intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số giải pháp nâng cao kỹ năng dạy nói tiếng Anh cho học sinh Tiểu học

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:36

31
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là đạt đến sự hiệu quả trong giao tiếp, bằng tiếng Anh với cả người bản ngữ, người sử dụng tiếng Anh như là một ngoại ngữ. GV cần làm cho người học hiểu và đạt đến khả năng sử dụng ngôn ngữ cao nhất có thể. Bên cạnh đó người thầy còn phải làm cho người học làm sao không hiểu nhầm, sai. Trong quá trình giao tiếp do những lỗi rất cơ bản như phát âm sai, sử dụng cấu trúc ngữ pháp và từ vựng không đúng… Vậy để giảm thiểu những vấn đề đó thì người thầy phải làm gì? Có vũ khí gì? Đế đạt được hiệu quả cao nhất.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số giải pháp nâng cao kỹ năng dạy nói tiếng Anh cho học sinh Tiểu học

  1. 1
  2. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Tiếng  Anh, là ngôn ngữ  toàn cầu.Tiếng Anh  là ngôn ngữ  chính thức  của hơn 53 quốc gia và vùng lãnh thổ, là ngôn ngữ  chính thức của EU và là   ngôn ngữ thứ 3 được nhiều người sử dụng nhất chỉ sau tiếng Trung Quốc và  Tây Ban Nha. Các sự  kiện quốc tế, các tổ  chức toàn cầu .… cũng mặc định  coi tiếng Anh là ngôn ngữ giao tiếp. Ngoài     ra,   tiếng   Anh   được   hơn 400   triệu   người   trên   toàn   thế   giới  dùng làm   tiếng   mẹ   đẻ,  hơn   1   tỷ   người   dùng   tiếng   Anh   là   ngôn   ngữ   thứ  hai (theo Wikipedia), những quốc gia phát triển có thu nhập đầu người cao   nhất trên thế giới đều sử dụng thành thạo tiếng Anh, hoặc được sử dụng phổ  biến, được dạy là môn học trong trường… Tiếng Anh là một ngôn ngữ Quốc tế, có tính thông dụng và là một công  cụ giao tiếp thiết yếu trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội. Thời đại toàn  cầu hoá, nhu cầu giao tiếp giữa mọi người thuộc mọi quốc gia là bắt buộc. Do vậy, việc học tiếng Anh để  giao tiếp đang trở  thành một nhu cầu  cần thiết và cấp bách. Giúp chúng ta giao lưu, tiếp cận và mở rộng hiểu biết  với nguồn tri thức tiên tiến trên thế  giới,  ở  nhiều lĩnh vực khác nhau: Khoa  học,   kĩ   thuật,   kinh   tế,   xã   hội,   y   học…   tiếng   Anh   mặc   nhiên   trở   thành   Universal Language (Ngôn ngữ vũ trụ).Trên cơ sở đó, trong lĩnh vực giáo dục,  Bộ  GD – ĐT đã có định hướng chiến lược cho việc tổ  chức dạy học môn  tiếng Anh trong trường tiểu học nhằm tạo  điều kiện, môi trường cho học  sinh được tiếp xúc với môn học này, tạo tiền đề cho việc học lên các cấp học  trên được vững chắc.Vì vậy, hiện nay toàn bộ  trẻ  em trên cả  nước từ  thành  thị đến nông thôn, đều được làm quen với bộ môn tiếng Anh từ rất sớm thông  qua việc giảng dạy trong nhà trường phổ thông. Từ  vị  trí và vai trò vô cùng quan trọng của tiếng Anh  trong  giao tiếp,  vấn đề  đặt ra cho người dạy là làm thế  nào để  giờ  dạy ­ học tiếng Anh có   hiệu quả cao, học sinh được phát triển kĩ năng giao tiếp một cách tích cực, tự  tin, mạnh dạn, chủ động và tự  nhiên trong việc sử  dụng ngôn ngữ. Trên đặc  điểm tâm sinh lý học sinh Tiểu học là dễ nhớ  nhưng mau quên, sự tập trung  chú ý trong giờ học chưa cao và không lâu, trí nhớ  chưa bền vững, thích học  2
  3. nhưng chóng chán. Vì vậy giáo viên phải làm thế nào để khắc sâu kiến thức,  mở  rộng vốn từ  tạo thói quen giao tiếp bằng tiếng Anh trên nền tâm sinh lý   đó. Muốn vậy,  giáo viên phải thực sự  đôi m ̉ ơi ph́ ương phap day hoc đ ́ ̣ ̣ ể  thay đổi nh ư ng th ự c tr ạng h ọc ti ếng Anh  ở  Vi ệt Nam nh ư  hi ện nay là:  “T ạ i sao  h ọc sinh, sinh viên đ ượ c h ọ c nhữ ng h ơ n ch ụ c năm ti ế ng Anh,   làm bài thi đ ạ t đi ể m gi ỏ i trong tr ườ ng mà khi ph ả i trình bày, hay giao  ti ế p thì đa s ố  l ạ i không nói đ ượ c b ằ ngti ế ng Anh?”  theo ( Wikipedia), đây  là v ấ n đ ề  đau đ ầ u c ủ a các nhà làm giáo dụ c cũng nh ư  cha m ẹ  h ọ c sinh,   muố n   con   em   mình   gi ỏ i   ti ếng   Anh.   Làm   th ế   nào   đ ể   tìm   đ ượ c   m ộ t  ph ươ ng pháp h ọ c ti ế ng Anh chu ẩn, giúp con em mình ti ế n b ộ  nhanh,  đạt  kiến thức và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ này.  Xu ấ t phát t ừ  nh ữ ng lí do đó, tôi m ạ nh d ạ n nghiên c ứ u và  xin được  trình bày sang kiên ́ ́ “Một số giải pháp nâng cao kỹ năng dạy nói tiếng Anh cho   học sinh Tiểu học” trước Hội đồng sang kiên cac câp. Rât m ́ ́ ́ ́ ́ ong các đông chi ̀ ́  ́ góp ý  kiến cho tôi, đê sang kiên kinh nghiêm nay đong  ̉ ́ ́ ̣ ̀  ngày một hoàn thiện  hơn. Giúp tôi và các đồng nghiệp giảng dạy  có chất lượng hơn và hơn thế  nữa là để học sinh của chúng ta giao tiếp bằng tiếng Anh tốt hơn.  2. Tên sáng kiến  Một số  giải pháp nâng cao kỹ  năng dạy nói tiếng Anh cho học sinh   Tiểu học. 3. Tác giả sáng kiến ­ Họ và tên: Cao Thị Ánh Tuyết ­ Chức danh: Giáo viên ­ Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học Hợp Thịnh – Tam Dương   – Vĩnh Phúc. ­ Số điện thoại: 0986 325 570. E_mail: khanhduyyeu2001@gmail.com. 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến  Nhà giáo Cao Thị Ánh Tuyết. Giáo viên trường Tiểu học Hợp Thịnh –  Tam Dương – Vĩnh Phúc. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến Môn tiếng Anh ở trương Tiêu hoc ̀ ̉ ̣ 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử 3
