thống nhất chất lượng hàng hóa phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời
nâng cao quy mô sản xuất để tiến tới một nền sản xuất chuyên nghiệp, có định
hướng hơn, tránh sự sản xuất thiếu tập trung.
Ngoài ra, việc ghi sổ, cập nhật các thành phần tham gia, các lĩnh vực được
mua bán, sự thay đổi giá cả, thông tin…trên thị trường giao sau có ý nghĩa rất lớn
trong việc thống kê thương mại. Với nguồn dữ liệu thống kê được trong quá khứ,
Nhà nước có cơ sở đưa ra được những dự đoán trong tương lai, tránh rơi vào những
tình huống xấu xảy đến bất ngờ và thực hiện việc quản lý kinh tế hiệu quả hơn.
1.1.2 Rủi ro của việc giao dịch những hợp đồng giao sau:
1.1.2.1 Rủi ro thị trường:
Rủi ro đầu tiên của giao dịch giao sau là rủi ro thị trường, rủi ro này liên
quan đến sự dao động trong giá trị của những công cụ do tình hình thị trường.
Những công ty sử dụng hợp đồng giao sau để đầu cơ sẽ liên quan mật thiết
đến tình hình thị trường. Nếu những mong đợi của họ về tình hình thị trường là sai
họ phải chịu tổn thất trên những hợp đồng giao sau. Ví dụ, một công ty mua một
hợp đồng giao sau, công ty sẽ lỗ nếu giá xuống. Ngược lại, nếu công ty bán một hợp
đồng giao sau, công ty sẽ lỗ nếu giá lên. Trên lý thuyết khoản lỗ này sẽ không giới
hạn bởi không có giới hạn mức giá sẽ tăng hoặc giảm bao nhiêu. Những công ty sử
dụng hợp đồng giao sau để phòng ngừa thì ít liên quan đến tình hình thị trường vì
18
khi thị trường đi ngược lại những dự đoán của họ, họ sẽ có được một phần lợi
nhuận bù trừ trên vị thế mà họ đã phòng ngừa.
1.1.2.2 Rủi ro basic:
Loại rủi ro thứ hai là rủi ro basic. Basic thường được định nghĩa là giá giao
ngay trừ đi giá giao sau. Giá giao ngay tăng nhiều hơn giá giao sau, basic sẽ tăng
lên và được gọi là basic mở rộng. Nó làm cải thiện thành quả của phòng ngừa vị thế
bán. Nếu giá giao sau tăng nhiều hơn giá giao ngay, basic sẽ giảm và làm giảm đi
thành quả của phòng ngừa, đây được gọi là basic thu hẹp. Rủi ro này xảy ra cho
những công ty, cá nhân sử dụng hợp đồng giao sau để phòng ngừa.
Ví dụ basic ảnh hưởng hiệu quả của hoạt động phòng ngừa
Vào tháng 07, một doanh nghiệp kinh doanh cà phê đang có kế hoạch bán 50
tấn cà phê đang trữ trong kho vào tháng 11 tới. Sau khi tính toán tất cả các chi phí,
doanh nghiệp kỳ vọng basic là + 20 USD/tấn và bán 5 hợp đồng giao sau cà phê
tháng 11 trên sàn LIFFE (khối lượng mỗi hợp đồng giao sau trên sàn LIFFE là 10
tấn) tại mức giá là 2.040 USD/tấn để bảo hộ rủi ro về giá cà phê. Giá bán kỳ vọng
của doanh nghiệp trên thị trường giao dịch tiền mặt là 2.040 + 20 = 2.060 USD/tấn.
Giả sử không có các loại phí giao dịch.
Giả sử vào tháng 11, giá thị trường giao sau cà phê giảm đạt 1.800 USD/tấn
và giá thị trường giao dịch tiền mặt đạt 1.810 USD/tấn. Basic là 10 USD/tấn giảm
so với basic kỳ vọng. Doanh nghiệp bán 50 tấn cà phê thực trong kho với giá 1.810
USD/tấn và lỗ (2.060 – 1.810) USD/tấn x 50 tấn = 12.500 USD. Doanh nghiệp mua
5 hợp đồng giao sau trên sàn LIFFE với giá 1.800 USD/tấn và lời (2.040-1.800)
USD/tấn x 50 tấn = 12.000 USD. Kết quả doanh nghiệp lỗ 12.500 – 12.000 = 500
USD. Vì basic giảm nên khoản lời từ thị trường giao sau không bù trừ hoàn toàn
khoản lỗ từ thị trường giao dịch tiền mặt.
19
1.1.2.3 Rủi ro bị thanh lý hợp đồng trước hạn:
Lời hoặc lỗ của các nhà đầu tư giao dịch hợp đồng giao sau trên các Sở giao
dịch hàng hóa được phản ánh lên tài khoản nhà đầu tư hàng ngày, thông qua “mark-
to-market”. Các biến động về tình hình thị trường hàng hóa có tác động lớn đến các
giao dịch tại các Sở giao dịch, điều này có thể khiến nhà đầu tư bị lỗ. Nếu khoản lỗ
vượt quá mức ký quỹ duy trì trạng thái thì nhà đầu tư buộc phải bổ sung thêm tiền
vào tài khoản, hoặc sẽ bị các Sở giao dịch thanh lý hợp đồng trước hạn.
1.1.2.4 Rủi ro không thể đóng vị thế trước khi hợp đồng đáo hạn:
Thông thường, nhà đầu tư tham gia vào một giao dịch bù trừ vị thế để đóng
lại vị thế hiện tại trước ngày đáo hạn hợp đồng. Sẽ thật là bi kịch nếu như họ muốn
thoát khỏi vị thế hiện tại của mình và đã làm mọi cách nhưng vẫn không thể thực
hiện được, không thể chốt lời mà cũng không ngăn được lỗ. Điều này hoàn toàn có
thể xảy ra trong các trường hợp sau:
- Giao dịch bị tạm ngừng, chẳng hạn do Sở giao dịch phát hiện trên thị
trường đang diễn ra giao dịch bất thường, có yếu tố gian lận, lũng đoạn… Hoặc do
phát sinh các vấn đề nghiêm trọng đối với đơn vị bán hàng (như sản xuất bị đình trệ
kéo dài,…)
- Hệ thống giao dịch của Sở giao dịch đột nhiên bị lỗi, không thể xử lý giao
dịch một cách chính xác.
- Thị trường giao dịch hàng hóa kém thanh khoản, thiếu vắng người mua
hoặc bán. Khi thị trường kém thanh khoản thì nhà đầu tư có muốn bán hàng hóa đi
cũng không dễ gì thực hiện được.
1.1.2.5 Rủi ro khi hàng hóa giao dịch không đạt tiêu chuẩn:
Giao dịch hợp đồng giao sau trên Sở giao dịch hàng hóa có thể xảy ra khả
năng hàng hóa không đạt tiêu chuẩn. Trong trường hợp này có thể xảy ra tranh chấp
giữa người mua và người bán về chất lượng hàng hóa, và về nguyên tắc Sở giao
dịch hàng hóa phải chịu trách nhiệm với người mua nếu hàng hóa đó thật sự không
đạt tiêu chuẩn quy định.
20
1.1.2.6 Rủi ro tổ chức:
Rủi ro thứ 6 là rủi ro tổ chức, là loại rủi ro liên quan đến tổn thất như là hậu
quả của việc quản lý và giám sát lỏng lẻo. Những công ty sử dụng hợp đồng giao
sau để phòng ngừa rủi ro đã lỏng lẻo, có những nhân viên phụ trách vị thế giao sau
không hoàn toàn hiểu cách làm thế nào giá trị của những hợp đồng giao sau tương
ứng với tình hình thị trường. Mặc khác, những nhân viên kia có thể tham gia vào vị
thế đầu cơ hơn là mong muốn của công ty nếu công ty không giám sát vị thế của họ.
1.2 Các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới và ở Việt Nam:
1.2.1 Các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới:
Có rất nhiều nghiên cứu trên thế giới về giao dịch giao sau. Trong luận văn
này, tôi chỉ trình bày một số nghiên cứu cho thấy sự phổ biến của giao dịch giao
sau, trường hợp giao dịch giao sau không đem lại nhiều lợi ích trong việc phòng
ngừa rủi ro, trường hợp giao dịch giao sau làm tăng biến động giá và yếu tố nào
đáng quan tâm để thiết lập thành công Sở giao dịch hàng hóa.
Giao dịch giao sau hàng hóa đã trở nên phổ biến và có ý nghĩa cho việc
phòng ngừa rủi ro. Rajesh Chakrabarti (2004) đã cho thấy các sản phẩm tài chính
phái sinh, giao sau, kỳ hạn đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới. Giao dịch giao sau
hàng hóa tạo thành một phần nhỏ của các thương vụ nhưng mang một ý nghĩa quan
trọng cho việc bảo hiểm rủi ro cho sản xuất nông nghiệp và người tiêu dùng. Tại Ấn
Độ, các giao dịch giao sau đã bị cấm trong nhiều thập kỷ trước khi nó được hợp
pháp hóa lại vào giữa những năm 90. Kể từ đó giao dịch giao sau hàng hóa được
thực hiện với hơn 25 Sở giao dịch, trong đó bốn Sở giao dịch hàng hóa chính chủ
yếu giao dịch giao sau. Mỗi Sở giao dịch đều có nét đặc trưng riêng về quy cách
hợp đồng cũng như phương thức thanh toán. Để liên kết với phần còn lại của thế
giới, các Sở giao dịch hàng hóa giao sau tại Ấn Độ cũng ngày càng gia tăng việc
giao dịch với hệ thống mạng lưới giao dịch điện tử.
Tuy nhiên, vẫn có nghiên cứu cho thấy giao dịch giao sau không đem lại
nhiều lợi ích trong việc phòng ngừa rủi ro? Peter Hazell (2000) đã phân tích cho
21
thấy giá cà phê ở thị trường Costa Rica và thị trường New York không hoàn toàn
tương quan và các lợi ích tiềm năng từ việc sử dụng thị trường giao sau New York
để cung cấp các hợp đồng giá kỳ hạn khi thu hoạch được tìm thấy là khá khiêm tốn.
Các nông dân trồng cà phê ở Costa Rica gần như hoàn toàn phải đối mặt với sự biến
động về giá cà phê trên thế giới. Mặc dù diện tích nông trại nhỏ, chuyên môn hóa về
cà phê và một hệ thống tiếp thị làm kéo dài độ bất ổn và làm trầm trọng thêm các
vấn đề về dòng tiền nhưng phần lớn nông dân vẫn có thể kiểm soát những rủi ro về
giá một cách đáng ngạc nhiên. Họ khá giàu có, có dòng tiền mặt theo mùa thuận lợi,
sẵn sàng tiếp cận tín dụng, có khả năng gánh chịu những rủi ro, và có thể dự báo giá
chính xác so với thị trường giao sau New York.
Tiến sĩ K.G. Sahadevan (2003) trình bày nhiều Sở giao sau hàng hóa không
mang lại một sự phòng ngừa hiệu quả chống lại rủi ro phát sinh từ biến động giá
của nhiều sản phẩm nông nghiệp, khi mà họ thực hiện giao dịch giao sau. Các kết
quả thu được từ phân tích thống kê các dữ liệu dựa trên phát hiện giá (price
discovery) trong một mẫu gồm sáu mặt hàng được giao dịch tại bốn Sở giao dịch
hàng hóa cho thấy rằng thị trường giao sau đối với những mặt hàng này không hiệu
quả trong trường hợp giá cả giao sau không phải là một dự đoán khách quan về giá
cả trong tương lai. Những hạn chế trong tổ chức và chính sách đối với giao dịch
giao sau yêu cầu cách tiếp cận tập trung hơn từ phía Chính phủ. Các nhà quản lý và
các Sở giao dịch giao sau hàng nông sản cần phải có nhiều biện pháp nhằm làm cho
giao dịch giao sau là một phương thức quản lý rủi ro giá, một vai trò quan trọng,
đặc biệt là trong khi nông nghiệp đóng một vai trò chủ chốt trong nền kinh tế của
Ấn Độ.
Nghiên cứu của Golaka C Nath và Thulasamma Lingareddy (2008) cho rằng
giao dịch giao sau đã làm tăng biến động giá trong thị trường giao ngay (spot
market) đối với một số hàng hóa. Nghiên cứu trình bày Ấn Độ đã cho phép nhiều
mặt hàng nông nghiệp được giao dịch giao sau rộng khắp cả nước và sau đó, một
vài mặt hàng bị cấm giao dịch giao sau do áp lực về giá giao ngay (spot price) của
các mặt hàng này. Nghiên cứu cho thấy tác động của giao dịch giao sau ba mặt hàng
22
quan trọng mà đã bị cấm giao dịch giao sau bởi chính phủ đối với giá giao ngay.
Nghiên cứu đã sử dụng phép hồi quy tuyến tính, sự tương quan và thực nghiệm
Granger Causality để tìm ra câu trả lời. Nghiên cứu cũng cố gắng tìm ra kết quả dựa
trên các dao động giá theo mùa hoặc theo chu kỳ của những hàng hóa đã bị ảnh
hưởng bởi sự xuất hiện của các giao dịch giao sau. Ngoài ra, nghiên cứu đã sử dụng
phương pháp lọc Hodrick-Prescott nhằm phân biệt xu hướng chung và các biến
động giá theo mùa hoặc theo chu kỳ. Nghiên cứu tìm ra rằng trong giao dịch giao
sau đối với những hàng hóa được lựa chọn ở Ấn Độ, rõ ràng đã dẫn đến việc tăng
giá các hàng hóa như urad, nhưng không có thể thống kê được đúng đối với các mặt
hàng khác. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy rằng sự xuất hiện giao dịch giao sau các
hàng hóa được lựa chọn đã không giúp làm giảm các biến động giá theo mùa hoặc
theo chu kỳ.
Dù trên thế giới đã xảy ra những tranh cãi giữa những nhà kinh tế học về lợi
ích của giao dịch giao sau nhưng nhìn chung các nghiên cứu vẫn cho thấy tầm quan
trọng của giao dịch giao sau. Do đó, nhiều quốc gia đã thúc đẩy Sở giao dịch hàng
hóa để phát triển giao dịch giao sau. Và yếu tố nào đáng quan tâm để thiết lập thành
công Sở giao dịch hàng hóa? Euna Shim (2006) cho rằng thị trường giao sau thường
có đặc trưng bởi khả năng thanh khoản - nghĩa là một Sở giao dịch thành công nếu
thiết lập được một hợp đồng cụ thể có tính thanh khoản cao, ngược lại với Sở giao
dịch khác không có khả năng thành công đối với hợp đồng này. Tính thanh khoản
đã được tìm thấy chủ yếu là trong các Sở giao dịch ở các nước tiên tiến và thị
trường các nước đang phát triển thường dựa vào giao dịch giao sau tại các Sở giao
dịch này để phòng ngừa rủi ro về giá tại thị trường trong nước. Trong những năm
gần đây, một số nước đang phát triển đã thành công trong việc thành lập các Sở
giao dịch trong nước và hợp đồng các mặt hàng nông nghiệp cạnh tranh với các Sở
giao dịch quốc tế có tính thanh khoản cao. Nghiên cứu đưa ra một phân tích kỹ
lưỡng về những vấn đề quan trọng trong việc tạo ra các kết quả đáng chú ý của các
Sở giao dịch hàng hóa ở một số nước đang phát triển thông qua các kiểm định của
một tập hợp các giả thuyết. Kết quả nghiên cứu từ bảy quốc gia cho thấy rằng hợp
23
đồng với những sản phẩm cơ bản khác biệt so với những sản phẩm hiện hành hoặc
mang những rủi ro basic lớn là một trong những yếu tố thành công quan trọng nhất.
Sự hiện diện của thị trường trong nước đủ lớn cũng không kém phần quan trọng,
với sự phát triển của các môi giới định chế tài chính, thể chế luật và sự hiện diện
của những cam kết từ tư nhân, doanh nghiệp và chính phủ nhằm tạo thanh khoản.
Kinh tế vĩ mô ổn định chính là tiền đề và hội nhập giữa các ngành công nghiệp ở
mức độ thấp và các bổ sung định hướng xuất khẩu hiện có đã cho thấy được mối
tương quan yếu với những thành công được tìm thấy ở các nước đang phát triển.
Gideon Onumah (2009) trình bày những lợi ích tiềm năng có thể đạt được
mà các bên liên quan bao gồm cả tư nhân và chính quyền ở Ghana và Nigeria theo
đuổi các sáng kiến để thiết lập các Sở giao dịch hàng hóa nông nghiệp và cơ sở hạ
tầng liên quan, bao gồm cả các hệ thống kho giao nhận hàng hóa. Một số sáng kiến
đã được thực hiện hoặc được hỗ trợ bởi các dự án có tài trợ. Mặc dù cách thực hiện
ở hai nước khác nhau, kết quả đạt được vẫn tương tự, đó là việc thiết lập Sở giao
dịch hàng hóa ở hai nước vẫn chưa khả thi. Nigeria khởi động bằng việc tập trung
xây dựng “cấu trúc siêu trao đổi” bằng cách thiết lập Sở Giao dịch Chứng khoán và
Hàng hóa Abuja (Abuja Securities and Commodity Exchange - ASCE) với những
nỗ lực để phát triển nền tảng cơ sở hạ tầng. ASCE hoạt động trong một khuôn khổ
pháp lý rõ ràng và hoạt động của Sở giao dịch hàng hóa cùng các thành viên giao
dịch được quản lý và giám sát bởi Ủy ban Giao dịch Chứng khoán Nigeria (Nigeria
Securities and Exchange Commission - NSEC). ASCE có cơ sở hạ tầng bao gồm
sàn giao dịch điện tử, hệ thống ngân hàng làm nhiệm vụ thanh toán bù trừ và một hệ
thống giải quyết các vấn đề tranh chấp. ASCE đã hoạt động khá tốt, không xuất
hiện các khiếu nại lớn từ các thành viên của thị trường. Tuy nhiên, hệ thống đảm
bảo chất lượng của ASCE cần được cải tiến về hình thức để đơn giản hóa các tiêu
chuẩn tạo cho việc giao dịch thêm thân thiện và ít tốn kém. Đồng thời, hệ thống
thông tin thị trường của ASCE cần phải được cải thiện để trở nên phù hợp hơn với
các thành viên thị trường. Hạn chế nhất của ASCE là hệ thống kho của ASCE
24
không thu hút được người ký gửi, do đó ASCE không thể phát hành và thúc đẩy
giao dịch các hợp đồng đã được tiêu chuẩn hóa.
Ngược lại, Ghana dường như đã chọn phát triển hệ thống kho giao nhận hàng
để củng cố giao dịch qua sàn. Những nỗ lực nhằm phát triển hệ thống kho giao nhận
hàng có vẻ tập trung gần như hoàn toàn vào vấn đề tín dụng đối với hàng gửi kho
hơn là đặt nền móng cho một hệ thống phân phối đáng tin cậy của sàn. Đó là khiếm
khuyết rõ ràng đã cản trở sự phát triển của hệ thống kho giao nhận hàng. Điều gây
ra ảnh hưởng xấu nhất cho các nỗ lực thúc đẩy hệ thống kho giao nhận hàng là các
chính sách hạn chế. Ghana tụt hậu so với Nigeria về phát triển cơ sở hạ tầng hỗ trợ
cho sàn giao dịch, nhưng sự hợp tác chiến lược giữa các bên liên quan đã cải thiện
đáng kể triển vọng cho việc thúc đẩy Sở giao dịch hàng hóa. Các bên tham gia khác
nhau trong liên minh đang tập trung nỗ lực vào việc phát triển các trụ cột, việc đó sẽ
đảm bảo tính khả thi của các đề xuất về Sở giao dịch Hàng hóa Ghana (Ghana
Commodity Exchange -GCX) và Ủy ban Giao dịch Chứng khoán (Securities and
Exchange Commission - SEC), đưa ra chương trình cho việc phát triển sàn giao
dịch, tập trung vào việc phát triển khuôn khổ pháp lý hiệu quả để hỗ trợ sàn giao
dịch và nền tảng cho hệ thống kho giao nhận hàng hóa.
Nghiên cứu của Sở giao địch hàng hóa của Ấn Độ (2008) cho thấy biến động
giá của các mặt hàng nông nghiệp tác động bất lợi đến thu nhập và đời sống của
nông dân, đặc biệt là các hộ nông dân nhỏ lẻ. Để hiểu được tính hiệu quả của nghiệp
vụ bảo hiểm rủi ro giá thông qua giao dịch giao sau, một dự án thí điểm được thực
hiện trong Surendranagar liên quan đến 67 người trồng bông. Mục tiêu của dự án thí
điểm này là để đi đến một mô hình làm việc với sự tham gia của nông dân trong
giao dịch phái sinh hàng hóa. Dự án thí điểm này bao gồm 67 nông dân, trong đó
76% là nông dân nhỏ lẻ (có diện tích đất ít hơn 5 mẫu và 24% còn lại là những nông
dân trung bình (có diện tích đất từ 5 mẫu cho 12,5 mẫu).
Trong số các nhóm nông dân, 87% người nông dân gieo bông vào mùa
Kharif. Khoảng 45% nhóm nông dân để đất bỏ hoang trong mùa Rabi trong khi
49% nhóm nông dân trồng lúa mì- cây trồng duy nhất trong mùa Rabi. Các hoạt
25
động chính của nghiên cứu là tiếp cận thông tin thị trường, sự nhận thức và đào tạo,
phát triển thể chế, hình thành các mối liên kết với các nhà cung cấp dịch vụ và các
tổ chức chuyên nghiệp, chấp nhận và thử nghiệm bảo hiểm rủi ro giá thông qua
hàng hóa phái sinh, chỉnh sửa lại các hợp đồng phái sinh hàng hóa hiện có.
Cách tiếp cận và thiết kế hoạt động dự án của nghiên cứu: hợp đồng giao sau
Kapas trên Sở giao dịch hàng hóa (Multi Commodity Exchange – MCX) được xác
định là hợp đồng phù hợp nhất cho bảo hiểm rủi ro giá bông. Dự án đòi hỏi phải
phát triển cấu trúc thông tin trên nền tảng sẽ giúp theo dõi các hoạt động giao hàng
thực của từng nông dân tham gia để quản lý trạng thái giao sau tương ứng trên Sở
giao dịch và sau đó phân phối lại các lợi ích của bảo hiểm rủi ro giá theo tỷ lệ tương
ứng giữa những người tham gia dự án. Tuy nhiên, do những hạn chế về thời gian và
hạn chế trong hiểu biết về giao dịch của nông dân, nên dự án được thực hiện trong
năm làng và người đại diện từ mỗi làng đưa ra quyết định về vị thế trên sở giao
dịch. Nông dân được chia thành các nhóm 3-4 người để đáp ứng tiêu chuẩn tối thiểu
4 tấn cho mỗi hợp đồng.
Để đánh giá hiệu quả của kế hoạch này, bản câu hỏi điều tra và tập trung
thảo luận nhóm được thực hiện. Bản điều tra bao gồm những điều khoản cần thiết
để giới thiệu 2 kịch bản Pre-Post và With-Without có liên quan đến sự can thiệp.
Nhóm điều hành chính trong kịch bản With-Without được thành lập từ 60 nông dân
ở quận Amreli và Surendranagar – đây có thể được xem tương đương như nhóm
những nông dân tham gia vào dự án thí điểm.
Những nội dung chính của quá trình điều tra để đánh giá dự án được tóm tắt
như sau :
- Giá bình quân thực hiện của nhóm nông dân tham gia thí điểm dự án là Rs
2541/quintal – cao hơn giá bình quân thực hiện của nhóm nông dân điều hành nhóm
là Rs 2460/quintal.
- Giá bình quân thực hiện của nhóm nông dân tham gia dự án thí điểm năm
nay là Rs 2531/quintal, cao hơn 5,9% so với giá bình quân thực hiện của chính
nhóm này trong năm ngoái là Rs 2399/quintal.
26
- Khoảng 38% sản lượng bông của nhóm thí điểm được bán sau tháng 11 –
so sánh với tỷ lệ 27% sản lượng của nhóm điều hành.
- Khoảng 38% sản lượng bông của nhóm thí điểm được bán sau tháng 11 –
so sánh với tỷ lê 29% sản lượng của chính nhóm này trong năm ngoái.
- Một trong những điểm thuận lợi chính của nhóm thí điểm là khả năng mặc
cả với người mua từ những hiểu biết của họ về giá giao sau (futures prices) và
những phát triển của thị trường bông.
Những vướng mắc trở ngại: những trở ngại chính đã phát sinh trong quá
trình thực hiện dự án này được nêu rõ dưới đây bởi các bên có liên quan :
- Trở ngại pháp lý :
+ Trở ngại pháp lý đầu tiên với nhóm nông dân tham gia vào thị trường hàng
hóa là những khó khăn về giấy tờ, văn bản…để mở một tài khoản ngân hàng/tài
khoản giao dịch.
+ Những giới hạn của những định chế tài chính tham gia vào thị trường
(ngân hàng, quỹ tương hỗ, định chế tài chính nước ngoài) cũng làm giảm tính thanh
khoản của thị trường hàng hóa và cho phép giao dịch nhiều hợp đồng để thao túng
giá và tích trữ thị trường.
+ Việc cấm đoán các giao dịch giao sau đối với các hàng hóa có tính chất
trọng yếu chiến lược sẽ làm ảnh hưởng đến niềm tin của đa số người dân và những
nhà đầu tư trên thị trường giao ngay trong việc quản trị rủi ro về giá một cách hiệu
quả trong giao dịch phái sinh hàng hóa.
+ Việc thiếu kiến thức, thông tin về những công cụ giúp quản trị rủi ro đã
được chứng minh hiệu quả quản lý rủi ro của nó đối với những người nông dân và
nhà đầu tư trên thị trường giao ngay tại nhiều quốc gia, sẽ gây cản trở cho những
người tham gia bảo hiểm hàng hóa ở Ấn Độ, làm cho họ dễ bị thương tổn bởi những
rủi ro rớt giá không có giới hạn trong giao dịch giao sau.
- Trở ngại về chính sách:
Những chính sách can thiệp của Chính phủ sẽ tạo những tác động trọng yếu
vào hướng diễn biến và độ biến động của giá hàng hóa. Những thay đổi chính sách
27
vội vã của Chính phủ thường gây nên sự mất cân bằng của thị trường, dẫn đến sự
thiên vị, bất công cho một hay một nhóm thành phần tham gia thị trường. Những sự
can thiệp không rõ ràng của Chính phủ sẽ tạo những ngăn cản đối với những thành
phần tham gia thị trường thực tế (bao gồm cả những người tham gia bảo hiểm) và
làm những hành vi thị trường tự do trong thị trường hàng hóa yếu đi.
- Trở ngại của tổ chức:
+ Những yêu cầu về thủ tục, giấy tờ và những phức tạp kỹ thuật có liên quan
đến việc giao dịch sản phẩm phái sinh hàng hóa đòi hỏi phải có sự tham dự của các
chủ thể là tổ chức, để hoạt động như các đơn vị hỗ trợ kỹ thuật cho người nông dân
tham gia vào Sở giao dịch hàng hóa. Những tổ chức như các tổ chức phi chính phủ,
hợp tác xã, công ty kinh doanh nông nghiệp, tổ chức nông dân có khả năng phục vụ
như những đơn vị hỗ trợ kỹ thuật nhưng các tổ chức này vẫn còn tồn tại một số vấn
đề như sự chuẩn bị không đầy đủ, năng lực giới hạn trong việc quản lý rủi ro về giá,
những khả năng để phát triển thị trường hàng ở Ấn Độ có thể không đạt được, đặc
biệt là những người nông dân thua thiệt.
+ Bảo hiểm rủi ro về giá của hàng hóa trong mùa thu hoạch tới bằng giao
dịch giao sau yêu cầu người nông dân đóng ký quỹ ban đầu (initial margin) và sau
đó là đóng ký quỹ duy trì trạng thái. Quy định này là một trở ngại cho những người
nông dân muốn bảo hiểm rủi ro giá cả cho mình và tìm kiếm nguồn vốn từ cơ chế
tài chính của các tổ chức.
Những đề xuất chính của bài nghiên cứu:
- Những thành viên chủ động tham gia vào thị trường cần liên kết với các tổ
chức như các tổ chức phi chính phủ (NGOs) và các tổ chức khác nắm bắt thông tin
phổ biến và mức giá chính thức của thị trường. Những thông tin phổ biến của thị
trường cần phải được bổ sung bằng những nỗ lực phát triển năng lực của tất cả các
thành viên tham gia thị trường. Để đảm bảo rằng các thành viên tham gia thị trường
đều nắm vững các lý thuyết, khái niệm, cần phải thực hiện nhiều phương án mô
phỏng và tập huấn các trường hợp khác nhau.
28
- Cần phải có một nhóm quản lý cấp cao của nhóm những đại diện từ tất cả
những chủ thể tham gia thị trường. Nhóm quản lý này có thể đánh giá thường xuyên
diễn biến và tiến trình của các hoạt động, và có thể đảm nhận những biện pháp điều
chỉnh khi cần thiết.
- Bản điều tra với tiêu chuẩn khắt khe của 2 nhóm: nhóm điều hành và nhóm
thí điểm cần phải đi cùng với trình tự phát triển của khuôn khổ của tổ chức. Thêm
vào đó, quy cách của hợp đồng giao sau cần phải phù hợp với hàng hóa thực và phù
hợp với người nông dân, người có nhu cầu bảo hiểm hàng hóa.
- Những hoạt động tập huấn và gia tăng năng lực tham gia thị trường nằm
trong khuôn khổ của các hoạt động phát triển, được đảm nhận bởi dự án và cần thiết
có những sắp xếp trong khả năng hợp tác cung ứng vốn. Những nguồn hỗ trợ tài
chính khác cho dự án có thể bao gồm sự đóng góp của người nông dân, vốn vay từ
các định chế tài chính và sự phát triển nguồn vốn tài trợ dự kiến cho các họat động.
Phần vốn vay nên bao gồm cả nguồn vốn hỗ trợ dài hạn từ các nhà cung ứng vốn và
các tổ chức khác cho các khoản ký quỹ duy trì trạng thái. Nguồn vốn này có thể hữu
ích cho việc sắp xếp chi phí và lợi nhuận hợp lý trong suốt quá trình diễn ra các
hoạt động.
- Để đảm bảo sự định hướng chất lượng thích hợp cho người nông dân, cần
thiết phải có sự liên hệ tới người nông dân để đánh giá những đặc điểm chất lượng
chi tiết, liên kết giữa lợi nhuận tạo ra với chất lượng hàng hóa, tránh trợ giá qua lại
giữa những nông dân tham gia phát sinh từ sự phân phối chi phí và lợi nhuận. Hơn
nữa, những kết nối trong ngành công nghiệp bông và những nhà máy sản xuất bông
có thể đảm bảo những điểm chung của thị trường hàng hóa phái sinh và giao ngay,
chuẩn hóa quy trình sản xuất và hoạt động của thị trường.
Đề xuất cấu trúc có tổ chức cho giao dịch giao sau: dựa trên những tồn tại
của dự án này, những đề xuất dưới đây được thiết kế cho dự án giao dịch giao sau:
Độ lớn mỗi hợp đồng giao sau có thể là một nhân tố chính để xác định trạng
thái của một hợp đồng giao sau cho một cá nhân hay một nhóm. Nếu tỷ lệ của khối
lượng bông được bảo hiểm rủi ro bởi mỗi người nông dân tính trên độ lớn mỗi hợp
29
đồng futures ít hơn 1 cho hầu hết nông dân tham gia, thì phương pháp nhóm (group-
based) sẽ thích hợp hơn. Nếu tỷ lệ này càng nhỏ, thì việc bảo hiểm rủi ro sẽ càng
được đồng thuận để đem lại hiệu quả trong việc quản lý của từng thành viên tham
gia. Mặc dù ngay cả khi chi phí giao dịch của việc bảo hiểm rủi ro được giảm đi
đáng kể trong phương pháp nhóm. Mặt khác, quyền tự quyết định và tính khách
quan trong việc chia sẻ lời lỗ từ việc bảo hiểm rủi ro vẫn phải được thỏa thuận một
cách hợp lý.
Một trong những điều kiện tiên quyết chính của một cấu trúc tổ chức tốt là sự
độc lập trong việc cung cấp cho từng thành viên tham gia quyền quyết định tương
ứng với phần tham gia của họ trong mỗi giao dịch. Do đó, việc ra những quyết định
giao dịch, nhất là chọn mức giá để mua và bán trong hợp đồng giao sau, cần phải
được thực hiện bởi chính cá nhân tham gia thị trường, hoặc người đại diện được
thành viên tham gia thị trường chỉ định cụ thể trong hợp đồng giao sau. Vì vậy ở
tầng thứ nhất của cấu trúc có tổ chức, mỗi cá nhân hoặc người đại diện của cá nhân
đó thu thập thông tin từ các tầng thứ hai và ba để ra quyết định giao dịch hợp đồng
giao sau. Ở tầng thứ hai, những người tham gia chương trình bảo hiểm rủi ro có tổ
chức phải tự tổ chức phù hợp với trình độ cấp thôn để đảm bảo dòng chảy của thông
tin thị trường từ tầng thứ ba và thông tin quyết định giao dịch từ tầng thứ nhất. Các
đại diện ở tầng thứ hai có thể được liên hiệp với tầng thứ ba để hợp tác giám sát,
điều chỉnh và đánh giá. Tầng thứ ba (ngoài người tham gia bảo hiểm rủi ro) bao
gồm chủ thể chính được đại diện bởi các bên có liên quan đến dự án. Chủ thể chính
chịu trách nhiệm về việc hướng dẫn để thành lập các hoạt động và cấu trúc thông tin
dự án tại nơi dự án thực hiện. Chủ thể chính là người thực hiện các liên kết phù hợp
với những nhà cung cấp dịch vụ tương ứng cho thị trường như nhà môi giới, nhà
phân tích thị trường hàng hóa, và những định chế tài chính sẵn sàng hỗ trợ cho các
thành viên thị trường.
