
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA
DiEÃN ÑAØN
KHUYẾN NÔNG @ NÔNG NGHIỆP TRỰC TUYẾN
LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT VÙNG NGUYÊN LIỆU
PHỤC VỤ CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU
Sơn La, tháng 12 năm 2021

Diễn đàn Khuyến nông @ Nông nghiệp trực tuyến:
“Liên kết phát triển sản xuất vùng nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu”
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia - website: www.khuyennongvn.gov.vn 6

Diễn đàn Khuyến nông @ Nông nghiệp trực tuyến:
“Liên kết phát triển sản xuất vùng nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu”
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia - website: www.khuyennongvn.gov.vn 7
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT VÙNG NGUYÊN LIỆU
PHỤC VỤ CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU
(Báo cáo đề dẫn Khuyến nông @ Nông nghiệp trực tuyến:
“Liên kết phát triển sản xuất vùng nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu”
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia
I. HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT CÂY ĂN QUẢ
Trong những năm gần đây diện tích cây ăn quả cả nước tăng khá nhanh cả về diện
tích, sản lượng và giá trị đã góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng và tăng thêm thu nhập
của nông dân. Đặc biệt trong 5 năm gần đây, từ năm 2015-2019 diện tích cây ăn quả cả
nước có tốc độ tăng trưởng khá cao bình quân 4,3%/năm (35,7 nghìn ha/năm). Theo
thống kê sơ bộ, tổng diện tích trồng cây ăn quả cả nước năm 2020 ước đạt 1,135 triệu ha,
riêng các tỉnh phía Bắc có gần 441 nghìn ha, chiếm 38,8%, trong đó các tỉnh Trung du
miền núi phía Bắc chiếm 23,3%, Đồng bằng sông Hồng chiếm 8,9%, Bắc Trung Bộ
chiếm 6,6%. Năng suất bình quân các loại cây ăn quả được cải thiện đáng kể, hiện ước
đạt hơn 12 tấn/ha, tăng hơn 42,8% so với năm 2002 (7 tấn/ha).
Tổng sản lượng các loại cây ăn quả hiện đạt khoảng 12 triệu tấn/năm, tăng gần gấp 3
lần so với năm 2002 (4,5 triệu tấn).
Hiện nay toàn vùng có 15 địa phương sản xuất cây ăn quả lớn, quy mô trên 10 nghìn ha/
tỉnh, một số địa phương các tỉnh phía Bắc đã hình thành vùng sản xuất hàng hóa mang lại giá
trị kinh tế cao, từng bước khẳng định được thương hiệu sản phẩm như vùng sản xuất cây có
múi cam, quýt, bưởi gồm các tỉnh Hòa Bình, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ,
Bắc Giang, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hưng Yên, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh... Tổng diện tích
cây có múi của cả vùng năm 2019 khoảng trên 103,4 nghìn ha, sản lượng 894,5 nghìn tấn,
vùng sản xuất cây ăn quả nhãn, vải gồm các tỉnh Bắc Giang, Sơn La, Hưng Yên, Hải Dương,
Hà Nội, Thái Nguyên, Quảng Ninh tổng diện tích trên 61,5 nghìn ha.
Cùng với sự tăng trưởng diện tích, sản lượng, sản xuất cây ăn quả nước ta đang đứng
trước một số hạn chế, thách thức chủ yếu:
- Công tác quy hoạch vùng sản xuất rau quả hàng hoá tại các địa phương tuy đã đạt
được một số kết quả, tuy nhiên quy mô còn nhỏ lẻ, phân tán: bình quân phổ biến 0,2-0,6
ha/vườn hộ, khó khăn liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và quản lý chất lượng. Cơ sở
hạ tầng chưa được quan tâm đầu tư, chưa đáp ứng kịp tốc độ phát triển của sản xuất;
- Năng suất chất lượng sản phẩm chưa cao: Cơ cấu giống, giống thoái hóa và chưa
kiểm soát chặt chẽ cây giống chất lượng, sạch bệnh, giống cây trồng kém chất lượng vẫn