  4. Ngay 06 thang 03 ̀ ́  năm 2018 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 7.1. Về nội dung của sáng kiến 7.1.1. Cơ sở lý luận Như  chúng ta đã biết việc dạy và học tiếng Anh trong nhà trường phổ  thông đã có những thay đổi lớn về nội dung cũng như phương pháp giảng dạy  để phù hợp với mục tiêu và yêu cầu đặt ra trong chương trình cải cách. Quan  điểm cơ  bản nhất về  phương pháp mới là làm sao phát huy được tính tích   cực, chủ  động của học sinh. Tạo điều kiện tối  ưu cho học sinh rèn luyện,  phát triển và nâng cao kỹ năng sử dụng ngôn ngữ vào mục đích giao tiếp chứ  không phải việc cung cấp kiến thức ngôn ngữ thuần tuý. Với quan điểm này,   các thủ  thuật và hoạt động dạy học trên lớp cũng đã được thay đổi và phát  triển đa dạng. Chính vì thế  người giáo viên cần nắm bắt những nguyên tắc  cơ  bản của phương pháp mới, tìm hiểu các thủ  thuật và hoạt động dạy học   theo quan điểm giao tiếp sao cho có thể áp dụng được một cách uyển chuyển,  phù hợp và có hiệu quả. Trên thế giới đa số học sinh ­ sinh viên thường gặp nhiều trở ngại, khó  khăn khi học nói nhất là khi giao tiếp với người nước ngoài. Bởi vì giao tiếp  là điều kiện thuận lợi để  kích thích người học sử  dụng ngoại ngữ  đạt hiệu  quả nhất. Tuy nhiên, kĩ năng nói này đôi khi bị lãng quên bởi chúng ta chỉ đánh  giá ngôn ngữ qua trình độ, kiến thức chứ không đo lường bằng khả  năng sử  dụng ngôn ngữ. Do đó chúng ta phải chú ý rất nhiều đến kĩ năng này để trang   bị  cho học sinh khả  năng giao tiếp một cách tự  tin, lưu loát. Để  làm được   điều này người dạy cần phải tổ chức môi trường học tập hấp dẫn để thu hút  nhiều học sinh tham gia. Có được như vậy học sinh mới đủ tự tin, mạnh dạn  hơn cho việc giao tiếp một ngoại ngữ nào đó sau này.           Biết rằng kỹ  năng nói là tương đối khó để  dạy học sinh  ở  vùng nông  thôn vì vậy giáo viên cần tìm ra những phương pháp tốt nhất, phù hợp nhất  để  học sinh có thể  cảm thấy hứng thú hơn trong việc học. Cũng vì lý do đó  4
  5. trong qúa trình dạy kỹ  năng nói bản thân tôi cũng đã ít nhiều suy nghĩ,  ứng   dụng và đúc rút những kinh nghiệm để phát triển và nâng cao kỹ năng này cho  học sinh, cố  gắng tìm ra phương pháp dạy kỹ  năng nói tối  ưu nhất cho bản  thân và giúp học sinh hiểu được tầm quan trọng của môn học, cảm thấy thích  thú với môn học hơn. Tôi đã mạnh dạn chọn viết sáng kiến kinh nghiệm   “Một số  giải pháp nâng cao kỹ  năng dạy nói tiếng Anh cho học sinh Tiểu   học.” 7.1.2. Kỹ năng nói là gì? Kỹ năng nói là một trong những kỹ năng vô cùng quan trọng trong việc  học Ngoại ngữ. Nó giúp HS vận dụng những kiến thức đã học về ngữ âm, từ  vựng, ngữ pháp.... vào thực tế giao tiếp. Việc rèn kỹ năng này cần được phối  hợp chặt chẽ  với các kỹ  năng khác, tiến hành từng bước, thường xuyên để  HS có thể  vận dụng vào các tình huống giao tiếp cụ  thể. Muốn vậy người   thầy đóng vai trò rất quan trọng trong việc hướng dẫn, tổ chức để  HS có cơ  hội rèn luyện và thực hành nói tiếng Anh với thầy, với bạn trong các tình  huống giao tiếp cụ thể một cách uyển chuyển, tự tin và có hiệu quả. Việc rèn   luyện kỹ  năng nói  phải  được tiến hành thường xuyên trong các tiết học,  nhưng tập trung nhiều nhất là trong các phần  “ Point and say” và “ Let’s talk”   của sách tiếng Anh 3, 4 và 5. Chương trình tiếng Anh của Bộ GD & ĐT. 5
  6. 7.1.3. Mục tiêu dạy Kỹ năng nói làm gì? Mục tiêu của việc dạy nói là đạt đến sự hiệu quả trong giao tiếp, bằng   tiếng Anh với cả người bản ngữ, người sử dụng tiếng Anh như là một ngoại   ngữ. GV cần làm cho người học hiểu và đạt đến khả năng sử dụng ngôn ngữ  cao nhất có thể. Bên cạnh đó người thầy còn phải làm cho người học làm sao   không hiểu nhầm, sai. Trong quá trình giao tiếp do những lỗi rất cơ bản như  phát âm sai, sử  dụng cấu trúc ngữ  pháp và từ  vựng không đúng… Vậy để  giảm thiểu những vấn đề  đó thì người thầy phải làm gì? Có vũ khí gì? Đế  đạt được hiệu quả cao nhất. 7.1.4.Các bước dạy kỹ năng nói là gì? Tương tự như các bài dạy kỹ năng khác tiết luyện nói “Speaking”  cũng  thường được tiến hành theo 3 giai đoạn: +) Giai đoạn 1. Pre­ Speaking (Presentation): Trước khi dạy nói. +) Giai đoạn 2. While­ Speaking (Practice): Trong khi dạy nói. +) Giai đoạn 3. Post – Speaking (Production): Sau khi dạy nói. Mỗi giai đoạn của tiết “Speaking” có một nhiệm vụ và mục đích khác  nhau nên ở mỗi giai đoạn lại có các thủ thuật và phương pháp tiến hành riêng. 7.1.5. Tinh trang cua giai phap đa biêt ̀ ̣ ̉ ̉ ́ ̃ ́ 7.1.5.1. Tình trạng xã hội 6