Cấu trúc có tổ chức phải đảm bảo rằng mỗi thành viên đều nhận được nguồn
thông tin đáng tin cậy và đúng lúc trong quá trình phát triển của thị trường đi đôi
với loại hàng hóa được bảo hiểm rủi ro. Cấu trúc cung cấp thông tin có dạng hình
30
kim tự tháp với tầng đỉnh là chủ thể chính. Chủ thể chính có thể truyền thông tin
đến tầng thứ hai, nơi mà đảm bảo cung cấp nguồn thông tin cho những thành viên ở
tầng thứ nhất để thực hiện việc bảo hiểm rủi ro của mình.
Hình 1.1 sau đây thể hiện cấu trúc có tổ chức đã được trình bày ở trên.
Chủ thể chính Tầng thứ 3
Tầng thứ 2 Đại diện cấp thôn 1 Đại diện cấp thôn N
Tầng thứ 1 Người tham gia hợp đồng giao sau 1 Người tham gia hợp đồng giao sau 2 Người tham gia hợp đồng giao sau N
Nguồn: Multi Commodity Exchange of India Ltd (2008), Enabling farmers
to leverage Commodity Exchanges
Hình 1.1: Gợi ý sơ đồ cấu trúc có tổ chức trong giao dịch giao sau
Để có sự hợp lý trong phân chia lời lỗ từ việc bảo hiểm rủi ro, chất lượng của
mỗi loại sản phẩm thực tế của từng thành viên tham gia cần phải được thẩm định rõ.
Những tiêu chuẩn phân phối lãi lỗ dựa trên chất lượng sản phẩm thực tế cần phải
được thành lập cùng nhau và rõ ràng trong sự phối hợp của các thành viên của thị
trường theo phương pháp nhóm trong giao dịch hợp đồng giao sau. Hơn nữa, cần
phải có sự thỏa thuận bằng văn bản giữa chủ thể chính (hoạt động như một nhà
cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật cho thị trường) với mỗi thành viên tham gia thị trường
trong chương trình bảo hiểm rủi ro. Chương trình bảo hiểm rủi ro được thu thập để
nhằm mục đích tập hợp tất cả các hỗ trợ kỹ thuật và những dịch vụ được đòi hỏi có
liên quan đến bảo hiểm rủi ro. Tuy nhiên, việc ra quyết định cũng có thể được thực
hiện bởi các cá nhân (phương pháp cá nhân individual – futures – contract – based)
để thể hiện trách nhiệm của từng cá nhân tham gia với chính lời/lỗ của họ. Những
31
yêu cầu về ký quỹ và hoạt động giao dịch giao sau tương ứng theo phương pháp cá
nhân cũng tương tự như các dạng hợp đồng giao sau cá nhân khác.
Từ các nghiên cứu, tác giả có thể rút ra một số yếu tố cần quan tâm để thiết
lập thành công Sở giao dịch hàng hóa. Đó là nhu cầu của thị trường; tính thanh
khoản; sự tham gia của các nhà môi giới, các định chế tài chính, các tổ chức lớn;
khuôn khổ pháp lý, quy chế, cách tổ chức quản lý; cơ sở hạ tầng công nghệ thông
tin với hệ thống kho giao nhận hàng hóa; kiến thức và kinh nghiệm của người tham
gia thị trường.
1.2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam:
Cho tới bây giờ, đã có khá nhiều các bài nghiên cứu về việc xây dựng thị
trường giao sau tại Việt Nam. Nhìn chung, các bài nghiên cứu đã đạt được một số
mục tiêu nhất định, trong đó đã nhìn nhận rõ được tầm quan trọng của giao dịch
giao sau đối với bảo hiểm rủi ro về giá cả hàng hóa. Các bài nghiên cứu cũng cho
thấy được nhu cầu cần thiết của việc xây dựng thị trường giao sau. Vì vậy, họ đã cố
gắng tìm ra được những mô hình phù hợp nhất cho Việt Nam và đề ra những giải
pháp nhằm xây dựng và phát triển thị trường giao sau. Trong luận văn này, tôi chỉ
giới thiệu một số nghiên cứu tiền đề về thị trường giao sau cà phê được thực hiện ở
Việt Nam trong thời gian gần đây.
Trong Luận văn thạc sỹ kinh tế “Các giải pháp tài chính để phát triển thị
trường giao sau cà phê tại Việt Nam” của Bùi Thị Yến (2008), tác giả đã chỉ rõ
vai trò của thị trường giao sau giúp Nhà nước quản lý nền kinh tế, bình ổn thị
trường và cũng là phương tiện để các nhà đầu tư quản trị rủi ro. Tác giả cũng đã cho
thấy cái nhìn toàn cảnh về thực trạng thị trường cà phê và việc triển khai hợp đồng
giao sau ở Việt Nam. Qua đó cho thấy nhu cầu sử dụng hợp đồng giao sau của
người sản xuất và các nhà kinh doanh cà phê đang tồn tại. Bên cạnh đó, thị trường
tài chính của Việt Nam cũng đã và đang phát triển nhanh chóng, cà phê lại là mặt
hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam nên được Chính phủ quan tâm phát triển.
Tuy nhiên các giao dịch hợp đồng giao sau cà phê ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn
do thiếu các quy định pháp lý hoàn chỉnh, trình độ nhận thức của các bên tham gia
32
và quy mô thị trường nhỏ. Từ đó tác giả đã đưa ra các giải pháp tài chính nhằm phát
triển thị trường giao sau cà phê tại Việt Nam từ các giải pháp vĩ mô như chuẩn hoá
luật và các nghiệp vụ liên quan đến thị trường giao sau, mở rộng các đối tượng tham
gia thị trường đến các giải pháp vi mô từ các bên tham gia thị trường như ngân
hàng, các nhà môi giới, các doanh nghiệp kinh doanh và những người sản xuất cà
phê. Đáng chú ý nhất trong nhóm giải pháp phải kể đến việc tác giả đã xây dựng chi
tiết mô hình sở giao dịch giao sau cà phê với việc xây dựng mô hình quản lý sàn, cơ
chế giao dịch tại sàn giao sau, các quy định về hợp đồng, chất lượng hàng hoá….
Tiếp theo là luận văn thạc sĩ kinh tế của Trần Ngọc Linh về “Phát triển thị
trường giao sau cà phê Việt Nam” vào năm 2009. Tác giả đã chứng minh được sự
phụ thuộc của giá cà phê xuất khẩu Việt Nam vào giá xuất khẩu của thế giới và sự
cần thiết thành lập thị trường giao sau cà phê để khắc phục vấn đề này. Tuy hiện
nay Việt Nam đã có trung tâm giao dịch BCEC nhưng vẫn chưa thu hút được các
thành phần tham gia do các hạn chế về kĩ thuật, đặt lệnh, hỗ trợ, hay công tác thanh
toán. Do đó, theo tác giả hiện nay ba nhà: nhà nông, nhà khoa học và nhà nước phải
tập trung tháo gỡ các khó khăn của sàn BCEC, từ đó đưa hoạt động giao dịch phát
triển sôi động. Trước hết, các chủ thể sản xuất là các hộ nông dân và doanh nghiệp
phải nâng cao kĩ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch. Các chủ thể tham gia công tác
lưu thông và phân phối phải chuyên nghiệp hóa kĩ thuật chào mua, thu gom cũng
như nâng cao uy tín của mình. Đặc biệt là vai trò của Hiệp hội cà phê ca cao Việt
Nam (VICOFA) trong việc tham gia công tác nghiên cứu, dự báo tình hình sản xuất,
thu hoạch cà phê ở các nước trên thế giới, xây dựng và kiến nghị các chính sách
trình Chính phủ cho phù hợp với tình hình thị trường. Cuối cùng phải kể đến vai trò
của nhà nước trong công tác xây dựng hành lang pháp lý quy định cụ thể quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hoạt động giao dịch phái sinh, hỗ trợ tín dụng, ưu đãi
thuế cho các thành phần tham gia thị trường. Ngoài ra nên có chính sách ưu đãi kêu
gọi doanh nghiệp nước ngoài tham gia đầu tư vào Việt Nam thông qua các ngành
nghề như giám định, môi giới, tổ chức kho bãi. Hay mời gọi các tổ chức rang xay cà
phê nổi tiếng của các nước đặt nhà máy chế biến ở Việt Nam. Đồng thời ký kết các
33
văn bản hợp tác với các sàn giao dịch nổi tiếng thế giới nhằm giúp sàn BCEC ngày
càng hiện đại và chuyên nghiệp trong kỹ thuật giao dịch, thu gom cà phê, công tác
lưu kho hay công tác thanh toán. Có như vậy thì sàn BCEC mới có thể thu hút được
các thành phần tham gia, mạnh dạn sử dụng các công cụ phái sinh nhằm phòng
ngừa rủi ro về giá theo hướng có lợi cho mình, tăng tính thanh khoản, giúp thị
trường cà phê Việt Nam tiếp cận với giá giao dịch thế giới, từ đó cà phê Việt Nam
mới có thể khẳng định được vai trò của mình trên thương trường quốc tế.
Trước tiên là luận văn thạc sĩ kinh tế đề tài “Thị trường giao sau phòng
ngừa rủi ro giá cà phê” của tác giả Nguyễn Dương Diễm Linh (2010) với phương
pháp nghiên cứu dựa vào lý luận, kinh nghiệm quốc tế kết hợp việc tìm hiểu thực
tiễn sản xuất và tiêu thụ cà phê ở Việt Nam trong nhiều năm qua. Luận văn đã cho
thấy những rủi ro biến động giá tại thị trường cà phê Việt Nam do giá xuất khẩu phụ
thuộc vào giá thế giới và quy trình sản xuất kinh doanh cà phê còn tiềm ẩn nhiều rủi
ro; thiếu thông tin dự báo thị trường mang tính chuẩn xác. Tác giả đã thông qua các
bằng chứng thực nghiệm trên thế giới để chỉ ra rằng chiến lược phòng ngừa rủi ro
biến động giá bằng việc sử dụng hợp đồng giao sau là một công cụ hữu dụng
trong ngắn hạn và trung hạn để bảo vệ thu nhập cho nhà sản xuất và kinh doanh cà
phê. Chính vì vậy việc xây dựng một quy trình sản xuất kinh doanh mới trong
đó thị trường giao sau cà phê đóng một vai trò quan trọng trong phòng ngừa rủi
ro biến động giá có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phát triển ngành
cà phê nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Trên cơ sở thực tế tại Việt Nam người viết đã đưa ra các giải pháp cụ thể bao
gồm cả giải pháp thiết thực và giải pháp mang tính định hướng cho các đối tượng có
vai trò quan trọng giúp thị trường giao sau cà phê phát triển là Nhà nước - các cơ
quan chức năng; người nông dân; doanh nghiệp; Hiệp hội cà phê; các tổ chức
trung gian - môi giới và các quỹ đầu tư. Tác giả đã xây dựng rất chi tiết mô hình sản
xuất- xuất khẩu cà phê mới cho thị trường Việt Nam, trong đó BCEC với những
thay đổi về cơ cấu tổ chức sàn giao dịch giao sau, quy trình giao dịch được quy định
lại cho phù hợp hơn nắm giữ vai trò trung tâm trong việc chi phối, điều tiết và
34
kiểm soát thị trường. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã đề xuất các giải pháp mang tính
định hướng lâu dài như phát huy vai trò của Hiệp Hội Cà Phê Ca Cao Việt Nam
(VICOFA), thành lập một cơ quan dự báo chuyên nghiệp cho ngành cà phê, xây
dựng khung pháp lý đồng bộ và hoàn thiện cho các hoạt động của thị trường giao
sau, tăng cường sự hiểu biết về thị trường giao sau cho các bên có quyền lợi liên
quan, khuyến khích việc các nhà sản xuất, nhà kinh doanh cà phê, các ngân hàng,
các quỹ đầu tư tham gia thị trường nhằm gia tăng tính thanh khoản cho thị trường.
Những nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới khó ứng dụng ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay vì giao dịch giao sau tại Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn và
chưa sôi động. Những nghiên cứu trong nước được nêu trên không có thực hiện
khảo sát thực tế giao dịch giao sau cà phê ở Việt Nam. Do đó, tôi đã thực hiện Luận
văn theo hướng tìm hiểu thực trạng ngành cà phê Việt Nam, thực trạng giao dịch
giao sau cà phê tại Việt Nam qua phương pháp thu thập dữ liệu và qua bảng khảo
sát các đối tượng đã từng nghe tới sàn giao dịch cà phê, từ đó đưa ra một số giải
pháp và kiến nghị nhằm phát triển giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương 1 của luận văn, tác giả đã trình bày lợi ích của giao dịch giao
sau đối với những người tham gia thị trường cũng như Chính phủ và các rủi ro khi
tham gia giao dịch hợp đồng giao sau. Một số nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới
và ở Việt Nam về giao dịch giao sau cũng được tác giả trình bày trong chương 1 để
từ đó phát triển hướng nghiên cứu cho luận văn.
35
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN NGÀNH CÀ PHÊ VIỆT NAM VÀ THỰC
TRẠNG GIAO DỊCH GIAO SAU CÀ PHÊ Ở VIỆT NAM
2.1 Tổng quan ngành cà phê Việt Nam:
Do các yếu tố tự nhiên như đất đai và khí hậu thuận lợi nên cây cà phê ở Việt
Nam có ưu thế lớn so với các nước khác và đặc biệt là những quốc gia trong khu
vực. Cây cà phê ở Việt Nam đã có mặt từ lâu nhưng trong khoảng thời gian từ 20
năm trở lại đây Việt Nam mới chú trọng đúng mức đến sản xuất và phát triển một
cách có quy mô. Hiện nay cà phê là một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu
chiến lược của Việt Nam (chiếm xấp xỉ 15% tổng giá trị xuất khẩu nông sản Việt
Nam). Ngành cà phê đã thu hút trên 300.000 hộ gia đình, với trên 700.000 lao động
chuyên nghiệp, nếu tính cả số lao động có liên quan và làm việc bán thời gian thì
ngành cà phê đã thu hút trên một triệu người.
Cà phê xuất khẩu của Việt Nam được định giá thông qua hai sàn giao dịch
LIFFE ở Luân Đôn và NYBOT ở New York. Bởi vậy, người sản xuất và kinh
doanh cà phê Việt Nam thường gặp rủi ro và bị động trước các biến cố về giá từ thị
trường quốc tế.
Sản xuất cà phê của Việt Nam vẫn ở trong quy mô nhỏ lẻ, phát triển có tính
tự phát và phân tán. Trong tổng số diện tích đất trồng cà phê cả nước, các nông
trường và các doanh nghiệp Nhà nước, gồm có các doanh nghiệp Trung ương và
các doanh nghiệp địa phương, chỉ nắm giữ 10-15%, còn lại 85-90% thuộc về các hộ
nông dân, các trang trại. Quy mô trang trại không lớn lắm, thường có diện tích
khoảng từ 2 đến 5 hécta. Trang trại lớn có từ 30-50 hécta nhưng số trang trại lớn
này chưa nhiều.
Việt Nam sản xuất trên 1 triệu tấn cà phê, tiêu thụ trong nước khoảng 10%,
còn lại xuất khẩu nhưng 75 – 80% sản lượng cà phê lại được sản xuất từ các hộ
nông dân nhỏ lẻ, do vậy, đây cũng là một trong những lý do tại sao Việt Nam hình
thành hệ thống đại lý và phương thức mua bán ký gửi cà phê.
36
Ngành cà phê Việt Nam hiện nay chưa thiết lập được hệ thống chế biến, tiêu
thụ, xuất khẩu mang tính chuyên nghiệp, dẫn đến Việt Nam là nước có sản lượng cà
phê Robusta lớn nhất trên thế giới nhưng việc tiêu thụ và xuất khẩu hoàn toàn bị
động. Mối liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu với người trồng cà
phê còn lỏng lẻo. Các tổ chức kinh doanh xuất khẩu không tiên liệu được chính xác
nhu cầu của thị trường và chiều hướng biến động giá…do đó không định hướng
được sản xuất. Người sản xuất chỉ biết sản xuất, không biết được khả năng tiêu thụ.
Người kinh doanh đến mùa vụ chỉ biết thu mua, không biết sẽ bán được bao nhiêu,
với giá nào…Các tổ chức sản xuất kinh doanh xuất khẩu không chủ động được
nguồn hàng, không chủ động được vốn. Thường xảy ra tình trạng cạnh tranh, ép giá,
chiếm dụng vốn lẫn nhau, thậm chí có cả lừa đảo, gây thất thoát tài sản và thua lỗ
cho các doanh nghiệp, cho các hộ kinh doanh và người sản xuất. Mặt khác, người
dân cũng ít tiếp xúc với các thông tin nên khi nghe những tin đồn thất thiệt thì tâm
lý không vững, thường bán tháo khiến cho thị trường cà phê bấp bênh, thiếu tính ổn
định. Hoặc khi giá cà phê lên cao họ sẵn sàng thu hoạch sớm, dù quả còn xanh chưa
đảm bảo được chất lượng. Chính những điều này đã làm ảnh hưởng tới sự phát triển
bền vững và thương hiệu của ngành cà phê Việt Nam.
100 98
96 94 92
90 88
200 198 196 194 192 190 188 186 184 182
01-N ov
05-N ov
09-N ov
13-N ov
17-N ov
03-N ov
21-N ov
07-N ov
25-N ov
11-N ov
29-N ov
15-N ov
19-N ov
23-N ov
27-N ov
Giá Robusta thị trường Châu Âu
Chỉ số giá tổng hợp ICO
2.1.1 Giá cả và một số yếu tố dẫn đến biến động giá:
Nguồn: ICO
37
Hình 2.1: Giá cà phê Robusta tại thị trường Châu Âu và chỉ số giá tổng hợp
1950
40000
1900
39000
1850
38000
1800
37000
1750
36000
1700
1650
35000
01-N ov
03-N ov
05-N ov
15-N ov
07-N ov
09-N ov
13-N ov
29-N ov
27-N ov
17-N ov
11-N ov
25-N ov
19-N ov
21-N ov
23-N ov
Giá cà phê xuất khẩu FOB-HCM (USD/tấn)
Giá cà phê tại Đăk Lăk (đồng/kg)
ICO tháng 11/2011 (US cents/lb)
Nguồn: BCEC
Hình 2.2: Giá cà phê xuất khẩu FOB tại cảng Thành phố Hồ Chí Minh và giá
cà phê tại Đắk Lắk tháng 11/2011
Hình 2.1 và 2.2 cho thấy giá cà phê thường xuyên biến động, gây khó khăn
cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam và giá thu mua cà phê nguyên liệu, giá
cà phê xuất khẩu của Việt Nam có biến động khá đồng nhất với giá cà phê thế giới.
Vấn đề khiến các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam và các nhà hoạch định
chính sách xuất khẩu đau đầu và cần được giải quyết là Việt Nam là nước có sản
lượng cà phê lớn thứ hai trên trên thế giới nhưng giá cà phê lại do thị trường thế
giới quyết định.
Có nhiều yếu tố dẫn đến biến động giá cà phê. Sau đây là một số yếu tố làm
biến động giá cà phê:
Thứ nhất, quan hệ cung - cầu cà phê là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến
sự biến động giá cà phê. Khi cung lớn hơn cầu thì giá giảm và ngược lại cầu lớn
hơn cung thì giá tăng. Lượng cung được xác định bởi chu kỳ sản xuất của nước xuất
khẩu (chẳng hạn như sản lượng của Brazil - nước có sản lượng cà phê lớn nhất thế
38
giới - có chu kỳ giảm 2 năm một lần) và tình hình lưu trữ, tồn kho của các quốc gia,
của các doanh nghiệp và nhà sản xuất. Tình hình sản lượng sản xuất chịu tác động
của yếu tố thời tiết (như hạn hán hay mưa kéo dài, ấm hay rét, có sương muối hay
không), yếu tố diện tích trồng cây cà phê tăng thêm hay giảm đi, yếu tố đầu vào
tăng hay giảm giá và yếu tố mùa vụ. Trong khi đó nhu cầu tiêu dùng bị ảnh hưởng
bởi sự phát triển hay suy thoái của nền kinh tế thế giới. Khi kinh tế các nước tiêu
thụ tăng trưởng tốt, thu nhập đầu người được cải thiện thì nhu cầu về cà phê sẽ tăng.
Điều này góp phần làm tăng giá cà phê. Ngược lại, kinh tế nước tiêu thụ bị ảnh
hưởng, chất lượng cuộc sống của người dân bị giảm xuống thì tiêu dùng của người
dân sẽ bị thu hẹp và giá cà phê sẽ có xu hướng giảm. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là
có xu hướng ngược chiều giữa tình hình kinh tế và giá hàng hóa, chẳng hạn như
trong thời điểm khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra, xu hướng dòng tiền đầu tư
chảy mạnh vào hàng hóa làm giá hàng hóa có xu hướng tăng.
Thứ hai, lạm phát có tác động đến giá cà phê. Lạm phát tăng cao khiến chi
phí đầu vào phục vụ cho sản xuất như chi phí phân bón, chi phí lãi vay, chi phí nhân
công…tăng lên, từ đó phản ánh lên giá cà phê. Tuy nhiên, nếu lạm phát kéo dài thì
sẽ ảnh hưởng xấu đến tình hình tiêu thụ cà phê vì giá cà phê tăng khiến nhu cầu cà
phê giảm. Nhu cầu giảm sẽ kéo theo sự giảm giá tương ứng.
Thứ ba, sự biến động giá cà phê do yếu tố đầu cơ của các quỹ đầu tư, các tổ
chức và các nhà đầu tư tài chính. Các nhà đầu cơ tác động vào thị trường làm thị
trường biến động thất thường. Hiện nay có nhiều kênh đầu tư có tính bảo toàn vốn
cao như vàng, dầu thô, hàng hóa cơ bản…Các nhà đầu cơ sẽ điều chỉnh đầu tư vào
lĩnh vực có lợi nhất và khi các nhà đầu cơ mua vào thì giá cà phê tăng còn bán
mạnh cà phê ra thu tiền về thì giá cà phê rớt nhanh.
Thứ tư, lãi suất ảnh hưởng mạnh đến giá cà phê. Lãi suất tăng làm chi phí
đầu vào tăng theo khiến giá hàng hóa cơ bản tăng làm giá cà phê tăng. Ngược lại,
lãi suất giảm sẽ kích thích đầu tư mở rộng sản xuất và chi phí đầu vào cũng giảm
xuống khiến giá hàng hóa giảm theo và giá cà phê giảm. Ở Việt Nam, lãi suất có
ảnh hưởng rất lớn đến tình hình sản xuất của người nông dân. Việt Nam chưa có hệ
39
thống hỗ trợ tín dụng tốt cho người sản xuất. Đa phần các chính sách hỗ trợ về vốn
còn hạn chế do khả năng sinh lợi của lĩnh vực sản xuất nông nghiệp không thể bằng
các lĩnh vực phi sản xuất như bất động sản, chứng khoán. Do đó khả năng tiếp cận
các khoản vốn ưu đãi của người nông dân còn gặp nhiều khó khăn. Đa phần những
hộ sản xuất thường có mối liên hệ với các cơ sở hay các đại lý thu mua. Đầu vụ các
tổ chức này sẽ ký kết hợp đồng và sẽ hỗ trợ vốn cho người nông dân. Tuy nhiên,
chính vì sự phụ thuộc này khiến người nông dân thường có xu hướng bị các chủ thu
mua, các đại lý ép giá. Thời điểm nguồn cung khan hiếm, giá hàng hóa tăng nhưng
họ vẫn phải bán với giá đã thỏa thuận ban đầu còn khi giá giảm, nguồn cung trên thị
trường dồi dào và giá bị rớt mạnh thì họ lại bị các chủ thu mua ép phải bán với giá
thấp. Chính điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến giá cả cà phê Việt Nam.
Thứ năm, tỷ giá có tác động đến giá cà phê. Vấn đề thay đổi tỷ giá của đồng
USD với các đồng tiền trong nước ở các nước sản xuất cà phê làm cho giá cà phê
biến động. Đồng USD yếu khiến giá cà phê của các nước xuất khẩu đến các nước
nhập khẩu cao hơn khiến giá cà phê giảm sức cạnh tranh ở các nước tiêu thụ.
Thứ sáu, do thiếu vốn, thiếu thông tin đáng tin cậy và thiếu sự liên kết nên
doanh nghiệp và người trồng cà phê không điều tiết được lượng mua bán cà phê làm
biến động giá cà phê trong nước.
Thứ bảy, chính sách điều hành của chính phủ đối với ngành cà phê cũng là
yếu tố tác động đến giá cà phê. Chính phủ Việt Nam chưa có một chiến lược cơ bản
mang tính bền vững, người trồng cà phê lâu nay chủ yếu là tự phát, lệ thuộc hoàn
toàn vào thị trường, luôn nằm trong vòng luẫn quẩn được mùa thì mất giá và được
giá thì mất mùa.
Thứ tám, chất lượng cà phê ảnh hưởng trực tiếp đến giá bán. Nếu nông dân
và doanh nghiệp Việt Nam có sự quan tâm đến khâu thu hái, chế biến và nhất là
khâu quản lý chất lượng của Nhà nước nhiều hơn nữa thì cà phê Việt Nam được
khẳng định vị thế trên thế giới và giá bán sẽ cao hơn.
40
2.1.2 Sự thiếu liên kết giữa các doanh nghiệp xuất khẩu:
Theo Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam (VICOFA), hiện Việt Nam có
khoảng 140 doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu cà phê. Điều đáng chú
ý là các doanh nghiệp có quy mô lớn (chiếm khoảng 10% trong tổng số các doanh
nghiệp cà phê) chiếm hơn 80% tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả nước.
Việt Nam thường xuất khẩu mạnh cà phê trong giai đoạn từ quý 4 năm trước
đến quý 1 năm sau. Vào đầu vụ thu hoạch, nhiều doanh nghiệp chế biến xuất khẩu
đã ồ ạt mua cà phê từ nông dân mà không hề có tính toán một cách tổng thể đến tình
hình thị trường cũng như khả năng tài chính của doanh nghiệp. Thiếu vốn, kho bãi
hạn chế khiến các doanh nghiệp này không thể rải đều hoạt động xuất khẩu vào
nhiều thời điểm trong năm mà buộc phải bán tháo cà phê nhất là khi các khoản vay
đến hạn. Hậu quả là, chỉ trong một thời gian ngắn, lượng cà phê được các doanh
nghiệp Việt Nam chào bán ra thị trường thế giới tăng một cách chóng mặt, cung
vượt quá cầu, tạo áp lực đẩy giá cà phê Việt Nam xuống mức thấp.
Điều này chứng tỏ việc nắm bắt thông tin thị trường, sự đoàn kết của các
doanh nghiệp kinh doanh cà phê Việt Nam để tạo thế mạnh trước các đối tác nước
ngoài và các nhà môi giới ở sàn giao dịch hàng hóa chưa cao. Do đó, các doanh
nghiệp kinh doanh cà phê Việt Nam luôn ở thế phụ thuộc vào vòng điều khiển của
đối tác nước ngoài.
2.1.3 Phương thức ký kết hợp đồng xuất khẩu cà phê với nước ngoài:
Ở Việt Nam, trong thời gian qua, các doanh nghiệp áp dụng một trong hai
phương thức ký kết hợp đồng xuất khẩu cà phê ra nước ngoài.
- Thứ nhất, đó là phương thức giao ngay, thuật ngữ tiếng Anh gọi là outright,
Theo phương thức này hai bên mua và bán ký kết hợp đồng với giá cố định tại thời
điểm hiện tại và thời gian giao hàng cố định. Họ không quan tâm đến giá tại thời
điểm giao hàng cao hơn hay thấp hơn giá cố định đã ký kết.
- Thứ hai, phương thức differential hay price to be fixed, được gọi theo tiếng
Việt là phương thức “giá chênh lệch” hay “chốt giá sau”. Phương thức kinh doanh
41
chốt giá sau (Price-to-be-fixed) là hình thức cho phép người mua hoặc người bán
“chốt giá” tại thời điểm nào đó trong tương lai, trước khi thực hiện giao, nhận hàng.
Người mua và người bán sẽ thỏa thuận về số lượng, chủng loại, tháng giao hàng
(delivery month). Riêng đối với điều khoản giá thì sẽ áp dụng một trong hai hình
thức: thứ nhất, giá thanh toán là giá “trừ lùi” (minus) hoặc thứ hai, giá cộng thêm
(plus) so với giá giao dịch trên thị trường giao sau (futures price).
Giá giao sau này thường căn cứ vào giá trên Sàn giao dịch LIFFE. Nếu chất
lượng hàng hóa của người bán thấp hơn tiêu chuẩn chất lượng quy định trong hợp
đồng giao sau sẽ sử dụng “giá trừ lùi” (minus); nếu tốt hơn sử dụng “giá cộng
thêm” (plus).
Các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam đã ký bán, tuy chưa chốt giá
mà muốn giao sớm để có tiền sớm thì hàng vẫn được giao. Giá đóng cửa giao dịch
trên thị trường Luân Đôn của ngày giao hàng sẽ được dùng như tạm tính để trả tiền
cho người bán, nhưng chỉ được thanh toán trước 70% giá trị của lô hàng và người
mua không bị tính lãi 30% giá trị lô hàng còn lại.
Thời gian qua, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam đã phải ký
những hợp đồng “trừ lùi, chốt giá sau” lên tới 90-100 USD/tấn, thậm chí 120
USD/tấn lúc đầu vụ để có hợp đồng đi vay ngân hàng (giá trừ lùi cao dễ ký được
hợp đồng với đối tác nước ngoài) vì có rất nhiều ngân hàng không chấp thuận cấp
tín dụng cho các hợp đồng “chốt trước” với lý do giá đã bán quá thấp, xuất khẩu sẽ
thua lỗ, ngân hàng không đòi được nợ. Ví dụ, có nhiều doanh nghiệp bán giá “chốt
trước” với mức 1.900-1.950 USD/tấn vào đầu niên vụ vì tưởng rằng giá như thế là
đã được. Song, ngay lập tức, giá nhảy cao liên hồi từ đầu niên vụ đến hết niên vụ,
đẩy giá trong nước lên theo, doanh nghiệp buộc phải gom hàng với giá cao để giao
cho người mua nước ngoài dẫn đến thua lỗ. Gặp lúc khủng hoảng kinh tế, tín dụng
khó khăn, doanh nghiệp không mua được hàng để giao dẫn đến xù hàng. Chính vì
vậy, hàng loạt các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam đã phải xù hàng không
giao cho khách mua, gây mất uy tín lớn cho ngành cà phê Việt Nam.
42
2.1.4 Vấn đề ký gửi:
Ký gửi cà phê từ nông dân tới đại lý, hay nông dân, đại lý tới doanh nghiệp
xuất khẩu trong hơn 15 năm qua đã hình thành nên một tập quán gắn liền với đường
đi của hạt cà phê nhân từ khâu sản xuất tới khi xuống tàu xuất khẩu. Cụ thể của
hình thức ký gửi cà phê là:
- Người có cà phê nhưng chưa muốn bán do chờ giá nên đưa cà phê gửi
vào kho doanh nghiệp, khi được giá thì gút bán lấy tiền.
- Người nhận gửi cà phê thường là các doanh nghiệp kinh doanh cà phê
nhận cà phê gửi kho để quay vòng vốn. Bên nhận cà phê lập thủ tục nhập kho và
cấp cho người gửi một phiếu nhập kho ghi rõ là "cà phê gửi kho", cũng có doanh
nghiệp lập hợp đồng cà phê gửi kho kèm theo giấy chứng nhận và phiếu nhập kho.
- Khi bên gửi thấy giá tốt thì đến gút bán với bên nhận theo thời giá và lập
thủ tục bán hàng nhận tiền, trường hợp người gửi chưa bán mà cần tiền thì hai bên
lập hợp đồng ứng tiền theo giá tạm tính mà hai bên thống nhất, thường thì giá tạm
tính là giá do bên doanh nghiệp nhận gửi đưa ra dựa theo dự báo và cũng chỉ cho
người gửi ứng trước khoản 70% và phải chịu lãi theo mức lãi hai bên thỏa thuận,
đến khi người gửi gút bán thì doanh nghiệp nhận gửi thu lại tiền ứng và tiền lãi
tương ứng với thời gian người gửi đã ứng.
- Trường hợp khi người gửi gút bán mà doanh nghiệp nhận gửi luôn đưa ra
giá mua thấp hơn giá bình quân của thị trường thì người gửi có quyền yêu cầu
doanh nghiệp nhận gửi phải trả lại hàng đã gửi, khi đó người gửi phải thanh toán
đầy đủ các khoản nợ đã nhận, bao gồm cả tiền lưu kho.
Ngoài mục đích chờ giá tốt chốt bán kiếm lời, việc gửi kho cà phê còn giải
quyết giúp nông dân nhiều mặt. Chẳng hạn, nông dân có cà phê gửi vào kho đại lý,
khi cần tiền đầu tư cho vườn cây hoặc tiêu dùng khác thì người nông dân đến đại lý
chốt bán một ít, số còn lại tiếp tục gửi, nên rất thuận tiện và nhanh chóng. Cũng có
nhiều hộ hàng năm dành ra một ít sản lượng gửi vào đại lý để gom góp làm của để
dành với mong muốn tích lũy để làm nhà, mua sắm máy móc có giá trị lớn. Hoặc là,
nông dân có số lượng cà phê nhưng chưa có nhu cầu bán có thể mang cà phê đó đến
43
gửi trực tiếp vào kho doanh nghiệp. Các đại lý mang cà phê nhận gửi của dân đến
gửi tại các doanh nghiệp để có thể ứng tiền đưa vào kinh doanh quay vòng. Còn
doanh nghiệp chủ động nguồn hàng để chế biến và xuất khẩu. Có thể nói, hành vi
gửi và nhận gửi cà phê có đem lại lợi ích cho cả hai bên.
Tuy nhiên, theo tác giả, việc ký gửi cà phê chốt giá sau đem lại nhiều rủi ro
hơn lợi ích vì những lý do sau:
Thứ nhất, khi muốn gút giá, nông dân ký gửi phải đồng ý với giá mà doanh
nghiệp đưa ra, nếu không đồng ý về giá, nông dân phải lấy lại cà phê để bán nơi
khác, và chịu phí lưu kho, mức phí này do doanh nghiệp tính nên cũng sẽ bằng với
lợi nhuận khi bán nơi khác. Vì vậy, thực chất nông dân gửi cà phê ở đâu thì bán ở
đó (dù bị ép giá) chứ không thể lấy lại bán nơi khác.
