intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phương thức lãnh đạo của Đảng theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

Chia sẻ: Đặng Văn Phúc | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:15

203
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu trình bày khái niệm lãnh đạo và phương thức lãnh đạo của Đảng, phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phương thức lãnh đạo của Đảng theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

  1. Đề 2 Câu 2: Đồng chí hãy trình bày Tư  tưởng Hồ  Chí Minh về  phương   thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền. Liên hệ  vấn đề  đó ở  địa   phương, đơn vị đồng chí. Đề 4  Câu 1: Đồng chí hãy phân tích Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương  thức lãnh đạo của đảng cộng sản cầm quyền. Ý nghĩa  của vấn đề này  trong công tác xây dựng Đảng  hiện nay. 1. Khái niệm lãnh đạo và phương thức lãnh đạo của Đảng Lãnh đạo là khái niệm chỉ mối quan hệ giữa một chủ thể nhất định, gọi   là chủ thể lãnh đạo, đối với chủ thể khác, gọi là chủ thể bị lãnh đạo hay đối   tượng của lãnh đạo, trong đó chủ thể lãnh đạo có khả năng tác động vào đối   tượng lãnh đạo, làm cho đối tượng thực hiện theo ý muốn của chủ  thể  lãnh  đạo, từ đó chủ thể lãnh đạo đạt được mục tiêu nhất định. Lãnh đạo bao gồm các thành tố. ­ Chủ thể lãnh đạo. ­ Đối tượng của lãnh đạo hay chủ thể bị lãnh đạo. ­ Mục tiêu và nội dung lãnh đạo. ­ Phương thức lãnh đạo. Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992  ghi: "Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt   Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao  động và của cả  dân tộc, theo chủ  nghĩa Mác ­ Lênin và tư  tưởng Hồ  Chí  Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội".  Ở đây, Đảng là chủ thể lãnh đạo; đối tượng lãnh đạo của Đảng là Nhà  nước và xã hội; mục tiêu cao nhất sự lãnh đạo của Đảng là chủ nghĩa xã hội  và chủ nghĩa cộng sản  ở Việt Nam, đồng thời với nhiều mục tiêu trung gian   trên con đường đi lên chủ  nghĩa xã hội và các mục tiêu cụ  thể  trên các lĩnh  vực kinh tế ­ xã hội...; nội dung lãnh đạo của Đảng là các nhiệm vụ, các vấn  đề kinh tế ­ xã hội; phương thức lãnh đạo của Đảng là các công cụ, phương   tiện, cách thức... mà Đảng sử dụng để tác động vào Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng các phương thức sau: ­   Đảng  đề   ra  Cương   lĩnh,   đường   lối,   quan  điểm,   chủ   trương,   nghị  quyết, chỉ thị, chiến lược, kế hoạch về các vấn đề kinh tế, xã hội... Căn cứ  vào các văn kiện, chủ  trương, quan điểm... của Đảng, các tổ  chức đảng, các tổ chức nhà nước và xã hội có trách nhiệm thể chế hóa và tổ  chức thực hiện theo quy định của Điều 4 Hiến pháp. ­ Đảng lãnh đạo thông qua công tác tổ chức, cán bộ và đội ngũ cán bộ,   đảng viên.
  2. Đảng tổ chức ra các tổ chức chính trị, xã hội để tác động vào Nhà nước   và xã hội; đề cử các cán bộ, đảng viên ưu tú vào bộ máy nhà nước, vào các tổ  chức chính trị, xã hội; thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên để  thực hiện các  mục tiêu của mình. ­ Đảng lãnh đạo xã hội bằng công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết  phục và vận động nhân dân. Đảng lãnh đạo bằng sự nêu gương, làm gương,  đi đầu trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế ­ xã hội... Trải qua hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng, từ lãnh đạo cách mạng trong  điều kiện chưa có chính quyền đến khi trở  thành Đảng cầm quyền; từ  cầm  quyền khi có nhiều đảng phái đến khi trở  thành một đảng duy nhất cầm   quyền; từ cầm quyền một nửa nước đến cầm quyền trong cả  nước; từ lãnh  đạo chiến tranh là chủ  yếu đến lãnh đạo xây dựng đất nước trong hòa bình,  trong mỗi thời kỳ của cách mạng đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng phải thay đổi   cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, của tình hình trong nước   và ngoài nước. Điều này đã được thể  hiện trong suốt chiều dài lịch sử, qua   các giai đoạn, thời kỳ Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.  2. Phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền theo tư  tưởng Hồ  Chí  Minh Theo Hồ Chí Minh, đảng cầm quyền là khẳng định bước ngoặt vĩ đại  đánh dấu sự  chuyển biến về  chất trong vị  thế  của  Đảng ta. Hồ  Chí Minh  quan niệm, phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền đúng đắn có nghĩa là:  Phải quyết định mọi vấn đề  cho đúng; phải tổ  chức thi hành cho đúng; phải  thực hiện mối liên hệ  mật thiết với nhân dân, bảo đảm quyền làm chủ  của  nhân dân; phải chọn người và thay thế  người cho đúng. Tư  tưởng Hồ  Chí  Minh về phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền gồm những nội dung cơ  bản sau: Một là, phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền là quyết định vấn   đề cho đúng Thứ  nhất: Đảng cầm quyền phải xây dựng đường lối chính trị  đúng  đắn. Đường lối chính trị  đúng đắn là một vấn đề  cốt lõi, sợi chỉ  đỏ  xuyên  suốt trong sự tồn tại và phát triển của Đảng. Có đường lối chính trị đúng đắn   mới làm cho nhân dân giác ngộ  về mục tiêu đấu tranh, mới hiểu rõ tình hình  cách mạng và mới ý thức rõ được những việc nên làm. Vì thế, việc xây dựng   đường lối chính trị trở thành một trong những vấn đề  cực kỳ quan trọng của   Đảng ta. Theo Hồ  Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện vai trò lãnh  đạo chính trị của mình chủ yếu bằng việc đề ra cương lĩnh, đường lối chiến  lược, sách lược của cách mạng. Nếu đường lối chính trị  không đúng đắn sẽ  là sai lầm nghiêm trọng nhất của Đảng đối với toàn xã hội, với vận mệnh   của Tổ  quốc và sinh mạng chính trị  của hàng triệu đảng viên cũng như  toàn  thể  dân tộc. Có đường lối chính trị  đúng đắn làm cho phong trào cách mạng  của quần chúng nhân dân trở  thành hành động tự giác. Ngược lại, đường lối 