  7. Qua thực tế cho ta thấy rằng, việc học ngoại ngữ và sử dụng ngoại ngữ  để  giao tiếp là một vấn đề  còn lan giải  ở  nước ta. Theo Ông Nguyễn Tuấn  Hải ­ nhà sáng lập Eton Grammar School ­ nhận định phổ  điểm ngoại ngữ  trong kỳ thi THPT quốc gia 2015 cho thấy sự  thất bại toàn diện của chương  trình đào tạo tiếng Anh bậc phổ thông những năm qua. Ông cho rằng  Đề  án  ngoại ngữ quốc gia bao năm nay vẫn chỉ tập trung  đào tạo tiếng Anh "chết":  Không có kỹ năng thực hành, chỉ  thi viết về từ vựng, ngữ  pháp và đọc hiểu;  những thứ đơn thuần là giải bài tập… 7.1.5.2. Tình trạng học sinh Qua chia sẻ  của du học sinh Thanh Huyền học chuyên ngữ  8 năm: "Đỗ  đại học, thi IELTS đạt 7.5, tôi nghĩ mình giỏi tiếng Anh. Sau 2 năm  ở  Nhật   Bản, tôi nhận ra mình lãng phí 8 năm học ngoại ngữ   ở  Việt Nam"   (du học  sinh Thanh Huyền viết).  Đang du học tại Nhật Bản, Thanh Huyền ­ sinh   viên ĐH Osaka ­ chia sẻ về thời gian học tiếng Anh khi còn học phổ thông và  đại học trong nước. “Hai năm trước, tôi tự tin sang Nhật Bản với bảng thành tích học tập không   đến nỗi nào cùng chứng chỉ IELTS 7.5. Tuy nhiên, niềm tin vào năng lực bản  thân nhanh chóng sụp đổ  khi tôi phát hiện mình gần như  không theo kịp tốc   độ  nói chuyện của các du học sinh khác, dù họ  cũng đến từ  những nước  không nói tiếng Anh như Trung Quốc, Hàn Quốc... Tôi thấy áp lực vô cùng khi vừa phải ôn thi N1 (năm nhất), ôn thi học kỳ vừa   học tiếng Anh để thi TOEFL ­ yêu cầu bắt buộc của trường. 7
  8. Nhiều người sẽ không tin câu chuyện về nữ sinh chuyên ngữ học tiếng   Anh 8 năm, khi du học lại sợ  một kỳ  thi và không thể  giao tiếp với người   nước ngoài. Song, đó là những gì tôi đang phải đối mặt sau hai năm học nơi   đất khách. Ngẫm lại những năm học phổ  thong tôi thấy mình lãng phí quá  nhiều”.Theo ZING.VN Thực trạng về  kết quả  giờ  thực hành nói của học sinh, đầu năm học   2018 ­ 2019 tại trường Tiểu học Hợp Thịnh.   ­ Về điểm số. Điêm̉   Điêm̉   Lơṕ   Số  Điêm̉   dươí  5­6 ̉ Điêm 9­10 thử  HS  7­8 5 nghiệ dự  Số  Tỉ   lệ  Số  Tỉ   lệ  Số  Tỉ   lệ  Số  Tỉ   lệ  m KS lượng % lượng % lượng % lượng % 4A 31 16 51,7 10 32,0 4 13,0 1 3,3 3,0 4B 30 17 57,0 9 30,0 3 10,0 1 4C 30 20 66,0 6 20,0 4 14,0 0 8
  9. 4D 29 20 68,9 8 28,0 1 3,1 0              *) Qua kết quả thống kê cho thấy rằng. Tỷ lệ HS trong phổ điểm                     +) Dưới trung bình chiếm: 60, 9 % +) Trung bình chiếm: 27, 5% +) Khá: 10 % +) Giỏi:  1, 6% ­ Thực trạng về  kết quả  giờ  thực hành nói của học sinh lớp 4A, đầu  năm học 2017­ 2018 tại trường Tiểu học Bình Xuyên. Điêm̉   Điêm̉   Lơṕ   Điêm̉   dươí  5­6 ̉ Điêm 9­10 thử  Số  7­8 5 nghiệ HS  Số  Tỉ   lệ  Số  Tỉ   lệ  Số  Tỉ   lệ  Số  Tỉ   lệ  m dự  lượng % lượng % lượng % lượng % KS 4A 32 15 47,0 10 31,2 4 12,5 3 9,3 ­ Thực trạng về kết quả giờ thực hành nói của học sinh lớp 4A, đầu năm học  2017­ 2018 tại trường Tiểu Vĩnh Tường – huyện Vĩnh Tường – tỉnh Vĩnh  Phúc. Điêm̉   Điêm̉   Lơṕ   Điêm̉   dươí  5­6 ̉ Điêm 9­10 thử  Số  7­8 5 nghiệ HS  Số  Tỉ   lệ  Số  Tỉ   lệ  Số  Tỉ   lệ  Số  Tỉ   lệ  m dự  lượng % lượng % lượng % lượng % KS 4A 33 14 42,4 12 36,4 4 12,2 3 9,0 *) Nhìn chung, các em với tâm lý rất căng thẳng, sấu hổ và sợ nói tiếng   Anh thậm chí còn không nói được. 7.1.5.3. Tình trạng giáo viên  Giáo viên tuy có nhiều cố gắng trong việc vận dụng phương pháp giảng  dạy theo hướng tích cực hóa các hoạt động của học sinh, nhưng giáo viên chỉ  có thể áp dụng được đối với một số bài, một số tiết và một số bộ  phận học  sinh. Nguyên nhân một phần là do nội dung chương trình sách giáo khoa còn  quá dài, sĩ số học sinh đông trong một lớp, sức học của học sinh còn hạn chế,  chưa đồng đều. Một phần do một số  giáo viên còn chưa thực sự  đầu tư  cho   9