Thứ hai, nông dân ký gửi cà phê với hy vọng giá lên để kiếm thêm tiền lời.
Vậy giá để chốt trong việc ký gửi cà phê chốt giá sau căn cứ vào đâu? Thông
thường, nông dân nhìn vào báo giá cập nhật hàng ngày của công ty nhận gửi, của
các dịch vụ cung cấp giá qua điện thoại để chốt giá theo thời điểm nông dân thấy
thích hợp.Vậy báo giá cập nhật này có từ đâu? Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam có
80 hội viên, trong đó có 10 hội viên lớn xuất khẩu khoảng 60% lượng cà phê của
Việt Nam. 10 hội viên lớn này kết hợp với 10 hội viên lớn kế, thành lập câu lạc bộ
20 nhà xuất khẩu cà phê, xuất khẩu khoảng 80% lượng cà phê hằng năm. Chính câu
lạc bộ 20 doanh nghiệp hàng đầu này ấn định giá cà phê của Việt Nam trong từng
thời điểm. Như vậy, báo giá cập nhật hằng ngày chính là giá mà câu lạc bộ 20 ấn
định. Nông dân ký gửi cà phê cho doanh nghiệp là hy vọng giá lên để kiếm thêm
chút tiền lời, vậy mà giá cà phê lên xuống lại do doanh nghiệp (câu lạc bộ 20) quyết
định, vậy hy vọng của nông dân lệ thuộc vào lòng hảo tâm của doanh nghiệp: doanh
nghiệp muốn cho lời nhiều thì được nhiều, muốn cho lời ít thì được ít.
Thứ ba, nông dân gửi cà phê xem như của để dành nhưng gửi nhiều năm với
số tiền lớn rất dễ bị xù. Thực tế, nhiều người nông dân giữ lại cà phê để gửi kho chờ
giá đã trở thành tay trắng vì đã bị người nhận gửi chiếm dụng rồi tuyên bố phá sản
hoặc đã bỏ trốn. Nhiều doanh nghiệp dùng cà phê của nông dân hay đại lý ký gửi để
44
thế chấp vay vốn ngân hàng, lấy tiền vốn này tạm ứng lại cho nông dân, đại lý với
lãi suất cao hơn lãi vay ngân hàng, hưởng chênh lệch mà sống và những doanh
nghiệp này rất dễ xảy ra mất vốn nếu giá cà phê biến động, đại lý xù nợ.
Thứ tư, nông dân gửi cà phê và được ứng tiền nhưng với lãi suất rất cao.
Trường hợp, đại lý Kim Ngọc ứng tiền của công ty với lãi suất 2,2% một tháng, vậy
nông dân ứng tiền của đại lý phải chịu lãi suất bao nhiêu? Rất có thể phải đến 4%
một tháng và đây là vay nặng lãi đến 48% một năm. Vay mức này để ký gửi cà phê
đợi giá, nông dân có khi phải bán hết cà phê ký gửi để trả tiền lãi.
Với những lý do trên, chốt giá sau mà người ấn định giá là doanh nghiệp, thì
thiệt thòi luôn về phía nông dân.
Vậy tại sao nông dân vẫn chấp nhận tập quán ký gửi cà phê? Lý do là thủ tục
ký gửi, mua bán cà phê đơn giản, tiện lợi cho nông dân và đặc biệt là đa phần nông
dân đều thiếu vốn. Phần lớn người nông dân chỉ có mảnh vườn, lô rẫy thường thì
không biết và không quen với các định chế và giấy tờ. Muốn vay ngân hàng thì phải
đi làm thủ tục xin vay, lập dự án vay, báo cáo hiệu quả vốn vay và khả năng trả nợ,
các thế chấp và cam kết trả nợ, phải mời cán bộ ngân hàng đến thẩm định vườn cây,
tài sản thế chấp và phải nhờ cán bộ làm hộ với một khoản phí nhất định, không bao
giờ có một thông số nhất định để áp dụng. Vay khó là thế, nhưng đâu phải ai cũng
vay được. Không vay được ngân hàng thì phải vay bên ngoài và phần lớn nông hộ
đều hướng đến các đại lý, vì nơi đây đích thực là nguồn cung ứng vốn cho nông dân
trong sản xuất.
2.1.5 Rủi ro đối với người sản xuất và kinh doanh cà phê Việt Nam do biến động
giá cà phê:
Giá cà phê giảm hay tăng cũng gây thiệt hại nặng nề không cho người mua
thì cũng cho người bán trong chuỗi cung ứng cà phê. Bảng 2.1 cho thấy người bán
hàng lo sợ giá rớt và người mua hàng lo sợ giá tăng.
45
Bảng 2.1: Rủi ro biến động giá đối với người bán và người mua
Người bán Người mua
Giá giảm Lỗ (rủi ro) Lời
Giá tăng Lời Lỗ (rủi ro)
Nguồn: Lê Hoàng Nhi (2011), “Rủi ro về giá trong kinh doanh cà phê”.
Ngành cà phê Việt Nam có giá “chốt trước”, giá “chốt sau” (Price to be
fixed) và giá chênh lệch so với giá giao sau trên thị trường LIFFE và NYBOT. Giá
“chốt trước” là giá mà hai bên đã thống nhất ngay khi có hợp đồng. Giá “chốt sau”
là giá mà hai bên thỏa thuận sẽ chốt vào một thời điểm trong tương lai. Ở Việt Nam,
giá “chốt trước” hay “chốt sau” đều lấy căn cứ vào giá giao sau. Phần chênh lệch
giữa giá giao sau và giá “chốt trước”, “chốt sau” được gọi là giá chênh lệch
(differential price). Gọi giá “differential” là giá chênh lệch vì rằng nó có thể là giá
trừ lùi hay giá cộng thêm. Tùy theo giá trị hoặc nhu cầu thị trường mà giá chênh
lệch có thể là trừ lùi nhiều hay ít hoặc thậm chí cộng thêm so với giá giao sau trên
thị trường LIFFE và NYBOT. Rủi ro kinh doanh cà phê không chỉ đơn thuần là giá
cao, giá thấp mà phải còn tính đến sự dao động của giá chênh lệch.
Bảng 2.2 cho thấy trong trường hợp giá giao sau không đổi thì giá chênh lệch
càng tăng, người bán có lợi, giá chênh lệch càng giảm, người mua có lợi.
Bảng 2.2: Rủi ro do biến động giá chênh lệch trong trường hợp giá giao sau
không đổi
Người mua Người bán
Giá chênh lệch tăng Lỗ (rủi ro) Lời
Giá chênh lệch giảm Lời Lỗ (rủi ro)
Nguồn: Lê Hoàng Nhi (2011), “Rủi ro về giá trong kinh doanh cà phê”.
Trong trường hợp giá “chốt trước”, để có lời trong kiểu kinh doanh này,
nông dân hoặc người kinh doanh phải tính trước các chi phí đầu vào và định giá đầu
ra để kiếm lời. Trong thực tế, do muốn kiếm thêm chút lời hoặc do nhu cầu thị
trường, nhiều người thích đầu cơ với hợp đồng giá “chốt sau” hơn. Bảng 2.3 cho
thấy rủi ro đối với người bán và người mua trong trường hợp giá giao sau luôn biến
46
động và “chốt sau”. Trường hợp không xác định là trường hợp không biết chính xác
lời hay lỗ. Muốn xác định được lời hay lỗ thì phải tính đến sự khác biệt trong biên
độ dao động của giá giao sau và giá chênh lệch. Do không dự liệu được sự biến đổi
của hai loại giá này nên đây có thể xem trường hợp không xác định là rủi ro đối với
nhà kinh doanh.
Bảng 2.3: Rủi ro do biến động giá chênh lệch trong trường hợp giá giao sau
biến động và “chốt sau”
Người mua Người bán
Giá chênh lệch Lỗ (rủi ro) Lời tăng
Giá giao sau Giá chênh lệch Lỗ (rủi ro) Lời tăng không đổi
Giá chênh lệch Không xác định (rủi ro) Không xác định (rủi ro) giảm
Giá chênh lệch Lỗ (rủi ro) Lời tăng
Giá giao sau Giá chênh lệch Tương tự trường hợp chốt Tương tự trường hợp chốt
không đổi không đổi trước (không rủi ro) trước (không rủi ro)
Giá chênh lệch Lời Lỗ (rủi ro) giảm
Giá chênh lệch Không xách định (rủi ro) Không xách định (rủi ro) tăng
Giá giao sau Giá chênh lệch Lời Lỗ (rủi ro) giảm không đổi
Giá chênh lệch Lời Lỗ (rủi ro) giảm
Nguồn: Lê Hoàng Nhi (2011), “Rủi ro về giá trong kinh doanh cà phê”.
Thị trường cà phê không chỉ bị tác động bởi cung cầu trên thị trường mà còn
bị chi phối bởi những thông tin kinh tế, chính trị, thời tiết, đặc biệt giới đầu cơ là
47
nhân tố tích cực nhất đối với sự trồi sụt thất thường của giá cà phê. Các doanh
nghiệp xuất khẩu thiếu kinh nghiệm mua bán trừ lùi theo thị trường LIFFE và
NYBOT dễ bị các nhà đầu cơ trên sàn LIFFE và NYBOT ép giá vào thời điểm giao
hàng dẫn đến thua lỗ.
Ví dụ, một doanh nghiệp ký bán hợp đồng xuất khẩu cà phê với giá trên sàn
giao dịch LIFFE tháng 11 “trừ lùi” 100 USD/tấn nhưng chưa chốt giá. Giữa tháng
10, doanh nghiệp đã giao hàng sớm, giá trên sàn LIFFE tại thời điểm giao hàng sớm
là 1.730 USD/tấn, “trừ lùi” 100 USD, còn lại là 1.630 USD/tấn. Giá này sẽ được
dùng tạm tính để làm cơ sở thanh toán trước 70% cho người bán, tức là 70% của
1.630 USD là 1.141 USD/tấn và người mua không bị tính lãi 30% giá trị lô hàng
còn lại. Khi đó, các quỹ đầu cơ lớn, các nhà nhập khẩu lớn bằng cách nào đó kéo
giá giao dịch trên sàn LIFFE xuống. Một khi giá trên sàn LIFFE xuống thấp, tới
mức 1.141 USD/tấn thì theo hợp đồng, tập quán giao dịch cà phê, lô hàng đó sẽ
được tự động chốt giá để “bảo vệ quyền lợi của người bán” không bị thua lỗ thêm
nữa, thuật ngữ tiếng Anh là “Stop loss”. Lúc này, giá xuất khẩu FOB thực sự của
doanh nghiệp là 1.141 USD/tấn. Doanh nghiệp bị mất đi 30% giá trị lô hàng kèm
theo phần khuyến mãi không lãi 30% giá trị lô hàng còn lại cho người mua.
Nguyên nhân dẫn đến thua lỗ của các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê không
phải là do phương thức “trừ lùi, chốt giá sau” mà do trình độ vận dụng phương thức
này của các doanh nghiệp còn hạn chế. Thực tế, rất ít doanh nghiệp thực hiện chốt
giá ở mức hòa vốn, hay chốt giá ở mức chấp nhận được, mà thường chờ giá đạt mức
kỳ vọng mới chốt giá, hoặc nhiều khi đã đạt giá kỳ vọng những vẫn chưa chốt giá
mà đề nghị chuyển tháng và hoặc có trường hợp, mức giá của thị trường đang thấp
hơn mức hòa vốn, doanh nghiệp đề nghị chuyển tháng, kéo dài thời gian chốt giá
với kỳ vọng giá sẽ tăng trở lại mặc dù phải bỏ thêm phí chuyển tháng, và nộp thêm
tiền để hạ mức cắt lỗ. Kết quả là, xem như doanh nghiệp đã cho vay hàng không
tính lãi, hay cầm dao đằng lưỡi mà vẫn kiên trì nắm giữ.
48
Các đại lý buôn cà phê của Việt Nam 90% đi lên từ nông dân và buôn bán
theo thói quen. Họ không có bằng cấp cao và đào tạo chuyên ngành nên cũng dễ
vướng trường hợp phá sản do biến động giá.
Người nông dân trồng cà phê thường theo phong trào không tính đến giá cả
và nhu cầu của thị trường, phần đông trông chờ nhiều vào sự may rủi và thường gặp
tình trạng được mùa thì giá rớt dẫn tới lỗ, mất mùa thì giá cao nhưng lại không có
hàng để bán. Đa phần nông dân sản xuất và tiêu thụ cà phê theo tập quán lâu đời và
gặp phải rủi ro về giá nếu như lúc cần tiền phải bán cà phê mà lúc đó giá cà phê
đang xuống.
2.2 Thực trạng giao dịch giao sau cà phê ở Việt Nam:
2.2.1 Giao dịch giao sau cà phê tại các Sở giao dịch hàng hóa ở nước ngoài:
Thương mại theo thị trường tự do tiềm ẩn nhiều rủi ro, dễ bị ảnh hưởng bởi
tình trạng đầu cơ ép giá của thương nhân nước ngoài. Vì thế, các doanh nghiệp kinh
doanh cà phê Việt Nam đã dần tham gia vào thị trường giao sau ở Luân Đôn và
New York với các công cụ bảo hiểm hạn chế bớt rủi ro. Các doanh nghiệp từng
bước hiểu biết nhiều hơn nghiệp vụ giao dịch các hợp đồng giao sau cà phê trên thị
trường thế giới cùng với sự tham gia của các ngân hàng, tổ chức tài chính với quy
mô và số lượng ngày càng tăng. Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam
(Techcombank) là ngân hàng đầu tiên được Ngân hàng Nhà nước cho phép làm môi
giới giao dịch cà phê với các sàn giao dịch quốc tế vào cuối năm 2004. Tháng 9
năm 2004, Techcombank phối hợp với Công ty Refco (Singapore) Pte. Ltd, một
công ty con của Tập đoàn tài chính Refco Ltd. LLC., bắt đầu thực hiện môi giới
giao dịch giao sau cà phê Robusta trên sàn giao dịch LIFFE và cà phê Arabica trên
sàn giao dịch NYBOT. Tháng 5 năm 2006, Ngân hàng Nhà nước cho phép Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) phối hợp Công ty Natexis Commodity
Markets (trụ sở tại Singapore) thực hiện nghiệp vụ giao dịch phái sinh hàng hóa.
Tháng 7 năm 2006, Công ty Cổ phần Môi giới Thương mại Châu Á (ATB) được
thành lập trên cơ sở góp vốn của ba cổ đông là: Công ty TNHH Đầu tư Thương mại
49
Hiệp Phúc, Công ty TNHH và Tư vấn Ánh Sáng và Công ty TNHH Chứng khoán
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Công ty ATB phối hợp với Công ty Marex
Carlton Ltd., thực hiện giao dịch phái sinh hàng hóa. Năm 2010, một số ngân hàng
thương mại được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện giao dịch phái sinh hàng
hóa như: Ngân hàng TMCP Quân đội, Ngân hàng TMCP Đông Á, Ngân hàng
TMCP Hàng Hải, Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex…Từ ngày 22/04/2010,
Sàn giao dịch hàng hóa Singapore (SICOM) đã bắt đầu giao dịch hợp đồng giao sau
cà phê theo tiêu chuẩn Việt Nam và giao hàng tại Kho ngoại quan ở Thành phố Hồ
Chí Minh nhằm tận dụng thực tế Việt Nam là cường quốc sản xuất cà phê Robusta,
năng lực tham gia giao dịch giao sau của các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng
được nâng cao.
Các doanh nghiệp có hệ thống máy tính nối mạng có thể theo dõi hoạt động
giao dịch tại LIFFE và NYBOT để đặt lệnh giao dịch. Hệ thống hạ tầng thông tin
của các ngân hàng thương mại đã được cấp phép đảm bảo kết nối trực tuyến, liên
tục với các nhà môi giới với tư cách là thành viên của sàn LIFFE và NYBOT để
đảm bảo đặt lệnh, nộp tiền ký quỹ diễn ra thông suốt.
Các doanh nghiệp tham gia hoạt động giao dịch này đều dựa trên quy định
của thế giới. Ngân hàng Nhà nước không cho phép các doanh nghiệp mở tài khoản
ở nước ngoài để trực tiếp giao dịch trên LIFFE và NYBOT đã làm tăng chi phí giao
dịch của các doanh nghiệp.
Doanh nghiệp đầu tiên tham gia hợp đồng giao sau với Techcombank là
CTCP Đầu tư Xuất Nhập Khẩu Đắk Lắk (Inexim Daklak). Sau đó, rất nhiều các
doanh nghiệp cũng đã tham gia giao dịch giao sau tại sàn LIFFE và NYBOT. Theo
ông Phạm Quang Thắng, Phó tổng giám đốc Techcombank, tính đến năm 2010 có
khoảng vài trăm doanh nghiệp đăng ký tham gia giao dịch, số thực sự giao dịch
hàng đêm khoảng 100 doanh nghiệp. Ngoài những doanh nghiệp mở tài khoản, ký
quỹ ở Techcombank để giao dịch mua bán thực sự thì số còn lại mở tài khoản chủ
yếu để hàng đêm lên mạng xem thông tin thị trường, giá cả, từ đó quyết định việc
mua bán cà phê thật.
50
Ví dụ hoạt động giao dịch của Công ty TNHH Một Thành Viên Xuất Nhập
Khẩu 2-9 Đăk Lăk (Simexco Daklak) tại sàn LIFFE
Ngày 8/1/2007 công ty mua được 500 tấn cà phê với giá tương đương 1.600
USD/tấn. Việc tìm khách hàng mua lô hàng ngay là khó (do thời gian quyết định
ngắn – thị trường LIFFE gần mở cửa giao dịch). Khi thị trường mở cửa giá tăng 30
USD ở mức 1.630 USD/tấn. Để chớp lấy cơ hội công ty đặt lệnh bán 100 lots # 500
tấn trên thị trường LIFFE với giá 1.630 USD. Giá đóng cửa phiên giao dịch này chỉ
tăng 10 USD ở mức 1.610 USD/tấn. Ngày 9/1/2007, sau khi tìm được khách hàng
mua hàng thực, công ty bán với mức giá 1.610 USD/tấn và thực hiện lệnh mua lại
100 lots # 500 tấn trên thị trường LIFFE với giá 1.610 USD. Nghiệp vụ có thể tóm
tắt như sau:
- Thị trường hàng thực (Physical exchange)
+ Ngày 8/1/2007: Mua 500 tấn hàng thực x 1.600 = 800.000 USD
+ Ngày 9/1/2007: Bán 500 tấn hàng thực x 1.610 = 805.000 USD
+ Lãi trên hàng thực 5.000 USD
- Thị trường giao sau (Futures)
+ Ngày 8/1/2007: Bán 100 lots # 500 tấn hàng futures x 1.630= 815.000
USD
+ Ngày 9/1/2007: Mua 100 lots # 500 tấn hàng futures x 1.610= 805.000
USD
+ Lãi trên Futures 10.000 USD
Như vậy, trong hoạt động mua bán trên Công ty đã lãi tổng cộng trên 2 thị
trường hàng thực và futures là 5.000 USD + 10.000 USD = 15.000 USD
Nguồn: Bảo Trung (2009), Phát triển thể chế giao dịch nông
sản ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học kinh tế Thành phố HCM.
Hiện nay, chưa có một báo cáo đánh giá chính thức về hiệu quả của hoạt
động giao dịch này từ các tổ chức độc lập cũng như từ phía cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Tác giả có tiến hành thu thập thông tin bằng cách phỏng vấn trực tiếp
51
chủ doanh nghiệp mà có tham gia giao dịch nhưng không nhận được thông tin lãi và
lỗ từ hoạt động mua bán cà phê trên sàn giao dịch của các doanh nghiệp này.
Hiện nay, có ba doanh nghiệp cà phê niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam là CTCP Vinacafe Biên Hòa, CTCP cà phê An Giang, CTCP Tập đoàn
Thái Hòa Việt Nam (THV). Tác giả nghiên cứu báo cáo tài chính của ba công ty
này và chỉ có báo cáo tài chính của THV là có thông tin lãi và lỗ từ hoạt động mua
bán cà phê trên sàn giao dịch. Ngoài ra, tác giả cũng tìm kiếm trên mạng internet
thêm thông tin từ các doanh nghiệp khác. Song, tác giả không tìm kiếm được nhiều
thông tin. Kết quả tìm kiếm được thể hiện trong bảng 2.4. Bảng 2.4 có thể cho thấy
CTCP cà phê PETEC và CTCP Tập đoàn Thái Hòa Việt Nam (THV) tham gia giao
dịch cà phê trên sàn quốc tế không những có thể giúp công ty phòng ngừa rủi ro
biến động giá cà phê mà còn có thể thu được lợi nhuận từ hoạt động này.
Bảng 2.4: Kết quả lãi/ lỗ từ thị trường giao sau của CTCP cà phê PETEC và
THV (Đơn vị tính: Triệu đồng)
Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Công Chênh Chênh Chênh ty Lãi Lỗ Lãi Lỗ Lãi Lỗ lệch lệch lệch
PETEC 589 704 (115) 1.873 1.749 124
THV 20.617 6.901 13.716 1.928 1.279 649
Nguồn: Báo cáo tài chính đã kiểm toán năm 2009 của CTCP cà phê PETEC;
Báo cáo tài chính đã kiểm toán năm 2010 của CTCP Tập đoàn Thái Hòa Việt Nam -
THV (công ty mẹ)
Hoạt động sản xuất kinh doanh cà phê chịu ảnh hưởng lớn từ biến động giá
cà phê thế giới. Do đó, các doanh nghiệp tham gia giao dịch giao sau tại các sàn
quốc tế nhằm bảo hiểm những rủi ro về giá cà phê. Sau khi thu mua cà phê nguyên
liệu hoặc ký hợp đồng xuất khẩu cà phê, nếu nhận thấy có biến động về giá cà phê
thế giới, các doanh nghiệp sẽ thực hiện đặt lệnh mua hoặc lệnh bán với số lượng và
kỳ hạn tương ứng ở thị trường Luân Đôn hoặc New York để giảm thiểu rủi ro biến
động giá.
52
Tuy nhiên, tham gia trên các sàn giao dịch quốc tế, doanh nghiệp Việt Nam
chỉ là các nhà đầu tư nhỏ với năng lực tài chính rất hạn chế. Bên cạnh đó, khả năng
phân tích, tập hợp thông tin về thị trường thế giới có hạn, phần lớn đều chưa nắm
vững về bản chất nên trong quá trình vận hành còn yếu kém về mặt kỹ thuật, vận
dụng sai mục đích dẫn đến kết quả đạt được còn thấp, thậm chí nhiều doanh nghiệp
thua lỗ nặng. Chẳng hạn như: Vào thời điểm tháng 9 năm 2006 do nắm được thông
tin dự báo của Bộ Nông nghiệp Mỹ, ICO và một số tổ chức khác về sản lượng cà
phê thế giới trong vụ mùa 2006/2007 sẽ đạt ở mức cao nên phần lớn các nhà kinh
doanh hợp đồng giao sau đều dự đoán giá sẽ giảm trong thời gian sắp tới. Từ suy
nghĩ và nhận thức như vậy mà phần lớn những người tham gia thị trường này đã
thực hiện bán khống (Selling short) và khi đó trạng thái kinh doanh của họ là Short
Future. Trong một thời gian ngắn do những nhà đầu cơ trên sàn của thị trường
LIFFE và NYBOT nắm rất rõ về tổng số lượng Short Future từ Việt Nam là con số
tương đối lớn nên đã thao túng đẩy giá trên LIFFE từ mức 1.300 USD/MT
lên đến mức 2.063 USD/MT. Với mức biến động giá quá nhanh và quá lớn như vậy
thì khả năng tài chính không đáp ứng nổi để ký quỹ nhằm duy trì trạng thái nên
hàng loạt lệnh chặn lỗ liên tục xuất hiện để ngưng lỗ (Stop loss). Và như vậy, con
số về vốn rất lớn và cứ lớn dần lên của các nhà đầu tư Việt Nam chảy dần vào túi
của giới đầu cơ quốc tế.
Thực tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa biết cách sử dụng hợp đồng
giao sau trong việc bảo hộ giá hàng hóa. Việc sử dụng hợp đồng giao sau chủ yếu là
đầu cơ. Việc quyết định mua hay bán chỉ do cảm tính, qua các nguồn thông tin và
mang tính bầy đàn.
Năm 2006, hàng loạt doanh nghiệp thua lỗ do kinh doanh theo hình thức này.
Trước tình hình thua lỗ của các doanh nghiệp, ngày 18/10/2006 Ngân hàng Nhà
nước đã có công văn số 8905/NHNN- QLNH yêu cầu các Ngân hàng thương mại đã
được cấp phép thực hiện giao dịch phái sinh hàng hóa chỉ cho các doanh nghiệp
tham gia giao dịch cà phê trên các sàn giao dịch quốc tế với điều kiện là phải có
hàng thực và nhà môi giới đã được cấp phép phải có trách nhiệm kiểm tra.
53
2.2.2 Giao dịch giao sau cà phê tại Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam:
Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam (VNX) là sở giao dịch hàng hóa đầu tiên tại
Việt Nam được thành lập theo hình thức Công ty Cổ phần. VNX được Bộ Công
thương cấp giấy phép số 4596/GP-BCT ngày 01/09/2010. Quy chế hoạt động của
VNX được xây dựng dựa trên cở sở pháp lý là Luật thương mại 2005, Nghị định
158/2006/NĐ-CP và Thông tư 03/2009/TT-BCT. Vốn điều lệ ban đầu của VNX là
150 tỷ đồng. VNX ra đời với mục đích là một tổ chức đầu mối giao dịch hàng hoá
nhằm giảm thiểu chi phí, đưa hàng hoá Việt Nam đến gần với các chuẩn giao dịch
trên thế giới thông qua đó tận dụng được lợi thế quy mô và phòng tránh rủi ro biến
động giá, tăng tính thanh khoản và bổ sung thêm kênh đầu tư mới cho thị trường
ngoài 5 kênh đầu tư truyền thống như tiền gửi ngân hàng, chứng khoán, bất động
sản, ngoại tệ và vàng. VNX đặt trụ sở chính tại Thành phố Hồ Chí Minh, là trung
tâm tài chính lớn của nước ta, thuận tiện cho nhà đầu tư tham gia giao dịch tại sàn.
VNX giám sát các hoạt động giao nhận hàng hóa bao gồm việc phối hợp với
các trung tâm kiểm định hàng hóa, hệ thống kho hậu cần để đảm bảo chất lượng
hàng hóa giao dịch theo đúng tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế, và trung tâm thanh
toán bù trừ đảm bảo khả năng thanh toán của các bên tham gia giao dịch.
VNX tổ chức giao dịch các hợp đồng giao ngay và giao sau đối với 3 loại
hàng hóa là Cà phê, Cao su, Thép. Thời gian giao dịch từ thứ hai đến thứ sáu, mở
cửa giao dịch 23/24 và chỉ đóng cửa giao dịch từ 6:00 sáng đến 7:00 sáng. Cơ chế
giao dịch thỏa thuận và khớp lệnh liên tục.
Khác với Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC), thành viên
của VNX chỉ bao gồm thành viên kinh doanh và thành viên môi giới.
VNX chính thức đi vào hoạt động từ tháng 6 năm 2011. Do đó, tác giả không
đủ điều kiện và thời gian nghiên cứu thực trạng giao dịch giao sau cà phê của các
nhà đầu tư tại sàn VNX.
VNX có 11 thành viên môi giới và 2 thành viên kinh doanh. Những thành
viên này đều là các công ty có uy tín trên thị trường tài chính như CTCP Tư vấn–
Đầu tư Đỉnh Phong, CTCP Đầu tư SME, CTCP Đầu tư và Bất động sản Sài Gòn
54
Châu Á, CTCP Đầu tư Việt Phúc, CTCP Dịch vụ Đầu tư Sông Ngân. Tất cả các
giao dịch của nhà đầu tư tiến hành tại các sàn thành viên VNX đều được thực hiện
trên một hệ thống giao dịch Patsystems thống nhất toàn quốc.
Ngân hàng thanh toán của VNX là những ngân hàng đã có kinh nghiệm
trong lĩnh vực giao dịch hàng hóa phái sinh như Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam (BIDV), Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), Ngân
hàng TMCP Hàng hải Việt Nam, Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội.
VNX có các đối tác quốc tế như Patsytems, SICOM (Singapore), LIFFE,
NYBOT, Sở giao dịch hàng hóa Chicago, Sở giao dịch hàng hóa Tokyo,… nhằm
tạo cầu nối giúp nhà đầu tư tham gia vào các thị trường lớn trên thế giới.
Như vậy, trong giai đoạn đầu, kỳ vọng của sàn VNX chỉ là đưa kênh đầu tư
mới tới nhà đầu tư, giúp họ đa dạng hóa kênh đầu tư bên cạnh những hình thức đầu
tư truyền thống.
2.2.3 Giao dịch giao sau cà phê tại Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột:
2.2.3.1 Giới thiệu Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột:
Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC- Buon Ma Thuot Coffee
Exchange Center) bắt đầu hoạt động từ tháng 12 năm 2008 với phương thức giao
ngay có hàng thực và từ ngày 11 tháng 03 năm 2011 BCEC chính thức đưa vào giao
dịch sản phẩm cà phê giao sau với thời gian thí điểm mô hình giao dịch giao sau cà
phê là một năm.
BCEC tổ chức giao dịch từ thứ hai đến thứ sáu, theo hai phiên: buổi sáng từ
9:00 đến 11h00 giao dịch sản phẩm giao ngay cà phê và buổi chiều từ 14h00 đến
17h00 giao dịch sản phẩm kỳ hạn (hợp đồng giao sau) cà phê. Cơ chế giao dịch thỏa
thuận và khớp lệnh liên tục.
BCEC hoạt động theo nguyên tắc thành viên gồm thành viên môi giới, thành
viên kinh doanh và thành viên đăng ký bán.
BCEC là một đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, trực thuộc Sở
Công Thương tỉnh Đăk Lăk. Tổng vốn đầu tư vào BCEC khoảng 100 tỷ đồng. Năm
55
2008 BCEC được Cơ quan phát triển Pháp (AFD) tài trợ 850.000 Euro để hỗ trợ kỹ
thuật vận hành cho sàn giao dịch của BCEC. BCEC đặt tại Thành phố Buôn Ma
Thuột, tỉnh Đắk Lắk - thủ phủ của cà phê của Việt Nam.
Hệ thống cơ sở hạ tầng của BCEC bao gồm 1 sàn giao dịch và hệ thống tổng kho 8.000 m2 có sức chứa khoảng 15.000 tấn cà phê nhân cùng một thời điểm, bên cạnh đó là một xưởng chế biến có diện tích khoảng 5.000 m2 với tổng công suất
tương đương 150.000 tấn/năm, đặt ngay tại Trung tâm, sẵn sàn đáp ứng nhu cầu
mua bán, ký gửi cà phê của người sản xuất, kinh doanh cà phê trên địa bàn tỉnh
cũng như khu vực Tây Nguyên.
BCEC đã cùng với các đơn vị ủy thác là Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt
Nam (Techcombank), CTCP Thái Hòa Buôn Ma Thuột và CTCP Giám định cà phê
và hàng hóa xuất nhập khẩu – chi nhánh Tây Nguyên (CafeControl) đã thiết lập
được thị trường giao dịch cà phê thông qua sàn giao dịch với phương thức giao
ngay có hàng thực và giao sau theo từng kỳ hạn của hợp đồng giao dịch cà phê
Robusta, với mục đích nhằm giảm khâu trung gian, tạo môi trường mua bán trực
tiếp, tạo điều kiện cho người sản xuất, kinh doanh cũng như các nhà đầu tư tài chính
sử dụng tính công khai, minh bạch, an toàn, nhanh chóng, thuận tiện,... và các dịch
vụ: gửi kho, kiểm định chất lượng, chế biến, tín dụng,... để phục vụ mục đích kinh
doanh giao dịch của mình. Trong đó:
- Ngân hàng Techcombank đảm nhận vai trò là ngân hàng ủy thác thanh toán
cho hoạt động giao dịch tại Trung tâm với các nhiệm vụ mở và quản lý tài khoản
tiền của các thành viên; thực hiện lưu ký chứng thư hàng gửi kho; thực hiện thanh
toán, hạch toán tài khoản tiền và hàng đối ứng giữa bên bán và bên mua sau khi các
giao dịch thành công; đồng thời cũng là ngân hàng cung ứng các dịch vụ về tài
chính, tín dụng,... cho thành viên và nông dân có hàng gửi kho.
- CTCP Thái Hòa Buôn Ma Thuột là công ty đảm nhận vai trò quản lý kho
hàng, tổ chức vận hành hệ thống kho và nhà máy chế biến cà phê thô cho người có
hàng, người nông dân khi họ đem cà phê đến ký gửi tại kho Trung tâm. Đơn vị này
thực hiện nhiệm vụ nhận ký gửi, bảo quản, cất trữ cà phê sau khi đã chế biến thành
56
cà phê nhân thành phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu theo từng phẩm cấp chất lượng
được niêm yết trên sàn giao dịch; tổ chức các dịch vụ về kho bãi, chế biến, tái chế,
ký gửi theo nhu cầu của người gửi hàng.
- Công ty Cafecontrol thực hiện nhiệm vụ kiểm định chất lượng đối với hàng
hóa được người có hàng, người nông dân mang đến Trung tâm, cùng với công ty
quản lý kho thực hiện việc xác định phẩm cấp, chất lượng cà phê làm cơ sở để
Trung tâm cấp Chứng thư hàng gửi kho cho người gửi hàng. Công ty Cafecontrol
cũng thực hiện các dịch vụ về kiểm định chất lượng khi người gửi hàng có nhu cầu.
