intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4-5 tuổi của trường SOS, Đồng Hới, Quảng Bình thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề

Chia sẻ: Lê Thị Quỳnh Nga | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:25

1.116
lượt xem
87
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non "Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4-5 tuổi của trường SOS, Đồng Hới, Quảng Bình thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề" được nghiên cứu với mục đích: Trên cơ sở làm rõ thực trạng tổ chức trò chơi đóng vai trò theo chủ đề cho trẻ Mẫu Giáo ở một số trường Mầm Non ở Quảng Bình, đề xuất và vận dụng một số biện pháp tổ chức, hướng dẫn trò chơi đóng vai trò theo chủ đề của trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ cho trẻ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4-5 tuổi của trường SOS, Đồng Hới, Quảng Bình thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề

  1. MỤC LỤC Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng 1 Lớp: ĐHGD Mầm non A ­ K55
  2. LỜI CẢM ƠN Để  hoàn thành bài tập nghiên cứu này. Em đã nhận được  sự  giúp đỡ  tận tình của cô Mai Thị Liên Giang dạy môn khám phá khoa học. Em xin trân trọng gửi lời cảm  ơn chân thành tới cô Mai Thị Liên Giang  người đã hướng dẫn giúp đỡ em hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Kính chúc cô mạnh khỏe công tác tốt. Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng 2 Lớp: ĐHGD Mầm non A ­ K55
  3. LỜI CAM  ĐOAN Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là riêng tôi. Các kết quả và   số  liệu trong đề  tài là trung thực và chưa được công bố   ở  bất kỳ  một công  trình nào.  Đồng Hới, 25 tháng 4 năm 2016 Sinh viên Nguyễn Thị Hằng Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng 3 Lớp: ĐHGD Mầm non A ­ K55
  4. A.PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Vui chơi là hoạt động luôn đi cùng và gắn bó với cuộc sống của con   người từ  thuở   ấu thơ  cho đến khi trưởng thành. Tuy nhiên nội dung và hình   thức chơi ở mỗi giai đoạn, mỗi lứa tuổi có khác nhau song nó cùng chung một   mục đích là thỏa mãn nhu cầu hoạt động của con người trong cuộc sống. Đối với trẻ mẫu giáo, vui chơi là hoạt động chủ đạo, qua chơi trẻ được  phát triển chức năng tâm lý và hình thành nhân cách. Khi chơi cũng là dịp tốt   để  trẻ  khám phá môi trường xung quanh, qua đó kích thích tính tò mò, khả  năng quan sát, năng lực phán đoán, tí tưởng tượng… của trẻ. Chính vì lẽ  đó  mà nhiều nhà giáo dục đã gọi: ”Trò chơi là trường học của cuộc sống”. Trẻ  cần chơi như cần ăn no, mặc êm, cần được yêu thương. Trò chơi nuôi dưỡng   tân hồn trẻ mà không có gì thay thế  được. Mỗi dân tộc đều có một kho tàng   phong phú trò chơi trẻ em được tích lũy và truyền từ thế hệ này sang thế  hệ  khác. Nhà tâm lý học nổi tiếng người Pháp là Henri – Wallon (1879 – 1962),   trong khi nghiên cứu tâm lý trẻ  em cũng đã xem trò chơi của trẻ  em là một  hiện tượng xã hội đáng quan tâm, mà trò chơi đóng vai theo chủ  đề  chiếm  một vị trí quan trọng đối với sự phát triển ngôn ngữ mẹ đẻ. Các nhà tâm lý học cho rằng, hoạt động vui chơi mà nồng cốt là trò  chơi đóng vai theo chủ  đề  là hoạt động chủ  đạo của trẻ  mẫu giáo. Độ  tuổi   mẫu giáo nhỡ  là chặng giữa tuổi mẫu giáo. Nó đã vượt qua thời kỳ  chuyển  tiếp từ độ  tuổi ấu nhi lên để  tiến tới một chặng đường phát triển tương đối  ổn định. Có thể coi đây là một thời kỳ phát triển rực rỡ của những nét tâm lý  đặc trưng cho tuổi mẫu giáo. Như  vậy,  trường Mần Non là môi trường thuận lợi nhất để  trẻ  phát  triển,  ở  đây trẻ  không những chăm sóc,  giáo dục mà còn được vui chơi để  thỏa mãn ước muốn làm người lớn với khả năng thực tế của mình. Trong khi   Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng 4 Lớp: ĐHGD Mầm non A ­ K55
