Qun lý rủi ro tài chính
Ths. Trn Tuyết Nhung
Trung tâm Thông tin tín dụng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
www.SAGA.vn - Mục đích của quản lý tài chính là để tăng cường lợi nhuận của
các ngân hàng và tăng giá trị của ngân hàng trên thị trường. Tuy nhiên, chiến lược
nhằm vào mục đích tăng lợi nhuận cũng có nghĩa là phi chấp nhận nhiều rủi ro, vì
vậy những nhà qun lý phải theo đuổi mục đích lợi nhuận theo cách thức phải đảm
bảo khả năng thanh toán và hạn chế được những rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi
ro thanh khoản, và rủi ro về kinh doanh ngoại tệ. Để đạt được cùng lúc được hai
mục tiêu là năng cao lợi nhuận và quản lý rủi ro, hầu hết các ngân hàng thượng
mại trên thế giới đều thành lập Ban quản lý tài sản nợ_có. Ban này bao gồm chủ
tịch ngân hàng, giám đốc và những nời điều hành bộ phận như quản lý tài sản
có (quản lý việc cho vay trong nước và quốc tế), quản lý tài sản nợ (quản lý việc
thu hút tiền gởi) và phân tích tình hình kinh tế của ngân hàng. Ban quản lý tài sản
nợ_có sẽ chịu trách nhiệm đưa ra các chiến lược cho vay và thu hút tiền gửi. Ban
này shọp vài lần trong một tháng để thảo luận và đưa ra chiến lược nhằm nâng
cao li nhuận và không phải chịu nhiều rủi ro.
Vấn đề chủ chốt mà Ban qun lý tài sản nợ có cần quan tâm xem xét đó là s
chênh lệch về lãi suất giữa lãi suất cho vay (lãi suất được thu từ việc cho vay và
kinh doanh các tài sản có khác) và lãi suất huy động vốn (lãi suất trong việc gửi
tiền và vay nợ khác). Sau khi xem xét bảng cân đối tài sản những quy định pháp lý
trong hoạt động ngân hàng, mức độ cạnh tranh với các ngân hàng khác, tình hình
kinh tế nói chung, xem xét các đơn xin vay vốn, tình hình huy động vốn hiện tại,
Ban này sẽ ra quyết định về việc định giá các khoản cho vay, cụ thể là các quyết
định về lãi suất cơ bản đối với một số khoản vay và liệu nên đưa ra lãi suất cố định
hay thnổi đối với các khoản vay. Hơn nữa, Ban này sđưa ra những cách thức
huy động vốn hướng tới việc kinh doanh tài sn có. Điều này sẽ được thực hiện
thông qua việc thay đổi lãi suất huy động và m rộng chiến lược cho vay, tiếp cận
khách hàng trên thị trường. Mục tiêu là đảm bảo sự chênh lệch giữa lãi suất thực
dương giữa tài sản có và tài sản nợ, nghĩa là lãi suất cho vay phải cao hơn lãi suất
huy động, đảm bảo cho việc kinh doanh có lãi. Nếu lãi sut cho vay thấp hơn lãi
suất huy động, thu nhập ngân hàng sẽ giảm và vốn của ngân hàng cũng giảm theo.
Nếu việc này kéo dài, ngân hàng sẽ lâm vào tình trạng không có khả năng thanh
toán.
Mọi quyết định do Ban này đưa ra se ảnh hưởng trực tiếp đén tài sản nợ và tài sản
nợ và tài sản có của ngân hàng và để hạn chế rủi ro ngân hàng ở mức độ chấp nhận
được, đảm bảo sự tồn tại và phát triển lâu dài của ngân hàng. Việc quản lý rủi ro
tài chính được thực hiên thông qua đánh giá các khoản vay, đánh giá khách hàng
vay vốn.
Việc đánh giá này dựa trên năm yếu tố bản:
- Khnăng hoàn trkhoảng vay: Khả năng của khách hàng trong việc hoàng tr
khoản vay.
- Đặc điểm khách hàng: Khnăng lãnh đạo hoạt động kinh doanh cũng như mức
độ sẵn lòng hoàn trkhoản vay của những ngưi quản lý doanh nghiệp.
- Vốn: Sức mạnh về tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm vay vốn.
- Thế chấp: Tài sản và mức độ thanh khoản (chuyển thành tiền mặt) của tài sản
người vay dùng để đảm bảo khoản vay.
- Điều kiện: Những yếu tố có thể ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả vốn của khách
hàng, đó là điều kiện hiện tại về tình hình kinh tế, về cơ cấu thị trường, mức độ
cạnh tranh và một số yếu tố khác mà vượt quá sự kiểm soát của khách hàng vay
vốn.