BCEC cùng với các đơn vị phối hợp đã thiết lập được hạ tầng kỹ thuật, công
nghệ thông tin hiện đại, hệ thống phần mềm đấu giá khớp lệnh giao ngay, giao sau,
thanh toán bù trừ, chuyển giao sản phẩm, công bố thông tin,... cùng với sàn giao
dịch đầy đủ trang thiết bị, có sức chứa hơn 100 người cùng lúc giao dịch và làm
việc ngay tại sàn. Hệ thống này đáp ứng được yêu cầu phục vụ cho các tổ chức, cá
nhân từ người sản xuất, chế biến đến kinh doanh, xuất khẩu mặt hàng cà phê cho
đến các nhà đầu tư tài chính thực hiện giao dịch, mua bán cà phê theo mô hình hoạt
động hiện đại phù hợp với xu thế và tập quán giao dịch kinh doanh, mua bán hàng
hoá nông sản trên thế giới.
2.2.3.2 Thực trạng giao dịch giao sau cà phê tại BCEC:
Trong gần 3 năm qua, BCEC đã nhiều lần điều chỉnh những chính sách đưa
ra lúc đầu chưa được phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam, nhằm tạo mọi
điều kiện dễ dàng hơn để thu hút nông dân. Ví dụ như:
- Giảm lượng hàng tối thiểu một lần bán từ 5 tấn xuống còn 1 tấn, để cho
người nông dân có ít hàng cũng bán được thông qua BCEC.
- Mở ra một phương hướng cho người nông dân có thể bán hàng khi cà phê
còn nằm trên cây mà gặp lúc giá tốt và giao hàng sau để tránh bán hàng đồng loạt
sau khi thu hoạch.
- Công tác kiểm hàng công bằng và vô tư thông qua công ty kiểm định Cafe
Control khi nông dân giao hàng cho bên nhận. Cà phê được chăm sóc tốt có tỷ lệ
hạt lớn loại 1 cao, hay cà phê được chế biến sạch ít tạp chất hơn 1% sẽ được cộng
57
thêm giá. Điều này khuyến khích nông dân đầu tư tốt hơn cho chăm sóc và sơ chế
bước đầu để nâng cao chất lượng cà phê.
- Mở nhiều đợt tuyên truyền qua hội thảo đến nhiều huyện cùng với sự kết
hợp của nhiều ngành như ngân hàng, công ty kiểm định, công ty tiếp nhận hàng
hóa... để giải thích chi tiết cho nông dân.
- Hàng hóa gởi vào sàn nếu chưa muốn bán không lo bị mất như gởi cho các
đại lý, không những thế còn được ngân hàng cho vay 70% giá trị thời điểm lô hàng
gởi dựa trên chứng thư gởi kho.
- Nghiên cứu hướng thành lập các điểm giao hàng nằm xa trung tâm để tiện
cho việc giao nhận giữa nông dân và sàn giao dịch.
Với điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, các hệ thống quy định, quy
trình nghiệp vụ và công nghệ tương đối đầy đủ, cơ bản đáp ứng được nhu cầu giao
dịch ở quy mô lớn. Tuy được sự quan tâm, ủng hộ và định hướng từ Bộ Công
Thương, Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk, sự tài trợ của Cơ quan phát triển Pháp
(AFD); sự hỗ trợ và phối hợp từ các đơn vị: Tư vấn quốc tế, tư vấn luật, các công ty
phát triển hệ thống công nghệ và các đơn vị phối hợp (Techcombank, CTCP Thái
Hòa Buôn Ma Thuột, Cafecontrol…) cùng chung sức xây dựng thị trường ban đầu
nhưng kết quả mang lại hết sức khiêm tốn. Thành viên đăng ký bán của BCEC dù
có tăng trong gần 3 năm qua nhưng chỉ đạt 47 thành viên, một con số rất khiêm tốn
nếu so với hàng vạn hộ dân trồng cà phê ở Đắk Lắk nói riêng và hàng trăm ngàn hộ
nông dân trồng cà phê ở Tây Nguyên mà BCEC định hướng nhắm tới. Thành viên
đăng ký kinh doanh cũng quá ít, chỉ mới có 21 doanh nghiệp. Thành viên môi giới
chỉ có 4 công ty, con số quá ít khó có thể gặp gỡ nhiều nhà đầu tư, thuyết phục họ
mở tài khoản và hướng dẫn khách hàng giao dịch cũng như tư vấn thông tin giao
dịch…
Đối với giao dịch giao ngay, tính cả niên vụ 2009-2010 và niên vụ 2010-
2011, số lượng cà phê được mang đến BCEC thực hiện ký gửi, giao dịch chưa đến
1.000 tấn, trong khi Đắk Lắk sản xuất khoảng 400.000 tấn cà phê/năm.
58
Nhìn vào bảng 2.5, từ ngày khai trương hoạt động thí điểm giao dịch cà phê
giao sau 11/03/2011 đến hết tháng 06/2011, tổng giá trị khớp lệnh đạt gần 308 tỷ
đồng, trung bình 3,85 tỷ đồng/phiên. Tổng khối lượng khớp lệnh đạt là 3.137 lô
(một lô tương ứng với 2 tấn), trung bình gần 78,5 tấn cà phê/phiên. Tất cả các trạng
thái mở của những hợp đồng trên đều được tất toán vào cuối phiên giao dịch của
ngày giao dịch cuối cùng trong tháng và không phát sinh hoạt động giao nhận hàng,
cũng như có bất kỳ trạng thái mở nào rơi vào mức bị xử lý theo quy định của
BCEC.
Bảng 2.5: Số liệu giao dịch giao sau tại BCEC từ tháng 3/2011 đến tháng
6/2011
Khối lượng Khối lượng Tổng khối Tổng số Tổng giá trị khớp Tháng đặt mua đặt bán lượng khớp lệnh khớp (1.000VNĐ)
3/2011 829 802 684 1.121 64.967.160
4/2011 1.253 1.213 1.074 768 104.154.800
5/2011 509 487 439 452 44.621.480
6/2011 979 970 940 1.196 94.167.640
3.537 307.911.080 Tổng cộng 3.570 3.472 3.137
Nguồn: BCEC
Hoạt động giao dịch giao sau tại BCEC trong thời gian qua chủ yếu do các
thành viên môi giới giao dịch, khớp lệnh với nhau nhằm tạo thị trường ban đầu và
khuyến khích thị trường phát triển.
Với số lượng thành viên còn hạn chế, với năng lực tài chính không mạnh,
chưa thật sự có thành viên tạo lập thị trường tham gia hoạt động này, do vậy, việc
thực hiện hoạt động tạo lập thị trường cũng không nhiều, lệnh đặt vào hệ thống ít,
tính thanh khoản của thị trường kém. Điều này dẫn đến tâm lý chờ đợi, chưa tham
gia của các nhà đầu tư khi trên sàn BCEC không có lệnh đối ứng để khớp, môi
trường giao dịch không sôi động.
59
2.3 Khảo sát:
2.3.1 Quy trình khảo sát:
Bước 1: Xây dựng bảng câu hỏi
Giai đoạn 1: Xây dựng bảng câu hỏi dựa trên nền tảng các thông tin cần thu thập.
Giai đoạn 2: Phỏng vấn thử 10 đối tượng đã từng nghe tới sàn giao dịch cà phê
nhằm kiểm tra mức độ rõ ràng của bảng câu hỏi và phát hiện những sai sót của bảng
câu hỏi.
Giai đoạn 3: Hiệu chỉnh và hoàn tất bảng câu hỏi, tiến hành khảo sát chính thức.
Bước 2: Xác định số lượng mẫu, đối tượng khảo sát, phạm vi khảo sát, thời
gian khảo sát và thang đo cho việc khảo sát
Tác giả thực hiện khảo sát tại tỉnh Đắk Lắk - trung tâm sản xuất cà phê lớn
nhất Việt Nam trong thời gian từ ngày 15/03/2011 đến 15/06/2011. Tác giả lựa
chọn đối tượng khảo sát là các doanh nghiệp kinh doanh cà phê, các hộ gia đình
trồng cà phê, các thành viên đăng ký bán của BCEC và các đối tượng đã từng nghe
tới sàn giao dịch cà phê bằng bản câu hỏi khảo sát. Do không đủ điều kiện và thời
gian thực hiện kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp các đối tượng đã từng nghe tới sàn giao
dịch cà phê nên số bản câu hỏi đủ tiêu chuẩn xử lý là 120, nghĩa là số lượng mẫu là
120.
Một trong những hình thức đo lường sử dụng phổ biến nhất trong nghiên cứu
định lượng là thang đo Linkert. Vì vậy, bản câu hỏi được thiết kế chủ yếu bao gồm
5 cấp độ phổ biến từ 1 đến 5 để tìm hiểu mức độ đánh giá của người trả lời.
Bước 3: Xử lý dữ liệu thông qua việc sử dụng công cụ phân tích SPSS.
Phương pháp xử lý số liệu chủ yếu được thực hiện theo phương pháp tính bình quân
giá trị số tương ứng của các câu trả lời trong toàn mẫu cho từng hạng mục được hỏi.
Nói cách khác, mỗi lựa chọn cho mỗi câu hỏi trong bảng câu hỏi tương ứng với một
mức độ nhất định, được số hóa theo hệ thống phân loại. Sau đó, tính giá trị bình
quân các giá trị số đó cho toàn mẫu điều tra.
60
2.3.2 Kết quả khảo sát:
Khi tác giả đề cập đến sàn giao dịch cà phê, nhiều hộ nông dân trồng cà phê
không biết đến sàn. Người nông dân đã quen với phương thức “tiền trao cháo múc”.
Khi cần tiền thì họ mang cà phê đi bán để chi tiêu công việc gia đình, đơn giản chỉ
là cân ký bán và nhận tiền. Nếu nhận thấy cà phê được giá thì họ bán hết số lượng
cà phê của mình và dùng số tiền đó đầu tư vào công việc khác mà họ cảm thấy đem
lại nhiều lợi nhuận.
Khi tác giả đề cập vấn đề ký gửi ở các đại lý có thể gặp rủi ro đại lý vỡ nợ,
nhiều hộ nông dân trả lời rằng biết vậy nhưng cũng phải chịu chứ biết làm sao. Nếu
gửi tại đại lý nào mà vỡ nợ thì lần sau họ sẽ gửi tại đại lý khác hoặc là để ở nhà khi
nào thấy cà phê được giá thì mang đi bán lấy tiền.
cán bộ quản lý, 3.3%
lao động tự do, 2.5%
nhân viên văn phòng, 9.2%
Chủ doanh nghiệp, 56.7%
nông dân, 28.3%
Sau đây là kết quả khảo sát 120 người đã từng nghe tới sàn giao dịch cà phê.
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Hình 2.3: Nghề nghiệp của người được khảo sát
Từ chối trả lời, 22.5%
Đại học hoặc sau đại học, 4.2%
Phổ thông trung học, 60%
Trung học cơ sở, 5%
Cao đẳng, 8.3%
61
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Hình 2.4: Trình độ học vấn của người được khảo sát
Hình 2.3 thể hiện đối tượng khảo sát gồm 56,7% chủ doanh nghiệp (của các
đại lý, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn), 28,3% nông dân trồng
cà phê, 12,5% nhân viên văn phòng và cán bộ quản lý (làm việc trong các công ty
kinh doanh cà phê lớn và công ty có vốn nước ngoài) và 2,5% lao động tự do. Hình
2.4 cho thấy trình độ học vấn của các đối tượng được khảo sát không cao, chủ yếu
là trình độ phổ thông trung học.
2.3.2.1 Mức độ nhận biết các sàn giao dịch cà phê:
Hình 2.5 thể hiện kết quả mức độ nhận biết các sàn giao dịch cà phê của 120
người đã từng nghe tới sàn giao dịch cà phê, với mức 1 là rất am hiểu và mức 5 là
hoàn toàn không biết. Kết quả cho thấy người được khảo sát biết vừa phải Trung
tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC), có biết sơ sàn giao dịch Luân Đôn
(LIFFE), và gần như hoàn toàn không biết sàn giao dịch New York (NYBOT), sàn
giao dịch Singapore (SICOM), sàn giao dịch Tokyo, sàn giao dịch Brazil. Kết quả
khảo sát cho thấy các doanh nghiệp và nông dân vẫn chưa hiểu biết nhiều về sàn
giao dịch cà phê.
3.3
Trung tâm giao dịch Buôn Ma Thuột( BCEC)
Sàn giao dịch Tokyo
4.89
4.65
Sàn giao dịch Singapore (SICOM)
Sàn giao dịch Brazil
4.96
4.17
Sàn giao dịch Luân Đôn (LIFFE )
4.53
Sàn giao dịch New York (NYBOT)
0
1
2
3
4
5
6
62
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Hình 2.5: Mức độ nhận biết các sàn giao dịch cà phê
2.3.2.2 Mức độ thường xuyên giao dịch tại sàn giao dịch cà phê:
Trong 120 người được phỏng vấn, chỉ có 48 người có tham gia giao dịch tại
sàn giao dịch cà phê.
Hình 2.6 thể hiện mức độ thường xuyên giao dịch tại các sàn giao dịch cà
phê của 48 người có tham gia giao dịch, với mức 1 là giao dịch rất thường xuyên và
mức 5 là không giao dịch. Kết quả 3,79 và 4,46 gần với mức 4 thể hiện họ giao dịch
rất ít tại sàn BCEC và LIFFE. Còn đối với các sàn NYBOT, Tokyo, SICOM, Brazil
thì họ không giao dịch.
Đối với các sàn giao dịch ở nước ngoài, vì mức độ hiểu biết của họ về các
sàn giao dịch này chưa nhiều nên họ hạn chế tham gia giao dịch và mức độ tham gia
ban đầu của họ vẫn mới chỉ dừng ở mức độ thăm dò. Họ đánh giá khá cao về các
sàn giao dịch ở nước ngoài và có xu hướng là sẽ duy trì lâu dài việc tham gia còn
đối với sàn BCEC, họ đánh giá sàn BCEC chưa đem lại cho họ nhiều lợi ích và họ
có xu hướng là rút lui khỏi sàn, không tham gia nữa.
3.79
Trung tâm giao dịch Buôn Ma Thuột( BCEC)
5
Sàn giao dịch Tokyo
Sàn giao dịch Singapore (SICOM)
5
5
Sàn giao dịch Brazil
4.46
Sàn giao dịch Luân Đôn (LIFFE )
5
Sàn giao dịch New York (NYBOT)
0
1
2
3
4
5
6
63
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Hình 2.6: Mức độ thường xuyên giao dịch tại sàn giao dịch cà phê
2.3.2.3 Mức độ hài lòng khi tham gia sàn giao dịch BCEC:
Hình 2.7 thể hiện mức độ hài lòng của 48 người có tham gia giao dịch tại sàn
BCEC, với mức 1 là rất hài lòng và mức 5 là rất không hài lòng. Yếu tố chất lượng
hàng hóa là yếu tố họ nhận xét hài lòng khi tham gia sàn BCEC. Các yếu tố quản lý
rủi ro về giá, hoạt động giao dịch được đấu giá tập trung công khai, hoạt động theo
nguyên tắc thành viên, dịch vụ môi giới tư vấn là các yếu tố họ tạm hài lòng (bình
thường). Các yếu tố hoạt động giao dịch và thanh toán được quản lý chặt chẽ; dịch
vụ ký gửi, chế biến, bảo quản hàng hóa; thủ tục, phương thức, địa điểm giao/nhận
hàng; các loại phí là các yếu tố họ không hài lòng. Yếu tố họ rất không hài lòng là
dịch vụ hỗ trợ tín dụng.
Khi ký gửi cà phê tại BCEC, họ được cấp chứng thư gửi kho và chứng thư
gửi kho này chỉ được ngân hàng Techcombank nhận thế chấp và cung ứng dịch vụ
hỗ trợ tín dụng với lãi suất khá cao. Theo họ, nếu mà họ để cà phê ở nhà thì họ vẫn
có thể vay ngân hàng khác với lãi suất thấp hơn mà lại thuận tiện khi cà phê lên giá
thì họ có thể bán ngay không phải trải qua một thủ tục rắc rối rườm rà nào hết.
BCEC rất thiếu vắng người giao dịch nên người dân muốn chốt giá thì phải chờ môi
64
giới tìm nguồn và phương thức thanh toán chậm chạp. Đối với họ, giá cà phê luôn
4.13
Các loại phí: phí thành viên, phí giao dịch, phí kiểm định…
3.92
Thủ tục, phương thức, địa điểm giao/nhận hàng
Dịch vụ hỗ trợ tín dụng
4.65
3.77
Dịch vụ ký gửi, chế biến, bảo quản hàng hóa
Dịch vụ môi giới, tư vấn
3.29
Chất lượng hàng hóa
2.25
Quản lý rủi ro về giá
2.56
2.83
Hoạt động giao dịch được đấu giá tập trung công khai
3.13
Hoạt động theo nguyên tắc thành viên
3.5
Các hoạt động giao dịch và thanh toán được quản lý chặt chẽ
0
1
2
3
4
5
biến động thất thường nếu chậm chân thì có thể mất đi số tiền lớn.
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Hình 2.7: Mức độ hài lòng khi tham gia sàn giao dịch BCEC
65
2.08
Chưa quen thuộc với phương thức giao dịch giao sau, thị trường giao sau
1.32
BCEC chưa đem lại nhiều lợi ích cho người tham gia giao dịch
1.58
Dịch vụ hỗ trợ tín dụng
3.07
Dịch vụ ký gửi, chế biến, bảo quản hàng hóa
1.69
Thiếu ưu đãi về giá
1.65
Thủ tục rườm rà
2.49
Thiếu nhà kho tại các địa điểm ở xa
2.79
Thiếu phương tiện vận tải
3.85
Không đủ điều kiện làm thành viên của sàn
1.97
Mức ký quỹ 15% giá trị hợp đồng khi tham gia giao dịch
1.35
Số lượng thành viên tham gia không nhiều
1.53
Các loại phí: phí thành viên, phí giao dịch, phí kiểm định..
0
1
2
3
4
5
2.3.2.4 Lý do tác động đến việc không muốn tham gia sàn giao dịch BCEC:
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Hình 2.8: Lý do tác động đến việc không muốn tham gia sàn giao dịch BCEC
66
Hình 2.8 thể hiện lý do tác động đến việc không muốn tham gia vào sàn giao
dịch BCEC của 72 người được khảo sát, với mức 1 là tác động rất nhiều và mức 5
là hoàn toàn không tác động.
Những người được phỏng vấn đều cho rằng họ chưa quen thuộc với phương
thức giao dịch giao sau và BCEC chưa đem lại nhiều lợi ích cho người tham gia
giao dịch. BCEC có chức năng hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp trong việc tư vấn giá
cả thị trường trong nước và thế giới, tuy nhiên các thông tin tư vấn thường ít chính
xác do công tác cập nhật thông tin còn chưa kịp thời. Các giao dịch tại BCEC ngày
càng thu hẹp về quy mô, các thành viên tham gia giao dịch ngày càng xa rời sàn
giao dịch do tính thanh khoản kém. Do đó, hoạt động của thương lái vẫn phát triển
và hầu như họ chi phối mạnh về các mức giá thu mua đối với các hộ nông dân.
Thủ tục rườm rà, mất khá nhiều thời gian mới hoàn thành các quy trình và
bán được cà phê khiến nông dân và doanh nghiệp đã quen với phương thức mua bán
trao tay đơn giản ngại tham gia. Khi tham gia giao dịch, phải tốn thêm phí thành
viên, phí giao dịch, phí kiểm định, phí lưu kho, phí bốc vác, phí bao bì… mà giá
bán không cao hơn bên ngoài các doanh nghiệp và đại lý bao nhiêu, dịch vụ hỗ trợ
tín dụng cũng không ưu đãi. Phương thức ký gửi, giao nhận hàng chưa thật sự thuận
tiện và có lợi cho nông dân, doanh nghiệp ở xa BCEC. Mặc dù BCEC có hệ thống
kho lớn nhưng nông dân thu hoạch mỗi lần vài tấn cà phê ở các huyện, xã cách xa
trung tâm hàng chục cây số phải thuê xe chở về trung tâm, làm phát sinh chi phí. Do
đó, nông dân gửi cà phê cho đại lý trong thôn, xã vẫn thuận tiện hơn và khi bán cho
đại lý, đại lý sẽ đưa xe tới tận nhà và nông dân không tốn một đồng nào. BCEC hoạt
động không hiệu quả, số lượng thành viên tham gia không nhiều, rất thiếu vắng
người giao dịch, chỉ có ngân hàng Techcombank đảm nhận vai trò là ngân hàng ủy
thác thanh toán, CTCP Thái Hòa Buôn Ma Thuột thực hiện nhiệm vụ nhận ký gửi,
bảo quản, cất trữ cà phê, công ty Cafecontrol thực hiện nhiệm vụ kiểm định chất
lượng cà phê đã không tạo được sự thu hút và sự tin tưởng để các doanh nghiệp
tham gia. Mức ký quỹ 15% giá trị hợp đồng khi tham gia giao dịch vẫn khá cao làm
hạn chế các nhà đầu cơ tham gia giao dịch, từ đó giảm tính thanh khoản của sàn
67
giao dịch. Điều kiện làm thành viên của sàn BCEC là nông dân phải có diện tích cà
phê tối thiểu từ một hecta cà phê trở lên hoặc có khối lượng cà phê nhân tối thiểu từ
một tấn trở lên ký gửi tại hệ thống kho BCEC và khi nông dân muốn bán phải bán ít
nhất là một tấn cũng hạn chế nhiều nông dân tham gia.
Hơn nữa, khi đến mùa vụ, các nông dân phải làm việc quần quật, vất vả.
Ngoài việc nghe đài, xem ti vi, gửi tin nhắn nghe ngóng tin tức giá cả thì ai mà có
thời gian đầu tư vào cho sàn giao dịch. Với họ, sàn là một cái gì đó xa xôi và đầy
các thủ tục, mà theo lẽ thường, các nông dân thì chỉ thích phương thức giao dịch
nào nhanh gọn nhẹ chứ ít ai nghĩ rằng họ phải cần đầu tư có chiều sâu, chiều dài và
mang tính chiến lược.
2.4 Một số nguyên nhân làm cho hoạt động của BCEC chưa hiệu quả:
Từ kết quả khảo sát các đối tượng đã từng nghe tới sàn giao dịch cà phê tại
tỉnh Đăk Lăk và từ các thông tin thu thập được tại BCEC, tác giả rút ra được một số
nguyên nhân làm cho hoạt động của BCEC chưa hiệu quả.
2.4.1 Nguyên nhân khách quan:
2.4.1.1 Nhận thức của các tác nhân ngành hàng cà phê đối với sàn giao dịch
BCEC là đơn vị tiên phong trong hoạt động tổ chức sàn giao dịch hàng hóa
nông sản chính vì vậy công tác đào tạo, tập huấn cho các đối tượng tham gia thị
tường chưa chuyên nghiệp, bài bản. Bên cạnh đó, ở nước ta hiện nay vẫn chưa có
trường trung tâm đào tạo chuyên ngành giao dịch hàng hóa qua Sở giao dịch hàng
hóa.
Từ kết quả khảo sát, tác giả nhận thấy sự hiểu biết một cách rõ ràng về mô
hình hoạt động của BCEC đối với người nông dân là một trong những điểm hạn chế
lớn; các thủ tục tiếp nhận cà phê, đăng ký gửi hàng, cấp chứng thư gửi kho, lưu ký
chứng thư để vay vốn tại ngân hàng ủy thác, đặt lệnh chào bán,…vẫn còn đang là
quá phức tạp so với các phương thức mua bán, ký gửi truyền thống, điều này làm
cho người sản xuất, các doanh nghiệp còn ngại thay đổi, chưa muốn tham gia. Bên
cạnh đó, các hoạt động quảng bá, thông tin, tuyên truyền chưa thực hiện tốt, đồng
68
bộ, rộng khắp và đòi hỏi phải có nguồn lực tài chính cùng với sự tham gia đồng đều
của các cơ quan chức năng, các cơ quan chuyên môn cũng như hệ thống chính trị cơ
sở nhằm đưa được thông tin đến tận người nông dân một cách có hiệu quả.
Thiếu máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và nơi bảo quản cất trữ đều
gặp ở đa số người nông dân sản xuất cà phê. Tuy nhiên, khoảng cách là một trong
những khó khăn lớn mà người nông dân gặp phải khi muốn mang cà phê đến ký gửi
tại BCEC. Vì vậy, đối với người nông dân, mặc dù không muốn, biết rủi ro và thiệt
thòi nhưng hầu hết người nông dân đều phải chọn giải pháp là ký gửi cà phê sau thu
hoạch tại các doanh nghiệp hoặc đại lý thu mua gần nơi sản xuất. Tương tự như
vậy, các doanh nghiệp cũng ít quan tâm đến sàn giao dịch vì họ cũng đang mua bán,
kinh doanh với nhau trên thị trường truyền thống. Việc khó thu hút được nhiều
nguồn hàng ký gửi, chào bán trên sàn nên các doanh nghiệp thu mua, xuất khẩu
cũng không tham gia tìm kiếm nguồn hàng trên sàn.
Các doanh nghiệp, nhà đầu tư tài chính…chưa thực sự quan tâm, hầu hết đều
có tâm lý quan sát từ xa, xem xét hoạt động của BCEC.
2.4.1.2 Cơ chế và các quy định hoạt động sàn giao dịch
Chưa có các chính sách định hướng phát triển Sở giao dịch hàng hóa. Các
quy định chi tiết, cụ thể của Nhà nước về quản lý, hướng dẫn và điều chỉnh hoạt
động sàn giao dịch còn thiếu.
Hệ thống quy chế đã được ban hành nhưng trong thực tế vẫn còn nhiều điều
khoản chưa phù hợp với thực tiễn thị trường. Phải liên tục được nghiên cứu điều
chỉnh bổ sung cho hoàn thiện.
BCEC hiện nay vẫn sơ khai, còn lỏng lẻo về cơ sở pháp lý và thể lệ hoạt
động nên tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn và khả năng xảy ra tranh chấp là khó tránh
khỏi.
2.4.1.3 Tình hình kinh tế trong giai đoạn hiện nay
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều biến động, kinh tế vĩ mô cũng
trong giai đoạn hết sức khó khăn, các chính sách về tài chính, tín dụng của chính
69
phủ cũng ảnh hưởng đến việc thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động
giao dịch tại sàn, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư tài chính.
2.4.2 Nguyên nhân chủ quan:
2.4.2.1 Nguồn nhân lực
Đội ngũ nhân viên của BCEC vẫn còn mỏng, trình độ chuyên môn còn yếu,
thiếu chuyên nghiệp vì không có môi trường đào tạo bài bản và trải nghiệm thực tế
trong lĩnh vực quản lý, vận hành sàn giao dịch hàng hóa nông sản, đây cũng là vấn
đề khá nan giải khi chưa có một cơ chế đãi ngộ, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng nhân tài rõ ràng, cụ thể. Việc này cũng ảnh hưởng đến việc tập trung nhân sự
cho các chương trình công tác trọng tâm trong từng giai đoạn triển khai của BCEC.
2.4.2.2 Phối hợp, hợp tác
BCEC là đơn vị sự nghiệp, trực thuộc Sở Công Thương Đắk Lắk, nên rất cần
sự tham gia, phối hợp của các đơn vị hoạt động trong các lĩnh vực liên quan như:
ngân hàng thương mại, doanh nghiệp kinh doanh chế biến cà phê, công ty kiểm
định chất lượng… Tuy nhiên, do mô hình mới, hiện nay chỉ có 3 đơn vị tham gia
các hoạt động do BCEC ủy thác, đó là Ngân hàng Techcombank, CTCP Thái Hòa
Buôn Ma Thuột, Cafecontrol. Việc cung ứng các dịch vụ xung quanh hoạt động
giao dịch cà phê cũng bị hạn chế, ít nhiều ảnh hưởng đến việc tổ chức giao dịch và
các hoạt động liên quan của BCEC
Quy trình phối hợp, hợp tác giữa các đơn vị ủy thác và BCEC hoặc giữa các
đơn vị ủy thác với nhau chưa thực sự gắn kết, liên thông nhau; việc xử lý, tháo gỡ
những vướng mắc trong quá trình triển khai công việc còn chậm, lúng túng.
2.4.2.3 Tính thanh khoản của thị trường
Chưa tìm được các tổ chức đủ tiềm lực tài chính, năng lực về kinh doanh,
xuất khẩu cà phê và có các điều kiện cần thiết để có thể thực hiện việc bảo hiểm
hàng hóa trên các thị trường cà phê lớn của thế giới (LIFFE, NYBOT) để đảm nhận
70
nhiệm vụ tạo thanh khoản cho thị trường (mua khi thị trường cần bán và bán khi thị
trường cần mua).
2.5 Một số nguyên nhân giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam chưa phát
triển:
Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam quan tâm
đến công cụ bảo hiểm rủi ro về giá là hợp đồng giao sau vì càng ngày càng nhiều
doanh nghiệp tham gia giao dịch tại các Sở giao dịch hàng hóa ở nước ngoài thông
qua các nhà môi giới tại Việt Nam. Vậy tại sao cho đến nay, hoạt động giao dịch
giao sau cà phê tại Việt Nam chưa phát triển. Sau đây là một số nguyên nhân chính
được tác giả trình bày trong luận văn.
2.5.1 Các quy định pháp lý chi tiết về thị trường phái sinh hàng hóa vẫn chưa đầy
đủ:
Hệ thống văn bản pháp luật quy định cho thị trường phái sinh hàng hóa còn
chưa đầy đủ, thiếu tính rõ ràng và chưa chi tiết để hướng dẫn các chủ thể tham gia
thị trường.
Hiện nay, các văn bản pháp lý liên quan tới giao dịch hàng hóa mới chỉ dừng
lại trong khuôn khổ Luật thương mại năm 2005; Nghị định 158/2006/NĐ-CP của
Chính phủ và Thông tư 03/2009/TT-BCT của Bộ Công thương.
Luật Thương mại năm 2005 có một mục “Mua bán hàng hóa qua Sở giao
dịch hàng hóa” gồm 11 điều đề cập đến những vấn đề cơ bản liên quan đến mua bán
hàng hóa qua Sở giao dịch. Luật Thương mại quy định những hợp đồng thực hiện
qua Sở giao dịch bao gồm “hợp đồng kỳ hạn” và “hợp đồng quyền chọn” (điều 64)
và khẳng định “Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là hoạt động thương
mại” (điều 63).
Nghị định 158/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại 2005 về hoạt
động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa trong đó quy định khái niệm và
nguyên tắc cơ bản về giao dịch kỳ hạn và quyền chọn; điều kiện, tổ chức hoạt động
của Sở giao dịch hàng hóa; phương thức giao dịch các hợp đồng trên thị trường; cấp
71
giấy phép, kiểm tra, giám sát hoạt động giao dịch hàng hóa qua Sở giao dịch hàng
hóa của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Nghị định 158/2006/NĐ-CP có liệt kê các cơ quan quản lý nhà nước về Sở
giao dịch hàng hóa gồm: Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương), Ngân hàng Nhà
nước, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng các cơ quan nhà nước khác.
Trong đó, Bộ Công thương giữ vai trò chủ đạo trong quản lý nhưng hướng quản lý
cũng rất mở như ban hành văn bản pháp quy, cấp phép, chế tài trong trường hợp
khẩn cấp, thanh tra, kiểm tra, xây dựng lộ trình phát triển và quản lý chung. Bộ
trưởng Bộ Công thương là người có thẩm quyền cấp, sửa đổi, bổ sung giấy phép và
điều lệ hoạt động của Sở giao dịch hàng hóa.
Thông tư số 03/2009/TT-BCT hướng dẫn hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp giấy
phép thành lập và quy định chế độ báo cáo của Sở giao dịch hàng hóa theo quy định
tại Nghị định số 158/2006/NĐ-CP.
Các quy định còn một số bất cập như chưa có các quy định về việc kiểm soát
chặt chẽ các thành viên tham gia Sở giao dịch hàng hóa, chưa có các quy định cụ
thể về quản lý rủi ro, kiểm tra, giám sát thị trường của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, cũng như chưa có quy định cụ thể về giao dịch phái sinh, thanh toán bù
trừ, thuế…Hoạt động của Sở giao dịch hàng hóa còn bị quản lý chồng chéo bởi các
quy định của các bên liên quan như giữa các Bộ, ngân hàng và doanh nghiệp.
Chẳng hạn, Bộ Tài chính có trách nhiệm hướng dẫn các chế độ về thuế, phí, lệ phí
đối với hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch, trong khi ngân hàng lại có
trách nhiệm hướng dẫn chế độ thanh toán…Tuy nhiên, đến nay Ngân hàng Nhà
nước vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về chế độ thanh toán để tạo điều kiện
cho các sàn giao dịch hàng hóa làm việc với các Ngân hàng Thương mại trong giao
dịch hàng hóa phái sinh.
Hiện tại, Việt Nam chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của các bên (Sở
giao dịch hàng hóa, Trung tâm thanh toán, Thành viên) trong đảm bảo thanh toán
cho các giao dịch giao sau, chưa có quy định cụ thể về chức năng, trách nhiệm,
quyền hạn và điều kiện được thành lập cho Trung tâm thanh toán bù trừ để quản lý
72
thực hiện việc thanh toán…dẫn tới các bên bị lúng túng trong tổ chức, thực hiện gây
ra nhiều tranh luận, và thiếu nhất quán trong tổ chức thực hiện. Kèm theo đó là
trách nhiệm của các bên cũng rất lập lờ và không rõ ràng. Các công ty môi giới
cũng lập lờ trong trách nhiệm của mình, và các cơ quan quản lý nhà nước thiếu
thông tin, thiếu quyền hạn để giám sát việc tổ chức thực hiện của các bên.
Thực tiễn phát triển ở các nước cho thấy, thị trường phái sinh hàng hóa chỉ
thực sự phát triển khi nhận được sự hỗ trợ phát triển của Chính phủ nhưng ở Việt
Nam hiện nay, vẫn chưa có cơ chế thực sự để khuyến khích và hỗ trợ các sàn giao
dịch phát triển thị trường cũng như bảo vệ nhà đầu tư thông qua các quy định về ký
quỹ, bảo lãnh, hỗ trợ thanh toán hoặc các biện pháp quản lý rủi ro khác.