  5. chơi đứa trẻ  học cách sử  dựng đồ  vật,   đồ  chơi  do con người sang tạo ra.  Học những quy tắc ứng xử giữa người với người trong xã hội tức là học làm  người. Trẻ mẫu giáo có thể tham gia nhiều loại trò chơi như trò chơi đóng vai  theo chủ  đề, trò chơi đóng kịch,…  Mỗi loại trò chơi có tác dụng phát triển   một mặt nhất định của trẻ.  Nhưng trung tâm của hoạt động vui chơi đối với  trẻ đóng vai theo chủ đề là loại trò chơi chủ yếu tạo ra nét đặc trưng  trong trò  chơi, trong đời sống tâm lí của trẻ mẫu giáo. Tại sao trẻ mẫu giáo thích chơi trò chơi đóng vai trò theo chủ  đề,  bởi  qua chơi trẻ  với cuộc sống của người lớn,  trẻ  muốn tự  mình làm mội việc  như người lớn, với khả năng của mình. Do vậy trò chơi nói chung va trò chơi   đóng vai theo chủ đề nói riêng thực sự cần thiết cho trẻ… Trong khi đó, ở các trường Mầm Non trò chơi đóng vai trò theo chủ đề  chưa thực sự  được quan tâm, trò chơi chưa là niềm vui, là niềm hạnh phúc  của trẻ. Vậy vấn đề cấp thiết hiện nay là phải tăng cường tổ chức hướng dẫn  các trò chơi một cách thường xuyên và nhất là trò chơi đóng vai trò chủ  đề,  phải có sự  hướng dẫn tỉ mỉ, cụ thể để tạo cho trẻ cảm giác thoái mái, hứng  thú,  có   như   vậy  chúng   ta  mới   thực   sự   tạo   cho  trẻ   niềm   vui,  niềm   hạnh  phúc… Từ  lý luận và thức tiễn với khả  năng và niềm say mê hứng thú của  mình trong một thời gian hạn hẹp em đã chọn đề tài: “ Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4­5 tuổi của trường SOS, Đồng  Hới, Quảng Bình thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề ”. 2. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ thực trạng tổ chức trò chơi đóng vai trò theo chủ đề  cho trẻ Mẫu Giáo ở một số trường Mầm Non ở Quảng Bình, đề xuất và vận   dụng một số biện pháp tổ chức, hướng dẫn trò chơi đóng vai trò theo chủ đề  Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng 5 Lớp: ĐHGD Mầm non A ­ K55
  6. của trẻ  mẫu giáo  nhỡ  4 ­ 5  tuổi  nhằm nâng cao hiệu quả  tổ  chức trò chơi  đóng vai theo chủ cho trẻ. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu: 3.1:  Khách thể nghiên cứu: Quá trình tổ chức trò chơi đóng vai trò theo chủ đề cho trẻ 4­5 tuổi. 3.2: Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4­5 tuổi  thông qua trò chơi đóng  vai theo chủ đề. 4.Giả thuyết khoa học: Ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ   4­5 tuổi trường Mẫu giáo SOS,Đồng  Hới còn phát triển chậm. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên  trong đó trò chơi đống vai theo chủ đề có vai trò quan trọng. Bằng sự đổi mới   nội dung và phương pháp tổ  chức trò chơi trò chơi đóng vai theo chủ  đề, sẽ  làm cho ngôn ngữ của các em nhanh chóng phát triển. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu: 5.1:  Nghiên cứu cơ  sở  về  việc phát triển ngôn ngữ  cho trẻ, thông  qua trò chơi đóng vai trò theo chủ đề. * Tìm hiểu các khái niệm: Khái niệm trẻ em. Khái niệm ngôn ngữ. Khái niệm trò chơi đóng vai theo chủ đề. Trẻ mẫu giáo nhỡ. Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng 6 Lớp: ĐHGD Mầm non A ­ K55
  7. 5.2:  Khảo sát, phân tích thực trạng về việc tổ chức trò chơi đóng  vai trò theo chủ đề để nâng cao hiệu quả phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 5.3: Nghiên cứu để lựa chọn, sử dụng tổ chức các trò chơi cho trẻ. 6. Giới hạn nghiên cứu của đề tài: 6.1:  Giới hạn nghiên cứu của đề tài về khách thể: ­  Đề  tài này được thực hiện trên 20 trẻ  Mẫu Giáo  4­ 5 tuổi và 10  giáo viên ở trường SOS, Đồng Hới, Quảng Bình. 6.2:  Giới hạn nghiên cứu về nội dung: ­  Nghiên cứu khả  năng phát triển ngôn ngữ  của trẻ   M   ẫu  4­5 tuổi  và hứng thú của trẻ trong hoạt động tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề. 7. CƠ  SỞ  PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN  CỨU 7.1: Cơ sở phương pháp luận: Sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh và phân tích 7.2: Phương pháp