BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

---  ---

LƯƠNG THỊ NHƯ NGỌC

PHÁT TRIỂN GIAO DỊCH GIAO SAU

CÀ PHÊ TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – Năm 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

---  ---

LƯƠNG THỊ NHƯ NGỌC

PHÁT TRIỂN GIAO DỊCH GIAO SAU

CÀ PHÊ TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính – Ngân hàng

Mã số:

60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – Năm 2011

1

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 4 DANH MỤC CÁC BẢNG ......................................................................................... 6 DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ .................................................................................... 7 MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 8 CHƯƠNG 1: KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ GIAO DỊCH GIAO SAU .................................................................................... 12 1.1Khung lý thuyết về giao dịch giao sau: ............................................................ 12 1.1.1 Lợi ích của giao dịch giao sau: ................................................................. 12 1.1.1.1 Đối với những người tham gia giao dịch giao sau: .......................... 12 1.1.1.2 Đối với việc quản lý kinh tế của Nhà nước: ...................................... 17 1.1.2 Rủi ro của việc giao dịch những hợp đồng giao sau: ............................... 17 1.1.2.1 Rủi ro thị trường: ............................................................................. 17 1.1.2.2 Rủi ro basic: ..................................................................................... 18 1.1.2.3 Rủi ro bị thanh lý hợp đồng trước hạn: ........................................... 19 1.1.2.4 Rủi ro không thể đóng vị thế trước khi hợp đồng đáo hạn: ............. 19 1.1.2.5 Rủi ro khi hàng hóa giao dịch không đạt tiêu chuẩn: ...................... 19 1.1.2.6 Rủi ro tổ chức: .................................................................................. 20 1.2 Các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới và ở Việt Nam: ............................. 20 1.2.1 Các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới: ............................................... 20 1.2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam: ............................................... 31 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ......................................................................................... 34 CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN NGÀNH CÀ PHÊ VIỆT NAM VÀ THỰC TRẠNG GIAO DỊCH GIAO SAU CÀ PHÊ Ở VIỆT NAM .................................................. 35 2.1 Tổng quan ngành cà phê Việt Nam: ................................................................ 35 2.1.1 Giá cả và một số yếu tố dẫn đến biến động giá: ....................................... 36 2.1.2 Sự thiếu liên kết giữa các doanh nghiệp xuất khẩu: ................................. 40 2.1.3 Phương thức ký kết hợp đồng xuất khẩu cà phê với nước ngoài: ............. 40 2.1.4 Vấn đề ký gửi: ............................................................................................ 42 2.1.5 Rủi ro đối với người sản xuất và kinh doanh cà phê Việt Nam do biến động giá cà phê: ................................................................................................. 44 2.2 Thực trạng giao dịch giao sau cà phê ở Việt Nam: ......................................... 48 2.2.1 Giao dịch giao sau cà phê tại các Sở giao dịch hàng hóa ở nước ngoài: 48 2.2.2 Giao dịch giao sau cà phê tại Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam: ............. 53 2.2.3 Giao dịch giao sau cà phê tại Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột: ................................................................................................................. 54 2.2.3.1 Giới thiệu Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột: .................. 54 2.2.3.2 Thực trạng giao dịch giao sau cà phê tại BCEC: ............................. 56 2.3 Khảo sát: .......................................................................................................... 59 2.3.1 Quy trình khảo sát: .................................................................................... 59 2.3.2 Kết quả khảo sát: ....................................................................................... 60

2

2.3.2.1 Mức độ nhận biết các sàn giao dịch cà phê: ..................................... 61 2.3.2.2 Mức độ thường xuyên giao dịch tại sàn giao dịch cà phê: ............... 62 2.3.2.3 Mức độ hài lòng khi tham gia sàn giao dịch BCEC: ........................ 63 2.3.2.4 Lý do tác động đến việc không muốn tham gia sàn giao dịch BCEC:65 2.4 Một số nguyên nhân làm cho hoạt động của BCEC chưa hiệu quả: ............... 67 2.4.1 Nguyên nhân khách quan: ......................................................................... 67

2.4.1.1 Nhận thức của các tác nhân ngành hàng cà phê đối với sàn giao dịch67 2.4.1.2 Cơ chế và các quy định hoạt động sàn giao dịch .............................. 68 2.4.1.3 Tình hình kinh tế trong giai đoạn hiện nay ....................................... 68 2.4.2 Nguyên nhân chủ quan: ............................................................................ 69 2.4.2.1 Nguồn nhân lực ................................................................................. 69 2.4.2.2 Phối hợp, hợp tác .............................................................................. 69 2.4.2.3 Tính thanh khoản của thị trường ....................................................... 69 2.5 Một số nguyên nhân giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam chưa phát triển: 70 2.5.1 Các quy định pháp lý chi tiết về thị trường phái sinh hàng hóa vẫn chưa đầy đủ: ................................................................................................................ 70 2.5.2 Việc Ngân hàng Nhà nước cấm đầu cơ trên thị trường phái sinh hàng hóa cũng làm hạn chế số lượng thành viên tham gia: .............................................. 72 2.5.3 Quan niệm chưa đúng về “lỗ” trên thị trường phái sinh hàng hóa: ........ 73 2.5.4 Trình độ kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm của các chủ thể tham gia giao dịch giao sau cà phê còn hạn chế: ..................................................................... 73 2.5.5 Thị trường hàng hóa cơ sở chưa phát triển: ............................................. 74 2.5.6 Thói quen, tập quán của nông dân và doanh nghiệp: ............................... 74 2.5.7 Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghệ chưa hoàn chỉnh: ............................... 75 2.5.8 Sự tham gia của các định chế tài chính không nhiều và thiếu vắng sự tham gia của các nhà đầu tư có tổ chức lớn ............................................................... 76 2.5.9 Công tác tuyên truyền và phổ cập kiến thức về giao dịch giao sau vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu: .............................................................................. 77 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ......................................................................................... 77 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ PHÁT TRIỂN GIAO DỊCH GIAO SAU CÀ PHÊ TẠI VIỆT NAM .................................................................... 79 3.1 Các giải pháp từ phía Nhà nước: ..................................................................... 79

3.1.1 Hoàn thiện hệ thống hành lang pháp lý cho hoạt động giao dịch giao sau:79 3.1.2 Hoàn thiện bộ máy quản lý hoạt động giao dịch giao sau: ...................... 80 3.1.3 Hỗ trợ phát triển thị trường cà phê giao ngay (physical market): ........... 81 3.1.4 Hỗ trợ tuyên truyền, quảng cáo, đào tạo về hoạt động giao dịch giao sau cà phê cho nhà đầu tư và xã hội: ....................................................................... 83 3.1.5 Ưu đãi nhất định trong chính sách thuế cho các đơn vị tham gia: ........... 84 3.2 Các giải pháp từ phía BCEC: ........................................................................... 85 3.2.1 Đẩy mạnh tuyên truyền về hoạt động giao dịch: ...................................... 85 3.2.2 Đào tạo nguồn nhân lực và các tác nhân ngành hàng: ............................ 86 3.2.3 Tăng thanh khoản thị trường và phát triển thành viên: ............................ 86 3.2.4 Đa dạng các tiêu chuẩn, phẩm cấp trong giao dịch giao ngay: ............... 88

3

3.2.5 Thực hiện chuyển đổi mô hình: ................................................................. 88 3.2.6 Tăng cường, phát triển các mối quan hệ hợp tác: .................................... 88 3.2.7 Thường xuyên cập nhật, thu thập, nắm bắt thông tin từ nhiều nguồn: ..... 89 3.2.8 Mở rộng hệ thống kho, kiểm định và chức năng của chứng thư gửi kho: 89 3.2.9 Tập trung phát triển song song hoạt động giao dịch cà phê giao ngay và giao sau: ............................................................................................................. 90 3.2.10 Đầu tư xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại: ....................... 90 3.3 Các giải pháp của các đơn vị khác ................................................................... 91 3.3.1 Đối với các ngân hàng thương mại:.......................................................... 91 3.3.2 Đối với các nhà môi giới: .......................................................................... 91 3.3.3 Đối với các doanh nghiệp: ........................................................................ 92 3.3.4 Đối với nông dân: ...................................................................................... 92

3.4 Một số kiến nghị với Chính phủ, các cơ quan Bộ, ngành Trung ương, Ngân hàng Nhà nước: ...................................................................................................... 93 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ......................................................................................... 96 KẾT LUẬN ............................................................................................................... 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 99 PHỤ LỤC ................................................................................................................ 104

4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Các từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt

ASCE Abuja Securities and Sở Giao dịch Chứng khoán và

Commodity Exchange Hàng hóa Abuja

ATB Asia Trade Brokerage JS Công ty Cổ phần Môi giới

Co Thương mại Châu Á

BCEC Buon Ma Thuot Coffee Trung tâm giao dịch cà phê

Exchange Center Buôn Ma Thuột

Công ty Cổ phần Giám định cà Cafecontrol

phê và hàng hóa xuất nhập khẩu

– chi nhánh Tây Nguyên

CSRC China Securities Regulatory Uỷ ban quản lý chứng khoán

Commission Trung Quốc

Công ty Cổ phần CTCP

Hồ Chí Minh HCM

ICO International Coffee Hiệp hội Cà phê Thế giới

Organization

LIFFE London International Sở giao dịch hàng hóa Luân

Financial Futures and Đôn

Options Exchange

NYBOT New York Board of Trade Sở giao dịch hàng hóa New

York

SICOM Singapore Commodity Sở giao dịch hàng hóa Singapore

Exchange

Techcombank Ngân hàng Thương mại Cổ phần

Kỹ Thương Việt Nam

THV Công ty cổ phần Tập đoàn Thái

Hòa Việt Nam

5

TMCP Thương mại Cổ phần

TNHH Trách nhiệm hữu hạn

UNCTAD United Nations Conference Hội nghị liên hiệp quốc về

on Trade and Development thương mại và phát triển

USD United State Dollar Đô la Mỹ

VICOFA Vietnam Coffee and Cocoa Hiệp Hội Cà Phê Ca Cao Việt

Association Nam

Vietnam Dong Việt Nam đồng VNĐ

Vietnam Commodity Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam VNX

Exchange

6

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Rủi ro biến động giá đối với người bán và người mua

Bảng 2.2: Rủi ro do biến động giá chênh lệch trong trường hợp giá giao sau không

đổi

Bảng 2.3: Rủi ro do biến động giá chênh lệch trong trường hợp giá giao sau biến

động và “chốt sau”

Bảng 2.4: Kết quả lãi/ lỗ từ thị trường giao sau của CTCP cà phê PETEC và THV

Bảng 2.5: Số liệu giao dịch giao sau tại BCEC từ tháng 3/2011 đến tháng 6/2011

7

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Hình 1.1: Gợi ý sơ đồ cấu trúc có tổ chức trong giao dịch giao sau

Hình 2.1: Giá cà phê Robusta tại thị trường Châu Âu và chỉ số giá tổng hợp ICO

tháng 11/2011

Hình 2.2: Giá cà phê xuất khẩu FOB tại cảng Thành phố Hồ Chí Minh và giá cà phê

tại Đăk Lăk tháng 11/2011

Hình 2.3: Nghề nghiệp của người được khảo sát

Hình 2.4: Trình độ học vấn của người được khảo sát

Hình 2.5: Mức độ nhận biết các sàn giao dịch cà phê

Hình 2.6: Mức độ thường xuyên giao dịch tại sàn giao dịch cà phê

Hình 2.7: Mức độ hài lòng khi tham gia sàn giao dịch BCEC

Hình 2.8: Lý do tác động đến việc không muốn tham gia sàn giao dịch BCEC

8

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Thị trường giao sau hàng hóa trên thế giới đã xuất hiện từ thế kỷ thứ 19 tại

Hoa Kỳ và đang tăng trưởng với tốc độ ngày càng nhanh hơn do giới đầu tư chuyển

hướng và nâng tỷ trọng của hàng hóa trong danh mục đầu tư bởi họ đã nhận thấy sự

mất cân bằng cung cầu trên thị trường hàng hóa và giao dịch hàng hóa trở nên dễ

dàng hơn với mọi đối tượng. Trong khu vực, những nền kinh tế có đặc điểm tương

tự với Việt Nam như Trung Quốc, Malaysia và Ấn Độ cũng có những bước phát

triển nhảy vọt trong thị trường giao sau hàng hóa.

Ở Việt Nam, thị trường giao sau hàng hóa chính thức xuất hiện từ cuối năm

2004 với sản phẩm hợp đồng giao sau hàng hóa được cung cấp bởi những nhà môi

giới là Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) và Ngân hàng Đầu

tư và Phát triển Việt Nam (BIDV). Những năm gần đây, lần lượt các ngân hàng như

Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng TMCP Quân

đội, Ngân hàng TMCP Đông Á, Ngân hàng TMCP Hàng Hải, Ngân hàng TMCP

Xăng dầu Petrolimex... cũng bắt đầu triển khai dịch vụ giao dịch hợp đồng giao sau

hàng hóa.

Việt Nam là nước có sản lượng cà phê đứng thứ hai trên thế giới chỉ sau

Brazil. Sản xuất cà phê của Việt Nam vẫn ở trong quy mô nhỏ lẻ. Trong những năm

qua đã không ít lần phải chứng kiến cảnh các địa phương, các doanh nghiệp kinh

doanh cà phê do không ổn định đầu ra nên sản xuất mang tính tự phát, còn nông dân

trồng cà phê thì bị cuốn vào vòng luẩn quẩn “trồng – chặt – trồng” và “được mùa

mất giá, mất mùa được giá” khiến việc lập kế hoạch sản xuất - kinh doanh, định giá

rất bị động, thu nhập người sản xuất và kinh doanh cà phê đều không ổn định. Hơn

nữa, ngành cà phê Việt Nam vẫn tồn tại những phương thức kinh doanh mua bán

cũ, không phù hợp để có thể cạnh tranh với các nước trên thế giới, nền sản xuất

trong nước phụ thuộc vào biến động giá cà phê thế giới mà giá này được người mua

là các doanh nghiệp chế biến cà phê nước ngoài “sắp đặt sẵn” cho doanh nghiệp

xuất khẩu cà phê Việt Nam.

9

Thực tiễn cho thấy, đã đến lúc cần phát triển thị trường giao sau cà phê một

cách đúng nghĩa nhằm giúp các doanh nghiệp quản lý rủi ro biến động giá cà phê,

tạo điều kiện cho cả doanh nghiệp và những người sản xuất tập trung vào hoạt động

kinh doanh cốt lõi với chiến lược phát triển dài hạn, đảm bảo sự bình đẳng cho các

doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia cuộc cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp

nước ngoài trong bối cảnh thị trường hàng hóa liên tục biến động.

Hiện tại, ở Việt Nam đã có Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam (VNX) cùng với

Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC) tổ chức thực hiện giao dịch

giao sau mặt hàng cà phê. Sự ra đời và hoạt động của VNX và BCEC đã bước đầu

hoàn chỉnh kết cấu của thị trường tài chính Việt Nam theo tiêu chuẩn quốc tế. Tuy

nhiên, hoạt động giao dịch giao sau cà phê thông qua VNX và BCEC vẫn còn rất

khiêm tốn về số lượng và giá trị giao dịch.

Vì vậy, việc tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân làm cho hoạt động giao dịch

giao sau cà phê tại Việt Nam chưa sôi động từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp

để phát triển giao dịch giao sau cà phê ở Việt Nam đưa thương hiệu cà phê Việt

Nam vươn lên vững mạnh trên thế giới là việc làm cấp thiết. Đề tài “Phát triển

giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam” đã được tác giả thực hiện để giải quyết

những vấn đề trên nhằm góp phần thúc đẩy giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam

ngày càng hoàn thiện hơn.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Đề tài nghiên cứu tập trung vào ngành cà phê, tìm hiểu những tồn tại vướng

mắc trong việc phát triển giao dịch giao sau cà phê.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu là các hoạt động giao dịch giao sau cà

phê tại Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC), tỉnh Đắk Lắk.

3. Mục tiêu nghiên cứu:

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là thực trạng ngành cà phê Việt Nam và thực

trạng giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam nhằm tìm ra những giải pháp phát triển

giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam, đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp và người

nông dân.

10

4. Phương pháp nghiên cứu:

Tác giả đã dùng phương pháp tổng hợp các thông tin, tài liệu liên quan đến

giao dịch giao sau từ các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới và ở Việt Nam, báo,

tạp chí, internet…và hệ thống hóa các thông tin để cho thấy cái nhìn tổng quát về

thực trạng giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, tác giả cũng kết hợp với phương pháp nghiên cứu thông qua

khảo sát bằng bản câu hỏi nhằm đánh giá mức độ nhận biết các sàn giao dịch cà

phê, mức độ thường xuyên giao dịch tại sàn, mức độ hài lòng khi tham gia sàn

BCEC và lý do tác động đến việc không muốn giao dịch tại sàn BCEC của cộng

đồng kinh doanh cà phê tại tỉnh Đắk Lắk.

Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu được đề cập ở trên, luận văn nghiên cứu

tập trung trả lời những câu hỏi nghiên cứu sau:

1) Lợi ích của giao dịch giao sau đối với những người tham gia giao dịch

giao sau và đối với Nhà nước?

2) Rủi ro của việc giao dịch những hợp đồng giao sau?

3) Thực trạng ngành cà phê Việt Nam có những tồn tại, khó khăn gì?

4) Thực trạng giao dịch giao sau cà phê ở Việt Nam trong thời gian qua như

thế nào?

5) Những giải pháp nào cần phải đặt ra để phát triển giao dịch giao sau cà

phê ở Việt Nam?

5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài nghiên cứu:

Thông qua quá trình khảo sát thực tế giao dịch giao sau cà phê tại BCEC của

cộng đồng kinh doanh cà phê tại tỉnh Đắk Lắk – tỉnh có sản lượng cà phê lớn nhất

nước Việt Nam, đề tài nghiên cứu đã đưa ra cái nhìn tổng quan về nhận thức của họ

đối với hoạt động giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam, từ đó thấy được nguyên

nhân tại sao hoạt động giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam chưa phát triển.

Dựa trên tình hình thực tế của ngành sản xuất kinh doanh cà phê Việt Nam,

thực trạng giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam, đề tài đề xuất một số giải pháp

11

khả thi nhằm phát triển giao dịch giao sau cà phê ngày càng hoàn thiện, đưa ngành

cà phê Việt Nam phát triển xứng tầm với tiềm lực vốn có của mình.

6. Kết cấu của luận văn:

Mở đầu.

Chương 1: Khung lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về giao dịch giao

sau.

Chương 2: Tổng quan ngành cà phê Việt Nam và thực trạng giao dịch giao

sau cà phê ở Việt Nam.

Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị phát triển giao dịch giao sau cà phê

tại Việt Nam.

Kết luận.

12

CHƯƠNG 1: KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC

NGHIỆM VỀ GIAO DỊCH GIAO SAU

1.1 Khung lý thuyết về giao dịch giao sau:

1.1.1 Lợi ích của giao dịch giao sau:

1.1.1.1 Đối với những người tham gia giao dịch giao sau:

Giao dịch giao sau là công cụ phòng ngừa rủi ro

Những người có nhu cầu phòng ngừa rủi ro bao gồm người sản xuất, người

sở hữu hàng hóa, người xuất khẩu, người nhập khẩu,…sử dụng hợp đồng giao sau

để phòng ngừa rủi ro cho hoạt động kinh doanh của mình. Họ phòng ngừa những

rủi ro không lường trước được về giá cả hàng hóa, tỷ giá hối đoái, lãi suất… Lợi ích

của người có nhu cầu phòng ngừa rủi ro khi mua hợp đồng giao sau của cùng loại

và cùng số lượng hàng hóa là để chốt giá mua và đạt được mục đích bảo hộ khi giá

tăng. Còn khi họ bán hợp đồng giao sau của cùng loại và cùng số lượng hàng hóa là

để chốt giá bán và đạt được mục đích bảo hộ khi giá giảm. Họ có thể lựa chọn, một

là thực hiện đúng như hợp đồng, hoặc hai là thanh lý hợp đồng bằng thanh toán bù

trừ. Thông thường, vì những lý do bị động về thời gian, địa điểm giao hàng, người

có nhu cầu phòng ngừa rủi ro vẫn thích thực hiện nghiệp vụ thanh toán bù trừ để

bảo vệ cho rủi ro của họ.

Ví dụ cho thấy lợi ích của giao dịch giao sau đối với nông dân:

Hiện tại là tháng 04, một nông dân trồng cà phê dự trù bán 4 tấn cà phê sau

khi thu hoạch vào tháng 07. Nông dân dự kiến vào thời điểm thu hoạch nhiều khả

năng giá sẽ giảm mạnh và nông dân sẽ bán được giá thấp dẫn đến thua lỗ. Nếu

không bán ra tại thời điểm thu hoạch, thì chỉ có thể là giữ hàng chờ cho đến khi nào

giá lên. Lúc đó, nông dân sẽ đối mặt với nhiều rủi ro như: biết khi nào giá lên,

không có vốn tái sản xuất, tốn tiền và thâm hụt do trữ hàng trong kho, lãi ngân hàng

và mất đi rất nhiều chi phí cơ hội khác mà lẽ ra nếu bán trước thì nông dân đã có

được khoản tiền thực hiện rất nhiều việc khác, chứ không phải chờ giá lên. Để bảo

13

hộ rủi ro về giá, đồng thời tăng tính chủ động cho chính mình, nông dân thực hiện

vị thế là bán trước cà phê bằng hợp đồng giao sau tại Trung tâm giao dịch cà phê

Buôn Ma Thuột (BCEC) (Giả sử hoạt động giao dịch tại BCEC sôi động). Giả sử

hiện tại hợp đồng cà phê tháng 07 được giao dịch trên BCEC tại mức giá 42.000

VNĐ/kg. Sau khi tính toán thấy có lợi nhuận ở mức giá bán 42.000 VNĐ/kg, nông

dân thực hiện bán 2 hợp đồng giao sau tháng 07 trên sàn BCEC (khối lượng mỗi

hợp đồng giao sau là 2 tấn). Giả sử không có các loại phí và giá thị trường giao sau

bằng với giá thị trường giao dịch tiền mặt. Chúng ta cùng xem xét vấn đề gì sẽ xảy

ra với nông dân khi thời điểm tháng 07 đến.

Tình huống 1: Giá giao sau tháng 07 đạt 35.000 VNĐ/kg, giảm 7.000

VNĐ/kg so với mức giá mong muốn bán của nông dân. Nông dân mua 2 hợp đồng

giao sau tháng 07 tại mức giá 35.000 VNĐ/kg để bù trừ vị thế và thanh lý hợp đồng.

Nông dân lời từ thị trường giao sau là (42.000-35.000) VNĐ/kg x 4 tấn =

28.000.000 VNĐ. Nông dân bán 4 tấn cà phê thực trên thị trường giao dịch tiền mặt

với giá 35.000 VNĐ/kg và thu được 140.000.000 VNĐ. Tổng số tiền lời từ thị

trường giao sau và số tiền bán cà phê thực trên thị trường giao dịch tiền mặt là

28.000.000 VNĐ + 140.000.000 VNĐ = 168.000.000 VNĐ, tương đương với giá

bán mong muốn là 42.000 VNĐ/kg. Nông dân hoàn toàn làm chủ được nguồn vốn

của mình mà không bị lệ thuộc chờ giá thị trường.

Tình huống 2: Giá giao sau tháng 07 đạt 50.000 VNĐ/kg. Để thanh lý hợp

đồng, nông dân mua 2 hợp đồng giao sau tháng 07 tại mức giá 50.000 VNĐ/kg và

lỗ (50.000-42.000) VNĐ/kg x 4 tấn = 32.000.000 VNĐ. Đồng thời, nông dân bán 4

tấn cà phê thực trên thị trường giao dịch tiền mặt với giá 50.000 VNĐ/kg và thu

được 200.000.000 VNĐ. Số tiền nông dân bán cà phê trên thị trường giao dịch tiền

mặt trừ đi khoản lỗ từ thị trường giao sau là 200.000.000 – 32.000.000 =

168.000.000 VNĐ, tương đương với giá bán mong muốn là 42.000 VNĐ/kg.

Như vậy, trong trường hợp nếu như giá giảm mà nông dân không bảo hộ giá

trên thị trường bằng việc bán trước hợp đồng giao sau, thì khi vào vụ thu hoạch

tháng 07 nông dân sẽ bị thiệt hại rất lớn và bị thụ động về vốn chuẩn bị cho mùa vụ

14

kế tiếp của mình. Còn trong trường hợp giá tăng, mặc dù nông dân không được

hưởng lợi từ việc tăng giá nhưng ít nhiều đã chủ động và phòng tránh được rủi ro

trong trường hợp giá giảm là điều quan trọng nhất đối với nông dân trồng cà phê.

Để tăng tính hiệu quả trong trường hợp giá tăng, thì điều nhất thiết nông dân phải

biết phân tích và dự báo được xu hướng sắp tới của giá cà phê, để từ đó ra quyết

định có nên vào trạng thái bán trước hợp đồng giao sau hay không và bán vào thời

điểm nào.

Ví dụ cho thấy lợi ích của giao dịch giao sau đối với doanh nghiệp kinh

doanh cà phê:

Vào tháng 04, một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cà phê vừa ký

hợp đồng bán cho một đối tác nước ngoài 100 tấn cà phê nhân, giao hàng trong

vòng ba tháng tại mức giá cố định 43.000 VNĐ/kg. Hiện tại giá hợp đồng giao sau

tháng 07 là 38.000 VNĐ/kg. Sau khi tính toán tất cả chi phí và thấy có lợi nhuận,

doanh nghiệp quyết định mua 50 hợp đồng giao sau cà phê tháng 07 trên sàn BCEC

tại mức giá 38.000 VNĐ/kg. Giả sử hoạt động giao dịch tại BCEC sôi động, không

có các loại phí và giá thị trường giao sau bằng với giá thị trường giao dịch tiền mặt.

Có 2 tình huống xảy ra:

Tình huống 1: Giá giao sau tháng 07 đạt 48.000 VNĐ/kg. Doanh nghiệp

đóng vị thế bằng cách bán 50 hợp đồng giao sau cà phê tháng 07 tại mức giá 48.000

VNĐ/kg và lời (48.000 – 38.000) VNĐ x 100 tấn = 1.000.000.000 VNĐ. Tuy

nhiên, doanh nghiệp phải mua 100 tấn cà phê thực với giá 48.000 VNĐ/kg để thực

hiện cam kết với đối tác. Doanh nghiệp phải bỏ ra 4.800.000.000 VNĐ, trong khi

mức ký kết bán cho đối tác với tổng giá trị đơn hàng là 43.000 VNĐ x 100 tấn =

4.300.000.000 VNĐ, có nghĩa doanh nghiệp lỗ 500.000.000 VNĐ. Số tiền doanh

nghiệp bỏ ra mua trên thị trường giao dịch tiền mặt trừ đi số tiền lời từ thị trường

giao sau là 3.800.000.000 VNĐ, tương đương với mức giá kỳ vọng ban đầu là

38.000 VNĐ/kg.

Tình huống 2: Giá giao sau tháng 07 đạt 32.000 VNĐ/kg. Doanh nghiệp

đóng vị thế bằng cách bán 50 hợp đồng giao sau cà phê tháng 07 tại mức giá 32.000

15

VNĐ/kg và lỗ từ thị trường giao sau là (38.000 – 32.000) VNĐ/kg x 100 tấn =

600.000.000 VNĐ. Đồng thời, doanh nghiệp mua 100 tấn cà phê thực với giá

32.000 VNĐ/kg để thực hiện cam kết với đối tác. Doanh nghiệp phải bỏ ra

3.200.000.000 VNĐ, trong khi mức ký kết bán cho đối tác với tổng giá trị đơn hàng

là 4.300.000.000 VNĐ, có nghĩa doanh nghiệp sẽ lời 1.100.000.000 VNĐ. Số tiền

doanh nghiệp phải bỏ ra mua trên thị trường giao dịch tiền mặt cộng với khoản lỗ từ

thị trường giao sau là 3.800.000.000 VNĐ, tương đương với mức giá kỳ vọng ban

đầu là 38.000 VNĐ/kg.

Như vậy, nếu như giá tăng mà doanh nghiệp không bảo hộ giá trên thị trường

bằng việc mua hợp đồng giao sau, thì khi tới thời điểm giao hàng vào tháng 07,

doanh nghiệp sẽ bị thiệt hại rất lớn và rất dễ bị bội tín với đối tác. Còn trong trường

hợp giá giảm, mặc dù doanh nghiệp không được hưởng lợi từ việc giảm giá nhưng

ít nhiều đã chủ động và phòng tránh được rủi ro trong trường hợp giá tăng là điều

quan trọng nhất trong kinh doanh. Việc chọn thời điểm mua sẽ tùy thuộc vào khả

năng phân tích - dự báo giá của doanh nghiệp, càng phân tích – dự báo giá tốt,

doanh nghiệp càng chọn được thời điểm tốt để ra quyết định thực hiện mua hợp

đồng cà phê, đồng thời doanh nghiệp càng có lợi. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp,

doanh nghiệp sẽ phòng tránh được rủi ro biến động giá cà phê tăng cao dẫn đến việc

không thu mua được hàng giao cho đối tác hoặc gây lỗ nặng cho doanh nghiệp.

Giao dịch giao sau là công cụ đầu cơ:

Giao dịch giao sau hấp dẫn các nhà đầu cơ tham gia kiếm lời vì khi tham gia

giao dịch giao sau, họ không phải bỏ ra đầy đủ số tiền như mình đã ký kết trong hợp

đồng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình, thay vào đó là đóng tiền ký

quỹ cho mỗi lần giao dịch và đạt mức duy trì tài khoản ký quỹ. Thông thường, mức

tiền ký quỹ chỉ nằm trong khoảng từ 2% đến 20% giá trị hợp đồng giao sau tùy

thuộc vào loại hàng hóa. Mức tiền ký quỹ càng thấp thì khả năng đòn bẩy tài chính

càng cao và càng hấp dẫn các nhà đầu cơ sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Các nhà đầu cơ

mua hợp đồng giao sau nhằm kiếm lời từ việc tăng giá và bán hợp đồng giao sau

nhằm kiếm lời từ việc giảm giá.

16

Ví dụ cho thấy lợi ích của giao dịch giao sau đối với nhà đầu cơ:

Khi nhà đầu cơ cho rằng giá cà phê sẽ giảm trong tháng tới, nhà đầu cơ quyết

định bán 5 hợp đồng giao sau trên sàn BCEC tại mức giá 44.000VNĐ/kg (Giả sử

hoạt động giao dịch tại BCEC sôi động và không có các loại phí). Tổng giá trị cho

hợp đồng là 5 x 2 tấn x 44.000 VNĐ/kg = 440.000.000 VNĐ (khối lượng mỗi hợp

đồng giao sau là 2 tấn). Và để thực hiện hợp đồng này, nhà đầu cơ cần ký quỹ giao

dịch là 15% x 440.000.000 VNĐ = 66.000.000 VNĐ. Giả sử vào tháng sau, giá

hợp đồng giao sau cà phê giảm 10% tức đạt 39.600 VNĐ/kg, nhà đầu cơ quyết định

đóng trạng thái hợp đồng đã bán trước đó bằng cách mua 5 hợp đồng giao sau trên

sàn BCEC tại mức giá 39.600 VNĐ/kg. Nhà đầu cơ thu được lợi nhuận 440.000.000

– 5 x 2 tấn x 39.600 VNĐ/kg = 44.000.000 VNĐ. Tỷ lệ lợi nhuận/tiền ký quỹ là

67%.

Đòn bẩy tài chính giúp nhà đầu cơ tham gia giao dịch giao sau kiếm lời

nhiều. Tuy nhiên, nếu như nhà đầu cơ không biết quản lý rủi ro và không có kỹ

năng phân tích – dự báo giá thì khi giá đi ngược xu hướng, nhà đầu cơ buộc phải

đóng thêm tiền ký quỹ theo quy định để duy trì tài khoản và có thể thua lỗ nặng nề.

Giao dịch giao sau là công cụ điều chỉnh giá cả trên thị trường:

Việc các bên mua bán hàng hóa với giá cả dự kiến trong tương lai giúp cho

thị trường tự điều chỉnh giá. Nếu có một tin xấu (chẳng hạn như thời tiết khó khăn

có thể gây mất mùa) hoặc tin tốt (được mùa) sẽ xảy ra trong tương lai thì giá cả của

mặt hàng đó sẽ tự động điều chỉnh trong một thời gian trên thị trường giao sau trước

khi có sự thay đổi giá thực sự trên thị trường tự do. Nhờ biết trước được giá cả dự

kiến trong tương lai nên những người cần bảo hộ có thể điều tiết sản xuất, tự động

cân bằng cung cầu. Hơn thế nữa, việc niêm yết giá cả công khai trên thị trường sẽ

giúp cho các nhà kinh doanh không lo việc mua bán không đúng giá, ép giá. Giá cả

được niêm yết công khai không chỉ lợi cho những người giao dịch giao sau mà nó

còn là căn cứ để các nhà kinh doanh trong nước, khu vực hoặc thế giới thực hiện

việc mua bán của mình.

17

1.1.1.2 Đối với việc quản lý kinh tế của Nhà nước:

Giao dịch giao sau giúp cho Nhà nước và các thành phần tham gia giao dịch

giao sau nắm được quan hệ cung cầu và giá cả. Sự giao dịch tập trung giúp cho diễn

tiến giá trên thị trường phản ánh được quan hệ cung cầu, đặc biệt hơn ở chỗ là giá

cả đó lại là giá cả dự kiến trong tương lai. Những người bảo hộ sẽ không lo bị ép

giá và tự động điều tiết việc sản xuất của mình dựa trên quan hệ cung cầu trên thị

trường. Còn Nhà nước thì biết được quan hệ cung cầu và giá cả để định hướng sản

xuất, thực hiện việc quản lý kinh tế vĩ mô của mình.

Việc tiêu chuẩn hóa trong giao dịch giao sau giúp Nhà nước tiêu chuẩn hóa

và thống nhất chất lượng hàng hóa phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời

nâng cao quy mô sản xuất để tiến tới một nền sản xuất chuyên nghiệp, có định

hướng hơn, tránh sự sản xuất thiếu tập trung.

Ngoài ra, việc ghi sổ, cập nhật các thành phần tham gia, các lĩnh vực được

mua bán, sự thay đổi giá cả, thông tin…trên thị trường giao sau có ý nghĩa rất lớn

trong việc thống kê thương mại. Với nguồn dữ liệu thống kê được trong quá khứ,

Nhà nước có cơ sở đưa ra được những dự đoán trong tương lai, tránh rơi vào những

tình huống xấu xảy đến bất ngờ và thực hiện việc quản lý kinh tế hiệu quả hơn.

1.1.2 Rủi ro của việc giao dịch những hợp đồng giao sau:

1.1.2.1 Rủi ro thị trường:

Rủi ro đầu tiên của giao dịch giao sau là rủi ro thị trường, rủi ro này liên

quan đến sự dao động trong giá trị của những công cụ do tình hình thị trường.

Những công ty sử dụng hợp đồng giao sau để đầu cơ sẽ liên quan mật thiết

đến tình hình thị trường. Nếu những mong đợi của họ về tình hình thị trường là sai

họ phải chịu tổn thất trên những hợp đồng giao sau. Ví dụ, một công ty mua một

hợp đồng giao sau, công ty sẽ lỗ nếu giá xuống. Ngược lại, nếu công ty bán một hợp

đồng giao sau, công ty sẽ lỗ nếu giá lên. Trên lý thuyết khoản lỗ này sẽ không giới

hạn bởi không có giới hạn mức giá sẽ tăng hoặc giảm bao nhiêu. Những công ty sử

dụng hợp đồng giao sau để phòng ngừa thì ít liên quan đến tình hình thị trường vì

18

khi thị trường đi ngược lại những dự đoán của họ, họ sẽ có được một phần lợi

nhuận bù trừ trên vị thế mà họ đã phòng ngừa.

1.1.2.2 Rủi ro basic:

Loại rủi ro thứ hai là rủi ro basic. Basic thường được định nghĩa là giá giao

ngay trừ đi giá giao sau. Giá giao ngay tăng nhiều hơn giá giao sau, basic sẽ tăng

lên và được gọi là basic mở rộng. Nó làm cải thiện thành quả của phòng ngừa vị thế

bán. Nếu giá giao sau tăng nhiều hơn giá giao ngay, basic sẽ giảm và làm giảm đi

thành quả của phòng ngừa, đây được gọi là basic thu hẹp. Rủi ro này xảy ra cho

những công ty, cá nhân sử dụng hợp đồng giao sau để phòng ngừa.

Ví dụ basic ảnh hưởng hiệu quả của hoạt động phòng ngừa

Vào tháng 07, một doanh nghiệp kinh doanh cà phê đang có kế hoạch bán 50

tấn cà phê đang trữ trong kho vào tháng 11 tới. Sau khi tính toán tất cả các chi phí,

doanh nghiệp kỳ vọng basic là + 20 USD/tấn và bán 5 hợp đồng giao sau cà phê

tháng 11 trên sàn LIFFE (khối lượng mỗi hợp đồng giao sau trên sàn LIFFE là 10

tấn) tại mức giá là 2.040 USD/tấn để bảo hộ rủi ro về giá cà phê. Giá bán kỳ vọng

của doanh nghiệp trên thị trường giao dịch tiền mặt là 2.040 + 20 = 2.060 USD/tấn.

Giả sử không có các loại phí giao dịch.

Giả sử vào tháng 11, giá thị trường giao sau cà phê giảm đạt 1.800 USD/tấn

và giá thị trường giao dịch tiền mặt đạt 1.810 USD/tấn. Basic là 10 USD/tấn giảm

so với basic kỳ vọng. Doanh nghiệp bán 50 tấn cà phê thực trong kho với giá 1.810

USD/tấn và lỗ (2.060 – 1.810) USD/tấn x 50 tấn = 12.500 USD. Doanh nghiệp mua

5 hợp đồng giao sau trên sàn LIFFE với giá 1.800 USD/tấn và lời (2.040-1.800)

USD/tấn x 50 tấn = 12.000 USD. Kết quả doanh nghiệp lỗ 12.500 – 12.000 = 500

USD. Vì basic giảm nên khoản lời từ thị trường giao sau không bù trừ hoàn toàn

khoản lỗ từ thị trường giao dịch tiền mặt.