Ngoài ra, sự lúng túng trong việc gọi tên hợp đồng “futures” còn được ghi
nhận ngay trên các văn bản luật hiện hành. Luật Thương mại và các văn bản hướng
dẫn thi hành gọi hợp đồng này là hợp đồng kỳ hạn. Luật Chứng khoán gọi hợp đồng
này là hợp đồng tương lai. Còn trong nhiều sách, báo, tài liệu nghiên cứu thì gọi
hợp đồng này là hợp đồng giao sau. Nguồn gốc của sự đa dạng tên gọi dành cho
hợp đồng “futures” bắt nguồn từ giới nghiên cứu khi họ cố phân biệt hợp đồng này
với hợp đồng “forward”. Vì từ trước khi ra đời của loại hợp đồng “futures”, trong
tập quán thương mại lẫn tài liệu đều gọi hợp đồng “forward” là hợp đồng kỳ hạn.
Khi các nhà nghiên cứu bắt đầu viết về hợp đồng“futures”, họ không biết nên sử
dụng tên gọi nào cho đúng. Tên gọi “hợp đồng kỳ hạn” nghe rất hay nhưng đã được
dùng rồi. Do đó, đa phần các nhà nghiên cứu đều gọi nó là “hợp đồng giao sau”,
một số ít hơn dùng “hợp đồng tương lai” và một nhóm rất ít dùng “hợp đồng kỳ
hạn”. Việc sử dụng tên gọi không đồng nhất ở cấp độ luật dễ gây ra lúng túng cho
các thành phần kinh tế khi sử dụng.
2.5.2 Việc Ngân hàng Nhà nước cấm đầu cơ trên thị trường phái sinh hàng hóa
cũng làm hạn chế số lượng thành viên tham gia:
Hiện nay theo Công văn số 8905 của Ngân hàng Nhà nước, việc giao dịch
hợp đồng giao sau phải được thực hiện trên cơ sở hàng hóa thực (các thành viên
tham gia thị trường phải có bằng chứng về nhu cầu xuất nhập khẩu hoặc sản xuất,
73
thu mua, chế biến hàng hóa xuất khẩu) nhằm tránh hiện tượng lợi dụng giao dịch
hợp đồng giao sau trên thị trường hàng hóa để đầu cơ. Song, thực tế cho thấy, thị
trường giao sau không chỉ là nơi gặp gỡ của các bên có nhu cầu mua bán hàng hóa
cơ sở, mà còn có sự tham gia tích cực của các đối tượng đầu cơ, kinh doanh chuyên
nghiệp. Chính các đối tượng này là chất xúc tác thúc đẩy sự phát triển của thị
trường giao sau hàng hóa. Do vậy, quy định của Ngân hàng Nhà nước đã hạn chế
một lượng lớn thành viên tham gia vào giao dịch giao sau hàng hóa.
2.5.3 Quan niệm chưa đúng về “lỗ” trên thị trường phái sinh hàng hóa:
Khi tham gia giao dịch trên thị trường phái sinh hàng hóa, người bán và
người mua dựa vào dự đoán về xu hướng giá hàng hóa trong tương lai để cố định
giá trước tại thời điểm hiện tại. Trong khi đó, việc dự đoán xu hướng giá trong
tương lai có xác suất đúng hoặc sai nên việc tham gia vào thị trường phái sinh hàng
hóa có thể rơi vào trạng thái lãi hoặc lỗ. Với các tổng công ty lớn thuộc khối doanh
nghiệp nhà nước, việc lỗ từ hoạt động giao dịch hợp đồng giao sau có thể bị quy kết
là lỗ do “đánh bạc” trên thị trường và làm thất thoát tài sản của nhà nước. Quan
niệm này khiến việc thuyết phục các tổng công ty lớn thuộc khối doanh nghiệp nhà
nước – đối tượng khách hàng có nhu cầu quản lý rủi ro giá cả hàng hóa lớn tham gia
vào thị trường phái sinh hàng hóa rất khó khăn.
2.5.4 Trình độ kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm của các chủ thể tham gia giao
dịch giao sau cà phê còn hạn chế:
Giao dịch giao sau đòi hỏi chủ thể tham gia phải am hiểu rất rõ hình thức
này, trong khi đó nhà đầu tư tại Việt Nam chưa có nhiều kiến thức và kinh nghiệm
trong việc sử dụng công cụ cao cấp này. Việc quản lý các giao dịch giao sau cũng
rất phức tạp, đòi hỏi những người tham gia quản lý thị trường này phải biết hệ
thống giao dịch giao sau vận hành như thế nào thì mới giám sát thực hiện hợp
đồng được.
Trình độ đội ngũ cán bộ còn chưa đáp ứng yêu cầu. Thời gian qua lực lượng
này còn thiếu cả về chuyên môn kiến thức lẫn bề dày kinh nghiệm, nên chất lượng
74
dịch vụ mà họ cung ứng cho thị trường không đầy đủ và thiếu chất lượng. Bên cạnh
đó, các nhà môi giới còn quá ít để thúc đẩy các nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ thị
trường này.
2.5.5 Thị trường hàng hóa cơ sở chưa phát triển:
Thị trường hàng hóa cơ sở phát triển đầy đủ là nền tảng cho thị trường phái
sinh hàng hóa tồn tại. Một đặc điểm dễ thấy là không có thị trường cơ sở thì không
thể có thị trường giao sau, và giá cả hàng hóa giao sau phụ thuộc vào biến động giá
cả hàng hóa cơ sở. Tuy nhiên, dù là một nước có sản lượng cà phê dồi dào, nhưng
thị trường cà phê Việt Nam còn nhiều bất cập. Về phía cung: Sản xuất cà phê còn tự
phát, nông dân bị cuốn vào vòng luẩn quẩn “trồng – chặt – trồng” và “được mùa
mất giá, mất mùa được giá”. Về phía cầu: Sản phẩm cà phê của Việt Nam phần lớn
được xuất khẩu và phụ thuộc rất nhiều vào giá trên thị trường thế giới.
2.5.6 Thói quen, tập quán của nông dân và doanh nghiệp:
Thói quen và tập quán kinh doanh là những cản trở lớn đối với việc phát
triển giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam.
Cho dù trong thời gian qua hệ thống đại lý bộc lộ nhiều điều bất cập như
nhận hàng gởi của nông dân rồi làm ăn thua lỗ mà trốn mất hoặc nông dân bị phụ
thuộc vào các đại lý thu mua và bị các đại lý ép giá. Nhưng từ lâu nông dân xem
những đại lý này là nguồn cung ứng vốn cho mình, để họ có vốn mua phân bón,
thuê nhân công hay xây dựng hệ thống tưới tiêu. Các đại lý có hệ thống thu mua
phục vụ đến tận mỗi nhà nông dân. Các đại lý đầu tư sâu rộng ngay khi nông dân
chưa có cà phê, trong khi hệ thống ngân hàng thương mại chưa làm tròn được
nhiệm vụ này và thường có xu hướng hỗ trợ khi nắm được hàng trong tay. Nông
dân thu hoạch cà phê với bất kỳ khối lượng nào cũng được đại lý, thương lái ở thôn
buôn, trong xã tới mua cà phê xô mà tiền có thể trao ngay hoặc ghi nợ mà nông dân
có thể lấy bất kỳ lúc nào mình muốn.
Các công ty xuất khẩu cà phê tên tuổi trong nước đều có mạng lưới thu mua
cà phê sâu rộng truyền thống từ lâu, các quy định, thông lệ được thống nhất bằng
75
văn bản hay phi văn bản trong hệ thống của chính họ từ người mua trung gian đến
nhà máy của công ty đã gắn chặt và được phổ biến lâu đời, các công ty này không
có nhu cầu phải tìm đến với sàn mới có được cà phê cho nhà máy. Hầu hết các giao
dịch của các doanh nghiệp hiện nay vẫn theo cách truyền thống, mức độ tham gia
giao dịch giao sau của các doanh nghiệp vẫn mới chỉ dừng ở mức độ thăm dò.
Đối với người nông dân, quy trình tham gia, cách thức thực hiện giao dịch tại
sàn giao dịch hàng hóa khá phức tạp và rắc rối. Việc mua bán trên sàn đòi hỏi người
giao dịch phải rành máy tính, công nghệ thông tin, nắm bắt tình hình biến động giá
cả thị trường trong nước và thế giới... nhưng đối với nông dân Việt Nam, điều này
không dễ để tiếp thu và học hỏi. Quy định về ký gửi hàng hóa, lưu kho... cũng rất
phức tạp và còn phát sinh thêm nhiều chi phí khác, đặc biệt nông dân toàn ở vùng
sâu vùng xa, ai mà chở cà phê từ huyện lên tỉnh để gửi khiến người nông dân không
mấy háo hức khi tham gia sàn. Ngoài ra, các quy cách và tiêu chuẩn về sản phẩm
khi tham gia sàn cũng gây không ít khó khăn cho người nông dân. Nông dân muốn
tham gia sàn giao dịch hàng hóa cần có một khối lượng hàng hóa khá lớn đáp ứng
tiêu chuẩn của sàn, trong khi đó, số hộ gia đình có khả năng cung ứng đủ tiêu chuẩn
lại rất ít, khiến số lượng người nông dân tham gia bị hạn chế.
Vì tín dụng nông thôn vẫn chưa được đầu tư đúng mức nên rất nhiều doanh
nghiệp, người nông dân không vay vốn được của ngân hàng mà chủ yếu vẫn dựa
trên mối quan hệ với bên thu mua, tức là bên thu mua ứng vốn cho người nông dân.
Do đó, nếu chưa giải quyết được bài toán vốn cho người sản xuất thì ngưỡng cản
tham gia giao dịch giao sau vẫn còn rất lớn.
2.5.7 Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghệ chưa hoàn chỉnh:
Hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán, tín dụng cho người mua, người bán
trên các sàn giao dịch chưa được quan tâm.
Việc cung ứng các dịch vụ kho bãi, kiểm định…chưa có sự cạnh tranh, đa
dạng. Chưa xây dựng được hệ thống quản lý kho bãi cho phép quản lý cả kho chính
trực thuộc các sàn giao dịch và cả kho liên kết đạt tiêu chuẩn được cấp phép nhằm
76
giúp người nông dân giảm chi phí vận chuyển lưu kho thuận tiện, lưu ký hàng hóa
lấy chứng thư.
Thiếu tính liên kết, tích hợp trực tuyến hệ thống quản lý kho bãi, hệ thống
giao dịch điện tử và hệ thống quản lý của các định chế tài chính.
Mức độ liên thông, liên kết với các Sở giao dịch hàng hóa nước ngoài
(LIFFE, NYBOT,…) hầu như không có.
Hệ thống giao dịch, giám sát, công bố thông tin, tính mính bạch chưa tạo
được sự tin tưởng cho nhà đầu tư tham gia giao dịch. Các phương tiện cung cấp
thông tin chưa đáp ứng nhu cầu về thông tin của toàn thị trường.
2.5.8 Sự tham gia của các định chế tài chính không nhiều và thiếu vắng sự tham
gia của các nhà đầu tư có tổ chức lớn
Các định chế tài chính tham gia hoạt động trên thị trường phát triển chưa
mạnh cả về số lượng lẫn quy mô đầu tư, trang thiết bị. Lý do là nguồn nhân lực của
các ngân hàng chưa đáp ứng được yêu cầu, kiến thức về thị trường phái sinh hàng
hóa và khả năng quản trị rủi ro trong ngân hàng chưa cao, hạ tầng công nghệ thông
tin chưa tốt và khá khác biệt giữa các ngân hàng.
Thị trường giao sau cà phê Việt Nam vẫn là một thị trường non trẻ, chưa
hoàn thiện và hấp dẫn, chưa thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư có tổ chức lớn,
nhà đầu tư kinh nghiệm có kiến thức am hiểu thị trường để làm đầu tàu dẫn dắt thị
trường theo hướng có hiệu quả. Do tính chất mới mẻ và mức độ hiểu biết của thị
trường về giao dịch giao sau cà phê còn chưa đầy đủ nên số lượng các nhà đầu tư
tham gia giao dịch còn hạn chế so với tiềm lực tài chính trong dân, so với các loại
hình đầu tư khác như gửi tiết kiệm, đầu tư bất động sản, đầu tư chứng
khoán…Chính tính thanh khoản của các sàn giao dịch cà phê của Việt Nam còn
thấp là rào cản lớn nhất đối với việc tham gia của các nhà đầu tư tài chính vào các
sàn giao dịch này.
77
2.5.9 Công tác tuyên truyền và phổ cập kiến thức về giao dịch giao sau vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu:
Công tác đào tạo giao dịch giao sau của Việt Nam chưa thể hiện tính phổ
cập, tính chuyên nghiệp, tính thực tiễn. Đối với các trường đại học, cao đẳng, học
viện, đa phần chỉ dạy suông, bản thân các giáo viên hầu hết không có kinh nghiệm
giao dịch giao sau…Hơn nữa, đội ngũ giảng viên chuyên về lĩnh vực này hiện nay
còn rất thiếu. Quá trình học tập của học viên còn thụ động, khả năng tiếp cận với
thực tiễn về giao dịch giao sau còn nhiều hạn chế.
Thông tin giao dịch giao sau trên các báo, đài, tạp chí… chưa nhiều, còn sơ
sài, chưa chất lượng và không gây quan tâm nhiều cho công chúng, công chúng còn
rất thờ ơ với việc tham gia giao dịch giao sau.
Nhiều nông dân, người lao động trong doanh nghiệp, nhà đầu tư cá nhân còn
xa lạ với kiến thức về giao dịch giao sau và chưa có điều kiện để tiếp cận với các
lớp học về giao dịch giao sau.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong chương 2 tác giả đã trình bày tổng quan ngành cà phê Việt Nam hiện
nay và thực trạng giao dịch giao sau cà phê ở Việt Nam.
Ngành cà phê Việt Nam vẫn chưa thiết lập được hệ thống chế biến, tiêu thụ,
xuất khẩu mang tính chuyên nghiệp nên việc tiêu thụ và xuất khẩu hoàn toàn bị
động. Mối liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu và người trồng cà phê
còn lỏng lẻo. Các nhà kinh doanh sản xuất cà phê không tiên liệu được chính xác
nhu cầu của thị trường và chiều hướng biến động giá do đó không định hướng được
sản xuất.
Thực trạng giao dịch giao sau cà phê ở Việt Nam hiện nay vẫn cho thấy
nhiều bất cập, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa biết cách sử dụng hợp đồng giao
sau trong việc bảo hộ giá hàng hóa. Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam vừa mới được
thành lập, chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư tham gia. Trong khi
đó, hoạt động giao dịch giao sau ở Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột
cũng hết sức khiêm tốn mặc dù BCEC đã nhiều lần điều chỉnh chính sách cho phù
78
hợp với tình hình thực tế. Kết quả khảo sát mức độ nhận thức, mức độ thường
xuyên giao dịch và mức độ hài lòng với BCEC của những người đã từng nghe tới
sàn giao dịch cho thấy nông dân và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê không
mặn mà với giao dịch giao sau cà phê tại các sàn giao dịch hàng hóa của Việt Nam.
Trong chương 2 tác giả cũng đã đưa ra một số nguyên nhân dẫn đến hoạt
động giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam chưa phát triển cũng như hoạt động
của BCEC chưa hiệu quả làm tiền đề để đưa ra các giải pháp phát triển giao dịch
giao sau trong chương 3.
79
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ PHÁT TRIỂN GIAO
DỊCH GIAO SAU CÀ PHÊ TẠI VIỆT NAM
3.1 Các giải pháp từ phía Nhà nước:
3.1.1 Hoàn thiện hệ thống hành lang pháp lý cho hoạt động giao dịch giao sau:
Về hệ thống hành lang pháp lý, Luật Thương mại năm 2005 có hiệu lực từ
ngày 1/1/2006 cùng với Nghị định 158/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết nội dung giao
dịch hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa ở Luật Thương mại và Thông tư
03/2009/TT-BTC hướng dẫn thủ tục thành lập Sở giao dịch hàng hóa và chế độ báo
cáo của Sở giao dịch hàng hóa đã hình thành khung pháp lý cho hoạt động giao dịch
hàng hóa thông qua Sở giao dịch. Tuy nhiên do điều kiện khách quan và tính chất
lịch sử của từng thời kỳ nên hệ thống văn bản này vẫn còn một số bất cập không
theo kịp sự phát triển nhanh chóng của nhu cầu thị trường. Vì vậy, các cơ quan chức
năng trong thời gian tới khi xem xét ban hành các thông tư, nghị định mới hoặc
thậm chí là sửa đổi Luật Thuơng mại cần chú trọng một số vấn đề sau nhằm hỗ trợ
và thúc đẩy sự phát triển chung của thị trường hàng hóa trong đó có hoạt động giao
dịch giao sau hàng hóa thông qua Sở giao dịch: các vấn đề liên quan đến hoạt động
môi giới trên Sở giao dịch hàng hóa, các vấn đề liên quan đến hệ thống thuế, hóa
đơn và thủ tục hải quan, hệ thống báo cáo, và các văn bản tài chính, các vấn đề liên
quan đến cơ chế vận hành, quản lý rủi ro, phương thức bảo vệ nhà đầu tư trên thị
trường hàng hóa, các vấn đề liên quan đến thanh toán bù trừ, ngân hàng thanh toán,
và hoạt động tạo lập thị trường,…
Hiện nay theo công văn số 8905/NHNN-QLNH của Ngân hàng Nhà nước,
việc giao dịch hợp đồng giao sau (Futures contract) phải được thực hiện trên cơ sở
hàng hóa thực để tránh hiện tượng lợi dụng giao dịch hợp đồng giao sau trên thị
trường hàng hóa để đầu cơ. Đây là một quy định không phù hợp với thông lệ quốc
tế. Trên thị trường hàng hóa, đặc biệt là thị trường hàng hóa phái sinh luôn tồn tại
hai nhóm người: nhà bảo hiểm rủi ro và các nhà đầu cơ. Chính các nhà đầu cơ là
một cơ chế riêng có của thị trường phái sinh và thị trường tài chính giúp cho việc
80
hoán đổi rủi ro của nhà đầu tư được thực hiện dễ dàng hơn và từ đó tính thanh
khoản của thị trường được đảm bảo. Vì vậy, xã hội cần có sự nhìn nhận lại vai trò
thực sự của các nhà đầu cơ trong sự phát triển của các thị trường tài chính, trong đó
có thị trường hàng hóa, trước hết bằng việc sửa đổi các quy phạm pháp luật cho phù
hợp với điều kiện Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Gần đây, Bộ Công Thương đang tiến hành lấy ý kiến góp ý về Thông tư
“Quy định lộ trình, điều kiện và thủ tục cấp giấy phép kinh doanh đối với thương
nhân Việt Nam tham gia giao dịch mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa ở
nước ngoài”. Đây là một bước thực hiện đúng đắn thể hiện sự quan tâm của cơ quan
quản lý nhà nước đến sự phát triển của thị trường hàng hóa và Sở giao dịch hàng
hóa tại Việt Nam. Nếu được ban hành thông tư này sẽ góp phần giải quyết vấn đề
nhà tạo lập thị trường cho Sở giao dịch và cải thiện tính thanh khoản cho hoạt động
giao dịch thông qua Sở giao dịch hàng hóa. Tuy nhiên, trong quá trình xem xét và
triển khai thông tư này cần chú ý bước đầu chỉ nên cấp phép cho các thương nhân
Việt Nam được phép giao dịch trên thị trường hàng hóa nước ngoài khi thỏa các
điều kiện: đang là thành viên tạo lập thị trường của một Sở hoặc Trung tâm giao
dịch hàng hóa nội địa, đang là một thành viên giao dịch tích cực trên các thị trường
hàng hóa nội địa, chứng minh được nhu cầu thực tế cần thiết phải giao dịch trên Sở
giao dịch quốc tế. Nếu không, rất dễ dẫn đến hiện tượng thương nhân Việt Nam lợi
dụng thông tư này để gia tăng hoạt động mua bán trên các Sở giao dịch quốc tế thay
vì đóng góp một phần vào hoạt động giao dịch tại thị trường hàng hóa Việt Nam;
đồng thời, các Sở giao dịch hàng hóa tại Việt Nam rất có thể chỉ trở thành “các đại
lý nhận lệnh” cho các Sở giao dịch hàng hóa quốc tế.
3.1.2 Hoàn thiện bộ máy quản lý hoạt động giao dịch giao sau:
Về hệ thống tổ chức và quản lý thị trường hàng hóa và Sở giao dịch hàng
hóa, hiện tại Bộ Công Thương là cơ quan đại diện cho nhà nước trong việc cấp phép
thành lập và quản lý Sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam. Tuy nhiên, liên quan đến
hoạt động thuế, phí, và lệ phí lại do Bộ Tài chính quản lý hoặc hoạt động thanh toán
bù trừ và hướng dẫn thanh toán lại liên quan đến Ngân hàng Nhà nước. Điều này
81
dẫn đến một số vấn đề chồng chéo trong quản lý giao dịch giao sau hàng hóa thông
qua Sở giao dịch. Thiết nghĩ, cần phải có một cơ quan độc lập đứng ra quản lý riêng
về giao dịch giao sau hàng hóa nhằm đảm bảo tính thống nhất, tránh các thủ tục
rườm rà trong hoạt động quản lý và phát triển giao dịch giao sau hàng hóa tại Việt
Nam.
3.1.3 Hỗ trợ phát triển thị trường cà phê giao ngay (physical market):
Thị trường cà phê giao ngay luôn luôn là nền tảng kết hợp và bổ trợ cho hoạt
động giao dịch giao sau cà phê thông qua các Sở giao dịch hàng hóa. Để phát triển
thị trường này, cần giải quyết ba vấn đề lớn:
Một là, các Bộ ban ngành có liên quan thay mặt Chính phủ cùng kết hợp với
các Sở giao dịch hàng hóa tiến hành một chương trình quốc gia về phát triển thương
hiệu cà phê Việt Nam. Trong đó, chú trọng phát triển cà phê theo các tiêu chuẩn
niêm yết và giao dịch trên các thị trường hàng hóa quốc tế.
Hai là, giải quyết triệt để vấn đề cung cấp tín dụng cho người sản xuất cà phê
tại Việt Nam. Vấn đề này có thể được giải quyết thông qua sự hợp tác chặt chẽ giữa
Sở giao dịch và các ngân hàng thương mại hoặc các định chế tài chính khác dưới sự
chỉ đạo cụ thể của Bộ Công thương và các Bộ ngành có liên quan.
Cần có chính sách đảm bảo nguồn cung ứng đầu vào về cả số lượng và chất
lượng. Chính phủ nên đưa ra những chính sách hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực bao
gồm mở các lớp đào tạo nông dân về kỹ thuật canh tác, sơ chế, bảo quản và chế
biến cà phê, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo tay nghề cho công nhân tại các
nhà máy chế biến. Chúng ta cũng có thể học hỏi kinh nghiệm của chính phủ Brazil,
cho nông dân vay tiền để giao dịch cà phê giao sau, đảm bảo về tài chính, bảo hiểm
rủi ro, tăng cường chính sách khuyến nông, đảm bảo nguồn nước tưới cho cây, mở
rộng và phát triển hệ thống giao thông thuận lợi từ đó tạo cơ hội mới, khuyến khích
người dân trồng và phát triển cây cà phê. Bên cạnh đó, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn cũng cần triển khai nhiều chương trình tái canh cây cà phê từ nguồn
vốn của ngân hàng, doanh nghiệp. Bộ cũng phải phối hợp với các địa phương đẩy
mạnh liên kết từ khâu canh tác, chế biến đến xuất khẩu nhằm tạo sức mạnh và sự
82
đồng thuận, hạn chế cách làm riêng lẻ, cá thể. Phát triển mô hình hợp tác xã cà phê
để có một thị trường đảm bảo tương đối ổn định và hứa hẹn lâu dài nếu được đầu tư
đúng và hiệu quả. Đầu tư phát triển giống cây cà phê có sản lượng và chất lượng
cao, nghiên cứu truyền đạt kỹ thuật trồng chăm sóc tới người dân. Ứng dụng các
tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại vào trồng cà phê, dự đoán các thiên tai để hạn
chế ảnh hưởng, phòng chống sâu bệnh; sử dụng các chất bảo vệ thực vật hợp lý,
không ứ đọng lại trong sản phẩm. Kỹ thuật thu hoạch đúng thời vụ, không hái non
xanh và lọc tạp chất để đảm bảo chất lượng. Bên cạnh mở rộng diện tích cây trồng
mới cần phải cải tạo chăm sóc những diện tích có sẵn, trồng lại theo từng khu vực
có quy hoạch. Như vậy luôn có vùng đảm bảo nguồn nguyên liệu cung ứng đầu vào
Ba là, giải quyết vấn đề kiểm định, kho bãi và vận chuyển hàng hóa
(logistic) trong hoạt động giao dịch cà phê thông qua Sở giao dịch. Hầu hết hoạt
động sản xuất cà phê là nằm ở nhóm hộ gia đình nên số lượng cà phê sản xuất ra
tính trên mỗi đơn vị sản xuất cũng nhỏ lẻ theo tiêu chuẩn giao dịch thông qua Sở
giao dịch. Vì vậy đang tồn tại nhu cầu bức thiết cần có một hệ thống kho bãi an
toàn, dịch vụ kiểm định và vận chuyển hợp lý tại các vùng sản xuất cà phê của Việt
Nam nhằm tập trung hàng hóa cho việc giao dịch thông qua Sở giao dịch hàng hóa.
Vấn đề này có thể được giải quyết bằng các cách sau: thứ nhất, Chính phủ đầu tư
xây dựng các hệ thống kho bãi và vận chuyển tại các vùng trọng điểm sản xuất cà
phê tại Việt Nam và giao sự quản lý hệ thống kho bãi này cho một đơn vị cụ thể
quản lý; thứ hai, cần có cơ chế ưu đãi cho các tổ chức thực hiện nhiệm vụ tạo lập thị
trường, dịch vụ kho bãi, logistic, kiểm định…trong giai đoạn đầu phát triển Sở giao
dịch. Đặc biệt là giai đoạn hiện nay, đó là các chính sách hỗ trợ, ưu đãi về thuế, về
đầu tư, về phí…cho các tổ chức làm nhiệm vụ tạo lập thị trường nhằm tăng tính
thanh khoản, thúc đẩy thị trường phát triển; thứ ba, cần có cơ chế để các Sở giao
dịch hàng hóa liên kết với nhau trong việc sử dụng hệ thống logistic của nhau để tận
dụng lợi thế của nhau (ví dụ: BCEC và VNX liên kết thì sẽ tận dụng được lợi thế
gần nguồn nguyên liệu của BCEC và gần thương nhân kinh doanh của VNX); thứ
tư, khuyến khích các Sở giao dịch hàng hóa ký kết hợp tác với các đối tác logistic
83
chuyên nghiệp để cung cấp dịch vụ logistic cho hoạt động giao dịch hàng hóa thông
qua Sở giao dịch.
3.1.4 Hỗ trợ tuyên truyền, quảng cáo, đào tạo về hoạt động giao dịch giao sau cà
phê cho nhà đầu tư và xã hội:
Việc tăng tính thanh khoản cho thị trường giao dịch giao sau cà phê là vấn đề
cốt lõi. Để giải quyết được vấn đề này việc tuyên truyền, quảng cáo, đào tạo về hoạt
động giao dịch giao sau cà phê cho nhà đầu tư và xã hội là nhiệm vụ xuyên suốt và
trọng tâm trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của thị trường. Để việc tuyên
truyền, đào tạo có hiệu quả tốt nhất cần:
Một là, thay đổi quan điểm “công việc quảng bá tuyên truyền về hoạt động
giao dịch hàng hóa là công việc do các Sở giao dịch và các công ty môi giới thực
hiện”. Kinh nghiệm về sự thành công của các Sở giao dịch hàng hóa quốc tế thường
được đúc kết bằng nhiều bài học trong đó bài học được nhắc đến nhiều nhất là sự
thống nhất xuyên suốt từ Chính phủ, các Bộ ngành có liên quan, các tỉnh thành phố,
các Sở giao dịch trong việc quảng bá tuyên truyền cho hoạt động giao sau hàng hóa.
Hai là, thay đổi quan điểm, “kinh doanh phái sinh trên thị trường hàng hóa là
hoạt động cờ bạc” và thay đổi quan niệm về “lỗ” trên thị trường phái sinh hàng hóa.
Hoạt động kinh doanh trên thị trường hàng hóa phái sinh luôn được dựa vào sự
phán đoán và khả năng phân tích xu hướng biến động của giá cả các loại hàng hóa.
Vì vậy, việc phân tích sai lầm dẫn đến thua lỗ cho các hợp đồng mua bán luôn có
xác suất xảy ra. Đồng thời, đặc tính của một số công cụ phái sinh, nhất là hợp đồng
giao sau (Futures contract) luôn cho phép nhà đầu tư có thể thay đổi vị thế trước khi
hợp đồng đến hạn (trong khoảng thời gian này nhà đầu tư giao dịch với nhau chỉ
bằng hợp đồng – nên người Việt Nam thường gọi là hàng giấy, hàng ảo mặc dù điều
này là không chính xác về mặt chuyên môn tài chính). Vì vậy một bộ phận lớn xã
hội Việt nam và cả một số các cơ quan quản lý nhà nước luôn cho rằng đây là hoạt
động “cờ bạc”; cộng với tâm lý dị ứng với khái niệm “nhà đầu cơ”. Vì vậy dẫn đến
tâm lý không muốn phát triển nhóm các sản phẩm phái sinh trong nền kinh tế, cản
84
trở sự phát triển lành mạnh của một nhóm thị trường tài chính có tác dụng lớn trong
việc bảo hộ biến động giá hàng hóa.
Rõ ràng khi tham gia vào thị trường phái sinh hàng hóa, người bán và người
mua có thể rơi vào trạng thái lãi hoặc lỗ tùy thuộc vào việc dự đoán xu hướng giá
trong tương lai là đúng hay sai. Nhưng trong mọi trường hợp, người tham gia vào
thị trường phái sinh hàng hóa đều đạt được mục tiêu cố định thu nhập, chi phí hàng
hóa, từ đó ổn định và phát triển hoạt động kinh doanh. Do vậy, cần có cái nhìn hiện
đại từ cấp độ Nhà nước về “lỗ” trên thị trường phái sinh hàng hóa để các tổng công
ty lớn thuộc khối doanh nghiệp nhà nước có thể mạnh dạn tham gia
Ba là, có chính sách hỗ trợ về đào tào, thông tin tuyên truyền cho đội ngũ
cán bộ, nhân viên của các Sở giao dịch, các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp có tham
gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, chế biến, xuất khẩu cà phê và các tổ chức,
cá nhân tham gia thị trường với vai trò là nhà đầu tư tài chính. Đào tạo và bồi dưỡng
kiến thức liên tục cho nhóm các chuyên viên làm việc trong các Sở giao dịch, các
công ty thành viên của Sở giao dịch và cho nhà đầu tư. Các nghiệp vụ trên thị
trường hàng hóa, đặc biệt là các nghiệp vụ phái sinh hàng hóa luôn là thách thức
chuyên môn lớn đối với người lao động làm việc trong phân khúc này, nhất là đối
với các thị trường non trẻ như tại Việt Nam. Chính vì thế việc chuẩn hóa các kiến
thức, mở các lớp đào tạo liên tục, tiến tới việc thành lập một trung tâm đào tạo
thống nhất về vấn đề cấp chứng chỉ hành nghề trên thị trường hàng hóa là vấn đề
quan trọng cần phải có trong thời gian tới. Đồng thời, các lớp đào tạo – tuyên truyền
cho nhà đầu tư cũng cần liên tục tổ chức nhằm cung cấp cho nhà đầu tư hiểu rõ về
các nghiệp vụ kinh doanh, hiểu rõ được rủi ro và cách phòng chống, hiểu rõ được
những nghĩa vụ và quyền lợi của mình khi tham gia kinh doanh thị trường hàng hóa.
3.1.5 Ưu đãi nhất định trong chính sách thuế cho các đơn vị tham gia:
Chính sách thuế của hoạt động giao dịch giao sau sẽ có ảnh hưởng tới các
nhà đầu tư tham gia, việc ưu đãi nhất định trong chính sách thuế có thể đóng góp
một phần lớn vào việc phát triển thị trường. Hiện nay, thu nhập từ hoạt động kinh
doanh hàng hóa giao sau của các doanh nghiệp được Tổng cục thuế hướng dẫn như
85
là thu nhập từ hoạt động tài chính, và phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo
luật, nếu có thu nhập thì phải chịu thuế, tuy nhiên đây là một thị trường rất mới, cần
có sự tham gia của nhiều nhà đầu tư, vì vậy, nếu tính thuế cho các thu nhập phát
sinh từ hoạt động giao dịch giao sau sẽ không khuyến khích các đơn vị tham gia, do
đó thị trường khó phát triển. Để kích thích thị trường phát triển, khuyến khích nhà
đầu tư tham gia, chúng ta nên xây dựng chính sách thuế phù hợp, theo lộ trình phát
triển của thị trường. Trong thời gian đầu, nhà nước cần miễn hoặc giảm thuế cho
phần thu nhập từ việc tham gia giao dịch giao sau; các chính sách ưu đãi này tạo
điều kiện cho doanh nghiệp, người dân, nhà đầu tư thấy được lợi ích của việc tham
gia giao dịch giao sau và tự nguyện tham gia giao dịch.
3.2 Các giải pháp từ phía BCEC:
3.2.1 Đẩy mạnh tuyên truyền về hoạt động giao dịch:
Nông dân trồng cà phê hiện nay không quen với cách thức giao dịch hiện đại
tại sàn BCEC. Vì vậy, việc tuyên truyền cho người nông dân hiểu được lợi ích lâu
dài của việc tham gia giao dịch tại BCEC là mục tiêu hàng đầu của BCEC. Cộng
với các hình thức mở rộng địa bàn phục vụ và cung cấp tín dụng của các đối tác
ngân hàng sẽ làm gia tăng khả năng cạnh tranh của BCEC so với các hình thức mua
bán cà phê truyền thống.
