Quỹ đầu tư và các chủ thể

tham gia

Tài chính là chìa khoá của đầu tư và vì thế là chìa khoá cho sự tăng trưởng. Thông

việc cung cấp các nguồn vốn cho người có khả năng sử dụng chúng hiệu quả hơn,

tài chính làm tăng thu nhập cho cả người cấp vốn và người nhận vốn.

Các định chế tài chính phi ngân hàng có thể được chia làm hai bộ phận chính là

các Tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng (các công ty bảo hiểm) và các Trung gian đầu

tư bao gồm các công ty tài chính và các Quỹ đầu tư.

Khác với các ngân hàng nhận tiền gửi và cho vay, khác với các tổ chức bảo hiểm

nhận vốn định kỳ trên cơ sở hợp đồng, các Trung gian đầu tư nhận vốn bằng cách

phát hành các chứng khoán. Các công ty tài chính phát hành cổ phiếu, còn Quỹ

đầu tư phát hành chứng chỉ Quỹ đầu tư (có thể là cổ phiếu hoặc chứng chỉ thụ

hưởng).

Là một trung gian đầu tư, hoạt động chủ yếu trên thị trường chứng khoán, Quỹ đầu

tư là gì, hoạt động của nó bao gồm những chủ thể nào tham gia?

Trước hết, khái niệm Quỹ theo Từ điển Tài chính Quốc tế “Quỹ” chỉ một tập hợp

tiền dùng để đầu tư (money for investment). Đầu tư tức là việc tiêu dùng các tài

sản thực hay tài sản tài chính với mong đợi một sự tăng lên về giá trị [2].

Quỹ đầu tư là một định chế tài chính phi ngân hàng huy động vốn bằng hình thức

chung vốn đầu tư (investment pool) hay nói cách khác là một tập hợp vốn đa sở

hữu từ đóng góp của những cá nhân hay tổ chức có tiền muốn cùng nhau đầu tư

nhằm tăng cường tính chuyên nghiệp của việc đầu tư. Quỹ sẽ do các chuyên gia

đầu tư, đại diện cho các nhà đầu tư, thực hiện đầu tư vào một danh mục tài sản

(gọi là danh mục đầu tư) được thiết kế theo chính sách của Quỹ.

Như vậy, các nhà đầu tư đơn lẻ thay vì trực tiếp đầu tư bằng những khoản tiền ít ỏi

của mình đã cùng góp vốn tạo thành một tập hợp tiền gọi là Quỹ để cùng nhau đầu

tư. Nguồn hình thành Quỹ đầu tư do vậy mà hết sức đa dạng. Từ các tập đoàn tư

bản lớn, các công ty cho đến dân chúng, bất cứ ai có vốn nhàn rỗi đều có thể ít

nhiều trở thành chủ sở hữu Quỹ đầu tư bằng cách mua các chứng chỉ thụ hưởng

của Quỹ đầu tư (đối với mô hình Quỹ đầu tư tín thác) hay các cổ phiếu của Quỹ

đầu tư (đối với mô hình Công ty đầu tư) – từ nay sẽ gọi chung là các Chứng chỉ

Quỹ đầu tư.

Hoạt động của Quỹ đầu tư rất đặc biệt, nó không dùng vốn của mình để mua máy

móc, thiết bị, các yếu tố sản xuất khác để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh

doanh mà thực hiện kinh doanh đầu tư vốn dưới hai hình thức:

Đầu tư trực tiếp: các Quỹ đầu tư dùng vốn của mình để thâm nhập trực tiếp vào

các công ty, các dự án bằng cách góp vốn cổ phần, mua cổ phiếu phát hành lần

đầu với tư cách là cổ đông sáng lập như các sáng lập viên khác.

Đầu tư gián tiếp: Quỹ đầu tư dùng vốn của mình tham gia vào thị trường chứng

khoán với tư cách của một nhà kinh doanh chứng khoán thông qua các công ty

chứng khoán (thành viên của sở giao dịch chứng khoán). Ngoài ra, các Quỹ đầu tư

còn dùng tiền vốn của mình cho vay đối với các dự án theo những thoả thuận nhất

định, thường là các khoản cho vay có thể chuyển đổi thành vốn cổ phần..

Có thể kết luận đặc trưng cơ bản nhất của Quỹ đầu tư là ở chỗ nó vừa là tổ chức

phát hành chứng khoán vừa là tổ chức kinh doanh chứng khoán. Chính đặc điểm

này mà Quỹ đầu tư còn được gọi là Quỹ đầu tư chứng khoán để phân biệt với các

loại hình Quỹ khác như các Quỹ trong doanh nghiệp thường dùng để tái đầu tư

hay các Quỹ do chính phủ lập ra để cho vay ưu đãi một số ngành cụ thể như Quỹ

phát triển nhà ở quốc gia, Quỹ hỗ trợ XK, Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia của Việt

Nam… thường là với mục tiêu phi lợi nhuận.

Quỹ đầu tư được quản lý bởi Công ty quản lý Quỹ, một tổ chức đầu tư chuyên

nghiệp, có trình độ chuyên môn cao trong đầu tư chứng khoán. Một công ty quản

lý Quỹ có thể quản lý một hay nhiều Quỹ đầu tư. Ngoài ra tài sản của Quỹ đầu tư

được một tổ chức chịu trách nhiệm bảo quản, thường là một ngân hàng. Ngân

hàng bảo quản còn có thể làm nhiệm vụ giám sát các hoạt động quản lý Quỹ của

công ty quản lý nhằm bảo đảm quyền lợi của các nhà đầu tư.