19

1.1.2.3 Rủi ro bị thanh lý hợp đồng trước hạn:

Lời hoặc lỗ của các nhà đầu tư giao dịch hợp đồng giao sau trên các Sở giao

dịch hàng hóa được phản ánh lên tài khoản nhà đầu tư hàng ngày, thông qua “mark-

to-market”. Các biến động về tình hình thị trường hàng hóa có tác động lớn đến các

giao dịch tại các Sở giao dịch, điều này có thể khiến nhà đầu tư bị lỗ. Nếu khoản lỗ

vượt quá mức ký quỹ duy trì trạng thái thì nhà đầu tư buộc phải bổ sung thêm tiền

vào tài khoản, hoặc sẽ bị các Sở giao dịch thanh lý hợp đồng trước hạn.

1.1.2.4 Rủi ro không thể đóng vị thế trước khi hợp đồng đáo hạn:

Thông thường, nhà đầu tư tham gia vào một giao dịch bù trừ vị thế để đóng

lại vị thế hiện tại trước ngày đáo hạn hợp đồng. Sẽ thật là bi kịch nếu như họ muốn

thoát khỏi vị thế hiện tại của mình và đã làm mọi cách nhưng vẫn không thể thực

hiện được, không thể chốt lời mà cũng không ngăn được lỗ. Điều này hoàn toàn có

thể xảy ra trong các trường hợp sau:

- Giao dịch bị tạm ngừng, chẳng hạn do Sở giao dịch phát hiện trên thị

trường đang diễn ra giao dịch bất thường, có yếu tố gian lận, lũng đoạn… Hoặc do

phát sinh các vấn đề nghiêm trọng đối với đơn vị bán hàng (như sản xuất bị đình trệ

kéo dài,…)

- Hệ thống giao dịch của Sở giao dịch đột nhiên bị lỗi, không thể xử lý giao

dịch một cách chính xác.

- Thị trường giao dịch hàng hóa kém thanh khoản, thiếu vắng người mua

hoặc bán. Khi thị trường kém thanh khoản thì nhà đầu tư có muốn bán hàng hóa đi

cũng không dễ gì thực hiện được.

1.1.2.5 Rủi ro khi hàng hóa giao dịch không đạt tiêu chuẩn:

Giao dịch hợp đồng giao sau trên Sở giao dịch hàng hóa có thể xảy ra khả

năng hàng hóa không đạt tiêu chuẩn. Trong trường hợp này có thể xảy ra tranh chấp

giữa người mua và người bán về chất lượng hàng hóa, và về nguyên tắc Sở giao

dịch hàng hóa phải chịu trách nhiệm với người mua nếu hàng hóa đó thật sự không

đạt tiêu chuẩn quy định.

20

1.1.2.6 Rủi ro tổ chức:

Rủi ro thứ 6 là rủi ro tổ chức, là loại rủi ro liên quan đến tổn thất như là hậu

quả của việc quản lý và giám sát lỏng lẻo. Những công ty sử dụng hợp đồng giao

sau để phòng ngừa rủi ro đã lỏng lẻo, có những nhân viên phụ trách vị thế giao sau

không hoàn toàn hiểu cách làm thế nào giá trị của những hợp đồng giao sau tương

ứng với tình hình thị trường. Mặc khác, những nhân viên kia có thể tham gia vào vị

thế đầu cơ hơn là mong muốn của công ty nếu công ty không giám sát vị thế của họ.

1.2 Các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới và ở Việt Nam:

1.2.1 Các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới:

Có rất nhiều nghiên cứu trên thế giới về giao dịch giao sau. Trong luận văn

này, tôi chỉ trình bày một số nghiên cứu cho thấy sự phổ biến của giao dịch giao

sau, trường hợp giao dịch giao sau không đem lại nhiều lợi ích trong việc phòng

ngừa rủi ro, trường hợp giao dịch giao sau làm tăng biến động giá và yếu tố nào

đáng quan tâm để thiết lập thành công Sở giao dịch hàng hóa.

Giao dịch giao sau hàng hóa đã trở nên phổ biến và có ý nghĩa cho việc

phòng ngừa rủi ro. Rajesh Chakrabarti (2004) đã cho thấy các sản phẩm tài chính

phái sinh, giao sau, kỳ hạn đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới. Giao dịch giao sau

hàng hóa tạo thành một phần nhỏ của các thương vụ nhưng mang một ý nghĩa quan

trọng cho việc bảo hiểm rủi ro cho sản xuất nông nghiệp và người tiêu dùng. Tại Ấn

Độ, các giao dịch giao sau đã bị cấm trong nhiều thập kỷ trước khi nó được hợp

pháp hóa lại vào giữa những năm 90. Kể từ đó giao dịch giao sau hàng hóa được

thực hiện với hơn 25 Sở giao dịch, trong đó bốn Sở giao dịch hàng hóa chính chủ

yếu giao dịch giao sau. Mỗi Sở giao dịch đều có nét đặc trưng riêng về quy cách

hợp đồng cũng như phương thức thanh toán. Để liên kết với phần còn lại của thế

giới, các Sở giao dịch hàng hóa giao sau tại Ấn Độ cũng ngày càng gia tăng việc

giao dịch với hệ thống mạng lưới giao dịch điện tử.

Tuy nhiên, vẫn có nghiên cứu cho thấy giao dịch giao sau không đem lại

nhiều lợi ích trong việc phòng ngừa rủi ro? Peter Hazell (2000) đã phân tích cho

21

thấy giá cà phê ở thị trường Costa Rica và thị trường New York không hoàn toàn

tương quan và các lợi ích tiềm năng từ việc sử dụng thị trường giao sau New York

để cung cấp các hợp đồng giá kỳ hạn khi thu hoạch được tìm thấy là khá khiêm tốn.

Các nông dân trồng cà phê ở Costa Rica gần như hoàn toàn phải đối mặt với sự biến

động về giá cà phê trên thế giới. Mặc dù diện tích nông trại nhỏ, chuyên môn hóa về

cà phê và một hệ thống tiếp thị làm kéo dài độ bất ổn và làm trầm trọng thêm các

vấn đề về dòng tiền nhưng phần lớn nông dân vẫn có thể kiểm soát những rủi ro về

giá một cách đáng ngạc nhiên. Họ khá giàu có, có dòng tiền mặt theo mùa thuận lợi,

sẵn sàng tiếp cận tín dụng, có khả năng gánh chịu những rủi ro, và có thể dự báo giá

chính xác so với thị trường giao sau New York.

Tiến sĩ K.G. Sahadevan (2003) trình bày nhiều Sở giao sau hàng hóa không

mang lại một sự phòng ngừa hiệu quả chống lại rủi ro phát sinh từ biến động giá

của nhiều sản phẩm nông nghiệp, khi mà họ thực hiện giao dịch giao sau. Các kết

quả thu được từ phân tích thống kê các dữ liệu dựa trên phát hiện giá (price

discovery) trong một mẫu gồm sáu mặt hàng được giao dịch tại bốn Sở giao dịch

hàng hóa cho thấy rằng thị trường giao sau đối với những mặt hàng này không hiệu

quả trong trường hợp giá cả giao sau không phải là một dự đoán khách quan về giá

cả trong tương lai. Những hạn chế trong tổ chức và chính sách đối với giao dịch

giao sau yêu cầu cách tiếp cận tập trung hơn từ phía Chính phủ. Các nhà quản lý và

các Sở giao dịch giao sau hàng nông sản cần phải có nhiều biện pháp nhằm làm cho

giao dịch giao sau là một phương thức quản lý rủi ro giá, một vai trò quan trọng,

đặc biệt là trong khi nông nghiệp đóng một vai trò chủ chốt trong nền kinh tế của

Ấn Độ.

Nghiên cứu của Golaka C Nath và Thulasamma Lingareddy (2008) cho rằng

giao dịch giao sau đã làm tăng biến động giá trong thị trường giao ngay (spot

market) đối với một số hàng hóa. Nghiên cứu trình bày Ấn Độ đã cho phép nhiều

mặt hàng nông nghiệp được giao dịch giao sau rộng khắp cả nước và sau đó, một

vài mặt hàng bị cấm giao dịch giao sau do áp lực về giá giao ngay (spot price) của

các mặt hàng này. Nghiên cứu cho thấy tác động của giao dịch giao sau ba mặt hàng

22

quan trọng mà đã bị cấm giao dịch giao sau bởi chính phủ đối với giá giao ngay.

Nghiên cứu đã sử dụng phép hồi quy tuyến tính, sự tương quan và thực nghiệm

Granger Causality để tìm ra câu trả lời. Nghiên cứu cũng cố gắng tìm ra kết quả dựa

trên các dao động giá theo mùa hoặc theo chu kỳ của những hàng hóa đã bị ảnh

hưởng bởi sự xuất hiện của các giao dịch giao sau. Ngoài ra, nghiên cứu đã sử dụng

phương pháp lọc Hodrick-Prescott nhằm phân biệt xu hướng chung và các biến

động giá theo mùa hoặc theo chu kỳ. Nghiên cứu tìm ra rằng trong giao dịch giao

sau đối với những hàng hóa được lựa chọn ở Ấn Độ, rõ ràng đã dẫn đến việc tăng

giá các hàng hóa như urad, nhưng không có thể thống kê được đúng đối với các mặt

hàng khác. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy rằng sự xuất hiện giao dịch giao sau các

hàng hóa được lựa chọn đã không giúp làm giảm các biến động giá theo mùa hoặc

theo chu kỳ.

Dù trên thế giới đã xảy ra những tranh cãi giữa những nhà kinh tế học về lợi

ích của giao dịch giao sau nhưng nhìn chung các nghiên cứu vẫn cho thấy tầm quan

trọng của giao dịch giao sau. Do đó, nhiều quốc gia đã thúc đẩy Sở giao dịch hàng

hóa để phát triển giao dịch giao sau. Và yếu tố nào đáng quan tâm để thiết lập thành

công Sở giao dịch hàng hóa? Euna Shim (2006) cho rằng thị trường giao sau thường

có đặc trưng bởi khả năng thanh khoản - nghĩa là một Sở giao dịch thành công nếu

thiết lập được một hợp đồng cụ thể có tính thanh khoản cao, ngược lại với Sở giao

dịch khác không có khả năng thành công đối với hợp đồng này. Tính thanh khoản

đã được tìm thấy chủ yếu là trong các Sở giao dịch ở các nước tiên tiến và thị

trường các nước đang phát triển thường dựa vào giao dịch giao sau tại các Sở giao

dịch này để phòng ngừa rủi ro về giá tại thị trường trong nước. Trong những năm

gần đây, một số nước đang phát triển đã thành công trong việc thành lập các Sở

giao dịch trong nước và hợp đồng các mặt hàng nông nghiệp cạnh tranh với các Sở

giao dịch quốc tế có tính thanh khoản cao. Nghiên cứu đưa ra một phân tích kỹ

lưỡng về những vấn đề quan trọng trong việc tạo ra các kết quả đáng chú ý của các

Sở giao dịch hàng hóa ở một số nước đang phát triển thông qua các kiểm định của

một tập hợp các giả thuyết. Kết quả nghiên cứu từ bảy quốc gia cho thấy rằng hợp

23

đồng với những sản phẩm cơ bản khác biệt so với những sản phẩm hiện hành hoặc

mang những rủi ro basic lớn là một trong những yếu tố thành công quan trọng nhất.

Sự hiện diện của thị trường trong nước đủ lớn cũng không kém phần quan trọng,

với sự phát triển của các môi giới định chế tài chính, thể chế luật và sự hiện diện

của những cam kết từ tư nhân, doanh nghiệp và chính phủ nhằm tạo thanh khoản.

Kinh tế vĩ mô ổn định chính là tiền đề và hội nhập giữa các ngành công nghiệp ở

mức độ thấp và các bổ sung định hướng xuất khẩu hiện có đã cho thấy được mối

tương quan yếu với những thành công được tìm thấy ở các nước đang phát triển.

Gideon Onumah (2009) trình bày những lợi ích tiềm năng có thể đạt được

mà các bên liên quan bao gồm cả tư nhân và chính quyền ở Ghana và Nigeria theo

đuổi các sáng kiến để thiết lập các Sở giao dịch hàng hóa nông nghiệp và cơ sở hạ

tầng liên quan, bao gồm cả các hệ thống kho giao nhận hàng hóa. Một số sáng kiến

đã được thực hiện hoặc được hỗ trợ bởi các dự án có tài trợ. Mặc dù cách thực hiện

ở hai nước khác nhau, kết quả đạt được vẫn tương tự, đó là việc thiết lập Sở giao

dịch hàng hóa ở hai nước vẫn chưa khả thi. Nigeria khởi động bằng việc tập trung

xây dựng “cấu trúc siêu trao đổi” bằng cách thiết lập Sở Giao dịch Chứng khoán và

Hàng hóa Abuja (Abuja Securities and Commodity Exchange - ASCE) với những

nỗ lực để phát triển nền tảng cơ sở hạ tầng. ASCE hoạt động trong một khuôn khổ

pháp lý rõ ràng và hoạt động của Sở giao dịch hàng hóa cùng các thành viên giao

dịch được quản lý và giám sát bởi Ủy ban Giao dịch Chứng khoán Nigeria (Nigeria

Securities and Exchange Commission - NSEC). ASCE có cơ sở hạ tầng bao gồm

sàn giao dịch điện tử, hệ thống ngân hàng làm nhiệm vụ thanh toán bù trừ và một hệ

thống giải quyết các vấn đề tranh chấp. ASCE đã hoạt động khá tốt, không xuất

hiện các khiếu nại lớn từ các thành viên của thị trường. Tuy nhiên, hệ thống đảm

bảo chất lượng của ASCE cần được cải tiến về hình thức để đơn giản hóa các tiêu

chuẩn tạo cho việc giao dịch thêm thân thiện và ít tốn kém. Đồng thời, hệ thống

thông tin thị trường của ASCE cần phải được cải thiện để trở nên phù hợp hơn với

các thành viên thị trường. Hạn chế nhất của ASCE là hệ thống kho của ASCE

24

không thu hút được người ký gửi, do đó ASCE không thể phát hành và thúc đẩy

giao dịch các hợp đồng đã được tiêu chuẩn hóa.

Ngược lại, Ghana dường như đã chọn phát triển hệ thống kho giao nhận hàng

để củng cố giao dịch qua sàn. Những nỗ lực nhằm phát triển hệ thống kho giao nhận

hàng có vẻ tập trung gần như hoàn toàn vào vấn đề tín dụng đối với hàng gửi kho

hơn là đặt nền móng cho một hệ thống phân phối đáng tin cậy của sàn. Đó là khiếm

khuyết rõ ràng đã cản trở sự phát triển của hệ thống kho giao nhận hàng. Điều gây

ra ảnh hưởng xấu nhất cho các nỗ lực thúc đẩy hệ thống kho giao nhận hàng là các

chính sách hạn chế. Ghana tụt hậu so với Nigeria về phát triển cơ sở hạ tầng hỗ trợ

cho sàn giao dịch, nhưng sự hợp tác chiến lược giữa các bên liên quan đã cải thiện

đáng kể triển vọng cho việc thúc đẩy Sở giao dịch hàng hóa. Các bên tham gia khác

nhau trong liên minh đang tập trung nỗ lực vào việc phát triển các trụ cột, việc đó sẽ

đảm bảo tính khả thi của các đề xuất về Sở giao dịch Hàng hóa Ghana (Ghana

Commodity Exchange -GCX) và Ủy ban Giao dịch Chứng khoán (Securities and

Exchange Commission - SEC), đưa ra chương trình cho việc phát triển sàn giao

dịch, tập trung vào việc phát triển khuôn khổ pháp lý hiệu quả để hỗ trợ sàn giao

dịch và nền tảng cho hệ thống kho giao nhận hàng hóa.

Nghiên cứu của Sở giao địch hàng hóa của Ấn Độ (2008) cho thấy biến động

giá của các mặt hàng nông nghiệp tác động bất lợi đến thu nhập và đời sống của

nông dân, đặc biệt là các hộ nông dân nhỏ lẻ. Để hiểu được tính hiệu quả của nghiệp

vụ bảo hiểm rủi ro giá thông qua giao dịch giao sau, một dự án thí điểm được thực

hiện trong Surendranagar liên quan đến 67 người trồng bông. Mục tiêu của dự án thí

điểm này là để đi đến một mô hình làm việc với sự tham gia của nông dân trong

giao dịch phái sinh hàng hóa. Dự án thí điểm này bao gồm 67 nông dân, trong đó

76% là nông dân nhỏ lẻ (có diện tích đất ít hơn 5 mẫu và 24% còn lại là những nông

dân trung bình (có diện tích đất từ 5 mẫu cho 12,5 mẫu).

Trong số các nhóm nông dân, 87% người nông dân gieo bông vào mùa

Kharif. Khoảng 45% nhóm nông dân để đất bỏ hoang trong mùa Rabi trong khi

49% nhóm nông dân trồng lúa mì- cây trồng duy nhất trong mùa Rabi. Các hoạt

25

động chính của nghiên cứu là tiếp cận thông tin thị trường, sự nhận thức và đào tạo,

phát triển thể chế, hình thành các mối liên kết với các nhà cung cấp dịch vụ và các

tổ chức chuyên nghiệp, chấp nhận và thử nghiệm bảo hiểm rủi ro giá thông qua

hàng hóa phái sinh, chỉnh sửa lại các hợp đồng phái sinh hàng hóa hiện có.

Cách tiếp cận và thiết kế hoạt động dự án của nghiên cứu: hợp đồng giao sau

Kapas trên Sở giao dịch hàng hóa (Multi Commodity Exchange – MCX) được xác

định là hợp đồng phù hợp nhất cho bảo hiểm rủi ro giá bông. Dự án đòi hỏi phải

phát triển cấu trúc thông tin trên nền tảng sẽ giúp theo dõi các hoạt động giao hàng

thực của từng nông dân tham gia để quản lý trạng thái giao sau tương ứng trên Sở

giao dịch và sau đó phân phối lại các lợi ích của bảo hiểm rủi ro giá theo tỷ lệ tương

ứng giữa những người tham gia dự án. Tuy nhiên, do những hạn chế về thời gian và

hạn chế trong hiểu biết về giao dịch của nông dân, nên dự án được thực hiện trong

năm làng và người đại diện từ mỗi làng đưa ra quyết định về vị thế trên sở giao

dịch. Nông dân được chia thành các nhóm 3-4 người để đáp ứng tiêu chuẩn tối thiểu

4 tấn cho mỗi hợp đồng.

Để đánh giá hiệu quả của kế hoạch này, bản câu hỏi điều tra và tập trung

thảo luận nhóm được thực hiện. Bản điều tra bao gồm những điều khoản cần thiết

để giới thiệu 2 kịch bản Pre-Post và With-Without có liên quan đến sự can thiệp.

Nhóm điều hành chính trong kịch bản With-Without được thành lập từ 60 nông dân

ở quận Amreli và Surendranagar – đây có thể được xem tương đương như nhóm

những nông dân tham gia vào dự án thí điểm.

Những nội dung chính của quá trình điều tra để đánh giá dự án được tóm tắt

như sau :

- Giá bình quân thực hiện của nhóm nông dân tham gia thí điểm dự án là Rs

2541/quintal – cao hơn giá bình quân thực hiện của nhóm nông dân điều hành nhóm

là Rs 2460/quintal.

- Giá bình quân thực hiện của nhóm nông dân tham gia dự án thí điểm năm

nay là Rs 2531/quintal, cao hơn 5,9% so với giá bình quân thực hiện của chính

nhóm này trong năm ngoái là Rs 2399/quintal.

26

- Khoảng 38% sản lượng bông của nhóm thí điểm được bán sau tháng 11 –

so sánh với tỷ lệ 27% sản lượng của nhóm điều hành.

- Khoảng 38% sản lượng bông của nhóm thí điểm được bán sau tháng 11 –

so sánh với tỷ lê 29% sản lượng của chính nhóm này trong năm ngoái.

- Một trong những điểm thuận lợi chính của nhóm thí điểm là khả năng mặc

cả với người mua từ những hiểu biết của họ về giá giao sau (futures prices) và

những phát triển của thị trường bông.

Những vướng mắc trở ngại: những trở ngại chính đã phát sinh trong quá

trình thực hiện dự án này được nêu rõ dưới đây bởi các bên có liên quan :

- Trở ngại pháp lý :

+ Trở ngại pháp lý đầu tiên với nhóm nông dân tham gia vào thị trường hàng

hóa là những khó khăn về giấy tờ, văn bản…để mở một tài khoản ngân hàng/tài

khoản giao dịch.

+ Những giới hạn của những định chế tài chính tham gia vào thị trường

(ngân hàng, quỹ tương hỗ, định chế tài chính nước ngoài) cũng làm giảm tính thanh

khoản của thị trường hàng hóa và cho phép giao dịch nhiều hợp đồng để thao túng

giá và tích trữ thị trường.

+ Việc cấm đoán các giao dịch giao sau đối với các hàng hóa có tính chất

trọng yếu chiến lược sẽ làm ảnh hưởng đến niềm tin của đa số người dân và những

nhà đầu tư trên thị trường giao ngay trong việc quản trị rủi ro về giá một cách hiệu

quả trong giao dịch phái sinh hàng hóa.

+ Việc thiếu kiến thức, thông tin về những công cụ giúp quản trị rủi ro đã

được chứng minh hiệu quả quản lý rủi ro của nó đối với những người nông dân và

nhà đầu tư trên thị trường giao ngay tại nhiều quốc gia, sẽ gây cản trở cho những

người tham gia bảo hiểm hàng hóa ở Ấn Độ, làm cho họ dễ bị thương tổn bởi những

rủi ro rớt giá không có giới hạn trong giao dịch giao sau.

- Trở ngại về chính sách:

Những chính sách can thiệp của Chính phủ sẽ tạo những tác động trọng yếu

vào hướng diễn biến và độ biến động của giá hàng hóa. Những thay đổi chính sách

27

vội vã của Chính phủ thường gây nên sự mất cân bằng của thị trường, dẫn đến sự

thiên vị, bất công cho một hay một nhóm thành phần tham gia thị trường. Những sự

can thiệp không rõ ràng của Chính phủ sẽ tạo những ngăn cản đối với những thành

phần tham gia thị trường thực tế (bao gồm cả những người tham gia bảo hiểm) và

làm những hành vi thị trường tự do trong thị trường hàng hóa yếu đi.

- Trở ngại của tổ chức:

+ Những yêu cầu về thủ tục, giấy tờ và những phức tạp kỹ thuật có liên quan

đến việc giao dịch sản phẩm phái sinh hàng hóa đòi hỏi phải có sự tham dự của các

chủ thể là tổ chức, để hoạt động như các đơn vị hỗ trợ kỹ thuật cho người nông dân

tham gia vào Sở giao dịch hàng hóa. Những tổ chức như các tổ chức phi chính phủ,

hợp tác xã, công ty kinh doanh nông nghiệp, tổ chức nông dân có khả năng phục vụ

như những đơn vị hỗ trợ kỹ thuật nhưng các tổ chức này vẫn còn tồn tại một số vấn

đề như sự chuẩn bị không đầy đủ, năng lực giới hạn trong việc quản lý rủi ro về giá,

những khả năng để phát triển thị trường hàng ở Ấn Độ có thể không đạt được, đặc

biệt là những người nông dân thua thiệt.

+ Bảo hiểm rủi ro về giá của hàng hóa trong mùa thu hoạch tới bằng giao

dịch giao sau yêu cầu người nông dân đóng ký quỹ ban đầu (initial margin) và sau

đó là đóng ký quỹ duy trì trạng thái. Quy định này là một trở ngại cho những người

nông dân muốn bảo hiểm rủi ro giá cả cho mình và tìm kiếm nguồn vốn từ cơ chế

tài chính của các tổ chức.

Những đề xuất chính của bài nghiên cứu:

- Những thành viên chủ động tham gia vào thị trường cần liên kết với các tổ

chức như các tổ chức phi chính phủ (NGOs) và các tổ chức khác nắm bắt thông tin

phổ biến và mức giá chính thức của thị trường. Những thông tin phổ biến của thị

trường cần phải được bổ sung bằng những nỗ lực phát triển năng lực của tất cả các

thành viên tham gia thị trường. Để đảm bảo rằng các thành viên tham gia thị trường

đều nắm vững các lý thuyết, khái niệm, cần phải thực hiện nhiều phương án mô

phỏng và tập huấn các trường hợp khác nhau.

28

- Cần phải có một nhóm quản lý cấp cao của nhóm những đại diện từ tất cả

những chủ thể tham gia thị trường. Nhóm quản lý này có thể đánh giá thường xuyên

diễn biến và tiến trình của các hoạt động, và có thể đảm nhận những biện pháp điều

chỉnh khi cần thiết.

- Bản điều tra với tiêu chuẩn khắt khe của 2 nhóm: nhóm điều hành và nhóm

thí điểm cần phải đi cùng với trình tự phát triển của khuôn khổ của tổ chức. Thêm

vào đó, quy cách của hợp đồng giao sau cần phải phù hợp với hàng hóa thực và phù

hợp với người nông dân, người có nhu cầu bảo hiểm hàng hóa.

- Những hoạt động tập huấn và gia tăng năng lực tham gia thị trường nằm

trong khuôn khổ của các hoạt động phát triển, được đảm nhận bởi dự án và cần thiết

có những sắp xếp trong khả năng hợp tác cung ứng vốn. Những nguồn hỗ trợ tài

chính khác cho dự án có thể bao gồm sự đóng góp của người nông dân, vốn vay từ

các định chế tài chính và sự phát triển nguồn vốn tài trợ dự kiến cho các họat động.

Phần vốn vay nên bao gồm cả nguồn vốn hỗ trợ dài hạn từ các nhà cung ứng vốn và

các tổ chức khác cho các khoản ký quỹ duy trì trạng thái. Nguồn vốn này có thể hữu

ích cho việc sắp xếp chi phí và lợi nhuận hợp lý trong suốt quá trình diễn ra các

hoạt động.

- Để đảm bảo sự định hướng chất lượng thích hợp cho người nông dân, cần

thiết phải có sự liên hệ tới người nông dân để đánh giá những đặc điểm chất lượng

chi tiết, liên kết giữa lợi nhuận tạo ra với chất lượng hàng hóa, tránh trợ giá qua lại

giữa những nông dân tham gia phát sinh từ sự phân phối chi phí và lợi nhuận. Hơn

nữa, những kết nối trong ngành công nghiệp bông và những nhà máy sản xuất bông

có thể đảm bảo những điểm chung của thị trường hàng hóa phái sinh và giao ngay,

chuẩn hóa quy trình sản xuất và hoạt động của thị trường.

Đề xuất cấu trúc có tổ chức cho giao dịch giao sau: dựa trên những tồn tại

của dự án này, những đề xuất dưới đây được thiết kế cho dự án giao dịch giao sau:

Độ lớn mỗi hợp đồng giao sau có thể là một nhân tố chính để xác định trạng

thái của một hợp đồng giao sau cho một cá nhân hay một nhóm. Nếu tỷ lệ của khối

lượng bông được bảo hiểm rủi ro bởi mỗi người nông dân tính trên độ lớn mỗi hợp

29

đồng futures ít hơn 1 cho hầu hết nông dân tham gia, thì phương pháp nhóm (group-

based) sẽ thích hợp hơn. Nếu tỷ lệ này càng nhỏ, thì việc bảo hiểm rủi ro sẽ càng

được đồng thuận để đem lại hiệu quả trong việc quản lý của từng thành viên tham

gia. Mặc dù ngay cả khi chi phí giao dịch của việc bảo hiểm rủi ro được giảm đi

đáng kể trong phương pháp nhóm. Mặt khác, quyền tự quyết định và tính khách

quan trong việc chia sẻ lời lỗ từ việc bảo hiểm rủi ro vẫn phải được thỏa thuận một

cách hợp lý.

Một trong những điều kiện tiên quyết chính của một cấu trúc tổ chức tốt là sự

độc lập trong việc cung cấp cho từng thành viên tham gia quyền quyết định tương

ứng với phần tham gia của họ trong mỗi giao dịch. Do đó, việc ra những quyết định

giao dịch, nhất là chọn mức giá để mua và bán trong hợp đồng giao sau, cần phải

được thực hiện bởi chính cá nhân tham gia thị trường, hoặc người đại diện được

thành viên tham gia thị trường chỉ định cụ thể trong hợp đồng giao sau. Vì vậy ở

tầng thứ nhất của cấu trúc có tổ chức, mỗi cá nhân hoặc người đại diện của cá nhân

đó thu thập thông tin từ các tầng thứ hai và ba để ra quyết định giao dịch hợp đồng

giao sau. Ở tầng thứ hai, những người tham gia chương trình bảo hiểm rủi ro có tổ

chức phải tự tổ chức phù hợp với trình độ cấp thôn để đảm bảo dòng chảy của thông

tin thị trường từ tầng thứ ba và thông tin quyết định giao dịch từ tầng thứ nhất. Các

đại diện ở tầng thứ hai có thể được liên hiệp với tầng thứ ba để hợp tác giám sát,

điều chỉnh và đánh giá. Tầng thứ ba (ngoài người tham gia bảo hiểm rủi ro) bao

gồm chủ thể chính được đại diện bởi các bên có liên quan đến dự án. Chủ thể chính

chịu trách nhiệm về việc hướng dẫn để thành lập các hoạt động và cấu trúc thông tin

dự án tại nơi dự án thực hiện. Chủ thể chính là người thực hiện các liên kết phù hợp

với những nhà cung cấp dịch vụ tương ứng cho thị trường như nhà môi giới, nhà

phân tích thị trường hàng hóa, và những định chế tài chính sẵn sàng hỗ trợ cho các

thành viên thị trường.

Cấu trúc có tổ chức phải đảm bảo rằng mỗi thành viên đều nhận được nguồn

thông tin đáng tin cậy và đúng lúc trong quá trình phát triển của thị trường đi đôi

với loại hàng hóa được bảo hiểm rủi ro. Cấu trúc cung cấp thông tin có dạng hình

30

kim tự tháp với tầng đỉnh là chủ thể chính. Chủ thể chính có thể truyền thông tin

đến tầng thứ hai, nơi mà đảm bảo cung cấp nguồn thông tin cho những thành viên ở

tầng thứ nhất để thực hiện việc bảo hiểm rủi ro của mình.

Hình 1.1 sau đây thể hiện cấu trúc có tổ chức đã được trình bày ở trên.

Chủ thể chính Tầng thứ 3

Tầng thứ 2 Đại diện cấp thôn 1 Đại diện cấp thôn N

Tầng thứ 1 Người tham gia hợp đồng giao sau 1 Người tham gia hợp đồng giao sau 2 Người tham gia hợp đồng giao sau N

Nguồn: Multi Commodity Exchange of India Ltd (2008), Enabling farmers

to leverage Commodity Exchanges

Hình 1.1: Gợi ý sơ đồ cấu trúc có tổ chức trong giao dịch giao sau

Để có sự hợp lý trong phân chia lời lỗ từ việc bảo hiểm rủi ro, chất lượng của

mỗi loại sản phẩm thực tế của từng thành viên tham gia cần phải được thẩm định rõ.

Những tiêu chuẩn phân phối lãi lỗ dựa trên chất lượng sản phẩm thực tế cần phải

được thành lập cùng nhau và rõ ràng trong sự phối hợp của các thành viên của thị

trường theo phương pháp nhóm trong giao dịch hợp đồng giao sau. Hơn nữa, cần

phải có sự thỏa thuận bằng văn bản giữa chủ thể chính (hoạt động như một nhà

cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật cho thị trường) với mỗi thành viên tham gia thị trường

trong chương trình bảo hiểm rủi ro. Chương trình bảo hiểm rủi ro được thu thập để

nhằm mục đích tập hợp tất cả các hỗ trợ kỹ thuật và những dịch vụ được đòi hỏi có

liên quan đến bảo hiểm rủi ro. Tuy nhiên, việc ra quyết định cũng có thể được thực

hiện bởi các cá nhân (phương pháp cá nhân individual – futures – contract – based)

để thể hiện trách nhiệm của từng cá nhân tham gia với chính lời/lỗ của họ. Những

31

yêu cầu về ký quỹ và hoạt động giao dịch giao sau tương ứng theo phương pháp cá

nhân cũng tương tự như các dạng hợp đồng giao sau cá nhân khác.

Từ các nghiên cứu, tác giả có thể rút ra một số yếu tố cần quan tâm để thiết

lập thành công Sở giao dịch hàng hóa. Đó là nhu cầu của thị trường; tính thanh

khoản; sự tham gia của các nhà môi giới, các định chế tài chính, các tổ chức lớn;

khuôn khổ pháp lý, quy chế, cách tổ chức quản lý; cơ sở hạ tầng công nghệ thông

tin với hệ thống kho giao nhận hàng hóa; kiến thức và kinh nghiệm của người tham

gia thị trường.

1.2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam:

Cho tới bây giờ, đã có khá nhiều các bài nghiên cứu về việc xây dựng thị

trường giao sau tại Việt Nam. Nhìn chung, các bài nghiên cứu đã đạt được một số

mục tiêu nhất định, trong đó đã nhìn nhận rõ được tầm quan trọng của giao dịch

giao sau đối với bảo hiểm rủi ro về giá cả hàng hóa. Các bài nghiên cứu cũng cho

thấy được nhu cầu cần thiết của việc xây dựng thị trường giao sau. Vì vậy, họ đã cố

gắng tìm ra được những mô hình phù hợp nhất cho Việt Nam và đề ra những giải

pháp nhằm xây dựng và phát triển thị trường giao sau. Trong luận văn này, tôi chỉ

giới thiệu một số nghiên cứu tiền đề về thị trường giao sau cà phê được thực hiện ở

Việt Nam trong thời gian gần đây.

Trong Luận văn thạc sỹ kinh tế “Các giải pháp tài chính để phát triển thị

trường giao sau cà phê tại Việt Nam” của Bùi Thị Yến (2008), tác giả đã chỉ rõ

vai trò của thị trường giao sau giúp Nhà nước quản lý nền kinh tế, bình ổn thị

trường và cũng là phương tiện để các nhà đầu tư quản trị rủi ro. Tác giả cũng đã cho

thấy cái nhìn toàn cảnh về thực trạng thị trường cà phê và việc triển khai hợp đồng

giao sau ở Việt Nam. Qua đó cho thấy nhu cầu sử dụng hợp đồng giao sau của

người sản xuất và các nhà kinh doanh cà phê đang tồn tại. Bên cạnh đó, thị trường

tài chính của Việt Nam cũng đã và đang phát triển nhanh chóng, cà phê lại là mặt

hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam nên được Chính phủ quan tâm phát triển.

Tuy nhiên các giao dịch hợp đồng giao sau cà phê ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn

do thiếu các quy định pháp lý hoàn chỉnh, trình độ nhận thức của các bên tham gia

32

và quy mô thị trường nhỏ. Từ đó tác giả đã đưa ra các giải pháp tài chính nhằm phát

triển thị trường giao sau cà phê tại Việt Nam từ các giải pháp vĩ mô như chuẩn hoá

luật và các nghiệp vụ liên quan đến thị trường giao sau, mở rộng các đối tượng tham

gia thị trường đến các giải pháp vi mô từ các bên tham gia thị trường như ngân

hàng, các nhà môi giới, các doanh nghiệp kinh doanh và những người sản xuất cà

phê. Đáng chú ý nhất trong nhóm giải pháp phải kể đến việc tác giả đã xây dựng chi

tiết mô hình sở giao dịch giao sau cà phê với việc xây dựng mô hình quản lý sàn, cơ

chế giao dịch tại sàn giao sau, các quy định về hợp đồng, chất lượng hàng hoá….

Tiếp theo là luận văn thạc sĩ kinh tế của Trần Ngọc Linh về “Phát triển thị

trường giao sau cà phê Việt Nam” vào năm 2009. Tác giả đã chứng minh được sự

phụ thuộc của giá cà phê xuất khẩu Việt Nam vào giá xuất khẩu của thế giới và sự

cần thiết thành lập thị trường giao sau cà phê để khắc phục vấn đề này. Tuy hiện

nay Việt Nam đã có trung tâm giao dịch BCEC nhưng vẫn chưa thu hút được các

thành phần tham gia do các hạn chế về kĩ thuật, đặt lệnh, hỗ trợ, hay công tác thanh

toán. Do đó, theo tác giả hiện nay ba nhà: nhà nông, nhà khoa học và nhà nước phải

tập trung tháo gỡ các khó khăn của sàn BCEC, từ đó đưa hoạt động giao dịch phát

triển sôi động. Trước hết, các chủ thể sản xuất là các hộ nông dân và doanh nghiệp

phải nâng cao kĩ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch. Các chủ thể tham gia công tác

lưu thông và phân phối phải chuyên nghiệp hóa kĩ thuật chào mua, thu gom cũng

như nâng cao uy tín của mình. Đặc biệt là vai trò của Hiệp hội cà phê ca cao Việt

Nam (VICOFA) trong việc tham gia công tác nghiên cứu, dự báo tình hình sản xuất,

thu hoạch cà phê ở các nước trên thế giới, xây dựng và kiến nghị các chính sách

trình Chính phủ cho phù hợp với tình hình thị trường. Cuối cùng phải kể đến vai trò

của nhà nước trong công tác xây dựng hành lang pháp lý quy định cụ thể quyền và

nghĩa vụ của các bên trong hoạt động giao dịch phái sinh, hỗ trợ tín dụng, ưu đãi

thuế cho các thành phần tham gia thị trường. Ngoài ra nên có chính sách ưu đãi kêu

gọi doanh nghiệp nước ngoài tham gia đầu tư vào Việt Nam thông qua các ngành

nghề như giám định, môi giới, tổ chức kho bãi. Hay mời gọi các tổ chức rang xay cà

phê nổi tiếng của các nước đặt nhà máy chế biến ở Việt Nam. Đồng thời ký kết các

33

văn bản hợp tác với các sàn giao dịch nổi tiếng thế giới nhằm giúp sàn BCEC ngày

càng hiện đại và chuyên nghiệp trong kỹ thuật giao dịch, thu gom cà phê, công tác

lưu kho hay công tác thanh toán. Có như vậy thì sàn BCEC mới có thể thu hút được

các thành phần tham gia, mạnh dạn sử dụng các công cụ phái sinh nhằm phòng

ngừa rủi ro về giá theo hướng có lợi cho mình, tăng tính thanh khoản, giúp thị

trường cà phê Việt Nam tiếp cận với giá giao dịch thế giới, từ đó cà phê Việt Nam

mới có thể khẳng định được vai trò của mình trên thương trường quốc tế.