Bên cạnh đó, việc thuyết phục các nhà đầu tư, các doanh nghiệp kinh doanh
cà phê tham gia giao dịch cũng là một ưu tiên lớn cần được thực hiện. Các doanh
nghiệp phải thấy được rằng BCEC là nơi hỗ trợ các giao dịch mua bán chứ không
phải là đối thủ cạnh tranh trong thu mua cà phê của các doanh nghiệp. Các doanh
nghiệp cà phê lớn đa số đều có hệ thống thu mua, chế biến cà phê của riêng mình
nên thuyết phục họ dùng các hệ thống đó để hợp tác với BCEC vừa mang lại lợi ích
chung, vừa gia tăng khả năng cạnh tranh của BCEC vì địa bàn phục vụ được mở
rộng.
Để nông dân, doanh nghiệp hiểu được lợi ích của các công cụ phái sinh và sử
dụng rộng rãi các nghiệp vụ này như một công cụ để hạn chế rủi ro trong hoạt động
86
kinh doanh do biến động của thị trường, BCEC cần đẩy mạnh quảng cáo, giới thiệu,
tư vấn, đào tạo các nghiệp vụ phái sinh cho khách hàng thông qua các hội thảo, đào
tạo, bản tin thị trường và các bài viết hỏi đáp về sản phẩm/phóng sự giới thiệu sản
phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng.
3.2.2 Đào tạo nguồn nhân lực và các tác nhân ngành hàng:
Tại BCEC, giao dịch giao sau cà phê được đưa vào hoạt động từ tháng 3 năm
2011, đây là một phương thức giao dịch tương đối phức tạp, với bản chất là một thị
trường tài chính hàng hóa, cần có một hệ thống các quy định ràng buộc chặt chẽ
nhằm quản lý tốt và ngăn ngừa được các rủi ro đối với tất cả các bên từ đơn vị tổ
chức, vận hành hệ thống cho đến các doanh nghiệp, cá nhân tham gia. Chính vì vậy
cần liên tục đào tạo, hướng dẫn cho các thành phần tham gia cũng như công tác vận
hành, quản lý, giám sát giao dịch đối với đội ngũ cán bộ, nhân viên BCEC, bên
cạnh đó cần có sự chuẩn bị sẵn sàng cho việc phát triển hoạt động liên kết, hợp tác
vươn ra tầm khu vực và thế giới. Việc đào tạo sẽ được triển khai với nhiều hình
thức: đào tạo tập trung tại BCEC, đào tạo tại chỗ cho các thành viên; cử cán bộ đi
học; phối hợp liên kết với các tổ chức chuyên nghiệp, các chuyên gia về tài chính,
về sàn giao dịch…tổ chức các chương trình đào tạo theo mức độ phát triển của thị
trường…
3.2.3 Tăng thanh khoản thị trường và phát triển thành viên:
Chú trọng việc tìm kiếm và phát triển các nhà tạo lập thị trường. BCEC cần
tổ chức tập hợp một nhóm các thành viên kinh doanh là những nhà kinh doanh quy
mô lớn về cà phê nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản trên sàn.
Cần phát triển thêm thành viên môi giới. Qua thành viên môi giới, BCEC có
thể mở rộng mạng lưới hơn rất nhiều lần so với việc BCEC tự liên hệ trực tiếp với
các thành viên cũng như tìm kiếm thành viên tiềm năng. Hiệu quả các đợt tuyên
truyền và các hoạt động tiếp thị tăng lên nhiều khi có các nhà môi giới tham gia trực
tiếp các hoạt động này.
87
Với những hạn chế vốn có của người nông dân Việt Nam hiện nay như trình
độ dân trí thấp, khả năng tiếp cận thông tin thị trường còn nhiều khó khăn, quy mô
sản xuất manh mún, nhỏ lẻ... thì việc để nông dân cả nước trực tiếp tham gia giao
dịch giao sau là không thể.
Vì vậy, có thể học hỏi kinh nghiệm từ nghiên cứu của Sở giao dịch hàng hóa
của Ấn Độ (2008) được trình bày trong chương 1. Cần phải có cấu trúc có tổ chức
cho giao dịch giao sau với sự độc lập trong việc cung cấp cho từng thành viên tham
gia quyền quyết định tương ứng với phần tham gia của họ trong mỗi giao dịch. Việc
ra quyết định giao dịch cần phải được thực hiện bởi chính cá nhân tham gia thị
trường hoặc người đại diện được thành viên tham gia thị trường chỉ định. Cấu trúc
có tổ chức có dạng hình kim tự tháp đảm bảo thành viên đều nhận được nguồn
thông tin đáng tin cậy và đúng lúc. Tầng đỉnh (tầng thứ ba) là một nhóm quản lý
cấp cao, tầng thứ hai là nhóm những đại diện từ nông dân, tầng thứ nhất là nông
dân-người tham gia giao dịch giao sau. Nhóm quản lý cấp cao phải là những người
tri thức, nhạy bén trong việc tiếp thu thông tin và kiến thức mới, có thể đánh giá
thường xuyên diễn biến và tiến trình của các hoạt động và có thể đưa ra những biện
pháp điều chỉnh khi cần thiết. Nhóm quản lý này thực hiện các liên kết với các nhà
môi giới, các nhà phân tích thị trường cà phê, các định chế tài chính sẵn sàng hỗ trợ
vốn cho nông dân…Tầng thứ ba truyền thông tin đến tầng thứ hai, tầng thứ hai cung
cấp thông tin cho tầng thứ nhất để tầng thứ nhất quyết định thực hiện giao dịch giao
sau nhằm bảo hộ rủi ro. Các đại diện ở tầng thứ hai đảm bảo dòng chảy thông tin thị
trường từ tầng thứ ba và nhận phản hồi thông tin quyết định giao dịch từ tầng thứ
nhất. Các đại diện ở tầng thứ hai và tầng thứ ba hợp tác giám sát, đánh giá và điều
chỉnh nhằm đem lại hiệu quả cho giao dịch giao sau. Việc hình thành một cấu trúc
có tổ chức như trên giúp nâng cao hiệu quả của giao dịch giao sau nhằm bảo hộ rủi
ro đồng thời cũng giúp giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến việc cung cấp dịch vụ
cho một lượng lớn người dân ở vùng nông thôn; cung cấp những phương tiện cho
việc đàm phán tập thể về tín dụng; những nguồn cung đầu vào và phân phối những
giá trị thặng dư thích hợp cho thị trường; thu thập và chia sẻ thông tin... Nếu thiết
88
lập thành công cấu trúc có tổ chức đem lại nhiều lợi ích cho nông dân thì việc thu
hút nhiều nông dân tham gia giao dịch giao sau sẽ dễ dàng hơn. Có như vậy, sàn
giao dịch mới thu hút nhiều thanh viên tham gia làm tăng thanh khoản thị trường.
3.2.4 Đa dạng các tiêu chuẩn, phẩm cấp trong giao dịch giao ngay:
Phần lớn lượng giao dịch cà phê giao ngay trên thị trường truyền thống của
Việt Nam là cà phê chưa qua chế biến. Đây là sản phẩm mà nông dân và những
người thu mua có sẵn và muốn bán, và những công ty chế biến, các nhà xuất khẩu
muốn mua. Vì vậy, giao dịch giao ngay cà phê chưa qua chế biến là một hướng đi
BCEC cần nghiên cứu.
Cho phép giao dịch giao ngay cà phê chưa qua chế biến vừa khắc phục tình
trạng khan hiếm giao dịch trên thị trường hàng thực của BCEC và một thị trường
hàng thực sôi động là cơ sở để hoạt động giao dịch giao sau do BCEC tổ chức phát
triển và nâng cao khả năng cạnh tranh của BCEC so với các Sở giao dịch hàng hóa
khác tại Việt Nam.
3.2.5 Thực hiện chuyển đổi mô hình:
Một trong những mục tiêu cụ thể của Đề án “Phát triển thương mại nông
thôn giai đoạn 2010-2015 và định hướng đến 2020” đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt tại quyết định 23/QĐ-TTg ngày 06/01/2010 là xây dựng tại Đắk Lắk một
Sở giao dịch cà phê. BCEC cần tập trung cho việc chuyển đổi mô hình từ Trung
tâm thành Sở giao dịch hàng hóa.
3.2.6 Tăng cường, phát triển các mối quan hệ hợp tác:
Hợp tác là một nguồn lực quan trọng trong quá trình phát triển BCEC. Mục
tiêu mong muốn đạt được là vừa mở rộng và đào sâu các mối quan hệ hợp tác để
đồng thời chia sẻ thị phần đầu tư để xây dựng BCEC thành công và cùng chia sẻ lợi
nhuận sao cho hợp lý.
Tăng cường mối quan hệ với các sàn giao dịch hàng hóa ở nước ngoài như
Sở giao dịch phái sinh Bursa Malaysia, Sở giao dịch hàng hóa Đại Liên, Sở giao
dịch hàng hóa Singapore, Sở giao dịch hàng hóa Chicago…thông qua việc trao đổi
89
ký kết ghi nhớ hợp tác nhằm trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ trong việc phát triển các
quy định, hệ thống giao dịch, phát triển công nghệ, kỹ thuật, nghiệp vụ, các khóa
tập huấn và thực tập…Hướng đến việc mở rộng thị trường, liên kết, liên thông các
thị trường thông qua các sàn giao dịch của khu vực và thế giới.
3.2.7 Thường xuyên cập nhật, thu thập, nắm bắt thông tin từ nhiều nguồn:
BCEC cần có sự theo dõi, khảo sát thăm dò thị trường, thu thập các thông tin
phản hồi từ phía người nông dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư…để tiến hành tổ chức
các cuộc hội thảo với sự tham gia của các cơ quan Bộ, ngành Trung ương, các hiệp
hội ngành hàng, chuyên gia trong nước và quốc tế, các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu nông sản, các tổ chức tài chính…nhằm xác định và hoàn chỉnh mô hình sàn
giao dịch, quy mô, phạm vi hoạt động cũng như định hướng phát triển hướng đến
tầm khu vực và thế giới.
3.2.8 Mở rộng hệ thống kho, kiểm định và chức năng của chứng thư gửi kho:
Hệ thống chứng thư lưu kho mang tính linh hoạt - các chủ thể trên thị trường
có thể gửi và bán cà phê trên sàn hoặc rút cà phê của mình để bán ở những nơi khác
vào bất kỳ lúc nào, đồng thời đem lại cho các chủ thể trên thị trường một nơi lưu ký
cà phê vô thời hạn mà không sợ bị mất hoặc suy giảm chất lượng.
Phát triển mạng lưới nhà kho so với một nhà kho tập trung duy nhất sẽ giảm
chi phí vận tải. Một khi mạng lưới của nhà kho phân bổ ở các khu vực địa lý khác
nhau, người bán hàng có thể chọn lựa giao cà phê của mình tại nhà kho gần nhất và
thuận tiện nhất, và người mua có thể chọn lựa để nhận cà phê của mình tại nhà kho
gần nhất hoặc thuận tiện nhất. Khi đã xây dựng được một mạng lưới giữa các nhà
kho thì chi phí gửi hay rút cà phê tại bất kỳ kho hàng nào trong mạng lưới sẽ là
không đáng kể với các chủ thể tham gia thị trường.
Tiếp tục làm việc với một số ngân hàng và các tổ chức tài chính khác để
chấp nhận chứng thư lưu kho của BCEC làm giấy tờ thế chấp mà nông dân có thể
sử dụng để tiếp cận với nguồn tín dụng mà họ rất cần với tỷ lệ lãi suất hợp lý.
90
3.2.9 Tập trung phát triển song song hoạt động giao dịch cà phê giao ngay và
giao sau:
Giao dịch giao sau phát triển cho phép các dòng vốn đầu tư tham gia, tạo tính
thanh khoản, tạo mức giá tham chiếu cho hoạt động mua bán giao ngay; cung cấp
các dịch vụ tài chính, dịch vụ bảo hiểm hàng hóa; thu hút nguồn hàng cung ứng cho
kinh doanh, xuất khẩu đối với các hợp đồng đến hạn giao hàng…giúp thị trường
giao ngay phát triển. Ngược lại, khi thị trường giao ngay có sự tập trung, tạo được
nguồn cung cho thị trường chế biến, xuất khẩu sẽ thu hút được các tổ chức, doanh
nghiệp có nhu cầu về hàng giao ngay tham gia tích cực để tìm kiếm nguồn hàng trên
sàn giao dịch. Từ đó, sàn giao dịch sẽ là nơi tạo thêm một kênh giao dịch, mua bán,
đầu tư song song thị trường truyền thống; sẽ dần trở thành thị trường tập trung đối
với các thành phần tham gia ngành hàng cà phê, nông sản; từng bước tạo mức giá
tham chiếu cho các hoạt động mua bán liên quan, kể cả xuất khẩu và hướng đến sẽ
trở thành thị trường định giá cho hàng hóa cà phê, nông sản chủ lực do Việt Nam
sản xuất và xuất khẩu.
3.2.10 Đầu tư xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại:
Thị trường cà phê liên tục biến động do vậy BCEC cần hiện đại hóa đồng bộ
hệ thống công nghệ để thu thập, xử lý, phân tích thông tin nhanh chóng, chính xác
hiệu quả.
Việc đầu tư xây dựng hệ thống công nghệ thông tin và truyền thông làm gia
tăng chi phí đầu tư ban đầu xong lại giảm được chi phí vận hành, quan trọng là nâng
cao khả năng quản lý, tăng khả năng ngăn ngừa và quản lý rủi ro trong đó đặc biệt
là các rủi ro liên quan đến tín dụng và hỗ trợ kiểm soát rủi ro biến động giá trên cơ
sở kiểm soát được sản lượng sản xuất, lưu kho…tức thời đồng thời có khả năng kết
nối, liên thông với các sàn giao dịch hàng hóa khác trong khu vực và thế giới.
Trên cơ sở thông tin được số hóa trong hệ thống quản lý kho bãi và giao dịch
điện tử giúp cho việc khai thác thông tin được nhanh chóng và thuận tiện theo cả
chiều quản lý vĩ mô cũng như theo nhu cầu của thị trường.
91
3.3 Các giải pháp của các đơn vị khác
3.3.1 Đối với các ngân hàng thương mại:
Giữa Sở Giao dịch hàng hóa và hệ thống ngân hàng thương mại có mối quan
hệ tương hỗ rất rõ: Sở Giao dịch hàng hóa ổn định minh bạch sẽ giúp cho hệ thống
ngân hàng thương mại đa dạng hóa sản phẩm và kinh doanh hiệu quả, an toàn; đồng
thời, khi hệ thống ngân hàng thương mại phát triển, sẽ củng cố cho Sở Giao dịch
hàng hóa đảm bảo an toàn hệ thống, tăng trưởng mạnh về quy mô. Ngân hàng
thương mại có thể đảm bảo cho sự tuần hoàn của hệ thống thanh toán Sở Giao dịch
hàng hóa bằng các nghiệp vụ: quản lý tài khoản nhà đầu tư, tài khoản ký quỹ, quản
lý tài sản ký quỹ của thành viên, nhà đầu tư; thực hiện thanh toán bù trừ cho các kết
quả giao dịch; theo dõi đánh giá trạng thái của nhà đầu tư, ngăn ngừa rủi ro thanh
toán; giám sát, đánh giá khả năng thực hiện hợp đồng, ngăn ngừa rủi ro do vi phạm
hợp đồng...
Đặc biệt, ngân hàng tài trợ tín dụng cho nhà đầu tư mua bán qua Sở Giao
dịch hàng hóa, tài trợ tín dụng cho hàng hóa lưu ký tại Sở Giao dịch hàng hóa.
Vì vậy, các ngân hàng thương mại cổ phần có nguồn tài chính mạnh cần
quan tâm nhiều đến thị trường phái sinh hàng hóa. Đồng thời, đào tạo nguồn nhân
lực của các ngân hàng đáp ứng được yêu cầu thị trường phái sinh hàng hóa và nâng
cao khả năng quản trị rủi ro. Bên cạnh đó, xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin
hiện đại và đồng bộ giữa các ngân hàng.
3.3.2 Đối với các nhà môi giới:
Các công ty môi giới tham gia giao dịch giao sau với vai trò là người hướng
dẫn, tư vấn cho các nhà đầu tư khác tham gia thị trường. Vì vậy, để làm tốt vai trò
của mình, các nhà môi giới cần phải đảm bảo nâng cao năng lực tài chính, xây dựng
được đội ngũ nhân viên am hiểu nghiệp vụ để tư vấn cho khách hàng. Cần trang bị
hệ thống cơ sở vật chất đảm bảo cho việc giao dịch kết nối với sàn giao dịch trong
nước và quốc tế.
92
3.3.3 Đối với các doanh nghiệp:
Doanh nghiệp cần có chính sách thu mua và tạm trữ hợp lý để tránh việc phải
bán với mức giá thấp để tránh lỗ và khi có thể tăng giá thì lại hết hàng. Các doanh
nghiệp cần đầu tư công nghệ chế biến tiên tiến, loại bỏ các tạp chất, rang, xay cà
phê. Các doanh nghiệp phải liên kết với nhau thành lập Quỹ cà phê, Ban điều hành
việc phát triển cà phê. Là nước xuất khẩu đứng thứ hai trên thế giới song chúng ta
lại chưa thể chi phối thị trường thế giới mà còn bị các nhà đầu tư nước ngoài chi
phối. Các doanh nghiệp Việt Nam thường hoạt động nhỏ lẻ, thiếu đồng bộ và nguồn
vốn hạn chế, không cạnh tranh được các doanh nghiệp nước ngoài. Việc cà phê Viêt
Nam chưa thể điều khiển được thị trường có thể do nhiều nguyên nhân, song nếu
các doanh nghiệp nội có tiềm năng, đủ sức, dám tận dụng cơ hội cũng như dám liều,
tiến hành liên kết tạo ra một “bó đũa” khổng lồ, cùng nhau hợp tác, áp dụng chính
sách hợp lý, quảng bá rộng rãi thì tương lai về sự phát triển thương hiệu cà phê Viêt
Nam là không xa. Tìm hiểu mở rộng thị trường và những đối thủ cạnh tranh trực
tiếp cũng như đối thủ tiềm tàng- những nhân tố ảnh hưỏng trực tiếp và gián tiếp về
lâu về dài của hoạt động xuất khẩu, kinh doanh cà phê của Việt Nam.
Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam chưa thật sự nắm vững về bản chất của
việc phòng ngừa rủi ro, dẫn đến tình trạng tham gia thị trường với mục đích đầu cơ,
coi giao dịch giao sau như là một chiếu bạc, và dễ dẫn đến thua lỗ. Do đó các đơn vị
chỉ nên tham gia giao dịch giao sau với mục đích thiết thực là bảo vệ rủi ro biến
động của giá hàng hóa. Các doanh nghiệp cần phải hiểu tầm quan trọng của việc
quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình. Trên cơ sở nhận thức đó,
doanh nghiệp cần phải tạo ra đội ngũ cán bộ có trình độ, có kiến thức, kỹ năng phân
tích và dự báo tốt để từ đó họ giúp doanh nghiệp nhận diện, kiểm soát và phòng
ngừa tốt rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
3.3.4 Đối với nông dân:
Người nông dân chưa có nhận thức được tầm quan trọng và lợi ích của công
cụ giảm thiểu rủi ro trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt để từ đó thay
93
đổi thói quen, tập quán kinh doanh còn chứa nhiều rủi ro. Vì vậy, người nông dân
cần phải học hỏi, tích cực tìm hiểu giao dịch giao sau. Bên cạnh đó, người nông dân
phải chú ý đến chất lượng cà phê. Chế biến là khâu quyết định tới chất lượng cà
phê. Sau khi thu hoạch, người nông dân cần có có kỹ thuật sơ chế, rang sấy để đảm
bảo cà phê không bị hỏng, mốc làm giảm chất lượng, có chọn lọc, phân loại cà phê,
loại bỏ các hạt kém chất lượng. Bởi vì, một thị trường muốn phát triển mạnh thì đòi
hỏi chất lượng phải thật tốt, nhằm nâng cao thương hiệu cà phê Việt nam trên thế
giới. Đảm bảo chất lượng cà phê để giúp cho sàn giao dịch cà phê của Việt Nam có
thể kết nối đươc với các sàn giao dịch cà phê khác trên thế giới.
Ngoài ra khi tham gia giao dịch để bảo hiểm rủi ro cho hàng thực của mình.
Các nông dân cũng cần phải tính toán, dự báo chính xác sản lượng sắp tới của mình
để mua hoặc bán số lượng hợp đồng giao sau phù hợp, tránh rủi ro về số lượng.
3.4 Một số kiến nghị với Chính phủ, các cơ quan Bộ, ngành Trung ương, Ngân
hàng Nhà nước:
Một là, sớm ban hành bổ sung các quy định về làm rõ chức năng, quyền hạn,
trách nhiệm của các bên tham gia giao dịch giao sau, tác giả kiến nghị nên tổ chức
theo mô hình, tập quán quốc tế: tách biệt Trung tâm thanh toán bù trừ ra khỏi Sở
giao dịch, các thành viên tham gia phải góp quỹ để đảm bảo quỹ thanh toán đủ lớn
cho các giao dịch giao sau. Việc áp dụng mô hình quốc tế sẽ không dập khuôn, có
tính tới điều kiện kinh tế của Việt Nam: như xây dựng lộ trình, điều kiện cụ thể sẽ
phải đáp ứng của các Trung tâm thanh toán bù trừ, các thành viên… tương ứng với
quy mô phát triển của thị trường.
Hai là, quản lý tách biệt tài khoản của khách hàng với tài khoản của công ty
môi giới, giao hệ thống ngân hàng quản lý. Việc quản lý tách biệt và giám sát bởi
bên thứ ba (ngân hàng) sẽ đảm bảo không xung đột lợi ích của thành viên và khách
hàng, các thông tin về thành viên, khách hàng sẽ được minh bạch đáp ứng yêu cầu
về quản lý của Sở giao dịch và các cơ quan quản lý nhà nước.
94
Ba là, xây dựng cơ chế giám sát và quản trị rủi ro, xây dựng quỹ đảm bảo
thanh toán cho các Sở giao dịch để đảm bảo thanh khoản thanh toán cho giao dịch
giao sau.
Bốn là, xây dựng các tiêu chí, điều kiện thành lập Trung tâm thanh toán bù
trừ, và việc thành lập công ty môi giới giao dịch giao sau: điều kiện tài chính, vốn,
năng lực quản lý, nhân sự, hạ tầng công nghệ… đặc biệt là cụ thể hóa các yêu cầu
về báo cáo, giám sát việc thực hiện của các đối tượng này để đảm bảo việc giám sát
và ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra.
Năm là, cho phép các ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán, các
định chế tài chính được tham gia hoạt động này vì: khả năng tài chính tốt, kinh
nghiệm quản lý tốt, cơ sở hạ tầng tốt…. dễ dàng đáp ứng các điều kiện về quản lý
và đủ sức tạo lòng tin với các nhà đầu tư.
Sáu là, quan tâm đến hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán, tín dụng cho
người mua, người bán trên Sở giao dịch. Mối quan hệ giữa Sở giao dịch và hệ thống
ngân hàng khi đã có tính liên kết chặt chẽ, sẽ tạo nên nguồn cung ứng tín dụng cho
người bán, người mua thông qua tài sản thế chấp (hàng hóa ký gửi-chứng thư gửi
kho) hoặc hợp đồng khớp lệnh thành công trên Sở giao dịch. Điều này góp phần tạo
nên sức hút cho các đối tượng sản xuất, kinh doanh hàng cà phê tham gia giao dịch
qua Sở; và ngược lại, hệ thống ngân hàng hoàn toàn được bảo đảm khả năng trả nợ
của người bán, người mua thông qua Sở giao dịch.
Bảy là, liên kết, tích hợp trực tuyến hệ thống quản lý kho bãi, hệ thống giao
dịch điện tử và hệ thống quản lý của các định chế tài chính nhằm thiết lập cơ sở hạ
tầng hoàn chỉnh triển khai các tiện ích cho nông dân tiêu thụ sản phẩm.
Tám là, nghiên cứu, xây dựng và ban hành các cơ chế cho phép một số sàn
giao dịch nước ngoài tham gia là cổ đông chiến lược nhằm tăng khả năng cạnh
tranh; đa dạng hóa các hoạt động; tiếp cận với các phương pháp quản lý, vận hành,
công nghệ hiện đại; tăng khả năng ngăn ngừa và quản lý rủi ro; hướng đến việc hình
thành liên kết thị trường khu vực và thế giới;…
95
Chín là, cần có sự chỉ đạo tập trung từ các Bộ, ngành liên quan trong việc
triển khai xây dựng các chính sách, quy định trong việc quản lý và điều hành hoạt
động giao dịch giao sau cà phê, đặc biệt cần chú trọng đến xu thế liên kết, hợp tác
của các thị trường, các sàn giao dịch để hình thành thị trường khu vực, thị trường
liên thông quốc tế,…ngay từ bây giờ (các chính sách, quy định về thuế, thủ tục hải
quan, kho ngoại quan, thanh lý hợp đồng bằng việc giao hàng tại các cảng biển,
quản lý ký quỹ, thanh lý hợp đồng bằng tiền,…)
Mười là, chỉ đạo, định hướng cho các cơ quan chức năng nghiên cứu, triển
khai xây dựng quy hoạch việc phát triển, hình thành các tổ chức có quy mô, có uy
tín để thực hiện các dịch vụ, nghiệp vụ liên quan đến hoạt động giao sau cà phê, sẵn
sàng thực hiện các nghiệp vụ không chỉ đối với các giao dịch tại các sàn trong nước
mà còn có khả năng cung ứng, thực hiện các dịch vụ, nghiệp vụ đối với các giao
dịch được thực hiện trên các sàn giao dịch cà phê của khu vực và thế giới như: trung
tâm quản lý ký quỹ và thanh toán bù trừ; các tổ chức, tập đoàn cung ứng dịch vụ
logistic, giao nhận hàng hóa, kho ngoại quan, dịch vụ vận tải, cảng biển,…ở tầm
quốc tế.
Cuối cùng là, cần có quy hoạch tổng thể phát triển giao dịch giao sau cà phê,
trong đó có nghiên cứu điều kiện thực tiễn của Việt Nam, có sự đầu tư phù hợp về
con người, về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghệ và xác định lộ trình cụ thể, xác
định các giai đoạn phát triển giao dịch giao sau cà phê, các điều kiện cần thiết cho
phép các dòng vốn từ bên ngoài tham gia đầu tư vào giao dịch giao sau cà phê trong
nước và ngược lại; môi trường pháp lý, các điều kiện cần thiết khác để có thể kết
nối, liên thông với các sàn giao dịch cà phê trong khu vực và thế giới; tạo thị trường
cho xuất khẩu, tiêu thụ, giao dịch giao sau cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước;
nhưng đồng thời cũng phải củng cố được vị thế của cà phê; hướng đến việc trở
thành thị trường định giá, tạo mức giá chuẩn cho cà phê của Việt Nam.
96
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Với thực trạng giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam như đã đề cập ở
chương 2, tác giả đã đề ra các giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển giao dịch giao
sau cà phê trong chương 3. Giải pháp được chia làm 3 nhóm chính, đó là: các giải
pháp từ phía Nhà nước; các giải pháp từ phía BCEC và các giải pháp từ các đơn vị
khác.
Về phía Nhà nước, cần hoàn thiện hệ thống hành lang pháp lý cho hoạt động
giao dịch giao sau cà phê thông qua Sở giao dịch hàng hóa, xây dựng bộ máy quản
lý hoạt động của các Sở giao dịch hàng hóa, hỗ trợ phát triển thị trường cà phê giao
ngay và đặc biệt cần hỗ trợ tuyên truyền, quảng cáo, đào tạo về hoạt động giao dịch
giao sau cà phê cho các nhà đầu tư và xã hội.
Về phía BCEC, cần đào tạo nguồn nhân lực và các tác nhân ngành hàng;
tăng thanh khoản thị trường và phát triển thành viên; đa dạng các tiêu chuẩn, phẩm
cấp trong giao dịch giao ngay; mở rộng hệ thống kho, kiểm định và chức năng của
chứng thư gửi kho đồng thời đầu tư xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện
đại.
Việc phát triển giao dịch giao sau cà phê ở Việt Nam cũng cần sự hỗ trợ và
nỗ lực của các đơn vị khác như các ngân hàng thương mại, các nhà môi giới, các
nông dân và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê.
Tóm lại, việc phát triển giao dịch giao sau cà phê cần sự nỗ lực, sự hưởng
ứng và sự kết hợp chặt chẽ lâu dài từ phía Chính phủ, toàn thể các Bộ ban ngành,
các Sở giao dịch và các bên tham gia thị trường cũng như thay đổi thói quen giao
dịch của hộ nông dân, các doanh nghiệp và nhà đầu tư tài chính.
97
KẾT LUẬN
Luận văn “Phát triển giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam” đã trình bày
được những lợi ích cũng như rủi ro của giao dịch giao sau đối với những người
tham gia thị trường. Một số nghiên cứu thực nghiệm về giao dịch giao sau trên thế
giới và ở Việt Nam cũng được tác giả hệ thống hóa trong luận văn.
Ngành cà phê Việt Nam hiện nay vẫn chưa thiết lập được hệ thống chế biến,
tiêu thụ, xuất khẩu mang tính chuyên nghiệp nên việc tiêu thụ và xuất khẩu hoàn
toàn bị động. Mối liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu và người
trồng cà phê còn lỏng lẻo. Các nhà sản xuất kinh doanh cà phê không tiên liệu được
chính xác nhu cầu của thị trường và chiều hướng biến động giá do đó không định
hướng được sản xuất. Thêm vào đó, thói quen tập quán kinh doanh cà phê nhiều rủi
ro. Chính những yếu tố trên đã kiềm hãm sự phát triển của ngành cà phê Việt Nam
vươn lên vị trí cao trên thế giới. Các giao dịch giao sau cà phê ở Việt Nam hiện nay
chưa sôi động và phổ biến, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa biết cách sử dụng
hợp đồng giao sau trong việc bảo hộ giá hàng hóa.
Tác giả đã phân tích một số nguyên nhân làm cho giao dịch giao sau cà phê
tại Việt Nam chưa phát triển cũng như hoạt động của BCEC chưa hiệu quả. Đó là
do thiếu các quy định pháp lý chi tiết về thị trường phái sinh hàng hóa, trình độ kiến
thức, kỹ năng, kinh nghiệm của các chủ thể tham gia giao dịch giao sau cà phê còn
hạn chế, cơ sở hạ tầng kỹ thuật công nghệ chưa hoàn chỉnh…
Do đó, tác giả đã đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển giao
dịch giao sau cà phê. Đó phải là sự nỗ lực, sự hưởng ứng, và sự kết hợp chặt chẽ,
lâu dài của Chính phủ, toàn thể các Bộ ban ngành, các Sở giao dịch và các bên tham
gia thị trường cũng như thay đổi tập quán, thói quen giao dịch của hộ nông dân, các
doanh nghiệp và nhà đầu tư tài chính.
Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo:
- Các thông tin về giao dịch giao sau cà phê ở Việt Nam chưa được
thống kê một cách đầy đủ và có hệ thống mặc dù tác giả đã cố gắng thu thập số liệu
từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau.
98
- Hoạt động giao dịch giao sau cà phê chỉ vừa mới được triển khai tại
Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam và Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột
trong thời gian gần đây, do đó khoảng thời gian nghiên cứu ngắn và không có nhiều
dữ liệu để có thể ứng dụng các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới vào Việt Nam.
- Do khoảng cách về địa lý cũng như thời gian có giới hạn nên quá trình
khảo sát diễn ra trong thời gian ngắn, tác giả chỉ thu thập được mẫu khảo sát ít hơn
so với kỳ vọng.
- Do giới hạn về mặt nhận thức và thời gian, tác giả chưa nghiên cứu
sâu thực trạng và thực hiện các nghiên cứu định lượng khác về giao dịch giao sau cà
phê tại Việt Nam.
Những hạn chế trên đây nên được khắc phục tốt và mở rộng trong các nghiên
cứu tiếp theo.