  10. chuyên môn. Từ  những thực trạng trên,  là mộtgiáo viên dạy tiếng Anh lâu  năm, tôi luôn xác định mình phải làm thế nào để thay đổi, cải thiện thực trạng  này. Để  học sinh phát huy được tính mạnh dạn và thói quen nói tiếng Anh   một cách tự  nhiên. Từ  đó nâng cao hiệu quả  việc học và phát triển kỹ  năng  nói tốt hơn. Hiểu rõ mục tiêu của môn học ngoại ngữ là giúp học sinh có khả  năng giao tiếp tốt. Bằng các phương pháp mới đã được học, bằng sự sáng tạo  của bản thân, tôi đã thử nghiệm tìm mọi cách để hướng dẫn học sinh học có   hiệu quả hơn trong các tiết luyện nói, tạo mọi cơ  hội thuận lợi để  học sinh   được thực hành nói tiếng Anh càng nhiều càng tốt. Từ năm 2017, tôi đã đi sâu  đầu tư nghiên cứu, thử nghiệm một số phương pháp cải tiến kỹ năng dạy nói   tiếng Anh, để  dần nâng cao hiệu quả  của giờ  dạy, nâng cao khả  năng nói  tiếng Anh cho học sinh.  7.1.6. Nhưng nôi dung c ̃ ̣ ải tiên, sang tao đê khăc phuc nh ́ ́ ̣ ̉ ́ ̣ ưng nh ̃ ược   điêm cua giai phap đa biêt ̉ ̉ ̉ ́ ̃ ́ Chúng ta biết rằng Nghe ­ Nói ­ Đọc ­ Viết là bốn kĩ năng ngôn ngữ  cần   phải được rèn luyện và diễn ra một cách đồng thời trong quá trình dạy và học  ngoại ngữ. Chúng vừa là phương tiện và cũng là mục đích của việc học bộ  môn này. Trong những năm qua, bước đầu chúng ta đã áp dụng việc đổi mới   phương pháp giảng dạy tiếng Anh nhằm giúp học sinh nắm được cách học   một cách chủ  động, tích cực và đáp  ứng được yêu cầu là học sinh phải sử  dụng được ngữ liệu đã học vào các hoạt động giao tiếp một cách có hiệu quả  hơn.           Chính vì vậy, trong chương trình giảng dạy tiếng Anh  ở trường Tiểu   học hiện nay, cùng với giáo trình tiếng Anh 3, 4, 5 của Bộ GD&ĐT đã nhấn   mạnh vào khả  năng giao tiếp theo một hệ  thống ngữ pháp có kiểm soát cẩn   thận. Học sinh được lấy làm trung tâm và luôn được khích lệ  giao tiếp với  nhau.  Qua nhiều năm giảng dạy tiếng Anh, cùng với sự trải nghiệm bản thân.  Tôi thấy rằng để  phát triển được kỹ  năng nói thì không thể  thiếu một số  phương pháp tối ưu sau.  ­ Tăng cường thời lượng cho kỹ năng thực hành giao tiếp của học sinh   bằng tiếng Anh ­ Thường xuyên rèn kỹ năng phát âm trong các tiết học ngoại gữ. ­ Rèn luyện tín hiệu phi ngôn ngữ khi giao tiếp. ­ Luyện tín hiệu ngôn ngữ khi giao tiếp. ­ Tập cho học sinh phản xạ nhanh bằng tiếng Anh. 10
  11. ­ Tổ chức thực hành nói theo cặp­ nhóm. ­ Tổ chức “Đôi bạn nói tiếng Anh” hoặc “Nhóm bạn nói tiếng Anh”. ­ Nghiêm túc thực hiện các bước luyện nói cho HS. ­ Cách sửa lỗi sai cho học sinh khi chúng mắc lỗi. 7.1.6.1.Tăng thời lượng cho thực hành giao tiếp Chúng ta đừng nhầm tưởng rằng, tăng thời lượng cho thực hành giao  tiếp tiếng Anh là chỉ dành cho một tiết học, mà thời lượng ở đây là muốn đề  cập đến thói quen luyện nói tiếng Anh ở mọi lúc, mọi nơi, và mọi hoàn cảnh   có thể. Dần tiến tới tạo được một môi trường nói tiếng Anh. Vì chỉ khi chúng   ta nói ra, sử  dụng nó thì nó mới là ngôn ngữ  “sống”, ngôn ngữ  thật và đạt   mục tiêu của giao tiếp. 7.1.6.2.Rèn luyện phát âm cho học sinh Trong quá trình giao tiếp bằng ngoại ngữ, muốn người khác hiểu được  nội dung mình muốn nói gì, yêu cầu gì …, thì người nói cần phải phát âm từ  và câu một cách rõ ràng, chính xác.Với đặc điểm học sinh của tôi,  ở  vùng  nông thôn do không có điều kiện tiếp xúc với người nước ngoài, ít nghe băng  đĩa tiếng Anh nên có xu hướng phát âm tiếng Anh theo cách Việt hoá. Vì vậy   ngay từ   đầu bản thân tôi luôn xác  định rằng, phải cố  gắng phát  âm thật  chuẩn, để các em bắt chước và tận dụng mọi cơ hội để các em được nghe và  tiếp xúc với tiếng Anh đây là một trong những yếu tố cơ bản trong việc dạy   nói. Ở kỹ năng này, giáo viên phải kiên trì luyện tập phát âm cho học sinh để  tạo cho các em có thói quen phát âm đúng. *) Một số trường hợp khó khi phát âm và một số cách để phát âm đúng ­ Tập cho các em thói quen đọc nối âm: Ví dụ: It’s apen.                       It is a book.                               There is a cloud.                                  Look at him. ­  Luyện cho học sinh phát âm đủ  cả  các âm trong từ  (Pronounce all the   sounds in words) Để  thực hiện được thủ  thuật này thì trước hết là. Luyện nói tiếng Anh  với tốc độ chậm sẽ giúp người học có thời gian tập trung đến các âm có trong   từ. Có thể  trong khi giao tiếp, người nói có thể  bỏ  sót âm cuối hay âm giữa  của từ, hoặc những âm tiết không phải là trọng âm trong từ. Điều này không  ảnh hưởng đến người nói nhưng lại gây khó khăn cho người nghe để  hiểu  được đúng. Chính  vậy, Phải hướng  học sinh nên tập trung tới từng âm trong   11