Trước tiên là luận văn thạc sĩ kinh tế đề tài “Thị trường giao sau phòng

ngừa rủi ro giá cà phê” của tác giả Nguyễn Dương Diễm Linh (2010) với phương

pháp nghiên cứu dựa vào lý luận, kinh nghiệm quốc tế kết hợp việc tìm hiểu thực

tiễn sản xuất và tiêu thụ cà phê ở Việt Nam trong nhiều năm qua. Luận văn đã cho

thấy những rủi ro biến động giá tại thị trường cà phê Việt Nam do giá xuất khẩu phụ

thuộc vào giá thế giới và quy trình sản xuất kinh doanh cà phê còn tiềm ẩn nhiều rủi

ro; thiếu thông tin dự báo thị trường mang tính chuẩn xác. Tác giả đã thông qua các

bằng chứng thực nghiệm trên thế giới để chỉ ra rằng chiến lược phòng ngừa rủi ro

biến động giá bằng việc sử dụng hợp đồng giao sau là một công cụ hữu dụng

trong ngắn hạn và trung hạn để bảo vệ thu nhập cho nhà sản xuất và kinh doanh cà

phê. Chính vì vậy việc xây dựng một quy trình sản xuất kinh doanh mới trong

đó thị trường giao sau cà phê đóng một vai trò quan trọng trong phòng ngừa rủi

ro biến động giá có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phát triển ngành

cà phê nói riêng và nền kinh tế nói chung.

Trên cơ sở thực tế tại Việt Nam người viết đã đưa ra các giải pháp cụ thể bao

gồm cả giải pháp thiết thực và giải pháp mang tính định hướng cho các đối tượng có

vai trò quan trọng giúp thị trường giao sau cà phê phát triển là Nhà nước - các cơ

quan chức năng; người nông dân; doanh nghiệp; Hiệp hội cà phê; các tổ chức

trung gian - môi giới và các quỹ đầu tư. Tác giả đã xây dựng rất chi tiết mô hình sản

xuất- xuất khẩu cà phê mới cho thị trường Việt Nam, trong đó BCEC với những

thay đổi về cơ cấu tổ chức sàn giao dịch giao sau, quy trình giao dịch được quy định

lại cho phù hợp hơn nắm giữ vai trò trung tâm trong việc chi phối, điều tiết và

34

kiểm soát thị trường. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã đề xuất các giải pháp mang tính

định hướng lâu dài như phát huy vai trò của Hiệp Hội Cà Phê Ca Cao Việt Nam

(VICOFA), thành lập một cơ quan dự báo chuyên nghiệp cho ngành cà phê, xây

dựng khung pháp lý đồng bộ và hoàn thiện cho các hoạt động của thị trường giao

sau, tăng cường sự hiểu biết về thị trường giao sau cho các bên có quyền lợi liên

quan, khuyến khích việc các nhà sản xuất, nhà kinh doanh cà phê, các ngân hàng,

các quỹ đầu tư tham gia thị trường nhằm gia tăng tính thanh khoản cho thị trường.

Những nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới khó ứng dụng ở Việt Nam trong

giai đoạn hiện nay vì giao dịch giao sau tại Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn và

chưa sôi động. Những nghiên cứu trong nước được nêu trên không có thực hiện

khảo sát thực tế giao dịch giao sau cà phê ở Việt Nam. Do đó, tôi đã thực hiện Luận

văn theo hướng tìm hiểu thực trạng ngành cà phê Việt Nam, thực trạng giao dịch

giao sau cà phê tại Việt Nam qua phương pháp thu thập dữ liệu và qua bảng khảo

sát các đối tượng đã từng nghe tới sàn giao dịch cà phê, từ đó đưa ra một số giải

pháp và kiến nghị nhằm phát triển giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong chương 1 của luận văn, tác giả đã trình bày lợi ích của giao dịch giao

sau đối với những người tham gia thị trường cũng như Chính phủ và các rủi ro khi

tham gia giao dịch hợp đồng giao sau. Một số nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới

và ở Việt Nam về giao dịch giao sau cũng được tác giả trình bày trong chương 1 để

từ đó phát triển hướng nghiên cứu cho luận văn.

35

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN NGÀNH CÀ PHÊ VIỆT NAM VÀ THỰC

TRẠNG GIAO DỊCH GIAO SAU CÀ PHÊ Ở VIỆT NAM

2.1 Tổng quan ngành cà phê Việt Nam:

Do các yếu tố tự nhiên như đất đai và khí hậu thuận lợi nên cây cà phê ở Việt

Nam có ưu thế lớn so với các nước khác và đặc biệt là những quốc gia trong khu

vực. Cây cà phê ở Việt Nam đã có mặt từ lâu nhưng trong khoảng thời gian từ 20

năm trở lại đây Việt Nam mới chú trọng đúng mức đến sản xuất và phát triển một

cách có quy mô. Hiện nay cà phê là một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu

chiến lược của Việt Nam (chiếm xấp xỉ 15% tổng giá trị xuất khẩu nông sản Việt

Nam). Ngành cà phê đã thu hút trên 300.000 hộ gia đình, với trên 700.000 lao động

chuyên nghiệp, nếu tính cả số lao động có liên quan và làm việc bán thời gian thì

ngành cà phê đã thu hút trên một triệu người.

Cà phê xuất khẩu của Việt Nam được định giá thông qua hai sàn giao dịch

LIFFE ở Luân Đôn và NYBOT ở New York. Bởi vậy, người sản xuất và kinh

doanh cà phê Việt Nam thường gặp rủi ro và bị động trước các biến cố về giá từ thị

trường quốc tế.

Sản xuất cà phê của Việt Nam vẫn ở trong quy mô nhỏ lẻ, phát triển có tính

tự phát và phân tán. Trong tổng số diện tích đất trồng cà phê cả nước, các nông

trường và các doanh nghiệp Nhà nước, gồm có các doanh nghiệp Trung ương và

các doanh nghiệp địa phương, chỉ nắm giữ 10-15%, còn lại 85-90% thuộc về các hộ

nông dân, các trang trại. Quy mô trang trại không lớn lắm, thường có diện tích

khoảng từ 2 đến 5 hécta. Trang trại lớn có từ 30-50 hécta nhưng số trang trại lớn

này chưa nhiều.

Việt Nam sản xuất trên 1 triệu tấn cà phê, tiêu thụ trong nước khoảng 10%,

còn lại xuất khẩu nhưng 75 – 80% sản lượng cà phê lại được sản xuất từ các hộ

nông dân nhỏ lẻ, do vậy, đây cũng là một trong những lý do tại sao Việt Nam hình

thành hệ thống đại lý và phương thức mua bán ký gửi cà phê.

36

Ngành cà phê Việt Nam hiện nay chưa thiết lập được hệ thống chế biến, tiêu

thụ, xuất khẩu mang tính chuyên nghiệp, dẫn đến Việt Nam là nước có sản lượng cà

phê Robusta lớn nhất trên thế giới nhưng việc tiêu thụ và xuất khẩu hoàn toàn bị

động. Mối liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu với người trồng cà

phê còn lỏng lẻo. Các tổ chức kinh doanh xuất khẩu không tiên liệu được chính xác

nhu cầu của thị trường và chiều hướng biến động giá…do đó không định hướng

được sản xuất. Người sản xuất chỉ biết sản xuất, không biết được khả năng tiêu thụ.

Người kinh doanh đến mùa vụ chỉ biết thu mua, không biết sẽ bán được bao nhiêu,

với giá nào…Các tổ chức sản xuất kinh doanh xuất khẩu không chủ động được

nguồn hàng, không chủ động được vốn. Thường xảy ra tình trạng cạnh tranh, ép giá,

chiếm dụng vốn lẫn nhau, thậm chí có cả lừa đảo, gây thất thoát tài sản và thua lỗ

cho các doanh nghiệp, cho các hộ kinh doanh và người sản xuất. Mặt khác, người

dân cũng ít tiếp xúc với các thông tin nên khi nghe những tin đồn thất thiệt thì tâm

lý không vững, thường bán tháo khiến cho thị trường cà phê bấp bênh, thiếu tính ổn

định. Hoặc khi giá cà phê lên cao họ sẵn sàng thu hoạch sớm, dù quả còn xanh chưa

đảm bảo được chất lượng. Chính những điều này đã làm ảnh hưởng tới sự phát triển

bền vững và thương hiệu của ngành cà phê Việt Nam.

100 98

96 94 92

90 88

200 198 196 194 192 190 188 186 184 182

01-N ov

05-N ov

09-N ov

13-N ov

17-N ov

03-N ov

21-N ov

07-N ov

25-N ov

11-N ov

29-N ov

15-N ov

19-N ov

23-N ov

27-N ov

Giá Robusta thị trường Châu Âu

Chỉ số giá tổng hợp ICO

2.1.1 Giá cả và một số yếu tố dẫn đến biến động giá:

Nguồn: ICO

37

Hình 2.1: Giá cà phê Robusta tại thị trường Châu Âu và chỉ số giá tổng hợp

1950

40000

1900

39000

1850

38000

1800

37000

1750

36000

1700

1650

35000

01-N ov

03-N ov

05-N ov

15-N ov

07-N ov

09-N ov

13-N ov

29-N ov

27-N ov

17-N ov

11-N ov

25-N ov

19-N ov

21-N ov

23-N ov

Giá cà phê xuất khẩu FOB-HCM (USD/tấn)

Giá cà phê tại Đăk Lăk (đồng/kg)

ICO tháng 11/2011 (US cents/lb)

Nguồn: BCEC

Hình 2.2: Giá cà phê xuất khẩu FOB tại cảng Thành phố Hồ Chí Minh và giá

cà phê tại Đắk Lắk tháng 11/2011

Hình 2.1 và 2.2 cho thấy giá cà phê thường xuyên biến động, gây khó khăn

cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam và giá thu mua cà phê nguyên liệu, giá

cà phê xuất khẩu của Việt Nam có biến động khá đồng nhất với giá cà phê thế giới.

Vấn đề khiến các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam và các nhà hoạch định

chính sách xuất khẩu đau đầu và cần được giải quyết là Việt Nam là nước có sản

lượng cà phê lớn thứ hai trên trên thế giới nhưng giá cà phê lại do thị trường thế

giới quyết định.

Có nhiều yếu tố dẫn đến biến động giá cà phê. Sau đây là một số yếu tố làm

biến động giá cà phê:

Thứ nhất, quan hệ cung - cầu cà phê là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến

sự biến động giá cà phê. Khi cung lớn hơn cầu thì giá giảm và ngược lại cầu lớn

hơn cung thì giá tăng. Lượng cung được xác định bởi chu kỳ sản xuất của nước xuất

khẩu (chẳng hạn như sản lượng của Brazil - nước có sản lượng cà phê lớn nhất thế

38

giới - có chu kỳ giảm 2 năm một lần) và tình hình lưu trữ, tồn kho của các quốc gia,

của các doanh nghiệp và nhà sản xuất. Tình hình sản lượng sản xuất chịu tác động

của yếu tố thời tiết (như hạn hán hay mưa kéo dài, ấm hay rét, có sương muối hay

không), yếu tố diện tích trồng cây cà phê tăng thêm hay giảm đi, yếu tố đầu vào

tăng hay giảm giá và yếu tố mùa vụ. Trong khi đó nhu cầu tiêu dùng bị ảnh hưởng

bởi sự phát triển hay suy thoái của nền kinh tế thế giới. Khi kinh tế các nước tiêu

thụ tăng trưởng tốt, thu nhập đầu người được cải thiện thì nhu cầu về cà phê sẽ tăng.

Điều này góp phần làm tăng giá cà phê. Ngược lại, kinh tế nước tiêu thụ bị ảnh

hưởng, chất lượng cuộc sống của người dân bị giảm xuống thì tiêu dùng của người

dân sẽ bị thu hẹp và giá cà phê sẽ có xu hướng giảm. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là

có xu hướng ngược chiều giữa tình hình kinh tế và giá hàng hóa, chẳng hạn như

trong thời điểm khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra, xu hướng dòng tiền đầu tư

chảy mạnh vào hàng hóa làm giá hàng hóa có xu hướng tăng.

Thứ hai, lạm phát có tác động đến giá cà phê. Lạm phát tăng cao khiến chi

phí đầu vào phục vụ cho sản xuất như chi phí phân bón, chi phí lãi vay, chi phí nhân

công…tăng lên, từ đó phản ánh lên giá cà phê. Tuy nhiên, nếu lạm phát kéo dài thì

sẽ ảnh hưởng xấu đến tình hình tiêu thụ cà phê vì giá cà phê tăng khiến nhu cầu cà

phê giảm. Nhu cầu giảm sẽ kéo theo sự giảm giá tương ứng.

Thứ ba, sự biến động giá cà phê do yếu tố đầu cơ của các quỹ đầu tư, các tổ

chức và các nhà đầu tư tài chính. Các nhà đầu cơ tác động vào thị trường làm thị

trường biến động thất thường. Hiện nay có nhiều kênh đầu tư có tính bảo toàn vốn

cao như vàng, dầu thô, hàng hóa cơ bản…Các nhà đầu cơ sẽ điều chỉnh đầu tư vào

lĩnh vực có lợi nhất và khi các nhà đầu cơ mua vào thì giá cà phê tăng còn bán

mạnh cà phê ra thu tiền về thì giá cà phê rớt nhanh.

Thứ tư, lãi suất ảnh hưởng mạnh đến giá cà phê. Lãi suất tăng làm chi phí

đầu vào tăng theo khiến giá hàng hóa cơ bản tăng làm giá cà phê tăng. Ngược lại,

lãi suất giảm sẽ kích thích đầu tư mở rộng sản xuất và chi phí đầu vào cũng giảm

xuống khiến giá hàng hóa giảm theo và giá cà phê giảm. Ở Việt Nam, lãi suất có

ảnh hưởng rất lớn đến tình hình sản xuất của người nông dân. Việt Nam chưa có hệ

39

thống hỗ trợ tín dụng tốt cho người sản xuất. Đa phần các chính sách hỗ trợ về vốn

còn hạn chế do khả năng sinh lợi của lĩnh vực sản xuất nông nghiệp không thể bằng

các lĩnh vực phi sản xuất như bất động sản, chứng khoán. Do đó khả năng tiếp cận

các khoản vốn ưu đãi của người nông dân còn gặp nhiều khó khăn. Đa phần những

hộ sản xuất thường có mối liên hệ với các cơ sở hay các đại lý thu mua. Đầu vụ các

tổ chức này sẽ ký kết hợp đồng và sẽ hỗ trợ vốn cho người nông dân. Tuy nhiên,

chính vì sự phụ thuộc này khiến người nông dân thường có xu hướng bị các chủ thu

mua, các đại lý ép giá. Thời điểm nguồn cung khan hiếm, giá hàng hóa tăng nhưng

họ vẫn phải bán với giá đã thỏa thuận ban đầu còn khi giá giảm, nguồn cung trên thị

trường dồi dào và giá bị rớt mạnh thì họ lại bị các chủ thu mua ép phải bán với giá

thấp. Chính điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến giá cả cà phê Việt Nam.

Thứ năm, tỷ giá có tác động đến giá cà phê. Vấn đề thay đổi tỷ giá của đồng

USD với các đồng tiền trong nước ở các nước sản xuất cà phê làm cho giá cà phê

biến động. Đồng USD yếu khiến giá cà phê của các nước xuất khẩu đến các nước

nhập khẩu cao hơn khiến giá cà phê giảm sức cạnh tranh ở các nước tiêu thụ.

Thứ sáu, do thiếu vốn, thiếu thông tin đáng tin cậy và thiếu sự liên kết nên

doanh nghiệp và người trồng cà phê không điều tiết được lượng mua bán cà phê làm

biến động giá cà phê trong nước.

Thứ bảy, chính sách điều hành của chính phủ đối với ngành cà phê cũng là

yếu tố tác động đến giá cà phê. Chính phủ Việt Nam chưa có một chiến lược cơ bản

mang tính bền vững, người trồng cà phê lâu nay chủ yếu là tự phát, lệ thuộc hoàn

toàn vào thị trường, luôn nằm trong vòng luẫn quẩn được mùa thì mất giá và được

giá thì mất mùa.

Thứ tám, chất lượng cà phê ảnh hưởng trực tiếp đến giá bán. Nếu nông dân

và doanh nghiệp Việt Nam có sự quan tâm đến khâu thu hái, chế biến và nhất là

khâu quản lý chất lượng của Nhà nước nhiều hơn nữa thì cà phê Việt Nam được

khẳng định vị thế trên thế giới và giá bán sẽ cao hơn.

40

2.1.2 Sự thiếu liên kết giữa các doanh nghiệp xuất khẩu:

Theo Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam (VICOFA), hiện Việt Nam có

khoảng 140 doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu cà phê. Điều đáng chú

ý là các doanh nghiệp có quy mô lớn (chiếm khoảng 10% trong tổng số các doanh

nghiệp cà phê) chiếm hơn 80% tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả nước.

Việt Nam thường xuất khẩu mạnh cà phê trong giai đoạn từ quý 4 năm trước

đến quý 1 năm sau. Vào đầu vụ thu hoạch, nhiều doanh nghiệp chế biến xuất khẩu

đã ồ ạt mua cà phê từ nông dân mà không hề có tính toán một cách tổng thể đến tình

hình thị trường cũng như khả năng tài chính của doanh nghiệp. Thiếu vốn, kho bãi

hạn chế khiến các doanh nghiệp này không thể rải đều hoạt động xuất khẩu vào

nhiều thời điểm trong năm mà buộc phải bán tháo cà phê nhất là khi các khoản vay

đến hạn. Hậu quả là, chỉ trong một thời gian ngắn, lượng cà phê được các doanh

nghiệp Việt Nam chào bán ra thị trường thế giới tăng một cách chóng mặt, cung

vượt quá cầu, tạo áp lực đẩy giá cà phê Việt Nam xuống mức thấp.

Điều này chứng tỏ việc nắm bắt thông tin thị trường, sự đoàn kết của các

doanh nghiệp kinh doanh cà phê Việt Nam để tạo thế mạnh trước các đối tác nước

ngoài và các nhà môi giới ở sàn giao dịch hàng hóa chưa cao. Do đó, các doanh

nghiệp kinh doanh cà phê Việt Nam luôn ở thế phụ thuộc vào vòng điều khiển của

đối tác nước ngoài.

2.1.3 Phương thức ký kết hợp đồng xuất khẩu cà phê với nước ngoài:

Ở Việt Nam, trong thời gian qua, các doanh nghiệp áp dụng một trong hai

phương thức ký kết hợp đồng xuất khẩu cà phê ra nước ngoài.

- Thứ nhất, đó là phương thức giao ngay, thuật ngữ tiếng Anh gọi là outright,

Theo phương thức này hai bên mua và bán ký kết hợp đồng với giá cố định tại thời

điểm hiện tại và thời gian giao hàng cố định. Họ không quan tâm đến giá tại thời

điểm giao hàng cao hơn hay thấp hơn giá cố định đã ký kết.

- Thứ hai, phương thức differential hay price to be fixed, được gọi theo tiếng

Việt là phương thức “giá chênh lệch” hay “chốt giá sau”. Phương thức kinh doanh

41

chốt giá sau (Price-to-be-fixed) là hình thức cho phép người mua hoặc người bán

“chốt giá” tại thời điểm nào đó trong tương lai, trước khi thực hiện giao, nhận hàng.

Người mua và người bán sẽ thỏa thuận về số lượng, chủng loại, tháng giao hàng

(delivery month). Riêng đối với điều khoản giá thì sẽ áp dụng một trong hai hình

thức: thứ nhất, giá thanh toán là giá “trừ lùi” (minus) hoặc thứ hai, giá cộng thêm

(plus) so với giá giao dịch trên thị trường giao sau (futures price).

Giá giao sau này thường căn cứ vào giá trên Sàn giao dịch LIFFE. Nếu chất

lượng hàng hóa của người bán thấp hơn tiêu chuẩn chất lượng quy định trong hợp

đồng giao sau sẽ sử dụng “giá trừ lùi” (minus); nếu tốt hơn sử dụng “giá cộng

thêm” (plus).

Các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam đã ký bán, tuy chưa chốt giá

mà muốn giao sớm để có tiền sớm thì hàng vẫn được giao. Giá đóng cửa giao dịch

trên thị trường Luân Đôn của ngày giao hàng sẽ được dùng như tạm tính để trả tiền

cho người bán, nhưng chỉ được thanh toán trước 70% giá trị của lô hàng và người

mua không bị tính lãi 30% giá trị lô hàng còn lại.

Thời gian qua, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam đã phải ký

những hợp đồng “trừ lùi, chốt giá sau” lên tới 90-100 USD/tấn, thậm chí 120

USD/tấn lúc đầu vụ để có hợp đồng đi vay ngân hàng (giá trừ lùi cao dễ ký được

hợp đồng với đối tác nước ngoài) vì có rất nhiều ngân hàng không chấp thuận cấp

tín dụng cho các hợp đồng “chốt trước” với lý do giá đã bán quá thấp, xuất khẩu sẽ

thua lỗ, ngân hàng không đòi được nợ. Ví dụ, có nhiều doanh nghiệp bán giá “chốt

trước” với mức 1.900-1.950 USD/tấn vào đầu niên vụ vì tưởng rằng giá như thế là

đã được. Song, ngay lập tức, giá nhảy cao liên hồi từ đầu niên vụ đến hết niên vụ,

đẩy giá trong nước lên theo, doanh nghiệp buộc phải gom hàng với giá cao để giao

cho người mua nước ngoài dẫn đến thua lỗ. Gặp lúc khủng hoảng kinh tế, tín dụng

khó khăn, doanh nghiệp không mua được hàng để giao dẫn đến xù hàng. Chính vì

vậy, hàng loạt các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam đã phải xù hàng không

giao cho khách mua, gây mất uy tín lớn cho ngành cà phê Việt Nam.

42

2.1.4 Vấn đề ký gửi:

Ký gửi cà phê từ nông dân tới đại lý, hay nông dân, đại lý tới doanh nghiệp

xuất khẩu trong hơn 15 năm qua đã hình thành nên một tập quán gắn liền với đường

đi của hạt cà phê nhân từ khâu sản xuất tới khi xuống tàu xuất khẩu. Cụ thể của

hình thức ký gửi cà phê là:

- Người có cà phê nhưng chưa muốn bán do chờ giá nên đưa cà phê gửi

vào kho doanh nghiệp, khi được giá thì gút bán lấy tiền.

- Người nhận gửi cà phê thường là các doanh nghiệp kinh doanh cà phê

nhận cà phê gửi kho để quay vòng vốn. Bên nhận cà phê lập thủ tục nhập kho và

cấp cho người gửi một phiếu nhập kho ghi rõ là "cà phê gửi kho", cũng có doanh

nghiệp lập hợp đồng cà phê gửi kho kèm theo giấy chứng nhận và phiếu nhập kho.

- Khi bên gửi thấy giá tốt thì đến gút bán với bên nhận theo thời giá và lập

thủ tục bán hàng nhận tiền, trường hợp người gửi chưa bán mà cần tiền thì hai bên

lập hợp đồng ứng tiền theo giá tạm tính mà hai bên thống nhất, thường thì giá tạm

tính là giá do bên doanh nghiệp nhận gửi đưa ra dựa theo dự báo và cũng chỉ cho

người gửi ứng trước khoản 70% và phải chịu lãi theo mức lãi hai bên thỏa thuận,

đến khi người gửi gút bán thì doanh nghiệp nhận gửi thu lại tiền ứng và tiền lãi

tương ứng với thời gian người gửi đã ứng.

- Trường hợp khi người gửi gút bán mà doanh nghiệp nhận gửi luôn đưa ra

giá mua thấp hơn giá bình quân của thị trường thì người gửi có quyền yêu cầu

doanh nghiệp nhận gửi phải trả lại hàng đã gửi, khi đó người gửi phải thanh toán

đầy đủ các khoản nợ đã nhận, bao gồm cả tiền lưu kho.

Ngoài mục đích chờ giá tốt chốt bán kiếm lời, việc gửi kho cà phê còn giải

quyết giúp nông dân nhiều mặt. Chẳng hạn, nông dân có cà phê gửi vào kho đại lý,

khi cần tiền đầu tư cho vườn cây hoặc tiêu dùng khác thì người nông dân đến đại lý

chốt bán một ít, số còn lại tiếp tục gửi, nên rất thuận tiện và nhanh chóng. Cũng có

nhiều hộ hàng năm dành ra một ít sản lượng gửi vào đại lý để gom góp làm của để

dành với mong muốn tích lũy để làm nhà, mua sắm máy móc có giá trị lớn. Hoặc là,

nông dân có số lượng cà phê nhưng chưa có nhu cầu bán có thể mang cà phê đó đến

43

gửi trực tiếp vào kho doanh nghiệp. Các đại lý mang cà phê nhận gửi của dân đến

gửi tại các doanh nghiệp để có thể ứng tiền đưa vào kinh doanh quay vòng. Còn

doanh nghiệp chủ động nguồn hàng để chế biến và xuất khẩu. Có thể nói, hành vi

gửi và nhận gửi cà phê có đem lại lợi ích cho cả hai bên.

Tuy nhiên, theo tác giả, việc ký gửi cà phê chốt giá sau đem lại nhiều rủi ro

hơn lợi ích vì những lý do sau:

Thứ nhất, khi muốn gút giá, nông dân ký gửi phải đồng ý với giá mà doanh

nghiệp đưa ra, nếu không đồng ý về giá, nông dân phải lấy lại cà phê để bán nơi

khác, và chịu phí lưu kho, mức phí này do doanh nghiệp tính nên cũng sẽ bằng với

lợi nhuận khi bán nơi khác. Vì vậy, thực chất nông dân gửi cà phê ở đâu thì bán ở

đó (dù bị ép giá) chứ không thể lấy lại bán nơi khác.

Thứ hai, nông dân ký gửi cà phê với hy vọng giá lên để kiếm thêm tiền lời.

Vậy giá để chốt trong việc ký gửi cà phê chốt giá sau căn cứ vào đâu? Thông

thường, nông dân nhìn vào báo giá cập nhật hàng ngày của công ty nhận gửi, của

các dịch vụ cung cấp giá qua điện thoại để chốt giá theo thời điểm nông dân thấy

thích hợp.Vậy báo giá cập nhật này có từ đâu? Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam có

80 hội viên, trong đó có 10 hội viên lớn xuất khẩu khoảng 60% lượng cà phê của

Việt Nam. 10 hội viên lớn này kết hợp với 10 hội viên lớn kế, thành lập câu lạc bộ

20 nhà xuất khẩu cà phê, xuất khẩu khoảng 80% lượng cà phê hằng năm. Chính câu

lạc bộ 20 doanh nghiệp hàng đầu này ấn định giá cà phê của Việt Nam trong từng

thời điểm. Như vậy, báo giá cập nhật hằng ngày chính là giá mà câu lạc bộ 20 ấn

định. Nông dân ký gửi cà phê cho doanh nghiệp là hy vọng giá lên để kiếm thêm

chút tiền lời, vậy mà giá cà phê lên xuống lại do doanh nghiệp (câu lạc bộ 20) quyết

định, vậy hy vọng của nông dân lệ thuộc vào lòng hảo tâm của doanh nghiệp: doanh

nghiệp muốn cho lời nhiều thì được nhiều, muốn cho lời ít thì được ít.

Thứ ba, nông dân gửi cà phê xem như của để dành nhưng gửi nhiều năm với

số tiền lớn rất dễ bị xù. Thực tế, nhiều người nông dân giữ lại cà phê để gửi kho chờ

giá đã trở thành tay trắng vì đã bị người nhận gửi chiếm dụng rồi tuyên bố phá sản

hoặc đã bỏ trốn. Nhiều doanh nghiệp dùng cà phê của nông dân hay đại lý ký gửi để

44

thế chấp vay vốn ngân hàng, lấy tiền vốn này tạm ứng lại cho nông dân, đại lý với

lãi suất cao hơn lãi vay ngân hàng, hưởng chênh lệch mà sống và những doanh

nghiệp này rất dễ xảy ra mất vốn nếu giá cà phê biến động, đại lý xù nợ.

Thứ tư, nông dân gửi cà phê và được ứng tiền nhưng với lãi suất rất cao.

Trường hợp, đại lý Kim Ngọc ứng tiền của công ty với lãi suất 2,2% một tháng, vậy

nông dân ứng tiền của đại lý phải chịu lãi suất bao nhiêu? Rất có thể phải đến 4%

một tháng và đây là vay nặng lãi đến 48% một năm. Vay mức này để ký gửi cà phê

đợi giá, nông dân có khi phải bán hết cà phê ký gửi để trả tiền lãi.

Với những lý do trên, chốt giá sau mà người ấn định giá là doanh nghiệp, thì

thiệt thòi luôn về phía nông dân.

Vậy tại sao nông dân vẫn chấp nhận tập quán ký gửi cà phê? Lý do là thủ tục

ký gửi, mua bán cà phê đơn giản, tiện lợi cho nông dân và đặc biệt là đa phần nông

dân đều thiếu vốn. Phần lớn người nông dân chỉ có mảnh vườn, lô rẫy thường thì

không biết và không quen với các định chế và giấy tờ. Muốn vay ngân hàng thì phải

đi làm thủ tục xin vay, lập dự án vay, báo cáo hiệu quả vốn vay và khả năng trả nợ,

các thế chấp và cam kết trả nợ, phải mời cán bộ ngân hàng đến thẩm định vườn cây,

tài sản thế chấp và phải nhờ cán bộ làm hộ với một khoản phí nhất định, không bao

giờ có một thông số nhất định để áp dụng. Vay khó là thế, nhưng đâu phải ai cũng

vay được. Không vay được ngân hàng thì phải vay bên ngoài và phần lớn nông hộ

đều hướng đến các đại lý, vì nơi đây đích thực là nguồn cung ứng vốn cho nông dân

trong sản xuất.

2.1.5 Rủi ro đối với người sản xuất và kinh doanh cà phê Việt Nam do biến động

giá cà phê:

Giá cà phê giảm hay tăng cũng gây thiệt hại nặng nề không cho người mua

thì cũng cho người bán trong chuỗi cung ứng cà phê. Bảng 2.1 cho thấy người bán

hàng lo sợ giá rớt và người mua hàng lo sợ giá tăng.

45

Bảng 2.1: Rủi ro biến động giá đối với người bán và người mua

Người bán Người mua

Giá giảm Lỗ (rủi ro) Lời

Giá tăng Lời Lỗ (rủi ro)

Nguồn: Lê Hoàng Nhi (2011), “Rủi ro về giá trong kinh doanh cà phê”.

Ngành cà phê Việt Nam có giá “chốt trước”, giá “chốt sau” (Price to be

fixed) và giá chênh lệch so với giá giao sau trên thị trường LIFFE và NYBOT. Giá

“chốt trước” là giá mà hai bên đã thống nhất ngay khi có hợp đồng. Giá “chốt sau”

là giá mà hai bên thỏa thuận sẽ chốt vào một thời điểm trong tương lai. Ở Việt Nam,

giá “chốt trước” hay “chốt sau” đều lấy căn cứ vào giá giao sau. Phần chênh lệch

giữa giá giao sau và giá “chốt trước”, “chốt sau” được gọi là giá chênh lệch

(differential price). Gọi giá “differential” là giá chênh lệch vì rằng nó có thể là giá

trừ lùi hay giá cộng thêm. Tùy theo giá trị hoặc nhu cầu thị trường mà giá chênh

lệch có thể là trừ lùi nhiều hay ít hoặc thậm chí cộng thêm so với giá giao sau trên

thị trường LIFFE và NYBOT. Rủi ro kinh doanh cà phê không chỉ đơn thuần là giá

cao, giá thấp mà phải còn tính đến sự dao động của giá chênh lệch.

Bảng 2.2 cho thấy trong trường hợp giá giao sau không đổi thì giá chênh lệch

càng tăng, người bán có lợi, giá chênh lệch càng giảm, người mua có lợi.

Bảng 2.2: Rủi ro do biến động giá chênh lệch trong trường hợp giá giao sau

không đổi

Người mua Người bán

Giá chênh lệch tăng Lỗ (rủi ro) Lời

Giá chênh lệch giảm Lời Lỗ (rủi ro)

Nguồn: Lê Hoàng Nhi (2011), “Rủi ro về giá trong kinh doanh cà phê”.

Trong trường hợp giá “chốt trước”, để có lời trong kiểu kinh doanh này,

nông dân hoặc người kinh doanh phải tính trước các chi phí đầu vào và định giá đầu

ra để kiếm lời. Trong thực tế, do muốn kiếm thêm chút lời hoặc do nhu cầu thị

trường, nhiều người thích đầu cơ với hợp đồng giá “chốt sau” hơn. Bảng 2.3 cho

thấy rủi ro đối với người bán và người mua trong trường hợp giá giao sau luôn biến

46

động và “chốt sau”. Trường hợp không xác định là trường hợp không biết chính xác

lời hay lỗ. Muốn xác định được lời hay lỗ thì phải tính đến sự khác biệt trong biên

độ dao động của giá giao sau và giá chênh lệch. Do không dự liệu được sự biến đổi

của hai loại giá này nên đây có thể xem trường hợp không xác định là rủi ro đối với

nhà kinh doanh.

Bảng 2.3: Rủi ro do biến động giá chênh lệch trong trường hợp giá giao sau

biến động và “chốt sau”

Người mua Người bán

Giá chênh lệch Lỗ (rủi ro) Lời tăng

Giá giao sau Giá chênh lệch Lỗ (rủi ro) Lời tăng không đổi

Giá chênh lệch Không xác định (rủi ro) Không xác định (rủi ro) giảm

Giá chênh lệch Lỗ (rủi ro) Lời tăng

Giá giao sau Giá chênh lệch Tương tự trường hợp chốt Tương tự trường hợp chốt

không đổi không đổi trước (không rủi ro) trước (không rủi ro)

Giá chênh lệch Lời Lỗ (rủi ro) giảm

Giá chênh lệch Không xách định (rủi ro) Không xách định (rủi ro) tăng

Giá giao sau Giá chênh lệch Lời Lỗ (rủi ro) giảm không đổi

Giá chênh lệch Lời Lỗ (rủi ro) giảm

Nguồn: Lê Hoàng Nhi (2011), “Rủi ro về giá trong kinh doanh cà phê”.

Thị trường cà phê không chỉ bị tác động bởi cung cầu trên thị trường mà còn

bị chi phối bởi những thông tin kinh tế, chính trị, thời tiết, đặc biệt giới đầu cơ là

47

nhân tố tích cực nhất đối với sự trồi sụt thất thường của giá cà phê. Các doanh

nghiệp xuất khẩu thiếu kinh nghiệm mua bán trừ lùi theo thị trường LIFFE và

NYBOT dễ bị các nhà đầu cơ trên sàn LIFFE và NYBOT ép giá vào thời điểm giao

hàng dẫn đến thua lỗ.

Ví dụ, một doanh nghiệp ký bán hợp đồng xuất khẩu cà phê với giá trên sàn

giao dịch LIFFE tháng 11 “trừ lùi” 100 USD/tấn nhưng chưa chốt giá. Giữa tháng

10, doanh nghiệp đã giao hàng sớm, giá trên sàn LIFFE tại thời điểm giao hàng sớm

là 1.730 USD/tấn, “trừ lùi” 100 USD, còn lại là 1.630 USD/tấn. Giá này sẽ được

dùng tạm tính để làm cơ sở thanh toán trước 70% cho người bán, tức là 70% của

1.630 USD là 1.141 USD/tấn và người mua không bị tính lãi 30% giá trị lô hàng

còn lại. Khi đó, các quỹ đầu cơ lớn, các nhà nhập khẩu lớn bằng cách nào đó kéo

giá giao dịch trên sàn LIFFE xuống. Một khi giá trên sàn LIFFE xuống thấp, tới

mức 1.141 USD/tấn thì theo hợp đồng, tập quán giao dịch cà phê, lô hàng đó sẽ

được tự động chốt giá để “bảo vệ quyền lợi của người bán” không bị thua lỗ thêm

nữa, thuật ngữ tiếng Anh là “Stop loss”. Lúc này, giá xuất khẩu FOB thực sự của

doanh nghiệp là 1.141 USD/tấn. Doanh nghiệp bị mất đi 30% giá trị lô hàng kèm

theo phần khuyến mãi không lãi 30% giá trị lô hàng còn lại cho người mua.

Nguyên nhân dẫn đến thua lỗ của các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê không

phải là do phương thức “trừ lùi, chốt giá sau” mà do trình độ vận dụng phương thức

này của các doanh nghiệp còn hạn chế. Thực tế, rất ít doanh nghiệp thực hiện chốt

giá ở mức hòa vốn, hay chốt giá ở mức chấp nhận được, mà thường chờ giá đạt mức

kỳ vọng mới chốt giá, hoặc nhiều khi đã đạt giá kỳ vọng những vẫn chưa chốt giá

mà đề nghị chuyển tháng và hoặc có trường hợp, mức giá của thị trường đang thấp

hơn mức hòa vốn, doanh nghiệp đề nghị chuyển tháng, kéo dài thời gian chốt giá

với kỳ vọng giá sẽ tăng trở lại mặc dù phải bỏ thêm phí chuyển tháng, và nộp thêm

tiền để hạ mức cắt lỗ. Kết quả là, xem như doanh nghiệp đã cho vay hàng không

tính lãi, hay cầm dao đằng lưỡi mà vẫn kiên trì nắm giữ.

48

Các đại lý buôn cà phê của Việt Nam 90% đi lên từ nông dân và buôn bán

theo thói quen. Họ không có bằng cấp cao và đào tạo chuyên ngành nên cũng dễ

vướng trường hợp phá sản do biến động giá.

Người nông dân trồng cà phê thường theo phong trào không tính đến giá cả

và nhu cầu của thị trường, phần đông trông chờ nhiều vào sự may rủi và thường gặp

tình trạng được mùa thì giá rớt dẫn tới lỗ, mất mùa thì giá cao nhưng lại không có

hàng để bán. Đa phần nông dân sản xuất và tiêu thụ cà phê theo tập quán lâu đời và

gặp phải rủi ro về giá nếu như lúc cần tiền phải bán cà phê mà lúc đó giá cà phê

đang xuống.

