
Quản lý giá trị doanh nghiệp
Việc đầu tư tài sản vào doanh nghiệp làm sao cho có lợi nhất chỉ trong trường
hợp nếu như những người quản lý có thể đánh giá khách quan giá trị kinh doanh với
tất cả mọi cố gắng, nỗ lực để cho giá trị đó không ngừng phát triển. Đây là nhiệm vụ
được giải quyết nhờ vào mô hình quản lý mới - “Quản lý giá trị doanh nghiệp”. Chúng
tôi xin bắt đầu các bài về phương pháp này.
Mô hình “Quản lý giá trị doanh nghiệp” (Value based Managemet – VBM) xuất
hiện vào giữa thập kỷ 1980 ở Mỹ. Thực chất của mô hình này được hiểu như sau: tất
cả những quyết định do ban lãnh đạo đưa ra đều cần phải được đánh giá dưới góc độ

liên quan đến giá trị thị trường của doanh nghiệp. Đầu tiên, việc làm này là hữu ích
cho những nhà đầu tư. Ngoài ra, những người chủ công ty sẽ có lợi khi biết rằng, công
việc kinh doanh của họ trị giá bao nhiêu và để biết xem, có cần thiết phải tiếp tục hay
không.
Vào những thập niên 90, phương pháp này đã xuất hiện và ngay sau đó đã được
áp dụng rộng rãi ở các nước Âu châu cũng như Á châu. cách đây vài năm, ở Nga, ý
nghĩa triết học của quản lý bắt đầu được ứng dụng trong các công ty tập đoàn danh
tiếng khi giới lãnh đạo cũng muốn học theo cách quản lý doanh nghiệp của các bậc
đàn anh phương Tây. Điều này làm công ty hàng đầu tại Nga trong llĩnh vực sản xuất
và kinh doanh sản phẩm sữa “VIMM-BILL-DANN PRODUCT” thành công trong
việc đưa cổ phiếu của mình vào thị trường chứng khoán New York. Ở hãng bảo hiểm
ROSNO, các nguyên tắc VBM bắt đầu được ứng dụng khi quyền kiểm soát hãng được
chuyển sang tập đoàn Đức ALIANZ. Và hiện nay, YUKOS và LUKOIL - hai đại gia
trong lĩnh vực khai thác và kinh doanh dầu khí cũng đang ngấp nghé muốn nghiên cứu
và thử nghiệm các nguyên tắc VBM.
VBM là triết học mới của quản lý, nó đã được các chuyên gia nhắc đến và và
tranh cãi nhiều trong thực tế. Nguyên nhân hấp dẫn của VBM đối với thế giới phương
Tây cũng như đối với một số công ty Nga có thể chia thành 3 nhóm.
Nhóm nguyên nhân đầu tiên hình thành từ chính những quá trình kinh doanh,
nó trở nên sinh động, làm phát triển mạnh vai trò nguồn trí tuệ như là một yếu tố thành
công trong cạnh tranh thị trường. Nhóm nguyên nhân thứ hai liên quan đến quá trình
cạnh tranh. Điều này dẫn đến sự cần thiết đảm bảo quyền lợi của tất cả “những người
có quyền lợi” (stakeholder) của hãng. Khái niệm này có thể hiểu là: những người tiêu
dùng, các nhà cung cấp nguyên vật liệu và dịch vụ, cơ quan nhà nước và chính là nhân

viên của doanh nghiệp (nói cách khác – tất cả những người quan tâm đến hoạt động
của công ty). Đây không phải là sản phẩm của thị hiếu mà là nền tảng của việc lập kế
hoạch lâu dài. Nhóm nguyên nhân thứ ba nằm sâu trong cội rễ: của quá trình liên hệ
lẫn nhau giữa người chủ và đội ngũ lãnh đạo công ty, của sự vi phạm cán cân giữa các
quyền lợi khác nhau, của sự chuyển giao quyền lực giữ người chủ và những người làm
thuê. VBM được quan tâm cũng là do phương pháp này cho phép phân tích và đánh
giá kết quả hoạt động của công ty mà có thể tính đến tất cả những thay đổi trong môi
trường kinh doanh.
Mô hình tài chính doanh nghiệp
Bất kỳ mô hình quản lý nào cũng đòi hỏi phải có sự phân tích sâu sắc, trên cơ
sở đó xây dựng mô hình tài chính của công ty. Nhiệm vụ chính của mô hình này là
đánh giá tính hiệu quả việc sự dụng các nguồn vốn. Chìa khóa để hiểu rõ mô hình kinh
tế hiện đại nằm ở nguyên tắc lợi ích kinh tế, nghĩa là đánh giá kết quả của công ty từ
quan điểm về những chi phí thay thế (lợi ích thất thoát), hoặc là lãi được chi trả cho
những phương án đầu tư thay thế do việc các nguồn vốn nhân lực và tài chính bị hạn
chế. Mô hình phân tích phù hợp được sử dụng trong môi trường kinh tế tự do là cần
phải tính đến những thất thoát kinh tế như một phần chi phí không rõ ràng, “không
hiện rõ” trong các báo cáo kế toán và cần phải có những phân tích bổ sung vượt ra
ngoài khuân khổ của doanh nghiệp. Như vậy đã tạo ra một mô hình tổng kết hoạt động
công ty khác hoàn toàn: trên cơ sở lợi nhuận kinh tế chứ không phải là lợi nhuận kế
toán mà trong đó chỉ so sánh những lợi ích thất thoát.
Nguyên tắc chủ đạo thứ hai trong việc xây dựng mô hình tài chính là phát hiện
mức thu nhập giới hạn của nguồn vốn bỏ ra, có nghĩa là mức thu nhập tối thiểu từ việc
đầu tư mà đội ngũ cán bộ phải thực hiện được. Đây là nguyên tắc đòi hỏi phải có sự