  12. từ  và không bỏ sót âm nào đặc biệt là  những âm cuối của từ như   “s”, “ed”,  “t”, “p”,  v.v…Cần chú ý luyện tập cho các em cách phát âm có đủ  các âm  cuối, vì khi phát âm thiếu âm cuối của từ  thì không khác nào nói tiếng Việt   không có dấu. Ví dụ: bat, notebook, good/ goods.  ­ Đối với hình thức số nhiều (plural) cần luyện tập cho các em phát âm: +) S là /s/ khi đứng sau phụ âm vô thanh như: Ví dụ: casettes, kites, notebooks +) S phát âm là /z/ khi đứng sau nguyên âm hoặc phụ âm hữu thanh như: Ví dụ: robots, bats, tables          +) S phát âm là /iz/ khi đứng sau những âm như: ­s­, ­z­, ­sh­,­t∫ Ví dụ: pencil cases ­ Ngoài ra, một số  âm rất khó phát âm, ngay cả  với học sinh bản ngữ  cũng mắc phải.   +) Âm /r/ là âm khó, học sinh chú ý môi thầy cô, chu môi ra sau đó mở  tròn miệng: r r r   +) Âm /th/ chỉ cho học sinh đạt lưỡi giữa hai hàm răng. Chú ý cắn nhẹ  đầu lưỡi khi đọc âm này.  Ví dụ: this, they, these   +) Âm /l/ bắt đầu đặt đầu lưỡi đằng sau răng trên         Trong quá trình dạy, nếu một học sinh gặp khó khăn khi phát âm một   yếu tố nào đó.  Giáo viên không nên bắt học sinh đó đứng dậy đọc đi đọc lại  nhiều lần mà nên yêu cầu cả lớp đọc đồng thanh mẫu đó vài lần. Sau đó học  sinh tiếp tục luyện tập và khi đó giáo viên có thể tiếp tục giúp đỡ những học  sinh khác. 7.1.6.3.Rèn luyện ngữ điệu cho học sinh Ngữ  điệu (Intonation) được hiểu đơn giản là việc nên hay xuống của  giọng nói. Người nghe có thể hiểu nhầm hoặc hiểu sai hoàn toàn ý của người   nói. Khi người nói sử dụng sai ngữ điệu. Bởi ngữ điệu được ví như  hồn của  câu. Thực sự, ngữ  điệu có  ảnh hưởng không nhỏ  tới việc tiếp nhận những   thông tin trong giao tiếp. Đặc biệt là trong tiếng Anh, ngữ điệu không chỉ giúp  người nghe đoán, hiểu được điều ta đang nói, muốn nói mà còn thể  hiện cả  thái độ, ý tứ, ngầm trong lời nói.Vây khi hoc sinh rèn luyện tốt cách nói trọng   âm và ngữ điệu chuẩn thì không chỉ nói tốt mà còn phát âm chuẩn. ­ Cần chú ý: Dấu nhấn (Stress), nhịp điệu (Rhythm), ngữ âm, ngữ điệu  (Intonation)  là những yếu tố  quan trọng trong khi nói tiếng Anh. Nó giúp  12
  13. người nghe hiểu chính xác được nội dung cuộc nói chuyện mà người nói  muốn truyền tải.    +) Có ba mức độ nhấn: Nhấn chính (The Primary Stress).                                                Nhấn phụ (The Secondary Stress).                                                Không nhấn (The None­ Stress).  Thông thường trong tiếng Anh, dấu nhấn chính thường đặt vào những  từ mang ý nghĩa nội dung quan trọng, trọng tâm của câu.    +) Âm điệu, ngữ điệu: Lên giọng ở cuối câu hỏi Yes­No.                                                       Are you sure?                                              Xuống giọng ở cuối câu hỏi Wh­questions.                                                      What would you like to eat?                                             Xuống giọng ở cuối câu khẳng định…                                                      I like an ice­ cream 7.1.6.4. Rèn luyện tín hiệu phi ngôn ngữ ­ Tín hiệu phi ngôn ngữ là một trong những phương thức giao tiếp rất   hữu  hiệu. Ngay trong khi ta không nghe được lời nói, hay hiểu lời nói thì nó là  ngôn  ngữ duy nhất để biểu cảm và truyền tải thông tin. ­ Kiểm soát cách nhìn (nhìn xa, gần, nhìn vào người đang đối thoại, cần  thể hiện ánh mắt linh hoạt, tập trung…) tránh kiểu nhìn lơ  đểnh, mông lung   khi đang nói, giao tiếp với người đối diện. ­ Chú trọng đến yếu tố cử chỉ điệu bộ  (khuôn mặt, ánh mắt, nụ  cười,  body language, gật đầu, lắc đầu…). ­ Giữ tác phong lịch sự khi giao tiếp (đầu tóc, quần áo, sắc thái…) luôn   phải đảm bảo đúng chủ đề, phong tục, lễ nghi, hoàn cảnh. ­ Giáo viên cần phải rèn luyện cho người học nghiêm túc thực hiện các  yêu cầu trên mỗi ngày. Cần chú ý rằng, cung cấp cho học sinh ngữ liệu không  khó bằng việc sử dụng ngữ liệu đó vào giao tiếp thật. Vậy giáo viên cần tạo   điều kiện cho học sinh có thời gian thực hành nói thường xuyên hơn để  giúp  các em tự  tin, mạnh dạn giao tiếp bằng ngoại ngữ. Qua đó cũng giúp chúng  phát hiện những hạn chế và tự  sửa sai nhưng tuyệt đối không gây cảm giác  sấu hổ, tự ti. 7.1.6.5. Luyện tín hiệu ngôn ngữ ­ Nói đủ chậm (Always speak slowly enough) 13
  14. Bởi vì hầu hết học sinh đều cho rằng nói tiếng Anh càng nhanh sẽ càng giống   với người bản xứ  bởi đa số  người học tiếng Anh đều thấy khó nắm bắt   thông tin khi nghe người bản xứ  nói vì họ  nói khá nhanh. Tuy nhiên, quan  điểm “ nói càng nhanh càng tốt ” là không hoàn toàn chính xác. Nên khuyên  học sinh trước hết hãy cố  gắng nói chậm để  nói đủ  âm và chính xác. Nếu   như  học sinh nói chậm lại thì âm điệu và trọng âm của họ  sẽ  trở  nên nhẹ  nhàng hơn, trái lại giọng điệu phát âm của họ sẽ nặng và khó hiểu hơn, điều  này cũng dễ  hiểu bởi vì người học sẽ  không có đủ  khả  năng  để  hình thành  âm vị và ngữ điệu chính xác, hãy “điều khiển” tốc độ nói phù hợp như nguyên  tắc nói căn bản để có thể đạt được những gì người dạy mong muốn. ­ Nói đủ lớn (Speak loudly enough) Đây là yếu tố  quan trọng trong giao tiếp. Bởi dù bạn nói với 1 người,  10 người hay cả  trăm người thì bạn cũng cần phải nói đủ  lớn để  tất cả  những người có mặt đều có thể  lắng nghe bạn nói, một cách dễ  dàng. Nếu  như bạn nói quá nhỏ, điều gì sẽ xảy ra? Và ngược lại thì sao?  