2.2 Thực trạng giao dịch giao sau cà phê ở Việt Nam:

2.2.1 Giao dịch giao sau cà phê tại các Sở giao dịch hàng hóa ở nước ngoài:

Thương mại theo thị trường tự do tiềm ẩn nhiều rủi ro, dễ bị ảnh hưởng bởi

tình trạng đầu cơ ép giá của thương nhân nước ngoài. Vì thế, các doanh nghiệp kinh

doanh cà phê Việt Nam đã dần tham gia vào thị trường giao sau ở Luân Đôn và

New York với các công cụ bảo hiểm hạn chế bớt rủi ro. Các doanh nghiệp từng

bước hiểu biết nhiều hơn nghiệp vụ giao dịch các hợp đồng giao sau cà phê trên thị

trường thế giới cùng với sự tham gia của các ngân hàng, tổ chức tài chính với quy

mô và số lượng ngày càng tăng. Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam

(Techcombank) là ngân hàng đầu tiên được Ngân hàng Nhà nước cho phép làm môi

giới giao dịch cà phê với các sàn giao dịch quốc tế vào cuối năm 2004. Tháng 9

năm 2004, Techcombank phối hợp với Công ty Refco (Singapore) Pte. Ltd, một

công ty con của Tập đoàn tài chính Refco Ltd. LLC., bắt đầu thực hiện môi giới

giao dịch giao sau cà phê Robusta trên sàn giao dịch LIFFE và cà phê Arabica trên

sàn giao dịch NYBOT. Tháng 5 năm 2006, Ngân hàng Nhà nước cho phép Ngân

hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) phối hợp Công ty Natexis Commodity

Markets (trụ sở tại Singapore) thực hiện nghiệp vụ giao dịch phái sinh hàng hóa.

Tháng 7 năm 2006, Công ty Cổ phần Môi giới Thương mại Châu Á (ATB) được

thành lập trên cơ sở góp vốn của ba cổ đông là: Công ty TNHH Đầu tư Thương mại

49

Hiệp Phúc, Công ty TNHH và Tư vấn Ánh Sáng và Công ty TNHH Chứng khoán

Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Công ty ATB phối hợp với Công ty Marex

Carlton Ltd., thực hiện giao dịch phái sinh hàng hóa. Năm 2010, một số ngân hàng

thương mại được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện giao dịch phái sinh hàng

hóa như: Ngân hàng TMCP Quân đội, Ngân hàng TMCP Đông Á, Ngân hàng

TMCP Hàng Hải, Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex…Từ ngày 22/04/2010,

Sàn giao dịch hàng hóa Singapore (SICOM) đã bắt đầu giao dịch hợp đồng giao sau

cà phê theo tiêu chuẩn Việt Nam và giao hàng tại Kho ngoại quan ở Thành phố Hồ

Chí Minh nhằm tận dụng thực tế Việt Nam là cường quốc sản xuất cà phê Robusta,

năng lực tham gia giao dịch giao sau của các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng

được nâng cao.

Các doanh nghiệp có hệ thống máy tính nối mạng có thể theo dõi hoạt động

giao dịch tại LIFFE và NYBOT để đặt lệnh giao dịch. Hệ thống hạ tầng thông tin

của các ngân hàng thương mại đã được cấp phép đảm bảo kết nối trực tuyến, liên

tục với các nhà môi giới với tư cách là thành viên của sàn LIFFE và NYBOT để

đảm bảo đặt lệnh, nộp tiền ký quỹ diễn ra thông suốt.

Các doanh nghiệp tham gia hoạt động giao dịch này đều dựa trên quy định

của thế giới. Ngân hàng Nhà nước không cho phép các doanh nghiệp mở tài khoản

ở nước ngoài để trực tiếp giao dịch trên LIFFE và NYBOT đã làm tăng chi phí giao

dịch của các doanh nghiệp.

Doanh nghiệp đầu tiên tham gia hợp đồng giao sau với Techcombank là

CTCP Đầu tư Xuất Nhập Khẩu Đắk Lắk (Inexim Daklak). Sau đó, rất nhiều các

doanh nghiệp cũng đã tham gia giao dịch giao sau tại sàn LIFFE và NYBOT. Theo

ông Phạm Quang Thắng, Phó tổng giám đốc Techcombank, tính đến năm 2010 có

khoảng vài trăm doanh nghiệp đăng ký tham gia giao dịch, số thực sự giao dịch

hàng đêm khoảng 100 doanh nghiệp. Ngoài những doanh nghiệp mở tài khoản, ký

quỹ ở Techcombank để giao dịch mua bán thực sự thì số còn lại mở tài khoản chủ

yếu để hàng đêm lên mạng xem thông tin thị trường, giá cả, từ đó quyết định việc

mua bán cà phê thật.

50

Ví dụ hoạt động giao dịch của Công ty TNHH Một Thành Viên Xuất Nhập

Khẩu 2-9 Đăk Lăk (Simexco Daklak) tại sàn LIFFE

Ngày 8/1/2007 công ty mua được 500 tấn cà phê với giá tương đương 1.600

USD/tấn. Việc tìm khách hàng mua lô hàng ngay là khó (do thời gian quyết định

ngắn – thị trường LIFFE gần mở cửa giao dịch). Khi thị trường mở cửa giá tăng 30

USD ở mức 1.630 USD/tấn. Để chớp lấy cơ hội công ty đặt lệnh bán 100 lots # 500

tấn trên thị trường LIFFE với giá 1.630 USD. Giá đóng cửa phiên giao dịch này chỉ

tăng 10 USD ở mức 1.610 USD/tấn. Ngày 9/1/2007, sau khi tìm được khách hàng

mua hàng thực, công ty bán với mức giá 1.610 USD/tấn và thực hiện lệnh mua lại

100 lots # 500 tấn trên thị trường LIFFE với giá 1.610 USD. Nghiệp vụ có thể tóm

tắt như sau:

- Thị trường hàng thực (Physical exchange)

+ Ngày 8/1/2007: Mua 500 tấn hàng thực x 1.600 = 800.000 USD

+ Ngày 9/1/2007: Bán 500 tấn hàng thực x 1.610 = 805.000 USD

+ Lãi trên hàng thực 5.000 USD

- Thị trường giao sau (Futures)

+ Ngày 8/1/2007: Bán 100 lots # 500 tấn hàng futures x 1.630= 815.000

USD

+ Ngày 9/1/2007: Mua 100 lots # 500 tấn hàng futures x 1.610= 805.000

USD

+ Lãi trên Futures 10.000 USD

Như vậy, trong hoạt động mua bán trên Công ty đã lãi tổng cộng trên 2 thị

trường hàng thực và futures là 5.000 USD + 10.000 USD = 15.000 USD

Nguồn: Bảo Trung (2009), Phát triển thể chế giao dịch nông

sản ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học kinh tế Thành phố HCM.

Hiện nay, chưa có một báo cáo đánh giá chính thức về hiệu quả của hoạt

động giao dịch này từ các tổ chức độc lập cũng như từ phía cơ quan nhà nước có

thẩm quyền. Tác giả có tiến hành thu thập thông tin bằng cách phỏng vấn trực tiếp

51

chủ doanh nghiệp mà có tham gia giao dịch nhưng không nhận được thông tin lãi và

lỗ từ hoạt động mua bán cà phê trên sàn giao dịch của các doanh nghiệp này.

Hiện nay, có ba doanh nghiệp cà phê niêm yết trên thị trường chứng khoán

Việt Nam là CTCP Vinacafe Biên Hòa, CTCP cà phê An Giang, CTCP Tập đoàn

Thái Hòa Việt Nam (THV). Tác giả nghiên cứu báo cáo tài chính của ba công ty

này và chỉ có báo cáo tài chính của THV là có thông tin lãi và lỗ từ hoạt động mua

bán cà phê trên sàn giao dịch. Ngoài ra, tác giả cũng tìm kiếm trên mạng internet

thêm thông tin từ các doanh nghiệp khác. Song, tác giả không tìm kiếm được nhiều

thông tin. Kết quả tìm kiếm được thể hiện trong bảng 2.4. Bảng 2.4 có thể cho thấy

CTCP cà phê PETEC và CTCP Tập đoàn Thái Hòa Việt Nam (THV) tham gia giao

dịch cà phê trên sàn quốc tế không những có thể giúp công ty phòng ngừa rủi ro

biến động giá cà phê mà còn có thể thu được lợi nhuận từ hoạt động này.

Bảng 2.4: Kết quả lãi/ lỗ từ thị trường giao sau của CTCP cà phê PETEC và

THV (Đơn vị tính: Triệu đồng)

Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Công Chênh Chênh Chênh ty Lãi Lỗ Lãi Lỗ Lãi Lỗ lệch lệch lệch

PETEC 589 704 (115) 1.873 1.749 124

THV 20.617 6.901 13.716 1.928 1.279 649

Nguồn: Báo cáo tài chính đã kiểm toán năm 2009 của CTCP cà phê PETEC;

Báo cáo tài chính đã kiểm toán năm 2010 của CTCP Tập đoàn Thái Hòa Việt Nam -

THV (công ty mẹ)

Hoạt động sản xuất kinh doanh cà phê chịu ảnh hưởng lớn từ biến động giá

cà phê thế giới. Do đó, các doanh nghiệp tham gia giao dịch giao sau tại các sàn

quốc tế nhằm bảo hiểm những rủi ro về giá cà phê. Sau khi thu mua cà phê nguyên

liệu hoặc ký hợp đồng xuất khẩu cà phê, nếu nhận thấy có biến động về giá cà phê

thế giới, các doanh nghiệp sẽ thực hiện đặt lệnh mua hoặc lệnh bán với số lượng và

kỳ hạn tương ứng ở thị trường Luân Đôn hoặc New York để giảm thiểu rủi ro biến

động giá.

52

Tuy nhiên, tham gia trên các sàn giao dịch quốc tế, doanh nghiệp Việt Nam

chỉ là các nhà đầu tư nhỏ với năng lực tài chính rất hạn chế. Bên cạnh đó, khả năng

phân tích, tập hợp thông tin về thị trường thế giới có hạn, phần lớn đều chưa nắm

vững về bản chất nên trong quá trình vận hành còn yếu kém về mặt kỹ thuật, vận

dụng sai mục đích dẫn đến kết quả đạt được còn thấp, thậm chí nhiều doanh nghiệp

thua lỗ nặng. Chẳng hạn như: Vào thời điểm tháng 9 năm 2006 do nắm được thông

tin dự báo của Bộ Nông nghiệp Mỹ, ICO và một số tổ chức khác về sản lượng cà

phê thế giới trong vụ mùa 2006/2007 sẽ đạt ở mức cao nên phần lớn các nhà kinh

doanh hợp đồng giao sau đều dự đoán giá sẽ giảm trong thời gian sắp tới. Từ suy

nghĩ và nhận thức như vậy mà phần lớn những người tham gia thị trường này đã

thực hiện bán khống (Selling short) và khi đó trạng thái kinh doanh của họ là Short

Future. Trong một thời gian ngắn do những nhà đầu cơ trên sàn của thị trường

LIFFE và NYBOT nắm rất rõ về tổng số lượng Short Future từ Việt Nam là con số

tương đối lớn nên đã thao túng đẩy giá trên LIFFE từ mức 1.300 USD/MT

lên đến mức 2.063 USD/MT. Với mức biến động giá quá nhanh và quá lớn như vậy

thì khả năng tài chính không đáp ứng nổi để ký quỹ nhằm duy trì trạng thái nên

hàng loạt lệnh chặn lỗ liên tục xuất hiện để ngưng lỗ (Stop loss). Và như vậy, con

số về vốn rất lớn và cứ lớn dần lên của các nhà đầu tư Việt Nam chảy dần vào túi

của giới đầu cơ quốc tế.

Thực tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa biết cách sử dụng hợp đồng

giao sau trong việc bảo hộ giá hàng hóa. Việc sử dụng hợp đồng giao sau chủ yếu là

đầu cơ. Việc quyết định mua hay bán chỉ do cảm tính, qua các nguồn thông tin và

mang tính bầy đàn.

Năm 2006, hàng loạt doanh nghiệp thua lỗ do kinh doanh theo hình thức này.

Trước tình hình thua lỗ của các doanh nghiệp, ngày 18/10/2006 Ngân hàng Nhà

nước đã có công văn số 8905/NHNN- QLNH yêu cầu các Ngân hàng thương mại đã

được cấp phép thực hiện giao dịch phái sinh hàng hóa chỉ cho các doanh nghiệp

tham gia giao dịch cà phê trên các sàn giao dịch quốc tế với điều kiện là phải có

hàng thực và nhà môi giới đã được cấp phép phải có trách nhiệm kiểm tra.

53

2.2.2 Giao dịch giao sau cà phê tại Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam:

Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam (VNX) là sở giao dịch hàng hóa đầu tiên tại

Việt Nam được thành lập theo hình thức Công ty Cổ phần. VNX được Bộ Công

thương cấp giấy phép số 4596/GP-BCT ngày 01/09/2010. Quy chế hoạt động của

VNX được xây dựng dựa trên cở sở pháp lý là Luật thương mại 2005, Nghị định

158/2006/NĐ-CP và Thông tư 03/2009/TT-BCT. Vốn điều lệ ban đầu của VNX là

150 tỷ đồng. VNX ra đời với mục đích là một tổ chức đầu mối giao dịch hàng hoá

nhằm giảm thiểu chi phí, đưa hàng hoá Việt Nam đến gần với các chuẩn giao dịch

trên thế giới thông qua đó tận dụng được lợi thế quy mô và phòng tránh rủi ro biến

động giá, tăng tính thanh khoản và bổ sung thêm kênh đầu tư mới cho thị trường

ngoài 5 kênh đầu tư truyền thống như tiền gửi ngân hàng, chứng khoán, bất động

sản, ngoại tệ và vàng. VNX đặt trụ sở chính tại Thành phố Hồ Chí Minh, là trung

tâm tài chính lớn của nước ta, thuận tiện cho nhà đầu tư tham gia giao dịch tại sàn.

VNX giám sát các hoạt động giao nhận hàng hóa bao gồm việc phối hợp với

các trung tâm kiểm định hàng hóa, hệ thống kho hậu cần để đảm bảo chất lượng

hàng hóa giao dịch theo đúng tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế, và trung tâm thanh

toán bù trừ đảm bảo khả năng thanh toán của các bên tham gia giao dịch.

VNX tổ chức giao dịch các hợp đồng giao ngay và giao sau đối với 3 loại

hàng hóa là Cà phê, Cao su, Thép. Thời gian giao dịch từ thứ hai đến thứ sáu, mở

cửa giao dịch 23/24 và chỉ đóng cửa giao dịch từ 6:00 sáng đến 7:00 sáng. Cơ chế

giao dịch thỏa thuận và khớp lệnh liên tục.

Khác với Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC), thành viên

của VNX chỉ bao gồm thành viên kinh doanh và thành viên môi giới.

VNX chính thức đi vào hoạt động từ tháng 6 năm 2011. Do đó, tác giả không

đủ điều kiện và thời gian nghiên cứu thực trạng giao dịch giao sau cà phê của các

nhà đầu tư tại sàn VNX.

VNX có 11 thành viên môi giới và 2 thành viên kinh doanh. Những thành

viên này đều là các công ty có uy tín trên thị trường tài chính như CTCP Tư vấn–

Đầu tư Đỉnh Phong, CTCP Đầu tư SME, CTCP Đầu tư và Bất động sản Sài Gòn

54

Châu Á, CTCP Đầu tư Việt Phúc, CTCP Dịch vụ Đầu tư Sông Ngân. Tất cả các

giao dịch của nhà đầu tư tiến hành tại các sàn thành viên VNX đều được thực hiện

trên một hệ thống giao dịch Patsystems thống nhất toàn quốc.

Ngân hàng thanh toán của VNX là những ngân hàng đã có kinh nghiệm

trong lĩnh vực giao dịch hàng hóa phái sinh như Ngân hàng Đầu tư và Phát triển

Việt Nam (BIDV), Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), Ngân

hàng TMCP Hàng hải Việt Nam, Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội.

VNX có các đối tác quốc tế như Patsytems, SICOM (Singapore), LIFFE,

NYBOT, Sở giao dịch hàng hóa Chicago, Sở giao dịch hàng hóa Tokyo,… nhằm

tạo cầu nối giúp nhà đầu tư tham gia vào các thị trường lớn trên thế giới.

Như vậy, trong giai đoạn đầu, kỳ vọng của sàn VNX chỉ là đưa kênh đầu tư

mới tới nhà đầu tư, giúp họ đa dạng hóa kênh đầu tư bên cạnh những hình thức đầu

tư truyền thống.

2.2.3 Giao dịch giao sau cà phê tại Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột:

2.2.3.1 Giới thiệu Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột:

Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC- Buon Ma Thuot Coffee

Exchange Center) bắt đầu hoạt động từ tháng 12 năm 2008 với phương thức giao

ngay có hàng thực và từ ngày 11 tháng 03 năm 2011 BCEC chính thức đưa vào giao

dịch sản phẩm cà phê giao sau với thời gian thí điểm mô hình giao dịch giao sau cà

phê là một năm.

BCEC tổ chức giao dịch từ thứ hai đến thứ sáu, theo hai phiên: buổi sáng từ

9:00 đến 11h00 giao dịch sản phẩm giao ngay cà phê và buổi chiều từ 14h00 đến

17h00 giao dịch sản phẩm kỳ hạn (hợp đồng giao sau) cà phê. Cơ chế giao dịch thỏa

thuận và khớp lệnh liên tục.

BCEC hoạt động theo nguyên tắc thành viên gồm thành viên môi giới, thành

viên kinh doanh và thành viên đăng ký bán.

BCEC là một đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, trực thuộc Sở

Công Thương tỉnh Đăk Lăk. Tổng vốn đầu tư vào BCEC khoảng 100 tỷ đồng. Năm

55

2008 BCEC được Cơ quan phát triển Pháp (AFD) tài trợ 850.000 Euro để hỗ trợ kỹ

thuật vận hành cho sàn giao dịch của BCEC. BCEC đặt tại Thành phố Buôn Ma

Thuột, tỉnh Đắk Lắk - thủ phủ của cà phê của Việt Nam.

Hệ thống cơ sở hạ tầng của BCEC bao gồm 1 sàn giao dịch và hệ thống tổng kho 8.000 m2 có sức chứa khoảng 15.000 tấn cà phê nhân cùng một thời điểm, bên cạnh đó là một xưởng chế biến có diện tích khoảng 5.000 m2 với tổng công suất

tương đương 150.000 tấn/năm, đặt ngay tại Trung tâm, sẵn sàn đáp ứng nhu cầu

mua bán, ký gửi cà phê của người sản xuất, kinh doanh cà phê trên địa bàn tỉnh

cũng như khu vực Tây Nguyên.

BCEC đã cùng với các đơn vị ủy thác là Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt

Nam (Techcombank), CTCP Thái Hòa Buôn Ma Thuột và CTCP Giám định cà phê

và hàng hóa xuất nhập khẩu – chi nhánh Tây Nguyên (CafeControl) đã thiết lập

được thị trường giao dịch cà phê thông qua sàn giao dịch với phương thức giao

ngay có hàng thực và giao sau theo từng kỳ hạn của hợp đồng giao dịch cà phê

Robusta, với mục đích nhằm giảm khâu trung gian, tạo môi trường mua bán trực

tiếp, tạo điều kiện cho người sản xuất, kinh doanh cũng như các nhà đầu tư tài chính

sử dụng tính công khai, minh bạch, an toàn, nhanh chóng, thuận tiện,... và các dịch

vụ: gửi kho, kiểm định chất lượng, chế biến, tín dụng,... để phục vụ mục đích kinh

doanh giao dịch của mình. Trong đó:

- Ngân hàng Techcombank đảm nhận vai trò là ngân hàng ủy thác thanh toán

cho hoạt động giao dịch tại Trung tâm với các nhiệm vụ mở và quản lý tài khoản

tiền của các thành viên; thực hiện lưu ký chứng thư hàng gửi kho; thực hiện thanh

toán, hạch toán tài khoản tiền và hàng đối ứng giữa bên bán và bên mua sau khi các

giao dịch thành công; đồng thời cũng là ngân hàng cung ứng các dịch vụ về tài

chính, tín dụng,... cho thành viên và nông dân có hàng gửi kho.

- CTCP Thái Hòa Buôn Ma Thuột là công ty đảm nhận vai trò quản lý kho

hàng, tổ chức vận hành hệ thống kho và nhà máy chế biến cà phê thô cho người có

hàng, người nông dân khi họ đem cà phê đến ký gửi tại kho Trung tâm. Đơn vị này

thực hiện nhiệm vụ nhận ký gửi, bảo quản, cất trữ cà phê sau khi đã chế biến thành

56

cà phê nhân thành phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu theo từng phẩm cấp chất lượng

được niêm yết trên sàn giao dịch; tổ chức các dịch vụ về kho bãi, chế biến, tái chế,

ký gửi theo nhu cầu của người gửi hàng.

- Công ty Cafecontrol thực hiện nhiệm vụ kiểm định chất lượng đối với hàng

hóa được người có hàng, người nông dân mang đến Trung tâm, cùng với công ty

quản lý kho thực hiện việc xác định phẩm cấp, chất lượng cà phê làm cơ sở để

Trung tâm cấp Chứng thư hàng gửi kho cho người gửi hàng. Công ty Cafecontrol

cũng thực hiện các dịch vụ về kiểm định chất lượng khi người gửi hàng có nhu cầu.

BCEC cùng với các đơn vị phối hợp đã thiết lập được hạ tầng kỹ thuật, công

nghệ thông tin hiện đại, hệ thống phần mềm đấu giá khớp lệnh giao ngay, giao sau,

thanh toán bù trừ, chuyển giao sản phẩm, công bố thông tin,... cùng với sàn giao

dịch đầy đủ trang thiết bị, có sức chứa hơn 100 người cùng lúc giao dịch và làm

việc ngay tại sàn. Hệ thống này đáp ứng được yêu cầu phục vụ cho các tổ chức, cá

nhân từ người sản xuất, chế biến đến kinh doanh, xuất khẩu mặt hàng cà phê cho

đến các nhà đầu tư tài chính thực hiện giao dịch, mua bán cà phê theo mô hình hoạt

động hiện đại phù hợp với xu thế và tập quán giao dịch kinh doanh, mua bán hàng

hoá nông sản trên thế giới.

2.2.3.2 Thực trạng giao dịch giao sau cà phê tại BCEC:

Trong gần 3 năm qua, BCEC đã nhiều lần điều chỉnh những chính sách đưa

ra lúc đầu chưa được phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam, nhằm tạo mọi

điều kiện dễ dàng hơn để thu hút nông dân. Ví dụ như:

- Giảm lượng hàng tối thiểu một lần bán từ 5 tấn xuống còn 1 tấn, để cho

người nông dân có ít hàng cũng bán được thông qua BCEC.

- Mở ra một phương hướng cho người nông dân có thể bán hàng khi cà phê

còn nằm trên cây mà gặp lúc giá tốt và giao hàng sau để tránh bán hàng đồng loạt

sau khi thu hoạch.

- Công tác kiểm hàng công bằng và vô tư thông qua công ty kiểm định Cafe

Control khi nông dân giao hàng cho bên nhận. Cà phê được chăm sóc tốt có tỷ lệ

hạt lớn loại 1 cao, hay cà phê được chế biến sạch ít tạp chất hơn 1% sẽ được cộng

57

thêm giá. Điều này khuyến khích nông dân đầu tư tốt hơn cho chăm sóc và sơ chế

bước đầu để nâng cao chất lượng cà phê.

- Mở nhiều đợt tuyên truyền qua hội thảo đến nhiều huyện cùng với sự kết

hợp của nhiều ngành như ngân hàng, công ty kiểm định, công ty tiếp nhận hàng

hóa... để giải thích chi tiết cho nông dân.

- Hàng hóa gởi vào sàn nếu chưa muốn bán không lo bị mất như gởi cho các

đại lý, không những thế còn được ngân hàng cho vay 70% giá trị thời điểm lô hàng

gởi dựa trên chứng thư gởi kho.

- Nghiên cứu hướng thành lập các điểm giao hàng nằm xa trung tâm để tiện

cho việc giao nhận giữa nông dân và sàn giao dịch.

Với điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, các hệ thống quy định, quy

trình nghiệp vụ và công nghệ tương đối đầy đủ, cơ bản đáp ứng được nhu cầu giao

dịch ở quy mô lớn. Tuy được sự quan tâm, ủng hộ và định hướng từ Bộ Công

Thương, Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk, sự tài trợ của Cơ quan phát triển Pháp

(AFD); sự hỗ trợ và phối hợp từ các đơn vị: Tư vấn quốc tế, tư vấn luật, các công ty

phát triển hệ thống công nghệ và các đơn vị phối hợp (Techcombank, CTCP Thái

Hòa Buôn Ma Thuột, Cafecontrol…) cùng chung sức xây dựng thị trường ban đầu

nhưng kết quả mang lại hết sức khiêm tốn. Thành viên đăng ký bán của BCEC dù

có tăng trong gần 3 năm qua nhưng chỉ đạt 47 thành viên, một con số rất khiêm tốn

nếu so với hàng vạn hộ dân trồng cà phê ở Đắk Lắk nói riêng và hàng trăm ngàn hộ

nông dân trồng cà phê ở Tây Nguyên mà BCEC định hướng nhắm tới. Thành viên

đăng ký kinh doanh cũng quá ít, chỉ mới có 21 doanh nghiệp. Thành viên môi giới

chỉ có 4 công ty, con số quá ít khó có thể gặp gỡ nhiều nhà đầu tư, thuyết phục họ

mở tài khoản và hướng dẫn khách hàng giao dịch cũng như tư vấn thông tin giao

dịch…

Đối với giao dịch giao ngay, tính cả niên vụ 2009-2010 và niên vụ 2010-

2011, số lượng cà phê được mang đến BCEC thực hiện ký gửi, giao dịch chưa đến

1.000 tấn, trong khi Đắk Lắk sản xuất khoảng 400.000 tấn cà phê/năm.

58

Nhìn vào bảng 2.5, từ ngày khai trương hoạt động thí điểm giao dịch cà phê

giao sau 11/03/2011 đến hết tháng 06/2011, tổng giá trị khớp lệnh đạt gần 308 tỷ

đồng, trung bình 3,85 tỷ đồng/phiên. Tổng khối lượng khớp lệnh đạt là 3.137 lô

(một lô tương ứng với 2 tấn), trung bình gần 78,5 tấn cà phê/phiên. Tất cả các trạng

thái mở của những hợp đồng trên đều được tất toán vào cuối phiên giao dịch của

ngày giao dịch cuối cùng trong tháng và không phát sinh hoạt động giao nhận hàng,

cũng như có bất kỳ trạng thái mở nào rơi vào mức bị xử lý theo quy định của

BCEC.

Bảng 2.5: Số liệu giao dịch giao sau tại BCEC từ tháng 3/2011 đến tháng

6/2011

Khối lượng Khối lượng Tổng khối Tổng số Tổng giá trị khớp Tháng đặt mua đặt bán lượng khớp lệnh khớp (1.000VNĐ)

3/2011 829 802 684 1.121 64.967.160

4/2011 1.253 1.213 1.074 768 104.154.800

5/2011 509 487 439 452 44.621.480

6/2011 979 970 940 1.196 94.167.640

3.537 307.911.080 Tổng cộng 3.570 3.472 3.137

Nguồn: BCEC

Hoạt động giao dịch giao sau tại BCEC trong thời gian qua chủ yếu do các

thành viên môi giới giao dịch, khớp lệnh với nhau nhằm tạo thị trường ban đầu và

khuyến khích thị trường phát triển.

Với số lượng thành viên còn hạn chế, với năng lực tài chính không mạnh,

chưa thật sự có thành viên tạo lập thị trường tham gia hoạt động này, do vậy, việc

thực hiện hoạt động tạo lập thị trường cũng không nhiều, lệnh đặt vào hệ thống ít,

tính thanh khoản của thị trường kém. Điều này dẫn đến tâm lý chờ đợi, chưa tham

gia của các nhà đầu tư khi trên sàn BCEC không có lệnh đối ứng để khớp, môi

trường giao dịch không sôi động.

59

2.3 Khảo sát:

2.3.1 Quy trình khảo sát:

Bước 1: Xây dựng bảng câu hỏi

Giai đoạn 1: Xây dựng bảng câu hỏi dựa trên nền tảng các thông tin cần thu thập.

Giai đoạn 2: Phỏng vấn thử 10 đối tượng đã từng nghe tới sàn giao dịch cà phê

nhằm kiểm tra mức độ rõ ràng của bảng câu hỏi và phát hiện những sai sót của bảng

câu hỏi.

Giai đoạn 3: Hiệu chỉnh và hoàn tất bảng câu hỏi, tiến hành khảo sát chính thức.

Bước 2: Xác định số lượng mẫu, đối tượng khảo sát, phạm vi khảo sát, thời

gian khảo sát và thang đo cho việc khảo sát

Tác giả thực hiện khảo sát tại tỉnh Đắk Lắk - trung tâm sản xuất cà phê lớn

nhất Việt Nam trong thời gian từ ngày 15/03/2011 đến 15/06/2011. Tác giả lựa

chọn đối tượng khảo sát là các doanh nghiệp kinh doanh cà phê, các hộ gia đình

trồng cà phê, các thành viên đăng ký bán của BCEC và các đối tượng đã từng nghe

tới sàn giao dịch cà phê bằng bản câu hỏi khảo sát. Do không đủ điều kiện và thời

gian thực hiện kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp các đối tượng đã từng nghe tới sàn giao

dịch cà phê nên số bản câu hỏi đủ tiêu chuẩn xử lý là 120, nghĩa là số lượng mẫu là

120.

Một trong những hình thức đo lường sử dụng phổ biến nhất trong nghiên cứu

định lượng là thang đo Linkert. Vì vậy, bản câu hỏi được thiết kế chủ yếu bao gồm

5 cấp độ phổ biến từ 1 đến 5 để tìm hiểu mức độ đánh giá của người trả lời.

Bước 3: Xử lý dữ liệu thông qua việc sử dụng công cụ phân tích SPSS.

Phương pháp xử lý số liệu chủ yếu được thực hiện theo phương pháp tính bình quân

giá trị số tương ứng của các câu trả lời trong toàn mẫu cho từng hạng mục được hỏi.

Nói cách khác, mỗi lựa chọn cho mỗi câu hỏi trong bảng câu hỏi tương ứng với một

mức độ nhất định, được số hóa theo hệ thống phân loại. Sau đó, tính giá trị bình

quân các giá trị số đó cho toàn mẫu điều tra.

60

2.3.2 Kết quả khảo sát:

Khi tác giả đề cập đến sàn giao dịch cà phê, nhiều hộ nông dân trồng cà phê

không biết đến sàn. Người nông dân đã quen với phương thức “tiền trao cháo múc”.

Khi cần tiền thì họ mang cà phê đi bán để chi tiêu công việc gia đình, đơn giản chỉ

là cân ký bán và nhận tiền. Nếu nhận thấy cà phê được giá thì họ bán hết số lượng

cà phê của mình và dùng số tiền đó đầu tư vào công việc khác mà họ cảm thấy đem

lại nhiều lợi nhuận.

Khi tác giả đề cập vấn đề ký gửi ở các đại lý có thể gặp rủi ro đại lý vỡ nợ,

nhiều hộ nông dân trả lời rằng biết vậy nhưng cũng phải chịu chứ biết làm sao. Nếu

gửi tại đại lý nào mà vỡ nợ thì lần sau họ sẽ gửi tại đại lý khác hoặc là để ở nhà khi

nào thấy cà phê được giá thì mang đi bán lấy tiền.

cán bộ quản lý, 3.3%

lao động tự do, 2.5%

nhân viên văn phòng, 9.2%

Chủ doanh nghiệp, 56.7%

nông dân, 28.3%

Sau đây là kết quả khảo sát 120 người đã từng nghe tới sàn giao dịch cà phê.

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Hình 2.3: Nghề nghiệp của người được khảo sát

Từ chối trả lời, 22.5%

Đại học hoặc sau đại học, 4.2%

Phổ thông trung học, 60%

Trung học cơ sở, 5%

Cao đẳng, 8.3%

61

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Hình 2.4: Trình độ học vấn của người được khảo sát

Hình 2.3 thể hiện đối tượng khảo sát gồm 56,7% chủ doanh nghiệp (của các

đại lý, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn), 28,3% nông dân trồng

cà phê, 12,5% nhân viên văn phòng và cán bộ quản lý (làm việc trong các công ty

kinh doanh cà phê lớn và công ty có vốn nước ngoài) và 2,5% lao động tự do. Hình

2.4 cho thấy trình độ học vấn của các đối tượng được khảo sát không cao, chủ yếu

là trình độ phổ thông trung học.

2.3.2.1 Mức độ nhận biết các sàn giao dịch cà phê:

Hình 2.5 thể hiện kết quả mức độ nhận biết các sàn giao dịch cà phê của 120

người đã từng nghe tới sàn giao dịch cà phê, với mức 1 là rất am hiểu và mức 5 là

hoàn toàn không biết. Kết quả cho thấy người được khảo sát biết vừa phải Trung

tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC), có biết sơ sàn giao dịch Luân Đôn

(LIFFE), và gần như hoàn toàn không biết sàn giao dịch New York (NYBOT), sàn

giao dịch Singapore (SICOM), sàn giao dịch Tokyo, sàn giao dịch Brazil. Kết quả

khảo sát cho thấy các doanh nghiệp và nông dân vẫn chưa hiểu biết nhiều về sàn

giao dịch cà phê.

3.3

Trung tâm giao dịch Buôn Ma Thuột( BCEC)

Sàn giao dịch Tokyo

4.89

4.65

Sàn giao dịch Singapore (SICOM)

Sàn giao dịch Brazil

4.96

4.17

Sàn giao dịch Luân Đôn (LIFFE )

4.53

Sàn giao dịch New York (NYBOT)

0

1

2

3

4

5

6

62

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Hình 2.5: Mức độ nhận biết các sàn giao dịch cà phê

2.3.2.2 Mức độ thường xuyên giao dịch tại sàn giao dịch cà phê:

Trong 120 người được phỏng vấn, chỉ có 48 người có tham gia giao dịch tại

sàn giao dịch cà phê.

Hình 2.6 thể hiện mức độ thường xuyên giao dịch tại các sàn giao dịch cà

phê của 48 người có tham gia giao dịch, với mức 1 là giao dịch rất thường xuyên và

mức 5 là không giao dịch. Kết quả 3,79 và 4,46 gần với mức 4 thể hiện họ giao dịch

rất ít tại sàn BCEC và LIFFE. Còn đối với các sàn NYBOT, Tokyo, SICOM, Brazil

thì họ không giao dịch.

Đối với các sàn giao dịch ở nước ngoài, vì mức độ hiểu biết của họ về các

sàn giao dịch này chưa nhiều nên họ hạn chế tham gia giao dịch và mức độ tham gia

ban đầu của họ vẫn mới chỉ dừng ở mức độ thăm dò. Họ đánh giá khá cao về các

sàn giao dịch ở nước ngoài và có xu hướng là sẽ duy trì lâu dài việc tham gia còn

đối với sàn BCEC, họ đánh giá sàn BCEC chưa đem lại cho họ nhiều lợi ích và họ

có xu hướng là rút lui khỏi sàn, không tham gia nữa.

3.79

Trung tâm giao dịch Buôn Ma Thuột( BCEC)

5

Sàn giao dịch Tokyo

Sàn giao dịch Singapore (SICOM)

5

5

Sàn giao dịch Brazil

4.46

Sàn giao dịch Luân Đôn (LIFFE )

5

Sàn giao dịch New York (NYBOT)

0

1

2

3

4

5

6

63

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Hình 2.6: Mức độ thường xuyên giao dịch tại sàn giao dịch cà phê

2.3.2.3 Mức độ hài lòng khi tham gia sàn giao dịch BCEC:

Hình 2.7 thể hiện mức độ hài lòng của 48 người có tham gia giao dịch tại sàn

BCEC, với mức 1 là rất hài lòng và mức 5 là rất không hài lòng. Yếu tố chất lượng

hàng hóa là yếu tố họ nhận xét hài lòng khi tham gia sàn BCEC. Các yếu tố quản lý

rủi ro về giá, hoạt động giao dịch được đấu giá tập trung công khai, hoạt động theo

nguyên tắc thành viên, dịch vụ môi giới tư vấn là các yếu tố họ tạm hài lòng (bình

thường). Các yếu tố hoạt động giao dịch và thanh toán được quản lý chặt chẽ; dịch

vụ ký gửi, chế biến, bảo quản hàng hóa; thủ tục, phương thức, địa điểm giao/nhận

hàng; các loại phí là các yếu tố họ không hài lòng. Yếu tố họ rất không hài lòng là

dịch vụ hỗ trợ tín dụng.

Khi ký gửi cà phê tại BCEC, họ được cấp chứng thư gửi kho và chứng thư

gửi kho này chỉ được ngân hàng Techcombank nhận thế chấp và cung ứng dịch vụ

hỗ trợ tín dụng với lãi suất khá cao. Theo họ, nếu mà họ để cà phê ở nhà thì họ vẫn

có thể vay ngân hàng khác với lãi suất thấp hơn mà lại thuận tiện khi cà phê lên giá

thì họ có thể bán ngay không phải trải qua một thủ tục rắc rối rườm rà nào hết.

BCEC rất thiếu vắng người giao dịch nên người dân muốn chốt giá thì phải chờ môi

64

giới tìm nguồn và phương thức thanh toán chậm chạp. Đối với họ, giá cà phê luôn

4.13

Các loại phí: phí thành viên, phí giao dịch, phí kiểm định…

3.92

Thủ tục, phương thức, địa điểm giao/nhận hàng

Dịch vụ hỗ trợ tín dụng

4.65

3.77

Dịch vụ ký gửi, chế biến, bảo quản hàng hóa

Dịch vụ môi giới, tư vấn

3.29

Chất lượng hàng hóa

2.25

Quản lý rủi ro về giá

2.56

2.83

Hoạt động giao dịch được đấu giá tập trung công khai

3.13

Hoạt động theo nguyên tắc thành viên

3.5

Các hoạt động giao dịch và thanh toán được quản lý chặt chẽ

0

1

2

3

4

5

biến động thất thường nếu chậm chân thì có thể mất đi số tiền lớn.

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Hình 2.7: Mức độ hài lòng khi tham gia sàn giao dịch BCEC

65

2.08

Chưa quen thuộc với phương thức giao dịch giao sau, thị trường giao sau

1.32

BCEC chưa đem lại nhiều lợi ích cho người tham gia giao dịch

1.58

Dịch vụ hỗ trợ tín dụng

3.07

Dịch vụ ký gửi, chế biến, bảo quản hàng hóa

1.69

Thiếu ưu đãi về giá

1.65

Thủ tục rườm rà

2.49

Thiếu nhà kho tại các địa điểm ở xa

2.79

Thiếu phương tiện vận tải

3.85

Không đủ điều kiện làm thành viên của sàn

1.97

Mức ký quỹ 15% giá trị hợp đồng khi tham gia giao dịch

1.35

Số lượng thành viên tham gia không nhiều

1.53

Các loại phí: phí thành viên, phí giao dịch, phí kiểm định..