Diễn đàn Khuyến nông @ Nông nghiệp trực tuyến:
“Liên kết phát triển sản xuất vùng nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu”
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia - website: www.khuyennongvn.gov.vn 8
tràn lan trên thị trường... ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng, tuổi thọ vườn cây và làm
tăng chi phí đầu tư, chăm sóc; khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp, đặc biệt là ứng
dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến vào sản xuất, còn hạn chế. Sản xuất theo quy
trình VietGAP vẫn chiếm tỷ lệ thấp; Công tác Quản lý sử dụng hóa chất, thuốc BVTV và
vấn đề chất lượng ATTP và chế tài xử phạt chưa chặt chẽ, còn nhiều bất cập;
- Tác động của biến đổi khí hậu, tình hình sâu bệnh hại (nhất là bệnh vàng lá
Greening trên cam quýt, chổi rồng hại nhãn, đốm trắng thanh long) gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến diện tích, năng suất, sản lượng và chất lượng trái cây;
- Liên kết sản xuất - tiêu thụ bắt đầu hình thành ở nhiều vùng sản xuất hàng hoá, việc
chấp hành theo hợp đồng ký kết của cả người sản xuất và doanh nghiệp chưa nghiêm dẫn
đến tình trạng doanh nghiệp không thu mua sản phẩm theo hợp đồng hoặc dân không bán
sản phẩm cho doanh nghiệp khi có sự biến động giá cả.
- Tiêu thụ chủ yếu là thị trường nội địa vẫn ở dạng tươi hoặc sơ chế chiếm tới 85%, giá
trị xuất khẩu không đáng kể...
Trước tình hình đó, để phát triển bền vững ngành chế biến rau quả, tận dụng các lợi
thế sản xuất của từng vùng, từng địa phương, công tác khuyến nông đã và đang cùng với
địa phương kịp thời chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới vào trong sản xuất.
II. KẾT QUẢ CÔNG TÁC CHUYỂN GIAO TBKT VÀ XÂY DỰNG MÔ HÌNH
KHUYẾN NÔNG TRONG SẢN XUẤT CÂY ĂN QUẢ Ở CÁC TỈNH PHÍA BẮC
Chương trình khuyến nông về cây ăn quả của các tỉnh phía Bắc giai đoạn từ năm
2011-2021 đã có 15 dự án với tổng kinh phí khoảng 55 tỷ đồng. Riêng trong năm 2018
khoảng 15,5 tỷ đồng đã được đầu tư vào sản xuất tại một số tỉnh phía Bắc để xây dựng
mô hình trình diễn, mô hình liên kết sản xuất thông qua các dự án khuyến nông chuyển
giao giống mới và tiến bộ kỹ thuật mới đã đem lại kết quả tốt. Thông qua thực hiện mô
hình trình diễn, người nông dân trực tiếp được tiếp thu kỹ thuật, kỹ năng canh tác, hưởng
lợi trực tiếp từ mô hình; kết quả trình diễn khuyến nông có tác động tích cực tới cộng
đồng dân cư nơi xây dựng mô hình và những khu vực lân cận. Nhiều mô hình đạt hiệu
quả cao, được người dân áp dụng nhân ra diện rộng như:
- Mô hình ghép cải tạo nhãn bằng phương pháp ghép mắt để dần thay thế và cải tạo
những diện tích nhãn bị già cỗi, thoái hóa được triển khai tại các tỉnh Sơn La, Yên Bái,
Hòa Bình, tuyên Quang với quy mô 54 ha. Sau khoảng 1 - 2 năm, cây ghép đã được thu
hoạch, cho ra thị trường sản phẩm quả nhãn chín muộn hơn so với chính vụ khoảng 20
đến 30 ngày; năng suất, chất lượng, hiệu quả tăng từ 3 - 4 lần, chất lượng quả thơm ngon,
cùi dầy hơn nhãn thông thường, đem lại thu nhập cao, ổn định cho các hộ sản xuất. Từ
thành công đó, mô hình cải tạo diện tích nhãn già cỗi bằng kỹ thuật ghép mắt đã nhanh