Khi nói đủ âm  lượng (cường độ, cao độ…) giọng điệu gây sự chú ý, gây cảm tình với người  đối diện. Thực hành nói với một âm lượng phù hợp, sẽ giúp bạn tự tin hơn, thu hút  được người nghe và gây được thiện cảm hơn. Có thể  điều chỉnh được âm  lượng của mình phù hợp với từng không gian và hoàn cảnh khác nhau không?   Nên tốt nhất mỗi ngày dành ra khoảng 15 đến 20 phút để  thực hành phát âm   tiếng Anh bằng cách đọc to thành tiếng các từ, các câu, các đoạn văn bằng  tiếng Anh. Nếu học sinh thực hành thường xuyên hàng ngày trong vòng 3   tháng, thì cơ miệng của họ sẽ phát triển phù hợp cho việc nói một ngôn ngữ  mới. Có thể ghi âm lại giọng nói của mình và nghe lại những từ mình phát âm  sai. Mọi người thường ghét phải nghe giọng của chính mình và thường có xu  hướng tránh nghe giọng mình nói. Tuy nhiên, đây là một cách thực hành khá   quan trọng vì bằng cách này bạn có thể  nhận ra những lỗi mà mình thường   mắc phải. ­ Phù hợp với cuộc nói chuyện, thể hiện sắc thái biểu cảm (vui, buồn,  ngạc nhiên, tò mò…). ­  Bỏ thói quen xấu thông thường trong khi nói (ờ….à…). ­ Nên sử dụng cấu trúc ngữ pháp đơn giản (Using simple structures) Bởi khi nói, sẽ không ai để ý đến việc bạn dùng cấu trúc đơn giản hay   phức tạp để đánh giá khả năng của bạn và thậm chí là cũng không ai nhận ra   mức độ của các cấu trúc mà bạn đang sử dụng. Nên hãy sử dụng cấu trúc và   mẫu câu đơn giản triệt để để thuận tiện cho việc giao tiếp 14
  15. 7.1.6.6. Tập cho học sinh phản xạ nhanh bằng tiếng Anh ­ Thay thế từ không biết bằng một cụm từ khác đã biết, không sấu hổ  khi nói sai. ­ Suy nghĩ bằng tiếng Anh, không nên dịch từ sang tiếng Việt Một trong những sai  lầm nghiêm trọng là chúng ta có khuynh hướng  “dịch” (từ tiếng mẹ đẻ sang tiếng Anh) trước khi nói. Việc này ngay lập tức  sẽ tạo ra một rào cản ngôn ngữ. Ví dụ, khi chúng ta muốn bỏ một cuộc hẹn,  chúng ta sẽ nghĩ trong đầu: “tôi muốn huỷ bỏ cuộc hẹn đó”. Sau đó chúng ta  dịch câu đó sang tiếng Anh. Chúng ta sẽ xa đà vào dịch “word by word” và còn   gặp vấn đề khi chúng ta có thể không nhớ hoặc không biết các từ “cancel” và  “appointment”   để   hình   thành   câu   hoặc   có   từ   thì   không   đúng   văn   phong…  Trong khi đó nếu suy nghĩ bằng tiếng Anh ta chỉ cần nhớ mẫu câu từ chối “I   would   like   to……   (cancel   the   appointment)”   .   “I'm   sorry.   I'm   not   free  tomorrow” hay “I am afraid I can’t come tomorrow”, v.v.        Ví dụ: Khi được hỏi: Where do you go?    Thì học sinh phải hiểu và trả  lời ngay: I go to…chứ không nên ngầm dịch sang tiếng Việt rồi mới trả lời. 7.1.6.7. Tổ chức thực hành nói theo cặp­ nhóm ­ Đây là hoạt động đắc lực và lý tưởng nhất trong quá trình luyện nói. ­ Tất cả học sinh sẽ được làm việc cùng một thời gian. - Giúp chúng ta giải quyết được nhiều vấn đề. ­ Học sinh học tập lẫn nhau trong quá trình luyện tập, đó là cơ  hội để  chia sẻ thông tin và hỏi những điều mình chưa rõ, đồng thời người thầy cũng  dễ dàngkiểm soát học sinh bằng cách đi đi lại lại trong lớp, lắng nghe và can  thiệp khi cần thiết. *)  Chú ý: Vấn đề  được đặt ra của giáo viên phải giao nội dung kiến   thức  tương đồng nhau giữa các nhóm và việc quán xuyến của giáo viên trong quá trình hoạt động nhóm. *) Một số hoạt động theo cặp – theo nhóm được áp dụng: a. Find Someone Who    Với hoạt động này, sẽ giúp các em tự nhiên trong giao tiếp. Các em sẽ  hỏi bất cứ bạn nào để lấy thông tin. b. Picture Story  ­ Giáo viên sưu tập các bộ  tranh,  ảnh có nội dung phù hợp với chương   trình đã học. 15
  16. ­ Giáo viên làm mẫu, sắm các vai trong chuyện tranh, dùng gợi ý ở tranh   làm lời cho nhân vật. Học sinh quan sát và sau đó tập đóng vai theo các nhân  vật trong tranh.        ­ Giáo viên có thể gợi ý bằng những câu hỏi như:                “What is happening in picture A?”                “What do you see in picture B?’’ ­ Giáo viên có thể  yêu cầu học sinh sắp xếp lại tranh theo đúng trật tự  tình   tiết của câu chuyện. ­> Sau đó học sinh nhìn tranh kể lại nội dung chính. ­ Giáo viên có thể yêu cầu học sinh lắp ghép tranh với lời kể: Ghi lời kể   vào các tấm bìa cứng, xếp tranh và lời kể lộn xộn ­> Yêu cầu học sinh quan   sát  tranh và ghép với lời kể sao cho trật tự của tình tiết dạy trong tranh cũng  là trật tự của lời kể ghi trên tấm bìa đó.       ­ Với hoạt động này, học sinh nhìn tranh để kể lại câu chuyện hoặc một   đoạn hội thoại. Nếu thực hành thường xuyên, HS sẽ luyện được tính độc lập  trong giao tiếp và sẽ sắp xếp được ý tưởng khi trao đổi, kể chuyện hoặc giới  thiệu về một hoạt động nào đó. c. Mapped Diologue Hoạt   động  này,  HS  sẽ  nhìn  tranh   hoặc   từ  gợi  ý   rồi  các   em  sẽ  nói  chuyện,  đối thoại với nhau một cách tự  do theo cảm nhận của mình về nội dung. Do  vậy  các em rất tự nhiên và thoải mái, không phải gò bó theo một hạn định. You            :  It’s sunny today Your friend:  Let’s play with a yo­yo. You             :  No. Let’s jump rope. Your friend:  Ok. What time? You             :  4 p.m Your friend:  Ok. d. Chain drills ­  Giáo viên nêu chủ đề cần luyện tập. ­ Giáo viên bắt đầu bằng việc đặt một câu hỏi cho học sinh thứ  nhất.  Học sinh đó trả lời câu hỏi của giáo viên xong có nhiệm vụ  đặt một câu hỏi  khác cho một học sinh tiếp theo. Học sinh này có nhiệm vụ trả lời và đặt tiếp  một câu hỏi cho bạn thứ ba, cứ thế hình thức luyện tập dây chuyền này được  tiếp tục. 16