0

1

2

3

4

5

2.3.2.4 Lý do tác động đến việc không muốn tham gia sàn giao dịch BCEC:

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Hình 2.8: Lý do tác động đến việc không muốn tham gia sàn giao dịch BCEC

66

Hình 2.8 thể hiện lý do tác động đến việc không muốn tham gia vào sàn giao

dịch BCEC của 72 người được khảo sát, với mức 1 là tác động rất nhiều và mức 5

là hoàn toàn không tác động.

Những người được phỏng vấn đều cho rằng họ chưa quen thuộc với phương

thức giao dịch giao sau và BCEC chưa đem lại nhiều lợi ích cho người tham gia

giao dịch. BCEC có chức năng hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp trong việc tư vấn giá

cả thị trường trong nước và thế giới, tuy nhiên các thông tin tư vấn thường ít chính

xác do công tác cập nhật thông tin còn chưa kịp thời. Các giao dịch tại BCEC ngày

càng thu hẹp về quy mô, các thành viên tham gia giao dịch ngày càng xa rời sàn

giao dịch do tính thanh khoản kém. Do đó, hoạt động của thương lái vẫn phát triển

và hầu như họ chi phối mạnh về các mức giá thu mua đối với các hộ nông dân.

Thủ tục rườm rà, mất khá nhiều thời gian mới hoàn thành các quy trình và

bán được cà phê khiến nông dân và doanh nghiệp đã quen với phương thức mua bán

trao tay đơn giản ngại tham gia. Khi tham gia giao dịch, phải tốn thêm phí thành

viên, phí giao dịch, phí kiểm định, phí lưu kho, phí bốc vác, phí bao bì… mà giá

bán không cao hơn bên ngoài các doanh nghiệp và đại lý bao nhiêu, dịch vụ hỗ trợ

tín dụng cũng không ưu đãi. Phương thức ký gửi, giao nhận hàng chưa thật sự thuận

tiện và có lợi cho nông dân, doanh nghiệp ở xa BCEC. Mặc dù BCEC có hệ thống

kho lớn nhưng nông dân thu hoạch mỗi lần vài tấn cà phê ở các huyện, xã cách xa

trung tâm hàng chục cây số phải thuê xe chở về trung tâm, làm phát sinh chi phí. Do

đó, nông dân gửi cà phê cho đại lý trong thôn, xã vẫn thuận tiện hơn và khi bán cho

đại lý, đại lý sẽ đưa xe tới tận nhà và nông dân không tốn một đồng nào. BCEC hoạt

động không hiệu quả, số lượng thành viên tham gia không nhiều, rất thiếu vắng

người giao dịch, chỉ có ngân hàng Techcombank đảm nhận vai trò là ngân hàng ủy

thác thanh toán, CTCP Thái Hòa Buôn Ma Thuột thực hiện nhiệm vụ nhận ký gửi,

bảo quản, cất trữ cà phê, công ty Cafecontrol thực hiện nhiệm vụ kiểm định chất

lượng cà phê đã không tạo được sự thu hút và sự tin tưởng để các doanh nghiệp

tham gia. Mức ký quỹ 15% giá trị hợp đồng khi tham gia giao dịch vẫn khá cao làm

hạn chế các nhà đầu cơ tham gia giao dịch, từ đó giảm tính thanh khoản của sàn

67

giao dịch. Điều kiện làm thành viên của sàn BCEC là nông dân phải có diện tích cà

phê tối thiểu từ một hecta cà phê trở lên hoặc có khối lượng cà phê nhân tối thiểu từ

một tấn trở lên ký gửi tại hệ thống kho BCEC và khi nông dân muốn bán phải bán ít

nhất là một tấn cũng hạn chế nhiều nông dân tham gia.

Hơn nữa, khi đến mùa vụ, các nông dân phải làm việc quần quật, vất vả.

Ngoài việc nghe đài, xem ti vi, gửi tin nhắn nghe ngóng tin tức giá cả thì ai mà có

thời gian đầu tư vào cho sàn giao dịch. Với họ, sàn là một cái gì đó xa xôi và đầy

các thủ tục, mà theo lẽ thường, các nông dân thì chỉ thích phương thức giao dịch

nào nhanh gọn nhẹ chứ ít ai nghĩ rằng họ phải cần đầu tư có chiều sâu, chiều dài và

mang tính chiến lược.

2.4 Một số nguyên nhân làm cho hoạt động của BCEC chưa hiệu quả:

Từ kết quả khảo sát các đối tượng đã từng nghe tới sàn giao dịch cà phê tại

tỉnh Đăk Lăk và từ các thông tin thu thập được tại BCEC, tác giả rút ra được một số

nguyên nhân làm cho hoạt động của BCEC chưa hiệu quả.

2.4.1 Nguyên nhân khách quan:

2.4.1.1 Nhận thức của các tác nhân ngành hàng cà phê đối với sàn giao dịch

BCEC là đơn vị tiên phong trong hoạt động tổ chức sàn giao dịch hàng hóa

nông sản chính vì vậy công tác đào tạo, tập huấn cho các đối tượng tham gia thị

tường chưa chuyên nghiệp, bài bản. Bên cạnh đó, ở nước ta hiện nay vẫn chưa có

trường trung tâm đào tạo chuyên ngành giao dịch hàng hóa qua Sở giao dịch hàng

hóa.

Từ kết quả khảo sát, tác giả nhận thấy sự hiểu biết một cách rõ ràng về mô

hình hoạt động của BCEC đối với người nông dân là một trong những điểm hạn chế

lớn; các thủ tục tiếp nhận cà phê, đăng ký gửi hàng, cấp chứng thư gửi kho, lưu ký

chứng thư để vay vốn tại ngân hàng ủy thác, đặt lệnh chào bán,…vẫn còn đang là

quá phức tạp so với các phương thức mua bán, ký gửi truyền thống, điều này làm

cho người sản xuất, các doanh nghiệp còn ngại thay đổi, chưa muốn tham gia. Bên

cạnh đó, các hoạt động quảng bá, thông tin, tuyên truyền chưa thực hiện tốt, đồng

68

bộ, rộng khắp và đòi hỏi phải có nguồn lực tài chính cùng với sự tham gia đồng đều

của các cơ quan chức năng, các cơ quan chuyên môn cũng như hệ thống chính trị cơ

sở nhằm đưa được thông tin đến tận người nông dân một cách có hiệu quả.

Thiếu máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và nơi bảo quản cất trữ đều

gặp ở đa số người nông dân sản xuất cà phê. Tuy nhiên, khoảng cách là một trong

những khó khăn lớn mà người nông dân gặp phải khi muốn mang cà phê đến ký gửi

tại BCEC. Vì vậy, đối với người nông dân, mặc dù không muốn, biết rủi ro và thiệt

thòi nhưng hầu hết người nông dân đều phải chọn giải pháp là ký gửi cà phê sau thu

hoạch tại các doanh nghiệp hoặc đại lý thu mua gần nơi sản xuất. Tương tự như

vậy, các doanh nghiệp cũng ít quan tâm đến sàn giao dịch vì họ cũng đang mua bán,

kinh doanh với nhau trên thị trường truyền thống. Việc khó thu hút được nhiều

nguồn hàng ký gửi, chào bán trên sàn nên các doanh nghiệp thu mua, xuất khẩu

cũng không tham gia tìm kiếm nguồn hàng trên sàn.

Các doanh nghiệp, nhà đầu tư tài chính…chưa thực sự quan tâm, hầu hết đều

có tâm lý quan sát từ xa, xem xét hoạt động của BCEC.

2.4.1.2 Cơ chế và các quy định hoạt động sàn giao dịch

Chưa có các chính sách định hướng phát triển Sở giao dịch hàng hóa. Các

quy định chi tiết, cụ thể của Nhà nước về quản lý, hướng dẫn và điều chỉnh hoạt

động sàn giao dịch còn thiếu.

Hệ thống quy chế đã được ban hành nhưng trong thực tế vẫn còn nhiều điều

khoản chưa phù hợp với thực tiễn thị trường. Phải liên tục được nghiên cứu điều

chỉnh bổ sung cho hoàn thiện.

BCEC hiện nay vẫn sơ khai, còn lỏng lẻo về cơ sở pháp lý và thể lệ hoạt

động nên tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn và khả năng xảy ra tranh chấp là khó tránh

khỏi.

2.4.1.3 Tình hình kinh tế trong giai đoạn hiện nay

Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều biến động, kinh tế vĩ mô cũng

trong giai đoạn hết sức khó khăn, các chính sách về tài chính, tín dụng của chính

69

phủ cũng ảnh hưởng đến việc thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động

giao dịch tại sàn, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư tài chính.

2.4.2 Nguyên nhân chủ quan:

2.4.2.1 Nguồn nhân lực

Đội ngũ nhân viên của BCEC vẫn còn mỏng, trình độ chuyên môn còn yếu,

thiếu chuyên nghiệp vì không có môi trường đào tạo bài bản và trải nghiệm thực tế

trong lĩnh vực quản lý, vận hành sàn giao dịch hàng hóa nông sản, đây cũng là vấn

đề khá nan giải khi chưa có một cơ chế đãi ngộ, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, sử

dụng nhân tài rõ ràng, cụ thể. Việc này cũng ảnh hưởng đến việc tập trung nhân sự

cho các chương trình công tác trọng tâm trong từng giai đoạn triển khai của BCEC.

2.4.2.2 Phối hợp, hợp tác

BCEC là đơn vị sự nghiệp, trực thuộc Sở Công Thương Đắk Lắk, nên rất cần

sự tham gia, phối hợp của các đơn vị hoạt động trong các lĩnh vực liên quan như:

ngân hàng thương mại, doanh nghiệp kinh doanh chế biến cà phê, công ty kiểm

định chất lượng… Tuy nhiên, do mô hình mới, hiện nay chỉ có 3 đơn vị tham gia

các hoạt động do BCEC ủy thác, đó là Ngân hàng Techcombank, CTCP Thái Hòa

Buôn Ma Thuột, Cafecontrol. Việc cung ứng các dịch vụ xung quanh hoạt động

giao dịch cà phê cũng bị hạn chế, ít nhiều ảnh hưởng đến việc tổ chức giao dịch và

các hoạt động liên quan của BCEC

Quy trình phối hợp, hợp tác giữa các đơn vị ủy thác và BCEC hoặc giữa các

đơn vị ủy thác với nhau chưa thực sự gắn kết, liên thông nhau; việc xử lý, tháo gỡ

những vướng mắc trong quá trình triển khai công việc còn chậm, lúng túng.

2.4.2.3 Tính thanh khoản của thị trường

Chưa tìm được các tổ chức đủ tiềm lực tài chính, năng lực về kinh doanh,

xuất khẩu cà phê và có các điều kiện cần thiết để có thể thực hiện việc bảo hiểm

hàng hóa trên các thị trường cà phê lớn của thế giới (LIFFE, NYBOT) để đảm nhận

70

nhiệm vụ tạo thanh khoản cho thị trường (mua khi thị trường cần bán và bán khi thị

trường cần mua).

2.5 Một số nguyên nhân giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam chưa phát

triển:

Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam quan tâm

đến công cụ bảo hiểm rủi ro về giá là hợp đồng giao sau vì càng ngày càng nhiều

doanh nghiệp tham gia giao dịch tại các Sở giao dịch hàng hóa ở nước ngoài thông

qua các nhà môi giới tại Việt Nam. Vậy tại sao cho đến nay, hoạt động giao dịch

giao sau cà phê tại Việt Nam chưa phát triển. Sau đây là một số nguyên nhân chính

được tác giả trình bày trong luận văn.

2.5.1 Các quy định pháp lý chi tiết về thị trường phái sinh hàng hóa vẫn chưa đầy

đủ:

Hệ thống văn bản pháp luật quy định cho thị trường phái sinh hàng hóa còn

chưa đầy đủ, thiếu tính rõ ràng và chưa chi tiết để hướng dẫn các chủ thể tham gia

thị trường.

Hiện nay, các văn bản pháp lý liên quan tới giao dịch hàng hóa mới chỉ dừng

lại trong khuôn khổ Luật thương mại năm 2005; Nghị định 158/2006/NĐ-CP của

Chính phủ và Thông tư 03/2009/TT-BCT của Bộ Công thương.

Luật Thương mại năm 2005 có một mục “Mua bán hàng hóa qua Sở giao

dịch hàng hóa” gồm 11 điều đề cập đến những vấn đề cơ bản liên quan đến mua bán

hàng hóa qua Sở giao dịch. Luật Thương mại quy định những hợp đồng thực hiện

qua Sở giao dịch bao gồm “hợp đồng kỳ hạn” và “hợp đồng quyền chọn” (điều 64)

và khẳng định “Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là hoạt động thương

mại” (điều 63).

Nghị định 158/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại 2005 về hoạt

động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa trong đó quy định khái niệm và

nguyên tắc cơ bản về giao dịch kỳ hạn và quyền chọn; điều kiện, tổ chức hoạt động

của Sở giao dịch hàng hóa; phương thức giao dịch các hợp đồng trên thị trường; cấp

71

giấy phép, kiểm tra, giám sát hoạt động giao dịch hàng hóa qua Sở giao dịch hàng

hóa của cơ quan nhà nước có thẩm quyền

Nghị định 158/2006/NĐ-CP có liệt kê các cơ quan quản lý nhà nước về Sở

giao dịch hàng hóa gồm: Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương), Ngân hàng Nhà

nước, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng các cơ quan nhà nước khác.

Trong đó, Bộ Công thương giữ vai trò chủ đạo trong quản lý nhưng hướng quản lý

cũng rất mở như ban hành văn bản pháp quy, cấp phép, chế tài trong trường hợp

khẩn cấp, thanh tra, kiểm tra, xây dựng lộ trình phát triển và quản lý chung. Bộ

trưởng Bộ Công thương là người có thẩm quyền cấp, sửa đổi, bổ sung giấy phép và

điều lệ hoạt động của Sở giao dịch hàng hóa.

Thông tư số 03/2009/TT-BCT hướng dẫn hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp giấy

phép thành lập và quy định chế độ báo cáo của Sở giao dịch hàng hóa theo quy định

tại Nghị định số 158/2006/NĐ-CP.

Các quy định còn một số bất cập như chưa có các quy định về việc kiểm soát

chặt chẽ các thành viên tham gia Sở giao dịch hàng hóa, chưa có các quy định cụ

thể về quản lý rủi ro, kiểm tra, giám sát thị trường của các cơ quan nhà nước có

thẩm quyền, cũng như chưa có quy định cụ thể về giao dịch phái sinh, thanh toán bù

trừ, thuế…Hoạt động của Sở giao dịch hàng hóa còn bị quản lý chồng chéo bởi các

quy định của các bên liên quan như giữa các Bộ, ngân hàng và doanh nghiệp.

Chẳng hạn, Bộ Tài chính có trách nhiệm hướng dẫn các chế độ về thuế, phí, lệ phí

đối với hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch, trong khi ngân hàng lại có

trách nhiệm hướng dẫn chế độ thanh toán…Tuy nhiên, đến nay Ngân hàng Nhà

nước vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về chế độ thanh toán để tạo điều kiện

cho các sàn giao dịch hàng hóa làm việc với các Ngân hàng Thương mại trong giao

dịch hàng hóa phái sinh.

Hiện tại, Việt Nam chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của các bên (Sở

giao dịch hàng hóa, Trung tâm thanh toán, Thành viên) trong đảm bảo thanh toán

cho các giao dịch giao sau, chưa có quy định cụ thể về chức năng, trách nhiệm,

quyền hạn và điều kiện được thành lập cho Trung tâm thanh toán bù trừ để quản lý

72

thực hiện việc thanh toán…dẫn tới các bên bị lúng túng trong tổ chức, thực hiện gây

ra nhiều tranh luận, và thiếu nhất quán trong tổ chức thực hiện. Kèm theo đó là

trách nhiệm của các bên cũng rất lập lờ và không rõ ràng. Các công ty môi giới

cũng lập lờ trong trách nhiệm của mình, và các cơ quan quản lý nhà nước thiếu

thông tin, thiếu quyền hạn để giám sát việc tổ chức thực hiện của các bên.

Thực tiễn phát triển ở các nước cho thấy, thị trường phái sinh hàng hóa chỉ

thực sự phát triển khi nhận được sự hỗ trợ phát triển của Chính phủ nhưng ở Việt

Nam hiện nay, vẫn chưa có cơ chế thực sự để khuyến khích và hỗ trợ các sàn giao

dịch phát triển thị trường cũng như bảo vệ nhà đầu tư thông qua các quy định về ký

quỹ, bảo lãnh, hỗ trợ thanh toán hoặc các biện pháp quản lý rủi ro khác.

Ngoài ra, sự lúng túng trong việc gọi tên hợp đồng “futures” còn được ghi

nhận ngay trên các văn bản luật hiện hành. Luật Thương mại và các văn bản hướng

dẫn thi hành gọi hợp đồng này là hợp đồng kỳ hạn. Luật Chứng khoán gọi hợp đồng

này là hợp đồng tương lai. Còn trong nhiều sách, báo, tài liệu nghiên cứu thì gọi

hợp đồng này là hợp đồng giao sau. Nguồn gốc của sự đa dạng tên gọi dành cho

hợp đồng “futures” bắt nguồn từ giới nghiên cứu khi họ cố phân biệt hợp đồng này

với hợp đồng “forward”. Vì từ trước khi ra đời của loại hợp đồng “futures”, trong

tập quán thương mại lẫn tài liệu đều gọi hợp đồng “forward” là hợp đồng kỳ hạn.

Khi các nhà nghiên cứu bắt đầu viết về hợp đồng“futures”, họ không biết nên sử

dụng tên gọi nào cho đúng. Tên gọi “hợp đồng kỳ hạn” nghe rất hay nhưng đã được

dùng rồi. Do đó, đa phần các nhà nghiên cứu đều gọi nó là “hợp đồng giao sau”,

một số ít hơn dùng “hợp đồng tương lai” và một nhóm rất ít dùng “hợp đồng kỳ

hạn”. Việc sử dụng tên gọi không đồng nhất ở cấp độ luật dễ gây ra lúng túng cho

các thành phần kinh tế khi sử dụng.

2.5.2 Việc Ngân hàng Nhà nước cấm đầu cơ trên thị trường phái sinh hàng hóa

cũng làm hạn chế số lượng thành viên tham gia:

Hiện nay theo Công văn số 8905 của Ngân hàng Nhà nước, việc giao dịch

hợp đồng giao sau phải được thực hiện trên cơ sở hàng hóa thực (các thành viên

tham gia thị trường phải có bằng chứng về nhu cầu xuất nhập khẩu hoặc sản xuất,

73

thu mua, chế biến hàng hóa xuất khẩu) nhằm tránh hiện tượng lợi dụng giao dịch

hợp đồng giao sau trên thị trường hàng hóa để đầu cơ. Song, thực tế cho thấy, thị

trường giao sau không chỉ là nơi gặp gỡ của các bên có nhu cầu mua bán hàng hóa

cơ sở, mà còn có sự tham gia tích cực của các đối tượng đầu cơ, kinh doanh chuyên

nghiệp. Chính các đối tượng này là chất xúc tác thúc đẩy sự phát triển của thị

trường giao sau hàng hóa. Do vậy, quy định của Ngân hàng Nhà nước đã hạn chế

một lượng lớn thành viên tham gia vào giao dịch giao sau hàng hóa.

2.5.3 Quan niệm chưa đúng về “lỗ” trên thị trường phái sinh hàng hóa:

Khi tham gia giao dịch trên thị trường phái sinh hàng hóa, người bán và

người mua dựa vào dự đoán về xu hướng giá hàng hóa trong tương lai để cố định

giá trước tại thời điểm hiện tại. Trong khi đó, việc dự đoán xu hướng giá trong

tương lai có xác suất đúng hoặc sai nên việc tham gia vào thị trường phái sinh hàng

hóa có thể rơi vào trạng thái lãi hoặc lỗ. Với các tổng công ty lớn thuộc khối doanh

nghiệp nhà nước, việc lỗ từ hoạt động giao dịch hợp đồng giao sau có thể bị quy kết

là lỗ do “đánh bạc” trên thị trường và làm thất thoát tài sản của nhà nước. Quan

niệm này khiến việc thuyết phục các tổng công ty lớn thuộc khối doanh nghiệp nhà

nước – đối tượng khách hàng có nhu cầu quản lý rủi ro giá cả hàng hóa lớn tham gia

vào thị trường phái sinh hàng hóa rất khó khăn.

2.5.4 Trình độ kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm của các chủ thể tham gia giao

dịch giao sau cà phê còn hạn chế:

Giao dịch giao sau đòi hỏi chủ thể tham gia phải am hiểu rất rõ hình thức

này, trong khi đó nhà đầu tư tại Việt Nam chưa có nhiều kiến thức và kinh nghiệm

trong việc sử dụng công cụ cao cấp này. Việc quản lý các giao dịch giao sau cũng

rất phức tạp, đòi hỏi những người tham gia quản lý thị trường này phải biết hệ

thống giao dịch giao sau vận hành như thế nào thì mới giám sát thực hiện hợp

đồng được.

Trình độ đội ngũ cán bộ còn chưa đáp ứng yêu cầu. Thời gian qua lực lượng

này còn thiếu cả về chuyên môn kiến thức lẫn bề dày kinh nghiệm, nên chất lượng

74

dịch vụ mà họ cung ứng cho thị trường không đầy đủ và thiếu chất lượng. Bên cạnh

đó, các nhà môi giới còn quá ít để thúc đẩy các nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ thị

trường này.

2.5.5 Thị trường hàng hóa cơ sở chưa phát triển:

Thị trường hàng hóa cơ sở phát triển đầy đủ là nền tảng cho thị trường phái

sinh hàng hóa tồn tại. Một đặc điểm dễ thấy là không có thị trường cơ sở thì không

thể có thị trường giao sau, và giá cả hàng hóa giao sau phụ thuộc vào biến động giá

cả hàng hóa cơ sở. Tuy nhiên, dù là một nước có sản lượng cà phê dồi dào, nhưng

thị trường cà phê Việt Nam còn nhiều bất cập. Về phía cung: Sản xuất cà phê còn tự

phát, nông dân bị cuốn vào vòng luẩn quẩn “trồng – chặt – trồng” và “được mùa

mất giá, mất mùa được giá”. Về phía cầu: Sản phẩm cà phê của Việt Nam phần lớn

được xuất khẩu và phụ thuộc rất nhiều vào giá trên thị trường thế giới.

2.5.6 Thói quen, tập quán của nông dân và doanh nghiệp:

Thói quen và tập quán kinh doanh là những cản trở lớn đối với việc phát

triển giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam.

Cho dù trong thời gian qua hệ thống đại lý bộc lộ nhiều điều bất cập như

nhận hàng gởi của nông dân rồi làm ăn thua lỗ mà trốn mất hoặc nông dân bị phụ

thuộc vào các đại lý thu mua và bị các đại lý ép giá. Nhưng từ lâu nông dân xem

những đại lý này là nguồn cung ứng vốn cho mình, để họ có vốn mua phân bón,

thuê nhân công hay xây dựng hệ thống tưới tiêu. Các đại lý có hệ thống thu mua

phục vụ đến tận mỗi nhà nông dân. Các đại lý đầu tư sâu rộng ngay khi nông dân

chưa có cà phê, trong khi hệ thống ngân hàng thương mại chưa làm tròn được

nhiệm vụ này và thường có xu hướng hỗ trợ khi nắm được hàng trong tay. Nông

dân thu hoạch cà phê với bất kỳ khối lượng nào cũng được đại lý, thương lái ở thôn

buôn, trong xã tới mua cà phê xô mà tiền có thể trao ngay hoặc ghi nợ mà nông dân

có thể lấy bất kỳ lúc nào mình muốn.

Các công ty xuất khẩu cà phê tên tuổi trong nước đều có mạng lưới thu mua

cà phê sâu rộng truyền thống từ lâu, các quy định, thông lệ được thống nhất bằng

75

văn bản hay phi văn bản trong hệ thống của chính họ từ người mua trung gian đến

nhà máy của công ty đã gắn chặt và được phổ biến lâu đời, các công ty này không

có nhu cầu phải tìm đến với sàn mới có được cà phê cho nhà máy. Hầu hết các giao

dịch của các doanh nghiệp hiện nay vẫn theo cách truyền thống, mức độ tham gia

giao dịch giao sau của các doanh nghiệp vẫn mới chỉ dừng ở mức độ thăm dò.

Đối với người nông dân, quy trình tham gia, cách thức thực hiện giao dịch tại

sàn giao dịch hàng hóa khá phức tạp và rắc rối. Việc mua bán trên sàn đòi hỏi người

giao dịch phải rành máy tính, công nghệ thông tin, nắm bắt tình hình biến động giá

cả thị trường trong nước và thế giới... nhưng đối với nông dân Việt Nam, điều này

không dễ để tiếp thu và học hỏi. Quy định về ký gửi hàng hóa, lưu kho... cũng rất

phức tạp và còn phát sinh thêm nhiều chi phí khác, đặc biệt nông dân toàn ở vùng

sâu vùng xa, ai mà chở cà phê từ huyện lên tỉnh để gửi khiến người nông dân không

mấy háo hức khi tham gia sàn. Ngoài ra, các quy cách và tiêu chuẩn về sản phẩm

khi tham gia sàn cũng gây không ít khó khăn cho người nông dân. Nông dân muốn

tham gia sàn giao dịch hàng hóa cần có một khối lượng hàng hóa khá lớn đáp ứng

tiêu chuẩn của sàn, trong khi đó, số hộ gia đình có khả năng cung ứng đủ tiêu chuẩn

lại rất ít, khiến số lượng người nông dân tham gia bị hạn chế.

Vì tín dụng nông thôn vẫn chưa được đầu tư đúng mức nên rất nhiều doanh

nghiệp, người nông dân không vay vốn được của ngân hàng mà chủ yếu vẫn dựa

trên mối quan hệ với bên thu mua, tức là bên thu mua ứng vốn cho người nông dân.

Do đó, nếu chưa giải quyết được bài toán vốn cho người sản xuất thì ngưỡng cản

tham gia giao dịch giao sau vẫn còn rất lớn.

2.5.7 Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghệ chưa hoàn chỉnh:

Hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán, tín dụng cho người mua, người bán

trên các sàn giao dịch chưa được quan tâm.

Việc cung ứng các dịch vụ kho bãi, kiểm định…chưa có sự cạnh tranh, đa

dạng. Chưa xây dựng được hệ thống quản lý kho bãi cho phép quản lý cả kho chính

trực thuộc các sàn giao dịch và cả kho liên kết đạt tiêu chuẩn được cấp phép nhằm

76

giúp người nông dân giảm chi phí vận chuyển lưu kho thuận tiện, lưu ký hàng hóa

lấy chứng thư.

Thiếu tính liên kết, tích hợp trực tuyến hệ thống quản lý kho bãi, hệ thống

giao dịch điện tử và hệ thống quản lý của các định chế tài chính.

Mức độ liên thông, liên kết với các Sở giao dịch hàng hóa nước ngoài

(LIFFE, NYBOT,…) hầu như không có.

Hệ thống giao dịch, giám sát, công bố thông tin, tính mính bạch chưa tạo

được sự tin tưởng cho nhà đầu tư tham gia giao dịch. Các phương tiện cung cấp

thông tin chưa đáp ứng nhu cầu về thông tin của toàn thị trường.

2.5.8 Sự tham gia của các định chế tài chính không nhiều và thiếu vắng sự tham

gia của các nhà đầu tư có tổ chức lớn

Các định chế tài chính tham gia hoạt động trên thị trường phát triển chưa

mạnh cả về số lượng lẫn quy mô đầu tư, trang thiết bị. Lý do là nguồn nhân lực của

các ngân hàng chưa đáp ứng được yêu cầu, kiến thức về thị trường phái sinh hàng

hóa và khả năng quản trị rủi ro trong ngân hàng chưa cao, hạ tầng công nghệ thông

tin chưa tốt và khá khác biệt giữa các ngân hàng.

Thị trường giao sau cà phê Việt Nam vẫn là một thị trường non trẻ, chưa

hoàn thiện và hấp dẫn, chưa thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư có tổ chức lớn,

nhà đầu tư kinh nghiệm có kiến thức am hiểu thị trường để làm đầu tàu dẫn dắt thị

trường theo hướng có hiệu quả. Do tính chất mới mẻ và mức độ hiểu biết của thị

trường về giao dịch giao sau cà phê còn chưa đầy đủ nên số lượng các nhà đầu tư

tham gia giao dịch còn hạn chế so với tiềm lực tài chính trong dân, so với các loại

hình đầu tư khác như gửi tiết kiệm, đầu tư bất động sản, đầu tư chứng

khoán…Chính tính thanh khoản của các sàn giao dịch cà phê của Việt Nam còn

thấp là rào cản lớn nhất đối với việc tham gia của các nhà đầu tư tài chính vào các

sàn giao dịch này.

77

2.5.9 Công tác tuyên truyền và phổ cập kiến thức về giao dịch giao sau vẫn chưa

đáp ứng được yêu cầu:

Công tác đào tạo giao dịch giao sau của Việt Nam chưa thể hiện tính phổ

cập, tính chuyên nghiệp, tính thực tiễn. Đối với các trường đại học, cao đẳng, học

viện, đa phần chỉ dạy suông, bản thân các giáo viên hầu hết không có kinh nghiệm

giao dịch giao sau…Hơn nữa, đội ngũ giảng viên chuyên về lĩnh vực này hiện nay

còn rất thiếu. Quá trình học tập của học viên còn thụ động, khả năng tiếp cận với

thực tiễn về giao dịch giao sau còn nhiều hạn chế.

Thông tin giao dịch giao sau trên các báo, đài, tạp chí… chưa nhiều, còn sơ

sài, chưa chất lượng và không gây quan tâm nhiều cho công chúng, công chúng còn

rất thờ ơ với việc tham gia giao dịch giao sau.

Nhiều nông dân, người lao động trong doanh nghiệp, nhà đầu tư cá nhân còn

xa lạ với kiến thức về giao dịch giao sau và chưa có điều kiện để tiếp cận với các

lớp học về giao dịch giao sau.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trong chương 2 tác giả đã trình bày tổng quan ngành cà phê Việt Nam hiện

nay và thực trạng giao dịch giao sau cà phê ở Việt Nam.

Ngành cà phê Việt Nam vẫn chưa thiết lập được hệ thống chế biến, tiêu thụ,

xuất khẩu mang tính chuyên nghiệp nên việc tiêu thụ và xuất khẩu hoàn toàn bị

động. Mối liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu và người trồng cà phê

còn lỏng lẻo. Các nhà kinh doanh sản xuất cà phê không tiên liệu được chính xác

nhu cầu của thị trường và chiều hướng biến động giá do đó không định hướng được

sản xuất.

Thực trạng giao dịch giao sau cà phê ở Việt Nam hiện nay vẫn cho thấy

nhiều bất cập, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa biết cách sử dụng hợp đồng giao

sau trong việc bảo hộ giá hàng hóa. Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam vừa mới được

thành lập, chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư tham gia. Trong khi

đó, hoạt động giao dịch giao sau ở Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột

cũng hết sức khiêm tốn mặc dù BCEC đã nhiều lần điều chỉnh chính sách cho phù

78

hợp với tình hình thực tế. Kết quả khảo sát mức độ nhận thức, mức độ thường

xuyên giao dịch và mức độ hài lòng với BCEC của những người đã từng nghe tới

sàn giao dịch cho thấy nông dân và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê không

mặn mà với giao dịch giao sau cà phê tại các sàn giao dịch hàng hóa của Việt Nam.

Trong chương 2 tác giả cũng đã đưa ra một số nguyên nhân dẫn đến hoạt

động giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam chưa phát triển cũng như hoạt động

của BCEC chưa hiệu quả làm tiền đề để đưa ra các giải pháp phát triển giao dịch

giao sau trong chương 3.

79

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ PHÁT TRIỂN GIAO

DỊCH GIAO SAU CÀ PHÊ TẠI VIỆT NAM

3.1 Các giải pháp từ phía Nhà nước:

3.1.1 Hoàn thiện hệ thống hành lang pháp lý cho hoạt động giao dịch giao sau:

Về hệ thống hành lang pháp lý, Luật Thương mại năm 2005 có hiệu lực từ

ngày 1/1/2006 cùng với Nghị định 158/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết nội dung giao

dịch hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa ở Luật Thương mại và Thông tư

03/2009/TT-BTC hướng dẫn thủ tục thành lập Sở giao dịch hàng hóa và chế độ báo

cáo của Sở giao dịch hàng hóa đã hình thành khung pháp lý cho hoạt động giao dịch

hàng hóa thông qua Sở giao dịch. Tuy nhiên do điều kiện khách quan và tính chất

lịch sử của từng thời kỳ nên hệ thống văn bản này vẫn còn một số bất cập không

theo kịp sự phát triển nhanh chóng của nhu cầu thị trường. Vì vậy, các cơ quan chức

năng trong thời gian tới khi xem xét ban hành các thông tư, nghị định mới hoặc

thậm chí là sửa đổi Luật Thuơng mại cần chú trọng một số vấn đề sau nhằm hỗ trợ

và thúc đẩy sự phát triển chung của thị trường hàng hóa trong đó có hoạt động giao

dịch giao sau hàng hóa thông qua Sở giao dịch: các vấn đề liên quan đến hoạt động

môi giới trên Sở giao dịch hàng hóa, các vấn đề liên quan đến hệ thống thuế, hóa

đơn và thủ tục hải quan, hệ thống báo cáo, và các văn bản tài chính, các vấn đề liên

quan đến cơ chế vận hành, quản lý rủi ro, phương thức bảo vệ nhà đầu tư trên thị

trường hàng hóa, các vấn đề liên quan đến thanh toán bù trừ, ngân hàng thanh toán,

và hoạt động tạo lập thị trường,…

Hiện nay theo công văn số 8905/NHNN-QLNH của Ngân hàng Nhà nước,

việc giao dịch hợp đồng giao sau (Futures contract) phải được thực hiện trên cơ sở

hàng hóa thực để tránh hiện tượng lợi dụng giao dịch hợp đồng giao sau trên thị

trường hàng hóa để đầu cơ. Đây là một quy định không phù hợp với thông lệ quốc

tế. Trên thị trường hàng hóa, đặc biệt là thị trường hàng hóa phái sinh luôn tồn tại

hai nhóm người: nhà bảo hiểm rủi ro và các nhà đầu cơ. Chính các nhà đầu cơ là

một cơ chế riêng có của thị trường phái sinh và thị trường tài chính giúp cho việc

80

hoán đổi rủi ro của nhà đầu tư được thực hiện dễ dàng hơn và từ đó tính thanh

khoản của thị trường được đảm bảo. Vì vậy, xã hội cần có sự nhìn nhận lại vai trò

thực sự của các nhà đầu cơ trong sự phát triển của các thị trường tài chính, trong đó

có thị trường hàng hóa, trước hết bằng việc sửa đổi các quy phạm pháp luật cho phù

hợp với điều kiện Việt Nam và thông lệ quốc tế.

Gần đây, Bộ Công Thương đang tiến hành lấy ý kiến góp ý về Thông tư

“Quy định lộ trình, điều kiện và thủ tục cấp giấy phép kinh doanh đối với thương

nhân Việt Nam tham gia giao dịch mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa ở

nước ngoài”. Đây là một bước thực hiện đúng đắn thể hiện sự quan tâm của cơ quan

quản lý nhà nước đến sự phát triển của thị trường hàng hóa và Sở giao dịch hàng

hóa tại Việt Nam. Nếu được ban hành thông tư này sẽ góp phần giải quyết vấn đề

nhà tạo lập thị trường cho Sở giao dịch và cải thiện tính thanh khoản cho hoạt động

giao dịch thông qua Sở giao dịch hàng hóa. Tuy nhiên, trong quá trình xem xét và

triển khai thông tư này cần chú ý bước đầu chỉ nên cấp phép cho các thương nhân

Việt Nam được phép giao dịch trên thị trường hàng hóa nước ngoài khi thỏa các

điều kiện: đang là thành viên tạo lập thị trường của một Sở hoặc Trung tâm giao

dịch hàng hóa nội địa, đang là một thành viên giao dịch tích cực trên các thị trường

hàng hóa nội địa, chứng minh được nhu cầu thực tế cần thiết phải giao dịch trên Sở

giao dịch quốc tế. Nếu không, rất dễ dẫn đến hiện tượng thương nhân Việt Nam lợi

dụng thông tư này để gia tăng hoạt động mua bán trên các Sở giao dịch quốc tế thay

vì đóng góp một phần vào hoạt động giao dịch tại thị trường hàng hóa Việt Nam;

đồng thời, các Sở giao dịch hàng hóa tại Việt Nam rất có thể chỉ trở thành “các đại

lý nhận lệnh” cho các Sở giao dịch hàng hóa quốc tế.

3.1.2 Hoàn thiện bộ máy quản lý hoạt động giao dịch giao sau:

Về hệ thống tổ chức và quản lý thị trường hàng hóa và Sở giao dịch hàng

hóa, hiện tại Bộ Công Thương là cơ quan đại diện cho nhà nước trong việc cấp phép

thành lập và quản lý Sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam. Tuy nhiên, liên quan đến

hoạt động thuế, phí, và lệ phí lại do Bộ Tài chính quản lý hoặc hoạt động thanh toán

bù trừ và hướng dẫn thanh toán lại liên quan đến Ngân hàng Nhà nước. Điều này

81

dẫn đến một số vấn đề chồng chéo trong quản lý giao dịch giao sau hàng hóa thông

qua Sở giao dịch. Thiết nghĩ, cần phải có một cơ quan độc lập đứng ra quản lý riêng

về giao dịch giao sau hàng hóa nhằm đảm bảo tính thống nhất, tránh các thủ tục

rườm rà trong hoạt động quản lý và phát triển giao dịch giao sau hàng hóa tại Việt

Nam.