  3. chính trị không đúng đắn thì phong trào quần chúng không thoát ra khỏi phong   trào tự phát, những cuộc đấu tranh tự phát của quần chúng nhân dân thường   không có mục đích rõ ràng, kế  hoạch đầy đủ, tổ  chức chắc chắn, dẫn đến  tập hợp lực lượng rời  rạc,  địa phương này phong trào lên cao nhưng  địa  phương khác lại thoái trào và cuối cùng bị  thất bại. Thực tiễn kinh nghiệm  phong trào cộng sản, công nhân thế  giới và trong nước đã minh chứng điều  đó. Hồ  Chí Minh với nhiều năm trên cương vị  vừa là lãnh tụ  của Đảng,  vừa là người lãnh đạo cao nhất của Nhà nước, luôn coi trọng xây dựng đường  lối chính trị. Người chỉ rõ: "Phải có đường lối cách mạng đúng, có đảng của  giai cấp vô sản lãnh đạo đúng. Đường lối ấy chỉ có thể là đường lối của chủ  nghĩa Mác ­ Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ  thể  của dân tộc. Ở Việt Nam, đường lối ấy chỉ có thể là đường lối của giai cấp  vô sản và đảng của nó là Đảng Lao động Việt Nam. Đảng phải thực sự là đội  tiên phong dũng cảm và bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp vô sản, của nhân  dân   lao   động   và   của   cả   dân   tộc".  Theo Hồ Chí Minh, Đảng muốn xây dựng đường lối chính trị đúng đắn, phải   dựa trên lý luận chủ nghĩa Mác ­ Lênin và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ   nghĩa Mác ­ Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta trong từng thời kỳ cách   mạng. Sáng tạo, theo Hồ  Chí Minh, đó là yêu cầu quan trọng hàng đầu của   các Đảng Cộng sản trong việc áp dụng học thuyết Mác ­ Lênin vào hoàn   cảnh cụ thể của dân tộc mình để xây dựng đường lối chính trị. Để sáng tạo,   bổ  sung và phát triển chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, trước hết phải nắm vững chủ   nghĩa Mác ­ Lênin, coi đó là gốc, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành   động. Việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác ­ Lênin vào xây dựng đường lối   chính trị, một vấn đề đặt ra là cần kết hợp với việc tiếp thu kinh nghiệm của   Đảng Cộng sản anh em. Vì vậy, Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng đến tiếp thu   "kinh nghiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng chúng ta cũng không thể   áp dụng những kinh nghiệm  ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có những   đặc điểm riêng của ta"2. Chủ  nghĩa Mác ­ Lênin mà Hồ  Chí Minh lưu ý, đó là chủ  nghĩa Mác ­   Lênin được vận dụng sáng tạo, không được phép giáo điều. Nếu biến chủ   nghĩa Mác ­ Lênin thành công thức cứng đờ thì đường lối chính trị của Đảng   chỉ là sự sao chép, rập khuôn, không chứa đựng khả năng thực thi trong thực   tế cuộc sống. Xây dựng đường lối chính trị đúng đắn theo Hồ Chí Minh còn phải tính   đến những điều kiện cụ  thể của đất nước và xu thế  phát triển của thời đại   trong từng giai đoạn hoặc cả  một thời kỳ  dài. Hồ  Chí Minh chỉ  rõ: "Không   chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của   các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ  nghĩa giáo điều"3.   Khi học tập lý luận Mác ­ Lênin phải gắn với tình hình thực tiễn của đất   nước. Thực tiễn của cách mạng trong từng thời kỳ  trở  thành căn cứ  cực kỳ  
  4. quan trọng để Đảng ta hoạch định đường lối, chủ trương. Chính những vấn   đề thực tiễn đến lượt nó lại bổ sung cho những vấn đề  lý luận Mác ­ Lênin.   Hồ Chí Minh cho rằng: "Lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy   tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận   mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động"4. Trong khi vận dụng chủ  nghĩa Mác ­ Lênin cần phải chú ý phải bổ   sung, phát triển và làm phong phú thêm lý luận đó bằng những kết luận mới   rút ra từ trong thực tiễn cách mạng nước ta. Hồ Chí Minh cho rằng: "Thống   nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác   ­ Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng.   Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông"5. Thứ  hai: Quyết định vấn đề  cho đúng đắn, đảng cầm quyền phải có  phương pháp, cách thức lãnh đạo.  Đảng cầm quyền khi đã có cương lĩnh, đường lối đúng đắn thì Đảng  còn phải có kinh nghiệm, đồng thời kết hợp với kinh nghiệm của quần chúng  nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng, lãnh đạo phải biết lắng nghe, biết gom góp,  so sánh ý kiến của quần chúng, ý kiến của “những người không quan trọng”,  để  làm người hướng dẫn, lãnh đạo nhân dân. Theo Người, trước hết phải   học hỏi nhân dân, phải là học trò của nhân dân. Điều này hoàn toàn phù hợp  với tư tưởng của V.I. Lênin cho rằng: Nhân dân có thể giải quyết nhiều vấn   đề phức tạp mà một đảng ưu tú cũng chưa giải quyết được; để  làm lãnh tụ,   làm thầy quần chúng, V.I. Lênin đòi hỏi người Cộng sản phải biết khiêm tốn   học hỏi quần chúng. Còn Hồ  Chí  Minh quan niệm: “Dân chúng biết giải  quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người   tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”6. Tổ chức đảng, đảng viên  không phải là “bách khoa toàn thư”, nên khi tìm kiếm đường lối, quyết định  vấn đề luôn luôn phải hỏi ý kiến của dân. Sau khi giành được chính quyền, chuẩn bị  bước vào giai đoạn kiến   quốc, Đảng và Chính phủ  chưa có kinh nghiệm, Hồ  Chí Minh đã viết bài   “Nhân tài và kiến quốc”, đăng trên báo đề nghị nhân dân đưa sáng kiến và kế   hoạch xây dựng và phát triển đất nước. Đây là một việc làm độc đáo, mới mẻ   của Hồ Chí Minh nhằm kêu gọi người có đức, có tài ra giúp nước. Trong lãnh   đạo, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải thực hiện “liên hiệp người lãnh đạo với quần   chúng”, lãnh đạo không phải ngồi trong phòng kín để viết khẩu hiệu, chỉ thị,   suy nghĩ từ đầu óc, ý muốn chủ quan của mình rồi buộc vào cổ dân mà phải   lắng nghe ý kiến của quần chúng, so sánh phân tích, sắp đặt thành hệ  thống   rồi giải thích cho dân chúng, đó là cách lãnh đạo cực kỳ tốt. Hồ Chí Minh còn   nêu ra cách lãnh đạo “liên hợp chính sách chung với chỉ  đạo riêng”. Tinh   thần cơ bản là người lãnh đạo là phải nắm đường lối, phương hướng chung   để chỉ đạo cụ thể và cũng thông qua chỉ đạo cụ thể mà kiểm tra cương lĩnh,   đường lối, chính sách đúng hay sai. Người coi đó là một cách vừa lãnh đạo,   vừa học tập mà bất kỳ  người lãnh đạo nào, nếu không học tập nổi những  
  5. việc thiết thực, những người thiết thực và những bộ phận thiết thực của cấp   dưới để  rút kinh nghiệm, thì nhất định không biết chỉ  đạo chung cho tất cả   các bộ phận. Hồ  Chí Minh còn nêu ra cách lãnh đạo từ  dưới lên mà không phải từ   trên dội xuống. Người cho rằng, không chỉ  trên nhìn thấy vấn đề  mà ở  dưới   cũng nhìn rõ vấn đề. Có thể  trên nhìn thấy rộng, nhìn thấy dài, nhưng dưới   thì nhìn thấy cụ  thể, thấy sâu sắc, là nơi trực tiếp, tiếp xúc với mọi hoạt   động của thực tiễn cuộc sống. Người nói: “Dân chúng là người chịu sự lãnh   đạo của ta”, cho nên muốn quyết định vấn đề  cho đúng không chỉ  cần lý   luận, kinh nghiệm chung mà phải kết hợp kinh nghiệm của địa phương, của   đơn vị, phải chịu sự  kiểm soát của dân chúng. Năm 1960, khi về  thăm tỉnh   Ninh Bình, thấy chỉ  tiêu kế  hoạch kinh tế  không đạt, Người chỉ  ra nguyên   nhân do từ  trên dội xuống, mà không từ  dưới đề  xuất lên. Bám sát quần   chúng, bám sát thực tiễn, học hỏi quần chúng đề ra các quyết định lãnh đạo   đó là ý thức, tư tưởng của Hồ Chí Minh và cũng là hoạt động thực tiễn cách   mạng của Người. Để quyết định vấn đề cho đúng, Hồ Chí Minh còn chỉ ra phải “tìm việc   chính, việc gấp thì làm trước”. Trong cả  nước, một  địa phương, một cơ   quan, đơn vị  lúc này thì vấn đề  này nổi lên, lúc khác thì vấn đề  khác nổi lên   cần phải tìm ra và phải quyết định, khi đã quyết định thì phải thực hành triệt   để. Ra quyết định lãnh đạo cần phải chống dập khuôn, máy móc, giáo điều.   Hồ Chí Minh yêu cầu, một trong những nguyên tắc lãnh đạo là: Chớ khư khư   theo sáo cũ, luôn luôn phải theo tình hình thiết thực của dân chúng nơi đó và   lúc đó, theo trình độ  giác ngộ  của dân chúng, theo sự  tình nguyện của dân   chúng mà tổ chức họ. Để  quyết định vấn đề  cho đúng, Hồ  Chí Minh yêu cầu lãnh đạo phải   thường xuyên tổng kết thực tiễn, phải “nghiên cứu kinh nghiệm đến gốc”,   thực hiện một chủ trương gì dù thành công hay thất bại cũng tổ chức rút kinh   nghiệm, phải tìm ra nguyên nhân vì sao thắng lợi, vì sao thất bại, rút ra bài   học, đó là “chìa khóa” cho việc giải quyết thành công các vấn đề. Hai là, phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền là phải tổ chức thi   hành cho đúng Hồ Chí Minh cho rằng, khi có cương lĩnh, đường lối, chính sách đúng là  nguồn gốc của thắng lợi, song từ nguồn gốc đến thắng lợi thực sự còn phải   tổ  chức, phải đấu tranh. Do đó, lãnh đạo còn phải “tổ  chức thi hành cho   đúng”. Trong quan niệm của Người, lý luận có “sức mạnh định hướng”. Xuất   phát từ thực tiễn, bằng phương pháp luận khoa học với những phương thức   lãnh đạo đúng, Đảng ta và Hồ Chí Minh xác định được “đường đi”, “phương  hướng” của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ 1945 ­ 1954 là: Kháng chiến   thắng lợi, xây dựng dân chủ  mới, để  tiến lên chủ  nghĩa xã hội. “Phương   hướng đã định, ta nhằm vào phương hướng  ấy mà đi, thế  nào ta cũng đi tới  đích”7. Vấn đề  còn lại là tổ  chức thực hiện như thế  nào? Là bằng mọi cách  
  6. để  ai đi nhầm đường thì chúng ta giúp họ  đi vào con đường chính…Thấy  người khác đi xiên, đi sai, ta ra sức giúp họ đi theo đường thẳng, đường đúng. Quan điểm của Hồ  Chí Minh là lãnh đạo phải có kế  hoạch. Đối với  công việc “phải có kế  hoạch bước đầu làm thế  nào? Bước thứ  hai làm thế  nào?. Yêu cầu kế  hoạch phải thiết thực, phải làm được. Chớ  làm kế  hoạch   đẹp mặt, to tát, kể hàng triệu nhưng không thể thực hiện được. Có những kế  hoạch lớn như sau khi thắng lợi, Đảng phải có kế  hoạch phát triển kinh tế  ­  văn hóa, kế  hoạch phát triển 5 năm, 3 năm, hàng năm. Trung  ương họp bàn  thông qua, và có những kế  hoạch cụ  thể  để  thực hiện từng việc. Kế  hoạch  không được nhiều việc quá, chỉ  tiêu không cao quá và không sao chép lẫn  nhau, có như vậy mới thiết thực, không chủ quan. Có cương lĩnh, đường lối, có kế  hoạch, lãnh đạo cần phải truyền đạt   tới mọi đảng viên và biến quyết tâm của Đảng thành quyết tâm của quần   chúng. Sau khi có nghị  quyết, chúng ta cần phải tổ  chức việc phổ biến nghị   quyết trong