99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Quang Bình (2011), “Xuất khẩu cà phê: Bán giá chốt trước hay chốt
sau?”
ca-phe-Ban-gia-chot-truoc-hay-chot-sau?.html> 2. Bộ Công thương (2009), Thông tư 03/2009/TT-BTC ngày 10/02/2009 về việc hướng dẫn hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp giấy phép thành lập và quy định chế độ báo cáo của Sở giao dịch hàng hóa theo quy định tại Nghị định số 158/2006/NĐ-CP 3. Chính phủ (2006), Nghị định số 158/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 về việc quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa 4. Công ty Cổ phần Cà phê PETEC (2009), Báo cáo tài chính đã kiểm toán năm 2009 d=3182&p_ac=3&p_newsid=30112> 5. Công ty Cổ phần Chứng khoán SME (2011), Báo cáo phân tích ngành cà phê 6. Công ty Cổ phần Phân tích và Dự báo thị trường Việt Nam – AGROMONITOR (2010), Báo cáo thường niên ngành cà phê Việt Nam 2009 và triển vọng 2010. 7. Công ty Cổ phần Tập đoàn Thái Hòa Việt Nam (2010), Báo cáo tài chính đã kiểm toán năm 2010 của công ty mẹ. menuid=103140&menulink=600000&what=1> 8. Công ty Cổ phần Tập đoàn Thái Hòa Việt Nam, Bản cáo bạch Công ty Cổ phần Tập đoàn Thái Hòa Việt Nam. 100 =1101> 9. Phạm Nguyễn Hoàng (2011), Điều kiện hình thành và phát triển thị trường tương lai tại Việt Nam. 20phat%20trien%20thi%20truong%20tuong%20lai%20tai%20Viet%20Nam.pdf> 10. Kinh Kha (2011), “Cơ chế hoạt động của BCEC: “Chiếc áo” quá chật?” 11. Lê@ (2011), “Câu chuyện ký gửi cà phê” 12. Nguyễn Dương Diễm Linh (2010), Xây dựng thị trường giao sau nhằm phòng ngừa rủi ro biến động giá cà phê tại Việt Nam, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. 13. Trần Ngọc Linh (2009), Phát triển thị trường giao sau cà phê Việt Nam, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. 14. Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (2011), Phát triển thị trường phái sinh hàng hóa Việt Nam thuận lợi, khó khăn và định hướng phát triển. 15. Hồng Ngọc – Viết Vinh (2010), “Câu chuyện “trừ lùi” trong xuất khẩu cà phê” chuyen-%E2%80%9Ctru-lui%E2%80%9D-trong-xuat-khau-ca-phe.html> 16. Lê Hoàng Nhi (2011), “Rủi ro về giá trong kinh doanh cà phê”. 17. Lê Hoàng Nhi (2011), “Sàn hàng hóa ở Việt Nam: Chợ hay chiếu bạc?” hang-hoa-o-Viet-Nam-Cho-hay-chieu-bac?.html> 18. Quốc hội (2005), Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14/6/2005 về việc quy định hoạt động thương mại. 101 mi-s-362005qh11.html> 19. Anh Thư (2011), “Bao giờ nông dân bán nông sản qua sàn giao dịch?” nong-dan-ban-nong-san-qua-san-giao-dich?.html> 20. Bảo Trung (2009), Phát triển thể chế giao dịch nông sản ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. 21. Phùng Tuấn (2011), “Phát triển thị trường phái sinh hàng hóa: Cần có sự ưu đãi về thuế” idung/ViewArticleDetail/tabid/56/Key/ViewArticleContent/ArticleId/5701/Default. aspx> 22. UBND tỉnh Đắk Lắk (2006), Quyết định 2278/QĐ-UBND ngày 04/12/2006 của UBND tỉnh Đắk Lắk về việc phê duyệt Đề án kỹ thuật tổ chức hoạt động của Trung tâm Giao dịch Cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC) 23. Trương Thị Mỹ Vân (2010), Xây dựng sàn giao dịch giao sau tài chính tại Việt Nam, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. 24. Hồng Văn (2011), “Ký gửi cà phê: Lợi ích nhiều hơn rủi ro” 25. Hồng Văn (2010), “Nhiều doanh nghiệp nông sản giao dịch trên sàn quốc tế” 26. Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn, Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp (2007), Hồ sơ ngành hàng Cà phê Việt Nam. g_ca_phe.pdf> 27. Bùi Thị Yến (2008), Các giải pháp tài chính để phát triển thị trường giao sau cà phê tại Việt Nam, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. 102 Tiếng Anh 1. Euna Shim (2006), Success factors of agricultural futures markets in developing countries and their implication on existing and new local exchanges in developing countries. TuftsPDF/getPDF> 2. Gideon Onumah (2009), Promoting Agricultural Commodity Exchanges in Ghana and Nigeria: A Review Report. OMEX_Report_Onumah_en.PDF> 3. Golaka C Nath and Thulasamma Lingareddy (2008), Commodity Derivative Market and its Impact on Spot Market. 4. K.G. Sahadevan, Ph.D (2003), Risk management in agricultural commodity markets: a study of some selected commodity futures. 5. Multi Commodity Exchange of India Ltd (2008), Enabling farmers to leverage Commodity Exchanges. XReport12Aug08.pdf> 6. Peter Hazell (2000), Could futures markets help growers better manage coffee price risks in Costa Rica? 7. Rajesh Chakrabarti (2004), Commodity Futures in India. 8. UNCTAD (2009), Report of the UNCTAD Study Group on Emerging Commodity Exchanges: “Development Impacts of Commodity Exchanges” Các trang web 103 Http://www.bcec.vn http://giacaphe.com/ Http://www.ico.org Http://www.vicofa.org.vn http://vnx.com.vn/ 104 PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1: BẢN CÂU HỎI PHỎNG VẤN M1: Xin Anh/chị cho biết anh/chị đã từng nghe tới sàn giao dịch cà phê bao giờ
chưa? Đã từng nghe
Chưa từng nghe 1
2 Tiếp tục M2
Ngưng phỏng vấn M2: Anh/chị có biết các sàn giao dịch sau đây không?( Tiếp tục M3) Hiểu biết Biết vừa Rất am
hiểu phải Có biết
sơ Hoàn toàn
không biết Sàn giao dịch New York
(NYBOT)
Sàn giao dịch Luân Đôn
(LIFFE )
Sàn giao dịch Brazil
Sàn giao dịch Singapore
(SICOM)
Sàn giao dịch Tokyo
Trung tâm giao dịch
Buôn Ma Thuột( BCEC) M3: Xin cho biết bản thân Anh/chị hay gia đình Anh/chị có đang tham gia vào sàn
giao dịch cà phê không? Có đang tham gia
Không tham gia 1
2 Chuyển tiếp M4
Chuyển tiếp M8 M4: Xin cho biết Anh/chị có tham gia vào các sàn giao dịch sau đây không và đã
được bao lâu rồi? (Tiếp tục M5) Trên 3
năm Từ 2 -3
năm Từ 1 -2
năm Dưới 1
năm Không giao
dịch Sàn giao dịch New York
(NYBOT)
Sàn giao dịch Luân Đôn
(LIFFE )
Sàn giao dịch Brazil
Sàn giao dịch Singapore
(SICOM)
Sàn giao dịch Tokyo
Trung tâm giao dịch
Buôn Ma Thuột( BCEC) 105 M5: Xin cho biết Anh/chị có thường xuyên giao dịch tại các sàn giao dịch sau đây
không? Mức độ thường xuyên? (Tiếp tục M6) Giao
dịch ít Không giao
dịch Giao dịch
rất thường
xuyên Giao dịch
thường
xuyên Giao
dịch rất
ít Sàn giao dịch New York
(NYBOT)
Sàn giao dịch Luân Đôn
(LIFFE )
Sàn giao dịch Brazil
Sàn giao dịch Singapore
(SICOM)
Sàn giao dịch Tokyo
Trung tâm giao dịch
Buôn Ma Thuột( BCEC) M6: Anh/chị cho biết mức độ hài lòng của Anh/chị khi tham gia vào BCEC? (Tiếp
tục M7) Mức độ hài lòng Yếu tố Rất hài
lòng Hài
lòng Bình
thường Không
hài lòng Rất Không
hài lòng Các hoạt động giao dịch
và thanh toán được quản
lý chặt chẽ
Hoạt động theo nguyên
tắc thành viên
Hoạt động giao dịch
được đấu giá tập trung
công khai
Quản lý rủi ro về giá
Chất lượng hàng hóa
Dịch vụ môi giới, tư vấn
Dịch vụ ký gửi, chế
biến, bảo quản hàng hóa
Dịch vụ hỗ trợ tín dụng
Thủ tục, phương thức,
địa điểm giao/nhận hàng
Các loại phí: phí thành
viên, phí giao dịch, phí
kiểm định… M7: Anh/chị cho biết lý do nào tác động tới quyết định tham gia vào BCEC? (Tiếp
tục M9) 106 Tác động
nhiều Tác động
vừa phải Tác
động rất
nhiều Có tác
động
nhưng ít Hoàn toàn
không tác
động Tiếp cận thông tin giá cả
và thị trường cà phê trong
nước và thế giới
Thông tin nhanh chóng,
chính xác
Cung cấp giá cả công khai
Mua bán dễ dàng qua
Internet
An tâm về chất lượng
hàng hóa và khả năng
thanh toán
Hỗ trợ vốn kinh doanh
cho khách hàng
Dịch vụ ký gửi, chế biến,
bảo quản hàng hóa
Không sợ bị đổ nợ như
khi ký gửi ở các đại lý
Điểm gặp gỡ, thiết lập
quan hệ giao dịch, tìm
kiếm đối tác
Trao đổi kinh nghiệm, tìm
hiểu nhu cầu
Khác (………………..) M8: Xin Anh/chị cho biết lý do nào dưới đây tác động đến việc anh/chị không
muốn tham gia vào BCEC? (Ngưng phỏng vấn) Tác động
vừa phải Tác
động rất
nhiều Có tác
động
nhưng ít Hoàn toàn
không tác
động Tác
động
nhiều Các loại phí: phí thành viên,
phí giao dịch, phí kiểm định..
Số lượng thành viên tham gia
không nhiều
Mức ký quỹ 15% giá trị hợp
đồng khi tham gia giao dịch
Không đủ điều kiện làm
thành viên của sàn
Thiếu phương tiện vận tải
Thiếu nhà kho tại các địa
điểm ở xa 107 Thủ tục rườm rà
Thiếu ưu đãi về giá
Dịch vụ ký gửi, chế biến, bảo
quản hàng hóa
Dịch vụ hỗ trợ tín dụng
BCEC chưa đem lại nhiều lợi
ích cho người tham gia giao
dịch
Chưa quen thuộc với phương
thức giao dịch giao sau, thị
trường giao sau
Khác (………………..) M9: Xin Anh/chị vui lòng cho biết mức độ đồng ý với những lợi ích sau đây mà
BCEC mang lại cho người tham gia? (Tiếp tục M10) Đồng ý Bình
thường Không
đồng ý Hoàn toàn
không đồng ý Hoàn
toàn đồng
ý Quản lý rủi ro về giá
Cung cầu được đảm bảo
thông qua hợp đồng
giao ngay và giao sau
Hàng hóa được kiểm
định chất lượng
Đấu giá tập trung, công
khai nên tránh được tình
trạng ép giá
Được hỗ trợ vốn với lãi
suất hợp lý
Dịch vụ ký gửi, chế
biến, bảo quản hàng hóa
Thủ tục giao hàng, nhận
hàng đơn giản, thuận
tiện tại hệ thống kho của
BCEC
Khác (………………..) M10: Anh/chị đã từng giới thiệu về BCEC cho người thân hay bạn bè mình chưa? Tiếp tục M11 Đã từng
Chưa từng 1
2 M11: Theo Anh/chị giải pháp phát triển BCEC là gì? (Tiếp tục M12) Hoàn toàn Đồng ý Bình Không Hoàn toàn 108 đồng ý thường đồng ý không đồng
ý Môi trường pháp lý chặt
chẽ
Hệ thống chứng nhận lưu
kho tin cậy
Trung tâm thông tin toàn
diện
Trang thiết bị cân đo và
phân cấp chủng loại hiện
đại
Hệ thống nhiều kho bãi
gần với vùng sản xuất
Đội ngũ tiếp thị
Nâng cao nhận thức và
trình độ hiểu biết về thị
trường giao sau
Đào tạo nguồn nhân lực,
cán bộ quản lý cho sàn
giao dịch
Nền tảng giao dịch thân
thiện với người sử dụng
được xây dựng với cảnh
báo chống gian lận và đầu
cơ quá mức
Hạ tầng kỹ thuật tốt có
khả năng kết nối với các
thị trường khác trong
nước và trên thế giới
Chính sách hỗ trợ của
Nhà nước
Khác (………………..) M12: Ý kiến khác: (Ngoài các nội dung nói trên, Anh/chị còn có ý kiến nào khác,
vui lòng ghi rõ dưới đây nhằm giúp phát triển sàn giao dịch cà phê tại Việt Nam) ………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………… PHẦN THÔNG TIN CÁ NHÂN D1: Xin Anh/chị cho biết trình độ học vấn của Anh/chị là? Tiểu học (cấp 1)
Trung học cơ sở (cấp 2)
Phổ thông trung học (cấp 3) 1
2
3 109 Tốt nghiệp cao đẳng
Đã tốt nghiệp đại học hoặc sau đại học
Từ chối trả lời 4
5
6 D2: Xin cho biết công việc hiện tại của anh/chị là gì? Cán bộ quản lý
Nhân viên văn phòng
Chủ doanh nghiệp
Nông dân
Sinh viên
Lao động tự do
Nghề khác(ghi cụ thể)…………………………... 1
2
3
4
5
6
7 110 PHỤ LỤC 2: KẾT QUẢ KHẢO SÁT Mức độ nhận biết các sàn giao dịch Mức độ
nhận biết
sàn giao
dịch New
York
(NYBOT) Mức độ
nhận
biết sàn
giao
dịch
Brazil Mức độ
nhận biết
sàn giao
dịch
Singapore
(SICOM) Mức độ
nhận
biết sàn
giao
dịch
Tokyo Mức độ
nhận
biết sàn
giao
dịch
Luân
Đôn
(LIFFE)
120
0
4.17
4.00
4
500 Mức độ
nhận biết
Trung
tâm giao
dịch
Buôn Ma
Thuột
(BCEC)
120
0
3.30
3.00
3
396 N Valid
Missing
Mean
Median
Mode
Sum 120
0
4.53
5.00
5
544 120
0
4.96
5.00
5
595 120
0
4.65
5.00
5
558 120
0
4.89
5.00
5
587 Frequency Percent Valid Percent Cumulative
Percent Valid có tham gia
không tham gia
Total 48
72
120 40.0
60.0
100.0 40.0
60.0
100.0 40.0
100.0 Số năm tham gia vào sàn giao dịch New York( NYBOT) Frequency Percent Valid Percent Cumulative
Percent từ 2-3 năm
từ 1-2 năm
không bao giờ
Total Valid
Missing System
Total 2
1
45
48
72
120 1.7
.8
37.5
40.0
60.0
100.0 4.2
2.1
93.8
100.0 4.2
6.3
100.0 Số năm tham gia vào sàn giao dịch Luân Đôn (LIFFE) Frequency Percent Valid
Percent Cumulative
Percent 111 trên 3 năm
từ 2-3 năm
từ 1-2 năm
không bao giờ
Total Valid
Missing System
Total 10
6
3
29
48
72
120 8.3
5.0
2.5
24.2
40.0
60.0
100.0 20.8
12.5
6.3
60.4
100.0 20.8
33.3
39.6
100.0 Số năm tham gia vào sàn giao dịch Brazil Frequency Percent Cumulative
Percent không bao giờ Valid
Missing System
Total 48
72
120 40.0
60.0
100.0 Valid
Percent
100.0 100.0 Số năm tham gia vào sàn giao dịch Singapore (SICOM) Frequency Percent Cumulative
Percent không bao giờ Valid
Percent
100.0 Valid
Missing System
Total 48
72
120 40.0
60.0
100.0 100.0 Số năm tham gia vào sàn giao dịch Tokyo Frequency Percent Cumulative
Percent không bao giờ Valid
Missing System
Total 48
72
120 40.0
60.0
100.0 Valid
Percent
100.0 100.0 Số năm tham gia vào Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC) Frequency Percent Cumulative
Percent trên 3 năm
từ 2-3 năm
từ 1-2 năm
dưới 1 năm
Total Valid
Missing System Valid
Percent
29.2
41.7
27.1
2.1
100.0 11.7
16.7
10.8
.8
40.0
60.0 14
20
13
1
48
72 29.2
70.8
97.9
100.0 112 Total 120 100.0 Mức độ thường xuyên giao dịch tại các sàn giao dịch Mức độ
thường
xuyên
giao dịch
tại sàn
Brazil Mức độ
thường
xuyên giao
dịch tại sàn
Singapore
(SICOM) Mức độ
thường
xuyên
giao dịch
tại sàn
New York
(NYBOT) Mức độ
thường
xuyên
giao
dịch tại
sàn
Tokyo 48
72
5.00 Mức độ
thường
xuyên
giao dịch
tại sàn
Luân
Đôn
(LIFFE)
48
72
4.46 48
72
5.00 48
72
5.00 48
72
5.00 Mức độ
thường
xuyên
giao dịch
tại sàn
Buôn Ma
Thuột
(BCEC)
48
72
3.79 .000 .967 .000 .000 .000 .582 5
5 2
5 5
5 5
5 5
5 N Valid
Missing
Mean
Std.
Deviation
Minimum
Maximum 1
4 N Min Max Mean Std.
Deviation 48 2 5 3.50 .945 Các hoạt động giao dịch và thanh toán
được quản lý chặt chẽ Hoạt động theo nguyên tắc thành viên 48 2 5 3.13 .489 48 2 5 2.83 .559 Hoạt động giao dịch được đấu giá tập
trung công khai Quản lý rủi ro về giá 48 1 5 2.56 .873 48 2 5 2.25 .636 Chất lượng hàng hóa
Dịch vụ môi giới, tư vấn 48 2 5 3.29 .849 48 2 5 3.77 1.096 Dịch vụ ký gửi, chế biến, bảo quản hàng
hóa Dịch vụ hỗ trợ tín dụng 48 3 5 4.65 .565 48 2 5 3.92 1.007 Thủ tục, phương thức, địa điểm giao
nhận hàng 113 48 2 5 4.13 .866 Các loại phí: phí thành viên, phí giao
dịch, phí kiểm định… 48 Valid N Lý do tác động tới quyết định tham gia vào sàn BCEC N Min Max Mean Std.
Deviation 48 1.031 2.29 5 1 Tiếp cận thông tin giá cả và thị trường cà
phê trong nước và thế giới
Thông tin nhanh chóng chính xác 48 1.254 3.04 5 1 Cung cấp giá cả công khai 48 1.084 2.63 5 1 Mua bán dễ dàng qua Internet 48 .699 4.65 5 3 An tâm về chất lượng hàng hóa và khả
năng thanh toán 48 2.23 .592 4 1 Hỗ trợ vốn kinh doanh cho khách hàng 48 2.85 1.384 5 1 Dịch vụ ký gửi, chế biến, bảo quản hàng
hóa 48 2.83 1.117 5 1 Không sợ bị đổ nợ như khi ký gửi ở các
đại lý 48 3.25 1.329 5 1 Điểm gặp gỡ thiết lập quan hệ giao dịch,
tìm kiếm đối tác 48 4.44 .965 5 2 Trao đổi kinh nghiệm, tìm hiểu nhu cầu 48 4.65 .729 5 3 48 Valid N Lý do tác động tới việc không muốn tham gia vào sàn BCEC N Min Max Mean Std.
Deviation 72 1 3 1.53 .671 Các loại phí: phí thành viên, phí giao dịch,
phí kiểm định… 114 Số lượng thành viên tham gia không nhiều 72 3 1.35 1 .535 72 1 5 1.97 .993 1 5 3.85 1.535 Mức ký quỹ 15% giá trị hợp đồng khi tham
gia giao dịch
Không đủ điều kiện làm thành viên của sàn 72
Thiếu phương tiện vận tải 72 1 5 2.79 1.414 Thiếu nhà kho tại các địa điểm ở xa 72 1 5 2.49 1.453 1
1 4 1.65
5 1.69 .875
1.002 1 4 3.07 .793 Thủ tục rườm rà
72
Thiếu ưu đãi về giá
72
Dịch vụ ký gửi,chế biến, bảo quản hàng hóa 72
Dịch vụ hỗ trợ tín dụng 72 1 4 1.58 .765 72 1 4 1.32 .624 BCEC chưa đem lại nhiều lợi ích cho người
tham gia 72 1 5 2.08 1.422 Chưa quen với phương thức giao dịch giao
sau, thị trường giao sau Valid N 72 Mức độ đồng ý với những lợi ích mà BCEC mang lại cho người tham gia N Min Max Mean Std.
Deviation Quản lý rủi ro về giá 48 1 4 2.60 .610 48 2 5 3.92 .942 Cung cầu được đảm bảo thông qua hợp đồng
giao ngay và giao sau Hàng hóa được kiểm định chất lượng 48 1 5 1.79 .651 48 1 5 2.12 .890 Đấu giá tập trung công khai nên tránh được
tình trạng ép giá Được hỗ trợ vốn với lãi suất hợp lý 3 5 4.56 .542 2 5 3.58 .794 48 2 5 3.90 .951 48
Dịch vụ ký gửi, chế biến, bảo quản hàng hóa 48
Thủ tục giao hàng, nhận hàng đơn giản thuận
tiện tại hệ thống kho của BCEC Valid N 48 115 Đã từng giới thiệu BCEC cho bạn bè và người thân Frequency Percent Cumulative Percent đã từng
chưa từng
Total Valid
Percent
62.5
37.5
100.0 30
18
48
72
120 25.0
15.0
40.0
60.0
100.0 62.5
100.0 Valid
Missing System
Total Giải pháp phát triển BCEC N Min Max Mean Std.
Deviation Môi trường pháp lý chặt chẽ 48 2 5 2.71 .582 Hệ thống chứng nhận lưu kho tin cậy 48 2 5 2.63 .789 Trung tâm thông tin toàn diện 48 2 5 2.79 .898 48 1 3 2.27 .536 Trang thiết bị cân đo và phân cấp chủng
loại hiện đai 48 1 5 2.79 1.220 Hệ thống nhiều kho bãi gần với vùng sản
xuất Đội ngũ tiếp thị 48 1 4 2.69 .657 48 1 4 2.25 .887 Nâng cao nhận thức và trình độ hiểu biết
về thị trường giao sau 48 1 4 2.35 .601 Đào tạo nguồn nhân lực cán bộ quản lý
cho sàn giao dịch 48 1 4 2.54 .617 Nền tảng giao dịch thân thiện với người
sử dụng được xây dựng với cảnh báo
chống gian lận và đầu cơ quá mức 48 1 4 2.02 .758 Hạ tầng kỹ thuật tốt có khả năng kết nối
với các thị trường khác trong nước và
trên thế giới
Chính sách hỗ trợ của nhà nước 48 2 5 3.73 1.364 48 Valid N 116 Trình độ học vấn của người được phỏng vấn Frequency Percent Cumulative
Percent Valid
Percent
6.5 6 5.0 6.5 Valid 72 60.0 77.4 83.9 10 8.3 10.8 94.6 5 4.2 5.4 100.0 Trung học cơ sở (cấp 2)
Phổ thông trung học
(cấp 3)
Tốt nhiệp cao đẳng
Đã tốt nghiệp đại học
hoặc sau đại học
Total
Missing Từ chối trả lời
Total 93
27
120 77.5
22.5
100.0 100.0 Công việc hiện tại của người được phỏng vấn Frequency Percent Cumulative
Percent Valid
Percent
3.3 4 3.3 3.3 Valid 11 9.2 9.2 12.5 68 56.7 56.7 69.2 34 28.3 28.3 97.5 3 2.5 2.5 100.0 cán bộ quản lí
nhân viên văn
phòng
chủ doanh
nghiệp
nông dân
lao động tự
do
Total 120 100.0 100.0 117 PHỤ LỤC 3: SẢN PHẨM CÀ PHÊ TRÊN SÀN BCEC 1. Hợp đồng cà phê Robusta giao ngay Điều khoản Hợp đồng cà phê giao ngay niêm yết Thời gian giao dịch 9h00 – 11h00 Ngày giao dịch Từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần, trừ các ngày lễ theo
quy định của Bộ luật lao động Việt Nam Địa chỉ giao dịch Trung tâm Giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột Số 153, Nguyễn Chí Thanh, Thành phố Buôn Ma
Thuột, Tỉnh Đắk Lắk Trụ sở giao dịch của các Thành viên Môi giới Cơ chế khớp lệnh Khớp lệnh điện tử, liên tục Khớp lệnh thoả thuận Ký quỹ giao dịch 100% giá trị khối lượng giao dịch Loại cà phê giao dịch R1A, R1C, R2B Đơn vị tiền tệ giao dịch Đồng Việt Nam (VNĐ) Thời hạn hiệu lực của lệnh Trong phiên giao dịch Ký quỹ giao dịch 100% giá trị khối lượng giao dịch Hiệu lực thanh toán Ngay khi lệnh được khớp Đơn vị giao dịch Lô Khối lượng giao dịch 1 tấn Bước giá 50 VNĐ/kg Biên độ dao động giá Không vượt quá 10% so với giá tham chiếu của
phiên giao dịch liền kề trước đó Thời hạn giao nhận hàng Ba ngày làm việc kể từ ngày khớp lệnh thành công 118 2. Hợp đồng giao dịch cà phê Robusta kỳ hạn Hợp đồng Kỳ hạn niêm yết Cà phê Robusta loại R2B Điều khoản
Hàng hóa giao
dịch Thời gian giao
dịch Giao dịch khớp lệnh liên tục: Từ 14h00 đến 17h00
Giao dịch thỏa thuận: Từ 14h00 đến 17h00 Ngày giao dịch Từ thứ Hai đến thứ Sáu hàng tuần, trừ các ngày nghỉ theo quy
định trong Bộ Luật Lao động Việt Nam Địa chỉ giao dịch Trung tâm Giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột, số 153, Nguyễn Chí Thanh, Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk
Trụ sở của các Thành viên môi giới Cơ chế khớp
lệnh - Khớp lệnh điện tử, liên tục
- Khớp lệnh thoả thuận Giá niêm yết VNĐ/kg Bước giá 10 VNĐ/kg (20.000 VND/lô) Khối lượng giao
dịch Giao dịch khớp lệnh liên tục: tối thiểu 01 lô (02 tấn)
Giao dịch thỏa thuận: tối thiểu là 9 lô (18 tấn) 02 tấn (2.000 kg) Khối lượng mỗi
Hợp đồng (lô) Niêm yết 6 tháng hợp đồng liên tiếp Tháng hợp đồng
niêm yết Biên động dao
động giá trong +/- 4% so với Giá tham chiếu của phiên giao dịch liền kề trước
đó à Ký quỹ giao dịch Tương đương 15% giá trị Hợp đồng Ký quỹ đặc biệt Từ ngày Thông báo đầu tiên, mức ký quỹ của các hợp đồng
chuẩn bị đến hạn giao hàng được nâng lên gấp ba (03) lần so với
ký quỹ giao dịch thông thường
Ngày làm việc cuối cùng của tháng trước Tháng giao hàng Ngày giao dịch
cuối cùng (LTD)
Ngày thông báo
đầu tiên (FND)
Thời gian đăng
ký giao hàng Ngày làm việc đầu tiên của 05 ngày làm việc cuối cùng của
tháng trước Tháng giao hàng
Từ ngày Thông báo đầu tiên đến 9h00 của Ngày giao dịch cuối
cùng Tối thiểu 18 tấn (tương đương 9 lô) Khối lượng đăng
ký giao hàng 119 Loại cà phê giao
nhận Cà phê Robusta loại R2B (đen vỡ không quá 5%, tạp chất không
quá 1.0%, độ ẩm 13%, kích cỡ hạt tối thiểu 90%/S13)
Cà phê Robusta loại: R1A, R1B, R1C và R2A được giao theo
giá hạch toán cho ngày giao dịch cuối cùng cộng với một khoản
tiền tương ứng mức chênh lệch phẩm cấp chất lượng do BCEC
quy định trong từng thời điểm. Địa điểm giao
hàng Tại hệ thống kho hàng của Trung tâm Giao dịch cà phê Buôn
Ma Thuột Ngày làm việc thứ 3 của Tháng giao hàng Ngày tất toán
giao nhận hàng
và thanh toán 120 PHỤ LỤC 4: SẢN PHẨM CÀ PHÊ TRÊN SÀN VNX 1. Hợp đồng cà phê lô nhỏ theo chuẩn VNX Cà phê Robusta loại 1 Đơn vị hợp đồng 100 kg/lô Tháng giao hàng Tháng 1, Tháng 3, Tháng 5, Tháng 7, Tháng 9, Tháng 11 2 tháng giao hàng liền kề Hợp đồng niêm
yết VNĐ Loại tiền giao
dịch Bước giá 10 VNĐ/kg Theo tiêu chuẩn do VNX công bố. Tiêu chuẩn chất
lượng Giờ giao dịch 16:00 - 00:30 (chuyển ngày) Ký quỹ Theo quy định của VNX Giới hạn vị thế - Cá nhân: Không quá 5.000 lô mua/bán ròng.
- Tổ chức: Không quá 20.000 lô mua/bán ròng.
- VNX có thể điều chỉnh vị thế theo điều kiện thực tế. Ngày giao dịch
cuối cùng Ngày làm việc cuối cùng của tháng giao hàng (Nếu ngày này rơi
vào ngày nghỉ thì ngày làm việc trước đó sẽ là Ngày giao dịch
cuối cùng) Cà phê Arabica Đơn vị hợp đồng 100 kg/lô Tháng giao hàng Tháng 3, Tháng 5, Tháng 7, Tháng 9, Tháng 12 2 tháng giao hàng liền kề Hợp đồng niêm
yết VNĐ Loại tiền giao
dịch Bước giá 10 VNĐ/kg Theo tiêu chuẩn do VNX công bố. Tiêu chuẩn chất
lượng Giờ giao dịch 15h30 – 2h00 (chuyển ngày) 121 Ký quỹ Theo quy định của VNX Giới hạn vị thế - Cá nhân: Không quá 5.000 lô mua/bán ròng.
- Tổ chức: Không quá 20.000 lô mua/bán ròng.
- VNX có thể điều chỉnh vị thế theo điều kiện thực tế. Ngày giao dịch
cuối cùng Tám (08) ngày làm việc trước ngày làm việc cuối cùng của tháng
giao hàng (Nếu ngày này rơi vào ngày nghỉ thì ngày làm việc
trước đó sẽ là Ngày giao dịch cuối cùng). 2. Hợp đồng cà phê theo chuẩn quốc tế Cà phê Robusta loại 1 Đơn vị hợp đồng 10.000 kg/lô Tháng giao hàng Tháng 1, Tháng 3, Tháng 5, Tháng 7, Tháng 9,
Tháng 11 Hợp đồng niêm yết 3 tháng giao hàng liền kề Loại tiền giao dịch VNĐ Bước giá 10 VNĐ/kg Đơn vị giao hàng N x 20 tấn. (với N>0 và là số nguyên) Tiêu chuẩn chất lượng Theo tiêu chuẩn do VNX công bố. Giờ giao dịch 16:00 - 00:30 (chuyển ngày) Ký quỹ Theo quy định của VNX Giới hạn vị thế - Cá nhân: Không quá 5.000 lô mua/bán ròng.
- Tổ chức: Không quá 20.000 lô mua/bán ròng.
- VNX có thể điều chỉnh vị thế theo điều kiện
thực tế. Cảng giao hàng Theo quy định của VNX Ngày thông báo đầu tiên Ngày làm việc đầu tiên của tháng giao hàng Theo các hướng dẫn của VNX Mức ký quỹ bổ sung sau ngày
thông báo đầu tiên đối với nhà
đầu tư giao dịch hàng vật chất Ngày giao dịch cuối cùng Ngày làm việc cuối cùng của tháng giao hàng
(Nếu ngày này rơi vào ngày nghỉ thì ngày làm
việc trước đó sẽ là Ngày giao dịch cuối cùng) Ngày giao hàng Theo quy định của VNX Phương thức giao hàng Theo quy định của VNX 122 Cà phê Arabica Đơn vị hợp đồng 37500 pounds/lô Tháng giao hàng Tháng 3, Tháng 5, Tháng 7, Tháng 9, Tháng 12 Hợp đồng niêm yết 3 tháng giao hàng liền kề Loại tiền giao dịch VNĐ Bước giá 10 VNĐ/pound Đơn vị giao hàng N x 20 tấn. (với N>0 và là số nguyên) Tiêu chuẩn chất lượng Theo tiêu chuẩn do VNX công bố. Giờ giao dịch 15:30 – 2:00 (chuyển ngày) Ký quỹ Theo quy định của VNX Giới hạn vị thế - Cá nhân: Không quá 5.000 lô mua/bán ròng.
- Tổ chức: Không quá 20.000 lô mua/bán ròng.