3.1.3 Hỗ trợ phát triển thị trường cà phê giao ngay (physical market):

Thị trường cà phê giao ngay luôn luôn là nền tảng kết hợp và bổ trợ cho hoạt

động giao dịch giao sau cà phê thông qua các Sở giao dịch hàng hóa. Để phát triển

thị trường này, cần giải quyết ba vấn đề lớn:

Một là, các Bộ ban ngành có liên quan thay mặt Chính phủ cùng kết hợp với

các Sở giao dịch hàng hóa tiến hành một chương trình quốc gia về phát triển thương

hiệu cà phê Việt Nam. Trong đó, chú trọng phát triển cà phê theo các tiêu chuẩn

niêm yết và giao dịch trên các thị trường hàng hóa quốc tế.

Hai là, giải quyết triệt để vấn đề cung cấp tín dụng cho người sản xuất cà phê

tại Việt Nam. Vấn đề này có thể được giải quyết thông qua sự hợp tác chặt chẽ giữa

Sở giao dịch và các ngân hàng thương mại hoặc các định chế tài chính khác dưới sự

chỉ đạo cụ thể của Bộ Công thương và các Bộ ngành có liên quan.

Cần có chính sách đảm bảo nguồn cung ứng đầu vào về cả số lượng và chất

lượng. Chính phủ nên đưa ra những chính sách hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực bao

gồm mở các lớp đào tạo nông dân về kỹ thuật canh tác, sơ chế, bảo quản và chế

biến cà phê, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo tay nghề cho công nhân tại các

nhà máy chế biến. Chúng ta cũng có thể học hỏi kinh nghiệm của chính phủ Brazil,

cho nông dân vay tiền để giao dịch cà phê giao sau, đảm bảo về tài chính, bảo hiểm

rủi ro, tăng cường chính sách khuyến nông, đảm bảo nguồn nước tưới cho cây, mở

rộng và phát triển hệ thống giao thông thuận lợi từ đó tạo cơ hội mới, khuyến khích

người dân trồng và phát triển cây cà phê. Bên cạnh đó, Bộ Nông nghiệp và Phát

triển Nông thôn cũng cần triển khai nhiều chương trình tái canh cây cà phê từ nguồn

vốn của ngân hàng, doanh nghiệp. Bộ cũng phải phối hợp với các địa phương đẩy

mạnh liên kết từ khâu canh tác, chế biến đến xuất khẩu nhằm tạo sức mạnh và sự

82

đồng thuận, hạn chế cách làm riêng lẻ, cá thể. Phát triển mô hình hợp tác xã cà phê

để có một thị trường đảm bảo tương đối ổn định và hứa hẹn lâu dài nếu được đầu tư

đúng và hiệu quả. Đầu tư phát triển giống cây cà phê có sản lượng và chất lượng

cao, nghiên cứu truyền đạt kỹ thuật trồng chăm sóc tới người dân. Ứng dụng các

tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại vào trồng cà phê, dự đoán các thiên tai để hạn

chế ảnh hưởng, phòng chống sâu bệnh; sử dụng các chất bảo vệ thực vật hợp lý,

không ứ đọng lại trong sản phẩm. Kỹ thuật thu hoạch đúng thời vụ, không hái non

xanh và lọc tạp chất để đảm bảo chất lượng. Bên cạnh mở rộng diện tích cây trồng

mới cần phải cải tạo chăm sóc những diện tích có sẵn, trồng lại theo từng khu vực

có quy hoạch. Như vậy luôn có vùng đảm bảo nguồn nguyên liệu cung ứng đầu vào

Ba là, giải quyết vấn đề kiểm định, kho bãi và vận chuyển hàng hóa

(logistic) trong hoạt động giao dịch cà phê thông qua Sở giao dịch. Hầu hết hoạt

động sản xuất cà phê là nằm ở nhóm hộ gia đình nên số lượng cà phê sản xuất ra

tính trên mỗi đơn vị sản xuất cũng nhỏ lẻ theo tiêu chuẩn giao dịch thông qua Sở

giao dịch. Vì vậy đang tồn tại nhu cầu bức thiết cần có một hệ thống kho bãi an

toàn, dịch vụ kiểm định và vận chuyển hợp lý tại các vùng sản xuất cà phê của Việt

Nam nhằm tập trung hàng hóa cho việc giao dịch thông qua Sở giao dịch hàng hóa.

Vấn đề này có thể được giải quyết bằng các cách sau: thứ nhất, Chính phủ đầu tư

xây dựng các hệ thống kho bãi và vận chuyển tại các vùng trọng điểm sản xuất cà

phê tại Việt Nam và giao sự quản lý hệ thống kho bãi này cho một đơn vị cụ thể

quản lý; thứ hai, cần có cơ chế ưu đãi cho các tổ chức thực hiện nhiệm vụ tạo lập thị

trường, dịch vụ kho bãi, logistic, kiểm định…trong giai đoạn đầu phát triển Sở giao

dịch. Đặc biệt là giai đoạn hiện nay, đó là các chính sách hỗ trợ, ưu đãi về thuế, về

đầu tư, về phí…cho các tổ chức làm nhiệm vụ tạo lập thị trường nhằm tăng tính

thanh khoản, thúc đẩy thị trường phát triển; thứ ba, cần có cơ chế để các Sở giao

dịch hàng hóa liên kết với nhau trong việc sử dụng hệ thống logistic của nhau để tận

dụng lợi thế của nhau (ví dụ: BCEC và VNX liên kết thì sẽ tận dụng được lợi thế

gần nguồn nguyên liệu của BCEC và gần thương nhân kinh doanh của VNX); thứ

tư, khuyến khích các Sở giao dịch hàng hóa ký kết hợp tác với các đối tác logistic

83

chuyên nghiệp để cung cấp dịch vụ logistic cho hoạt động giao dịch hàng hóa thông

qua Sở giao dịch.

3.1.4 Hỗ trợ tuyên truyền, quảng cáo, đào tạo về hoạt động giao dịch giao sau cà

phê cho nhà đầu tư và xã hội:

Việc tăng tính thanh khoản cho thị trường giao dịch giao sau cà phê là vấn đề

cốt lõi. Để giải quyết được vấn đề này việc tuyên truyền, quảng cáo, đào tạo về hoạt

động giao dịch giao sau cà phê cho nhà đầu tư và xã hội là nhiệm vụ xuyên suốt và

trọng tâm trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của thị trường. Để việc tuyên

truyền, đào tạo có hiệu quả tốt nhất cần:

Một là, thay đổi quan điểm “công việc quảng bá tuyên truyền về hoạt động

giao dịch hàng hóa là công việc do các Sở giao dịch và các công ty môi giới thực

hiện”. Kinh nghiệm về sự thành công của các Sở giao dịch hàng hóa quốc tế thường

được đúc kết bằng nhiều bài học trong đó bài học được nhắc đến nhiều nhất là sự

thống nhất xuyên suốt từ Chính phủ, các Bộ ngành có liên quan, các tỉnh thành phố,

các Sở giao dịch trong việc quảng bá tuyên truyền cho hoạt động giao sau hàng hóa.

Hai là, thay đổi quan điểm, “kinh doanh phái sinh trên thị trường hàng hóa là

hoạt động cờ bạc” và thay đổi quan niệm về “lỗ” trên thị trường phái sinh hàng hóa.

Hoạt động kinh doanh trên thị trường hàng hóa phái sinh luôn được dựa vào sự

phán đoán và khả năng phân tích xu hướng biến động của giá cả các loại hàng hóa.

Vì vậy, việc phân tích sai lầm dẫn đến thua lỗ cho các hợp đồng mua bán luôn có

xác suất xảy ra. Đồng thời, đặc tính của một số công cụ phái sinh, nhất là hợp đồng

giao sau (Futures contract) luôn cho phép nhà đầu tư có thể thay đổi vị thế trước khi

hợp đồng đến hạn (trong khoảng thời gian này nhà đầu tư giao dịch với nhau chỉ

bằng hợp đồng – nên người Việt Nam thường gọi là hàng giấy, hàng ảo mặc dù điều

này là không chính xác về mặt chuyên môn tài chính). Vì vậy một bộ phận lớn xã

hội Việt nam và cả một số các cơ quan quản lý nhà nước luôn cho rằng đây là hoạt

động “cờ bạc”; cộng với tâm lý dị ứng với khái niệm “nhà đầu cơ”. Vì vậy dẫn đến

tâm lý không muốn phát triển nhóm các sản phẩm phái sinh trong nền kinh tế, cản

84

trở sự phát triển lành mạnh của một nhóm thị trường tài chính có tác dụng lớn trong

việc bảo hộ biến động giá hàng hóa.

Rõ ràng khi tham gia vào thị trường phái sinh hàng hóa, người bán và người

mua có thể rơi vào trạng thái lãi hoặc lỗ tùy thuộc vào việc dự đoán xu hướng giá

trong tương lai là đúng hay sai. Nhưng trong mọi trường hợp, người tham gia vào

thị trường phái sinh hàng hóa đều đạt được mục tiêu cố định thu nhập, chi phí hàng

hóa, từ đó ổn định và phát triển hoạt động kinh doanh. Do vậy, cần có cái nhìn hiện

đại từ cấp độ Nhà nước về “lỗ” trên thị trường phái sinh hàng hóa để các tổng công

ty lớn thuộc khối doanh nghiệp nhà nước có thể mạnh dạn tham gia

Ba là, có chính sách hỗ trợ về đào tào, thông tin tuyên truyền cho đội ngũ

cán bộ, nhân viên của các Sở giao dịch, các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp có tham

gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, chế biến, xuất khẩu cà phê và các tổ chức,

cá nhân tham gia thị trường với vai trò là nhà đầu tư tài chính. Đào tạo và bồi dưỡng

kiến thức liên tục cho nhóm các chuyên viên làm việc trong các Sở giao dịch, các

công ty thành viên của Sở giao dịch và cho nhà đầu tư. Các nghiệp vụ trên thị

trường hàng hóa, đặc biệt là các nghiệp vụ phái sinh hàng hóa luôn là thách thức

chuyên môn lớn đối với người lao động làm việc trong phân khúc này, nhất là đối

với các thị trường non trẻ như tại Việt Nam. Chính vì thế việc chuẩn hóa các kiến

thức, mở các lớp đào tạo liên tục, tiến tới việc thành lập một trung tâm đào tạo

thống nhất về vấn đề cấp chứng chỉ hành nghề trên thị trường hàng hóa là vấn đề

quan trọng cần phải có trong thời gian tới. Đồng thời, các lớp đào tạo – tuyên truyền

cho nhà đầu tư cũng cần liên tục tổ chức nhằm cung cấp cho nhà đầu tư hiểu rõ về

các nghiệp vụ kinh doanh, hiểu rõ được rủi ro và cách phòng chống, hiểu rõ được

những nghĩa vụ và quyền lợi của mình khi tham gia kinh doanh thị trường hàng hóa.

3.1.5 Ưu đãi nhất định trong chính sách thuế cho các đơn vị tham gia:

Chính sách thuế của hoạt động giao dịch giao sau sẽ có ảnh hưởng tới các

nhà đầu tư tham gia, việc ưu đãi nhất định trong chính sách thuế có thể đóng góp

một phần lớn vào việc phát triển thị trường. Hiện nay, thu nhập từ hoạt động kinh

doanh hàng hóa giao sau của các doanh nghiệp được Tổng cục thuế hướng dẫn như

85

là thu nhập từ hoạt động tài chính, và phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo

luật, nếu có thu nhập thì phải chịu thuế, tuy nhiên đây là một thị trường rất mới, cần

có sự tham gia của nhiều nhà đầu tư, vì vậy, nếu tính thuế cho các thu nhập phát

sinh từ hoạt động giao dịch giao sau sẽ không khuyến khích các đơn vị tham gia, do

đó thị trường khó phát triển. Để kích thích thị trường phát triển, khuyến khích nhà

đầu tư tham gia, chúng ta nên xây dựng chính sách thuế phù hợp, theo lộ trình phát

triển của thị trường. Trong thời gian đầu, nhà nước cần miễn hoặc giảm thuế cho

phần thu nhập từ việc tham gia giao dịch giao sau; các chính sách ưu đãi này tạo

điều kiện cho doanh nghiệp, người dân, nhà đầu tư thấy được lợi ích của việc tham

gia giao dịch giao sau và tự nguyện tham gia giao dịch.

3.2 Các giải pháp từ phía BCEC:

3.2.1 Đẩy mạnh tuyên truyền về hoạt động giao dịch:

Nông dân trồng cà phê hiện nay không quen với cách thức giao dịch hiện đại

tại sàn BCEC. Vì vậy, việc tuyên truyền cho người nông dân hiểu được lợi ích lâu

dài của việc tham gia giao dịch tại BCEC là mục tiêu hàng đầu của BCEC. Cộng

với các hình thức mở rộng địa bàn phục vụ và cung cấp tín dụng của các đối tác

ngân hàng sẽ làm gia tăng khả năng cạnh tranh của BCEC so với các hình thức mua

bán cà phê truyền thống.

Bên cạnh đó, việc thuyết phục các nhà đầu tư, các doanh nghiệp kinh doanh

cà phê tham gia giao dịch cũng là một ưu tiên lớn cần được thực hiện. Các doanh

nghiệp phải thấy được rằng BCEC là nơi hỗ trợ các giao dịch mua bán chứ không

phải là đối thủ cạnh tranh trong thu mua cà phê của các doanh nghiệp. Các doanh

nghiệp cà phê lớn đa số đều có hệ thống thu mua, chế biến cà phê của riêng mình

nên thuyết phục họ dùng các hệ thống đó để hợp tác với BCEC vừa mang lại lợi ích

chung, vừa gia tăng khả năng cạnh tranh của BCEC vì địa bàn phục vụ được mở

rộng.

Để nông dân, doanh nghiệp hiểu được lợi ích của các công cụ phái sinh và sử

dụng rộng rãi các nghiệp vụ này như một công cụ để hạn chế rủi ro trong hoạt động

86

kinh doanh do biến động của thị trường, BCEC cần đẩy mạnh quảng cáo, giới thiệu,

tư vấn, đào tạo các nghiệp vụ phái sinh cho khách hàng thông qua các hội thảo, đào

tạo, bản tin thị trường và các bài viết hỏi đáp về sản phẩm/phóng sự giới thiệu sản

phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng.

3.2.2 Đào tạo nguồn nhân lực và các tác nhân ngành hàng:

Tại BCEC, giao dịch giao sau cà phê được đưa vào hoạt động từ tháng 3 năm

2011, đây là một phương thức giao dịch tương đối phức tạp, với bản chất là một thị

trường tài chính hàng hóa, cần có một hệ thống các quy định ràng buộc chặt chẽ

nhằm quản lý tốt và ngăn ngừa được các rủi ro đối với tất cả các bên từ đơn vị tổ

chức, vận hành hệ thống cho đến các doanh nghiệp, cá nhân tham gia. Chính vì vậy

cần liên tục đào tạo, hướng dẫn cho các thành phần tham gia cũng như công tác vận

hành, quản lý, giám sát giao dịch đối với đội ngũ cán bộ, nhân viên BCEC, bên

cạnh đó cần có sự chuẩn bị sẵn sàng cho việc phát triển hoạt động liên kết, hợp tác

vươn ra tầm khu vực và thế giới. Việc đào tạo sẽ được triển khai với nhiều hình

thức: đào tạo tập trung tại BCEC, đào tạo tại chỗ cho các thành viên; cử cán bộ đi

học; phối hợp liên kết với các tổ chức chuyên nghiệp, các chuyên gia về tài chính,

về sàn giao dịch…tổ chức các chương trình đào tạo theo mức độ phát triển của thị

trường…

3.2.3 Tăng thanh khoản thị trường và phát triển thành viên:

Chú trọng việc tìm kiếm và phát triển các nhà tạo lập thị trường. BCEC cần

tổ chức tập hợp một nhóm các thành viên kinh doanh là những nhà kinh doanh quy

mô lớn về cà phê nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản trên sàn.

Cần phát triển thêm thành viên môi giới. Qua thành viên môi giới, BCEC có

thể mở rộng mạng lưới hơn rất nhiều lần so với việc BCEC tự liên hệ trực tiếp với

các thành viên cũng như tìm kiếm thành viên tiềm năng. Hiệu quả các đợt tuyên

truyền và các hoạt động tiếp thị tăng lên nhiều khi có các nhà môi giới tham gia trực

tiếp các hoạt động này.

87

Với những hạn chế vốn có của người nông dân Việt Nam hiện nay như trình

độ dân trí thấp, khả năng tiếp cận thông tin thị trường còn nhiều khó khăn, quy mô

sản xuất manh mún, nhỏ lẻ... thì việc để nông dân cả nước trực tiếp tham gia giao

dịch giao sau là không thể.

Vì vậy, có thể học hỏi kinh nghiệm từ nghiên cứu của Sở giao dịch hàng hóa

của Ấn Độ (2008) được trình bày trong chương 1. Cần phải có cấu trúc có tổ chức

cho giao dịch giao sau với sự độc lập trong việc cung cấp cho từng thành viên tham

gia quyền quyết định tương ứng với phần tham gia của họ trong mỗi giao dịch. Việc

ra quyết định giao dịch cần phải được thực hiện bởi chính cá nhân tham gia thị

trường hoặc người đại diện được thành viên tham gia thị trường chỉ định. Cấu trúc

có tổ chức có dạng hình kim tự tháp đảm bảo thành viên đều nhận được nguồn

thông tin đáng tin cậy và đúng lúc. Tầng đỉnh (tầng thứ ba) là một nhóm quản lý

cấp cao, tầng thứ hai là nhóm những đại diện từ nông dân, tầng thứ nhất là nông

dân-người tham gia giao dịch giao sau. Nhóm quản lý cấp cao phải là những người

tri thức, nhạy bén trong việc tiếp thu thông tin và kiến thức mới, có thể đánh giá

thường xuyên diễn biến và tiến trình của các hoạt động và có thể đưa ra những biện

pháp điều chỉnh khi cần thiết. Nhóm quản lý này thực hiện các liên kết với các nhà

môi giới, các nhà phân tích thị trường cà phê, các định chế tài chính sẵn sàng hỗ trợ

vốn cho nông dân…Tầng thứ ba truyền thông tin đến tầng thứ hai, tầng thứ hai cung

cấp thông tin cho tầng thứ nhất để tầng thứ nhất quyết định thực hiện giao dịch giao

sau nhằm bảo hộ rủi ro. Các đại diện ở tầng thứ hai đảm bảo dòng chảy thông tin thị

trường từ tầng thứ ba và nhận phản hồi thông tin quyết định giao dịch từ tầng thứ

nhất. Các đại diện ở tầng thứ hai và tầng thứ ba hợp tác giám sát, đánh giá và điều

chỉnh nhằm đem lại hiệu quả cho giao dịch giao sau. Việc hình thành một cấu trúc

có tổ chức như trên giúp nâng cao hiệu quả của giao dịch giao sau nhằm bảo hộ rủi

ro đồng thời cũng giúp giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến việc cung cấp dịch vụ

cho một lượng lớn người dân ở vùng nông thôn; cung cấp những phương tiện cho

việc đàm phán tập thể về tín dụng; những nguồn cung đầu vào và phân phối những

giá trị thặng dư thích hợp cho thị trường; thu thập và chia sẻ thông tin... Nếu thiết

88

lập thành công cấu trúc có tổ chức đem lại nhiều lợi ích cho nông dân thì việc thu

hút nhiều nông dân tham gia giao dịch giao sau sẽ dễ dàng hơn. Có như vậy, sàn

giao dịch mới thu hút nhiều thanh viên tham gia làm tăng thanh khoản thị trường.

3.2.4 Đa dạng các tiêu chuẩn, phẩm cấp trong giao dịch giao ngay:

Phần lớn lượng giao dịch cà phê giao ngay trên thị trường truyền thống của

Việt Nam là cà phê chưa qua chế biến. Đây là sản phẩm mà nông dân và những

người thu mua có sẵn và muốn bán, và những công ty chế biến, các nhà xuất khẩu

muốn mua. Vì vậy, giao dịch giao ngay cà phê chưa qua chế biến là một hướng đi

BCEC cần nghiên cứu.

Cho phép giao dịch giao ngay cà phê chưa qua chế biến vừa khắc phục tình

trạng khan hiếm giao dịch trên thị trường hàng thực của BCEC và một thị trường

hàng thực sôi động là cơ sở để hoạt động giao dịch giao sau do BCEC tổ chức phát

triển và nâng cao khả năng cạnh tranh của BCEC so với các Sở giao dịch hàng hóa

khác tại Việt Nam.

3.2.5 Thực hiện chuyển đổi mô hình:

Một trong những mục tiêu cụ thể của Đề án “Phát triển thương mại nông

thôn giai đoạn 2010-2015 và định hướng đến 2020” đã được Thủ tướng Chính phủ

phê duyệt tại quyết định 23/QĐ-TTg ngày 06/01/2010 là xây dựng tại Đắk Lắk một

Sở giao dịch cà phê. BCEC cần tập trung cho việc chuyển đổi mô hình từ Trung

tâm thành Sở giao dịch hàng hóa.

3.2.6 Tăng cường, phát triển các mối quan hệ hợp tác:

Hợp tác là một nguồn lực quan trọng trong quá trình phát triển BCEC. Mục

tiêu mong muốn đạt được là vừa mở rộng và đào sâu các mối quan hệ hợp tác để

đồng thời chia sẻ thị phần đầu tư để xây dựng BCEC thành công và cùng chia sẻ lợi

nhuận sao cho hợp lý.

Tăng cường mối quan hệ với các sàn giao dịch hàng hóa ở nước ngoài như

Sở giao dịch phái sinh Bursa Malaysia, Sở giao dịch hàng hóa Đại Liên, Sở giao

dịch hàng hóa Singapore, Sở giao dịch hàng hóa Chicago…thông qua việc trao đổi

89

ký kết ghi nhớ hợp tác nhằm trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ trong việc phát triển các

quy định, hệ thống giao dịch, phát triển công nghệ, kỹ thuật, nghiệp vụ, các khóa

tập huấn và thực tập…Hướng đến việc mở rộng thị trường, liên kết, liên thông các

thị trường thông qua các sàn giao dịch của khu vực và thế giới.

3.2.7 Thường xuyên cập nhật, thu thập, nắm bắt thông tin từ nhiều nguồn:

BCEC cần có sự theo dõi, khảo sát thăm dò thị trường, thu thập các thông tin

phản hồi từ phía người nông dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư…để tiến hành tổ chức

các cuộc hội thảo với sự tham gia của các cơ quan Bộ, ngành Trung ương, các hiệp

hội ngành hàng, chuyên gia trong nước và quốc tế, các doanh nghiệp xuất nhập

khẩu nông sản, các tổ chức tài chính…nhằm xác định và hoàn chỉnh mô hình sàn

giao dịch, quy mô, phạm vi hoạt động cũng như định hướng phát triển hướng đến

tầm khu vực và thế giới.

3.2.8 Mở rộng hệ thống kho, kiểm định và chức năng của chứng thư gửi kho:

Hệ thống chứng thư lưu kho mang tính linh hoạt - các chủ thể trên thị trường

có thể gửi và bán cà phê trên sàn hoặc rút cà phê của mình để bán ở những nơi khác

vào bất kỳ lúc nào, đồng thời đem lại cho các chủ thể trên thị trường một nơi lưu ký

cà phê vô thời hạn mà không sợ bị mất hoặc suy giảm chất lượng.

Phát triển mạng lưới nhà kho so với một nhà kho tập trung duy nhất sẽ giảm

chi phí vận tải. Một khi mạng lưới của nhà kho phân bổ ở các khu vực địa lý khác

nhau, người bán hàng có thể chọn lựa giao cà phê của mình tại nhà kho gần nhất và

thuận tiện nhất, và người mua có thể chọn lựa để nhận cà phê của mình tại nhà kho

gần nhất hoặc thuận tiện nhất. Khi đã xây dựng được một mạng lưới giữa các nhà

kho thì chi phí gửi hay rút cà phê tại bất kỳ kho hàng nào trong mạng lưới sẽ là

không đáng kể với các chủ thể tham gia thị trường.

Tiếp tục làm việc với một số ngân hàng và các tổ chức tài chính khác để

chấp nhận chứng thư lưu kho của BCEC làm giấy tờ thế chấp mà nông dân có thể

sử dụng để tiếp cận với nguồn tín dụng mà họ rất cần với tỷ lệ lãi suất hợp lý.

90

3.2.9 Tập trung phát triển song song hoạt động giao dịch cà phê giao ngay và

giao sau:

Giao dịch giao sau phát triển cho phép các dòng vốn đầu tư tham gia, tạo tính

thanh khoản, tạo mức giá tham chiếu cho hoạt động mua bán giao ngay; cung cấp

các dịch vụ tài chính, dịch vụ bảo hiểm hàng hóa; thu hút nguồn hàng cung ứng cho

kinh doanh, xuất khẩu đối với các hợp đồng đến hạn giao hàng…giúp thị trường

giao ngay phát triển. Ngược lại, khi thị trường giao ngay có sự tập trung, tạo được

nguồn cung cho thị trường chế biến, xuất khẩu sẽ thu hút được các tổ chức, doanh

nghiệp có nhu cầu về hàng giao ngay tham gia tích cực để tìm kiếm nguồn hàng trên

sàn giao dịch. Từ đó, sàn giao dịch sẽ là nơi tạo thêm một kênh giao dịch, mua bán,

đầu tư song song thị trường truyền thống; sẽ dần trở thành thị trường tập trung đối

với các thành phần tham gia ngành hàng cà phê, nông sản; từng bước tạo mức giá

tham chiếu cho các hoạt động mua bán liên quan, kể cả xuất khẩu và hướng đến sẽ

trở thành thị trường định giá cho hàng hóa cà phê, nông sản chủ lực do Việt Nam

sản xuất và xuất khẩu.

3.2.10 Đầu tư xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại:

Thị trường cà phê liên tục biến động do vậy BCEC cần hiện đại hóa đồng bộ

hệ thống công nghệ để thu thập, xử lý, phân tích thông tin nhanh chóng, chính xác

hiệu quả.

Việc đầu tư xây dựng hệ thống công nghệ thông tin và truyền thông làm gia

tăng chi phí đầu tư ban đầu xong lại giảm được chi phí vận hành, quan trọng là nâng

cao khả năng quản lý, tăng khả năng ngăn ngừa và quản lý rủi ro trong đó đặc biệt

là các rủi ro liên quan đến tín dụng và hỗ trợ kiểm soát rủi ro biến động giá trên cơ

sở kiểm soát được sản lượng sản xuất, lưu kho…tức thời đồng thời có khả năng kết

nối, liên thông với các sàn giao dịch hàng hóa khác trong khu vực và thế giới.

Trên cơ sở thông tin được số hóa trong hệ thống quản lý kho bãi và giao dịch

điện tử giúp cho việc khai thác thông tin được nhanh chóng và thuận tiện theo cả

chiều quản lý vĩ mô cũng như theo nhu cầu của thị trường.

91

3.3 Các giải pháp của các đơn vị khác

3.3.1 Đối với các ngân hàng thương mại:

Giữa Sở Giao dịch hàng hóa và hệ thống ngân hàng thương mại có mối quan

hệ tương hỗ rất rõ: Sở Giao dịch hàng hóa ổn định minh bạch sẽ giúp cho hệ thống

ngân hàng thương mại đa dạng hóa sản phẩm và kinh doanh hiệu quả, an toàn; đồng

thời, khi hệ thống ngân hàng thương mại phát triển, sẽ củng cố cho Sở Giao dịch

hàng hóa đảm bảo an toàn hệ thống, tăng trưởng mạnh về quy mô. Ngân hàng

thương mại có thể đảm bảo cho sự tuần hoàn của hệ thống thanh toán Sở Giao dịch

hàng hóa bằng các nghiệp vụ: quản lý tài khoản nhà đầu tư, tài khoản ký quỹ, quản

lý tài sản ký quỹ của thành viên, nhà đầu tư; thực hiện thanh toán bù trừ cho các kết

quả giao dịch; theo dõi đánh giá trạng thái của nhà đầu tư, ngăn ngừa rủi ro thanh

toán; giám sát, đánh giá khả năng thực hiện hợp đồng, ngăn ngừa rủi ro do vi phạm

hợp đồng...

Đặc biệt, ngân hàng tài trợ tín dụng cho nhà đầu tư mua bán qua Sở Giao

dịch hàng hóa, tài trợ tín dụng cho hàng hóa lưu ký tại Sở Giao dịch hàng hóa.

Vì vậy, các ngân hàng thương mại cổ phần có nguồn tài chính mạnh cần

quan tâm nhiều đến thị trường phái sinh hàng hóa. Đồng thời, đào tạo nguồn nhân

lực của các ngân hàng đáp ứng được yêu cầu thị trường phái sinh hàng hóa và nâng

cao khả năng quản trị rủi ro. Bên cạnh đó, xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin

hiện đại và đồng bộ giữa các ngân hàng.

3.3.2 Đối với các nhà môi giới:

Các công ty môi giới tham gia giao dịch giao sau với vai trò là người hướng

dẫn, tư vấn cho các nhà đầu tư khác tham gia thị trường. Vì vậy, để làm tốt vai trò

của mình, các nhà môi giới cần phải đảm bảo nâng cao năng lực tài chính, xây dựng

được đội ngũ nhân viên am hiểu nghiệp vụ để tư vấn cho khách hàng. Cần trang bị

hệ thống cơ sở vật chất đảm bảo cho việc giao dịch kết nối với sàn giao dịch trong

nước và quốc tế.

92

3.3.3 Đối với các doanh nghiệp:

Doanh nghiệp cần có chính sách thu mua và tạm trữ hợp lý để tránh việc phải

bán với mức giá thấp để tránh lỗ và khi có thể tăng giá thì lại hết hàng. Các doanh

nghiệp cần đầu tư công nghệ chế biến tiên tiến, loại bỏ các tạp chất, rang, xay cà

phê. Các doanh nghiệp phải liên kết với nhau thành lập Quỹ cà phê, Ban điều hành

việc phát triển cà phê. Là nước xuất khẩu đứng thứ hai trên thế giới song chúng ta

lại chưa thể chi phối thị trường thế giới mà còn bị các nhà đầu tư nước ngoài chi

phối. Các doanh nghiệp Việt Nam thường hoạt động nhỏ lẻ, thiếu đồng bộ và nguồn

vốn hạn chế, không cạnh tranh được các doanh nghiệp nước ngoài. Việc cà phê Viêt

Nam chưa thể điều khiển được thị trường có thể do nhiều nguyên nhân, song nếu

các doanh nghiệp nội có tiềm năng, đủ sức, dám tận dụng cơ hội cũng như dám liều,

tiến hành liên kết tạo ra một “bó đũa” khổng lồ, cùng nhau hợp tác, áp dụng chính

sách hợp lý, quảng bá rộng rãi thì tương lai về sự phát triển thương hiệu cà phê Viêt

Nam là không xa. Tìm hiểu mở rộng thị trường và những đối thủ cạnh tranh trực

tiếp cũng như đối thủ tiềm tàng- những nhân tố ảnh hưỏng trực tiếp và gián tiếp về

lâu về dài của hoạt động xuất khẩu, kinh doanh cà phê của Việt Nam.

Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam chưa thật sự nắm vững về bản chất của

việc phòng ngừa rủi ro, dẫn đến tình trạng tham gia thị trường với mục đích đầu cơ,

coi giao dịch giao sau như là một chiếu bạc, và dễ dẫn đến thua lỗ. Do đó các đơn vị

chỉ nên tham gia giao dịch giao sau với mục đích thiết thực là bảo vệ rủi ro biến

động của giá hàng hóa. Các doanh nghiệp cần phải hiểu tầm quan trọng của việc

quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình. Trên cơ sở nhận thức đó,

doanh nghiệp cần phải tạo ra đội ngũ cán bộ có trình độ, có kiến thức, kỹ năng phân

tích và dự báo tốt để từ đó họ giúp doanh nghiệp nhận diện, kiểm soát và phòng

ngừa tốt rủi ro trong hoạt động kinh doanh.

3.3.4 Đối với nông dân:

Người nông dân chưa có nhận thức được tầm quan trọng và lợi ích của công

cụ giảm thiểu rủi ro trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt để từ đó thay

93

đổi thói quen, tập quán kinh doanh còn chứa nhiều rủi ro. Vì vậy, người nông dân

cần phải học hỏi, tích cực tìm hiểu giao dịch giao sau. Bên cạnh đó, người nông dân

phải chú ý đến chất lượng cà phê. Chế biến là khâu quyết định tới chất lượng cà

phê. Sau khi thu hoạch, người nông dân cần có có kỹ thuật sơ chế, rang sấy để đảm

bảo cà phê không bị hỏng, mốc làm giảm chất lượng, có chọn lọc, phân loại cà phê,

loại bỏ các hạt kém chất lượng. Bởi vì, một thị trường muốn phát triển mạnh thì đòi

hỏi chất lượng phải thật tốt, nhằm nâng cao thương hiệu cà phê Việt nam trên thế

giới. Đảm bảo chất lượng cà phê để giúp cho sàn giao dịch cà phê của Việt Nam có

thể kết nối đươc với các sàn giao dịch cà phê khác trên thế giới.

Ngoài ra khi tham gia giao dịch để bảo hiểm rủi ro cho hàng thực của mình.

Các nông dân cũng cần phải tính toán, dự báo chính xác sản lượng sắp tới của mình

để mua hoặc bán số lượng hợp đồng giao sau phù hợp, tránh rủi ro về số lượng.

3.4 Một số kiến nghị với Chính phủ, các cơ quan Bộ, ngành Trung ương, Ngân

hàng Nhà nước:

Một là, sớm ban hành bổ sung các quy định về làm rõ chức năng, quyền hạn,

trách nhiệm của các bên tham gia giao dịch giao sau, tác giả kiến nghị nên tổ chức

theo mô hình, tập quán quốc tế: tách biệt Trung tâm thanh toán bù trừ ra khỏi Sở

giao dịch, các thành viên tham gia phải góp quỹ để đảm bảo quỹ thanh toán đủ lớn

cho các giao dịch giao sau. Việc áp dụng mô hình quốc tế sẽ không dập khuôn, có

tính tới điều kiện kinh tế của Việt Nam: như xây dựng lộ trình, điều kiện cụ thể sẽ

phải đáp ứng của các Trung tâm thanh toán bù trừ, các thành viên… tương ứng với

quy mô phát triển của thị trường.

Hai là, quản lý tách biệt tài khoản của khách hàng với tài khoản của công ty

môi giới, giao hệ thống ngân hàng quản lý. Việc quản lý tách biệt và giám sát bởi

bên thứ ba (ngân hàng) sẽ đảm bảo không xung đột lợi ích của thành viên và khách

hàng, các thông tin về thành viên, khách hàng sẽ được minh bạch đáp ứng yêu cầu

về quản lý của Sở giao dịch và các cơ quan quản lý nhà nước.

94

Ba là, xây dựng cơ chế giám sát và quản trị rủi ro, xây dựng quỹ đảm bảo

thanh toán cho các Sở giao dịch để đảm bảo thanh khoản thanh toán cho giao dịch

giao sau.

Bốn là, xây dựng các tiêu chí, điều kiện thành lập Trung tâm thanh toán bù

trừ, và việc thành lập công ty môi giới giao dịch giao sau: điều kiện tài chính, vốn,

năng lực quản lý, nhân sự, hạ tầng công nghệ… đặc biệt là cụ thể hóa các yêu cầu

về báo cáo, giám sát việc thực hiện của các đối tượng này để đảm bảo việc giám sát

và ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra.

Năm là, cho phép các ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán, các

định chế tài chính được tham gia hoạt động này vì: khả năng tài chính tốt, kinh

nghiệm quản lý tốt, cơ sở hạ tầng tốt…. dễ dàng đáp ứng các điều kiện về quản lý

và đủ sức tạo lòng tin với các nhà đầu tư.

Sáu là, quan tâm đến hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán, tín dụng cho

người mua, người bán trên Sở giao dịch. Mối quan hệ giữa Sở giao dịch và hệ thống

ngân hàng khi đã có tính liên kết chặt chẽ, sẽ tạo nên nguồn cung ứng tín dụng cho

người bán, người mua thông qua tài sản thế chấp (hàng hóa ký gửi-chứng thư gửi

kho) hoặc hợp đồng khớp lệnh thành công trên Sở giao dịch. Điều này góp phần tạo

nên sức hút cho các đối tượng sản xuất, kinh doanh hàng cà phê tham gia giao dịch

qua Sở; và ngược lại, hệ thống ngân hàng hoàn toàn được bảo đảm khả năng trả nợ

của người bán, người mua thông qua Sở giao dịch.

Bảy là, liên kết, tích hợp trực tuyến hệ thống quản lý kho bãi, hệ thống giao

dịch điện tử và hệ thống quản lý của các định chế tài chính nhằm thiết lập cơ sở hạ

tầng hoàn chỉnh triển khai các tiện ích cho nông dân tiêu thụ sản phẩm.

Tám là, nghiên cứu, xây dựng và ban hành các cơ chế cho phép một số sàn

giao dịch nước ngoài tham gia là cổ đông chiến lược nhằm tăng khả năng cạnh

tranh; đa dạng hóa các hoạt động; tiếp cận với các phương pháp quản lý, vận hành,

công nghệ hiện đại; tăng khả năng ngăn ngừa và quản lý rủi ro; hướng đến việc hình

thành liên kết thị trường khu vực và thế giới;…

95

Chín là, cần có sự chỉ đạo tập trung từ các Bộ, ngành liên quan trong việc

triển khai xây dựng các chính sách, quy định trong việc quản lý và điều hành hoạt

động giao dịch giao sau cà phê, đặc biệt cần chú trọng đến xu thế liên kết, hợp tác

của các thị trường, các sàn giao dịch để hình thành thị trường khu vực, thị trường

liên thông quốc tế,…ngay từ bây giờ (các chính sách, quy định về thuế, thủ tục hải

quan, kho ngoại quan, thanh lý hợp đồng bằng việc giao hàng tại các cảng biển,

quản lý ký quỹ, thanh lý hợp đồng bằng tiền,…)

Mười là, chỉ đạo, định hướng cho các cơ quan chức năng nghiên cứu, triển

khai xây dựng quy hoạch việc phát triển, hình thành các tổ chức có quy mô, có uy

tín để thực hiện các dịch vụ, nghiệp vụ liên quan đến hoạt động giao sau cà phê, sẵn

sàng thực hiện các nghiệp vụ không chỉ đối với các giao dịch tại các sàn trong nước

mà còn có khả năng cung ứng, thực hiện các dịch vụ, nghiệp vụ đối với các giao

dịch được thực hiện trên các sàn giao dịch cà phê của khu vực và thế giới như: trung

tâm quản lý ký quỹ và thanh toán bù trừ; các tổ chức, tập đoàn cung ứng dịch vụ

logistic, giao nhận hàng hóa, kho ngoại quan, dịch vụ vận tải, cảng biển,…ở tầm

quốc tế.