I. ĐỂ ĐÁNH GIÁ ĐƯỢC NĂM YẾU TỐ TRÊN ĐÂY, NGƯỜI QUẢN LÝ
NGÂN HÀNG CẦN PHẢI THỰC HIỆN CÁC VẤN ĐỀ SAU:
- Nhận thức và tham gia một cách nghiêm túc vào việc định giá và đánh giá khoản
vay.
- Thực hiện giám sát đầy đủ
- Xúc tiến mối quan hệ lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng
- Quản lý tài sản có một cách chủ động
1. Nhn thức và tham gia một cách nghiêm túc vào việc định giá và đánh giá
các khoản vay: Những người quản lý ngân hàng phải xem xét một cách thận
trọng đơn xin vay vốn của khách hàng để phân biệt rõ khach hàng nào đáp ứng
được đầy đủ cả 5 yếu tố trên, sau đó sẽ chấp nhận và định giá khoản cho vay vốn
nay. Khách hàng xin vay vốn sẽ phải gửi thông tin về tài chính, về tình hình hoạt
đọng cũng như thông tin về tài sản liên quan đến việc vay vốn này. Trong vòng hai
thập kĩ qua, khách hàng không chthu thập thông tin trực tiếp từ khách hàng mà
thường xuyên thu thập thông tin qua công ty thông tin. Các công ty này thu thập
thông tin từ các doanh nghiệp và cá nhân và lp nên bảng báo cáo tóm tắt về nợ
nần của khách hàng, lịch sử thanh toán và đưa ra một số nhận xét chung.
2. Thực hiện giám đầy đủ: Đây là bước thứ 2 để thực hiện quản lý rủi ro một
cách hiệu quả sau khi ngân hàng cho vay vốn. Những hoạt động tài chính của
doanh nghiệp sau khi vay vốn phải được giám sát liên lục để đảm bảo rằng doanh
nghiệp vẫn tiếp tục đáp ứng đủ 5 yếu tố cơ bản trên. Một yêu cầu tối thiểu là ngân
hàng phải theo dõi chặt chẽ việc thanh toán của khách hàng để có những quyết
định cần thiết như tiếp tục cho vay hay tịch thu tài sản để thế nợ.
3. Xúc tiến mối quan hệ lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng: Ngân hàng
phải xúc tiến mối quan hệ với khách hàng, vic thiết lập mối quan hệ lâu dài với
khách hàng sgiúp cho ngân hàng và khách hàng hiểu biết về nhau tốt hơn, làm
giảm bớt về cả mặt chi phí và thi gian khi xem xét giao dịch kinh doanh giữa hai
bên. Việc có được mối quan hệ truyền thống với ngân hàng sgiúp cho khách
hàng giải quyết được vấn đề thanh khoản những lúc cần thiết.
4. Qun lý tài sản có một cách chủ động: Việc quản lý các khoản vay phải được
thực hiện thường xuyên và thận trọng. Ngân hàng cần phải biết thiết lập trạng thái
cân bằng giữa tính chuyên môn hoá khi đầu tư va tính đa dạng hoá các khoản đầu
tư. Một dụ điển hình là vào những năm 1980, các ngân hàng ở Oklahoma và
Texas đã cho vay khách hàng hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh và khai thác
dầu khí. Trong bản cân đối tài sản của các ngân hàng này, phần lớn các khoản đầu
tư và cho vay tập trung vào lĩnh vực dầu khí, do vậy khi giá dầu giảm và các công
ty này bị phá sản, các ngân hàng này đã gặp nhiều khó khăn và rất nhiều ngân
hàng bị phá sản. Đây là một trong những ví dụ để phản ánh sự cần thiết phải đa
dạng hoá danh mục đầu tư để đảm bảo trong trường hợp xảy ra khủng hoảng đối
với một ngành nào đó thì ngân hàng vẫn duy trì hoạt động.
Một cách khách để phân tán rủi ro đối với một khoản cho vay lớn là cùng ngân
hàng các cùng đầu tư vào các khoản vay đó thông qua bảng cam kết giữa các ngân
hàng.
II. MỘT SỐ CÔNG CỤ QUẢN LÝ RỦI RO LÃI SUẤT TRONG HOẠT
ĐỘNG NH
Như đã nêu trên, mục tiêu hoạt động của ngân hàng là đảm bảo sự chênh lệch lãi
suất thực dương giữa lãi suất từ việc cho vay vốn và chi phí phát sinh tviệc huy
động vốn. Như vậy có nghĩa là việc quản lý rủi ro lãi suất phải được thực hiện
thường xuyên liên tục tại các ngân hàng thương mại để đo lường mức đọ ảnh
hưởng của lãi suất đến tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng thương mại.
1. Phương pháp phân tích ảnh hưởng chênh lệch tài sản nợ_có đến thu nhập
của ngân hàng khi có sự biến động của lãi suất (Income Gap Analysis) Một cách
thực hiện việc quản lý này đó là áp dụng phương pháp phân tích ảnh hưởng chênh