nghiên cứu: 7.2.1: Phương pháp quan sát: Dự tiết dạy của cô giáo, qua đó nắm được vốn từ và khả năng diễn đạt  của trẻ. Quan sát trong hành động và ghi chép trung thành ngôn ngữ của trẻ. Ví dụ: Cô cho trẻ quan sát ngôi nhà Giáo viên mang ngôi nhà vào lớp, ngôi nhà được bọc kín. Cô tập trung  hết sức chú ý của trẻ  rồi mới lấy ngôi nhà cho trẻ  quan sát. Khi đó trẻ  gọi  chính xác tên của đồ  chơi là ngôi nhà: ngôi nhà màu xanh, cửa sổ  màu vàng,   nhà có hai tầng, tác dụng ngôi nhà để ở. 7.2.2: Phương pháp trò chuyện: Trao đổi, tọa đàm với cô giáo về đề tài nghiên cứu. Trò chuyện với trẻ,   hỏi trẻ một số câu hỏi nhằm làm rõ hơi vốn từ và khả năng diễn đạt của trẻ,  chẳng hạn như: về cảm xúc , hứng thú của trẻ khi trẻ đóng vai. Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng 7 Lớp: ĐHGD Mầm non A ­ K55
  8. 7.3: Phương pháp thực nghiệm tác động Đề tài đã sử dụng phương pháp thực nghiệm tác động như sau: Chia lớp nghiên cứu thành hai nhóm có số lượng trẻ và chất lượng ngôn  ngữ tương đương. Nhóm thực nghiệm được tác động bằng nội dung và phương pháp tổ  chức trò chơi đóng vai theo chủ đề và phương pháp tổ chức đặc biệt. Nhóm đối chứng được dạy bằng nội dung và phương pháp tổ chức trò   chơi đóng vai theo chủ đề như trường Mẫu giáo SOS vẫn dạy. Sau một thời   gian thực nghiệm tác động xem sự  phát triển ngôn ngữ  ở  nhóm thực nghiệm  và nhóm đối chứng có sự khác nhau không? 7.4: Phương pháp trắc nghiệm Sử dụng phương pháp trắc nghiệm để đo vốn từ và khả năng sử dụng  cấu trúc ngữ pháp của trẻ. 7.5: Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động Người nghiên cứu ghi lại, hệ  thống lại những từ  ngữ, những kết cấu   ngữ pháp mà trẻ nói ra trong quá trình tham gia trò chơi đóng vai theo chủ đề.  Trên cơ sở đó đưa ra nhận xét về sự phát triển vốn từ cũng như cách phát âm  hay khả năng sử dụng cấu trúc ngữ pháp của trẻ. 8. Đóng góp mới của đề tài: ­ Đề tài góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và đi sâu tìm hiểu về vấn   đề giáo dục văn hóa ứng xử của trẻ 4 ­ 5 tuổi thông qua trò chơi đóng vai theo  chủ đề. ­ Xây dựng được một số  biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục văn  hóa ứng xử cho trẻ. 9. Thời gian, địa điểm ­ Thời gian: Từ tháng 3 năm 2016  đến tháng 5 năm 2017. ­ Địa điểm: Tại trường Mẫu Giáo SOS ­ Đồng Hới ­ Quảng Bình. Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng 8 Lớp: ĐHGD Mầm non A ­ K55
  9. 10. Kết cấu của đề tài: A. Phần mở đầu B. Nội dung chính Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài Chương 2: Khảo sát thực trạng Chương 3: Thực nghiệm tác động C. Kết luận và kiến nghị Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng 9 Lớp: ĐHGD Mầm non A ­ K55
  10. B. NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG  GIÁO DỤC VĂN HÓA ỨNG XỬ CHO TRẺ MẪU GIÁO NHỠ 3­4 TUỔI  THÔNG TRÒ CHƠI ĐÓNG VAI THEO CHỦ ĐỀ 1.1: Lịch sử nghiên cứu đề tài: Việc sử  dụng trò chơi trong dạy học không phải là vấn đề  mới được   đặt ra mà ngay từ  đầu thế  kỷ  XX, nhà tâm lý học Thụy Sỹ  J. Paget đã rất   quan tâm đến phương pháp này “ thông qua hoạt động vui chơi để  tiến hành   hoạt động học tập “ . Năm 1974, trong tạp chí văn học  ở trường Mat­ xcơ­ va số 2 (trang 53)   B.C. Giê ­nhi­xkai­ a đã cho rằng  “ chúng ta không những phải tạo cho trẻ  được nuôi dưỡng bằng trò chơi “. Ở Việt Nam cũng có nhiều tác giả quan tâm đến việc sử dụng phương   pháp này trong từng môn học cụ thể. Đó là PGS. TS Nguyễn Ánh Tuyết với  cuốn sách  “ Giáo dục mầm non những vấn đề  lý luận và thực tiễn “ , hay “  Tâm lý học trẻ lứa tuổi mầm non “. v.v… Trong những cuốn sách này tác giả  đã đề cập đến vai trò của trò chơi đóng vai theo chủ đề đối với sự phát triển   ngôn ngữ  của trẻ  em mọt cách khái quát. Tuy nhiên, chưa có công trình nào  nghiên cứu cụ thể cách thức xây dựng nội dung chương trình, và phương pháp  tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề, để qua đó phát triển ngôn ngữ cho trẻ  mẫu giáo nói chung và trẻ mẫu giáo nhỡ nói riêng. 1.2: Ngôn ngữ và sự hình thành phát triển ngôn ngữ 1.2.1: Khái niện ngôn ngữ Ngôn ngữ là một hệ thống thông tin đặc biệt, là phương tiện giao tiếp   cơ  bản và quan trọng nhất của các thành viên trong cộng đồng người. Ngôn  ngữ đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt truyền thống   văn hóa – lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng 10 Lớp: ĐHGD Mầm non A ­ K55