Đảng, rồi phổ  biến những điểm cần thiết trong nhân dân.Việc   phổ  biến nghị  quyết này là một việc rất quan trọng. Trong nội bộ phải đấu   tranh tư tưởng, mới đi đến nhất trí được. Chúng ta phải hết sức kiên nhẫn để   đạt được sự  nhất trí trong Đảng. Nội bộ  có nhất trí thì nghị  quyết mới thực   hiện được. “Việc phổ biến một số quyết định ở trong các tầng lớp nhân dân   cũng sẽ gặp khó khăn. Chúng ta phải kiên quyết thuyết phục để tranh thủ sự   đồng tình nhất trí của nhân dân với nghị quyết của Đảng ta”8. Theo đó trong   Đảng phải phổ  biến toàn bộ  nghị  quyết, còn trong nhân dân thì chỉ  đạo của   Người là “phổ  biến những điểm cần thiết”. Về  hình thức phổ  biến thì tùy   điều kiện để  vận dụng nhưng cũng có thể  “khai hội giải thích”, “truyền   đơn”, “khẩu hiệu”, “ca kịch”… Khi phổ biến nghị quyết của Đảng, phải để   đảng viên, quần chúng thảo luận, tranh luận, không để tình trạng chỉ thị của   Trung ương, cán bộ chỉ đưa ra giảng như thầy giáo giảng bài, công nhân chỉ   ngồi nghe, ít đi sâu thảo luận. Phổ biến nghị quyết của Đảng trong nhân dân   phải nâng cao tính thuyết phục, giải thích, tránh gò ép, mệnh lệnh, cưỡng   bức.   Thuyết   phục   quần   chúng   bằng   lý   lẽ   nhưng   quan   trọng   hơn   là   nêu   gương. Từ  đặc điểm nước ta là một nước mà “một tấm gương sống có giá   trị  hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền” cho nên Người yêu cầu các tổ  chức   đảng và đảng viên phải gương mẫu, đảng viên phải đi trước để “làng nước   theo sau”, đảng viên nói thì phải làm. Đề  ra chính sách, vạch ra kế  hoạch,   đảng viên phải thi hành trước, phải thi hành đúng. Việc tuyên truyền giải   thích phải làm nhiều lần, đơn giản, thiết thực, nghe rồi làm được. Tốt nhất là   miệng nói tay làm, làm gương cho người khác bắt chước. Ba là, phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền phải thực hiện mối   liên hệ mật thiết với nhân dân, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân Nguyên lý này được quy định bởi vai trò và sức mạnh của chính nhân  dân. Trong chiều sâu tư  tưởng Hồ  Chí Minh, dân là gốc của nước, là nguồn  sức mạnh, là lực lượng to lớn của Đảng, của cách mạng. Trí tuệ và năng lực   sáng tạo của Đảng đều bắt nguồn từ  quần chúng nhân dân. Theo Hồ  Chí 
  7. Minh, trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế  giới mạnh bằng   sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Hồ Chí Minh khẳng định: "Bao nhiêu lợi ích   đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng   là trách nhiệm của dân. Sự  nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của   dân"9. Những quan niệm đó càng làm sâu sắc tình cảm của Hồ Chí Minh đối  với nhân dân, đối với dân tộc. Nó trở  thành tư  tưởng nền tảng chỉ  đạo mọi  hoạt động lãnh đạo cách mạng của Hồ  Chí Minh. Trong đó, Người đặc biệt   quan tâm, giáo dục, rèn luyện cho Đảng phải luôn giữ  vững, củng cố  và  không ngừng tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với dân được thể  hiện: Mọi hoạt động của Đảng đều nhằm phục vụ  nhân dân, phụng sự  Tổ  quốc, vì, cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc của nhân dân. Đảng thực sự tỏ rõ   là đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp, của nhân dân lao động và của  dân tộc. Muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải   hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh… Nói tóm lại, hết thảy  những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được  ta đặc biệt chú ý. Phải gần dân, tin dân, dựa vào dân, học hỏi dân. Mối liên  hệ mật thiết của Đảng với dân không chỉ thể hiện ở mục đích hoạt động của  Đảng. Nó còn được biểu hiện sinh động ở phương pháp, cách thức hoạt động   của Đảng trong quan hệ với dân, nhất là hoạt động của các cơ  sở  đảng, của  đội ngũ cán bộ, đảng viên tại cơ sở.  Hồ  Chí Minh chỉ  rõ: "Mỗi cán bộ  chính quyền và đoàn thể  cần phải:   luôn luôn gần gũi nhân dân. Ra sức nghe ngóng và hiểu biết nhân dân. Học   hỏi nhân dân. Lãnh đạo nhân dân bằng cách tuyên truyền, giải thích, cổ động   giáo dục, tổ  chức nhân dân, dựa vào nhân dân để  thực hiện nguyện vọng   chính đáng của nhân dân. Bốn điều  ấy phải đi song song với nhau. Vì không   gần gũi dân thì không hiểu biết dân. Không hiểu biết dân thì không học hỏi   được kinh nghiệm và sáng kiến của dân"10. Hồ  Chí Minh thường xuyên căn   dặn cán bộ, đảng viên, đối với dân phải tuyệt đối không được lên mặt "quan   cách mạng", "ra lệnh cho oai", phải "khiêm tốn, không được kiêu ngạo" … chỉ   có như  vậy mới đoàn kết, lãnh đạo được nhân dân thì Đảng mới được dân   tin, dân phục, dân yêu, mới làm tròn nhiệm vụ của người lãnh đạo. Cán bộ và   đảng viên phải thật sự trong sạch "cần, kiệm, liêm, chính" để cho dân tin, dân   phục, dân yêu. Phải hoan nghênh ý kiến phê bình của nhân dân, chân thành   tiếp thu phê bình và quyết tâm sửa chữa. Thực tế  cho thấy, nếu không chân   thành tiếp thu ý kiến phê bình của dân, không chịu sửa chữa sai lầm, khuyết   điểm thì sẽ đánh mất lòng tin của dân, dân sẽ ca thán thậm chí bất bình. Khi   ấy, Đảng sẽ trở nên xa lạ với dân và tất nhiên khó lãnh đạo được nhân dân. Bốn  là,  phương  thức  lãnh   đạo  của  Đảng  cầm  quyền  là  phải  chọn   người và thay người cho đúng Theo Hồ  Chí Minh, mọi việc thành bại của cách mạng đều liên quan  đến vấn đề  cán bộ. Vì, cán bộ  là cái gốc của mọi công việc và “Muôn việc  
