
1
MỤC LỤC
Trang
I. PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 2
I.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ............................................................................. 2
I.2 MỤC TIÊU NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI ..................................................... 2
I.3 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU ................................................................... 3
I.4 GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU ...................................................... 3
I.5 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .............................................................. 3
II. PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................... 4
II.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ ........................................................... 4
II.2 THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ ............................................................... 4
II.3 GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP: ....................................................................... 5
II.4: HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ( điểm kiểm tra học kỳ I)32
III: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ ..................................................................... 32
III.1 Kết luận................................................................................................. 32
III.2 Kiến nghị .............................................................................................. 32
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 34

2
I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Khi tôi bước vào lớp học là bắt gặp những ánh mắt lo sợ và những tiếng
khe khẽ cất lên “ lại giờ hoá”, “sao môn Hoá khó quá cô ơi”. .. Không phải tại
tôi là giáo viên “khét tiếng” vì hung dữ, không phải vì tôi là giáo viên luôn gây
áp lực của học sinh. Mà bởi vì các em sợ môn Hoá, khó khăn khi học môn Hoá,
sợ kiểm tra bài cũ mà không biết cách làm bài tập cũng bởi vì môn hoá khó.
Môn Hoá “khó” thì đi đâu tôi cũng nghe, nghiên cứu đề tài nào của giáo viên
cũng thấy chữ “khó” là đi đầu tiên. Đã có rất nhiều giáo viên trăn trở, suy nghĩ
viết sáng kiến kinh nghiệm nhằm cho môn Hoá bớt khó. Tôi cũng vậy là giáo
viên dạy Hoá mà khi nhìn các em nhăn mặt ngao ngán với môn Hoá tôi cũng
trăn trở vô cùng. Trong đầu tôi luôn đặt ra câu hỏi: “ làm sao để các em học sinh
hiểu Hoá dễ hơn, yêu Hoá nhiều hơn và thực sự giỏi Hoá hơn”.
Với môn Hoá đặc thù là giờ học trên lớp học toàn là lý thuyết nhưng khi
kiểm tra định kỳ hay bất cứ cuộc thi nào thì đa số là bài tập. Vậy thời gian đâu
mà giáo viên có thể truyền thụ cho học sinh phương pháp giải bài tập? Giáo viên
chúng tôi phải tranh thủ hết sức trong một thời gian ngắn: 1 tiết luyện tập, 10
phút củng cố …để dạy học sinh biết phương pháp giải bài tập. Vậy đòi hỏi giáo
viên phải hệ thống kiến thức đầy đủ, phương pháp giải nhanh nhất, dễ nhớ nhất
để truyền đạt cho học sinh.
Với những lý do trên đủ để tôi thấy rằng tôi phải nghiên cứu từng vấn đề
thật tốt và thật kỹ để làm sao học sinh dễ học nhất và dễ nhớ nhất, để khi tôi hỏi
các em là: “ môn Hoá có khó không?” các em sẽ trả lời tôi rằng : “ thưa cô môn
Hoá khó nhưng chúng em đã có cách học nên môn Hoá dễ”.
Bài tập môn Hoá rất đa dạng và phong phú về các dạng bài tập. Và tôi cũng
biết rằng rất nhiều giáo viên đã nghiên cứu, đã viết sang kiến kinh nghiệm về
các dạng bài tập. Tôi nghĩ rằng đề tài của tôi cũng không mới mẻ, sẽ có nhiều
giáo viên đã nghiên cứu đã viết. Nhưng tôi thấy rằng học sinh của mỗi trường là
khác nhau, mỗi giáo viên có cách nghiên cứu khác nhau. Tôi sẽ phải học hỏi của
những giáo viên đi trước và kết hợp với những kinh nghiệm của mình để hoàn
thành tốt hơn và áp dụng thật tốt đối với học sinh trường tôi. Nên tôi sẽ vẫn viết
đề tài nhỏ “ PHƯƠNG PHÁP NHẬN BIẾT CÁC CHẤT VÔ CƠ” chỉ với một
mong ước giản đơn là : học trò của tôi sẽ yêu môn hoá và sẽ giỏi môn Hoá.