  11. Tùy theo hoàn cảnh lịnh sử  mà sự  hình thành dân tộc và ngôn ngữ  dân   tộc mỗi nơi, mỗi thời kỳ một khác, theo những con đường khác nhau. Mác và   Awngghen đã viết:  “ Trong bất cứ  ngôn ngữ  phát triển nào hiện nay, cái  nguyên nhân khiến cho một ngôn ngữ  phát sinh một cách tự  phát, được nâng  lên thành ngôn ngữ dân tộc, thì  một phần là do ngôn ngữ đó được phát triển  một cách lịch sử từ chỗ nó được chuẩn bị  đầy đủ  về  tư  liệu, như  ngôn ngữ  La Mã và Giescmani chẳng hạn, một phần là do sự giao dịch và hỗn hợp của   các dân tộc, như tiếng Anh chẳng hạn: một phần nữa là do các phương ngữ  tập trung thành ngôn ngữ dân tộc thống nhất và sự tập trung đó lại do sự tập  trung đó lại do sự tập trung kinh tế, chính trị quyết định “. 1.2.2: Các bộ phận và đơn vị của ngôn ngữ a. Các bộ phận của ngôn ngữ Ba bộ  phận câu thành của ngôn ngữ  là từ  vựng, ngữ  âm và ngữ  pháp.   Trong kết cấu ngôn ngữ, từ  vựng thuộc vào ngoại biên về  nghĩa vì nó trực  tiếp gọi tên các sự  vật, hiện tượng của thực tế, còn ngữ  âm phụ  thuộc vào   ngoại biên về chất liệu vì nó trực tiếp được tích lũy bởi giác quan con người.   So với ngữ  âm và từ  vựng thì ngữ  pháp luôn luôn là gián tiếp không có tinh   thần cụ thể. Nó chỉ liên hệ với thực tế thông qua từ vựng, chỉ lĩnh hội được   thông qua ngữ âm.Vì vậy, ngữ pháp chiếm vị trí trung tâm trong kết cấu ngôn  ngữ. b. Các đơn vị của ngôn ngữ *  Âm vị: Âm vị là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất mà người ta có thể phát âm   ra được trong chuỗi lời nói. Ví dụ: Các âm [b], [t], [v].v. v…, hoàn toàn không thể  chia nhỏ  chúng  hơn. Âm vị có chức năng nhận cảm và chức năng phân biệt nghĩa. Ví dụ: “ bào” có nghĩa là một dụng cụ của thơ mộc đề  làm mòn nhẫn  gỗ, còn “ vào” có nghĩa là “ một hành động đi từ ngoài tới trong “. Cái làm ta  Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng 11 Lớp: ĐHGD Mầm non A ­ K55
  12. phân biệt được hai nghĩa đó không phải do bộ  phận bộ  phận ngữ  âm trùng   nhau giữa hai từ là [­ảo] mà do sự đối lập giữa âm [b] và âm [v] tạo nên. *  Hình vị là một hoặc chuỗi kết hợp một vài âm vị, biểu thị  một khái  niệm. Nó là đơn vị  nhỏ  nhất có ý nghĩa. Chức năng của hình vị  là chức năng   ngữ   nghĩa.   Ví   dụ  kết  hợp  “quốc  gia“    trong  tiếng  Việt  gồm  hai  hình  vị:  “quốc” là “ nước” và “gia” là “nhà”. * Từ là chuỗi kết hợp của một hoặc một  vài hình vị  mang chức năng  gọi tên và chức năng ngữ nghĩa. Ví dụ các từ: Tủ, ghế, đi, cười.v.v… * Câu là chuỗi kết hợp của một hay nhiều từ, chức năng gọi tên và   chức năng thông báo. Các  đơn vị  của ngôn ngữ  là âm vị, hình vị, từ, câu, ngữ   đoạn, văn  bản.v.v… bất cứ  thứ  tiếng (ngôn ngữ) nào, cũng chứa đựng hai phạm trù:  Phạm trù ngữ pháp và phạm trù logic. Phạm trù ngữ pháp là một hệ thống các  quy định việc thành tập từ và câu cũng như quy định sự phát âm, phạm trù này   ở các thứ tiếng khác nhau là khác nhau. Phạm trù logic là quy luật, vì vậy tuy  dung các thứ  tiếng khác nhau, nhưng các dân tộc khác nhau vẫn hiểu được  nhau. Tóm lại, ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu đặc biệt, dùng làm phương   tiện giao tiếp và là công cụ tư duy. 1.2.3: Chức năng của ngôn ngữ a. Ngôn ngữ  là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con người.   Không ai có thể phủ nhận ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của con người.   Ngay cả những bộ lạc lạc hậu nhất mà người ta mới phát hiện ra, cũng dùng  ngôn ngữ  để  nói chuyện với nhau.Ngoài ngôn ngữ, con người còn có những  phương tiện giao tiếp khác như: cử chỉ, các loại dấu hiệu, ký hiệu khác nhau  (ký hiệu toán học, đèn tín hiệu giao thông .v.v…), những kết hợp âm thanh   của âm nhạc, những kết hợp màu sắc của hội họa.v.v… nhưng ngôn ngữ  là  phương tiện trọng yếu nhất của con người. Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng 12 Lớp: ĐHGD Mầm non A ­ K55