  8. thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”11. Do vậy, đảng cầm  quyền phải lựa chọn, bố trí cán bộ. Lựa chọn, bố trí cán bộ được xem là một  khâu quan trọng trong toàn bộ chính sách cán bộ đối với đảng cầm quyền. Hồ  Chí Minh chỉ rõ: “Người nào có năng lực làm việc gì, thì đặt vào việc ấy. Nếu  dùng không đúng, người giỏi nghề  thợ  mộc thì giao cho việc thợ  rèn, người  giỏi nghề  rèn thì giao cho việc thợ  mộc, như  thế  thì hai người đều thất bại   cả hai”12. Trong việc sử dụng cán bộ, Hồ Chí Minh rất chú ý đến việc cất nhắc,   đề  bạt cán bộ  một cách đúng đắn. Cất nhắc, đề  bạt, theo quan điểm của   Người, là “vì công tác, vì tài năng” chứ  không thể  “vì lòng yêu ghét, vì thân   thích, vì nể nang”. Nếu làm như vậy thì “nhất định không ai phục, mà lại gây   nên mối lôi thôi trong Đảng”. Từ đó, Người đã đi đến kết luận: “Như thế là   có tội với Đảng, có tội với đồng bào”. Việc cất nhắc, đề bạt cán bộ ở những   cương vị  phụ  trách, lãnh đạo phải thận trọng chính xác, vì đối với những   người đó, phạm vi phụ  trách càng rộng, chức vị  càng cao, quyền hạn càng   lớn thì tác động ảnh hưởng càng nhiều. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã lưu ý:   “Nếu cất nhắc không cẩn thận, không khỏi người bô lô ba la, chỉ  nói mà   không biết làm vào những địa vị  lãnh đạo. Như  thế  thì rất có hại”. Để  sử   dụng cán bộ  được tốt, Đảng phải kiểm tra giúp đỡ  cán bộ  kịp thời. Làm tốt   thì biểu dương khen thưởng, làm dở  thì chỉ  bảo hướng dẫn, có khuyết điểm   thì nhắc nhở  phê bình, có sai lầm thì tùy mức độ  mà xử  phạt thích đáng. Hồ   Chí Minh chỉ rõ: “Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ. Nếu nhất luật không xử phạt   thì sẽ  mất cả kỷ  luật, thì sẽ  mở  đường cho bọn cố  ý phá hoại”13. Việc lựa   chọn, bố trí cán bộ không chỉ trong hệ thống tổ chức của Đảng mà cả  trong   hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đồng thời, Hồ Chí Minh luôn quan tâm giáo   dục nhắc nhở  cán bộ, đảng viên phải thật sự  thấm nhuần  đạo đức cách   mạng, thật sự  cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, chống cho được những   thói hư, tật xấu, sự  thoái hoá, biến chất trong điều kiện đảng cầm quyền.   Người luôn day dứt, trăn trở, thậm chí lo lắng trước các căn bệnh của chủ   nghĩa cá nhân, nhất là những bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu, có nguy cơ đưa   Đảng đến nguy cơ  thoái hoá, biến chất, căn bệnh này theo Hồ  Chí Minh là   "giặc nội xâm", là kẻ  thù nguy hiểm. Bởi vì, nó không mang gươm, súng mà   nó nằm ngay trong các tổ  chức của ta để  làm hỏng việc của ta. Người đã   cảnh báo căn bệnh này ngay từ khi đất nước ta còn rất nghèo, từ khi cán bộ   đang còn "ba cùng", đồng cam cộng khổ  với nhân dân. Với tầm nhìn xa về   tương lai, Hồ  Chí Minh sớm phát hiện thấy những thói hư, tật xấu đã nảy   sinh trong không ít cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền,   thấy rõ sự  cám dỗ  của quyền lực có thể  làm cho con người hư  hỏng, thoái   hóa, biến chất rất nhanh chóng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Người luôn nhắc nhở  cán bộ,   đảng viên và nhân dân phải rèn luyện đạo đức cách mạng: "Cần, kiệm, liêm,   chính" kiên quyết đấu tranh chống chủ  nghĩa cá nhân, gột rửa chủ  nghĩa cá   nhân. Bởi vì, chủ nghĩa cá nhân "nó là mẹ đẻ  ra tất cả mọi tính hư, nết xấu  
  9. như: Lười biếng, suy bì, kiêu căng, kèn cựa, nhút nhát, lãng phí, tham ô, nó là   kẻ  thù hung ác của đạo đức cách mạng, của chủ  nghĩa xã hội"14. Hồ  Chí   Minh đã dự  báo một nguy cơ  đó là chủ  nghĩa cá nhân không dừng  ở  một   người, một cá nhân mà có thể  lây lan biến chất tới cả  một tập thể, một tổ   chức. Để  khắc phục những căn bệnh  ấy, Người chỉ  rõ, phải thường xuyên   tiến hành tự phê bình và phê bình một cách chân thành, thẳng thắn; phải tăng   cường kiểm tra, kiểm soát; phải giữ gìn kỷ  luật của Đảng và pháp luật của   Nhà nước thật nghiêm minh. Đối với cán bộ, đảng viên, Người đòi hỏi phải   ra sức học tập, tu dưỡng đạo đức để nâng cao trình độ, phẩm chất, làm tròn   trách nhiệm là người lãnh đạo, để không biến “đầy tớ  của nhân dân” thành   “quan nhân dân”. Người chỉ  rõ: "Một dân tộc, một đảng và mỗi con người,   ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định ngày hôm nay và   ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ  không trong   sáng nữa, nếu sa vào chủ  nghĩa cá nhân"15. Thực tế  điều này đã xảy ra và   trở thành tai họa của nhiều Đảng Cộng sản ở nhiều quốc gia. Ngay  ở nước   ta cũng đã có không ít trường hợp kể cả  cá nhân và tập thể  đã rơi vào tình   trạng   này.  Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về  phương thức lãnh đạo của đảng cầm  quyền là một việc làm hết sức quan trọng và cấp thiết. Trong thời điểm hiện  nay lại càng quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết. Để  thực hiện tốt cuộc  vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng  phải thấm nhuần và quán triệt sâu sắc tư  tưởng Hồ  Chí Minh về  phương   thức lãnh đạo của đảng cầm quyền, nhằm xây dựng Đảng ta trong sạch,  vững mạnh 3. Kết quả đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng xác định một trong những nhiệm   vụ  quan trọng để  xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực  lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là đổi mới phương thức lãnh đạo của  Đảng, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền  của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Để  đổi mới phương thức lãnh đạo  của Đảng, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần thực hiện các nội dung sau:  Một là, cần sử dụng phương thức thuyết phục trong lãnh đạo của tập  thể đảng viên qua Đại hội Đảng, đặc biệt là Đại hội Đảng toàn quốc. Thông   qua Đại hội Đảng, chủ  trương, mục tiêu, phương pháp lãnh đạo được bàn  bạc, trao đổi, thảo luận và thống nhất. Sự  lãnh đạo của Đảng thể  hiện  ở  Cương lĩnh được vạch ra trong Đại hội Đảng toàn quốc. Theo Hồ Chí Minh,   "Đảng cương là văn kiện, nó quy định tính chất của Đảng, mục đích đấu  tranh và đường lối cách mạng của Đảng, phương pháp lãnh đạo cách mạng  của Đảng. Đảng cương là lý luận nền tảng, Đảng dùng để  lãnh đạo cách  mạng ". Phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua tính thuyết phục của   Cương lĩnh. Nghĩa là chủ  trương, mục tiêu mà Cương lĩnh đề  ra đúng đắn,  
  10. phù hợp với lòng dân thì mới thuyết phục được quần chúng nhân dân theo  Đảng. Như  vậy, Đảng phải dựa vào dân, xây dựng Cương lĩnh phải vì dân.  Người từng nói: "Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải   thích cho dân chúng…".   Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ  rõ: tiếp tục cụ  thể  hóa phương  thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất  nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)   ở các cấp bằng các quy chế, quy định, quy trình cụ thể. Quy định rõ hơn Đảng   phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân  dân về quyết định của mình; về quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu  và mối quan hệ giữa tập thể cấp  ủy, tổ chức đảng với người đứng đầu, bảo   đảm thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể  lãnh đạo, cá nhân phụ  trách…  Thứ hai, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là phải đổi mới cách  thức tuyên truyền, thuyết phục đối với quần chúng. Hồ  Chí Minh cho rằng:  lãnh đạo phải tuyên truyền, nhưng "khi tuyên truyền chính sách của Đảng, cán  bộ phải dùng cách thuyết phục chứ không được dùng mệnh lệnh". Để thuyết   phục được dân, cán bộ, đảng viên phải có phương thức "lãnh đạo khéo".  Nghĩa là phải biết kết hợp đạo đức với trình độ  chuyên môn của cá nhân để  giải quyết các vấn đề  đặt ra trong thực tiễn. "Lãnh đạo khéo" nghĩa là phải   thuyết phục được nhân dân thực hiện chủ trương đường lối của Đảng đề  ra,   là phải dân vận khéo, sử  dụng cán bộ  khéo và kiểm soát thực hiện các công   việc cho khéo. Trong buổi nói chuyện với đồng bào và cán bộ tỉnh Lạng Sơn,  Người nói: "Nếu lãnh đạo khéo thì việc gì khó khăn mấy và to lớn mấy, nhân   dân cũng làm được. Như cách mạng và kháng chiến là những việc rất to lớn,  khó khăn và gian khổ, nhưng nhờ Đảng khéo lãnh đạo cho nên nhân dân ta đã  thành công trong cuộc cách mạng Tháng Tám, thắng lợi trong cuộc kháng  chiến trường kỳ". Cán bộ, đảng viên muốn "lãnh đạo khéo" phải tự  học tập   và rèn luyện, phải khiêm tốn, chân thực và có phương pháp lãnh đạo khoa  học, không giấu khuyết điểm và phải tôn trọng sự  thực. Người cho rằng   trong tuyên truyền, cán bộ, đảng viên phải chú ý tôn trọng sự thực. Có nói sự  thực thì việc tuyên truyền của mình mới có nhiều người nghe.  Vận dụng tư  tưởng Hồ  Chí Minh, Đại hội XII của Đảng nêu rõ: Coi   trọng văn hóa trong các tổ  chức đảng, cơ  quan Nhà nước, trong hệ  thống  chính trị mà nội dung quan trọng là tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư  tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đổi mới phong cách, phương pháp,  lề  lối làm việc của các cơ  quan lãnh đạo của Đảng; xây dựng phương pháp   làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, gần dân, trọng dân, vì dân. Tăng cường   rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ  nghĩa cá nhân, cơ  hội,  thực dụng. Thứ  ba, phải thực hiện nghiêm túc phương pháp dân chủ  trong lãnh   đạo. Trong tác phẩm "Sửa đổi lề lối làm việc", Bác cho rằng: dân chủ  được 
  11. hiểu là mọi người dân đều có chủ  quyền (chủ quyền nhân dân) và thực hiện  chủ quyền đó trong khuôn khổ của pháp luật. Tức là trong thực hiện các mục   tiêu của xã hội dân chủ, dân chủ phải gắn với pháp luật. Thực hành dân chủ,   mỗi cán bộ đảng viên phải "nói đi đôi với làm", nói ít làm nhiều, lắng nghe ý   kiến của nhân dân… Thực hành dân chủ, thực thi pháp luật phải gắn với Nhà   nước pháp  quyền. Hồ  Chí  Minh viết: "Chẳng những phải lãnh  đạo quần  chúng, mà lại phải học hỏi quần chúng", nghĩa là: người lãnh đạo phải hiểu  thấu dân, không kiêu ngạo. Hiểu biết và kinh nghiệm của người lãnh đạo   chưa đủ để có sự lãnh đạo đúng đắn, vì vậy phải học hỏi kinh nghiệm từ dân  chúng, đảng viên, phải liện hệ  mật thiết với quần chúng nhân dân, dân chủ  trong làm việc với dân chúng. Theo Người, lãnh đạo cần dân chủ, tức là phải  biết kết hợp giữa sử dụng pháp luật và sự  thuyết phục của cá nhân, tổ  chức  của mình.  Trong điều kiện  ở  nước ta hiện nay, đổi mới phương thức lãnh đạo  cần thiết phải phát huy dân chủ  xã hội chủ  nghĩa một cách thực chất, chống   dân chủ  hình thức, độc đoán, chuyên quyền, quan liêu mệnh lệnh, xa dân, xa   rời thực tế. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần chủ động xây dựng cơ chế và   tổ chức tốt việc phản biện xã hội, thực hiện tốt phương châm "dân biết, dân  bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát". Đổi mới phương thưc lãnh đạo của Đảng, cần tiếp tục đổi mới, nâng  cao chất lượng việc xây dựng, ban hành Nghị  quyết của Đảng, luật pháp,  chính sách của Nhà nước. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng, khắc  phục những thủ  tục rườm rà, bất hợp lý, giảm bớt giấy tờ, giảm mạnh hội   họp. Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về  Đảng cầm quyền,  xác định rõ mục đích, phương thức cầm quyền, nội dung,  điều kiện cầm  quyền. Phát huy dân chủ, phòng ngừa các nguy cơ, đặc biệt suy thoái phẩm   chất chính trị  và đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Đây là nhiệm vụ,  giải pháp mới được thể hiện trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng. 4. TT­Huế đổi mới phương thức lãnh đạo Mục tiêu nhiệm kỳ  2015­2020 được Đại hội Đại biểu Đảng bộ  tỉnh  Thừa Thiên ­ Huế lần thứ XV đề ra là: Tăng cường xây dựng Đảng bộ trong   sạch, vững mạnh; xây dựng hệ  thống chính trị  vững mạnh; phát huy sức   mạnh toàn dân; huy động và sử  dụng có hiệu quả  các nguồn lực, phát triển  kinh tế  ­ xã hội nhanh và bền vững. Phấn đấu xây dựng Thừa Thiên­Huế  thành thành phố trực thuộc Trung ương theo hướng “di sản, văn hóa, sinh thái,  cảnh quan, thân thiện với môi trường”; đến năm 2020 xứng tầm là một trong   những trung tâm văn hóa ­ du lịch, y tế  chuyên sâu, giáo dục ­ đào tạo, khoa  học ­ công nghệ  của cả  nước và khu vực; quốc phòng, an ninh được tăng   cường, chính trị  ­ xã hội  ổn định, vững chắc; nâng cao đời sống vật chất và   tinh thần của nhân dân.
  12. Đại hội xác định trong nhiệm kỳ  2015­2020, tỉnh Thừa Thiên ­ Huế  phấn đấu 100% tổ dân phố, thôn, bản có tổ chức Đảng, đảng viên; bình quân   hàng năm kết nạp hơn 2.000 đảng viên; phấn đấu không có tổ  chức cơ  sở  Đảng yếu kém. Tỉnh tập trung thực hiện các chương trình trọng điểm về phát   triển du lịch ­ dịch vụ; hạ tầng kinh tế ­ kỹ thuật và phát triển công nghiệp;  chương trình xây dựng nông thôn mới và chương trình phát triển nguồn nhân   lực. Tỉnh Thừa Thiên ­ Huế phấn đấu đạt tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP)  tăng bình quân trên 9%/năm; GRDP bình quân đầu người đạt từ 3.400 ­ 3.700  USD; tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng bình quân từ 15% ­ 20%/năm; thu ngân   sách Nhà nước tăng bình quân từ  10% ­ 12%/năm; tỷ  lệ  đô thị  hóa từ  60% ­   65%; mỗi năm giải quyết việc làm mới từ 15.000 ­ 17.000 lao động/năm, trong  đó lao động qua đào tạo đạt 65% ­ 70%; tỷ  lệ  hộ  nghèo giảm bình quân từ  1,5% ­ 2%/năm; số xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt từ 50% ­ 60%... Tỉnh tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của cấp ủy các  cấp đối với hệ  thống chính trị  từ  tỉnh đến cơ  sở; khắc phục triệt để  tình  trạng đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý  nhà nước; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; tôn trọng các   nguyên tắc hiệp thương dân chủ; phát huy vai trò phản biện xã hội và tham  gia giám sát của Mặt trận Tổ  quốc, các tổ  chức chính trị  ­ xã hội. Tỉnh đổi  mới cách ra nghị quyết, tập trung lãnh đạo, chỉ  đạo tổ  chức thực hiện, kiểm   tra, sơ  kết, tổng kết việc thực hiện nghị  quyết của  Đảng; đổi mới phong  cách, lề lối làm việc của các cấp ủy, các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ  tỉnh  đến cơ sở theo hướng khoa học, dân chủ, gần dân, sâu sát thực tế, nói đi đôi   với làm; đẩy mạnh cải cách thủ  tục hành chính và xây dựng văn hóa trong  Đảng, khắc phục tình trạng rườm rà, bất hợp lý về thủ tục, giảm bớt giấy tờ,  hội họp. Trong nhiệm kỳ, Thừa Thiên ­ Huế  tiếp tục tập trung xây dựng Đảng  bộ  trong sạch vững mạnh; nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng;   thực hiện Nghị  quyết Trung  ương 4 (khóa XI) “Một số  vấn đề  cấp bách về  xây dựng Đảng hiện nay” gắn với thực hiện Chỉ thị 03­CT/TW của Bộ Chính  trị  (khóa XI) về  “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương   đạo đức Hồ Chí Minh” nghiêm túc, trách nhiệm và đạt kết quả tích cực. Tỉnh quyết tâm tạo chuyển biến cơ bản về ý thức tu dưỡng, rèn luyện  phẩm chất đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên, chú trọng nâng  cao tinh thần trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, chỉ  đạo thực tiễn, tự  sửa chữa   khuyết điểm, tự điều chỉnh hành vi và các hoạt động trong công tác cũng như  trong cuộc sống. Kết quả, các tổ  chức đảng và đảng viên luôn nhận thức ngày càng sâu   sắc về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc đổi mới phương thức lãnh đạo của   Đảng. Từng cấp ủy đảng đã xác định rõ vai trò hạt nhân chính trị của mình, ra 