I.2 MỤC TIÊU NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
Bài tập hoá học là một trong những phần không thể thiếu trong môn hoá học.
Làm bài tập giúp các em củng cố khắc sâu thêm kiến thức đồng thời rèn luyện
óc tư duy của các em. Bài tập phân biệt rất quan trong trong các dạng bài tập tôi

3
nhận thấy trong sách giáo khoa, sách bài tập hầu như không có chuyên đề về
nhận biết. Nên mục tiêu của tôi khi làm đề tài này là hệ thống lại toàn bộ các dấu
hiệu nhận biết, các hiện tượng đặc trưng của các chất khi tham gia phản ứng hoá
học. đồng thời hệ thống lại các chất chỉ thị các thuốc thử để dùng nhận biết các
chất. Khi đã hệ thống lại toàn bộ dấu hiệu phản ứng đặc trưng thì sắp xếp theo
từng loại, từng hợp chất thành các bảng để khi tìm để dễ dàng tìm thấy, nhận
biết và so sánh.
Các dạng bài tập của bài toán nhận biết học sinh sẽ dựa vào bảng dấu hiệu,
phản ứng đặc trưng để tìm ra các cách nhận biết. khi đã có dạng bài tập sẽ tìm ra
phương pháp giải bài toán đó nhanh nhất và khoa học nhất.
- Nhiệm vụ của đề tài:
Khảo sát các bài tập lên lớp của học sinh trường THCS Hoàng Hoa Thám
Thực trạng và phân tích thực trạng
Đánh gia rút kinh nghiệm
Đề ra các giải pháp và đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả làm bài tập nhận
biết của học sinh
I.3 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Các dấu hiệu nhận biết các chât vô cơ và các phương pháp giải các dạng
bài tập nhận biết.
I.4 GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Để học sinh học giỏi phần nhận biết môn Hoá hơn tôi chọn đề tài nghiên
cứu giới hạn trong phạm vi học sinh khối 8, 9 trường THCS Nguyễn Lân _ Quận
Thanh Xuân.
I.5 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tư liệu và sản phẩm hoạt động sư phạm
Phương pháp quan sát thực tế: quan sát các cách làm phân biệt của học
sinh
Phương pháp hỏi đáp: trao đổi trực tiếp với giáo viên, học sinh về những
vấn đề liên quan đến nội dung đề tài.
Phương pháp thống kê, phân tích số liệu

4
II. PHẦN NỘI DUNG
II.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
Bài toán về nhận biết các chất là phải dựa vào các phản ứng hoá học đặc
trưng để nhận biết nghĩa là phản ứng mà dùng để nhận biết phải là những phản
ứng gây ra các hiện tượng bên ngoài mà giác quan con người có thể cảm nhận
và cảm thụ được. Cụ thể là dùng mắt để nhận biết hiện tượng hoà tan; kết tủa;
mất màu; tạo màu hay đổi màu. Dùng mũi để nhận biết các mùi vị đặc trưng như
NH3 có mùi khai; SO2: sốc; H2S mùi trứng thối. Tuyệt đối không dùng phản ứng
không đặc trưng. Vậy đòi hỏi học sinh phải nắm vững lý thuyết về tính chất hoá
học và biết phản ứng nào là đặc trưng từ đó vận dụng làm bài tập. Nhưng để nhớ
được tính chất hoá học đặc trưng của vô số chất thì quả là khó khăn.
II.2 THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
a.Thuận lợi – khó khăn
Thuận lợi: - Được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Đảng ủy, uỷ ban nhân
dân, sự hỗ trợ nhiệt tình các ban ngành đoàn thể địa phương. Được sự quan tâm
chỉ đạo kịp thời của Phòng giáo dục và đào tạo huyện Thanh Xuân. Trong những
năm gần đây, vấn đề dạy và học môn hoá học đã và đang đổi mới và là một
trong những môn có chuyển biến mạnh mẽ về đổi mới phương pháp dạy học.