Các chủ thể tham gia vào Quỹ đầu tư:

 Người đầu tư: Người đầu tư ở đây được hiểu là những người góp vốn vào

Quỹ đầu tư bằng cách mua chứng chỉ thụ hưởng hay cổ phần của Quỹ. Họ

có quyền được chia cổ tức và các thu nhập khác từ hoạt động đầu tư của

Quỹ theo tỷ lệ vốn góp hoặc theo thoả thuận với công ty quản lý Quỹ. Tuỳ

theo tính chất từng loại Quỹ đầu tư mà người đầu tư có thể yêu cầu Quỹ

mua lại chứng chỉ Quỹ đầu tư trong thời hạn hoạt động của Quỹ. Khi hết

thời hạn hoạt động, họ sẽ được hoàn trả vốn.

 Hội đồng quản trị của Quỹ: Hội đồng quản trị chỉ tồn tại trong mô hình

công ty (sẽ được đề cập chi tiết ở bài viết sau), được đại hội cổ đông bầu

lên giống như một Hội đồng quản trị cuủa một công ty cổ phần thông

thường. Hội đồng quản trị đại diện cho cổ đông để xây dựng chính sách đầu

tư và giám sát hoạt động của Quỹ, có quyền cao nhất đối với Quỹ. Hội

đồng quản trị còn chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát hoạt động của công

ty bảo lãnh, công ty tư vấn và các bên cung cấp dịch vụ cho Quỹ.

 Công ty quản lý Quỹ: Là công ty chịu trách nhiệm quản lý hoạt động đầu tư

của Quỹ, thực chất là quản lý danh mục chứng khoán theo mục tiêu đầu tư

đã định trước, thường ghi rõ trong trong Bản cáo bạch phát hành và điều lệ

Quỹ. Hàng ngày công ty sẽ xác định giá trị tài sản trong danh mục đầu tư

hoặc giá trị tài sản ròng trên mỗi cổ phần. Công ty quản lý Quỹ không phải

là thành viên của Sở giao dịch chứng khoán. Việc mua bán chứng khoán

của Quỹ đầu tư phải thông qua các công ty chứng khoán.

 Các chuyên gia đầu tư hay các nhà tư vấn đầu tư có trách nhiệm lựa chọn

danh mục đầu tư thích hợp theo chính sách và mục tiêu đầu tư của Quỹ,

nghiên cứu, phân tích tài chính và xu hướng kinh tế, quyết định thời gian

đầu tư thích hợp. Ngoài ra họ có thể là người thực hiện việc chuyển lệnh

mua bán chứng khoán tới Sở giao dịch nếu được uỷ thác. Họ được thanh

toán phí theo tỷ lệ % giá trị tài sản ròng trung bình của Quỹ trong năm hoặc

trên số tiền mà dịch vụ tư vấn thực hiện.

 Các tổ chức bảo quản và giám sát tài sản của Quỹ: Một ngân hàng, công ty

tín thác (Trustee Company) hoặc các tổ chức đủ tiêu chuẩn sẽ được thuê

làm người bảo quản các tài sản của Quỹ (tiền măt, chứng khoán, …). Tổ

chức này thường là một ngân hàng vì các ngân hàng có sẵn cơ sở vật chất

kỹ thuật cho việc giữ và bảo quản tài sản cũng như có một hệ thống thanh

toán, thu chi chuyên nghiệp. Các tổ chức bảo quản tài sản chỉ chịu trách

nhiệm bảo quản sự an toàn tài sản cho Quỹ, định giá tài sản và theo dõi sự

biến động tài sản trong và ngoài nước. Trong mô hình tín thác (sẽ đề cập ở

phần sau), các tổ chức bảo quản tài sản còn chịu trách nhiệm giám sát hoạt

động của Quỹ để đảm bảo quyền lợi cho người đầu tư. Tất cả những chỉ thị

của công ty quản lý Quỹ về thu chi, đầu tư của Quỹ sẽ chỉ được ngân hàng

thực hiện nếu phù hợp với những quy định trong Thư tín thác ký kết giữa

công ty quản lý Quỹ và tổ chức bảo quản giám sát.

Nhà bảo lãnh phát hành: Việc phát hành cổ phiếu của Quỹ thường được các

nhà bảo lãnh thực hiện trên cơ sở huy động vốn tối đa cho Quỹ với những

điều kiện thuận lợi nhất. Các phương pháp bảo lãnh, phí bảo lãnh, trách

nhiệm và quyền lợi của hai bên được quy định trong hợp đồng đã ký kết.

Nhà bảo lãnh sẽ nhận được phí bảo lãnh là khoản chênh lệch giữa số tiền

bán chứng khoán và tiền trả cho Quỹ. Với những đợt phát hành lần đầu ra

công chúng, phí bảo lãnh khá cao vì các nhà bảo lãnh phải chịu rủi ro cao

trong phân phối chứng khoán. Nhà bảo lãnh phát hành có thể chào bán trực

tiếp ra công chúng hoặc thông qua một nhà phân phối trung gian khác.