  13. Chính nhờ ngôn ngữ mà con người có thể hiểu ngau trong quá trình sinh  hoạt và lao động, mà người ta có thể  diễn đạt và làm cho người khác hiểu   được tư  tưởng, tình cảm, trạng thái và nguyện vọng của mình.Có hiểu biết  lẫn nhau, con người mới có thể  đồng tâm hiệp lực chinh phục thiên nhiên,  chinh phục xã hội, làm cho xã hội ngày càng tiến lên. b. Ngôn ngữ là phương tiện tư duy Chức năng giao tiếp của ngôn ngữ gắn liền với chức năng thể hiện tư  duy của nó, bởi vì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ chỉ có thể giúp ta trao đổi tư  tưởng, tình cảm với nhau, do đó hiểu biết lẫn nhau và cùng nhau tổ chức công  tác chung trên mọi lĩnh vực hoạt động nếu bản than ngôn ngữ  tàng trữ  kinh  nghiệm, những tư tưởng và tình cảm của con người. Chức năng thể hiện tư duy của ngôn ngữ thể hiện ở hai khía cạnh: + Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Không có từ  nào, câu   nào mà lại không biểu hiện khái niện hay tư  tưởng . Ngược lại, không có ý  nghĩ, tư tưởng nào không tồn tại dưới dạng ngôn ngữ. Ngôn ngữ là biểu hiện  thực tế của tư tưởng. + Ngôn ngữ trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành tư tưởng. Mọi ý  nghĩ, tư  tưởng chỉ  trở  nên rõ ràng khi biểu hiện bằng ngôn ngữ. Không có   ngôn ngữ thì không có tư duy và ngược lại không có tư duy thì không có ngôn  ngữ chỉ là những âm thanh trống rỗng, thực chất là không có ngôn ngữ. 1.2.4: Vai trò của ngôn ngữ  đối với tư  duy và giao tiếp của con  người a. Ngôn ngữ là công cụ để phát triển tư duy, nhận thức Quá trình hình thành của trẻ  bên cạnh thể  chất là trí tuệ. Công cụ  để  phát triển tư duy, trí tuệ chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là hiện thực ( sự  hiện hữu) của tư duy. Ngôn ngữ là công cụ để học tập, vui chơi: Đây là những hoạt động chủ  yếu của trường mầm non. Giống như  việc dạy trẻ  tiếng mẹ  đẻ   ở  các cấp  Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng 13 Lớp: ĐHGD Mầm non A ­ K55
  14. học khác, phát triển lời nói cho trẻ   ở  trường mầm non thực hiện mục tiêu   “kép” . Đó là, trẻ  học để  biết tiếng mẹ  đẻ  đồng thời sử  dụng nó như  một  công cụ  để  vui chơi, học tập. Như  vậy, ngôn ngữ  cần cho tất cả  các hoạt  động và ngược lại, mọi hoạt động tạo cho ngôn ngữ trẻ phát triển. b. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp “ Con người muốn tồn tại thì phải gắn bó với cộng đồng. Giao tiếp là   một đặc trưng quan trọng của con người. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp   quan trọng nhất” (Lêni). Nhờ  có ngôn ngữ  mà con người có thể  hiểu được  nhau, cùng nhau hành động vì những mục đích chung. Không có ngôn ngữ,  không thể  giao tiếp được, thậm chí không thể  tồn tại được, nhất là trẻ  em,   một sinh thể yếu ớt rất cần sự chăm sóc, bảo vệ của người lớn. Ngôn ngữ là một công cụ hiện hữu để trẻ có thể bày tỏ những nguyện   vọng của mình từ khi còn rất nhỏ để người lớn có thể chăm sóc, điều khiển.  