phân tích đặc biệt về những chi phí cho việc huy động vốn, và có nghĩa liên quan để
việc nghiên cứu cặn kẽ mức thu nhập từ việc đầu tư trên thị trường. Để làm được điều
này, cần có những thông tin nằm ngoài giới hạn của công ty và phản ánh tình hình của
thị trường vốn. Việc có sẵn giới hạn thu nhập như vậy trong mô hình tài chính được
coi như một chỉ số ngoại lệ về hoạt động của doanh nghiệp. Nếu như mức thu nhập
trùng với mức giới hạn thì kết quả hoạt động có thể coi là chấp nhận được (yêu cầu
của nhà đầu tư được thỏa mãn). Trong trường hợp như vậy, lợi ích kinh tế của công ty
là bằng không. Nếu như mức thu nhập lớn hơn mức giới hạn thì có thể nói về lợi ích
kinh tế và thành công của đội ngũ cán bộ là rõ ràng.
Nguyên tắc thứ ba xây dựng mô hình tài chính là tập trung phân tích khả năng
tạo ra dòng tiền từ những hoạt động của công ty. Còn phải có một bức tranh tổng thể
về sự biến đổi những nguồn vốn tạo ra tiền, về việc sử dụng và tạo ra chúng. Điều này
có nghĩa là cần có sự phân tích dòng tiền (Cash flow) tự do mà những người chủ có thể
lấy lại từ kinh doanh. Nếu như doanh nghiệp có khả năng tạo ra một lượng lớn tài sản
có thể chuyển thành tiền mặt để thực hiện những bài toán chiến lược trong thời hạn
một năm, công ty sẽ trở nên năng động, dễ điều khiển, còn người chủ sẽ có thêm khả
năng nhận thu nhập ở dạng thuận tiện (tiền mặt, ngân phiếu, cổ phiếu…). Mô hình
phân tích hợp lý cần phải là điểm tựa để phát hiện ra những mức độ chuẩn mực (đủ)
của dòng tiền. Đây phải là hệ thống theo dõi việc ngăn chặn, phòng ngừa những hiện
tượng đem lại lợi nhuận trước mắt lớn hơn, thế nhưng song song đó lại “triệt tiêu”
hoặc làm mất đi những dòng tiền trong tương lai.
Nguyên tắc tổng hợp của mô hình tài chính là tập chung vào giá trị kinh doanh
cho người chủ sở hữu. Những trước hết chúng ta cần phải xem cần phải làm như thế
nào và chỉ ra những khó khăn nảy sinh ra trong việc xây dựng mô hình tài chính.

Bị ràng buộc trong cách nhìn kế toán.
Ứng dụng mô hình tài chính trong thực tiễn quản lý trong nhiều trường hợp
không thể coi là một xâu chuỗi các hành động. Sử dụng nó có thể chỉ mang tính hình
thức, không có hệ thống. Trong thực tiễn, việc đưa ra những quyết định về quản lý
thường bị ảnh hưởng của cách nhìn kế toán. Khó khăn chính nằm ở cách định nghĩa về
chi phí và lợi nhuận. Từ cách nhìn kế toán cho thấy, kết quả tích cực của doanh nghiệp
đạt được chỉ trong trường hợp, khi mà thu nhập bao trùm được hết được những chi phí
thực tế. Nhưng trong điều kiện tăng nhanh tốc độ trong kinh doanh, cách nhìn nhận kết
quả hoạt động cần phải vô cùng thận trọng. Góc độ nhìn nhận này chính là đã bỏ qua
những vấn đề liên quan đến rủi ro đầu tư. Số liệu kế toán và các báo cáo chỉ chứa một
phần nhỏ thông tin cần thiết để đánh giá rủi ro. Từ đó không thể đưa ra được mức độ
thu nhập giới hạn của nguồn vốn, và chỉ số lợi nhuận trong kế toán không thể đưa ra
lời giải đáp cho câu hỏi: lợi nhuận thực tế có bù lại được những yếu tố rủi ro đầu tư
hay không? Vì vậy, những chỉ số đơn giản hay dùng về lợi nhuận kinh tế sau khi được
tính trên cơ sở các báo cáo kế toán không thể sử dụng như mức độ thu nhập giới hạn
cần thiết để nhìn nhận vị trí của công ty trên thị trường và đánh giá tính hiệu quả của
việc sử dụng vốn trong môi trường có rủi ro. Không một chỉ số nào của lợi nhuận kế
toán có thể phản ánh được nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp và càng khác biệt với
lượng tiền rỗi (tự do) của công ty mà người chủ sở hữu có thể thu lại. Tuy nhiên, nếu
không có sự phân tích và đưa ra kế hoạch đầu tư thì không thể thực hiện được nhiệm
vụ quản lý công ty về mặt chiến lược. Không thể kết luận về mức độ rủi ro tài chính
(rủi ro mất khả năng chi trả) dựa trên chỉ số lợi nhuận có được.
Đánh giá giá trị doanh nghiệp như thế nào?