  17. ­ Các câu hỏi theo chủ  đề  nhưng có thể  không cần phát triển thành lời  thoại liền ý.         e. Groupings ­  Giáo viên phân chia lớp thành nhiều nhóm. Phát cho mỗi nhóm trưởng  một bản danh sách có ghi tên các từ, ngữ  theo chủ  điểm. Nhiệm vụ  của các  bạn khác là phải bổ sung thêm các từ, ngữ khác cho mỗi chủ điểm đó. ­  Nhóm trưởng điều khiển để  các thành viên trong nhóm tìm được càng  nhiều từ, ngữ theo chủ điểm bao nhiêu càng được nhiều điểm bấy nhiêu (mỗi   từ phải kèm theo một định nghĩa đúng). Ví dụ: Rooms in the house. 1. Living room: The place where we often welcome our guests 2. Bedroom: ……………………………………………………………….. 3. Dining room: …………………………………………………………… 4. Kitchen: ………………………………………………………………… 5. Bathroom: ……………………………………………………………… g. Charactors +) Trò chơi đóng vai nhằm củng cố  những hiểu biết của học sinh về  chức năng của một cấu trúc nào đó trong những hoàn cảnh tự nhiên hơn. +) Phân chia mỗi nhóm đóng một cảnh theo chủ đề giáo viên yêu cầu: Ví dụ: Thu lượm thông tin cho một kỳ nghỉ trọn gói.             Phàn nàn muốn đổi một món quần áo mới mua hôm trước. 7.1.6.8.Tổ chức “Đôi bạn nói tiếng Anh” hoặc “Nhóm bạn nói tiếng  Anh” ­ Ở trường, qua quá trình tìm hiểu địa bàn cư trú của học sinh, các em ở  gần nhà nhau rất nhiều, một xóm luôn có một số  em học cùng lớp.  Vì vậy,  giáo viên nên tổ chức cho các em thành lập đôi bạn nói tiếng Anh hoặc nhóm  bạn nói tiếng Anh ở nhà hoặc thời gian rảnh. ­ Sau mỗi tiết học trên lớp, giáo viên gợi ý đề  tài, mẫu câu, mẫu hội   thoại. Học sinh về nhà tự  tìm ý tưởng và vốn từ vựng để nói với nhau. Mục  đích giáo viên củng cố  từ  vựng, mẫu câu, giúp các em nói theo hướng “Nói  tiếng Anh tự nhiên”. ­ Trước mỗi tiết học giáo viên cho các đôi bạn hoặc nhóm bạn trình bày  trước lớp. Giáo viên có nhiều hình thức khen thưởng để  động viên tinh thần  cho các em. 7.1.6.9. Các bước luyện nói cho HS trong giờ dạy nói 17
  18.    Trong quá trình luyện nói cho học sinh, giáo viên phải luôn tuân theo   đúng quy trình sau: Giai đoạn 1: Pre­ Speaking (Presentation)­Trước khi dạy nói Đây là giai đoạn mà hoạt động chủ yếu là của thầy, thời gian dành cho  phần này chỉ khoảng 10% số thời gian cho tiết học nói nhưng nó vô cùng quan  trọng , vì ở giai đoạn này giúp học sinh định hướng được nội dung, chủ điểm  và cũng như   mục tiêu của tiết học. Hơn thế nữa nó còn gây, tạo tâm lí hào   hứng, hứng khởi cho người học.  Ở  giai đoạn này, giáo viên phải thực hiên  một cách đơn giản nhất nhưng lại phải rõ ràng nhất để  đạt hiệu quả  cao  nhất. Thông thường ngữ  liệu mới đã xuất hiện trong phần look, listen and  reapeat. Phần này giáo viên chỉ  cần gợi ý cho học sinh nhắc lại cấu trúc và   hướng dẫn thêm một số  kiến thức mới nếu có. Như  giới thiệu từ  vựng và   mẫu câu thông qua “meaningful contexts” (nội dung ý nghĩa và chủ  đề  bài  khóa). Bằng các thủ  thuật để  gợi mở, giới thiệu từ  vựng như  (mime (điệu  bộ), realia (vật thật), synonym/antonym (đồng nghĩa/ trái nghĩa), situation(nêu  tình huống)…, còn một số  các thủ  thuật thường sử  dụng để  giới thiệu mẫu   câu trong giai đoạn này như: ­ Dialogue/text (Đối thoại/đoạn văn). ­ Rub out and remember dialogue/text (Ghi nhớ đoạn thoại). ­ Dialogue build (xây dựng lại đoạn thoại) ­ Realia (dùng chính mẫu câu trong đoạn thoại ) ­  Pictures/Picture   story   telling   (hình   ảnh   biểu   tả   lại   nội   dung   đoạn  thoại) ­ …….. Sau khi gợi mở mẫu câu, giáo viên cho học sinh đọc lại mẫu, giáo viên  tiến  hành   concept   –  checking   (khái  quát   lại),   check   meaning,  form,  use   và  pronunciation (kiểm tra lại về  nghĩa, dạng, cách dùng, phát âm và ngữ  điệu  của câu) để  rút ra mẫu câu, và chuyển sang giai đoạn tiếp theo. Giai đoạn 2: While­ Speaking (Practice)­Trong khi dạy nói Đây là giai đoạn chính của giờ  “Speaking” thực hành nói.  Ở  giai đoạn  này chiếm 80% thời lượng một giờ  thực hành tiếng và vai trò của thầy là  10%. Ở giai đoạn này giáo viên phải hướng dẫn cụ thể những hoạt động mà  học sinh phải làm. Như dùng tranh ảnh hoặc những gợi ý… .  Học sinh được  luyện   tập   dần   dần   từ   Controlled   (Thực   hành   theo   nguyên   mẫu)    Less  controlled (Thực hành theo mẫu có sáng tạo chút ít)     Free practice (giai  18