Giáo dục trẻ là một điều kiện quan trọng để trẻ tham gia vào mọi hoạt động  và trong hoạt động hình thành nhân cách trẻ. 1.3: Sự hình thành, phát triển ngôn ngữ của cá nhân 1.3.1: Ngôn ngữ nói Bắt đầu từ tháng 12 trở đi, ở trẻ xuất hiện những âm bập bẹ có ý nghĩa  đầu tiên và ngay lập tức trẻ huy động chúng vào giao tiếp với người lớn. Các  âm bập bẹ  nhanh chóng mất đi nhường chỗ  xho các từ  tham gia vào cáu tạo   câu sử  dụng trong giao tiếp. Những từ  đàu tiên xuất hiện, các kiểu câu đơn   giản gồm hai từ dến ba từ khiến cho khả năng giao tiếp của trẻ tang lên. Trẻ  tích cực hơn trong giao tiếp và sử  dụng ngôn ngũ để giao tiếp. Nhu cầu giao   tiếp tăng lên thúc đẩy hoạt động giao tiếp ngông ngữ; kết quả  là cá kỹ  năng  giao tiếp ngôn ngữ được hình thành. 1.3.2: Ngôn ngữ viết Trẻ luyện viết là hoạt động tập hứng thú và tự giác. Chính vì vậy, khi   dạy viết cho trẻ quan trọng nhất là giải thích để trẻ hiểu được mục đích của  Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng 14 Lớp: ĐHGD Mầm non A ­ K55
  15. việc luyện viết (lưu ý trẻ mẫu giáo chưa tiến hành hoạt động học tập). Giáo  viên mầm non chỉ khuyến khích cho trẻ nhận thức được trầm quan trọng của   chữ  viết. Trẻ  sẽ  tự  giác ngồi vào vẽ  chữ. Khi trẻ  bắt đầu có hứng thú với   chữ viết nên chuản bị dụng cụ để  giúp trẻ  luyện viết tại góc luyện viết (bút  chì, bút màu, bút vẽ.v.v…). 1.4: Trẻ mẫu giáo 1.4.1: Khái niệm trẻ em Theo quan niệm cổ: “ Trẻ em là người lớn thu nhỏ lại ”. Ở thế kỷ XYIII, nhà giáo dục, nhà văn viết học J.J. Korutxô quan niệm:   “ Trẻ em không là người lớn thu nhỏ lại. Trẻ em là trẻ em phát triển theo quy  luật riêng của trẻ em. Người lớn không thể hiểu được tâm lý trẻ em và không  nên can thiệp vào sự phát triển của trẻ em “. Quan niệm khoa học về trẻ em: Trẻ  em là một thực thể  đang phát triển, là một thực thể  tự  vận động  theo quy luật của bản thân nó. Người lớn là hình thức phủ định của trẻ em, là  giai đoạn phát triển mới của đời sống cá thể. Sự vận động tất yếu của trẻ em  đo quá trình phát triển bên trong của nó, sự  tự  phủ  định bản thân mình để  chuyển hóa sang một trình độ  mới khác về chất – trở thành người lớn – Nên  Người. 1.4.2: Sự phát triển vốn từ của trẻ Năng lực tư  duy trừu tượng gắn liền với sự  phát triển vốn từ. Được  biết rằng từ 5 đến 9 tuổi vùng trán trên võ đại não đã tham gia tích cực vào sự  phát triển lời nói, chữ viết. Vốn từ của trẻ được phát triển thuận lợi. Từ 1,5  tuổi trở đi trẻ  đã biết mở rộng phạm vi áp dụng vốn từ của mình vào những   đối tượng khác. Theo nghiên cứu của Casouy (1977), Dollaghan (1985) trẻ 18 tháng mới  biết được khoảng 50 từ  nhưng đến khi từ  3­6 tuổi đã có thể  tích lũy được   8000­ 14000 từ, trung bình 5­ 8 từ/ ngày. Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng 15 Lớp: ĐHGD Mầm non A ­ K55
  16. Điều đó cho ta thấy nếu trẻ  em  ở  nước ta được đến trường sớm và  được các cô giáo có trình độ  đạt chuẩn chăm sóc và giáo dục thì chắc chắn   ngôn ngữ sẽ tạo điều kiện căn bản cho trẻ vào lớp 1. 1.4.3: Đặc điểm tâm lý của trẻ mẫu giáo nhỡ Để xử lý tình huống xảy ra trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ là tất  cả một nghệ thuật, nhất là khi trẻ em còn ở độ tuổi thơ dại. Chính vì vậy để  vận dụng khả  năng sư  phạm của mình trong việc giải quyết tốt các tình  huống xảy ra giáo viên  ở  các trường mẫu giáo ngoài tình yêu nghề, yêu trẻ;  tinh thần trách nhiệm cao, sự cần mẫn, kiên trì còn cần phải có sự hiểu biết   nhất định về đặc điểm tâm lý của trẻ. Đối với trẻ mẫu giáo nhỡ đặc điểm đầu tiên là đặc điểm về hoạt động  vui chơi. Ở độ tuổi nào con người cũng đều tham gia vào hoạt động vui chơi,  nhưng chỉ   ở  tuổi mẫu giáo mà  ở  chính giữa cái tuổi  ấy (tứ  là tuổi mẫu giáo  nhỡ) thì hoạt động vui chơi mới mang đầy đủ  ý nghĩa của nó nhất, cũng tức   là nó đạt tới dạng chính thức và biểu hiện đầy đủ  nhất đặc điểm của hoạt   động vui chơi, nhiều hơn cả  là trò chơi đóng vai theo chủ  đề. Do đã có ít  nhiều vốn kinh nghiệm về cuộc sống nên trẻ  mẫu giáo nhỡ  đã có thể  tự  lựa  chọn chủ đề và nội dung chơi cũng như cần có bạn chơi “ tâm đâu ý hợp “ để  vui chơi bền hơn, vui hơn. Đặc điểm thứ  hai của trẻ  mẫu giáo nhỡ  là sự  phát triển mạnh