Phù hiệu ngôn ngữ

1. Các đặc điểm của tín hiệu

Trong quan niệm của kí hiệu học hiện đại, ngôn ngữ được coi là một dạng điển

hình của các loại kí hiệu mang màu sắc biểu trưng. Đó chính là một hệ thống các

phù hiệu (symbols), bởi vì tương ứng với một cái biểu hiện cụ thể bao giờ cũng có

một cái được biểu hiện đi kèm. Xét theo nguồn gốc và bản chất của ngôn ngữ với

tư cách là một hiện tượng của hành vi con người thì ngôn ngữ mang tính cụ tượng,

vì có thể tìm ra được các lí do khác nhau cho mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái

được biểu hiện trong một hệ thống ngôn ngữ. Tuy nhiên, nếu xét trong bình diện

sử dụng thì người ta không quan tâm nhiều lắm đến bản chất có lí do của mối quan

hệ này mà chỉ quan tâm đến các giá trị (giá trị xã hội) trong khi sử dụng của hệ

thống kí hiệu này mà thôi. Trong diện đồng đại của vấn đề, người ta có thể trừu

tượng hoá tính cụ tượng của ngôn ngữ và thay vào đó là tính biểu trưng hay tính

phù hiệu của mỗi một yếu tố của hệ thống ngôn ngữ.

Quan điểm trên đây là của kí hiệu học hiện đại trong việc giải thích bản chất và

cơ chế của ngôn ngữ với tư cách là một hệ thống kí hiệu phục vụ cho hoạt động

giao tiếp của cộng đồng. Theo quan điểm của Chomsky [?], ngôn ngữ được hiểu là

một phương tiện bao gồm các đặc tính quan trọng sau đây:

- Ngôn ngữ là võ đoán

- Ngôn ngữ là sóng đôi (duality)

- Ngôn ngữ là mang tính phân lập

- Ngôn ngữ là một phương tiện có chức năng năng sản (productivity)

1.1. Tính võ đoán

Tính võ đoán là sự tách rời thành một mối liên hệ trừu tượng và không được cụ thể

hoá giữa mặt biểu hiện và mặt được biểu hiện.

Ví dụ: Giữa trường nghĩa (hệ thống ngữ nghĩa) của từ "NHÀ" với chính cấu

trúc âm thanh của từ "NHÀ" (bao gồm phụ âm đầu [ -]; âm chính [-a-] và thanh

huyền) hầu như không có một quan hệ có thể giải thích hay nói một cách khác là

chúng không có liên hệ gì với nhau).

Vì hiện thực của đời sống là đa dạng và vô cùng phong phú nên mối liên hệ

giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện ở các từ và các yếu tố ngôn ngữ khác cần

thiết phải được trừu tượng hoá đến mức là võ đoán. Chính nhờ tính võ đoán này

mà các kí hiệu ngôn ngữ có thể được sắp xếp theo các trục dọc (hệ hình) khác

nhau của hình thức để tạo nên tính hệ thống của ngôn ngữ. Cũng nhờ tính võ đoán

mà ngôn ngữ có tính hình thức.

1.2. Tính sóng đôi (thể đôi)

Đây là một đặc trưng rất quan trọng của ngôn ngữ. Trong một hệ thống ngôn ngữ

thường song hành hai cấp độ mà đơn vị của cấp độ cơ sở lại trở thành thành tố cho

cấp độ bên trên nó. Sự chồng xếp liên tục của các thể đôi như vậy trong cấu trúc

tạo nên cấu trúc riêng của ngôn ngữ so với các hệ thống kí hiệu phi ngôn ngữ.

Ví dụ:

Hình thái học: ba - cấu trúc thành tố: hình vị "ba"

+ Sóng đôi

Âm vị học: [b] [a] - đơn vị

Phụ âm đầu: [b]

→ Tiết vị

Vần: [a]

Từ: "bà ba" - Thành tố

+ Sóng đôi

Hình vị: {ba} - Đơn vị: hình vị (tiết vị)

Thành tố 1: bà

→ "bà ba"

Thành tố 2: ba

- Thành tố cú Áo bà ba rách rồi pháp

+ Sóng

đôi Câu Vá áo bà ba rách

Từ/ngữ: "bà ba", "áo", "rách" - Đơn vị: từ (ngữ)

...

Thành tố thuộc đơn vị ngôn bản

Cú pháp học Thành tố thuộc đơn vị cú pháp học ↑

=> Ngữ pháp học

Hình thái học Thành tố thuộc đơn vị hình thái học ↑

Âm vị học Đơn vị ↑

1.3. Tính phân lập

Một đặc trưng nữa của ngôn ngữ là tính phân lập về biểu hiện, khác với tiếng kêu

của loài vật, thông điệp của con người vừa là tiếng nói của cảm xúc, vừa là các

thông tin trí tuệ. Bản thân các thông tin trí tuệ đòi hỏi phải có sự phân lập thành

các mảng khác nhau của thế giới khách quan. Những mảng này cần các từ riêng rẽ,

cách biệt hẳn nhau để kí hiệu chúng. Từng mảng rời của ngôn ngữ như vậy được

chắp lại theo một nguyên tắc nhất định tạo nên các thông điệp mà chúng ta gọi là

các phát ngôn. Mỗi một phát ngôn bao giờ cũng có một số lượng hữu hạn (về mặt

hình thức) các thành tố cấu tạo nên phát ngôn. Ví dụ như các thành tố tạo nên chủ

ngữ, vị ngữ hoặc phần đề, phần thuyết. Ranh giới giữa các thành tố này bao giờ

cũng được biểu hiện rõ ràng trong ngữ lưu. Ví dụ: Chỗ ngừng, trọng âm câu, chỗ

lên và xuống của ngữ điệu hoặc bằng hư từ "thì" trong tiếng Việt.