Cuối cùng là, cần có quy hoạch tổng thể phát triển giao dịch giao sau cà phê,

trong đó có nghiên cứu điều kiện thực tiễn của Việt Nam, có sự đầu tư phù hợp về

con người, về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghệ và xác định lộ trình cụ thể, xác

định các giai đoạn phát triển giao dịch giao sau cà phê, các điều kiện cần thiết cho

phép các dòng vốn từ bên ngoài tham gia đầu tư vào giao dịch giao sau cà phê trong

nước và ngược lại; môi trường pháp lý, các điều kiện cần thiết khác để có thể kết

nối, liên thông với các sàn giao dịch cà phê trong khu vực và thế giới; tạo thị trường

cho xuất khẩu, tiêu thụ, giao dịch giao sau cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước;

nhưng đồng thời cũng phải củng cố được vị thế của cà phê; hướng đến việc trở

thành thị trường định giá, tạo mức giá chuẩn cho cà phê của Việt Nam.

96

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Với thực trạng giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam như đã đề cập ở

chương 2, tác giả đã đề ra các giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển giao dịch giao

sau cà phê trong chương 3. Giải pháp được chia làm 3 nhóm chính, đó là: các giải

pháp từ phía Nhà nước; các giải pháp từ phía BCEC và các giải pháp từ các đơn vị

khác.

Về phía Nhà nước, cần hoàn thiện hệ thống hành lang pháp lý cho hoạt động

giao dịch giao sau cà phê thông qua Sở giao dịch hàng hóa, xây dựng bộ máy quản

lý hoạt động của các Sở giao dịch hàng hóa, hỗ trợ phát triển thị trường cà phê giao

ngay và đặc biệt cần hỗ trợ tuyên truyền, quảng cáo, đào tạo về hoạt động giao dịch

giao sau cà phê cho các nhà đầu tư và xã hội.

Về phía BCEC, cần đào tạo nguồn nhân lực và các tác nhân ngành hàng;

tăng thanh khoản thị trường và phát triển thành viên; đa dạng các tiêu chuẩn, phẩm

cấp trong giao dịch giao ngay; mở rộng hệ thống kho, kiểm định và chức năng của

chứng thư gửi kho đồng thời đầu tư xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện

đại.

Việc phát triển giao dịch giao sau cà phê ở Việt Nam cũng cần sự hỗ trợ và

nỗ lực của các đơn vị khác như các ngân hàng thương mại, các nhà môi giới, các

nông dân và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê.

Tóm lại, việc phát triển giao dịch giao sau cà phê cần sự nỗ lực, sự hưởng

ứng và sự kết hợp chặt chẽ lâu dài từ phía Chính phủ, toàn thể các Bộ ban ngành,

các Sở giao dịch và các bên tham gia thị trường cũng như thay đổi thói quen giao

dịch của hộ nông dân, các doanh nghiệp và nhà đầu tư tài chính.

97

KẾT LUẬN

Luận văn “Phát triển giao dịch giao sau cà phê tại Việt Nam” đã trình bày

được những lợi ích cũng như rủi ro của giao dịch giao sau đối với những người

tham gia thị trường. Một số nghiên cứu thực nghiệm về giao dịch giao sau trên thế

giới và ở Việt Nam cũng được tác giả hệ thống hóa trong luận văn.

Ngành cà phê Việt Nam hiện nay vẫn chưa thiết lập được hệ thống chế biến,

tiêu thụ, xuất khẩu mang tính chuyên nghiệp nên việc tiêu thụ và xuất khẩu hoàn

toàn bị động. Mối liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu và người

trồng cà phê còn lỏng lẻo. Các nhà sản xuất kinh doanh cà phê không tiên liệu được

chính xác nhu cầu của thị trường và chiều hướng biến động giá do đó không định

hướng được sản xuất. Thêm vào đó, thói quen tập quán kinh doanh cà phê nhiều rủi

ro. Chính những yếu tố trên đã kiềm hãm sự phát triển của ngành cà phê Việt Nam

vươn lên vị trí cao trên thế giới. Các giao dịch giao sau cà phê ở Việt Nam hiện nay

chưa sôi động và phổ biến, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa biết cách sử dụng

hợp đồng giao sau trong việc bảo hộ giá hàng hóa.

Tác giả đã phân tích một số nguyên nhân làm cho giao dịch giao sau cà phê

tại Việt Nam chưa phát triển cũng như hoạt động của BCEC chưa hiệu quả. Đó là

do thiếu các quy định pháp lý chi tiết về thị trường phái sinh hàng hóa, trình độ kiến

thức, kỹ năng, kinh nghiệm của các chủ thể tham gia giao dịch giao sau cà phê còn

hạn chế, cơ sở hạ tầng kỹ thuật công nghệ chưa hoàn chỉnh…

Do đó, tác giả đã đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển giao

dịch giao sau cà phê. Đó phải là sự nỗ lực, sự hưởng ứng, và sự kết hợp chặt chẽ,

lâu dài của Chính phủ, toàn thể các Bộ ban ngành, các Sở giao dịch và các bên tham

gia thị trường cũng như thay đổi tập quán, thói quen giao dịch của hộ nông dân, các

doanh nghiệp và nhà đầu tư tài chính.

Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo:

- Các thông tin về giao dịch giao sau cà phê ở Việt Nam chưa được

thống kê một cách đầy đủ và có hệ thống mặc dù tác giả đã cố gắng thu thập số liệu

từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau.

98

- Hoạt động giao dịch giao sau cà phê chỉ vừa mới được triển khai tại

Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam và Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột

trong thời gian gần đây, do đó khoảng thời gian nghiên cứu ngắn và không có nhiều

dữ liệu để có thể ứng dụng các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới vào Việt Nam.

- Do khoảng cách về địa lý cũng như thời gian có giới hạn nên quá trình

khảo sát diễn ra trong thời gian ngắn, tác giả chỉ thu thập được mẫu khảo sát ít hơn

so với kỳ vọng.

- Do giới hạn về mặt nhận thức và thời gian, tác giả chưa nghiên cứu

sâu thực trạng và thực hiện các nghiên cứu định lượng khác về giao dịch giao sau cà

phê tại Việt Nam.

Những hạn chế trên đây nên được khắc phục tốt và mở rộng trong các nghiên

cứu tiếp theo.

99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Nguyễn Quang Bình (2011), “Xuất khẩu cà phê: Bán giá chốt trước hay chốt

sau?”

ca-phe-Ban-gia-chot-truoc-hay-chot-sau?.html>

2. Bộ Công thương (2009), Thông tư 03/2009/TT-BTC ngày 10/02/2009 về việc

hướng dẫn hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp giấy phép thành lập và quy định chế độ báo

cáo của Sở giao dịch hàng hóa theo quy định tại Nghị định số 158/2006/NĐ-CP

3. Chính phủ (2006), Nghị định số 158/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 về việc quy

định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở Giao

dịch hàng hóa

4. Công ty Cổ phần Cà phê PETEC (2009), Báo cáo tài chính đã kiểm toán năm

2009

d=3182&p_ac=3&p_newsid=30112>

5. Công ty Cổ phần Chứng khoán SME (2011), Báo cáo phân tích ngành cà phê

6. Công ty Cổ phần Phân tích và Dự báo thị trường Việt Nam – AGROMONITOR

(2010), Báo cáo thường niên ngành cà phê Việt Nam 2009 và triển vọng 2010.

7. Công ty Cổ phần Tập đoàn Thái Hòa Việt Nam (2010), Báo cáo tài chính đã

kiểm toán năm 2010 của công ty mẹ.

menuid=103140&menulink=600000&what=1>

8. Công ty Cổ phần Tập đoàn Thái Hòa Việt Nam, Bản cáo bạch Công ty Cổ phần

Tập đoàn Thái Hòa Việt Nam.

100

=1101>

9. Phạm Nguyễn Hoàng (2011), Điều kiện hình thành và phát triển thị trường

tương lai tại Việt Nam.

20phat%20trien%20thi%20truong%20tuong%20lai%20tai%20Viet%20Nam.pdf>

10. Kinh Kha (2011), “Cơ chế hoạt động của BCEC: “Chiếc áo” quá chật?”

11. Lê@ (2011), “Câu chuyện ký gửi cà phê”

12. Nguyễn Dương Diễm Linh (2010), Xây dựng thị trường giao sau nhằm phòng

ngừa rủi ro biến động giá cà phê tại Việt Nam, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường

đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

13. Trần Ngọc Linh (2009), Phát triển thị trường giao sau cà phê Việt Nam, Luận

văn thạc sỹ kinh tế, Trường đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

14. Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (2011), Phát triển thị trường phái

sinh hàng hóa Việt Nam thuận lợi, khó khăn và định hướng phát triển.

15. Hồng Ngọc – Viết Vinh (2010), “Câu chuyện “trừ lùi” trong xuất khẩu cà phê”

chuyen-%E2%80%9Ctru-lui%E2%80%9D-trong-xuat-khau-ca-phe.html>

16. Lê Hoàng Nhi (2011), “Rủi ro về giá trong kinh doanh cà phê”.

17. Lê Hoàng Nhi (2011), “Sàn hàng hóa ở Việt Nam: Chợ hay chiếu bạc?”

hang-hoa-o-Viet-Nam-Cho-hay-chieu-bac?.html>

18. Quốc hội (2005), Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14/6/2005 về việc

quy định hoạt động thương mại.

101

mi-s-362005qh11.html>

19. Anh Thư (2011), “Bao giờ nông dân bán nông sản qua sàn giao dịch?”

nong-dan-ban-nong-san-qua-san-giao-dich?.html>

20. Bảo Trung (2009), Phát triển thể chế giao dịch nông sản ở Việt Nam, Luận án

tiến sĩ kinh tế, Trường đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

21. Phùng Tuấn (2011), “Phát triển thị trường phái sinh hàng hóa: Cần có sự ưu đãi

về thuế”

idung/ViewArticleDetail/tabid/56/Key/ViewArticleContent/ArticleId/5701/Default.

aspx>

22. UBND tỉnh Đắk Lắk (2006), Quyết định 2278/QĐ-UBND ngày 04/12/2006

của UBND tỉnh Đắk Lắk về việc phê duyệt Đề án kỹ thuật tổ chức hoạt động của

Trung tâm Giao dịch Cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC)

23. Trương Thị Mỹ Vân (2010), Xây dựng sàn giao dịch giao sau tài chính tại Việt

Nam, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

24. Hồng Văn (2011), “Ký gửi cà phê: Lợi ích nhiều hơn rủi ro”

25. Hồng Văn (2010), “Nhiều doanh nghiệp nông sản giao dịch trên sàn quốc tế”

26. Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn, Trung tâm

Tư vấn Chính sách Nông nghiệp (2007), Hồ sơ ngành hàng Cà phê Việt Nam.

g_ca_phe.pdf>

27. Bùi Thị Yến (2008), Các giải pháp tài chính để phát triển thị trường giao sau

cà phê tại Việt Nam, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường đại học kinh tế Thành phố

Hồ Chí Minh.

102

Tiếng Anh

1. Euna Shim (2006), Success factors of agricultural futures markets in developing

countries and their implication on existing and new local exchanges in developing

countries.

TuftsPDF/getPDF>

2. Gideon Onumah (2009), Promoting Agricultural Commodity Exchanges in

Ghana and Nigeria: A Review Report.

OMEX_Report_Onumah_en.PDF>

3. Golaka C Nath and Thulasamma Lingareddy (2008), Commodity Derivative

Market and its Impact on Spot Market.

4. K.G. Sahadevan, Ph.D (2003), Risk management in agricultural commodity

markets: a study of some selected commodity futures.

5. Multi Commodity Exchange of India Ltd (2008), Enabling farmers to leverage

Commodity Exchanges.

XReport12Aug08.pdf>

6. Peter Hazell (2000), Could futures markets help growers better manage coffee

price risks in Costa Rica?

7. Rajesh Chakrabarti (2004), Commodity Futures in India.

8. UNCTAD (2009), Report of the UNCTAD Study Group on Emerging

Commodity Exchanges: “Development Impacts of Commodity Exchanges”

Các trang web

103

Http://www.bcec.vn

http://giacaphe.com/

Http://www.ico.org

Http://www.vicofa.org.vn

http://vnx.com.vn/

104

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1: BẢN CÂU HỎI PHỎNG VẤN

M1: Xin Anh/chị cho biết anh/chị đã từng nghe tới sàn giao dịch cà phê bao giờ chưa?

Đã từng nghe Chưa từng nghe 1 2 Tiếp tục M2 Ngưng phỏng vấn

M2: Anh/chị có biết các sàn giao dịch sau đây không?( Tiếp tục M3)

Hiểu biết Biết vừa Rất am hiểu phải Có biết sơ

Hoàn toàn không biết

Sàn giao dịch New York (NYBOT) Sàn giao dịch Luân Đôn (LIFFE ) Sàn giao dịch Brazil Sàn giao dịch Singapore (SICOM) Sàn giao dịch Tokyo Trung tâm giao dịch Buôn Ma Thuột( BCEC)

M3: Xin cho biết bản thân Anh/chị hay gia đình Anh/chị có đang tham gia vào sàn giao dịch cà phê không?

Có đang tham gia Không tham gia 1 2 Chuyển tiếp M4 Chuyển tiếp M8

M4: Xin cho biết Anh/chị có tham gia vào các sàn giao dịch sau đây không và đã được bao lâu rồi? (Tiếp tục M5)

Trên 3 năm Từ 2 -3 năm Từ 1 -2 năm Dưới 1 năm Không giao dịch

Sàn giao dịch New York (NYBOT) Sàn giao dịch Luân Đôn (LIFFE ) Sàn giao dịch Brazil Sàn giao dịch Singapore (SICOM) Sàn giao dịch Tokyo Trung tâm giao dịch Buôn Ma Thuột( BCEC)

105

M5: Xin cho biết Anh/chị có thường xuyên giao dịch tại các sàn giao dịch sau đây không? Mức độ thường xuyên? (Tiếp tục M6)

Giao dịch ít Không giao dịch Giao dịch rất thường xuyên Giao dịch thường xuyên Giao dịch rất ít

Sàn giao dịch New York (NYBOT) Sàn giao dịch Luân Đôn (LIFFE ) Sàn giao dịch Brazil Sàn giao dịch Singapore (SICOM) Sàn giao dịch Tokyo Trung tâm giao dịch Buôn Ma Thuột( BCEC)

M6: Anh/chị cho biết mức độ hài lòng của Anh/chị khi tham gia vào BCEC? (Tiếp tục M7)

Mức độ hài lòng Yếu tố

Rất hài lòng Hài lòng Bình thường Không hài lòng Rất Không hài lòng

Các hoạt động giao dịch và thanh toán được quản lý chặt chẽ Hoạt động theo nguyên tắc thành viên Hoạt động giao dịch được đấu giá tập trung công khai Quản lý rủi ro về giá Chất lượng hàng hóa Dịch vụ môi giới, tư vấn Dịch vụ ký gửi, chế biến, bảo quản hàng hóa Dịch vụ hỗ trợ tín dụng Thủ tục, phương thức, địa điểm giao/nhận hàng Các loại phí: phí thành viên, phí giao dịch, phí kiểm định…

M7: Anh/chị cho biết lý do nào tác động tới quyết định tham gia vào BCEC? (Tiếp tục M9)

106

Tác động nhiều Tác động vừa phải Tác động rất nhiều Có tác động nhưng ít Hoàn toàn không tác động

Tiếp cận thông tin giá cả và thị trường cà phê trong nước và thế giới Thông tin nhanh chóng, chính xác Cung cấp giá cả công khai Mua bán dễ dàng qua Internet An tâm về chất lượng hàng hóa và khả năng thanh toán Hỗ trợ vốn kinh doanh cho khách hàng Dịch vụ ký gửi, chế biến, bảo quản hàng hóa Không sợ bị đổ nợ như khi ký gửi ở các đại lý Điểm gặp gỡ, thiết lập quan hệ giao dịch, tìm kiếm đối tác Trao đổi kinh nghiệm, tìm hiểu nhu cầu Khác (………………..)

M8: Xin Anh/chị cho biết lý do nào dưới đây tác động đến việc anh/chị không muốn tham gia vào BCEC? (Ngưng phỏng vấn)

Tác động vừa phải Tác động rất nhiều Có tác động nhưng ít Hoàn toàn không tác động

Tác động nhiều

Các loại phí: phí thành viên, phí giao dịch, phí kiểm định.. Số lượng thành viên tham gia không nhiều Mức ký quỹ 15% giá trị hợp đồng khi tham gia giao dịch Không đủ điều kiện làm thành viên của sàn Thiếu phương tiện vận tải Thiếu nhà kho tại các địa điểm ở xa

107

Thủ tục rườm rà Thiếu ưu đãi về giá Dịch vụ ký gửi, chế biến, bảo quản hàng hóa Dịch vụ hỗ trợ tín dụng BCEC chưa đem lại nhiều lợi ích cho người tham gia giao dịch Chưa quen thuộc với phương thức giao dịch giao sau, thị trường giao sau Khác (………………..)

M9: Xin Anh/chị vui lòng cho biết mức độ đồng ý với những lợi ích sau đây mà BCEC mang lại cho người tham gia? (Tiếp tục M10)

Đồng ý Bình thường Không đồng ý Hoàn toàn không đồng ý Hoàn toàn đồng ý

Quản lý rủi ro về giá Cung cầu được đảm bảo thông qua hợp đồng giao ngay và giao sau Hàng hóa được kiểm định chất lượng Đấu giá tập trung, công khai nên tránh được tình trạng ép giá Được hỗ trợ vốn với lãi suất hợp lý Dịch vụ ký gửi, chế biến, bảo quản hàng hóa Thủ tục giao hàng, nhận hàng đơn giản, thuận tiện tại hệ thống kho của BCEC Khác (………………..)

M10: Anh/chị đã từng giới thiệu về BCEC cho người thân hay bạn bè mình chưa?

Tiếp tục M11

Đã từng Chưa từng 1 2

M11: Theo Anh/chị giải pháp phát triển BCEC là gì? (Tiếp tục M12)

Hoàn toàn Đồng ý Bình Không Hoàn toàn

108

đồng ý thường đồng ý không đồng ý

Môi trường pháp lý chặt chẽ Hệ thống chứng nhận lưu kho tin cậy Trung tâm thông tin toàn diện Trang thiết bị cân đo và phân cấp chủng loại hiện đại Hệ thống nhiều kho bãi gần với vùng sản xuất Đội ngũ tiếp thị Nâng cao nhận thức và trình độ hiểu biết về thị trường giao sau Đào tạo nguồn nhân lực, cán bộ quản lý cho sàn giao dịch Nền tảng giao dịch thân thiện với người sử dụng được xây dựng với cảnh báo chống gian lận và đầu cơ quá mức Hạ tầng kỹ thuật tốt có khả năng kết nối với các thị trường khác trong nước và trên thế giới Chính sách hỗ trợ của Nhà nước Khác (………………..)

M12: Ý kiến khác: (Ngoài các nội dung nói trên, Anh/chị còn có ý kiến nào khác, vui lòng ghi rõ dưới đây nhằm giúp phát triển sàn giao dịch cà phê tại Việt Nam)

……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………

PHẦN THÔNG TIN CÁ NHÂN

D1: Xin Anh/chị cho biết trình độ học vấn của Anh/chị là?

Tiểu học (cấp 1) Trung học cơ sở (cấp 2) Phổ thông trung học (cấp 3) 1 2 3

109

Tốt nghiệp cao đẳng Đã tốt nghiệp đại học hoặc sau đại học Từ chối trả lời 4 5 6

D2: Xin cho biết công việc hiện tại của anh/chị là gì?

Cán bộ quản lý Nhân viên văn phòng Chủ doanh nghiệp Nông dân Sinh viên Lao động tự do Nghề khác(ghi cụ thể)…………………………... 1 2 3 4 5 6 7

110

PHỤ LỤC 2: KẾT QUẢ KHẢO SÁT

Mức độ nhận biết các sàn giao dịch

Mức độ nhận biết sàn giao dịch New York (NYBOT) Mức độ nhận biết sàn giao dịch Brazil Mức độ nhận biết sàn giao dịch Singapore (SICOM) Mức độ nhận biết sàn giao dịch Tokyo

Mức độ nhận biết sàn giao dịch Luân Đôn (LIFFE) 120 0 4.17 4.00 4 500 Mức độ nhận biết Trung tâm giao dịch Buôn Ma Thuột (BCEC) 120 0 3.30 3.00 3 396 N Valid Missing Mean Median Mode Sum 120 0 4.53 5.00 5 544 120 0 4.96 5.00 5 595 120 0 4.65 5.00 5 558 120 0 4.89 5.00 5 587

Bản thân hay gia đình có đang tham gia vào sàn giao dịch cà phê

Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent

Valid có tham gia không tham gia Total 48 72 120 40.0 60.0 100.0 40.0 60.0 100.0 40.0 100.0

Số năm tham gia vào sàn giao dịch New York( NYBOT)

Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent

từ 2-3 năm từ 1-2 năm không bao giờ Total

Valid Missing System Total 2 1 45 48 72 120 1.7 .8 37.5 40.0 60.0 100.0 4.2 2.1 93.8 100.0 4.2 6.3 100.0

Số năm tham gia vào sàn giao dịch Luân Đôn (LIFFE)

Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent

111

trên 3 năm từ 2-3 năm từ 1-2 năm không bao giờ Total

Valid Missing System Total 10 6 3 29 48 72 120 8.3 5.0 2.5 24.2 40.0 60.0 100.0 20.8 12.5 6.3 60.4 100.0 20.8 33.3 39.6 100.0

Số năm tham gia vào sàn giao dịch Brazil

Frequency Percent Cumulative Percent

không bao giờ

Valid Missing System Total 48 72 120 40.0 60.0 100.0 Valid Percent 100.0 100.0

Số năm tham gia vào sàn giao dịch Singapore (SICOM)

Frequency Percent Cumulative Percent

không bao giờ

Valid Percent 100.0 Valid Missing System Total 48 72 120 40.0 60.0 100.0 100.0

Số năm tham gia vào sàn giao dịch Tokyo

Frequency Percent Cumulative Percent

không bao giờ

Valid Missing System Total 48 72 120 40.0 60.0 100.0 Valid Percent 100.0 100.0

Số năm tham gia vào Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC)

Frequency Percent Cumulative Percent

trên 3 năm từ 2-3 năm từ 1-2 năm dưới 1 năm Total

Valid Missing System Valid Percent 29.2 41.7 27.1 2.1 100.0 11.7 16.7 10.8 .8 40.0 60.0 14 20 13 1 48 72 29.2 70.8 97.9 100.0

112

Total 120 100.0

Mức độ thường xuyên giao dịch tại các sàn giao dịch

Mức độ thường xuyên giao dịch tại sàn Brazil Mức độ thường xuyên giao dịch tại sàn Singapore (SICOM) Mức độ thường xuyên giao dịch tại sàn New York (NYBOT) Mức độ thường xuyên giao dịch tại sàn Tokyo

48 72 5.00 Mức độ thường xuyên giao dịch tại sàn Luân Đôn (LIFFE) 48 72 4.46 48 72 5.00 48 72 5.00 48 72 5.00 Mức độ thường xuyên giao dịch tại sàn Buôn Ma Thuột (BCEC) 48 72 3.79

.000 .967 .000 .000 .000 .582

5 5 2 5 5 5 5 5 5 5 N Valid Missing Mean Std. Deviation Minimum Maximum 1 4

Mức độ hài lòng khi tham gia vào sàn BCEC

N Min Max Mean Std. Deviation

48 2 5 3.50 .945 Các hoạt động giao dịch và thanh toán được quản lý chặt chẽ

Hoạt động theo nguyên tắc thành viên 48 2 5 3.13 .489

48 2 5 2.83 .559 Hoạt động giao dịch được đấu giá tập trung công khai

Quản lý rủi ro về giá 48 1 5 2.56 .873

48 2 5 2.25 .636

Chất lượng hàng hóa Dịch vụ môi giới, tư vấn 48 2 5 3.29 .849

48 2 5 3.77 1.096 Dịch vụ ký gửi, chế biến, bảo quản hàng hóa

Dịch vụ hỗ trợ tín dụng 48 3 5 4.65 .565

48 2 5 3.92 1.007 Thủ tục, phương thức, địa điểm giao nhận hàng

113

48 2 5 4.13 .866 Các loại phí: phí thành viên, phí giao dịch, phí kiểm định…

48 Valid N

Lý do tác động tới quyết định tham gia vào sàn BCEC

N Min Max Mean Std. Deviation

48 1.031 2.29 5 1

Tiếp cận thông tin giá cả và thị trường cà phê trong nước và thế giới Thông tin nhanh chóng chính xác 48 1.254 3.04 5 1

Cung cấp giá cả công khai 48 1.084 2.63 5 1

Mua bán dễ dàng qua Internet 48 .699 4.65 5 3

An tâm về chất lượng hàng hóa và khả năng thanh toán 48 2.23 .592 4 1

Hỗ trợ vốn kinh doanh cho khách hàng 48 2.85 1.384 5 1

Dịch vụ ký gửi, chế biến, bảo quản hàng hóa 48 2.83 1.117 5 1

Không sợ bị đổ nợ như khi ký gửi ở các đại lý 48 3.25 1.329 5 1

Điểm gặp gỡ thiết lập quan hệ giao dịch, tìm kiếm đối tác 48 4.44 .965 5 2

Trao đổi kinh nghiệm, tìm hiểu nhu cầu

48 4.65 .729 5 3

48 Valid N

Lý do tác động tới việc không muốn tham gia vào sàn BCEC

N Min Max Mean Std. Deviation

72 1 3 1.53 .671 Các loại phí: phí thành viên, phí giao dịch, phí kiểm định…

114

Số lượng thành viên tham gia không nhiều 72 3 1.35 1 .535

72 1 5 1.97 .993

1 5 3.85 1.535

Mức ký quỹ 15% giá trị hợp đồng khi tham gia giao dịch Không đủ điều kiện làm thành viên của sàn 72 Thiếu phương tiện vận tải 72 1 5 2.79 1.414

Thiếu nhà kho tại các địa điểm ở xa 72 1 5 2.49 1.453

1 1 4 1.65 5 1.69 .875 1.002

1 4 3.07 .793

Thủ tục rườm rà 72 Thiếu ưu đãi về giá 72 Dịch vụ ký gửi,chế biến, bảo quản hàng hóa 72 Dịch vụ hỗ trợ tín dụng 72 1 4 1.58 .765

72 1 4 1.32 .624 BCEC chưa đem lại nhiều lợi ích cho người tham gia

72 1 5 2.08 1.422 Chưa quen với phương thức giao dịch giao sau, thị trường giao sau

Valid N 72

Mức độ đồng ý với những lợi ích mà BCEC mang lại cho người tham gia

N Min Max Mean Std. Deviation

Quản lý rủi ro về giá 48 1 4 2.60 .610

48 2 5 3.92 .942 Cung cầu được đảm bảo thông qua hợp đồng giao ngay và giao sau

Hàng hóa được kiểm định chất lượng 48 1 5 1.79 .651

48 1 5 2.12 .890 Đấu giá tập trung công khai nên tránh được tình trạng ép giá

Được hỗ trợ vốn với lãi suất hợp lý 3 5 4.56 .542

2 5 3.58 .794

48 2 5 3.90 .951 48 Dịch vụ ký gửi, chế biến, bảo quản hàng hóa 48 Thủ tục giao hàng, nhận hàng đơn giản thuận tiện tại hệ thống kho của BCEC

Valid N 48

115

Đã từng giới thiệu BCEC cho bạn bè và người thân

Frequency Percent Cumulative Percent

đã từng chưa từng Total

Valid Percent 62.5 37.5 100.0 30 18 48 72 120 25.0 15.0 40.0 60.0 100.0 62.5 100.0 Valid Missing System Total

Giải pháp phát triển BCEC

N Min Max Mean Std. Deviation

Môi trường pháp lý chặt chẽ 48 2 5 2.71 .582

Hệ thống chứng nhận lưu kho tin cậy 48 2 5 2.63 .789

Trung tâm thông tin toàn diện 48 2 5 2.79 .898

48 1 3 2.27 .536 Trang thiết bị cân đo và phân cấp chủng loại hiện đai

48 1 5 2.79 1.220 Hệ thống nhiều kho bãi gần với vùng sản xuất

Đội ngũ tiếp thị 48 1 4 2.69 .657

48 1 4 2.25 .887 Nâng cao nhận thức và trình độ hiểu biết về thị trường giao sau

48 1 4 2.35 .601 Đào tạo nguồn nhân lực cán bộ quản lý cho sàn giao dịch

48 1 4 2.54 .617 Nền tảng giao dịch thân thiện với người sử dụng được xây dựng với cảnh báo chống gian lận và đầu cơ quá mức

48 1 4 2.02 .758

Hạ tầng kỹ thuật tốt có khả năng kết nối với các thị trường khác trong nước và trên thế giới Chính sách hỗ trợ của nhà nước 48 2 5 3.73 1.364

48 Valid N

116

Trình độ học vấn của người được phỏng vấn

Frequency Percent Cumulative Percent

Valid Percent 6.5 6 5.0 6.5

Valid 72 60.0 77.4 83.9

10 8.3 10.8 94.6

5 4.2 5.4 100.0

Trung học cơ sở (cấp 2) Phổ thông trung học (cấp 3) Tốt nhiệp cao đẳng Đã tốt nghiệp đại học hoặc sau đại học Total Missing Từ chối trả lời Total 93 27 120 77.5 22.5 100.0 100.0

Công việc hiện tại của người được phỏng vấn

Frequency Percent Cumulative Percent

Valid Percent 3.3 4 3.3 3.3

Valid 11 9.2 9.2 12.5

68 56.7 56.7 69.2

34 28.3 28.3 97.5

3 2.5 2.5 100.0

cán bộ quản lí nhân viên văn phòng chủ doanh nghiệp nông dân lao động tự do Total 120 100.0 100.0

117

PHỤ LỤC 3: SẢN PHẨM CÀ PHÊ TRÊN SÀN BCEC

1. Hợp đồng cà phê Robusta giao ngay

Điều khoản Hợp đồng cà phê giao ngay niêm yết

Thời gian giao dịch 9h00 – 11h00

Ngày giao dịch Từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần, trừ các ngày lễ theo quy định của Bộ luật lao động Việt Nam

Địa chỉ giao dịch Trung tâm Giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột

Số 153, Nguyễn Chí Thanh, Thành phố Buôn Ma Thuột, Tỉnh Đắk Lắk

Trụ sở giao dịch của các Thành viên Môi giới

Cơ chế khớp lệnh Khớp lệnh điện tử, liên tục

Khớp lệnh thoả thuận

Ký quỹ giao dịch 100% giá trị khối lượng giao dịch

Loại cà phê giao dịch R1A, R1C, R2B

Đơn vị tiền tệ giao dịch Đồng Việt Nam (VNĐ)

Thời hạn hiệu lực của lệnh Trong phiên giao dịch

Ký quỹ giao dịch 100% giá trị khối lượng giao dịch

Hiệu lực thanh toán Ngay khi lệnh được khớp

Đơn vị giao dịch Lô

Khối lượng giao dịch 1 tấn

Bước giá 50 VNĐ/kg

Biên độ dao động giá Không vượt quá 10% so với giá tham chiếu của phiên giao dịch liền kề trước đó

Thời hạn giao nhận hàng Ba ngày làm việc kể từ ngày khớp lệnh thành công

118

2. Hợp đồng giao dịch cà phê Robusta kỳ hạn

Hợp đồng Kỳ hạn niêm yết

Cà phê Robusta loại R2B Điều khoản Hàng hóa giao dịch

Thời gian giao dịch Giao dịch khớp lệnh liên tục: Từ 14h00 đến 17h00 Giao dịch thỏa thuận: Từ 14h00 đến 17h00

Ngày giao dịch Từ thứ Hai đến thứ Sáu hàng tuần, trừ các ngày nghỉ theo quy định trong Bộ Luật Lao động Việt Nam

Địa chỉ giao dịch Trung tâm Giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột, số 153, Nguyễn

Chí Thanh, Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk Trụ sở của các Thành viên môi giới

Cơ chế khớp lệnh - Khớp lệnh điện tử, liên tục - Khớp lệnh thoả thuận

Giá niêm yết VNĐ/kg

Bước giá 10 VNĐ/kg (20.000 VND/lô)

Khối lượng giao dịch Giao dịch khớp lệnh liên tục: tối thiểu 01 lô (02 tấn) Giao dịch thỏa thuận: tối thiểu là 9 lô (18 tấn)

02 tấn (2.000 kg) Khối lượng mỗi Hợp đồng (lô)

Niêm yết 6 tháng hợp đồng liên tiếp Tháng hợp đồng niêm yết

Biên động dao động giá trong +/- 4% so với Giá tham chiếu của phiên giao dịch liền kề trước đó à Ký quỹ giao dịch Tương đương 15% giá trị Hợp đồng

Ký quỹ đặc biệt Từ ngày Thông báo đầu tiên, mức ký quỹ của các hợp đồng chuẩn bị đến hạn giao hàng được nâng lên gấp ba (03) lần so với ký quỹ giao dịch thông thường Ngày làm việc cuối cùng của tháng trước Tháng giao hàng

Ngày giao dịch cuối cùng (LTD) Ngày thông báo đầu tiên (FND) Thời gian đăng ký giao hàng Ngày làm việc đầu tiên của 05 ngày làm việc cuối cùng của tháng trước Tháng giao hàng Từ ngày Thông báo đầu tiên đến 9h00 của Ngày giao dịch cuối cùng

Tối thiểu 18 tấn (tương đương 9 lô) Khối lượng đăng ký giao hàng

119

Loại cà phê giao nhận

Cà phê Robusta loại R2B (đen vỡ không quá 5%, tạp chất không quá 1.0%, độ ẩm 13%, kích cỡ hạt tối thiểu 90%/S13) Cà phê Robusta loại: R1A, R1B, R1C và R2A được giao theo giá hạch toán cho ngày giao dịch cuối cùng cộng với một khoản tiền tương ứng mức chênh lệch phẩm cấp chất lượng do BCEC quy định trong từng thời điểm.

Địa điểm giao hàng Tại hệ thống kho hàng của Trung tâm Giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột

Ngày làm việc thứ 3 của Tháng giao hàng

Ngày tất toán giao nhận hàng và thanh toán

120

PHỤ LỤC 4: SẢN PHẨM CÀ PHÊ TRÊN SÀN VNX

1. Hợp đồng cà phê lô nhỏ theo chuẩn VNX

Cà phê Robusta loại 1

Đơn vị hợp đồng 100 kg/lô

Tháng giao hàng Tháng 1, Tháng 3, Tháng 5, Tháng 7, Tháng 9, Tháng 11

2 tháng giao hàng liền kề Hợp đồng niêm yết

VNĐ Loại tiền giao dịch

Bước giá 10 VNĐ/kg

Theo tiêu chuẩn do VNX công bố. Tiêu chuẩn chất lượng

Giờ giao dịch 16:00 - 00:30 (chuyển ngày)

Ký quỹ Theo quy định của VNX

Giới hạn vị thế - Cá nhân: Không quá 5.000 lô mua/bán ròng. - Tổ chức: Không quá 20.000 lô mua/bán ròng. - VNX có thể điều chỉnh vị thế theo điều kiện thực tế.

Ngày giao dịch cuối cùng Ngày làm việc cuối cùng của tháng giao hàng (Nếu ngày này rơi vào ngày nghỉ thì ngày làm việc trước đó sẽ là Ngày giao dịch cuối cùng)

Cà phê Arabica

Đơn vị hợp đồng 100 kg/lô

Tháng giao hàng Tháng 3, Tháng 5, Tháng 7, Tháng 9, Tháng 12

2 tháng giao hàng liền kề Hợp đồng niêm yết

VNĐ Loại tiền giao dịch

Bước giá 10 VNĐ/kg

Theo tiêu chuẩn do VNX công bố. Tiêu chuẩn chất lượng

Giờ giao dịch 15h30 – 2h00 (chuyển ngày)

121

Ký quỹ Theo quy định của VNX

Giới hạn vị thế - Cá nhân: Không quá 5.000 lô mua/bán ròng. - Tổ chức: Không quá 20.000 lô mua/bán ròng. - VNX có thể điều chỉnh vị thế theo điều kiện thực tế.

Ngày giao dịch cuối cùng Tám (08) ngày làm việc trước ngày làm việc cuối cùng của tháng giao hàng (Nếu ngày này rơi vào ngày nghỉ thì ngày làm việc trước đó sẽ là Ngày giao dịch cuối cùng).

2. Hợp đồng cà phê theo chuẩn quốc tế

Cà phê Robusta loại 1

Đơn vị hợp đồng 10.000 kg/lô

Tháng giao hàng Tháng 1, Tháng 3, Tháng 5, Tháng 7, Tháng 9, Tháng 11

Hợp đồng niêm yết 3 tháng giao hàng liền kề

Loại tiền giao dịch VNĐ

Bước giá 10 VNĐ/kg

Đơn vị giao hàng N x 20 tấn. (với N>0 và là số nguyên)

Tiêu chuẩn chất lượng Theo tiêu chuẩn do VNX công bố.

Giờ giao dịch 16:00 - 00:30 (chuyển ngày)

Ký quỹ Theo quy định của VNX

Giới hạn vị thế

- Cá nhân: Không quá 5.000 lô mua/bán ròng. - Tổ chức: Không quá 20.000 lô mua/bán ròng. - VNX có thể điều chỉnh vị thế theo điều kiện thực tế.

Cảng giao hàng Theo quy định của VNX

Ngày thông báo đầu tiên Ngày làm việc đầu tiên của tháng giao hàng

Theo các hướng dẫn của VNX Mức ký quỹ bổ sung sau ngày thông báo đầu tiên đối với nhà đầu tư giao dịch hàng vật chất

Ngày giao dịch cuối cùng Ngày làm việc cuối cùng của tháng giao hàng (Nếu ngày này rơi vào ngày nghỉ thì ngày làm việc trước đó sẽ là Ngày giao dịch cuối cùng)

Ngày giao hàng Theo quy định của VNX

Phương thức giao hàng Theo quy định của VNX

122

Cà phê Arabica

Đơn vị hợp đồng 37500 pounds/lô

Tháng giao hàng Tháng 3, Tháng 5, Tháng 7, Tháng 9, Tháng 12

Hợp đồng niêm yết 3 tháng giao hàng liền kề

Loại tiền giao dịch VNĐ

Bước giá 10 VNĐ/pound

Đơn vị giao hàng N x 20 tấn. (với N>0 và là số nguyên)

Tiêu chuẩn chất lượng Theo tiêu chuẩn do VNX công bố.