- VNX có thể điều chỉnh vị thế theo điều kiện thực
tế. Cảng giao hàng Theo quy định của VNX Ngày thông báo đầu tiên Ngày làm việc đầu tiên của tháng giao hàng Thực hiện theo các hướng dẫn của VNX Mức ký quỹ bổ sung sau
ngày thông báo đầu tiên đối
với nhà đầu tư giao dịch hàng
vật chất Ngày giao dịch cuối cùng Tám ngày (08) làm việc trước ngày làm việc cuối
cùng của tháng giao hàng (Nếu ngày này rơi vào
ngày nghỉ thì ngày làm việc trước đó sẽ là Ngày giao
dịch cuối cùng). Ngày giao hàng Theo quy định của VNX Theo quy định của VNX Phương thức giao hàng 123 PHỤ LỤC 5: CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ HÌNH THÀNH VÀ XÂY DỰNG THỊ TRƯỜNG GIAO SAU Để có thể khiến cho thị trường giao sau phát huy đầy đủ được những lợi ích đã nêu, điều cần thiết là những nền tảng phát triển của nó phải được đáp ứng ngay từ đầu. Những điều kiện như vậy có thể được nhìn nhận dưới ba góc độ: thể chế, luật pháp; kinh tế-tài chính; và hạ tầng kỹ thuật. 1. Điều kiện kinh tế-tài chính: Một là, cần phải tồn tại nhu cầu cao về giao dịch sản phẩm hợp đồng giao sau và nhu cầu này xuất phát từ nhiều bên tham gia. Nói cách khác, cần phải có nhu cầu thiết thực về việc sử dụng sản phẩm hợp đồng giao sau và nhu cầu này phải có trước khi thị trường được xây dựng. Nhu cầu về giao dịch giao sau nói chung trước hết xuất phát từ phía những đơn vị sở hữu hàng hóa cơ sở với mong muốn hạn chế thiệt hại khi giá giảm; đồng thời những đơn vị nhập hàng/tổ chức sản xuất cũng mong muốn rào chắn rủi ro giá thành tăng trong tương lai; trong khi đó nhu cầu từ một bên thứ ba là các tổ chức, cá nhân mong muốn kinh doanh nhằm mục tiêu hưởng lợi nhuận chênh lệch từ các hợp đồng giao sau. Một khi không có nhu cầu cao của các bên nói trên thì không thể có thị trường giao sau. Hai là, thị trường hàng hóa cơ sở phát triển đầy đủ là nền tảng cho thị trường giao sau tồn tại. Một đặc điểm dễ thấy là không có thị trường cơ sở thì không thể có thị trường giao sau, và giá cả hàng hóa giao sau phụ thuộc vào biến động giá cả hàng hóa cơ sở. Tính chất và quy mô của thị trường cơ sở càng cao thì thị trường giao dịch giao sau tương ứng càng phát triển. Ba là, một cơ sở nhà đầu tư tài chính đủ rộng và sâu là điều kiện không thể thiếu. Thông thường trong nền kinh tế, hoạt động ngân hàng phát triển trước, tiếp đến mới có sự phát triển công cụ phái sinh. Điều đó có ý nghĩa rằng trình độ phát triển thị trường phải đạt đến một mức độ nhất định mới phát sinh nhu cầu giao dịch phái sinh. Cụ thể, số lượng và tiềm lực của các thành viên có thể tham gia vào thị trường giao dịch giao sau sẽ quyết định sự tồn tại như thế nào của thị trường này. 124 Thị trường giao sau không đơn thuần chỉ là nơi gặp gỡ của hai bên nắm giữ hàng hóa cơ sở và bên nhập hàng, mà còn có sự tham gia tích cực của các nhóm đối tượng đầu cơ, kinh doanh chuyên nghiệp (trong nhiều trường hợp một đối tượng có thể đóng nhiều vai trò); và chính nhóm đối tượng này là chất xúc tác tiếp thêm sức sống cho thị trường giao sau với điều kiện họ có đủ năng lực tham gia. Hơn nữa, không chỉ có các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp mà nhà đầu tư cá nhân cũng cần được nuôi dưỡng và khuyến khích tham gia, tạo điều kiện cho thị trường giao sau phát triển đi lên. 2. Điều kiện thể chế, luật pháp: Một là, cần có hệ thống văn bản pháp luật, quy định rõ ràng về điều kiện thành lập, tham gia và hoạt động của thị trường giao dịch giao sau. Hệ thống văn bản pháp quy có thể được ban hành trước mở đường cho hoạt động giao dịch hợp đồng giao sau hình thành. Tuy nhiên, khi thị trường đã đi vào hoạt động, cần có hành lang pháp lý khuyến khích và hỗ trợ các Sàn giao dịch hàng hóa trong việc cải tiến, phát triển các sản phẩm mới phù hợp hơn. Xuyên suốt trong quá trình đó là những nội dung quản lý hướng tới bảo vệ nhà đầu tư thông qua các quy định về ký quỹ, thanh toán hoặc các biện pháp quản lý rủi ro khác. Hai là, cần phân định rạch ròi chức năng quản lý, giám sát thị trường giao sau. Do đặc thù thị trường giao sau có thể giao dịch nhiều loại hàng hóa gốc khác nhau, nên liên quan đến phạm vi quản lý của nhiều cơ quan quản lý chuyên ngành và dễ dẫn tới xung đột lợi ích. Như vậy, việc phân định rạch ròi chức năng sẽ đem lại các lợi ích: i) Tránh xung đột giữa các bên tham gia thị trường; ii) Tạo điều kiện tập trung trách nhiệm quản lý những rủi ro đặc thù của hàng hóa gốc; iii) Tạo cơ chế hoạt động nhanh nhạy và hiệu quả trước thay đổi của thị trường phái sinh. Trên cơ sở đó, việc phân loại chức năng quản lý, giám sát thị trường giao sau có thể theo một trong hai hướng: i) Theo hàng hóa-tính chất của loại hình công cụ cơ sở; hoặc ii) Theo chức năng quản lý thị trường cơ sở. 3. Điều kiện kỹ thuật: 125 Một là, cần xây dựng được tập hợp các tiêu chuẩn áp dụng cho Hợp đồng giao sau mẫu chuẩn. Hợp đồng mẫu này phải được thiết kế sao cho phù hợp với thực tế và thuận tiện trong áp dụng. Theo đó, những điều kiện chuẩn của Hợp đồng giao sau tối thiểu phải bao gồm các nội dung sau: quy mô hợp đồng; đơn vị yết giá; biên độ giao động giá tối thiểu; chủng loại sản phẩm; thời gian giao dịch; thời gian thanh toán; ngày giao dịch cuối cùng. Ngoài ra, đối với một số hàng hóa cơ sở đặc thù, có thể phải quy định thêm một số nội dung chuẩn sau: điều kiện giao hàng; thủ tục giao hàng; biên độ dao động giá tối đa trong ngày. Hai là, có cơ sở hạ tầng công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ tin học. Trong thời đại hiện nay, việc xây dựng thị trường giao sau cần áp dụng công nghệ tin học hiện đại ngay từ đầu nhằm xử lý được quy trình thanh toán và kết nối thông tin. Trong vấn đề này, năng lực của đơn vị thanh toán bù trừ trung tâm đóng vai trò mũi nhọn. Ba là, việc lựa chọn phương thức thanh toán phù hợp cho giao dịch giao sau sẽ ảnh hưởng tới phương thức giao dịch của các thành viên thị trường. Liên quan đến vấn đề này, việc áp dụng các chuẩn mực kế toán, kiểm toán cho sản phẩm phái sinh cần phải thống nhất và phù hợp. 126 PHỤ LỤC 6: DIỆN TÍCH, PHÂN BỐ DIỆN TÍCH CÂY CÀ PHÊ, CHẤT LƯỢNG VÀ TÌNH HÌNH TIÊU THỤ CÀ PHÊ 1. Diện tích: Bảng 1 cho thấy diện tích cây cà phê ở Việt Nam trong giai đoạn 2002-2006 giảm dần và duy trì ở mức ổn định gần 500 nghìn ha, từ năm 2007 cho đến nay diện tích cây cà phê tăng dần và đạt 550 nghìn ha vào năm 2011. Bảng 1: Diện tích trồng cà phê của Việt Nam năm 2002-2011 (nghìn ha) Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 Diện tích 522,2 510,2 496,8 497,4 497 506,4 530,9 537 548 550 Nguồn: VICOFA, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Điều đáng chú ý là diện tích cây cà phê có tuổi kinh doanh trên 20 năm ngày càng tăng. Theo ước tính trong vòng 5-10 năm tới, diện tích cây cà phê già cỗi có tuổi kinh doanh trên 20 năm sẽ chiếm khoảng gần 50% diện tích toàn quốc. Đây thực sự sẽ là thách thức lớn với ngành cà phê Việt Nam trong việc duy trì hiệu quả sản xuất kinh doanh gắn với đảm bảo chất lượng sản phẩm. 2. Phân bố diện tích cây cà phê: Cây cà phê chủ yếu được trồng ở các vùng đồi núi phía Bắc và Tây Nguyên. Diện tích cây cà phê tập trung nhiều nhất ở vùng Tây Nguyên (chiếm 90% diện tích đất trồng), tại các tỉnh như Đắk Lắk (tỉnh có diện tích trồng cà phê lớn nhất cả nước), Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng và chủ yếu là cà phê vối (Robusta). Cà phê chè (Arabica) được trồng chủ yếu ở vùng Nam Trung Bộ, vùng núi phía Bắc do các vùng này ở vùng cao hơn, nhưng với diện tích và sản lượng rất khiêm tốn, tập trung nhiều ở các tỉnh Quảng Trị, Sơn La và Điện Biên. 3. Chất lượng: Việt Nam sản xuất chủ yếu là cà phê vối (Robusta) có giá trị thương phẩm thấp hơn cà phê chè (Arabica) nhưng Việt Nam có thể sản xuất ra cà phê Robusta chất lượng cao, được khách hàng ưa chuộng nếu Việt Nam có sự quan tâm đến khâu thu hái, chế biến và nhất là khâu quản lý chất lượng của Nhà nước nhiều hơn nữa. 127 Vấn đề quản lý chất lượng cà phê xuất khẩu rất đáng quan tâm vì liên quan đến khả năng cạnh tranh của mặt hàng cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới. Đa số các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê đều áp dụng tiêu chuẩn theo hợp đồng trên cơ sở thỏa thuận với đối tác mua. Hình thức này phân loại cà phê theo tiêu chuẩn hợp đồng thường đơn giản, chi phí thấp và không đánh giá đúng chất lượng sản phẩm. Ông Phan Huy Thông, Phó cục trưởng Cục trồng trọt cho biết chỉ có trên 10% số doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam áp dụng quy định xuất khẩu TCVN 4193- 2005 (tương đương các quy định kiểm tra hàng hóa xuất khẩu của Hiệp hội Cà phê Thế giới), nên cà phê Việt Nam xuất khẩu bị thải loại hơn 70% vì không phù hợp tiêu chuẩn quốc tế. Từ tháng 10-2006 đến tháng 6-2007, đã có 958.667 bao cà phê Việt Nam (khoảng 74% cà phê xuất khẩu) bị thải loại tại thị trường New York. Để cải thiện tình hình bị thải loại nhiều, Việt Nam đã đưa ra quy định rằng mặt hàng cà phê được ghi vào danh mục bắt buộc phải kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi thông quan. Cà phê nhân xuất khẩu phải có chứng nhận kiểm tra chất lượng theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 4193:2005. Thêm vào đó Việt Nam thực hiện phân loại từ trong nước để có thể tận dụng được cà phê xấu để rang xay tiêu dùng trong nước và cà phê xuất khẩu là cà phê đã được phân loại, tránh tình trạng bị thải loại nhiều và giữ vững thương hiệu cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới. 4. Tình hình tiêu thụ cà phê: Tiêu thụ trong nước: Dân Việt Nam trước đây ít dùng cà phê đặc biệt là ở nông thôn, hơn nữa theo sở thích thường dùng cà phê vối. Gần đây do lượng khách nước ngoài đến Việt Nam tăng lên, đồng thời dân Việt Nam ở thành thị cũng bắt đầu có nhu cầu dùng cà phê nhiều hơn nên lượng tiêu thụ trong nước có tăng lên. Mức tiêu thụ trong nước khoảng 10% sản lượng. Về nhập khẩu: Do trong nước sản xuất được, hơn nữa với giá thành rẻ nên Việt Nam không nhập khẩu cà phê nhân để tiêu thụ trong nước mà chỉ nhập khẩu để tái xuất. Còn cà phê hòa tan Việt Nam cũng có nhập khẩu nhưng với khối lượng khá nhỏ, không đáng kể. Về xuất khẩu: 128 Hình 1 cho thấy sản lượng và giá trị cà phê xuất khẩu tăng nhanh trong giai đoạn 2005-2010. Hình 2 cho thấy sản lượng cà phê Việt Nam đứng thứ 2 thế giới chỉ sau Brazil. Hiện nay, cà phê Việt Nam đã có mặt tại hơn 75 quốc gia trên thế giới và cạnh tranh ngày càng quyết liệt với cà phê Indonesia, Ấn Độ và một số quốc Sản lượng (1000 tấn)
Giá trị XK (Triệu USD) 2500 2.021 1.911 2000 1.731 1.851 1500 1.229 1.218 1.184 1.217 1.004 981 804 1000 634 500 0 2005 2006 2007 2008 2009 2010 gia Châu Phi. Nguồn: Bộ Công thương Khác, 21% Guatemala, 3% Brazil, 36% Mexico, 3% Ấn Độ, 4% Việt Nam, 14% Ethiopia, 6% Indonesia, 6% Colombia, 7% Hình 1: Sản lượng và giá trị xuất khẩu cà phê của Việt Nam năm 2005-2010 Nguồn: ICO Hình 2:Tỷ trọng sản lượng cà phê theo quốc gia trên thế giới năm 2010 129 PHỤ LỤC 7: KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA Ở MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM 1. Kinh nghiệm của Trung Quốc: 1.1 Sở giao dịch hàng hóa ở Trung Quốc: Đầu thế kỷ 20, Trung Quốc có hàng tá sở giao dịch, song chúng hầu hết đều biến mất trong những năm 1930. Vào năm 1990, sở giao dịch hàng hóa được thành lập lại và đến năm 1993 Trung Quốc có hơn 40 sở giao dịch hàng hóa với nhiều sản phẩm được giao dịch và trong đó có rất nhiều sở giao dịch có chung sản phẩm giao dịch. Vào thời điểm này, cơ chế giám sát kém, hành vi gian lận, gian lận môi giới, hoạt động đầu cơ thị trường diễn ra rất nhiều và giao dịch nước ngoài rộng khắp. Trong 4 năm kể từ năm 1993 tới năm 1997, có ít nhất là 10 cuộc khủng hoảng diễn ra tại các sở giao dịch nội địa cùng với sự thua lỗ hơn 1 tỷ đô la Mỹ của những thương nhân Trung Quốc ở các sở giao dịch giao sau nước ngoài. Do đó, chính phủ Trung Quốc đã bắt đầu cải tổ nhằm phát triển thị trường giao sau với việc củng cố luật giao dịch giao sau, giám sát chặt chẽ các sở giao dịch, hợp nhất các sở giao dịch, cho phép mỗi sở giao dịch có các sản phẩm tối thượng tránh tình trạng các sở giao dịch có chung sản phẩm giao dịch, loại bỏ một số sản phẩm giao dịch, hạn chế giao dịch ngoài nước, kiểm soát môi giới bằng các chứng chỉ, điều tra hành vi gian lận và lạm dụng, xử lý người vi phạm… Dưới sự kiểm soát của Uỷ ban quản lý chứng khoán Trung Quốc (China Securities Regulatory Commission – CSRC), số lượng sở giao dịch hàng hóa giảm còn 15 vào năm 1994 và cuối năm 1998 chỉ còn lại 3 sở giao dịch hàng hóa đó là: Sở giao dịch hàng hóa Đại Liên (Dalian Commodity Exchange - DCE), Sở giao dịch hàng hóa Quảng Châu (Zhengzhou Commodity Exchange - ZCE) và Sở giao dịch giao sau Thượng Hải (Shanghai Futures Exchange - SHFE). SHFE được hình thành từ sự sáp nhập của 3 sở giao dịch hàng hóa là Shanghai Metal Exchange, Shanghai Commodity Exchange và Shanghai Grain and Oil Exchange. Số lượng sở giao dịch hàng hóa ở Trung Quốc cho đến nay vẫn duy trì là ba sở giao dịch này. 130 Nhân tố đầu tiên thúc đẩy sự hình thành Sở giao dịch hàng hóa ở Trung Quốc chính là từ phía chính phủ. Cả ba sở giao dịch hàng hóa của Trung Quốc đều do Nhà nước thành lập dưới hình thức một tổ chức sự nghiệp tự chủ, phi lợi nhuận và được quản lý bởi CSRC. Hoạt động của các sở giao dịch hàng hóa Trung Quốc được kiểm soát chặt chẽ bởi CSRC và các chức danh quan trọng của các Sở giao dịch đều do CSRC bổ nhiệm. Để kiểm soát thị trường, CSRC đặt ra mức ký quỹ yêu cầu các sở thực hiện. Mức ký quỹ được thiết lập theo nguyên tắc tháng giao dịch gần với tháng giao hàng sẽ có mức ký quỹ cao hơn. Chỉ có công ty mới có thể là thành viên của các Sở giao dịch hàng hóa, cá nhân thì không được phép. Hiện nay chính phủ không cho phép thương nhân nước ngoài thực hiện giao dịch tại Sở giao dịch hàng hóa Trung Quốc và cũng không cho phép các thương nhân Trung Quốc thực hiện giao dịch giao sau nông sản ở nước ngoài. Sở dĩ như vậy là vì Chính phủ Trung Quốc muốn kiểm soát chặt chẽ ngoại hối và đồng nhân dân tệ chưa chuyển đổi được. Hệ thống cơ sở hạ tầng của các Sở giao dịch hàng hóa Trung Quốc có khả năng kết nối đến tổ chức thành viên. Các Sở giao dịch hàng hóa đều có 4 phòng liên quan đến hoạt động giao dịch là phòng quản lý giao dịch, phòng thanh toán bù trừ, phòng giao nhận và phòng thông tin. Phòng thanh toán bù trừ thực hiện ủy thác thanh toán qua ngân hàng thương mại. Các Sở giao dịch hàng hóa đều được trang bị hệ thống giao dịch điện tử tự động như hệ thống nhập lệnh và khớp lệnh tự động bằng máy tính, bản công bố giao dịch bằng điện tử và nhiều hệ thống giao dịch được nối mạng toàn cầu. Phương thức giao dịch của Sở theo mô hình khớp lệnh định kỳ và khớp lệnh liên tục. 1.2 Nhận xét và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: Về vai trò quản lý của nhà nước: Kinh nghiệm từ Trung Quốc đã chứng minh rằng thị trường giao sau sẽ phát triển bất ổn định nếu không được tổ chức và quản lý chặt chẽ. Sự thiếu quản lý sẽ tạo điều kiện cho sự đầu cơ quá mức và làm méo mó cung, cầu, giá cả và làm mất lòng tin của những người tham gia giao dịch, 131 làm cho sở giao dịch không còn thực hiện được chức năng phát hiện giá cả và công cụ tự bảo hiểm không còn hiệu quả. Do đó Chính phủ Việt Nam cần phải ban hành chính sách liên quan đến các quy tắc và kiểm soát Sở giao dịch hàng hóa, các công ty môi giới, các trung tâm thanh toán bù trừ và tất cả các thực thể gắn với thị trường. Các quy tắc phải thực sự hữu hiệu và phải được ban hành thành luật để tránh sự thao túng thị trường và bảo vệ người tiêu dùng chống lại sự gian lận hay sự không trung thực của các tổ chức trung gian. Do đó cần thiết phải tạo ra các cơ quan nhà nước với đầy đủ quyền lực kiểm soát lên thị trường. Chúng sẽ có những vai trò như sau: Kiểm soát nghề môi giới. Việc xác định rõ các quy định giữa người môi giới và khách hàng là rất quan trọng. Ví dụ như sự tách biệt giữa tài khoản khách hàng và công ty môi giới. Cần phải có một loại chuẩn mực đạo đức để tất cả các nhà môi giới tôn trọng thực hiện. Nếu vi phạm một trong các nguyên tắc này, nhà môi giới có thể có bị cấm hoạt động ở cấp độ quốc gia. Điều chỉnh các giao dịch ở Sở giao dịch hàng hóa đứng dưới góc độ là một nhà tạo lập thị trường. Nhà tạo lập thị trường tạo ra thị trường có tính thanh khoản cao bằng cách thường xuyên yết lên các mức giá chào mua, chào bán, qua đó đảm bảo một thị trường, mua bán liên tục, tránh tình trạng dư mua, dư bán. Nhà tạo lập thị trường ngoài việc đóng vai trò là nhà môi giới, nhà đầu tư, còn là nhà cân bằng giá, tạo sự cân bằng, trật tự giao dịch trong ngắn hạn. Ngoài ra, các cơ quan nhà nước nên kiểm soát tình hình tài chính của các Sở giao dịch, giới hạn giao dịch ở các sàn nước ngoài, khắc phục tình trạng thua lỗ do các nhà đầu tư trong nước tham gia thị trường phái sinh nước ngoài Tuy nhiên, sự kiểm soát quá chặt chẽ chỉ có tác động trong giai đoạn đầu xây dựng Sở giao dịch hàng hoá. Khi các sở giao dịch bắt đầu phát triển, nhu cầu giao dịch tăng, nền kinh tế phát triển thì sự kiểm soát chặt chẽ lại trở thành rào chắn cho sự phát triển hàng hóa cũng như của toàn bộ nền kinh tế. Chính vì lẽ đó, khi thị trường đã trở lại hoạt động một cách ổn định thì Chính phủ cần nới lỏng sự kiểm soát của mình. Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện điều này vào năm 2007 bằng 132 cách dỡ bỏ một số lệnh cấm áp đặt khi thị trường bất ổn, các hợp đồng mới được cho phép giao dịch. Các hoạt động đầu cơ: chính sự đầu cơ tạo ra khối lượng giao dịch khổng lồ và tăng tính thanh khoản trên thị trường. Tuy nhiên, nếu không có những quy định đúng đắn thì sự đầu cơ lại chính là nguyên nhân dẫn đến sự bất ổn như trường hợp các sở giao dịch hàng hóa của Trung Quốc vào những năm 1990. Vấn đề những người sản xuất nhỏ và phổ cập kiến thức về Sở giao dịch hàng hóa: Trung Quốc chủ yếu bao gồm những người sản xuất nhỏ, nhưng Nhà nước khuyến khích những người sản xuất lớn, thương nhân, … tham gia vào việc tự bảo hiểm rủi ro giá cả trên thị trường giao sau rồi từ đó chuyển lợi ích cho người sản xuất nhỏ. Người nông dân ở Trung Quốc được hưởng lợi ích gián tiếp từ các các số liệu từ thị trường giao sau hàng hóa. Các Sở giao dịch hàng hóa cùng với sự hỗ trợ của chính phủ đã tổ chức nhiều buổi phổ cập giáo dục cho người nông dân kiến thức về vai trò và hoạt động của sở giao dịch hàng hóa. Từ đó, khuyến khích người nông dân sử dụng thông tin từ Sở giao dịch hàng hóa để xác định việc sản xuất của mình và có thể thỏa thuận những mức giá tốt hơn so với giá từ các trung gian mua bán. Đây là một phương pháp tốt để Việt Nam có thể tham khảo trong việc hình thành và phát triển sở giao dịch hàng hóa. 2. Kinh nghiệm ở Malaysia: 2.1 Sở giao dịch hàng hóa ở Malaysia: Sở giao dịch hàng hóa đầu tiên của Malaysia là Sở giao dịch Kuala Lumpur (Kuala Lumpur Commodity Exchange - KLCE) ra đời vào năm 1980. Sở giao dịch Kuala Lumpur đã phải trải qua rất nhiều cuộc mua bán và sáp nhập để trở thành Sở giao dịch phái sinh Bursa Malaysia (Bursa Malaysia Derivatives). Bursa Malaysia Derivatives hiện là một phần của tập đoàn Bursa Malaysia. Chính vì sự mua bán và sáp nhập nên Bursa Malaysia Derivatives không chỉ giao dịch hàng hóa mà còn giao dịch giao sau chỉ số chứng khoán, tiền tệ và chứng khoán. Hàng hóa duy nhất được giao dịch tại Bursa Malaysia Derivatives là mặt hàng dầu cọ. 133 Sở giao dịch hàng hóa ở Malaysia hình thành đầu tiên vào năm 1980 không phải được thúc đẩy bởi nhà nước, mà từ khu vực tư nhân. Tuy nhiên, sự thành công của Bursa Malaysia Derivatives in đậm sự hậu thuẫn của Chính phủ Malaysia. Sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ Chính phủ Malaysia không chỉ giới hạn ở việc hỗ trợ khung pháp lý, việc tuyên truyền quảng bá thương hiệu, mà còn cả ở việc tổ chức vận hành. Thông qua các quỹ do Chính phủ quản lý, Chính phủ Malaysia tham gia mua lại một số cổ phần nhất định để có thể tham gia quản lý. Chính phủ nắm giữ việc bổ nhiệm các chức danh quan trọng, Sở giao dịch hàng hóa chỉ được quyền đề xuất. Điều này cũng tương tự thông lệ tại sở giao dịch hàng hóa của các quốc gia trong khu vực: 1/3 các chức danh chủ chốt tại các sở giao dịch là nhân sự được chính phủ bổ nhiệm. Sở giao dịch hàng hóa của Malaysia có cơ sở hạ tầng khá hiện đại cung cấp các dịch vụ như giao dịch, thanh toán bù trừ, giao nhận hàng hóa. Các giao dịch đều được điện tử hóa mang tính hiện đại. 2.2 Nhận xét và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: Chiến lược phát triển Sở giao dịch hàng hóa: Với chiến lược phát triển chỉ tập trung vào sản phẩm dầu cọ - thế mạnh của mình, Malaysia đã thực sự thành công trong việc biến mặt hàng dầu cọ thành hàng hóa xuất khẩu chủ lực và có sức mạnh giá cả trên thị trường thế giới. Bursa Malaysia Derivatives là một trong những Sàn giao dịch hàng hóa thành công trên thế giới, đặc biệt đối với sản phẩm dầu cọ. Bursa Malaysia Derivatives là một sở giao dịch có thể tạo ra mức giá tham khảo trên thế giới cho sản phẩm dầu cọ. Thông thường, trên thế giới các mức giá tham khảo cho hầu hết các loại hàng hóa giao dịch tại sở giao dịch đều được hình thành ở các sở giao dịch hàng hóa đặt ở các quốc gia phát triển và cách xa thị trường sản xuất chủ yếu các mặt hàng này. Malaysia là quốc gia sản xuất mặt hàng dầu cọ lớn trên thế giới và với Bursa Malaysia Derivatives, Malaysia có quyền định giá - đóng vai trò người quyết định giá cả hơn là người phải chấp nhận giá như những quốc gia sản xuất khác trên thị trường thế giới. 134 Chính phủ Malaysia tham gia khá sâu vào hoạt động của Sở giao dịch hàng hóa Malaysia. Điều này đảm bảo Sở giao dịch hàng hóa hoạt động minh bạch và công bằng. Cả nhà sản xuất lẫn nhà đầu tư tài chính đều được bảo vệ. Tuy nhiên, để phát triển thị trường giao dịch hàng hóa, Malaysia đã đưa ra các điều kiện hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, như không khống chế dòng vốn và lượng người tham gia, giao dịch bằng cả đồng nội tệ (Ringgit) và đô la Mỹ, không áp thuế đối với giao dịch nước ngoài, xây dựng thể chế tài chính cho người nước ngoài…Kinh nghiệm của Malaysia thực sự là một bài học hết sức quý giá cho Việt Nam trong chiến lược phát triển sở giao dịch hàng hóa để hỗ trợ xuất khẩu. Vấn đề những người sản xuất nhỏ và phổ cập kiến thức về Sở giao dịch hàng hóa: Ngay từ đầu, Malaysia đã không khuyến khích người nông dân nhỏ tham gia trực tiếp vào các giao dịch tại sở giao dịch, do đó những công cụ quản lý rủi ro giá cả được sử dụng chủ yếu bởi những chủ trang trại hoặc những người sản xuất lớn. Những người nông dân nhỏ thường hoạt động dưới những chương trình do chính phủ tài trợ mà đã có sẵn những biện pháp ngăn ngừa rủi ro. Nông dân, những người sản xuất nhỏ thu được những lợi ích gián tiếp từ thông tin giá cả và thị trường tại sở giao dịch. Malaysia chú trọng phổ cập, giáo dục cho người dân kiến thức về hoạt động giao dịch hàng hóa, đồng thời quảng bá công khai, lôi kéo người tham gia vào Sở giao dịch. 3. Kinh nghiệm ở Ấn Độ: 3.1. Sở giao dịch hàng hóa ở Ấn Độ: Ấn Độ là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới thành lập Sở giao dịch hàng hóa. Thị trường giao sau có tổ chức đầu tiên giao dịch mặt hàng bông sợi được hình thành vào năm 1921 và sau đó phát triển rất mạnh trong cả nước. Từ khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường, Chính phủ Ấn Độ đã làm cuộc cách mạng thay đổi cấu trúc của các Sở giao dịch hàng hóa trong nước. Những quy định, chính sách trì trệ, cổ hủ bị dỡ bỏ; thay bằng các tiêu chuẩn mới cho Sở giao dịch hàng hóa, gồm ba nguyên tắc cơ bản sau: 135 Sở giao dịch hàng hóa phải cung cấp dịch vụ trên toàn quốc gia Sở giao dịch hàng hóa phải được hoạt động dưới sự quản lý chuyên nghiệp Sở giao dịch hàng hóa phải cung cấp các giao dịch thông qua hệ thống điện tử để mở rộng thị trường, đặc biệt là cho tầng lớp nông dân. Những tổ chức nào tuân thủ ba nguyên tắc trên sẽ được chính phủ Ấn Độ cấp giấy phép và được quyền giao dịch bất kỳ hàng hóa hợp pháp nào. Kết quả là, ba Sở giao dịch mới được thành lập vào năm 2002-2003: Sở giao dịch đa hàng hóa Ấn Độ (the Multi Commodity Exchange of India - MCX), Sở giao dịch hàng hóa phái sinh quốc gia (the National Commodity and Derivatives Exchange - NCDEX) ở Mumbai; Sở giao dịch đa hàng hóa quốc gia (the National Multi-Commodity Exchange - NMCE) ở Ahmedabad. Các tổ chức này đã có có sự phát triển vượt bậc trong khối lượng giao dịch và trở thành một trong những Sở giao dịch hàng hóa hàng đầu thế giới chỉ với 3 hay 4 năm hoạt động. Các Sở giao dịch này được ra đời trên một hệ thống công nghệ cao, chi phí thấp, và cung cấp một mạng lưới giao dịch hiện đại, thuận lợi, dễ dàng truy cập. Bản chất của quá trình cải cách đã tạo ra hai đặc điểm khiến thị trường hàng hóa giao sau của Ấn Độ trở nên khác biệt so với các thị trường khác trên thế giới. Thứ nhất, chính phủ đã khuyến khích mỗi Sở giao dịch hàng hóa được giao dịch hàng loạt hợp đồng nông phẩm, kim loại, năng lượng. Các hợp đồng này là hợp đồng của các sản phẩm bản xứ, không tồn tại ở bất kỳ nơi nào trên thế giới (như: cây bạch đậu khấu, dầu bạc hà) hoặc các hàng hóa được giao dịch rộng rãi trên thị trường thế giới (như: đậu tương, lúa mì, vàng và dầu thô). Các Sở giao dịch hàng hóa cung cấp các dịch vụ giúp người tham gia thị trường tránh rủi ro tiền tệ, rủi ro basic. Cả ba Sở giao dịch hàng hóa đều cung cấp các giao dịch quốc tế và giao dịch khu vực. Thứ hai, các Sở giao dịch này có rất nhiều hợp đồng có tính thanh khoản hơn bất kỳ các sàn trên thế giới, nhờ việc trang bị hệ thống kỹ thuật hiện đại cho phép tích hợp các hợp đồng mới và hệ thống trao đổi và bù trừ với chi phí thấp. Ngoài ra, Ấn độ có lợi thế về chi phí nhân công tương đối rẻ so với các nước phát 136 triển và có nền tảng giáo dục rất tốt, điều đó cho phép các sàn có điều kiện thuê số lượng lớn nhân công, đội ngũ quản lý, nghiên cứu giỏi để hỗ trợ sàn phát triển. Bên cạnh đó, phải kể đến hàng loạt các nhân tố như: Địa điểm giao hàng tối ưu; các thông số kỹ thuật chất lượng phù hợp; quá trình cấp chứng chỉ nhanh chóng, chính xác; chất lượng, độ tín nhiệm của kho hàng cao; quy tắc, điều lệ thích hợp. Mặc dù thị trường hàng hóa giao sau phát triển, nhưng vẫn còn một số hạn chế như có quá ít nông dân tham gia thị trường do bị một số rào cản từ các quy tắc hạn chế. Tuy có sự đầu tư lớn cho việc phát hành các hóa đơn kho hàng điện tử nhưng các hóa đơn này vẫn chưa được giao dịch, do sự ra đời chậm trễ của hệ thống luật. Chính điều này đã hạn chế sự đầu tư vào hệ thống kho bãi, các dòng vốn tín dụng cho khu vực nông thôn. 3.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: Thực trạng các sàn hàng hóa Ấn Độ mặc dù được đầu tư với hệ thống công nghệ kỹ thuật cao, hiện đại, đội ngũ nhân sự được đào tạo một cách bài bản, nhiều kinh nghiệm thế nhưng vẫn chưa thu hút được sự hưởng ứng nhiệt tình từ phía người nông dân. Đó có lẽ là do yếu kém trong khâu tiếp cận các sàn giao dịch hàng hóa cho các tầng lớp trong xã hội. Vậy chính sách đặt ra cho sàn Việt Nam là nên có các chương trình tiếp cận thị trường mở rộng đến hầu hết đối tượng như: những người muốn phòng ngừa rủi ro, nhà đầu cơ để kích thích giao dịch sàn hàng hóa trong nước. Việc tiếp cận có hạn chế sẽ mang ảnh hưởng đến sự vận hành thông suốt của thị trường do thiếu tính đa dạng trong các thành viên tham gia và thiếu tính thanh khoản. Các cơ quan nên có các chính sách đào tạo và nâng cao kiến thức cho người nông dân, các hợp tác xã, các hiệp hội nông nghiệp bởi vì khái niệm quản trị rủi ro về giá, quyền chọn, giao sau... là những khái niệm tương đối xa vời đối với họ. Cụ thể là việc người nông dân hiểu được sự khác biệt giữa đầu cơ và phòng ngừa rủi ro là rất quan trọng vì trong thực tế, người nông dân rất dễ bị cám dỗ từ lợi ích của đầu cơ nhưng điều này có thể sẽ phải trả một giá rất đắt. 137 Tóm lại, thông qua những kinh nghiệm từ Trung Quốc, Malaysia và Ấn Độ, tác giả có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm khi xây dựng Sở giao dịch hàng hóa tại Việt Nam, cụ thể như sau: Thứ nhất, Sở giao dịch hàng hóa không phải ra đời là thành công ngay lập tức. Các nhà đầu tư tài chính thuần túy và các nhà sản xuất có nhu cầu bảo hộ giá cần một thời gian dài để làm quen và học hỏi. Sự quan tâm của công chúng đối với Sở giao dịch hàng hóa chỉ đến sau một giai đoạn bền bỉ tuyên truyền, giáo dục và bổ trợ kiến thức cho các nhà đầu tư. Chỉ đến khi Sở giao dịch hàng hóa thu hút được nhiều nhóm nhà đầu tư thì tính thanh khoản mới cao và Sở giao dịch mới thành công. Thứ hai, sự hỗ trợ của Nhà nước là mang tính sống còn đối với sự thành công của các Sở giao dịch hàng hóa. Nhà nước xây dựng khuôn khổ pháp lý giúp các Sở giao dịch hàng hóa xây dựng tổ chức và có cơ chế quản lý giao dịch giao sau chặt chẽ tạo niềm tin cho các nhà đầu tư tham gia giao dịch. Thứ ba, Sở giao dịch hàng hóa nên đặt gần các vùng trọng điểm về nguyên liệu trọng điểm. Vị trí địa lý thuận lợi, chuyển giao hàng nhanh gọn là điều kiện tiên quyết tạo nên sự thành công. Thứ tư, nên chuyên biệt các sản phẩm có thế mạnh tại Sở giao dịch hàng hóa để tránh chồng chéo, cạnh tranh nội bộ, lãng phí nguồn lực. Thứ năm, chuẩn bị các điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động của Sở giao dịch hàng hóa.Bản thân hay gia đình có đang tham gia vào sàn giao dịch cà phê
Mức độ hài lòng khi tham gia vào sàn BCEC