tư  duy  trực quan hình tượng và có khả năng suy luận. Tiếp theo là sự phát triển đời sống tình cảm. Trong lứa tuổi ấu nhi cũng   như  lứa tuổi mẫu giáo thì tình cảm thống trị  tất cả các mặt trong hoạt động  tâm lý của trẻ; nhưng đặc biệt ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ thì đời sống tình cảm   của trẻ có một bước chuyển biến mạnh mẽ, vừa phong phú vừa sâu sắc hơn   so với lứa tuổi trước đó. Ở lứa tuổi mẫu giáo, nhất là mẫu giáo nhỡ, tình cảm của trẻ phát triển  mạnh liệt, đặc biệt là tính đồng cảm và tính dễ xúc cảm đối với con người và  Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng 16 Lớp: ĐHGD Mầm non A ­ K55
  17. cảnh vật xung quanh. Đây là thời điểm rất thuận lợi để giáo dục long nhân ái   cho trẻ. 1.4.4: Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ Từ 4­ 5 tuổi là thời điểm quan trọng để  dạy trẻ  nói, cho nên ở  trường   mầm non, các cô nuôi dạy trẻ cần tranh thủ lúc này để dạy trẻ nói. Không chỉ  dạy trẻ  nói rõ ràng, nói đúng câu mà phải dạy cho trẻ  cả  những lời nói đẹp,  những cách ứng xử đẹp với mọi người xung quanh. Trong giao tiếp hàng ngày cô nên thường xuyên nói chuyện với trẻ, đặt  câu hỏi để gợi ý trẻ kể về các sự kiện diễn ra trong ngày, hay tổ chức các trò   chơi đóng vai theo chủ đề mà trẻ đang  được học. Ví dụ: Trò chơi “ Lớp mẫu giáo của bé” trong chủ  đề  “ Trường mầm  non của bé “. Trò chơi “ Bác sĩ “ trong chủ đề “ Nghề nghiệp” . Vốn từ của trẻ mẫu giáo nhỡ tăng nhanh, trẻ hiểu được nghĩa và dung  từ đã chính xác hơn trẻ   ở độ  tuổi mẫu giáo bé; đã sử  dụng được nhiều mẫu  câu đơn giản, đúng ngữ  pháp; có thể  kể  một số  truyện ngắn một cách tuần  tự; có thể  kể  chuyện theo tranh; đóng vai mô phỏng công việc của người  lớn.v.v…Mặc âm thanh của lời nói cũng nhanh chóng phát triển. Trẻ lĩnh hội   được và phát âm đúng nhiều âm vị: phát âm từ, câu rõ nét hơn, trẻ  bắt đầu  biết điều chỉnh tốc độ, cường độ giọng nói. Ở  giai đoạn trước, sử  dụng rộng rãi biện pháp bắt chước thì  ở  giai  đoạn này giáo viên sử  dụng các biện pháp để  trẻ  tập phát âm ( sử  dụng các   bài tập – trò chơi ). Tuần tự cho trẻ phát âm tất cả các âm vị trong tiếng Việt.  Các âm vị khó nên được chú ý hơn như: S, tr, r, x, ch, l.v.v… Ở  tuổi mẫu giáo nhỡ, trẻ  phải nắm được vốn từ  cần thiết đủ  để  cho  chúng giáo tiếp với bạn bè, người lớn,tiếp thu các tri thức trong trường mầm   non, xem các chương trình truyền hình, truyền thanh.v.v… Vì thế, Giáo dục  học mẫu giáo coi việc hình thành vốn từ  là nhiệm vụ  quan trọng trong nội   dung giáo dục trẻ. Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng 17 Lớp: ĐHGD Mầm non A ­ K55
  18. 1.5: Trò chơi đóng vai theo chủ đề 1.5.1: Khái niệm Trò chơi đóng vai theo chủ  đề  là moohifnh quan hệ  xã hội của người  lớn và là phương tiện định hướng cho trẻ  vào mối quan hệ  đó. Hay nói cách  khác, trò chơi đóng vai theo chủ đề là trẻ ướm thử mình vào vị trí của người   nào đó và bắt chước những hành động của người nào đó. 1.5.2: Đặc điểm của trò chơi đóng vai theo chủ đề Trò chơi đóng vai theo chủ  đề  là do trẻ  tự  nghĩ ra ( tự  nghĩ ra dự  định  chơi, lập kế  hoạch chơi, chọn bạn chơi, phân vai chơi và tìm kiếm phương  tiện phù hợp dự định chơi ban đầu, v.v…), trẻ  luôn đứng ở  vị  trí chủ  thể  để  hành động ( chủ động thiết lập mối quan hệ với bạn cùng chơi, phát triển trò   chơi.v.v…). Trò chơi đóng vai trò theo chủ đề bao giờ cũng có các vai, có chủ đề, có  nội dung và các mối quan hệ ( quan hệ thực và quan hệ chơi ), có hoàn cảnh   tưởng tượng. Tất cả  các thành tố  này liên quan mật thiết với nhau bổ  sung  cho nhau. Nếu thiếu một trong hai thành tố  trên thì lúc  ấy không còn là trò  chơi đóng vai theo chủ đề nữa. Trò chơi đóng vai theo chủ đề mang tính tự nguyện, tính sáng tạo, tính  tự lập cao hơn so với một số trò chơi khác. 1.5.3: Cấu trúc của trò chơi đóng vai theo chủ đề Cấu trúc là yếu tố và mối quan hệ giữa các yếu tố. a. Chủ đề và nội dung chơi Chủ đề của trò chơi là mảng hiện thực được trẻ em phản ánh vào trong  trò chơi ( chủ đề dạy học, chủ đề gia đình,v.v…) Nội dung là hoạt động của người lớn được trẻ  em nhận thức và được  tái tạo lại trong trò chơi. Nội dung trò chơi được phức tạp dần theo trình độ phát triển của trẻ. Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng 18 Lớp: ĐHGD Mầm non A ­ K55