  19. đoạn sau) (Thực hành theo sáng tạo tự do có thể). Được luyện tập theo cặp,   nhóm, cá nhân theo sự điều khiển của giáo viên, dựa trên những gợi ý mà giáo  viên cung cấp.Với học sinh lớp 3 có thể luyện tập dần theo qui trình sau. ­ Teacher models or with a student. (giáo viên làm mẫu hoặc làm mẫu  với học sinh) ­ Teacher             WC. (giáo viên với cả lớp) ­ Half         Half. (giáo viên với nhóm học sinh) ­ Student in close pairs. (học sinh trong cùng nhóm) ­ Open pairs. (HS thực hành với học sinh khác nhóm) Với HS lớp 4,5 có thể thực hành luyện tập: ­ Teacher models. (giáoviên làm mẫu) ­ Close pairs. (học sinh tự thực hành trong nhóm) ­ Open pairs. (HS thực hành với bạn khác nhóm) Nếu làm việc theo nhóm cũng theo qui trình tương tự.     Điều này giúp HS dần tự  tin, hào hứng, mạnh dạn hơn khi đứng lên nói.   Tùy thuộc vào nội dung, yêu cầu của từng bài học mà giáo viên có thể  vận  dụng phương pháp một cách linh hoạt, phù hợp làm sao để  học sinh cảm  thấy, nhận thấy rằng chúng đang sử  dụng ngôn ngữ  mới một cách dễ  dàng,  thuận lợi và luôn đúng. Giai đoạn 3: Post ­ Speaking (Production) Nói tự do, sáng tạo. Đây là giai đoạn sản sinh lời nói sau khi lĩnh hội kiến thức, Ở giai đoạn  này vai trò của GV gần như là không. Vì  không nên hạn chế về ý tưởng cũng   như  ngôn ngữ. Nên để  HS tự  do phát huy khả  năng sáng tạo, cần mở  rộng   hoạt động để  hoàn chỉnh kỹ  năng nói cho mình, giúp các em sử  dụng ngôn   ngữ một cách độc lập, kiến thức vốn có của mình với cấu trúc mới vừa luyện   vào tình huống cụ  thể. Những hoạt động  ở  phần này có thể  là Game (trò   chơi),  Discussion   (một   cuộc  thảo  luận)   Role  play  (đóng  vai)…  Trong  giai  đoạn này thời gian nói dành cho HS chiếm khoảng 90%, GV chỉ là người giao   nhiệm vụ, hỗ trợ cho HS khi cần thiết. Một số thủ thuật thường sử dụng trong giai đoạn này đối với HS lớp 3: ­ Chain games. (chơi nối tiếp dây chuyền) +) Giáo viên nêu chủ đề cần luyện tập. +) Giáo viên bắt đầu bằng việc đặt một câu hỏi cho học sinh nào đó.   Học sinh đó trả lời câu hỏi của giáo viên xong có nhiệm vụ đặt một câu hỏi  khác cho một học sinh tiếp theo. Học sinh này có nhiệm vụ trả lời và đặt tiếp  một câu hỏi cho bạn thứ ba, cứ thế hình thức luyện tập dây chuyền này được  tiếp tục. 19
  20. +) Các câu hỏi theo chủ đề nhưng có thể không cần phát triển thành lời  thoại liền ý. ­ Guesing games. (chơi đoán) ­ Survey. (thu thập) ­ Find someone who. (Tìm người có thể trả lời …) ­ Noughts and crosses words. (Xóa từ hoặc khoanh từ) ­ Mapped dialogues. (Sắp xếp theo bản đồ tư duy) +) Giáo viên giới thiệu ngữ cảnh và yêu cầu của hoạt động. +) Giáo viên viết một vài từ gợi ý hoặc vẽ hình lên bảng. +) Giáo viên trình bày bài hội thoại dựa vào các từ gợi ý hoặc hình vẽ  đó. +) Rèn luyện bài hội thoại với cả lớp. +) Học sinh luyện tập theo cặp. *)Với HS lớp 4,5 có thể sử dụng một số phương pháp khác: ­ Interview. (phỏng vấn) ­ Survey then report the result. (Thu thập số liệu rồi báo cáo) ­ Questionnaires. (phiếu kiểm tra, thăm dò) 7.1.6.10. Làm thế nào để sửa lỗi sai cho học sinh? Việc sửa lỗi phát âm, lỗi ngữ  pháp cho học sinh trong khi nói là một  việc làm quan trọng. Tuy nhiên, làm thế  nào để  sửa lỗi cho các em, sửa lỗi   vào thời điểm nào cho thích hợp là một việc làm đòi hỏi sự  tế  nhị  và mang  tính sư phạm cao. ­ Khi học sinh đang thực hành phát âm một câu nói nào đó cho đúng, thì   đây là thời điểm thích hợp để giáo viên sửa lỗi khi các em đọc sai. ­ Đối với trường hợp khi HS đang tập trung suy nghĩ và tìm ý tưởng từ  vựng để thể hiện một nội dung nào đó, giáo viên không nên ngắt lời để  sửa   lỗi. Vì điều này sẽ làm mất đi sự tự tin, mất hứng thú suy nghĩ , tìm tòi,  tính   hiếu động thích tham dự vào các hoạt động rèn luyện giao tiếp của các em. ­ Giáo viên cần có thái độ  tích cực đối với lỗi ngôn ngữ  của học sinh.   Chấp nhận lỗi như một phần tất yếu trong quá trình học ngoại ngữ, giúp học  sinh học tập được từ chính lỗi của bản thân và bạn bè. 7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến          Ngay từ đầu năm học tôi đã xây dựng kế hoạch thực hiện  ap dung  ́ ̣ “Một   số  giải pháp nâng cao kỹ năng dạy nói tiếng Anh cho học sinh Tiểu học”. Cứ hai  tuần đưa ra một chủ  đề  (chủ  đề  nhỏ), chủ  đề  này theo nội dung đơn vị  bài  học và mỗi hai tháng có một chủ đề lớn theo nội dung của 05 đơn vị bài học .  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0