  13. sức nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ  chức cơ  sở  đảng.  Hoạt động cấp ủy luôn đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, từng bước  khắc phục những hạn chế, yếu kém; xây dựng nghị  quyết của chi bộ, đảng  bộ luôn bám sát với yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn  vị. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được tăng cường; phương thức   lãnh đạo của đảng đối với công tác cán bộ  được quan tâm đúng mức. Phong  cách, lề lối làm việc của các cấp ủy đảng đổi mới theo hướng khoa học, công  khai, dân chủ, sát cơ sở hơn; lãnh đạo cụ thể hóa chủ trương, đường lối của   Đảng thành luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước sát với tình hình thực   tế   địa   phương;   lãnh   đạo   đẩy   mạnh,   đổi   mới   công   tác   tuyên   truyền,   vận  động... Qua đó, tạo sự  đồng thuận cao trong nội bộ và toàn xã hội, đẩy mạnh  phong trào cách mạng, góp phần nâng cao hơn hiệu quả lãnh đạo của Đảng,  phát huy tốt hơn vai trò quản lý của Nhà nước theo quy định của pháp luật,   nâng cao hơn chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ  quốc và các đoàn thể,   đóng góp tích cực thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Bên cạnh  đó, tổ  chức đảng, tất cả  đảng viên trong hệ  thống chính trị  đều nêu cao tính   tiền phong, gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Từng cán bộ, đảng viên đã xây dựng phong cách làm việc khoa học,   khách quan, tôn trọng sự  thật, sâu sát cơ  sở, gần gũi với nhân dân. Thẳng  thắn, nghiêm túc trong thực hiện công tác tự phê bình và phê bình; qua đó, làm  cho đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn có ý thức chấp hành nghiêm tổ  chức kỷ  luật, thực hiện nói, viết và làm theo đường lối, chủ  trương của Đảng, chính  sách, pháp luật của Nhà nước; nói đi đôi với làm và làm việc có trách nhiệm,   hiệu quả cao. Ban Thường vụ  Tỉnh  ủy đã tập trung thực hiện việc đổi mới phương   thức lãnh đạo trong xây dựng và ban hành các nghị quyết của tỉnh  ủy với các  giải pháp cụ  thể, phù hợp với tình hình, đặc điểm của địa phương sát với   thực tế, tập trung vào những vấn đề  trọng tâm, trọng điểm, có tác dụng lớn,   đảm bảo tính khả  thi, đảm bảo các nghị  quyết đi vào cuộc sống. Song song  đó, rà soát lại chức năng, nhiệm vụ  của từng cơ  quan tham mưu giúp việc   Tỉnh  ủy và các cơ  quan đoàn thể  để  ban hành các quyết định về  chức năng,   nhiệm vụ của từng cơ quan. Quyết định phê duyệt quy chế làm việc của các  cơ  quan đảng, đoàn thể  tỉnh và ban hành quy định về  mối quan hệ  công tác  của các cơ  quan, đơn vị  trong tỉnh. Đồng thời, chỉ  đạo UBND tỉnh ban hành   quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ  của các cơ  quan trực thuộc. Tăng   cường phát triển nguồn nhân lực, thực hiện công tác luân chuyển cán bộ  từ  tỉnh về  cơ  sở  và ngược lại; từ  đó, đáp  ứng được yêu cầu công tác cán bộ  trong tình hình mới.
  14. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng   cho cán bộ, đảng viên; chủ động nắm bắt dư luận từ trong nội bộ đảng đến  nhân dân. Nhờ  đổi mới phong cách và lề  lối làm việc nên trong những năm  qua, chất lượng sinh hoạt của các tổ  chức đảng có nhiều chuyển biến tích  cực, thái độ, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong thực thi công vụ  được  nâng lên; lề lối, phong cách làm việc đổi mới, khoa học, luôn gần dân, sát dân,  trọng dân, sâu sát cơ sở, xử lý công việc khách quan, công khai minh bạch và   dân chủ. Những kết quả   đạt được trong đổi mới phương thức lãnh đạo của  Đảng đối với hoạt động của hệ  thống chính trị  đã góp phần nâng cao hiệu   quả  lãnh đạo của Đảng, phát huy cao vai trò quản lý nhà nước của các cơ  quan nhà nước theo quy định của pháp luật. Nâng cao chất lượng hoạt động  của MTTQ và các đoàn thể chính trị  xã hội thực hiện thắng lợi các mục tiêu  phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng Đảng, xây  dựng hệ thống chính trị của tỉnh đề ra hàng năm. Để  tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng tổ  chức bộ máy của hệ thống chính trị, bài học kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh là  cấp ủy các cấp, nhất là người đứng đầu cấp ủy phải nhận thức sâu sắc vị trí,  vai trò của tổ  chức cơ  sở  đảng các cấp, nắm vững các văn bản của Trung   ương, là căn cứ  để  các cấp  ủy cơ  sở  xây dựng, bổ  sung hoàn thiện quy chế  làm việc, cụ thể hóa nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với  đặc điểm của từng loại hình tổ chức cơ sở đảng. Phải xuất phát từ  nhiệm vụ  chính trị  của từng địa phương, đơn vị  để  xây dựng chương trình, kế  hoạch, cập nhật, điều chỉnh bổ  sung kịp thời các  giải pháp thực hiện nghị  quyết phù hợp với tình hình thực tế, nhằm không  ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ  chức cơ  sở  đảng  gắn với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Gắn công tác xây dựng Đảng với công tác xây dựng chính quyền, Mặt  trận Tổ  quốc và các đoàn thể  chính trị  ­ xã hội vững mạnh trên cơ  sở  thực   hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Các tổ chức cơ sở đảng phải chủ động  xây dựng chương trình, kế  hoạch nhằm không ngừng phấn đấu đạt trong  sạch, vững mạnh cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong nội bộ Đảng; đẩy  mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ  Chí Minh; làm   tốt công tác tạo nguồn và kết nạp đảng viên. Nêu cao tính tiền phong, gương  mẫu của cán bộ, đảng viên nhất là của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền;  phát huy tốt vai trò của các tầng lớp nhân dân đóng góp xây dựng Đảng. Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất chính trị,  chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tiễn, đủ  về  số  lượng, đồng bộ  về  cơ cấu. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ phù  
  15. hợp với trình độ, năng lực, sở trường. Xây dựng bộ máy các tổ chức trong hệ  thống chính trị  đảm bảo tinh gọn, chặt chẽ, đúng chức năng, nhiệm vụ, phù  hợp với từng tổ chức là cơ sở cần thiết để xây dựng hệ thống chính trị vững   mạnh
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2