  19. +  Ở  trẻ  mẫu giáo bé (3­4 tuổi ): Trẻ  tái tạo những hành động của   người lớn. + Ở trẻ mẫu giáo nhỡ ( 4­5 tuổi): Có thêm nội dung mới đó là mối quan  hệ giữa người với người trong quá trình hoạt động chung. +  Ở  trẻ  mẫu giáo lớn ( 5­6 tuổi) : Ngoài hai nội dung trên trẻ  tái tạo  mối quan hệ bên trong cả về tình cảm, đạo đức,v.v… b. Vai chơi và hành động chơi Vai chơi là một yếu tố quan trọng tạo nên trò chơi. Hành động chơi đó là những hành động mà trẻ  em nhận thức được   những hành động của người lớn. c. Các quan hệ của trẻ trong trò chơi Trong trò chơi có hai mối quan hệ: + Quan hệ  thực: Quan hệ  giữa trẻ  em và người khác trong quan hệ  chơi. + Quan hệ chơi: Đó là mối quan hệ giữa các vai chơi, sức sống của trò  chơi phụ thuộc vào sự thiết lập và vận hành mối quan hệ giữa các vai chơi. d. Đồ chơi và hoàn cảnh chơi Đồ chơi là vật thay thế cho vật thật. Có hai loại đồ chơi đó là: + Đồ chơi người lớn làm cho trẻ. + Đồ  chơi do trẻ  tự  làm ra: Trẻ  lấy vật này để  thay thế  cho vật khác  ( lá­ tiền). Trong bốn yêu tố trên thì chủ đề và nội dung chơi quyết định tất cả các  yếu tố sau. Người lớn cần tôn trọng tính tự  nguyện, tính tự  chủ  của trẻ  trong khi  chơi. Giáo viên mầm non nên căn cứ vào nội dung giáo dục để thiết kế thành  các trò chơi cho trẻ, vừa để thỏa mãn nhu cầu của trẻ, vừa đảm bảo mục tiêu  giáo dục, giúp trẻ  lựa chọn được chủ  đề, nội dung chơi đích thực, giúp trẻ  phân vai và thiết lập các mối quan hệ  trong trò chơi. Cần tạo ra những tình  Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng 19 Lớp: ĐHGD Mầm non A ­ K55
  20. huống trong trò chơi để  trẻ  lựa chọn thực hiện kiểu  ứng xử  phù hợp. Cần  giúp trẻ tao ra những mối quan hệ tinh thần tôn trọng bình đẳng của trẻ trong   trò chơi. 1.5.4: Vai trò của trò chơi đóng vai theo chủ  đề  đối với trẻ  mẫu  giáo Những phẩm chất tâm lý và những đặc điểm nhân cách của trẻ  mẫu  giáo được phát triển mạnh mẽ nhất là trong hoạt động vui chơi. a. Hoạt động vui chơi  ảnh hưởng mạnh tới sự hình thành tính chủ  định của quá trình tâm lý. Nếu đứa trẻ  không chú ý và nhớ  những điều kiện   của trò chơi thì nó sẽ hành động tự do dẫn đến nguy cơ bị các bạn cùng chơi   không chơi cùng. Để  trò chơi được thành công buộc đứa trẻ  phải tập trung   chú ý và ghi nhớ một cách chủ định. b. Sự phát triển tư duy Trong hoạt động vui chơi, đặc biệt là trò chơi đóng vai theo chủ đề, trẻ  phải nhập vai và thực hiện các vai chơi vói vật thay thế trong khi hành động  với vật thay thế trẻ suy nghĩ về đồ   vật thực. Trẻ phải dựa vào các hình ảnh   đã biết để thực hiện vai chơi của mình. Ví dụ: Cô giáo thường có các hoạt động như: dạy trẻ đọc thơ, dạy hát,   múa,v.v… Từ đó hành động của trẻ bắt đầu rút gọn và mang tính khái quát và  chuyển dần dần vào trong đầu. Trẻ bắt chước những việc làm của cô giáo. c. Sự phát triển tưởng tượng Tưởng tượng là một quá trình nhận thức, xây dựng hình ảnh mới dựng  vào những hình ảnh đã biết. Trong quá trình chơi trò chơi đóng vai theo chủ  đề  trẻ  phải thực hiện  các hành động của các vai chơi mà phụ  thuộc vào vật thay thế. Từ  đó trẻ  buộc phải tưởng tượng ra hành động chơi. Như vậy hoạt động vui chơi quyết  định sự hình thành và phát triển tưởng tượng ở lứa tuổi này. d. Sự phát triển ngôn ngữ Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng 20 Lớp: ĐHGD Mầm non A ­ K55
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2