Giờ giao dịch 15:30 – 2:00 (chuyển ngày)

Ký quỹ Theo quy định của VNX

Giới hạn vị thế

- Cá nhân: Không quá 5.000 lô mua/bán ròng. - Tổ chức: Không quá 20.000 lô mua/bán ròng. - VNX có thể điều chỉnh vị thế theo điều kiện thực tế.

Cảng giao hàng Theo quy định của VNX

Ngày thông báo đầu tiên Ngày làm việc đầu tiên của tháng giao hàng

Thực hiện theo các hướng dẫn của VNX

Mức ký quỹ bổ sung sau ngày thông báo đầu tiên đối với nhà đầu tư giao dịch hàng vật chất

Ngày giao dịch cuối cùng

Tám ngày (08) làm việc trước ngày làm việc cuối cùng của tháng giao hàng (Nếu ngày này rơi vào ngày nghỉ thì ngày làm việc trước đó sẽ là Ngày giao dịch cuối cùng).

Ngày giao hàng Theo quy định của VNX

Theo quy định của VNX

Phương thức giao hàng

123

PHỤ LỤC 5: CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ HÌNH THÀNH VÀ XÂY

DỰNG THỊ TRƯỜNG GIAO SAU

Để có thể khiến cho thị trường giao sau phát huy đầy đủ được những lợi ích

đã nêu, điều cần thiết là những nền tảng phát triển của nó phải được đáp ứng ngay

từ đầu. Những điều kiện như vậy có thể được nhìn nhận dưới ba góc độ: thể chế,

luật pháp; kinh tế-tài chính; và hạ tầng kỹ thuật.

1. Điều kiện kinh tế-tài chính:

Một là, cần phải tồn tại nhu cầu cao về giao dịch sản phẩm hợp đồng giao

sau và nhu cầu này xuất phát từ nhiều bên tham gia. Nói cách khác, cần phải có nhu

cầu thiết thực về việc sử dụng sản phẩm hợp đồng giao sau và nhu cầu này phải có

trước khi thị trường được xây dựng.

Nhu cầu về giao dịch giao sau nói chung trước hết xuất phát từ phía những

đơn vị sở hữu hàng hóa cơ sở với mong muốn hạn chế thiệt hại khi giá giảm; đồng

thời những đơn vị nhập hàng/tổ chức sản xuất cũng mong muốn rào chắn rủi ro giá

thành tăng trong tương lai; trong khi đó nhu cầu từ một bên thứ ba là các tổ chức, cá

nhân mong muốn kinh doanh nhằm mục tiêu hưởng lợi nhuận chênh lệch từ các hợp

đồng giao sau. Một khi không có nhu cầu cao của các bên nói trên thì không thể có

thị trường giao sau.

Hai là, thị trường hàng hóa cơ sở phát triển đầy đủ là nền tảng cho thị trường

giao sau tồn tại. Một đặc điểm dễ thấy là không có thị trường cơ sở thì không thể có

thị trường giao sau, và giá cả hàng hóa giao sau phụ thuộc vào biến động giá cả

hàng hóa cơ sở. Tính chất và quy mô của thị trường cơ sở càng cao thì thị trường

giao dịch giao sau tương ứng càng phát triển.

Ba là, một cơ sở nhà đầu tư tài chính đủ rộng và sâu là điều kiện không thể

thiếu. Thông thường trong nền kinh tế, hoạt động ngân hàng phát triển trước, tiếp

đến mới có sự phát triển công cụ phái sinh. Điều đó có ý nghĩa rằng trình độ phát

triển thị trường phải đạt đến một mức độ nhất định mới phát sinh nhu cầu giao dịch

phái sinh. Cụ thể, số lượng và tiềm lực của các thành viên có thể tham gia vào thị

trường giao dịch giao sau sẽ quyết định sự tồn tại như thế nào của thị trường này.

124

Thị trường giao sau không đơn thuần chỉ là nơi gặp gỡ của hai bên nắm giữ hàng

hóa cơ sở và bên nhập hàng, mà còn có sự tham gia tích cực của các nhóm đối

tượng đầu cơ, kinh doanh chuyên nghiệp (trong nhiều trường hợp một đối tượng có

thể đóng nhiều vai trò); và chính nhóm đối tượng này là chất xúc tác tiếp thêm sức

sống cho thị trường giao sau với điều kiện họ có đủ năng lực tham gia. Hơn nữa,

không chỉ có các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp mà nhà đầu tư cá nhân cũng cần

được nuôi dưỡng và khuyến khích tham gia, tạo điều kiện cho thị trường giao sau

phát triển đi lên.

2. Điều kiện thể chế, luật pháp:

Một là, cần có hệ thống văn bản pháp luật, quy định rõ ràng về điều kiện

thành lập, tham gia và hoạt động của thị trường giao dịch giao sau. Hệ thống văn

bản pháp quy có thể được ban hành trước mở đường cho hoạt động giao dịch hợp

đồng giao sau hình thành. Tuy nhiên, khi thị trường đã đi vào hoạt động, cần có

hành lang pháp lý khuyến khích và hỗ trợ các Sàn giao dịch hàng hóa trong việc cải

tiến, phát triển các sản phẩm mới phù hợp hơn. Xuyên suốt trong quá trình đó là

những nội dung quản lý hướng tới bảo vệ nhà đầu tư thông qua các quy định về ký

quỹ, thanh toán hoặc các biện pháp quản lý rủi ro khác.

Hai là, cần phân định rạch ròi chức năng quản lý, giám sát thị trường giao

sau. Do đặc thù thị trường giao sau có thể giao dịch nhiều loại hàng hóa gốc khác

nhau, nên liên quan đến phạm vi quản lý của nhiều cơ quan quản lý chuyên ngành

và dễ dẫn tới xung đột lợi ích. Như vậy, việc phân định rạch ròi chức năng sẽ đem

lại các lợi ích: i) Tránh xung đột giữa các bên tham gia thị trường; ii) Tạo điều kiện

tập trung trách nhiệm quản lý những rủi ro đặc thù của hàng hóa gốc; iii) Tạo cơ chế

hoạt động nhanh nhạy và hiệu quả trước thay đổi của thị trường phái sinh. Trên cơ

sở đó, việc phân loại chức năng quản lý, giám sát thị trường giao sau có thể theo

một trong hai hướng: i) Theo hàng hóa-tính chất của loại hình công cụ cơ sở; hoặc

ii) Theo chức năng quản lý thị trường cơ sở.

3. Điều kiện kỹ thuật:

125

Một là, cần xây dựng được tập hợp các tiêu chuẩn áp dụng cho Hợp đồng

giao sau mẫu chuẩn. Hợp đồng mẫu này phải được thiết kế sao cho phù hợp với

thực tế và thuận tiện trong áp dụng. Theo đó, những điều kiện chuẩn của Hợp đồng

giao sau tối thiểu phải bao gồm các nội dung sau: quy mô hợp đồng; đơn vị yết giá;

biên độ giao động giá tối thiểu; chủng loại sản phẩm; thời gian giao dịch; thời gian

thanh toán; ngày giao dịch cuối cùng. Ngoài ra, đối với một số hàng hóa cơ sở đặc

thù, có thể phải quy định thêm một số nội dung chuẩn sau: điều kiện giao hàng; thủ

tục giao hàng; biên độ dao động giá tối đa trong ngày.

Hai là, có cơ sở hạ tầng công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ tin học.

Trong thời đại hiện nay, việc xây dựng thị trường giao sau cần áp dụng công nghệ

tin học hiện đại ngay từ đầu nhằm xử lý được quy trình thanh toán và kết nối thông

tin. Trong vấn đề này, năng lực của đơn vị thanh toán bù trừ trung tâm đóng vai trò

mũi nhọn.

Ba là, việc lựa chọn phương thức thanh toán phù hợp cho giao dịch giao sau

sẽ ảnh hưởng tới phương thức giao dịch của các thành viên thị trường. Liên quan

đến vấn đề này, việc áp dụng các chuẩn mực kế toán, kiểm toán cho sản phẩm phái

sinh cần phải thống nhất và phù hợp.

126

PHỤ LỤC 6: DIỆN TÍCH, PHÂN BỐ DIỆN TÍCH CÂY CÀ PHÊ, CHẤT

LƯỢNG VÀ TÌNH HÌNH TIÊU THỤ CÀ PHÊ

1. Diện tích:

Bảng 1 cho thấy diện tích cây cà phê ở Việt Nam trong giai đoạn 2002-2006

giảm dần và duy trì ở mức ổn định gần 500 nghìn ha, từ năm 2007 cho đến nay diện

tích cây cà phê tăng dần và đạt 550 nghìn ha vào năm 2011.

Bảng 1: Diện tích trồng cà phê của Việt Nam năm 2002-2011 (nghìn ha)

Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011

Diện tích 522,2 510,2 496,8 497,4 497 506,4 530,9 537 548 550

Nguồn: VICOFA, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

Điều đáng chú ý là diện tích cây cà phê có tuổi kinh doanh trên 20 năm ngày

càng tăng. Theo ước tính trong vòng 5-10 năm tới, diện tích cây cà phê già cỗi có

tuổi kinh doanh trên 20 năm sẽ chiếm khoảng gần 50% diện tích toàn quốc. Đây

thực sự sẽ là thách thức lớn với ngành cà phê Việt Nam trong việc duy trì hiệu quả

sản xuất kinh doanh gắn với đảm bảo chất lượng sản phẩm.

2. Phân bố diện tích cây cà phê:

Cây cà phê chủ yếu được trồng ở các vùng đồi núi phía Bắc và Tây Nguyên.

Diện tích cây cà phê tập trung nhiều nhất ở vùng Tây Nguyên (chiếm 90% diện tích

đất trồng), tại các tỉnh như Đắk Lắk (tỉnh có diện tích trồng cà phê lớn nhất cả

nước), Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng và chủ yếu là cà phê vối

(Robusta). Cà phê chè (Arabica) được trồng chủ yếu ở vùng Nam Trung Bộ, vùng

núi phía Bắc do các vùng này ở vùng cao hơn, nhưng với diện tích và sản lượng rất

khiêm tốn, tập trung nhiều ở các tỉnh Quảng Trị, Sơn La và Điện Biên.

3. Chất lượng:

Việt Nam sản xuất chủ yếu là cà phê vối (Robusta) có giá trị thương phẩm

thấp hơn cà phê chè (Arabica) nhưng Việt Nam có thể sản xuất ra cà phê Robusta

chất lượng cao, được khách hàng ưa chuộng nếu Việt Nam có sự quan tâm đến khâu

thu hái, chế biến và nhất là khâu quản lý chất lượng của Nhà nước nhiều hơn nữa.

127

Vấn đề quản lý chất lượng cà phê xuất khẩu rất đáng quan tâm vì liên quan đến khả

năng cạnh tranh của mặt hàng cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới. Đa số các

doanh nghiệp xuất khẩu cà phê đều áp dụng tiêu chuẩn theo hợp đồng trên cơ sở

thỏa thuận với đối tác mua. Hình thức này phân loại cà phê theo tiêu chuẩn hợp

đồng thường đơn giản, chi phí thấp và không đánh giá đúng chất lượng sản phẩm.

Ông Phan Huy Thông, Phó cục trưởng Cục trồng trọt cho biết chỉ có trên 10% số

doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam áp dụng quy định xuất khẩu TCVN 4193-

2005 (tương đương các quy định kiểm tra hàng hóa xuất khẩu của Hiệp hội Cà phê

Thế giới), nên cà phê Việt Nam xuất khẩu bị thải loại hơn 70% vì không phù hợp

tiêu chuẩn quốc tế. Từ tháng 10-2006 đến tháng 6-2007, đã có 958.667 bao cà phê

Việt Nam (khoảng 74% cà phê xuất khẩu) bị thải loại tại thị trường New York. Để

cải thiện tình hình bị thải loại nhiều, Việt Nam đã đưa ra quy định rằng mặt hàng cà

phê được ghi vào danh mục bắt buộc phải kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi

thông quan. Cà phê nhân xuất khẩu phải có chứng nhận kiểm tra chất lượng theo

tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 4193:2005. Thêm vào đó Việt Nam thực hiện phân loại

từ trong nước để có thể tận dụng được cà phê xấu để rang xay tiêu dùng trong nước

và cà phê xuất khẩu là cà phê đã được phân loại, tránh tình trạng bị thải loại nhiều

và giữ vững thương hiệu cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới.

4. Tình hình tiêu thụ cà phê:

Tiêu thụ trong nước: Dân Việt Nam trước đây ít dùng cà phê đặc biệt là ở

nông thôn, hơn nữa theo sở thích thường dùng cà phê vối. Gần đây do lượng khách

nước ngoài đến Việt Nam tăng lên, đồng thời dân Việt Nam ở thành thị cũng bắt

đầu có nhu cầu dùng cà phê nhiều hơn nên lượng tiêu thụ trong nước có tăng lên.

Mức tiêu thụ trong nước khoảng 10% sản lượng.

Về nhập khẩu: Do trong nước sản xuất được, hơn nữa với giá thành rẻ nên

Việt Nam không nhập khẩu cà phê nhân để tiêu thụ trong nước mà chỉ nhập khẩu để

tái xuất. Còn cà phê hòa tan Việt Nam cũng có nhập khẩu nhưng với khối lượng khá

nhỏ, không đáng kể.

Về xuất khẩu:

128

Hình 1 cho thấy sản lượng và giá trị cà phê xuất khẩu tăng nhanh trong giai

đoạn 2005-2010. Hình 2 cho thấy sản lượng cà phê Việt Nam đứng thứ 2 thế giới

chỉ sau Brazil. Hiện nay, cà phê Việt Nam đã có mặt tại hơn 75 quốc gia trên thế

giới và cạnh tranh ngày càng quyết liệt với cà phê Indonesia, Ấn Độ và một số quốc

Sản lượng (1000 tấn) Giá trị XK (Triệu USD)

2500

2.021

1.911

2000

1.731

1.851

1500

1.229

1.218

1.184

1.217

1.004

981

804

1000

634

500

0

2005

2006

2007

2008

2009

2010

gia Châu Phi.

Nguồn: Bộ Công thương

Khác, 21%

Guatemala, 3%

Brazil, 36%

Mexico, 3%

Ấn Độ, 4%

Việt Nam, 14%

Ethiopia, 6%

Indonesia, 6% Colombia, 7%

Hình 1: Sản lượng và giá trị xuất khẩu cà phê của Việt Nam năm 2005-2010

Nguồn: ICO

Hình 2:Tỷ trọng sản lượng cà phê theo quốc gia trên thế giới năm 2010

129

PHỤ LỤC 7: KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA Ở

MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

1. Kinh nghiệm của Trung Quốc:

1.1 Sở giao dịch hàng hóa ở Trung Quốc:

Đầu thế kỷ 20, Trung Quốc có hàng tá sở giao dịch, song chúng hầu hết đều

biến mất trong những năm 1930. Vào năm 1990, sở giao dịch hàng hóa được thành

lập lại và đến năm 1993 Trung Quốc có hơn 40 sở giao dịch hàng hóa với nhiều sản

phẩm được giao dịch và trong đó có rất nhiều sở giao dịch có chung sản phẩm giao

dịch. Vào thời điểm này, cơ chế giám sát kém, hành vi gian lận, gian lận môi giới,

hoạt động đầu cơ thị trường diễn ra rất nhiều và giao dịch nước ngoài rộng khắp.

Trong 4 năm kể từ năm 1993 tới năm 1997, có ít nhất là 10 cuộc khủng hoảng diễn

ra tại các sở giao dịch nội địa cùng với sự thua lỗ hơn 1 tỷ đô la Mỹ của những

thương nhân Trung Quốc ở các sở giao dịch giao sau nước ngoài.

Do đó, chính phủ Trung Quốc đã bắt đầu cải tổ nhằm phát triển thị trường

giao sau với việc củng cố luật giao dịch giao sau, giám sát chặt chẽ các sở giao dịch,

hợp nhất các sở giao dịch, cho phép mỗi sở giao dịch có các sản phẩm tối thượng

tránh tình trạng các sở giao dịch có chung sản phẩm giao dịch, loại bỏ một số sản

phẩm giao dịch, hạn chế giao dịch ngoài nước, kiểm soát môi giới bằng các chứng

chỉ, điều tra hành vi gian lận và lạm dụng, xử lý người vi phạm… Dưới sự kiểm

soát của Uỷ ban quản lý chứng khoán Trung Quốc (China Securities Regulatory

Commission – CSRC), số lượng sở giao dịch hàng hóa giảm còn 15 vào năm 1994

và cuối năm 1998 chỉ còn lại 3 sở giao dịch hàng hóa đó là: Sở giao dịch hàng hóa

Đại Liên (Dalian Commodity Exchange - DCE), Sở giao dịch hàng hóa Quảng

Châu (Zhengzhou Commodity Exchange - ZCE) và Sở giao dịch giao sau Thượng

Hải (Shanghai Futures Exchange - SHFE). SHFE được hình thành từ sự sáp nhập

của 3 sở giao dịch hàng hóa là Shanghai Metal Exchange, Shanghai Commodity

Exchange và Shanghai Grain and Oil Exchange. Số lượng sở giao dịch hàng hóa ở

Trung Quốc cho đến nay vẫn duy trì là ba sở giao dịch này.

130

Nhân tố đầu tiên thúc đẩy sự hình thành Sở giao dịch hàng hóa ở Trung

Quốc chính là từ phía chính phủ. Cả ba sở giao dịch hàng hóa của Trung Quốc đều

do Nhà nước thành lập dưới hình thức một tổ chức sự nghiệp tự chủ, phi lợi nhuận

và được quản lý bởi CSRC.

Hoạt động của các sở giao dịch hàng hóa Trung Quốc được kiểm soát chặt

chẽ bởi CSRC và các chức danh quan trọng của các Sở giao dịch đều do CSRC bổ

nhiệm. Để kiểm soát thị trường, CSRC đặt ra mức ký quỹ yêu cầu các sở thực

hiện. Mức ký quỹ được thiết lập theo nguyên tắc tháng giao dịch gần với tháng

giao hàng sẽ có mức ký quỹ cao hơn. Chỉ có công ty mới có thể là thành viên của

các Sở giao dịch hàng hóa, cá nhân thì không được phép.

Hiện nay chính phủ không cho phép thương nhân nước ngoài thực hiện giao

dịch tại Sở giao dịch hàng hóa Trung Quốc và cũng không cho phép các thương

nhân Trung Quốc thực hiện giao dịch giao sau nông sản ở nước ngoài. Sở dĩ như

vậy là vì Chính phủ Trung Quốc muốn kiểm soát chặt chẽ ngoại hối và đồng

nhân dân tệ chưa chuyển đổi được.

Hệ thống cơ sở hạ tầng của các Sở giao dịch hàng hóa Trung Quốc có khả

năng kết nối đến tổ chức thành viên. Các Sở giao dịch hàng hóa đều có 4 phòng

liên quan đến hoạt động giao dịch là phòng quản lý giao dịch, phòng thanh toán bù

trừ, phòng giao nhận và phòng thông tin. Phòng thanh toán bù trừ thực hiện ủy

thác thanh toán qua ngân hàng thương mại. Các Sở giao dịch hàng hóa đều được

trang bị hệ thống giao dịch điện tử tự động như hệ thống nhập lệnh và khớp lệnh tự

động bằng máy tính, bản công bố giao dịch bằng điện tử và nhiều hệ thống giao

dịch được nối mạng toàn cầu. Phương thức giao dịch của Sở theo mô hình khớp

lệnh định kỳ và khớp lệnh liên tục.

1.2 Nhận xét và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam:

Về vai trò quản lý của nhà nước: Kinh nghiệm từ Trung Quốc đã chứng

minh rằng thị trường giao sau sẽ phát triển bất ổn định nếu không được tổ chức và

quản lý chặt chẽ. Sự thiếu quản lý sẽ tạo điều kiện cho sự đầu cơ quá mức và làm

méo mó cung, cầu, giá cả và làm mất lòng tin của những người tham gia giao dịch,

131

làm cho sở giao dịch không còn thực hiện được chức năng phát hiện giá cả và công

cụ tự bảo hiểm không còn hiệu quả. Do đó Chính phủ Việt Nam cần phải ban hành

chính sách liên quan đến các quy tắc và kiểm soát Sở giao dịch hàng hóa, các công

ty môi giới, các trung tâm thanh toán bù trừ và tất cả các thực thể gắn với thị

trường. Các quy tắc phải thực sự hữu hiệu và phải được ban hành thành luật để

tránh sự thao túng thị trường và bảo vệ người tiêu dùng chống lại sự gian lận hay sự

không trung thực của các tổ chức trung gian. Do đó cần thiết phải tạo ra các cơ quan

nhà nước với đầy đủ quyền lực kiểm soát lên thị trường. Chúng sẽ có những vai trò

như sau:

 Kiểm soát nghề môi giới. Việc xác định rõ các quy định giữa người môi giới và

khách hàng là rất quan trọng. Ví dụ như sự tách biệt giữa tài khoản khách hàng

và công ty môi giới. Cần phải có một loại chuẩn mực đạo đức để tất cả các nhà

môi giới tôn trọng thực hiện. Nếu vi phạm một trong các nguyên tắc này, nhà

môi giới có thể có bị cấm hoạt động ở cấp độ quốc gia.

 Điều chỉnh các giao dịch ở Sở giao dịch hàng hóa đứng dưới góc độ là một nhà

tạo lập thị trường. Nhà tạo lập thị trường tạo ra thị trường có tính thanh khoản

cao bằng cách thường xuyên yết lên các mức giá chào mua, chào bán, qua đó

đảm bảo một thị trường, mua bán liên tục, tránh tình trạng dư mua, dư bán. Nhà

tạo lập thị trường ngoài việc đóng vai trò là nhà môi giới, nhà đầu tư, còn là nhà

cân bằng giá, tạo sự cân bằng, trật tự giao dịch trong ngắn hạn.

Ngoài ra, các cơ quan nhà nước nên kiểm soát tình hình tài chính của các Sở

giao dịch, giới hạn giao dịch ở các sàn nước ngoài, khắc phục tình trạng thua lỗ do

các nhà đầu tư trong nước tham gia thị trường phái sinh nước ngoài

Tuy nhiên, sự kiểm soát quá chặt chẽ chỉ có tác động trong giai đoạn đầu xây

dựng Sở giao dịch hàng hoá. Khi các sở giao dịch bắt đầu phát triển, nhu cầu giao

dịch tăng, nền kinh tế phát triển thì sự kiểm soát chặt chẽ lại trở thành rào chắn cho

sự phát triển hàng hóa cũng như của toàn bộ nền kinh tế. Chính vì lẽ đó, khi thị

trường đã trở lại hoạt động một cách ổn định thì Chính phủ cần nới lỏng sự kiểm

soát của mình. Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện điều này vào năm 2007 bằng

132

cách dỡ bỏ một số lệnh cấm áp đặt khi thị trường bất ổn, các hợp đồng mới được

cho phép giao dịch.

Các hoạt động đầu cơ: chính sự đầu cơ tạo ra khối lượng giao dịch khổng

lồ và tăng tính thanh khoản trên thị trường. Tuy nhiên, nếu không có những quy

định đúng đắn thì sự đầu cơ lại chính là nguyên nhân dẫn đến sự bất ổn như trường

hợp các sở giao dịch hàng hóa của Trung Quốc vào những năm 1990.

Vấn đề những người sản xuất nhỏ và phổ cập kiến thức về Sở giao dịch

hàng hóa: Trung Quốc chủ yếu bao gồm những người sản xuất nhỏ, nhưng Nhà

nước khuyến khích những người sản xuất lớn, thương nhân, … tham gia vào việc tự

bảo hiểm rủi ro giá cả trên thị trường giao sau rồi từ đó chuyển lợi ích cho người

sản xuất nhỏ. Người nông dân ở Trung Quốc được hưởng lợi ích gián tiếp từ các

các số liệu từ thị trường giao sau hàng hóa. Các Sở giao dịch hàng hóa cùng với sự

hỗ trợ của chính phủ đã tổ chức nhiều buổi phổ cập giáo dục cho người nông dân

kiến thức về vai trò và hoạt động của sở giao dịch hàng hóa. Từ đó, khuyến khích

người nông dân sử dụng thông tin từ Sở giao dịch hàng hóa để xác định việc sản

xuất của mình và có thể thỏa thuận những mức giá tốt hơn so với giá từ các trung

gian mua bán. Đây là một phương pháp tốt để Việt Nam có thể tham khảo trong

việc hình thành và phát triển sở giao dịch hàng hóa.

2. Kinh nghiệm ở Malaysia:

2.1 Sở giao dịch hàng hóa ở Malaysia:

Sở giao dịch hàng hóa đầu tiên của Malaysia là Sở giao dịch Kuala Lumpur

(Kuala Lumpur Commodity Exchange - KLCE) ra đời vào năm 1980. Sở giao dịch

Kuala Lumpur đã phải trải qua rất nhiều cuộc mua bán và sáp nhập để trở thành Sở

giao dịch phái sinh Bursa Malaysia (Bursa Malaysia Derivatives). Bursa Malaysia

Derivatives hiện là một phần của tập đoàn Bursa Malaysia. Chính vì sự mua bán và

sáp nhập nên Bursa Malaysia Derivatives không chỉ giao dịch hàng hóa mà còn giao

dịch giao sau chỉ số chứng khoán, tiền tệ và chứng khoán. Hàng hóa duy nhất được

giao dịch tại Bursa Malaysia Derivatives là mặt hàng dầu cọ.

133

Sở giao dịch hàng hóa ở Malaysia hình thành đầu tiên vào năm 1980 không

phải được thúc đẩy bởi nhà nước, mà từ khu vực tư nhân. Tuy nhiên, sự thành công

của Bursa Malaysia Derivatives in đậm sự hậu thuẫn của Chính phủ Malaysia. Sự

hậu thuẫn mạnh mẽ từ Chính phủ Malaysia không chỉ giới hạn ở việc hỗ trợ khung

pháp lý, việc tuyên truyền quảng bá thương hiệu, mà còn cả ở việc tổ chức vận

hành. Thông qua các quỹ do Chính phủ quản lý, Chính phủ Malaysia tham gia mua

lại một số cổ phần nhất định để có thể tham gia quản lý. Chính phủ nắm giữ việc bổ

nhiệm các chức danh quan trọng, Sở giao dịch hàng hóa chỉ được quyền đề xuất.

Điều này cũng tương tự thông lệ tại sở giao dịch hàng hóa của các quốc gia trong

khu vực: 1/3 các chức danh chủ chốt tại các sở giao dịch là nhân sự được chính phủ

bổ nhiệm.

Sở giao dịch hàng hóa của Malaysia có cơ sở hạ tầng khá hiện đại cung cấp

các dịch vụ như giao dịch, thanh toán bù trừ, giao nhận hàng hóa. Các giao dịch đều

được điện tử hóa mang tính hiện đại.

2.2 Nhận xét và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam:

Chiến lược phát triển Sở giao dịch hàng hóa: Với chiến lược phát triển chỉ

tập trung vào sản phẩm dầu cọ - thế mạnh của mình, Malaysia đã thực sự thành

công trong việc biến mặt hàng dầu cọ thành hàng hóa xuất khẩu chủ lực và có sức

mạnh giá cả trên thị trường thế giới. Bursa Malaysia Derivatives là một trong những

Sàn giao dịch hàng hóa thành công trên thế giới, đặc biệt đối với sản phẩm dầu cọ.

Bursa Malaysia Derivatives là một sở giao dịch có thể tạo ra mức giá tham khảo

trên thế giới cho sản phẩm dầu cọ. Thông thường, trên thế giới các mức giá tham

khảo cho hầu hết các loại hàng hóa giao dịch tại sở giao dịch đều được hình thành ở

các sở giao dịch hàng hóa đặt ở các quốc gia phát triển và cách xa thị trường sản

xuất chủ yếu các mặt hàng này. Malaysia là quốc gia sản xuất mặt hàng dầu cọ lớn

trên thế giới và với Bursa Malaysia Derivatives, Malaysia có quyền định giá - đóng

vai trò người quyết định giá cả hơn là người phải chấp nhận giá như những quốc gia

sản xuất khác trên thị trường thế giới.

134

Chính phủ Malaysia tham gia khá sâu vào hoạt động của Sở giao dịch hàng

hóa Malaysia. Điều này đảm bảo Sở giao dịch hàng hóa hoạt động minh bạch và

công bằng. Cả nhà sản xuất lẫn nhà đầu tư tài chính đều được bảo vệ. Tuy nhiên, để

phát triển thị trường giao dịch hàng hóa, Malaysia đã đưa ra các điều kiện hấp dẫn

các nhà đầu tư nước ngoài, như không khống chế dòng vốn và lượng người tham

gia, giao dịch bằng cả đồng nội tệ (Ringgit) và đô la Mỹ, không áp thuế đối với giao

dịch nước ngoài, xây dựng thể chế tài chính cho người nước ngoài…Kinh nghiệm

của Malaysia thực sự là một bài học hết sức quý giá cho Việt Nam trong chiến lược

phát triển sở giao dịch hàng hóa để hỗ trợ xuất khẩu.

Vấn đề những người sản xuất nhỏ và phổ cập kiến thức về Sở giao dịch

hàng hóa: Ngay từ đầu, Malaysia đã không khuyến khích người nông dân nhỏ tham

gia trực tiếp vào các giao dịch tại sở giao dịch, do đó những công cụ quản lý rủi ro

giá cả được sử dụng chủ yếu bởi những chủ trang trại hoặc những người sản xuất

lớn. Những người nông dân nhỏ thường hoạt động dưới những chương trình do

chính phủ tài trợ mà đã có sẵn những biện pháp ngăn ngừa rủi ro. Nông dân, những

người sản xuất nhỏ thu được những lợi ích gián tiếp từ thông tin giá cả và thị trường

tại sở giao dịch. Malaysia chú trọng phổ cập, giáo dục cho người dân kiến thức về

hoạt động giao dịch hàng hóa, đồng thời quảng bá công khai, lôi kéo người tham gia

vào Sở giao dịch.

3. Kinh nghiệm ở Ấn Độ:

3.1. Sở giao dịch hàng hóa ở Ấn Độ:

Ấn Độ là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới thành lập Sở giao

dịch hàng hóa. Thị trường giao sau có tổ chức đầu tiên giao dịch mặt hàng bông sợi

được hình thành vào năm 1921 và sau đó phát triển rất mạnh trong cả nước.

Từ khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường, Chính

phủ Ấn Độ đã làm cuộc cách mạng thay đổi cấu trúc của các Sở giao dịch hàng hóa

trong nước. Những quy định, chính sách trì trệ, cổ hủ bị dỡ bỏ; thay bằng các tiêu

chuẩn mới cho Sở giao dịch hàng hóa, gồm ba nguyên tắc cơ bản sau:

135

 Sở giao dịch hàng hóa phải cung cấp dịch vụ trên toàn quốc gia

 Sở giao dịch hàng hóa phải được hoạt động dưới sự quản lý chuyên nghiệp

 Sở giao dịch hàng hóa phải cung cấp các giao dịch thông qua hệ thống điện tử

để mở rộng thị trường, đặc biệt là cho tầng lớp nông dân.

Những tổ chức nào tuân thủ ba nguyên tắc trên sẽ được chính phủ Ấn Độ cấp

giấy phép và được quyền giao dịch bất kỳ hàng hóa hợp pháp nào.

Kết quả là, ba Sở giao dịch mới được thành lập vào năm 2002-2003: Sở giao

dịch đa hàng hóa Ấn Độ (the Multi Commodity Exchange of India - MCX), Sở giao

dịch hàng hóa phái sinh quốc gia (the National Commodity and Derivatives

Exchange - NCDEX) ở Mumbai; Sở giao dịch đa hàng hóa quốc gia (the National

Multi-Commodity Exchange - NMCE) ở Ahmedabad. Các tổ chức này đã có có sự

phát triển vượt bậc trong khối lượng giao dịch và trở thành một trong những Sở

giao dịch hàng hóa hàng đầu thế giới chỉ với 3 hay 4 năm hoạt động. Các Sở giao

dịch này được ra đời trên một hệ thống công nghệ cao, chi phí thấp, và cung cấp

một mạng lưới giao dịch hiện đại, thuận lợi, dễ dàng truy cập.

Bản chất của quá trình cải cách đã tạo ra hai đặc điểm khiến thị trường hàng

hóa giao sau của Ấn Độ trở nên khác biệt so với các thị trường khác trên thế giới.

Thứ nhất, chính phủ đã khuyến khích mỗi Sở giao dịch hàng hóa được giao dịch

hàng loạt hợp đồng nông phẩm, kim loại, năng lượng. Các hợp đồng này là hợp

đồng của các sản phẩm bản xứ, không tồn tại ở bất kỳ nơi nào trên thế giới (như:

cây bạch đậu khấu, dầu bạc hà) hoặc các hàng hóa được giao dịch rộng rãi trên thị

trường thế giới (như: đậu tương, lúa mì, vàng và dầu thô). Các Sở giao dịch hàng

hóa cung cấp các dịch vụ giúp người tham gia thị trường tránh rủi ro tiền tệ, rủi ro

basic. Cả ba Sở giao dịch hàng hóa đều cung cấp các giao dịch quốc tế và giao dịch

khu vực. Thứ hai, các Sở giao dịch này có rất nhiều hợp đồng có tính thanh khoản

hơn bất kỳ các sàn trên thế giới, nhờ việc trang bị hệ thống kỹ thuật hiện đại cho

phép tích hợp các hợp đồng mới và hệ thống trao đổi và bù trừ với chi phí thấp.

Ngoài ra, Ấn độ có lợi thế về chi phí nhân công tương đối rẻ so với các nước phát

136

triển và có nền tảng giáo dục rất tốt, điều đó cho phép các sàn có điều kiện thuê số

lượng lớn nhân công, đội ngũ quản lý, nghiên cứu giỏi để hỗ trợ sàn phát triển. Bên

cạnh đó, phải kể đến hàng loạt các nhân tố như: Địa điểm giao hàng tối ưu; các

thông số kỹ thuật chất lượng phù hợp; quá trình cấp chứng chỉ nhanh chóng, chính

xác; chất lượng, độ tín nhiệm của kho hàng cao; quy tắc, điều lệ thích hợp.

Mặc dù thị trường hàng hóa giao sau phát triển, nhưng vẫn còn một số hạn chế

như có quá ít nông dân tham gia thị trường do bị một số rào cản từ các quy tắc hạn

chế. Tuy có sự đầu tư lớn cho việc phát hành các hóa đơn kho hàng điện tử nhưng

các hóa đơn này vẫn chưa được giao dịch, do sự ra đời chậm trễ của hệ thống luật.

Chính điều này đã hạn chế sự đầu tư vào hệ thống kho bãi, các dòng vốn tín dụng

cho khu vực nông thôn.

3.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam:

Thực trạng các sàn hàng hóa Ấn Độ mặc dù được đầu tư với hệ thống công

nghệ kỹ thuật cao, hiện đại, đội ngũ nhân sự được đào tạo một cách bài bản, nhiều

kinh nghiệm thế nhưng vẫn chưa thu hút được sự hưởng ứng nhiệt tình từ phía

người nông dân. Đó có lẽ là do yếu kém trong khâu tiếp cận các sàn giao dịch hàng

hóa cho các tầng lớp trong xã hội. Vậy chính sách đặt ra cho sàn Việt Nam là nên

có các chương trình tiếp cận thị trường mở rộng đến hầu hết đối tượng như: những

người muốn phòng ngừa rủi ro, nhà đầu cơ để kích thích giao dịch sàn hàng hóa

trong nước. Việc tiếp cận có hạn chế sẽ mang ảnh hưởng đến sự vận hành thông

suốt của thị trường do thiếu tính đa dạng trong các thành viên tham gia và thiếu tính

thanh khoản. Các cơ quan nên có các chính sách đào tạo và nâng cao kiến thức cho

người nông dân, các hợp tác xã, các hiệp hội nông nghiệp bởi vì khái niệm quản trị

rủi ro về giá, quyền chọn, giao sau... là những khái niệm tương đối xa vời đối với

họ. Cụ thể là việc người nông dân hiểu được sự khác biệt giữa đầu cơ và phòng

ngừa rủi ro là rất quan trọng vì trong thực tế, người nông dân rất dễ bị cám dỗ từ lợi

ích của đầu cơ nhưng điều này có thể sẽ phải trả một giá rất đắt.

137

Tóm lại, thông qua những kinh nghiệm từ Trung Quốc, Malaysia và Ấn Độ,

tác giả có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm khi xây dựng Sở giao dịch hàng hóa

tại Việt Nam, cụ thể như sau:

Thứ nhất, Sở giao dịch hàng hóa không phải ra đời là thành công ngay lập

tức. Các nhà đầu tư tài chính thuần túy và các nhà sản xuất có nhu cầu bảo hộ giá

cần một thời gian dài để làm quen và học hỏi. Sự quan tâm của công chúng đối với

Sở giao dịch hàng hóa chỉ đến sau một giai đoạn bền bỉ tuyên truyền, giáo dục và bổ

trợ kiến thức cho các nhà đầu tư. Chỉ đến khi Sở giao dịch hàng hóa thu hút được

nhiều nhóm nhà đầu tư thì tính thanh khoản mới cao và Sở giao dịch mới thành

công.

Thứ hai, sự hỗ trợ của Nhà nước là mang tính sống còn đối với sự thành

công của các Sở giao dịch hàng hóa. Nhà nước xây dựng khuôn khổ pháp lý giúp

các Sở giao dịch hàng hóa xây dựng tổ chức và có cơ chế quản lý giao dịch giao sau

chặt chẽ tạo niềm tin cho các nhà đầu tư tham gia giao dịch.

Thứ ba, Sở giao dịch hàng hóa nên đặt gần các vùng trọng điểm về nguyên

liệu trọng điểm. Vị trí địa lý thuận lợi, chuyển giao hàng nhanh gọn là điều kiện tiên

quyết tạo nên sự thành công.

Thứ tư, nên chuyên biệt các sản phẩm có thế mạnh tại Sở giao dịch hàng hóa

để tránh chồng chéo, cạnh tranh nội bộ, lãng phí nguồn lực.

Thứ năm, chuẩn bị các điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động của Sở giao

dịch hàng hóa.