Chương trình Sách giáo khoa hoá học mới có nhiều đổi mới về mục tiêu,
cấu trúc, sự đổi mới này rất thích hợp cho giáo viên giảng dạy bộ môn hoá học
cho học sinh. Thông qua bài học học sinh có thể tự hoạt động tích cực, chủ động
sáng tạo tìm tòi phát hiện và chiếm lĩnh nội dung bài học.
Được sự đồng tình của xã hội, nhất là các bậc cha mẹ học sinh tích cực
phối hợp cùng với nhà trường trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
-Khó khăn:
Đối với học sinh trung học cơ sở thì chương trình học nặng về cả số môn
học và với cả lượng kiến thức khổng lồ. Môn Hoá học cũng thế kiến thức nhiều
mà đòi hỏi các em phải học nhớ rất kỹ thì mới có thể làm bất cứ dạng bài tập
nào.
Phòng thiết bị tuy đã có, nhưng số lượng hoá chất và dụng cụ hiện tại chưa
đủ nên không thể chia nhiều nhóm cho học sinh trực tiếp quan sát và làm thí
nghiệm qua đó giúp học sinh dễ nhớ và tiếp thu kiến thức hơn .Mà chỉ học lý
thuyết khiến các em khó nhớ hơn.
- Tâm lý chung của mọi người trong đó có Cha mẹ học sinh cho rằng đây
là môn học phụ, kết quả học tập không quan trọng lắm, vì chưa chú ý động viên
con em tích cực học tập.
b. Thành công – hạn chế

5
Thành công: Đa số các em vẫn thích học môn Hoá và cố gắng chăm học
môn hoá. Học sinh vẫn nhớ được các dấu hiệu nhận biết 1 số chất cơ bản.
Hạn chế: Nhiều học sinh không thể phân biệt được các dạng bài tập và
không nhớ nổi các phương pháp giải bài toán. Học sinh thường học rất kém môn
hoá đặc biệt phần nhận biết do lười học.
c. Mặt mạnh – mặt yếu
Mặt mạnh: Các em học sinh đa số đều chăm ngoan và có ý thức học tập.
Luôn chịu khó học bài cũ, làm bài tập hoá học và đọc trước bài mới. một số em
còn tham khảo nhiều loại sách và rèn luyện làm bài tập.
Mặt yếu: Các em chưa biết cách học tập hiệu quả, học tập máy móc không
tự tìm hiểu nghiên cứu tìm tòi sáng tạo.
Học sinh không thể nhớ nổi các phản ứng đặc trưng của vô số chất.
d. Các nguyên nhân , các yếu tố tác động
- Lượng kiến thức môn hoá 8,9 là quá nhiều, thời gian dạy trên lớp đều là
dạy lý thuyết, hầu như không có tiết luyện tập làm bài tập
- Hoàn cảnh gia đình một số học sinh còn khó khăn, cha mẹ chưa quan
tâm đến việc học hành của con
- Ý thức học tập các em chưa cao
- Cơ sở vật chất còn thiếu thốn, hoá chất và dụng cụ hiện không đủ .
II.3 GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP:
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
- Đưa ra được các phương pháp giải bài tập nhận biết truyền đạt tới học
sinh để khi học sinh gặp bất kỳ bài tập phân biệt nào cũng biết nhận dạng
và nhớ phản ứng đặc trưng của các chất để làm.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Trước tiên phải dạy cho các em biết về : Phương pháp trình bày một lời
giải về nhận biết
* Bước 1: Lấy mẫu thử.
* Bước 2: Chọn thuốc thử (tuỳ thuộc yêu cầu đề bài yêu cầu: Thuốc thử
tuỳ chọn, hay hạn chế, hay không dùng thuốc thử bên ngoài,...).
* Bước 3: Cho thuốc thử vào mẫu, trình bày hiện tượng quan sát được (mô tả
hiện tượng) rút ra kết luận đã nhận được hoá chất nào.
* Bước 4: Viết phương trình phản ứng minh hoạ.
Ta thấy rằng bước 2 là quan trong nhất học sinh phải xác định được phải
dùng thuốc thử nào, cách làm nào để phân biệt được. Muốn vậy các em phải
nắm rõ phản ứng đặc trưng mà các em có thể tìm hiểu qua các bảng mà tôi cung
cấp sau:

