UBND TỈNH QUẢNG NGÃI BỘ NGOẠI GIAO

TÀI LIỆU HỘI NGHỊ THÔNG TIN CHUYÊN ĐÊ: TỈNH QUẢNG NGÃI TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC

Quảng Ngãi, ngày 15 tháng 12 năm 2015

1

DANH MỤC TÀI LIỆU

DANH MỤC TÀI LIỆU 2 I.

CHƯƠNG TRÌNH 3 II.

THAM LUẬN CỦA CÁC BÁO CÁO VIÊN III.

5

HỘI NHẬP QUỐC TẾ GIAI ĐOẠN MỚI - NHỮNG VẤN ĐỀ ĐỐI VỚI CÁC ĐỊA PHƯƠNG, DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

10

CỘNG ĐỒNG ASEAN 2015: DẤU MỐC LỊCH SỬ HỢP TÁC KHU VỰC VÀ VIỆT NAM

30

HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) - HIỆP ĐỊNH TỰ DO THƯƠNG MẠI THẾ HỆ MỚI

TÀI LIỆU THAM KHẢO IV.

60

TÀI LIỆU QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT 22/NQ-TW NGÀY 10/4/2013 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

83

NGHỊ QUYẾT 22-NQ/TW NGÀY 20/4/2013 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

90

QUYẾT ĐỊNH SỐ 596/QĐ-TTg NGÀY 23/4/2014 VỀ THÀNH LẬP BAN CHỈ ĐẠO QUỐC GIA VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

94

NGHỊ QUYẾT 31/NQ-CP NGÀY 13/5/2014 CỦA CHÍNH PHỦ BAN HÀNH CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 22-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

107

CHỈ THỊ 15 NGÀY 7/7/2015 CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ TIẾP TỤC TRIỂN KHAI NGHỊ QUYẾT 22-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

2

CHƯƠNG TRÌNH HỘI NGHỊ THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ: TỈNH QUẢNG NGÃI TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC (Quảng Ngãi, ngày 15/12/2015)

07:00 - 07:30 Đăng ký Đại biểu

Sở Ngoại vụ Quảng Ngãi và Vụ Hợp tác Kinh tế Đa phương, Bộ Ngoại giao

07:30 - 07:40 Phát biểu khai mạc

Lãnh đạo UBND tỉnh Quảng Ngãi

07:40 - 09:00 Hội nhập quốc tế giai đoạn mới - Những vấn đề đối với các

địa phương, doanh nghiệp Việt Nam

Đại sứ Nguyễn Nguyệt Nga, Bộ Ngoại giao

09:00 - 10:00 Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta

năm 2015

Tiến sỹ Trần Việt Thái, Phó Viện trưởng, Viện Nghiên cứu Chiến lược,

Bộ Ngoại giao

10:00 - 10:15 Giải lao

10:15 - 11:30 Cộng đồng ASEAN 2015: Dấu mốc lịch sử hợp tác khu vực và

Việt Nam

Ông Vũ Đăng Dũng, Vụ trưởng đặc trách Vụ ASEAN, Bộ Ngoại giao

11:15 – 13.30 Nghỉ trưa

13:30 - 14:30

Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Việt Nam

PGS - Tiến sỹ Nguyễn Anh Tuấn, Tổng Biên tập Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, Học viện Ngoại giao, Bộ Ngoại giao

14:30 - 15:30 Cải cách thể chế và doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế

sâu rộng

Tiến sỹ Phạm Sỹ Thành, Giám đốc Chương trình nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, Trường Đại học Quốc gia Việt Nam

15:30 – 15:45 Giải lao

15:45 – 16:50 Thảo luận chung

Lãnh đạo Vụ Hợp tác Kinh tế Đa phương, Bộ Ngoại giao và các báo cáo viên

16:50 – 17:00

Bế mạc Tọa đàm

Lãnh đạo Vụ Hợp tác Kinh tế Đa phương, Bộ Ngoại giao ./.

3

THAM LUẬN CỦA CÁC BÁO CÁO VIÊN

4

HỘI NHẬP QUỐC TẾ GIAI ĐOẠN MỚI - NHỮNG VẤN ĐỀ ĐỐI VỚI

CÁC ĐỊA PHƯƠNG, DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

Đại sứ Nguyễn Nguyệt Nga Bộ Ngoại giao

Chủ trương của Đại hội Đảng lần thứ XI đánh dấu giai đoạn mới của hội nhập quốc tế nước ta nhằm phục vụ phát triển và nâng cao vị thế đất nước và triển khai đường lối đối ngoại. Xuất phát từ xu thế khách quan và nhằm đáp ứng nhu cầu mới của đất nước, hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới đặt ra những yêu cầu hoàn toàn mới đối với các cơ quan, hiệp hội, địa phương và doanh nghiệp nước ta. Do đó, vấn đề cần thiết là nhận thức đầy đủ hơn tính tất yếu của hội nhập, liên kết quốc tế, nội dung hội nhập trong thời kỳ mới, cũng như thời cơ và thách thức. Từ đó, xác định các giải pháp để tham gia, đóng góp đối với tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước.

I- ĐẶC ĐIỂM CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ NƯỚC TA GIAI ĐOẠN MỚI

1. Hội nhập quốc tế của nước ta trong giai đoạn mới diễn ra trong bối cảnh tình hình quốc tế và nước ta hiện nay hoàn toàn khác trước, kể cả giai đoạn kể từ khi nước ta gia nhập WTO năm 2007 đến nay. Cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu 2008 – 2009 đã thúc đẩy nhanh những chuyển dịch trên phạm vi toàn cầu cũng như ở từng nước, khu vực cũng như tương quan sức mạnh kinh tế giữa các trung tâm. Xu hướng đa trung tâm, đa tầng nấc đang ngày càng khẳng định. Nền tảng kinh tế thế giới có những chuyển dịch căn bản, toàn cầu hóa và công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ.

Xu hướng hội nhập, liên kết kinh tế đa tầng nấc, đặc biệt là các hiệp định thương mại tự do (FTA), gia tăng mạnh. Nổi bật là các hiệp định FTA thế hệ mới phát triển nhanh hơn, ngày càng sâu rộng, gắn kết với phát triển bền vững và ứng phó với các thách thức toàn cầu. Châu Á – Thái Bình Dương đóng vai trò đầu tầu trong tăng trưởng và liên kết toàn cầu. Hàng loạt các đàm phán FTA thế hệ mới tạo ra những bước ngoặt trong liên kết kinh tế ở hầu khắp các khu vực, tiêu biểu là Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) kết thúc đàm phán 10/2015, Hiệp định đối tác thương mại - đầu tư xuyên Đại Tây Dương Hoa Kỳ - EU (TTIP), Khuôn khổ đối tác kinh tế khu vực toàn diện (RCEP) đều dự kiến kết thúc 2016.

2. Với những thành tựu của 30 năm đổi mới và chủ trương hội nhập quốc tế toàn diện, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm, hội nhập quốc tế trở thành nhân tố quan trọng hơn bao giờ hết để tạo thế và lực của đất nước trong cục diện đang định hình. Do đó, hội nhập quốc tế đang đặt ra những yêu cầu hoàn toàn mới.

5

- Trước hết, khác với các giai đoạn trước, hội nhập quốc tế giai đoạn hiện nay đòi hỏi đổi mới tư duy, chuyển từ “mở rộng quan hệ, gia nhập và tham gia hợp tác quốc tế” sang “chủ động đóng góp, tích cực khởi xướng và tham gia định hình các cơ

chế hợp tác”. Với tầm và quy mô hội nhập hiện nay, các mối quan hệ kinh tế quốc tế của nước ta không đơn thuần là “hội nhập” mà ở tầm “liên kết”.

- Thứ hai, cần tăng cường cách tiếp cận đa ngành, liên ngành và đa phương. Đây là xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ, các nội hàm liên kết trở nên sâu rộng hơn, với nhiều đối tác hơn, mang tính liên ngành, đa lĩnh vực, đa tầng nấc, ở mọi cấp độ tiểu vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu.

- Thứ ba, phát triển bền vững, sáng tạo và ứng phó với các thách thức toàn cầu là nội hàm quan trọng của hội nhập quốc tế. Điều này là phù hợp với xu thế chuyển đổi sang mô hình bền vững và sáng tạo, tăng trưởng xanh, từ tư duy kinh tế, tư duy phát triển, cách tiếp cận đến cách thức quản trị kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh trên mọi tầng nấc.

- Thứ tư, để có thể tận dụng cơ hội, tiềm năng của liên kết quốc tế về công nghệ, quản lý, nguồn lực và tham gia vào tầng nấc cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu, cần có sự đột phá trong cải cách, đổi mới trong nước, nhất là về thể chế, khuôn khổ pháp lý, năng lực thực thi hội nhập quốc tế, trình độ, kỹ năng, ngoại ngữ của nguồn nhân lực. Cùng với đó là việc hình thành các chính sách tham gia hội nhập, liên kết quốc tế trong từng lĩnh vực và thiết lập các cơ chế chỉ đạo, phối hợp phù hợp với tình hình mới.

3. Theo đó, hội nhập quốc tế nước ta trong 5 - 10 năm tới sẽ tập trung vào

⁻ Nỗ lực hoàn tất các cam kết quốc tế lớn có thời hạn vào 2015 – 2020 nhằm nâng tầm hội nhập quốc tế, trong đó ưu tiên: (i) Cam kết xây dựng Cộng đồng ASEAN, Tầm nhìn ASEAN đến năm 2025; (ii) Cam kết gia nhập WTO (thời hạn 31/12/2018), các Mục tiêu Bô-go của APEC về tự do hóa thương mại và đầu tư vào năm 2020…

⁻ Hoàn tất đàm phán và thực thi các Hiệp định FTA, trong đó thúc đẩy sớm ký kết, phê chuẩn và thực thi TPP, các FTA với Liên minh Kinh tế Á – Âu, EU và Hàn Quốc; hoàn tất đàm phán RCEP và FTA với Khối thương mại tự do châu Âu (EFTA); các cam kết trong 8 FTA đã ký… Các FTA của ASEAN (AFTA), ASEAN với Trung Quốc, Hàn Quốc có thời hạn cắt giảm thuế năm 2018.

⁻ Nâng tầm hội nhập quốc tế trên các tầng nấc, cơ chế liên kết theo hướng đẩy mạnh chủ động đóng góp, tiếp cận đa ngành, đa phương, đề cao nội hàm phát triển, nhất là trong các khuôn khổ đa phương và trong các vấn đề mà ta quan tâm, có lợi ích như đối tác phát triển, giảm nghèo, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, an ninh hàng hải…

⁻ Nỗ lực tạo đột phá trong vận động các đối tác, nhất là các đối tác lớn, sớm công nhận quy chế kinh tế thị trường của ta trước thời hạn 2018 (là thời điểm kinh tế nước ta được công nhận là nền kinh tế thị trường theo thỏa thuận gia nhập WTO). Xử lý hiệu quả tranh chấp, vướng mắc kinh tế, thương mại nhằm bảo đảm lợi ích của người lao động và doanh nghiệp.

6

các trọng tâm sau, trong đó 2015 và 2018 là những thời hạn quan trọng:

II- THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ

GIAI ĐOẠN MỚI

1. Thời cơ và thuận lợi là rất cơ bản

- Với triển vọng hoàn tất đàm phán và triển khai 15 hiệp định FTA trong giai đoạn đến năm 2020, lần đầu tiên nước ta sẽ trở thành một mắt xích quan trọng của mạng lưới liên kết kinh tế rất rộng lớn với tất cả các trung tâm và các nền kinh tế hàng đầu thế giới. Các địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp ta đứng trước những thuận lợi lớn chưa từng có để mở rộng thị trường xuất khẩu, với tư cách là một đối tác bình đẳng, không bị phân biệt đối xử, theo mức thuế ưu đãi, thậm chí là 0%, với 56 đối tác mà ta có hiệp định FTA. Ðây là những yếu tố quan trọng để thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa, dịch vụ của nước ta, tạo thêm việc làm, góp phần tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng.

- Hội nhập quốc tế sâu rộng tạo động lực mới để thúc đẩy đổi mới sâu rộng, hoàn thiện môi trường pháp lý, thể chế kinh tế thị trường, cải cách hành chính, chính sách kinh tế, cơ chế quản lý trong nước ngày càng minh bạch hơn, làm thông thoáng môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước, thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư của các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia có tiềm lực tài chính lớn, công nghệ cao, trình độ quản lý tiên tiến.

- Hội nhập quốc tế sâu rộng tạo thời cơ, thuận lợi mới để triển khai chủ trương hội nhập quốc tế toàn diện, làm sâu sắc và nâng tầm các quan hệ đối tác, tạo thế đan xen lợi ích dài hạn với tất cả các trung tâm kinh tế - chính trị hàng đầu thế giới, đem lại thế và lực mới cho đất nước, củng cố môi trường hòa bình, ổn định.

- Với chủ trương “chủ động đóng góp, tích cực khởi xướng và tham gia định hình các cơ chế hợp tác”, nước ta có điều kiện cùng các nước hoạch định các chính sách toàn cầu, nhất là về kinh tế, thương mại, thúc đẩy hình thành một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, trong đó có điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp Việt Nam trong tranh chấp thương mại quốc tế.

- Các hiệp hội và doanh nghiệp trong nước có điều kiện thuận lợi hơn để tiếp cận nguồn nguyên liệu đầu vào với giá cạnh tranh hơn, dịch vụ hỗ trợ tiện lợi hơn, chất lượng cao hơn, tiết kiệm chi phí sản xuất…, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh. Người dân trong nước có thêm nhiều sự lựa chọn phong phú về hàng hóa, dịch vụ với chất lượng cao và giá cả cạnh tranh.

2. Thách thức, khó khăn

7

- Thách thức lớn và trực diện nhất là sức ép cạnh tranh gay gắt hơn trên cả ba cấp độ sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. Các sản phẩm và doanh nghiệp của ta sẽ phải cạnh tranh với sản phẩm và doanh nghiệp nước ngoài không chỉ trên thị trường quốc tế mà ngay trên thị trường nội địa. Chính phủ ta phải cạnh tranh với chính phủ các nước trong cải thiện môi trường thu hút đầu tư, nguồn nhân lực... Các lĩnh vực

kinh tế vốn được bảo hộ bị thách thức gay gắt do việc cắt giảm thuế quan, như ngành sản xuất ô-tô, mía đường, gạo, xăng dầu…

- Các Bộ, ngành, hiệp hội và doanh nghiệp đứng trước đòi hỏi phải hiểu biết nhiều và vận dụng hiệu quả các luật lệ, quy định kinh tế, thương mại cũng như văn hóa kinh doanh của nhiều nước và nhiều thị trường hơn trước, đặc biệt trong trường hợp xảy ra tranh chấp thương mại. Các FTA mới đòi hỏi phải điều chỉnh luật lệ, chính sách không chỉ về kinh tế, thương mại mà cả các vấn đề phi thương mại, như quyền của người lao động, tiêu chuẩn lao động, tự do hiệp hội – công đoàn, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm chính phủ…

- Với xu thế chuyển dịch lao động giữa các nước tham gia FTA, thách thức đối với các cơ quan, doanh nghiệp, hiệp hội, người lao động trong nước là sức ép về trình độ, tri thức và tay nghề, nguy cơ tranh chấp quốc tế (các FTA mới có quy định cao về giải quyết tranh chấp)… Trong khi lực lượng lao động nước ta chưa qua đào tạo còn chiếm tỉ trọng lớn, số lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao còn thiếu; Đội ngũ cán bộ, công chức nước ta thiếu và hạn chế về năng lực hội nhập; thiếu đội ngũ luật sư giỏi để giải quyết các tranh chấp thương mại và tư vấn cho các doanh nghiệp.

- Hội nhập quốc tế sâu rộng hơn, những biến động trên thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường hàng hóa quốc tế, xung đột, tranh chấp sẽ tác động nhanh hơn, mạnh hơn đến nền kinh tế nước ta, ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định và phát triển bền vững của ta; thách thức về bảo đảm an ninh, giữ gìn bản sắc dân tộc, sự phát triển không đều...

- Những yếu kém, bất cập trong nước bộc lộ rõ hơn và nếu không được xử lý kịp thời và thỏa đáng thì sẽ làm gia tăng nguy cơ tụt hậu của nước ta. Chuyển biến trong tư duy trong nước chưa kịp với tình hình quốc tế và tốc độ hội nhập quốc tế của nước ta. Khu vực tư nhân còn anh mún, quy mô nhỏ, thiếu nguồn vốn, công nghệ, kỹ năng quản trị… Các hiệp hội, địa phương và doanh nghiệp hiểu và tham gia hội nhập rất hạn chế, thụ động. Cơ chế điều phối còn bất cập.

III- MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỘI NHẬP

QUỐC TẾ VÀ THAM GIA CÁC FTA

- Đổi mới cách nghĩ, cách làm trong tham gia các hoạt động hội nhập, liên kết quốc tế theo hướng “chủ động tham gia, tích cực đề xuất và đóng góp”. Tư duy mới là nâng lên tầm khu vực và toàn cầu – đó là tư duy của một Cộng đồng ASEAN 600 triệu dân, một thị trường, không gian kinh tế rộng lớn của 56 đối tác FTA đại diện 65% dân số, 95% GDP và 84% thương mại thế giới. Cách làm mới là liên kết, hợp tác liên ngành, đa ngành và đa phương, bền vững, nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh của địa phương, doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh gay gắt với các đối tác lớn, mạnh hơn.

8

- Đẩy mạnh phổ biến nội dung các cam kết hội nhập của ta, nhất là các hiệp định FTA, chính sách, biện pháp cụ thể để tận dụng thời cơ, xử lý thách thức của hội nhập.

- Hoàn thiện thể chế pháp lý hướng tới hài hòa hóa chính sách với các cam kết quốc tế; Hình thành các chiến lược lớn về hội nhập quốc tế, tham gia FTA; Rà soát và đẩy mạnh triển khai lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế… Hiện nay rất cần hiệp hội và doanh nghiệp đóng góp ý kiến, đề xuất để hình thành các yêu cầu, cam kết của ta trong tham gia các thỏa thuận quốc tế, các đàm phán FTA.

- Đẩy mạnh nâng cao năng lực thực thi hội nhập quốc tế; Tăng cường xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, có tri thức, kiến thức, kỹ năng hội nhập và kỹ năng nghề, đồng thời các cơ quan, hiệp hội cần đẩy mạnh đổi mới quản lý phù hợp tình hình, nhất là trong tình hình có nhiều yếu tố bất ổn, bất định. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ, đội ngũ luật sư, đào tạo nghề, gắn với nhu cầu xã hội và yêu cầu của hội nhập quốc tế nước ta.

- Đổi mới cách thức, kiện toàn cơ chế phối hợp liên ngành, phù hợp với những

chuyển biến nhanh của tình hình và hội nhập quốc tế nước ta.

9

Công tác chuẩn bị trong nước để hội nhập quốc tế đang có những bước chuyển quan trọng, nổi bật là việc ban hành Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế và thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu, trong đó đề ra các định hướng lớn về hội nhập và xác định hội nhập kinh tế là trọng tâm./.

CỘNG ĐỒNG ASEAN 2015: DẤU MỐC LỊCH SỬ HỢP TÁC KHU VỰC VÀ VIỆT NAM

Vụ ASEAN, Bộ Ngoại giao

A. TÌNH HÌNH XÂY DỰNG CỘNG ĐỒNG ASEAN

I. MỤC TIÊU VÀ NỘI HÀM

1. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập ngày 8/8/1967 trên cơ sở là một tuyên bố chính trị (Tuyên bố Bangkok) với 5 thành viên ban đầu. Sau gần 5 thập kỷ tồn tại với nhiều thăng trầm, ASEAN đã chuyển hóa căn bản về chất, cả về thành viên, mục tiêu và nội dung hợp tác ; đang hướng tới hình thành Cộng đồng ASEAN vào cuối năm 2015.

Mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN được đề cập sau khi một ASEAN bao gồm cả 10 nước Đông Nam Á trở thành hiện thực và Tầm nhìn ASEAN 2020 được thông qua (Năm 1997). Sau một thời gian thực hiện các chương trình hành động triển khai Tầm nhìn ASEAN 2020, các Lãnh đạo ASEAN năm 2003 chính thức quyết định xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2020 với 3 trụ cột: chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa – xã hội. Năm 2007, ASEAN nhất trí sẽ hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 (thay vì đến năm 2020 như thỏa thuận trước đó) và thông qua Lộ trình cùng các Kế hoạch tổng thể trên từng trụ cột để triển khai.

2. Mục tiêu tổng quát của Cộng đồng ASEAN là xây dựng Hiệp hội thành một tổ chức hợp tác liên Chính phủ liên kết sâu rộng hơn và ràng buộc hơn trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN; một Cộng đồng gắn kết về chính trị, liên kết về kinh tế, có trách nhiệm về xã hội và mở rộng hợp tác với bên ngoài.

Cộng đồng Chính trị-An ninh có mục tiêu tạo dựng môi trường hòa bình và an ninh ở khu vực thông qua việc nâng hợp tác chính trị-an ninh ASEAN lên tầm cao mới, với 3 đặc trưng chính gồm: một Cộng đồng hoạt động theo luật lệ với các giá trị, chuẩn mực chung; một khu vực gắn kết, hòa bình và tự cường, có trách nhiệm chung bảo đảm an ninh toàn diện; và một khu vực năng động, quan hệ rộng mở với bên ngoài.

Cộng đồng Kinh tế nhằm tạo ra một thị trường duy nhất và cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động có tay nghề và phần nào là vốn ; có sức cạnh tranh cao; phát triển đồng đều; và hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu.

Cộng đồng Văn hóa-Xã hội có mục tiêu phục vụ và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, thúc đẩy một xã hội đùm bọc và chia sẻ trách nhiệm, bình đẳng và công bằng, tăng cường hiểu biết lẫn nhau và ý thức về bản sắc chung, thúc đẩy bình đẳng và công bằng xã hội cũng như môi trường bền vững.

10

3. Để thực hiện mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN 2015, ASEAN đã đề ra các Kế hoạch tổng thể (KHTT) trên từng trụ cột, trong đó đề ra các mục tiêu và

thành tố cụ thể cùng các biện pháp/hoạt động để triển khai (được gọi là dòng hành động). KHTT về chính trị - an ninh đề ra 6 lĩnh vực (thành tố) hợp tác chính gồm: (i) Hợp tác chính trị; (ii) Xây dựng và chia sẻ chuẩn mực ứng xử; (iii) Ngăn ngừa xung đột; (iv) Giải quyết xung đột; (v) Kiến tạo hòa bình sau xung đột; và (vi) Cơ chế thực hiện.

KHTT đề ra các mục tiêu và biện pháp với 4 trụ cột: (i) Xây dựng một thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất thông qua các biện pháp dỡ bỏ các rào cản đối với sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động kỹ năng cũng như tạo thuận lợi cho sự lưu chuyển tự do hơn của dòng vốn, các biện pháp về các lĩnh vực ưu tiên hội nhập; (ii) Đưa ASEAN thành một khu vực kinh tế có khả năng cạnh tranh cao thông qua các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, tăng cường kết nối hạ tầng: đường sắt, đường bộ, đường không, năng lượng; (iii) Phát triển kinh tế đồng đều thông qua các biện pháp thu hẹp khoảng cách phát triển nhằm giúp các nước CLMV nâng cao năng lực hội nhập, thực hiện các cam kết; (iv) Hội nhập hiệu quả vào nền kinh tế toàn cầu thông qua các Hiệp định thương mại tự do (FTA) với các đối tác lớn và khu vực.

KHTT về văn hóa – xã hội đã xác định 6 lĩnh vực hợp tác chính là : (i) Phát triển con người; ii) Phúc lợi và bảo hiểm xã hội; iii) Các quyền bình đẳng xã hội; iv) Đảm bảo môi trường bền vững; v) Tạo dựng bản sắc ASEAN và vi) Thu hẹp khoảng cách phát triển; đồng thời nêu ra 40 thành tố cùng với 339 biện pháp cần được thực hiện trong giai đoạn 2009-2015 và cơ chế thực hiện, giám sát.

Để hỗ trợ mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN trên 3 trụ cột, ASEAN còn thông qua và triển khai Kế hoạch công tác về Sáng kiến Liên kết ASEAN về thu hẹp khoảng cách phát triển và Kế hoạch tổng thể về Kết nối ASEAN (MPAC). Ngoài ra, quan hệ đối ngoại của Hiệp hội với các đối tác cũng được lồng ghép vào từng trụ cột Cộng đồng và được đẩy mạnh thông qua nhiều khuôn khổ khác nhau (ASEAN+1, ASEAN+3, EAS, ARF và ADMM+).

II. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI XÂY DỰNG CỘNG ĐỒNG ASEAN

Đến nay, ASEAN đã thực hiện được gần 93% các biện pháp/dòng hành động cụ thể đề ra trong Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 với mức độ khác nhau trong từng trụ cột, trong đó Cộng đồng Chính trị-An ninh đạt 88%, Cộng đồng Kinh tế đạt 90,5% và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội đạt gần 100%. Việc thực hiện Kế hoạch Tổng thể về Kết nối ASEAN (MPAC) và Kế hoạch công tác về Sáng kiến hội nhập ASEAN (IAI) về thu hẹp khoảng cách phát triển đạt được kết quả thấp hơn, chủ yếu do thiếu nguồn lực.

1. Kết quả xây dựng Cộng đồng Chính trị An ninh (APSC):

11

ASEAN đã và đang triển khai 125/145 biện pháp/hoạt động đề ra, đạt 88% kế hoạch đề ra. Các hoạt động đã thực hiện chủ yếu tập trung trong những lĩnh vực như hợp tác chính trị, xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực ứng xử, tăng cường xây dựng lòng tin, ngăn ngừa xung đột, duy trì hòa bình và an ninh khu vực, ứng phó với các

vấn đề an ninh phi truyền thống. Những kết quả chính đạt được như sau:

a. Về chia sẻ các chuẩn mực ứng xử:

- Hiến chương ASEAN (có hiệu lực từ tháng 12/2008) được triển khai trên thực tế, tạo cơ sở pháp lý và khuôn khổ thể chế cho liên kết ASEAN. Các mục tiêu, nguyên tắc đề ra trong Hiến chương được tuân thủ và thể hiện trong thực tiễn hoạt động của ASEAN. Nhiều văn kiện pháp lý liên quan đến triển khai Hiến chương, nhất là các quy định về giải quyết tranh chấp được ký kết/thông qua. Bộ máy tổ chức của ASEAN được sắp xếp lại, trong đó có việc lập Ủy ban các đại diện thường trực ASEAN tại Jakarta, Indonesia.

- Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) đã trở thành bộ nguyên tắc cơ bản chỉ đạo mối quan hệ giữa các quốc gia, không chỉ giữa các quốc gia Đông Nam Á mà cả giữa ASEAN với các nước đối tác. Đến nay, đã có 22 nước đối tác tham gia Hiệp ước TAC, trong đó có tất cả 5 nước thành viên thường trực HĐBA LHQ và 01 tổ chức khu vực là EU.

- Hiệp ước Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ) đã trở thành công cụ quan trọng để bảo đảm hòa bình và an ninh khu vực. ASEAN và 5 nước có vũ khí hạt nhân (Trung Quốc, Nga, Mỹ, Anh và Pháp) đang tích cực trao đổi để 5 nước này tham gia Nghị định thư Hiệp ước SEANWFZ để bảo đảm giá trị thực tế cho Hiệp ước.

- Về vấn đề Biển Đông: ASEAN đã có nhiều nỗ lực và đóng vai quan trọng trong việc bảo đảm hòa bình và an ninh ở Biển Đông, nhất là đã thúc đẩy Trung Quốc thông qua và thực hiện Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và hướng tới sớm thông qua Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Vấn đề Biển Đông, trong đó có việc thực hiện DOC và xây dựng COC đã trở thành nội dung thường xuyên trong nghị sự của ASEAN và với các Đối tác; và được thể hiện trong nhiều văn kiện quan trọng của ASEAN. Những nội dung chính được ghi nhận trong các văn kiện ASEAN gần đây gồm có: (i) cần bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn trên biển và trên không ở Biển Đông; (ii) giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; (iii) tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982; (iv) tự kiềm chế, không làm gì gây phức tạp thêm tình hình; (v) thực hiện hiệu quả DOC và sớm đạt được COC.

b. Về tiến hành các biện pháp xây dựng lòng tin và ngăn ngừa xung đột: ASEAN triển khai một số biện pháp cụ thể bao gồm: tổ chức giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, đào tạo kiến thức, kỹ năng giữa các quan chức ngoại giao và quốc phòng; trao đổi quan sát viên diễn tập quân sự; tiến hành tham vấn và hợp tác về các vấn đề quốc phòng với các đối tác ngoài ASEAN; tổ chức trao đổi về hợp tác trong ứng phó với các thách thức an ninh; xuất bản Tài liệu Viễn cảnh An ninh ASEAN để tăng cường minh bạch, hiểu biết về chính sách an ninh, quốc phòng của các quốc gia thành viên ASEAN cũng như môi trường an ninh khu vực.

12

c. Về hợp tác quốc phòng: Hợp tác ASEAN về quốc phòng đạt được tiến triển

đáng chú ý trong thời gian qua, tập trung vào các biện pháp và hoạt động trong 4 lĩnh vực: tăng cường hợp tác quốc phòng và an ninh khu vực; thúc đẩy hợp tác thực tế đã có và phát triển hợp tác về quốc phòng và an ninh; tăng cường quan hệ với các nước Đối thoại; và hình thành và chia sẻ các chuẩn mực. Hội nghị ADMM nhất trí về việc thành lập Nhóm tác chiến ASEAN về hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thiên tai; và đang tiến hành công tác chuẩn bị cho việc thành lập Trung tâm quân y ASEAN… Hợp tác quốc phòng với các nước Đối thoại cũng có những bước phát triển quan trọng. Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN Mở rộng với 8 nước đối tác (ADMM+) đã triển khai hợp tác trên 6 lĩnh vực ưu tiên gồm: Hỗ trợ nhân đạo và Cứu trợ thảm họa; An ninh hàng hải; Hoạt động gìn giữ hòa bình; Quân y; Chống khủng bố; và khắc phục bom mìn nhân đạo.

d. Về hợp tác xử lý những thách thức an ninh phi truyền thống: ASEAN tập trung ưu tiên trong các lĩnh vực phòng chống tội phạm xuyên quốc gia, ma túy, khủng bố, buôn bán người, phòng chống thiên tai, dịch bệnh, hỗ trợ nhân đạo. Các nước triển khai các biện pháp chia sẻ thông tin nghiệp vụ; đào tạo nâng cao năng lực; hợp tác về tư pháp, dẫn độ; tăng cường phối hợp giữa các cơ quan liên quan; triển khai hiệu quả các tuyên bố, kế hoạch hành động trong từng lĩnh vực cụ thể; xây dựng các huôn khổ pháp lý cho hợp tác như Công ước ASEAN về Chống khủng bố, các Tuyên bố ASEAN về phòng chống tội phạm xuyên quốc gia, HIV, Ma túy, đang xây dựng Hiệp định đa phương ASEAN về tìm kiếm cứu nạn người và tầu thuyền trên biển, xây dựng Công ước ASEAN về chống buôn bán người; tổ chức diễn tập thường xuyên trong khuôn khổ ASEAN và với các đối tác, nhất là trong lĩnh vực phòng chống thiên tai và cứu trợ nhân đạo.

e. Về hợp tác chính trị: được thúc đẩy thông qua việc chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, huấn luyện và xây dựng năng lực, trên nhiều lĩnh vực như: hiểu biết về chế độ chính trị, lịch sử và văn hóa của các nước thành viên; tăng cường hệ thống luật pháp và tư pháp; quản trị tốt, phòng chống tham nhũng, dân chủ, nhân quyền, … Tiến triển được dư luận quan tâm là việc lập Ủy ban liên Chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHAR) và thông qua Tuyên bố nhân quyền ASEAN, lập Ủy ban về quyền phụ nữ và trẻ em (ACWC). Sự tham gia của Nghị viện (AIPA) và các tầng lớp xã hội vào tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN được thúc đẩy và tăng cường, nhằm mục tiêu đưa ASEAN hướng tới người dân và phục vụ lợi ích thiết thực của người dân.

f. Về hợp tác và hỗ trợ pháp luật: ASEAN gia tăng hợp tác trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Tư pháp ASEAN (ALAWMM), nhất là trong lĩnh vực hài hòa hóa luật thương mại, tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự và dẫn độ.

g. Hợp tác về lãnh sự và đi lại: ASEAN đã tăng cường hợp tác quản lý biên giới như: kiểm tra thị thực, xuất-nhập cảnh và ngăn ngừa tội phạm xuyên quốc gia; ký Hiệp định khung về miễn thị thực cho công dân các nước ASEAN; thỏa thuận về hợp tác hỗ trợ khẩn cấp công dân ASEAN ở các nước thứ 3 trong trường hợp khủng hoảng.

13

2. Kết quả triển khai xây dựng Cộng đồng Kinh tế (AEC).

- Mục tiêu của AEC là xây dựng ASEAN trở thành một thị trường và một cơ sở sản xuất thống nhất, biến sự đa dạng và khác biệt của các nước ASEAN thành khả năng hỗ trợ lẫn nhau thông qua mạng lưới chuỗi cung ứng, qua đó tạo lợi thế cạnh tranh và thu hút thương mại và đầu tư trong khu vực và toàn cầu. Giống như nhiều khu vực mậu dịch tự do (FTA) khác, mục tiêu chung của AEC là phát triển kinh tế trên sự kết nối sức mạnh của thị trường 10 nước ASEAN. Tuy nhiên, khác với các FTA khác, AEC không chỉ là một FTA với các biện pháp tự do hóa thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư mà là một khuôn khổ hội nhập và tương trợ kinh tế khu vực với cả các nội dung hợp tác về kết nối, thu hẹp khoảng cách phát triển; không chỉ hội nhập trong ASEAN mà còn cả ASEAN với bên ngoài.

- Phương châm/cách thức hội nhập của ASEAN là từng bước, tiệm tiến trước mắt tập trung vào các biện pháp đơn giản, khả thi, sau đó liên tục rà soát, củng cố và làm sâu sắc và mở rộng các biện pháp tự do hóa. Trên thực tế, với mức độ hội nhập kinh tế hiện nay, AEC chưa thể được coi là một “cộng đồng kinh tế” theo nghĩa thông thường (như cộng đồng Châu Âu). AEC thể hiện mong muốn và quyết tâm của ASEAN trong hội nhập khu vực. Đây sẽ là một tiến trình liên tục, lâu dài, không dừng lại ở năm 2015. Hiện ASEAN đang tiếp tục xây dựng tầm nhìn cho AEC sau năm 2015 nhằm đưa ASEAN thành một khu vực ổn định, thịnh vượng, cạnh tranh đi đôi với phát triển đồng đều, xóa nghèo và bất công xã hội đồng thời hội nhập toàn cầu.

Kết quả trong một số lĩnh vực cụ thể:

* Về thương mại hàng hóa: ASEAN đã và đang thực hiện các nghĩa vụ xóa bỏ các rào cản thuế quan và phi thuế quan trên cơ sở Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA). Theo đó, từ năm 2010 các nước ASEAN 6 đã miễn, giảm thuế xuống từ 0-5% cho 98%-99% hàng hoá từ ASEAN, các nước CLMV từ 2015 đã miễn, giảm thuế tương tự với khoảng 90% hàng hóa và sẽ tiếp tục thực hiện với hầu hết các mặt hàng còn lại từ năm 2018. ASEAN cũng đang chuẩn bị hoàn tất thủ tục để thực hiện Cơ chế hải quan một cửa, các thỏa thuận công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn và hợp chuẩn (thiết bị điện, điện tử, viễn thông).…

* Thương mại dịch vụ: Trong khuôn khổ cam kết thực hiện Hiệp định khung về dịch vụ ASEAN (AFAS) năm 1995, tới nay các nước ASEAN đã thực hiện tự do hoá theo 9 Gói cam kết về thương mại dịch vụ chung, 6 Gói cam kết về dịch vụ tài chính, 8 Gói cam kết về dịch vụ vận tải hàng không với phạm vi rộng hơn và mức độ sâu hơn so với các cam kết trong khuôn khổ WTO. Các lĩnh vực dịch vụ được ASEAN ưu tiên tự do hoá bao gồm ASEAN điện tử (e-ASEAN), y tế, logistics, hàng không và du lịch.

* Đầu tư: đang xóa bỏ các bảo lưu trong Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN

(ACIA), thực hiện các sáng kiến về thuận lợi hóa và bảo hộ đầu tư.

14

* Về sự lưu chuyển tự do hơn đối với dòng vốn trong khu vực: xây dựng Khuôn khổ ASEAN về hội nhập ngân hàng, bao gồm các biện pháp hài hòa hóa quy định và tiêu chuẩn ngân hàng, thực hiện kết nối các thị trường chứng khoán ASEAN.

Các nước ASEAN đã đàm phán được 6 Gói tự do hóa dịch vụ tài chính trong khuôn khổ AFAS:

* Hội nhập vào kinh tế toàn cầu: đã đàm phán, ký và thực thi các cam kết trong 5 Hiệp định Thương mại tự do (FTA) đã ký với các đối tác Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc và Niu Di Lân và hiện xem xét đàm phán nâng cấp, hoặc tự do hóa thêm các FTA này, đồng thời đang đàm phán FTA với Hồng Kông và nỗ lực kết thúc đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực ASEAN (RCEP) vào cuối năm 2015.

3. Kết quả triển khai xây dựng Cộng đồng Văn hóa – Xã hội (ASCC).

a) Lao động và lao động di cư: Phát triển lực lượng lao động cạnh tranh; Thực hiện các kinh nghiệm lao động tiên tiến; Đảm bảo an toàn và vệ sinh lao động (phát hành Quy định ASEAN về an toàn và sức khỏe nghề nghiệp); Tiến hành soạn thảo Văn kiện ASEAN về Bảo vệ và Thúc đẩy quyền của lao động di cư; Phòng ngừa và kiểm soát lây nhiễm HIV tại nơi làm việc .

b) Phúc lợi xã hội và phát triển đồng đều: Triển khai Tuyên bố ASEAN về An sinh xã hội; Hỗ trợ phát triển đồng đều đối với các nhóm xã hội sẽ tổn thương (người khuyết tật, trẻ em, người cao tuổi…), góp phần hiện thực hóa mục tiêu Cộng đồng ASEAN hướng tới người dân.

c) Phụ nữ và trẻ em: Thúc đẩy đảm bảo quyền phụ nữ và trẻ em, thực hiện nữ quyền và bình đẳng giới; Triển khai Tuyên bố ASEAN về Xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em; Phát hành tuyển tập các kinh nghiệm hay về loại trừ hành vi bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em; Nỗ lực hợp tác với các tác nhân liên quan lập mạng lưới xã hội bảo vệ và giúp đỡ các nạn nhân.

đ) Quản lý thiên tai và hỗ trợ nhân đạo: Tích cực thúc đẩy qua triển khai Hiệp định ASEAN về Quản lý thảm họa và ứng phó khẩn cấp (AADMER), vận hành Trung tâm Điều phối hỗ trợ nhân đạo (AHA), tổ chức các cuộc Diễn tập phòng chống thiên tai; Triển khai Tuyên bố ASEAN về tăng cường phòng chống thiên tai với việc thông qua các chiến lược và ưu tiên của Kế hoạch công tác (giai đoạn 2) Hiệp định AADMER (2013-15) và Quy chế hoạt động (TOR) trao thẩm quyền và nhiệm vụ cho Tổng Thư ký ASEAN làm Điều phối viên hỗ trợ nhân đạo ASEAN.

e) Y tế: Triển khai các cam kết tại Tuyên bố ASEAN về các bệnh không lây

nhiễm; Phòng chống HIV/AIDS; Hợp tác thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.

g) Giáo dục: Phát hành Báo cáo tình hình giáo dục ASEAN, qua đó cung cấp tổng thể cảnh quan giáo dục tại ASEAN; lập Thẻ đánh giá giáo dục ASEAN; chuyển ngữ các SGK tham khảo nguồn; thực hiện hài hoà hoá chương trình giáo dục nhằm quản lý chất lượng đào tạo cao học; thúc đẩy hợp tác du học và trao đổi sinh viên giữa các trường Đại học ASEAN.

15

h) Môi trường: Thông qua Chương trình ASEAN về quản lý bền vững hệ sinh thái đất than bùn (2014-20) trên cơ sở dự án Rừng đất than bùn ASEAN (APFP) đã

kết thúc; Mở rộng mạng lưới khu vực đối với Chương trình công viên di sản ASEAN (AHP) gồm 33 khu bảo tồn quốc gia có tầm quan trọng về đa dạng sinh học; Thông qua Kế hoạch hành động giáo dục môi trường ASEAN (AEEAP) 2014-18 sau kết thúc giai đoạn 2008-12; Lập hệ thống theo dõi khói bụi chung (HMS) giữa các cơ chế Tiểu vùng ASEAN về ô nhiễm khói bụi xuyên quốc gia; Soạn thảo Triển vọng môi trường ASEAN-Trung Quốc (lần đầu tiên) nhằm cung cấp thông tin tổng quan về tình trạng môi trường, khả năng giải pháp và hợp tác xử lý những vấn đề và thách thức chung.

i) Văn hoá và Thông tin: Thực hiện các dự án lớn nhằm bảo tồn và quảng bá di sản văn hoá ASEAN, phát triển văn hoá sáng tạo và thông tin. Tiếp tục nâng cao nhận thức về ASEAN qua các kế hoạch truyền thông quốc gia; phát triển Trung tâm đào tạo nguồn lực ảo ASEAN và triển khai các hoạt động chung trên truyền hình, đài phát thanh và truyền thông số; Tổ chức Liên hoan phim ASEAN lần thứ nhất với nỗ lực sử dụng phim ảnh làm phương tiện giới thiệu ASEAN đến với nhiều cộng đồng khán giả hơn.

l) Thanh niên: Triển khai Tuyên bố ASEAN về Doanh nghiệp trẻ và việc làm; Tiếp tục 2 chương trình tình nguyện, gồm Thanh niên tình nguyện ASEAN (AYVP) và Đội tình nguyện trẻ chuyên nghiệp ASEAN (AYPVC).

m) Các vấn đề công vụ: Tiếp tục triển khai các dự án của 10 Trung tâm nguồn lực ASEAN (ARC) tập trung vào phát triển lãnh đạo, quản lý nguồn nhân lực và cán bộ, công nghệ thông tin, thi và kiểm tra…nhằm xây dựng năng lực và thúc đẩy trao đổi kinh nghiệm giữa các công chức. Đang thực hiện Kế hoạch công tác ACCSM+3 giai đoạn 2012-15. Kết thúc 5 dự án thí điểm như hội thảo về năng suất xanh.

4. Kết quả thực hiện Kế hoạch tổng thể về Kết nối ASEAN (MPAC): Sáng kiến kết nối ASEAN được thông qua tại HNCC ASEAN 15 (năm 2009), đề ra các chiến lược và hoạt động cụ thể nhằm kết nối ASEAN trên 3 lĩnh vực chính: (i) Hạ tầng (Giao thông vận tải, Năng lượng, ICT); (ii) Thể chế (tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại, đầu tư, vốn); và (iii) Con người (giáo dục, văn hóa, du lịch). Để hiện thực hóa các mục tiêu này, các Nhà Lãnh đạo ASEAN đã thông qua Kế hoạch Tổng thể về Kết nối ASEAN (MPAC) tại HNCC ASEAN 17 (Hà Nội, tháng 10/2010). MPAC được xây dựng trên cơ sở chọn lọc các biện pháp “deliverable” và thiết thực nhất trong các kênh chuyên ngành, kết hợp với các biện pháp đang triển khai trong các khuôn khổ tiểu vùng. Tiến độ triển khai MPAC tiếp tục gặp nhiều khó khăn. Trong tổng số 125 hoạt động thuộc MPAC, 96 hoạt động sẽ cần được hoàn tất vào năm 2015, tuy nhiên Ban Thư ký ASEAN đánh giá chỉ 65% những hoạt động này có thể kết thúc vào năm 2015 theo kế hoạch.

Các khó khăn chính được xác định là do (i) thiếu nguồn lực cho các dự án cơ sở hạ tầng, (ii) khó khăn, chậm trễ trong việc thông qua Hiệp định đã ký hoặc thay đổi nội luật để triển khai các cam kết khu vực, và (iii) sự phối hợp chưa nhịp nhàng giữa các cơ quan ban ngành tham gia triển khai MPAC. Hiện Uỷ ban Kết nối ASEAN (ACCC) đang tăng cường việc huy động nguồn lực và hỗ trợ từ bên ngoài, xem xét 16

xây dựng cơ chế PPP, tăng cường trao đổi và tham vấn với các đơn vị tham gia triển khai MPAC để kịp nắm bắt tình hình.

5. Kết quả thực hiện Kế hoạch công tác về Sáng kiến liên kết ASEAN (IAI). Sáng kiến Hội nhập ASEAN (IAI) được các nhà Lãnh đạo ASEAN thông qua năm 2000 với mục tiêu thúc đẩy liên kết kinh tế ASEAN thông qua việc các nước ASEAN-6 hỗ trợ các nước CLMV hội nhập khu vực và thu hẹp khoảng cách phát triển. Giai đoạn một của Sáng kiến IAI (2002-2008) đã hoàn tất với 134 dự án/chương trình được thực hiện, thu hút 191 triệu đôla Mỹ từ ASEAN-6 và 20 triệu đôla Mỹ từ các nước đối thoại, tổ chức phát triển và các đối tác khác. Các dự án/chương trình tập trung vào 04 lĩnh vực ưu tiên là phát triển nguồn nhân lực, hỗ trợ hội nhập khu vực, công nghệ thông tin và cơ sở hạ tầng.

Giai đoạn 2 (2009-2015) được triển khai trên cơ sở Tài liệu Khung chiến lược (SF) và Kế hoạch Công tác IAI (WP) 2 được thông qua tại HNCC ASEAN-14 (tháng 2/2009, Thái Lan). Tính đến tháng 4/2015, đã có 63 hoạt động (chiếm 35%) trong WP-2, tương đương 281 dự án, được triển khai với sự hỗ trợ của ASEAN-6, các đối tác đối thoại và đối tác phát triển. Trong đó, có 36 trên tổng số 94 hoạt động liên quan đến AEC (chiếm 39%), 19 trên tổng số 78 hoạt động liên quan đến ASCC (chiếm 24%), 4 trên tổng số 6 hoạt động liên quan đến APSC (chiếm 67%) đã được thực hiện. Các nước ASEAN-6 đã đóng góp hoặc cam kết tổng số 277 dự án, với kinh phí gần 20 triệu USD (trong đó ASEAN-6 góp gần 18 triệu). Trong tổng số 277 dự án này, có 43 dự án được thực hiện chung với các Đối tác. Các Đối tác tích cực hỗ trợ ASEAN thực hiện IAI là Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, và Niu Di-lân. Tuy các nước đối tác đã cam kết vốn hỗ trợ khá lớn cho IAI, rất nhiều dự án hiện vẫn đang chờ xét duyệt do quy định xét duyệt khá phức tạp, yêu cầu sự đồng ý của nhiều cấp và sự có lợi cho ít nhất 2 trong 4 nước CLMV.

Trong năm 2015, Nhóm Đặc trách IAI (IAITF) nhất trí ưu tiên triển khai các hoạt động đã có đề xuất nội dung dự án của CLMV trong đó có 60 hoạt động. Giai đoạn sau 2015, cần kiểm điểm toàn diện hiệu quả triển khai |Sáng kiến IAI và quy trình xây dựng, đề xuất và triển khai các dự án IAI; hiệu quả hoạt động của cơ chế IAITF và phòng IAI/NDG của BTK ASEAN; vai trò điều phối của các Phái đoàn CLMV và BTK ASEAN; rà soát mức độ khả thi của 119 trong tổng số 182 hoạt động chưa được triển khai của IAI WP-2 và rút gọn danh mục hoạt động ưu tiên của CLMV theo hướng tinh gọn, cụ thể hóa các hoạt động khả thi.

6. Quan hệ Đối ngoại của ASEAN

Quan hệ đối ngoại của ASEAN là một mảng lớn trong các hoạt động của Hiệp hội luôn được mở rộng và tăng cường thông qua các khuôn khổ khác nhau, đồng thời ASEAN luôn phát huy được vai trò chủ đạo trong các tiến trình khu vực cũng như trong việc xử lý những vấn đề quan trọng của khu vực. Quan hệ đối ngoại đã hỗ trợ đắc lực cho mục tiêu an ninh và phát triển của ASEAN ; giúp ASEAN tạo được mạng lưới quan hệ hợp tác lâu dài và ổn định với tất cả các nước lớn và đối tác quan trọng ở khu vực và trên thế giới, góp phần vào duy trì hòa bình, an ninh và ổn định ở khu vực, 17

nâng cao vị thế của ASEAN trên trường quốc tế; giúp ASEAN huy động đáng kể sự hỗ trợ, kể cả về tài chính của các nước đối tác cho xây dựng cộng đồng, thu hẹp khoảng cách phát triển, thúc đẩy hội nhập ASEAN.

Quan hệ đối ngoại của ASEAN bao gồm các khuôn khổ ASEAN+1,

ASEAN+3, và Cấp cao Đông Á (EAS). Cụ thể:

(i) Khuôn khổ ASEAN + 1 (với từng đối tác bên ngoài). ASEAN hiện có quan hệ đối thoại và hợp tác với 10 nước (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Pa- kít-xtan, Ôt-xtrây-lia, Niu Di-lân, Nga, Hoa Kỳ và Ca-na-đa), 1 tổ chức khu vực là Liên minh Châu Âu (EU) và 1 tổ chức quốc tế là Liên Hợp Quốc. Ngoài ra ASEAN cũng như đang xem xét đề nghị thiết lập quan hệ đối tác ở các mức khác nhau với nhiều nước như Na Uy, Ecuador, Triều Tiên, Mông Cổ và Thụy Sỹ... ASEAN hiện là quan sát viên của LHQ và có quan hệ với nhiều tổ chức khu vực khác trên thế giới như FEALAC, CELAC, GCC, AP, ECO…

Đến nay, ASEAN cùng với hầu hết các đối tác nói trên đã thiết lập các khuôn khổ quan hệ như đối tác chiến lược (với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc), đối tác tăng cường (Mỹ, EU, Ca-na-đa) hoặc toàn diện (Niu Di-lân, Nga, UN), kèm theo các kế hoạch hành động cụ thể để thực hiện. Các chương trình/kế hoạch hành động đang được triển khai tích cực với nhiều biện pháp/hoạt động khác nhau, kể cả thỏa thuận lập các Khu vực mậu dịch tự do (FTA) giữa ASEAN với nhiều đối tác quan trọng như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc và Niu Di-lân.

(ii) Tiến trình ASEAN+3 (với ba nước Đông Bắc Á là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc). Khuôn khổ hợp tác ASEAN+3 hình thành năm 1997 với cuộc họp Cấp cao không chính thức lần đầu tiên giữa ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và được chính thức hóa năm 1999 với việc thông qua Tuyên bố chung về Hợp tác Đông Á (Ma-ni-la, 28/11/1999). ASEAN+3 ra đời xuất phát từ nhu cầu hợp tác của các nước khu vực nhằm đối phó với tác động của khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, đến nay đã mở rộng, phát triển, trở thành một trong những cơ chế quan trọng trong hợp tác Đông Á, đặc biệt trong lĩnh vực hợp tác kinh tế, tài chính. Ngoài ra, ASEAN+3 cũng hợp tác trên các lĩnh vực an ninh-chính trị, nông-lâm nghiệp, chống tội phạm xuyên quốc gia, năng lượng, môi trường, công nghệ thông tin, du lịch, lao động, y tế, văn hóa nghệ thuật, quản lý thiên tai, giáo dục… được điều phối thông qua nhiều cơ chế, gồm Cấp cao, cấp Bộ trưởng, cấp Quan chức Cao cấp, CPR+3, và nhóm làm việc.

Hợp tác ASEAN+3 đã đóng góp giải quyết các thách thức chung của khu vực, tạo điều kiện cho hòa bình, ổn định, hội nhập khu vực và quá trình xây dựng Cộng đồng Đông Á. Các nước+3 ủng hộ ASEAN xây dựng Cộng đồng, hướng tới mục tiêu lâu dài là thành lập cộng đồng Đông Á trong đó ASEAN đóng vai trò là động lực chính.

18

(iii) Cấp cao Đông Á (EAS). Tháng 12/2005, EAS ra đời với sự tham gia của 16 thành viên gồm 10 nước ASEAN, Trung Quốc, Nhật bản, Hàn quốc, Ấn Độ, Ôt-

xtrây-lia và Niu Di-lân. Mỹ và Nga tham gia EAS từ năm 2011. Đây là diễn đàn của các Lãnh đạo đối thoại về các vấn đề chiến lược nhằm hỗ trợ mục tiêu xây dựng cộng đồng ở khu vực Đông Á; là một tiến trình mở và thu nạp, trong đó ASEAN giữ vai trò chủ đạo; bổ sung và hỗ trợ cho các diễn đàn khu vực khác hiện có, họp hàng năm do ASEAN chủ trì nhân dịp Cấp cao ASEAN.

Sức hấp dẫn và tầm quan trọng của ASEAN tiếp tục được thể hiện qua Cấp cao Đông Á, diễn đàn hàng năm quan trọng của các lãnh đạo đối thoại về các vấn đề chiến lược bao gồm cả nội dung chính trị-an ninh, kinh tế, hợp tác phát triển. ASEAN tiếp tục đóng vai trò trung tâm, tạo điều kiện để các cường quốc đóng góp vào duy trì hòa bình, an ninh, ổn định và phát triển ở khu vực. Các lĩnh vực ưu tiên hợp tác của EAS đóng góp vào xây dựng Cộng đồng ASEAN, thông qua tăng cường hợp tác và nâng cao năng lực của ASEAN trong 6 lĩnh vực ưu tiên gồm (i) năng lượng và môi trường, (ii) giáo dục; (iii) tài chính và kinh tế; (iv) y tế và dịch bệnh; (v) quản lý thiên tai; và (vi) hợp tác kết nối.

B. SỰ THAM GIA CỦA VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG

CỘNG ĐỒNG ASEAN

Với phương châm “chủ động, tích cực và có trách nhiệm” trong tham gia hợp tác ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của ASEAN nói chung và mục tiêu hiện thực hóa Cộng đồng ASEAN nói riêng. Việt Nam đã tham gia đầy đủ và sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực hợp tác của ASEAN, từ chính trị-an ninh, kinh tế, văn hoá-xã hội và quan hệ đối ngoại của Hiệp hội; và có những đóng góp quan trọng cho sự trưởng thành và lớn mạnh của ASEAN, từ xác định các mục tiêu và quyết sách lớn đến việc tăng cường đoàn kết và liên kết ASEAN, đẩy mạnh quan hệ đối ngoại và nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Hiệp hội. Sự tham gia và đóng góp của Việt Nam trên các lĩnh vực cụ thể như sau:

1. Trụ cột Cộng đồng Chính trị - An ninh

- Việt Nam luôn đi đầu thúc đẩy đối thoại và hợp tác nhằm duy trì hòa bình, ổn định và an ninh ở khu vực. Chúng ta chủ động thúc đẩy và tích cực tham gia thực hiện các biện pháp xây dựng lòng tin, xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực chung trong ứng xử giữa các quốc gia, phát huy các công cụ và cơ chế hợp tác chính trị - an ninh hiện có của khu vực như Hiệp ước TAC, Hiệp ước SEANWFZ, Tuyên bố DOC.

- Việt Nam đã tích cực tham gia các hoạt động đối thoại và hợp tác giữa các quan chức quốc phòng ASEAN và ASEAN mở rộng, tăng cường xây dựng lòng tin và hợp tác xử lý những thách thức an ninh ở khu vực. Chúng ta cũng tích cực tham gia các hoạt động hợp tác ứng phó các thách thức an ninh phi truyền thống (chống khủng bố, ma túy, buôn người, tội phạm công nghệ cao và các loại tội phạm xuyên quốc gia...), các hoạt động ngăn ngừa xung đột (thiết lập đường dây nóng, thúc đẩy cơ chế “cảnh báo sớm”), tìm kiếm cứu nạn, hỗ trợ nhân đạo,...

19

- Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng cho việc bảo đảm đoàn kết và thống nhất ASEAN cũng như phát huy vai trò trung tâm của ASEAN ở khu vực.

Chúng ta luôn kiên trì thúc đẩy đoàn kết và thống nhất ASEAN trên cơ sở các mục tiêu và nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội đã được ghi nhận trong Hiến chương ASEAN, khéo léo xử lý những khác biệt nảy sinh giữa các nước ASEAN, thúc đẩy lập trường và tiếng nói chung trong việc xử lý những vấn đề khu vực.

- Chúng ta đã chủ động thúc đẩy thành công một số vấn đề giúp ASEAN bảo đảm vai trò trung tâm ở khu vực, trong đó có quyết định mở rộng Cấp cao Đông Á (EAS) cho Nga và Mỹ tham gia; vận động và chủ trì thành công Hội nghị ADMM+ lần đầu tiên ở Hà Nội; xây dựng Kế hoạch hành động Hà Nội thực hiện Tuyên bố Tầm nhìn ARF; tích cực thúc đẩy định hình cấu trúc an ninh khu vực Đông Á trên cơ sở các tiến trình khu vực do ASEAN giữ vai trò chủ đạo. Việt Nam đã tích cực thúc đẩy quan hệ giữa ASEAN với các đối tác, làm sâu sắc quan hệ hợp tác chính trị-an ninh ASEAN với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng như Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Nga, Úc..., để tạo dựng một môi trường hòa bình, an ninh tại khu vực;

- Việt Nam đã khéo léo lồng thép thúc đẩy vấn đề Biển Đông, tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế để bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền của ta ở Biển Đông. Trong nhiều năm qua, nhất là khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD-981 trên thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, và tiến hành cải tạo quy mô lớn các đảo/đá, vấn đề Biển Đông nổi lên trở thành chủ đề hàng đầu tại các Hội nghị ASEAN và ASEAN mở rộng; tất cả các nước ASEAN và đối tác (trừ Trung Quốc) đều bày tỏ quan ngại, thể hiện qua các văn kiện của nhiều Hội nghị quan trọng, nhất là Tuyên bố của các Bộ trưởng Ngoại giao về diễn biến ở Biển Đông (10/5/2014), Hội nghị Cấp cao ASEAN-24 (tháng 5/2014), Cấp cao ASEAN-25 (tháng 11/2014) và Cấp cao ASEAN -26 (tháng 4/2015). Đây là kết quả đấu tranh của ta trên thực địa, kết hợp với đấu tranh chính trị, ngoại giao. Ta cũng đã tích cực thúc đẩy trao đổi giữa ASEAN và Trung Quốc về thực hiện nghiêm túc DOC và sớm xây dựng COC; đẩy mạnh đối thoại và hợp tác về các vấn đề trên biển, xây dựng lòng tin, ngăn ngừa xung đột.

2. Trụ cột Cộng đồng Kinh tế

Với quan điểm chủ động, tích cực cùng các nước ASEAN xây dựng thành công AEC năm 2015, Việt Nam đã tích cực triển khai các biện pháp ưu tiên nhằm thực hiện Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC, đặc biệt là trong các lĩnh vực như thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, giao thông vận tải, hợp tác tài chính, chính sách cạnh tranh, công nghiệp, năng lượng, kết nối ASEAN, hợp tác với các đối tác ngoài khối…

Một số kết quả cụ thể:

2.1. Thương mại hàng hóa

20

- Ngay từ khi ra nhập, Việt Nam đã thực hiện việc cắt giảm thuế nhập khẩu trong ASEAN. Đến năm 2010, ta đã đưa thuế suất về 0-5% đối với khoảng 90% số dòng thuế và được linh hoạt giữ thuế suất đối với 7% số dòng thuế còn lại tới năm 2018 (Các nước ASEAN 6 đã thực hiện nghĩa vụ này từ 2010, có nghĩa là từ 2010 khoảng 98-99% hàng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN 6 đã được miễn thuế nhập khẩu). Đến nay, đây là mức cắt giảm thuế nhập khẩu cao nhất trong tất cả các

FTA Việt Nam đã ký. Về biện pháp phi thuế quan, cơ bản cam kết trong ASEAN hiện nay chưa đi quá cam kết trong WTO từ cam kết về hạn ngạch thuế quan. Theo đó đến năm 2018, Việt Nam sẽ phải xóa bỏ hạn ngạch thuế quan với 4 mặt hàng là đường (đường tinh luyện, đường thô), muối, trứng gia cầm, thuốc lá nguyên liệu. Các biện pháp phi thuế quan của ta đến nay đều phù hợp với các cam kết.

2.2. Thương mại dịch vụ

- Trong khuôn khổ cam kết thực hiện Hiệp định khung về dịch vụ ASEAN (AFAS) năm 1995, tới nay các nước ASEAN đã thực hiện tự do hoá theo 9 Gói cam kết về thương mại dịch vụ chung, 6 Gói cam kết về dịch vụ tài chính, 8 Gói cam kết về dịch vụ vận tải hàng không với phạm vi rộng hơn và mức độ sâu hơn so với các cam kết trong khuôn khổ WTO. Các cam kết này cơ bản giống với cam kết chung của Việt Nam trong GATS, cũng không trực tiếp làm thay đổi thể chế của ngành dịch vụ Việt Nam. Việc cam kết phụ thuộc vào tình hình thực tế đã mở cửa và trong khuôn khổ pháp luật hiện hành. Hiện nay Việt Nam vẫn đang duy trì các rào cản quan trọng nhất trong các ngành và phân ngành nhạy cảm (viễn thông, tài chính, ngân hàng, phân phối, năng lượng...).

2.3. Đầu tư

- Việt Nam đã tham gia Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) với các nội dung bao trùm cả về tự do hóa đầu tư, bảo hộ đầu tư, thuận lợi hóa đầu tư và xúc tiến đầu tư; dành đối xử như nhau cho các nhà đầu tư ASEAN và nhà đầu tư ngoài ASEAN.

- Việt Nam cùng chung quan điểm với các nước thành viên ASEAN khác trong việc tạo ra một thể chế đầu tư tự do, mở cửa, thuận lợi và cạnh tranh nhằm thúc đẩy đầu tư nội khối và thu hút đầu tư nước ngoài vào ASEAN. Ta đã xây dựng một hệ thống văn bản pháp luật phù hợp, áp dụng thống nhất tiêu biểu là Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng nới lỏng các quy định đối với lĩnh vực bán lẻ, ngân hàng, giáo dục... Những điều chỉnh trên tạo cơ sở pháp lý cho việc cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng ngày càng thuận lợi, minh bạch và bình đẳng giữa các nhà đầu tư, phù hợp với những cam kết của Việt Nam trong các Hiệp định đầu tư trong khối ASEAN.

2.4. Một số dung khác

- Ngoài ra, Việt Nam cũng tích cực cùng các nước ASEAN triển khai các hoạt động trong các lĩnh vực khác, nổi bật là: củng cố khả năng cạnh tranh về lương thực, thực phẩm, nông lâm nghiệp của ASEAN; xúc tiến hợp tác về cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng; thông qua các văn kiện pháp lý làm cơ sở hợp tác trong các lĩnh vực vận tải hàng không, đường bộ; tăng cường trao đổi thông tin dữ liệu về khoáng sản; các hoạt động, chương trình bảo vệ người tiêu dùng; các chương trình, biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ…

- Hiện nay, Việt Nam là một trong những nước có tỉ lệ thực hiện cao nhất các biện pháp trong Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Đối với các biện pháp ưu tiên 21

thực hiện cho đến hết 2015, Việt Nam và Singapore là hai nước có tỉ lệ cao nhất, đạt 93,5%, so với mức chung của ASEAN là 90,5%. Điều này thể hiện sự nghiêm túc và nỗ lực của Việt Nam trong xây dựng AEC.

3. Trụ cột Cộng đồng Văn hóa – Xã hội

Việt Nam đã tích cực lồng ghép các nội dung của Kế hoạch tổng thể vào các Chương trình Mục tiêu quốc gia, chương trình hành động của các Bộ, ngành và chiến lược phát triển của Việt Nam nói chung, qua đó giúp tiết kiệm được thời gian, nguồn lực đảm bảo việc thực hiện KHTT một cách nhanh chóng, đồng bộ và toàn diện.

Hợp tác Cộng đồng Văn hoá-Xã hội trải rộng đan xen, đa ngành trên nhiều lĩnh vực như: lao động, phúc lợi xã hội, phụ nữ và trẻ em, thanh niên, lao động di cư, người cao tuổi, người khuyết tật, y tế, giáo dục... Cấp độ hợp tác ngày càng nâng cao và đi vào thực chất, góp phần thúc đẩy và làm sâu sắc quá trình hội nhập, liên kết ASEAN, hình thành và nâng cao ý thức hợp tác, phối hợp ở cấp độ khu vực và quốc tế để giải quyết các vấn đề nảy sinh và cùng ứng phó với các thách thức chung của khu vực.

- Lao động và việc làm: Việt Nam đã tích cực tham gia Hội nghị Bộ trưởng, quan chức lao động ASEAN (ALMM, SLOM); nêu sáng kiến lập dự án nghiên cứu so sánh luật lao động giữa các nước ASEAN, diễn đàn chia sẻ kinh nghiệm về thanh tra lao động; tổ chức hội nghị nguồn nhân lực; đối thoại lao động và sửa đổi Luật lao động về khuôn khổ pháp lý và quy tắc liên quan tới quan hệ việc làm; thảo luận văn kiện về bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động di cư; hợp tác phát triển nguồn nhân lực (hình thành và luật hoá việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho người lao động trong Luật dạy nghề; phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng Khung trình độ quốc gia; tham gia và đăng cai tổ chức Hội thi tay nghề ASEAN).

- Phúc lợi và phát triển xã hội: tích cực tham gia và đăng cai tổ chức các hội nghị cấp Bộ trưởng, quan chức ASEAN về phúc lợi xã hội và phát triển (AMMSWD, SOMSWD); các chương trình, dự án, hoạt động hợp tác như lập Nhóm các nhà sư phạm, thực hành công tác xã hội ASEAN; Chiến lược cộng đồng về phòng chống bạo lực gia đình; an sinh xã hội và chế độ thai sản cho lao động nữ v.v. Việt Nam đã đi đầu trong việc xây dựng Tuyên bố ASEAN về Tăng cường An sinh xã hội và Tuyên bố về phòng chống bạo lực đối với phụ nữ, trẻ em trong ASEAN đã được thông qua tại HNCC ASEAN 25 (tháng 11/2014); hợp tác với Nhật Bản về chính sách chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ sơ sinh; và với Hàn Quốc về công tác chăm sóc tại nhà cho người cao tuổi.

22

- Phụ nữ: Việt Nam đã đóng góp vào việc chống bạo lực gia đình, bảo vệ quyền của phụ nữ ASEAN. Năm 2010, Uỷ ban thúc đẩy và bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em (ACWC) được lập tại Việt Nam. Việt Nam tham gia đóng góp vào việc xây dựng kế hoạch của ACWC trong ASEAN cũng như thiết lập mạng lưới, xây dựng kết nối giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân và các nhà tài trợ trong lĩnh vực bảo vệ quyền của

phụ nữ và trẻ em thông qua các Hội thảo, dự án như “Thúc đẩy Quyền có quốc tịch cho phụ nữ và trẻ em trong việc thực hiện Công ước CRC và CEDAW trong ASEAN: Quan hệ đối tác tiềm năng ACWC-UNHCR”.

- Hợp tác môi trường và biến đổi khí hậu: Việt Nam đã đề xuất sáng kiến tổ chức diễn đàn môi trường ASEAN để trao đổi kinh nghiệm và các bài học thực tế trong các vấn đề về môi trường. Năm 2013, Việt Nam đã chủ trì Hội thảo cấp cao Đông Á về Thành phố bền vững môi trường lần thứ 4; Tổ chức thành công Lễ Trao Chứng nhận Vườn Quốc gia U Minh Thượng là Vườn Di sản ASEAN, nâng tổng số thành 5 Vườn Di Sản ASEAN của Việt Nam. Nhiều lượt cán bộ, chuyên gia của ta đã tham gia các khóa tập huấn tăng cường năng lực trong lĩnh vực này.

- Hợp tác quản lý thiên tai: Việt Nam đã phối hợp với ASEAN triển khai Hiệp định ASEAN về Ứng phó khẩn cấp và Quản lý thiên tai; lồng ghép các cam kết hợp tác quản lý thiên tai thảm họa cấp khu vực vào chương trình phát triển quốc gia; Ưu tiên đầu tư xây dựng hệ thống cảnh báo sớm, nâng cao nhận thức Cộng đồng, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, đầu tư nâng cấp các công trình phòng chống thiên tai… Tháng 10/2013, Việt Nam đã tổ chức thành công Diễn tập Ứng phó Thiên tai khu vực ASEAN (ARDEX-13), với sự tham gia của 2500 người, các đội cứu trợ đến từ 10 nước ASEAN và quan sát viên từ 6 nước EAS, trong đó có Ô-xtrây-lia.

- Hợp tác thông tin-truyền thông: Hợp tác về quản lý và khai thác các dịch vụ viễn thông, dịch vụ bưu chính và chuyển phát giữa Việt Nam với các nước ASEAN được liên tục mở rộng, phục vụ kịp thời nhu cầu trao đổi thông tin và liên lạc, phát triển các mối quan hệ kinh tế xã hội và văn hoá giữa Việt Nam và các nước, góp phần xây dựng một không gian điện tử chung trong ASEAN (e-ASEAN), hướng tới việc phát triển các lĩnh vực xã hội điện tử, kinh doanh điện tử và Chính phủ điện tử, thu hẹp khoảng cách số và đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong xã hội, nhất là ở các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa. Một số doanh nghiệp của Việt Nam như VNPT, Viettel đã triển khai các dự án hợp tác đầu tư hiệu quả tại một số nước ASEAN như Căm-pu- chia, Lào, Mi-an-ma.

- Hợp tác văn hóa: ta đã tham gia tích cực nhiều hoạt động hợp tác văn hóa ASEAN. ASEAN, qua đó tăng cường quan hệ, hiểu biết giữa Việt Nam và các nước, giới thiệu văn hoá nghệ thuật Việt Nam và đưa công chúng, nghệ sĩ Việt Nam tiếp cận nhiều hơn nền văn hóa đa dạng, đặc sắc của các dân tộc ASEAN.

23

- Hợp tác khoa học-công nghệ: hoạt động hợp tác ASEAN tập trung trong các lĩnh vực như tiêu chuẩn đo lường chất lượng, sở hữu trí tuệ, và hoạt động hợp tác KHCN trong ASEAN COST như Thoả thuận thừa nhận lẫn nhau của ASEAN về thiết bị điện và điện tử; Hiệp định hài hoà quy chế quản lý thiết bị điện-điện tử của ASEAN… Ta đã đăng cai tổ chức nhiều hội nghị, triển lãm qui mô lớn như Tuần lễ KHCN ASEAN, đề xuất và thực hiện nhiều dự án, sáng kiến hợp tác KHCN của ASEAN.

- Hợp tác giáo dục-đào tạo: từ năm 1992 Việt Nam đã tham gia Hội nghị Hội đồng Bộ trưởng Giáo dục các nước ĐNÁ (SEAMEO); sau đó là Hội nghị Bộ trưởng Giáo dục ASEAN (ASED) và Ủy ban Giáo dục của ASEAN. Các hoạt động hợp tác giáo dục ASEAN đem lại lợi ích thiết thực không chỉ cho giáo dục-đào tạo mà còn cho các ngành khác như: nông lâm nghiệp, văn hoá-thông tin và y tế. Từ năm 1992- 2009, Quĩ hỗ trợ đặc biệt SEAMEO đã tài trợ cho trên 2000 cán bộ Việt Nam tham gia các hội nghị, hội thảo, các khoá đào tạo ngắn hạn và dài hạn. Hàng nghìn lượt giảng viên, các nhà khoa học đến giảng dạy, trao đổi học thuật và sinh viên, học sinh các nước thành viên đến học tập và giao lưu văn hóa. Việt Nam đã tiếp nhận nhiều nguồn học bổng để triển khai các chương trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao như: Chương trình học bổng Quỹ Quốc tế Singapore (SIF-ASEAN); Chương trinh học bổng AUN-Hàn Quốc. Ta cũng tham gia Mạng lưới các Đại học Đông Nam Á (ASEAN University Network- AUN) với công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học. Các ĐH Quốc gia Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh và ĐH Cần Thơ đã được phê duyệt là thành viên của Mạng lưới các trường Đại học ĐNÁ (AUN).

- Hợp tác thanh niên: Năm 2011, Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng Thanh niên ASEAN lần thứ VII. Hội nghị đã đề ra nhiều sáng kiến. Hội nghị đã ra Tuyên bố chung trong đó khẳng định Sáng kiến Hà Nội góp phần tăng cường hơn nữa hợp tác toàn diện trong lĩnh vực thanh niên, nâng cao sự gắn bó và hiểu biết giữa các tầng lớp thanh niên, lãnh đạo trẻ trong khu vực. Ta cũng tham gia các Chương trình Giao lưu thanh niên học sinh giữa ASEAN với Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.

- Hợp tác Y tế: Việt Nam đã tích cực tham gia các hoạt động hợp tác và hội nhập với ASEAN trong các lĩnh vực như: Y tế dự phòng (phòng chống đại dịch cúm ở người, dự trữ thuốc Taminflu và bộ phòng chống dịch, tổ chức các cuộc diễn tập phòng chống đại dịch trong khu vực); Phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm: cúm A(H5N1) và cúm A(H1N1), y học cổ truyền, an toàn vệ sinh thực phẩm, thống nhất cách thức quản lý mỹ phẩm tại các nước ASEAN, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp kinh doanh mỹ phẩm, hướng tới một thị trường chung của ASEAN. Các nước ASEAN đã có các thỏa thuận về Dịch vụ Điều dưỡng, Người hành nghề Y và Nha khoa, Thỏa thuận Công nhận lẫn nhau trong Thanh tra Thực hành tốt Sản xuất thuốc đối với các cơ sở sản xuất dược phẩm… tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam tham gia vào thị trường dịch vụ khu vực.

- Hợp tác công vụ: Việt Nam đã tham gia đầy đủ, tích cực vào các hoạt động của ACCSM, tạo điều kiện và đẩy mạnh hoạt động trao đổi những kinh nghiệm và thực tiễn về cải cách công vụ ở mỗi nước thành viên. Hiện Việt Nam chủ trì Trung tâm nguồn ASEAN-Việt Nam về quản lý nhân sự.

24

- Đối ngoại nhân dân: Việt Nam đã quan tâm duy trì, phát triển công tác ngoại giao nhân dân, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại nhân dân. Đến nay, các đoàn thể và tổ chức nhân dân ta đã phát triển được một mạng lưới rộng khắp với nhiều đối tác trong khu vực trên tất cả các lĩnh vục (hòa bình hữu nghị, xóa đói giảm nghèo cũng như dân

chủ tôn giáo nhân quyền), nhanh chóng thiết lập quan hệ hợp tác với nhiều tổ chức, cơ chế trong ASEAN, mở rộng quan hệ với các cơ chế, tổ chức đa phương mang tính khu vực như: Hội đồng các tổ chức Phụ nữ ASEAN (ACWO), Hội đồng Công đoàn ASEAN (ATUC), Liên đoàn Cựu Chiến binh ASEAN (VECONAC), Liên đoàn Nhà báo ASEAN (CAJ), Hiệp hội Sở hữu trí tuệ ASEAN, Hội luật gia các nước ASEAN (ALA), Diễn đàn Nhân dân ASEAN (ACSC/APF)…

- Vai trò Tổng Thư ký: Việt Nam đã hoàn tất việc cử nhân sự đảm nhiệm vai trò Tổng Thư ký ASEAN nhiệm kỳ 2013-2017. Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Lương Minh đã chính thức nhậm chức TTK ASEAN ngày 09/01/2013 và đã đảm nhiệm tốt vai trò Tổng Thư ký từ đó cho đến nay, được các nước thành viên đánh giá cao.

4. Quan hệ Đối ngoại

Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng trong việc định hướng chiến lược, chính sách, và bước đi tăng cường quan hệ đối ngoại của ASEAN thông qua nhiều khuôn khổ khác nhau như ASEAN+1, ASEAN+3, EAS, ARF và ADMM+.

Riêng trong khuôn khổ ASEAN+1, Việt Nam là nước điều phối quan hệ với nhiều đối tác quan trọng kể từ khi gia nhập ASEAN (cứ 3 năm điều phối một đối tác), mà gần đây nhất là nước điều phối quan hệ ASEAN-Trung Quốc (từ tháng 7/2009 đến tháng 7/2012), hiện đang điều phối quan hệ đối thoại ASEAN-EU (từ 7/2012- 8/2015) và sắp tới điều phối quan hệ ASEAN - Ấn độ (từ 8/2015 – 8/2018). Thông qua đó, ta đã góp phần mở rộng và làm sâu sắc hợp tác giữa ASEAN với các đối tác trên nhiều lĩnh vực từ chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa – xã hội; tranh thủ được sự ủng hộ và hỗ trợ của các đối tác đối với nỗ lực xây dựng Cộng đồng ASEAN cũng như xử lý những thách thức ở khu vực.

C. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM.

1. Sự hình thành Cộng đồng ASEAN nói riêng và tiến trình liên kết ASEAN

nói chung đã tạo ra những cơ hội và thách thức đan xen nhau đối với Việt Nam.

25

Cộng đồng ASEAN đã làm cho Hiệp hội ASEAN trở thành một thực thể chính trị-kinh tế khá gắn kết; có vai trò quan trọng đối với hòa bình, an ninh và phát triển ở khu vực Đông Á; là đối tác không thể thiếu của nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước lớn. Tham gia hợp tác ASEAN đã và sẽ mang lại cho Việt Nam những lợi ích to lớn và thiết thực; hỗ trợ đắc lực cho an ninh, phát triển và nâng cao vị thế quốc tế của nước ta. Những lợi ích có thể khái quát gồm: (i) Duy trì môi trường khu vực hòa bình và ổn định thuận lợi cho an ninh và phát triển của ta. ; (ii) Tạo điều kiện thuận lợi và thế chiến lược tốt hơn cho Việt Nam trong quan hệ với các đối tác bên ngoài, nhất là các nước lớn, cũng như khi tham gia các tổ chức hợp tác đa phương rộng lớn hơn; (iii) Giúp ta mở rộng tiếp cận thị trường các nước và trở nên hấp dẫn hơn đối với đầu tư và kinh doanh từ bên ngoài; (iv) tiếp cận thông tin, kinh nghiệm, công nghệ và nguồn lực thông qua việc tham gia nhiều hoạt động/dự án hợp tác; (v) giúp ta nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ và cải cách thể chế, luật lệ trong nước cho phù hợp với chuẩn mực khu vực và quốc tế.

Tuy vậy, chất lượng của Cộng đồng ASEAN 2015 vẫn còn hạn chế vì mức độ liên kết khu vực chưa cao cũng như sự khác biệt còn khá lớn về trình độ phát triển, chế độ chính trị - xã hội và lợi ích quốc gia. ASEAN hiện vẫn là một cộng đồng “thống nhất trong đa dạng”; là một tổ chức liên Chính phủ, hoạt động trên cơ sở bình đẳng chủ quyền quốc gia và nâng dần các lợi ích chung theo tiến triển của liên kết khu vực. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của ASEAN còn cồng kềnh, họp hành nhiều, hiệu quả thấp; chưa có cơ chế bảo đảm thực thi đầy đủ và nghiêm túc các thỏa thuận; nguồn lực hạn chế, trông chờ nhiều vào sự hỗ trợ của bên ngoài. Hơn nữa, ASEAN luôn chịu tác động mạnh của các nhân tố cả từ bên trong và bên ngoài, nhất là những biến động của tình hình khu vực và quốc tế cũng như cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ở khu vực.

Do vậy, việc đạt được đồng thuận và thực thi các thỏa thuận/cam kết hợp tác trên các lĩnh vực đòi hỏi quá trình tham vấn kéo dài và phức tạp; hiệu quả và chất lượng tham gia cũng như sự vận động tích cực của ta chưa đạt được kết quả như mong muốn. Do mức độ liên kết ASEAN ngày càng gia tăng, chúng ta cần điều chỉnh, sửa đổi hoặc ban hành mới nhiều văn bản pháp quy, chính sách và quy định cả ở tầm vĩ mô và vi mô để phù hợp với tiến trình hội nhập khu vực; tăng cường và nâng cao hiệu quả cơ chế phối hợp liên Bộ/ngành; tăng cường bộ máy chuyên trách tham gia hợp tác ASEAN; đầu tư thích đáng hơn về nguồn lực, nhất là về tài chính và cán bộ tham gia hoạt động đa phương.

2. Về chính trị - an ninh:

2.1. Cơ hội: Ta có được trì môi trường khu vực hòa bình, an ninh, ổn định và hợp tác, để tập trung phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; trực tiếp tham gia và đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý những thách thức an ninh cả truyền thống và phi truyền thống ở khu vực. Riêng về Biển Đông, ta có được sự ủng hộ và hỗ trợ đáng kể trong việc bảo vệ chủ quyền và lợi ích của ta ở Biển Đông, mặc dù lập trường chung và vai trò của ASEAN trong vấn đề này còn có mức độ.

2.2. Thách thức: Tuy nhiên, ta gặp một số khó khăn trong quá trình đưa hợp tác chính trị - an ninh đi vào chiều sâu do giữa các nước thành viên vẫn còn có sự khác biệt về chế độ chính trị - xã hội và lợi ích an ninh cũng như trong quan hệ với các nước lớn. Ta cũng gặp khó khăn trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến dân chủ, nhân quyền, trong lúc một số nước ASEAN và nhiều nước đối tác đẩy mạnh vấn đề này theo các giá trị của phương Tây.

3. Về kinh tế:

3.1. Cơ hội:

26

- Cộng đồng Kinh tế ASEAN mang lại cơ hội xuất khẩu cho Việt Nam qua việc mở ra một thị trường chung rộng lớn, thống nhất với hơn 600 triệu người, tổng GDP hàng năm gần 3000 tỷ USD. ASEAN hiện là nền kinh tế lớn thứ 7 thế giới, dự báo sẽ giữ vị trí thứ 4 thế giới vào năm 2050. AEC cũng là khu vực giao thoa của nhiều hiệp định thương mại song phương và khu vực. AEC là cầu nối quan trọng đến các thị

trường rộng lớn như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ôt-xtray-lia, Niu Di Lân và Ấn Độ thông qua các FTA giữa ASEAN và các đối tác.

- Việt Nam có cơ hội trở thành nhà đầu tư quan trọng ra các quốc gia thành viên khác thông qua việc Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN ra đời, qua đó ASEAN tập trung cắt giảm, xóa bỏ hạn chế đầu tư và loại bỏ dần các biện pháp trong Danh mục bảo lưu, xây dựng một môi trường đầu tư tự do và mở cửa vào năm 2015. Thêm vào đó, những nỗ lực của ASEAN về tự do hóa đầu tư thông qua Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) sẽ làm tăng tính hấp dẫn của thị trường ASEAN đối với các nhà đầu tư trong khối cũng như từ các nước đối tác. Đây là cơ hội để Việt Nam tăng cường thu hút các luồng đầu tư có chất lượng, phù hợp với nhu cầu phát triển đất nước, là cơ hội để các doanh nghiệp có năng lực đẩy mạnh đầu tư ra các nước ASEAN.

- Cộng đồng Kinh tế ASEAN giúp Việt Nam tham gia, cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, thực hiện các mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. AEC cơ bản sẽ trở thành một một không gian sản xuất chung, một thị trường chung rộng lớn. Ở đó, hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ và lao động có tay nghề sẽ được tự do lưu chuyển trong các nước thành viên ASEAN mà không chịu sự phân biệt đối xử, ngoài các lý do chính đáng về an ninh, quốc phòng, văn hóa, xã hội, bảo vệ sức khỏe, an toàn của con người, động vật, thực vật và môi trường...

- AEC có thể tạo nên sự liên kết chuỗi giữa các doanh nghiệp ASEAN, thông qua phân công lao động và trao đổi hàng hóa, dịch vụ trung gian, từ đó tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh hơn cho doanh nghiệp, thậm chí hỗ trợ doanh nghiệp cùng phát triển, tạo ra sức cạnh tranh cao của khu vực ASEAN, đáp ứng nhu cầu lớn không chỉ trong khu vực ASEAN mà đặc biệt là hướng ra người tiêu dùng của các khu vực phát triển. Người dân cũng được hưởng lợi vì có nhiều lựa chọn về hàng hóa và dịch vụ với giá cả thấp và chất lượng cao hơn; có được nhiều cơ hội việc làm; di chuyển thuận lợi hơn.

3.2. Thách thức:

- Thách thức lớn nhất đối với Việt Nam là sự cạnh tranh của các quốc gia thành viên khác trong khu vực, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. Các quốc gia thành viên có đặc điểm sản xuất khá giống nhau, có những thế mạnh chung về từng lĩnh vực, như nông nghiệp và dệt may. Trong khi đó, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam chưa cao; còn nhiều hạn chế về cơ sở hạ tầng, cả hạ tầng cứng và hạ tầng mềm.

27

- Thách thức về khả năng hoàn thành các biện pháp AEC đúng thời hạn và khả năng thực hiện cam kết theo Kế hoạch tổng thể Xây dựng AEC. Việt Nam vẫn đang gặp một số khó khăn trong việc phê chuẩn/phê duyệt các Hiệp định/nghị định thư ASEAN đã ký kết; chậm hài hoà các sáng kiến khu vực với các quy định và luật pháp

trong nước; khó khăn trong việc giải quyết những tồn tại trong nước để thực thi các cam kết khu vực và các cam kết cụ thể.

- Thách thức của tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN là vấn đề cạnh tranh và năng lực đảm nhiệm các công đoạn giá trị cao. Nếu sức cạnh tranh yếu, doanh nghiệp sẽ gặp khó trên thị trường nội địa và khó có khả năng vươn ra, chiếm lĩnh trên thị trường các nước thành viên ASEAN khác. Doanh nghiệp năng lực kém sẽ không được chọn để tham gia các khâu có lợi nhuận cao của chuỗi cung ứng, do đó sẽ chủ yếu tham gia các công đoạn gia công.

4. Về văn hóa – xã hôi:

4.1. Cơ hội:

- Góp phần nâng cao phúc lợi, an sinh xã hội cho người dân khu vực và Việt Nam; tăng cường hiểu biết, tin cậy lẫn nhau và ý thức cộng đồng giữa nhân dân các nước thành viên.

- Hợp tác phát triển nguồn nhân lực, hướng tới nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, hài hòa hóa các tiêu chuẩn về công nhận bằng cấp trong giáo dục cũng như kỹ năng nghề giữa các nước ASEAN, tạo điều kiện cho lao động có tay nghề tự do di chuyển (ta đã ký kết các thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN đối với các ngành nghề: dịch vụ điều dưỡng, dịch vụ kỹ thuật, du lịch, kế toán-kiểm toán, bác sỹ, nha sỹ, kiến trúc sư…) và tìm cơ hội việc làm thuận lợi hơn trong khu vực. Tuy nhiên, người lao động Việt Nam phải cạnh tranh hơn với lao động của các nước ASEAN vào VN cũng như tại thị trường ASEAN nói chung (kỹ năng, ngoại ngữ…).

- Việt Nam có cơ hội trao đổi kinh nghiệm và nâng cao năng lực về xây dựng chính sách lao động và việc làm; phát triển nguồn nhân lực cho thị trường lao động, nâng cao công tác đào tạo nghề, năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia của lao động Việt Nam, chăm lo tốt hơn cho người lao động, thông qua bảo đảm an toàn và vệ sinh sức khỏe lao động; nâng thu nhập và giảm nghèo đối với lao động chính thức, phi chính thức, di cư; thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và lập mạng an sinh xã hội.

- Hợp tác y tế, nhất là trong phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm, HIV/AIDS… sẽ giúp người dân được bảo vệ tốt hơn trước các nguy cơ dịch bệnh lây lan; thúc đẩy hợp tác ngăn ngừa các bệnh không lây nhiễm, tạo lối sống lành mạnh hơn cho sức khỏe người dân.

- Hợp tác về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý thiên tai và ứng phó khẩn cấp sẽ giúp các nước thành viên từng bước nâng cao khả năng và năng lực thích nghi và giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu, ứng phó nhanh và hiệu quả hơn với thiên tai trong khu vực, bảo vệ và hỗ trợ kịp thời cho người dân trong tình huống thảm họa.

28

4.2. Thách thức

- Thách thức lớn nhất là nguồn lực hạn chế để triển khai các thỏa thuận/cam kết, mang lại những kết quả thiết thực. Ta phải cùng các nước hướng tới mặt bằng chung khu vực về phúc lợi, an sinh xã hội; triển khai đầy đủ các cam kết về bảo vệ môi trường, công nhận lẫn nhau bằng cấp, kỹ năng nghề... .

29

- Hợp tác trên một số lĩnh vực có những vấn đề nhạy cảm, như liên quan đến thúc đẩy và bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em, lao động di cư; hợp tác với các tổ chức xã hội dân sự. Các hoạt động hợp tác với nhiều nội dung mang tính chất đan xen, đa ngành và lĩnh vực, đòi hỏi phải có sự kết nối liên ngành./.

HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) - HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO THẾ HỆ MỚI

PGS, TS. Nguyễn Anh Tuấn Tổng biên tập, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế Học viện Ngoại giao

1. Hiệp định FTA thế hệ mới

Gần đây người ta nói nhiều về Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới. Vậy FTA thế hệ mới là gì? FTA từ khi hình thành Hiệp định chung về thương mại và thuế quan vào năm 1947 (GATT-47) trải qua 3 giai đoạn phát triển như sau:

Thứ nhất, các FTA hình thành cho đến trước khi Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được thành lập chủ yếu bàn về các biện pháp để thúc đẩy thương mại trong nội bộ các nước thành viên nhưng không gây cản trở cho thương mại quốc tế. Đây được gọi là các FTA thế hệ thứ nhất, chúng chỉ đề cập tới các vấn đề thương mại hàng hóa thuần túy.

Thứ hai, các FTA được hình thành kể từ khi WTO được thành lập đến nay có các nội dung tương tự như nội dung của WTO, tức là ngoài các vấn đề về thúc đẩy thương mại, các nước còn bàn về các vấn đề khác có liên quan đến thương mại như vấn đề sở hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại (như Hiệp định TRIP trong WTO), các vấn đề đầu tư có liên quan đến thương mại (như Hiệp định TRIM trong WTO), vấn đề kiểm hóa trước khi xuất hàng (như Hiệp định PSI trong WTO), vấn đề về quy tắc xuất xứ (như Hiệp định ROO trong WTO), vấn đề về cách tính giá trị hàng hóa, dịch vụ để tính thuế nhập khẩu (như Hiệp định ACV trong WTO), vấn đề về hàng rào kỹ thuật, vệ sinh kiểm dịch (như Hiệp định TBT và SPS trong WTO), vấn đề bán phá giá và trợ cấp (hiệp định AAD và ASCM trong WTO) và một loạt vấn đề khác. Đây được gọi là các FTA thế hệ thứ hai.

1 Vũ Tiến Lộc, “Nền kinh tế trước thách thức FTA thế hệ mới”, Thời báo Ngân hàng, ngày 24/7/2015.

30

Thứ ba, là các FTA đang được đàm phán và tiến tới ký kết trong giai đoạn hiện nay, ngoài các vấn đề như nội dung của WTO đề cập, phạm vi mà các FTA này đề cập sâu và rộng hơn các FTA thế hệ thứ hai. Điều đó có nghĩa là đặc điểm cơ bản của các FTA thế hệ mới là bao gồm nhiều cam kết sâu rộng chưa từng có, trong đó có nhiều cam kết về thể chế. Đây là các FTA thế hệ thứ ba hay thế hệ mới. “Khác với các FTA thế hệ trước chủ yếu ảnh hưởng tới chính sách thuế quan tại biên giới, các FTA thế hệ mới sắp tới có nhiều các cam kết ảnh hưởng trực tiếp và lớn đến thể chế, chính sách pháp luật nội địa.”1 Như vậy, không phải bất kỳ FTA nào đang đàm đều là FTA thế hệ mới mà có những hiệp định đang đàm phán cũng chỉ là loại FTA thế hệ thứ hai ví như Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện (RCEP).

Như vậy, theo tiêu chí này thì hiện Việt Nam thực sự đang chuẩn bị thực thi hai hiệp định FTA thế mới đó là Hiệp định Thương mại tư do Việt Nam – EU (EVFTA)2 và Hiệp định TPP.

2. Hiệp định thế hệ mới TPP

Như trên đã trình bày, Hiệp định TPP có phạm vị rộng hơn và cam kết sâu hơn so với các FTA thế hệ thứ hai kể cả WTO. Về phạm vi, TPP bàn tới và cam kết rất nhiều vấn đề mà WTO và các FTA thế hệ thứ hai không đề cập tới như lao động-công đoàn, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm chính phủ, thương mại điện tử và đặc biệt là những cam kết sau biên giới (behind border) có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp và lớn đến thể chế, chính sách pháp luật trong nước thành viên (khác với các FTA trước đây chủ yếu ảnh hưởng tới chính sách thuế quan tại biên giới), và một số vấn đề khác nữa. Bảng 1 dưới đây so sánh sự khác biệt về mức độ giữa WTO và TPP: Bảng 1: Một số khác biệt cơ bản về mức độ giữa TPP và WTO3

Tiêu chí WTO TPP

Hàng rào thuế quan

Cắt giảm từ từ theo lộ trình. Cắt giảm ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực.

Lĩnh vực kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài

Các doanh nghiệp nước ngoài chỉ được đầu tư và hoạt động ở những lĩnh vực sản xuất và dịch vụ mà chính phủ sở tại cho phép (theo phương thức chọn cho). Các doanh nghiệp nước ngoài được đầu tư và hoạt động ở tất các các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ mà pháp luật sở tại không cấm (theo phương thức chọn bỏ), tức là không có sự khác biệt so với doanh nghiệp trong nước.

2 Hiệp định EVFTA được khởi động từ tháng 6/2012 tại Brussels (Bỉ). Ngày 13/10/2014, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Ủy ban châu Âu (EC) José Manuel Barosso đã có buổi thảo luận về kết thúc đàm phán hiệp định thương mại tự do này. Từ tháng 10/2012 đến tháng 8/2015, hai bên đã tiến hành 14 vòng đàm phán chính thức và nhiều phiên đàm phán giữa kỳ. Đến nay, hai bên chỉ tập trung xử lý một số vấn đề then chốt nhất để chính thức kết thúc đàm phán, hướng tới một thỏa thuận đạt yêu cầu chất lượng cao và cân bằng trong tất cả các lĩnh vực đàm phán mở cửa thị trường (thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, mua sắm công) cũng như các quy định và quy tắc quản lý (đặc biệt là sở hữu trí tuệ, bao gồm chỉ dẫn địa lý của hai bên; doanh nghiệp nhà nước và bảo hộ đầu tư…). Đến Ngày 4/8/2015, hai bên tuyên bố Kết thúc cơ bản đàm phán EVFTA và hiện tại, hai bên đang giải quyết nốt các vấn đề kỹ thuật và hoàn thiện văn bản hiệp định để có thể ký kết hiệp định trong năm 2015 (xem: Trung tâm WTO, Tóm lược Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), VCCI, ngày 7/8/2015). 3 Xem thêm: Nguyên Anh Tuấn, Giáo trình Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2008; Lan Hương, “FTA thế hệ mới – Cơ hội và thách thức”, Báo lao động online, ngày 24/7/2015.

31

Vấn đề đầu tư nước ngoài Các nhà đầu tư phải tuân thủ các quy định và luật đầu tư nước ngoài của nước tiếp Các nhà đầu tư phải tuân thủ các quy định và luật đầu tư nước ngoài của nước tiếp nhận đầu tư, tuy nhiên họ có thể khởi kiện

nhận đầu tư.

nhà nước sở tại nếu chính phủ đưa ra những chính sách gây tổn hại đến lợi ích mong đợi của họ (TRIM+).

Vấn đề SHTT có liên quan đến thương mại (TRIP) Yêu cầu phải bảo vệ quyền SHTT nhưng thời hạn ngắn.

Yêu cầu phải bảo vệ quyền SHTT với thời hạn dài hơn trước đây 6 năm (so với WTO) và chi phi mua bản quyền có thể cao hơn.

Chế độ ưu đãi cho các nước kém phát triển/đang phát triển

Không có đối xử khác biệt và đặc biệt đối với các nước kém phát triển và một số nước đang phát triển. Tất cả các nước đều phải thực hiện tất cả các nghĩa vụ như nhau (có một số nước, trong một số lĩnh vực được thực hiện theo lộ trình).

Có đối xử khác biệt và đặc biệt đối với các nước kém phát triển và một số nước đang phát triển (tức là những nước này có thể không phải thực thi một số điều khoản).

3. Cơ hội và thách thức từ TPP

TPP đã được các nước thành viên hoàn tất đàm phán vào ngày 5/10/2015 tại Atlanta (Mỹ) và nếu được quốc hội các nước phê chuẩn và và chính thức có hiệu lực, thì khi đó, không chỉ cơ cấu hàng hóa, danh mục lĩnh vực đầu tư giữa Việt Nam và các đối tác thay đổi mà cả hệ thống quy định liên quan cũng sẽ phải thay đổi để đảm bảo thích ứng với những cam kết mới.

4 Một số chuyên gia Hoa Kỳ dự báo rằng VN sẽ là nước được hưởng lợi nhất trong số 12 nước tham gia TPP, GDP sẽ tăng thêm 36 tỷ USD, xuất khẩu sẽ tăng 68 tỷ USD vào năm 2025 do TPP sẽ giúp ta có được các cơ hội mới từ chuỗi cung ứng mới hình thành sau khi TPP có hiệu lực (xem: Peter A.Petri, Michael G.Plummer and Fan Zhai, 2011, The Trans-Pacific Partnership and Asia-Pacific Integration: A Quantitative Assessment, Economics Series, East-West Center Working Papers, No. 119, October 24). Tuy nhiên, con số này không thực tế. Các chuyên gia tính toán trên điều kiện lý tưởng tuyệt đối khi Việt Nam đạt các chuẩn mực quốc tế và tận dụng triệt để các cơ hội. Ví dụ, tăng trưởng xuất khẩu được tính trên suy đoán hàng hóa Việt Nam đáp ứng tất cả các điều kiện về xuất xứ, vượt qua các rào cản kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ từ các thị trường nhập khẩu và được hưởng lợi trọn vẹn từ các ưu đãi thuế quan… Thực tiễn cho thấy, doanh nghiệp VN mới chỉ sử dụng được khoảng 30% lợi ích ưu đãi thuế quan từ các FTA cũ, 70% còn lại đã tuột khỏi tay các doanh nghiệp và nền kinh tế VN.

32

Điều này nhìn thấy rõ nhất khi phân tích các cơ hội, nhưng cũng có thể gọi là thách thức của Việt Nam khi TPP được ký kết: Một là, gia tăng xuất khẩu, nhất là dệt may, giày dép, thủy sản, đồ gỗ và nông sản do thuế nhập khẩu của các mặt hàng mà nguyên liệu có xuất xứ từ Việt Nam hoặc 11 thành viên còn lại hạ về 0%.4 Hai là, do nâng cao tốc độ tăng trưởng, nên sẽ tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao thu nhập và

góp phần xoá đói giảm nghèo, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Ba là, cân bằng được quan hệ kinh tế với các thị trường khác, nhất là tránh được tình trạng Việt Nam lệ thuộc về kinh tế quá lớn vào Trung Quốc. Bốn là, đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam sẽ gia tăng để hưởng thuế suất thấp (như dệt), lao động và tiền thuê đất rẻ (như nông nghiệp), tận dụng thị trường tiêu dùng của Việt Nam (như dịch vụ).5 Năm là, tạo sức ép để Việt Nam cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao tính thị trường, đổi mới mô hình tăng trưởng đảm bảo tăng trưởng bền vững. Sáu là, áp lực cạnh tranh với hàng hóa giá rẻ, dịch vụ chất lượng tốt từ các nước TPP trên chính thị trường nội địa buộc danh nghiệp Việt Nam phải đổi mới và năng động hơn. Bảy là, tạo sức ép để Việt Nam đổi mới thể chế kinh tế như Thông điệp đầu năm 2014 của Thủ tướng.

4. Giải pháp để tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức khi TPP có hiệu lực

Khi TPP có hiệu lực, vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu thông qua các cơ hội đầu tư – kinh doanh mới sẽ tăng lên, nhưng thách thức cũng sẽ tăng như trên đã trình bày, nhưng để nắm bắt cơ hội vượt qua thách thức do TPP mang lại, Việt Nam có thể và cần phải quan tâm đến các giải pháp sau đây:

Thứ nhất, phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văm minh; Tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng nhằm đáp ứng những cam kết và thể hiện quyết tâm chính trị của nước ta khi chấp nhận “luật chơi” của TPP mà chính Việt Nam đã cùng các nước khác định hình từ đầu; Nâng cao hiệu quả đầu tư, nâng cao năng suất lao động trên cơ sở khoa học công nghệ. Đây là cơ sở để nâng cao tính cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế cũng như của mỗi doanh nghiệp và sản phẩm. Bên cạnh đó, Việt Nam sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi một số quy định pháp luật về thương mại, đầu tư, đấu thầu, sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường… Tuy nhiên, như kinh nghiệm gia nhập WTO đã chỉ ra, với sự chuẩn bị nghiêm túc và nỗ lực cao độ, ta có thể thực hiện thành công khối lượng công việc này, nhất là khi ta được quyền thực hiện theo lộ trình trong một số lĩnh vực.

5 Đặc biệt, việc hoàn thiện và tăng cường công tác bảo hộ quyền SHTT sẽ mở ra cơ hội thu hút đầu tư vào những lĩnh vực có hàm lượng tri thức cao, thí dụ như sản xuất dược phẩm, trong đó có thuốc sinh học (nhất là với vắcxin và một số sản phẩm ta có bước phát triển mạnh trong các năm qua).

33

Thứ hai, phải tạo dựng nền tảng thể chế chính sách mới, đồng bộ và toàn diện, có tính phối hợp và gắn kết chặt chẽ giữa các chính sách trong thương mại, đầu tư, cạnh tranh, điều tiết thị trường, môi trường, lao động và các chính sách khác liên quan... Cùng với khuôn khổ chính sách mới, không chỉ là thiết lập cơ chế và bộ máy kiểm soát khâu phối hợp và gắn kết giữa các bộ, ban, ngành và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc thực hiện đồng bộ các cam kết, nghĩa vụ hiện hành mà còn là các hoạt động hướng dẫn, hỗ trợ thực hiện và khai thác các lợi ích của TPP. Chính phủ cũng cần phải nghiên cứu xem xét ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Hiệp định TPP ngay từ bây giờ. Việc đào tạo, phát triển và nâng cao năng lực cho đội ngũ chuyên gia trong thiết kế và tham mưu thực hiện các biện pháp bảo hộ hợp pháp,

tinh tế và khoa học trong phạm vi của các cam kết TPP và tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp kiến thức chuyên môn về pháp luật thương mại quốc tế cũng là điều cần thiết.

Thứ ba, chính phủ phải có đánh giá tác động tổng thể tới toàn bộ nền kinh tế cũng như tác động đến từng ngành và từng địa phương để xem ngành nào, địa phương nào được lợi (nhiều hay ít), ngành nào, địa phương nào bị tổn hại (nhiều hay ít). Trên có sở đó mới có được chính sách đúng đắn nhằm phát huy và khai thác có hiệu quả mặt tích cực, đồng thời có những hỗ trợ cần thiết cho những ngành bị tổn thương. Với cơ hội mới có được từ Hiệp định TPP, Việt Nam sẽ có điều kiện để tạo công ăn việc làm mới, giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang các ngành Việt Nam thực sự có lợi thế cạnh tranh. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần có các các biện pháp trợ giúp để chủ động xử lý kịp thời các tác động tiêu cực có thể xảy ra trong đó có việc tổ chức đào tạo lại đội ngũ lao động. Theo thời gian, thu hút đầu tư nước ngoài tăng lên, cơ cấu sản xuất sẽ được điều chỉnh và nhiều việc làm mới sẽ được tạo ra góp phần nâng cao đời sống nhân dân.

6 Phải nhận thức được là sản xuất nông nghiệp vốn là ngành không dễ chuyển dịch cơ cấu. Trong khi đó, khi kinh tế phát triển, chi phí nhân công cao, thì sức cạnh tranh của ngành nông nghiệp càng yếu đi. Có thể thấy rõ điều này, khi các nước phát triển hội nhập sâu lại bảo hộ rất lớn cho ngành nông nghiệp.

34

Thứ tư, khi gia nhập TPP, nông nghiệp sẽ là ngành bị tác động mạnh nhất và bị tổn thương nhiều nhất vì hàng hóa của ngành này rất khó cạnh tranh với các cường quốc nông nghiệp như Úc, New Zealand, Mỹ. Do vậy, Việt Nam sẽ phải hết sức nỗ lực, biến thách thức thành cơ hội để cơ cấu lại ngành nông nghiệp, tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy ứng dụng khoa học- công nghệ, chuyển đổi sang mô hình kinh doanh trang trại, đồn điền lớn để giảm chi phí sản xuất, dễ quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, cũng như dễ ứng dụng các công nghệ sinh học vào lĩnh vực trồng trọt, canh tác, chăn nuôi, phù hợp với việc xây dựng các chiến lược về nông nghiệp.6 Thứ năm, với các cộng đồng doanh nghiệp, điều đặc biệt quan trọng là doanh nghiệp cần: i). chủ động tìm hiểu thông tin, nội dung hiệp định TPP; ii). chủ động tìm hiểu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng của các nước thành viên TPP; iii). chủ động liên doanh, liên kết với doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng mình quan tâm; và iv). chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh trên cơ sở năng suất, chất lượng và hiệu quả gắn với chuỗi giá trị toàn cầu, đòi hỏi phải chủ động có hiệu quả trong việc tận dụng tác động lan tỏa của khu vực doanh nghiệp có vốn FDI./.

TÓM TẮT HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG

Ngày 05 tháng 10 năm 2015, Bộ trưởng của 12 nước tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) gồm Ốt-xtrây-lia, Bru-nây, Ca-na-đa, Chi-lê, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Niu Di-lân, Pê-ru, Xinh-ga-po, Hoa Kỳ và Việt Nam, đã tuyên bố kết thúc đàm phán. Kết quả đàm phán là một hiệp định chất lượng cao, tham vọng, toàn diện và cân bằng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; hỗ trợ tạo ra và duy trì việc làm; thúc đẩy việc đổi mới, năng suất và tính cạnh tranh; nâng cao mức sống; giảm nghèo tại các nước; và nâng cao minh bạch hóa, quản trị tốt cũng như bảo hộ lao động và bảo vệ môi trường. Chúng tôi coi việc kết thúc đàm phán hiệp định này với các tiêu chuẩn mới và cao về thương mại và đầu tư tại khu vực châu Á Thái Bình Dương là một bước quan trọng để tiến tới mục tiêu cao nhất về thương mại tự do và hội nhập trên toàn khu vực.

CÁC ĐẶC ĐIỂM CHÍNH

Có 5 đặc điểm chính làm TPP trở thành một hiệp định mang tính bước ngoặc của thế kỷ 21, tạo ra một tiêu chuẩn mới cho thương mại toàn cầu trong khi vẫn đề cập tới các vấn đề mang tính thế hệ mới. Các đặc điểm đó bao gồm:

 Tiếp cận thị trường một cách toàn diện. Hiệp định TPP cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế về căn bản đối với tất cả thương mại hàng hóa và dịch vụ và điều chỉnh toàn bộ các lĩnh vực về thương mại trong đó có thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư nhằm tạo ra các cơ hội và lợi ích mới cho doanh nghiệp, người lao động và người tiêu dùng của các nước thành viên.

 Tiếp cận mang tính khu vực trong việc đưa ra các cam kết.Hiệp định TPP tạo thuận lợi cho việc phát triển sản xuất và dây chuyền cung ứng, cũng như thương mại không gián đoạn, đẩy mạnh tính hiệu quả và hỗ trợ thực hiện mục tiêu về tạo việc làm, nâng cao mức sống, thúc đẩy các nỗ lực bảo tồn và tạo thuận lợi cho việc hội nhập qua biên giới cũng như mở cửa thị trường trong nước.

 Giải quyết các thách thức mới đối với thương mại. Hiệp định TPP thúc đẩy việc đổi mới, năng suất và tính cạnh tranh thông qua việc giải quyết các vấn đề mới, trong đó bao gồm việc phát triển nền kinh tế số và vai trò ngày càng tăng của các doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế toàn cầu.

35

 Bao hàm toàn bộ các yếu tố liên quan đến thương mại. Hiệp định TPP bao gồm các yếu tố mới được đưa ra để bảo đảm rằng các nền kinh tế ở tất cả các cấp độ phát triển và doanh nghiệp thuộc mọi quy mô đều có thể hưởng lợi từ thương mại. Hiệp định bao gồm các cam kết nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiểu rõ về Hiệp định, tận dụng được những cơ hội mà Hiệp định mang lại và nêu lên những thách thức đáng chú ý tới chính phủ các nước thành viên. Hiệp định cũng bao gồm những cam kết cụ thể về phát triển và nâng cao năng lực thương

mại để đảm bảo rằng tất cả các Bên đều có thể đáp ứng được những cam kết trong Hiệp định và tận dụng được đầy đủ những lợi ích của Hiệp định.

 Nền tảng cho hội nhập khu vực. Hiệp định TPP được ra đời để tạo ra nền tảng cho việc hội nhập kinh tế khu vực và được xây dựng để bao hàm cả những nền kinh tế khác xuyên khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

PHẠM VI

 Hiệp định TPP gồm có 30 chương điều chỉnh thương mại và các vấn đề liên quan tới thương mại, bắt đầu từ thương mại hàng hóa và tiếp tục với hải quan và thuận lợi hóa thương mại; vệ sinh kiểm dịch động thực vật; hàng rào kỹ thuật đối với thương mại; quy định về phòng vệ thương mại; đầu tư; dịch vụ; thương mại điện tử; sở hữu trí tuệ; lao động; môi trường; các chương về “các vấn đề xuyên suốt” nhằm bảo đảm Hiệp định TPP đạt được tiềm năng của mình về phát triển, tính cạnh tranh và tính bao hàm; giải quyết tranh chấp; ngoại lệ và các điều khoản về thể chế.

 Như đã đề cập ở phía trên, bên cạnh việc nâng cấp cách tiếp cận truyền thống đối với những vấn đề đã được điều chỉnh bởi các hiệp định thương mại tự do trước đó (FTAs), Hiệp định TPP còn đưa vào những vấn đề thương mại mới và đang nổi lên cũng như những vấn đề xuyên suốt. Những vấn đề này bao gồm những nội dung liên quan đến Internet và nền kinh tế số, sự tham gia ngày càng tăng của các doanh nghiệp Nhà nước vào thương mại và đầu tư quốc tế, khả năng của các doanh nghiệp nhỏ trong việc tận dụng các hiệp định thương mại và những nội dung khác.

 Hiệp định TPP tập hợp một nhóm các nước khác nhau – khác nhau về địa lý, ngôn ngữ và lịch sử, quy mô và mức độ phát triển. Tất cả các nước TPP đều nhận thức rằng tính đa dạng về phát triển là một tài sản độc đáo nhưng cũng yêu cầu sự hợp tác chặt chẽ, xây dựng năng lực cho các nước TPP có trình độ phát triển thấp hơn, và trong một số trường hợp, giai đoạn chuyển đổi và cơ chế đặc biệt cho phép một số thành viên TPP một khoảng thời gian bổ sung cần thiết để nâng cao năng lực thực thi các nghĩa vụ mới.

TẠO RA CÁC QUY TẮC THƯƠNG MẠI KHU VỰC

Dưới đây là bản tóm tắt 30 chương của Hiệp định TPP. Các lộ trình cam kết và phụ lục được quy định kèm theo các chương này liên quan tới thương mại hàng hóa và dịch vụ, đầu tư, mua sắm chính phủ và nhập cảnh tạm thời của khách kinh doanh. Ngoài ra, chương về Doanh nghiệp Nhà nước bao gồm các ngoại trừ của từng nước được quy định trong phụ lục kèm theo chương.

1. Các điều khoản ban đầu và định nghĩa chung

36

Nhiều thành viên TPP đang có các hiệp định với nhau. Chương về Các điều khoản ban đầu và định nghĩa chung giải thích rõ mối quan hệ giữa TPP với các hiệp định thương mại quốc tế đang có giữa các Bên, trong đó có Hiệp định WTO, các hiệp

định song phương và khu vực. Chương này cũng đưa ra các định nghĩa cho các thuật ngữ được sử dụng trong nhiều hơn một chương của Hiệp định.

2. Thương mại hàng hóa

Các Bên tham gia TPP nhất trí xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế quan đối với hàng hóa công nghiệp và xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan cũng như các chính sách mang tính hạn chế khác đối với hàng hóa nông nghiệp. Việc tiếp cận mang tính ưu đãi thông qua Hiệp định TPP sẽ làm gia tăng thương mại giữa các nước TPP với thị trường gồm 800 triệu dân và sẽ hỗ trợ cho việc làm chất lượng cao tại tất cả 12 nước thành viên. Việc xóa bỏ phần lớn thuế quan đối với hàng công nghiệp sẽ được thực hiện ngay lập tức mặc dù thuế quan đối với một số mặt hàng sẽ được xóa bỏ với lộ trình dài hơn do các Bên thống nhất. Việc cắt giảm thuế cụ thể do các Bên thống nhất được quy định tại lộ trình cam kết bao gồm tất cả hàng hóa và được đính kèm theo lời văn của Hiệp định. Các Bên tham gia TPP sẽ công bố các lộ trình này và những thông tin khác liên quan tới thương mại hàng hóa để bảo đảm rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các doanh nghiệp lớn có thể tận dụng được Hiệp định TPP. Các Bên cũng nhất trí không sử dụng các yêu cầu về thực hiện như là điều kiện để một số nước áp đặt cho các doanh nghiệp để được hưởng các lợi ích về thuế quan. Ngoài ra, các Bên nhất trí không áp dụng các hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu và các loại thuế không phù hợp với WTO, bao gồm cả đối với hàng tân trang - việc này được cho là sẽ thúc đẩy việc tái chế tất cả các bộ phận để chuyển thành các sản phẩm mới. Nếu các Bên TPP duy trì yêu cầu cấp phép nhập khẩu hoặc xuất khẩu thì phải thông báo cho các Bên kia về những quy trình không nhằm mục đích làm chậm sự lưu thông thương mại.

Đối với hàng nông nghiệp, các Bên sẽ xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và các chính sách mang tính hạn chế khác để gia tăng thương mại hàng nông nghiệp trong khu vực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao an ninh lương thực và hỗ trợ việc làm cho người nông dân và chủ trại nuôi gia súc của các nước TPP. Bên cạnh việc xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan, các Bên TPP nhất trí thúc đẩy cải cách về mặt chính sách, bao gồm cả việc thông qua xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp, hợp tác trong WTO để xây dựng các quy định về tín dụng xuất khẩu và giới hạn khoảng thời gian cho phép áp dụng các hạn chế đối với xuất khẩu lương thực nhằm bảo đảm hơn nữa an ninh lương thực trong khu vực. Các Bên tham gia TPP nhất trí nâng cao tính minh bạch hóa liên quan đến việc vận hành doanh nghiệp thương mại nhà nước xuất khẩu và đưa ra các quy định hạn chế việc cấp vốn ưu đãi từ Chính phủ hoặc các chính sách khác gây bóp méo thương mại nông sản, cũng như yêu cầu về minh bạch hóa và phối hợp trong các hoạt động cụ thể liên quan đến công nghệ sinh học nông nghiệp và nông nghiệp hữu cơ.

3. Dệt may

Các Bên tham gia TPP nhất trí xóa bỏ thuế quan đối với hàng dệt may – ngành công nghiệp đóng vai trò quan trọng vào tăng trưởng kinh tế tại một số thị trường của các nước TPP. Hầu hết thuế quan sẽ được xóa bỏ ngay lập tức, mặt dù thuế quan đối 37

với một số mặt hàng nhạy cảm sẽ được xóa bỏ với lộ trình dài hơn do các Bên thống nhất. Chương Dệt may cũng bao gồm các quy tắc xuất xứ cụ thể yêu cầu việc sử dụng sợi và vải từ khu vực TPP - điều này sẽ thúc đẩy việc thiết lập các chuỗi cung ứng và đầu tư khu vực trong lĩnh vực này, cùngvới cơ chế “nguồn cung thiếu hụt” cho phép việc sử dụng một số loại sợi và vải nhất định không có sẵn trong khu vực. Ngoài ra, Chương này còn bao gồm các cam kết về hợp tác và thực thi hải quan nhằm ngăn chặn việc trốn thuế, buôn lậu và gian lận cũng như cơ chế tự vệ đặc biệt đối với dệt may để đối phó với thiệt hại nghiêm trọng hoặc nguy cơ bị thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong nước trong trường hợp có sự gia tăng đột biến về nhập khẩu.

4. Quy tắc xuất xứ

Để gỡ rối tình trạng “bát mỳ ống” của quy tắc xuất xứ gây trở ngại cho doanh nghiệp trong việc tận dụng các FTA trước đó trong khu vực, thúc đẩy chuỗi cung ứng khu vực và bảo đảm rằng các nước TPP sẽ là những người hưởng lợi chính của Hiệp định hơn là các nước không phải là thành viên, 12 nước Thành viên TPP đã thống nhất về một bộ quy tắc xuất xứ chung để xác định một hàng hóa cụ thể “có xuất xứ” và do vậy được hưởng thuế quan ưu đãi trong TPP. Quy tắc xuất xứ cụthể theo mặt hàng được quy định kèm theo lời văn của Hiệp định. Hiệp định TPP quy định về “cộng gộp” để các nguyên liệu đầu vào từ một Bên TPP được đối xử như những nguyên liệu từ một Bên khác nếu được sử dụng để sản xuất ra một sản phẩm tại bất kỳ một Bên TPP. Các Bên tham gia TPP cũng đưa ra các quy tắc để bảo đảm rằng doanh nghiệp có thể hoạt động một cách dễ dàng xuyên khu vực TPP thông qua việc thiết lập một hệ thống chung trên toàn TPP về chứng minh và kiểm tra xuất xứ của hàng hóa TPP. Các nhà nhập khẩu sẽ có thể yêu cầu được hưởng ưu đãi về xuất xứ với điều kiện họ có các chứng từ chứng minh. Ngoài ra, Chương này cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền công cụ cần thiết để xác minh các yêu cầu về hưởng ưu đãi một cách có hiệu quả.

5. Quản lý hải quan và thuận lợi hóa thương mại

38

Bên cạnh các nỗ lực trong khuôn khổ WTO về thuận lợi hóa thương mại, các Bên TPP đã nhất trí về các quy tắc nhằm thúc đẩy việc tạo thuận lợi cho thương mại, nâng cao tính minh bạch hóa trong các thủ tục hải quan và bảo đảm tính chính trực trong việc quản lý hải quan. Những quy tắc này sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp TPP bao gồm cả doanh nghiệp vừa và nhỏ, khuyến khích các quy trình vận hành thủ tục hải quan nhanh chóng và thúc đẩy chuỗi cung ứng khu vực. Các Bên TPP đã nhất trí minh bạch hóa các quy tắc, trong đó có việc công bố các luật và quy định về hải quan cũng như quy định về giải phóng hàng hóa không chậm chễ và ký quỹ hoặc thanh toán bắt buộc trong trường hợp hải quan chưa đưa ra quyết định về số thuế hoặc phí phải trả. Các nước TPP nhất trí áp dụng những quy định thông báo trước về xác định trị giá hải quan và các vấn đề khác nhằm giúp cho doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp lớn và nhỏ, kinh doanh với khả năng có thể dự báo trước được tình hình. Các nước cũng nhất trí về các quy định liên quan tới xử phạt hải quan để bảo đảm các hình thức xử phạt này được thực hiện một cách công bằng và minh bạch. Bên cạnh đó, vì

tầm quan trọng của chuyển phát nhanh đối các lĩnh vực kinh doanh, trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các nước TPP đã nhất trí về các quy định hải quan đối với chuyển phát nhanh. Để hỗ trợ việc chống buôn lậu và trốn thuế, các nước TPP nhất trí cung cấp thông tin khi được yêu cầu để hỗ trợ lẫn nhau trong việc thực thi luật hải quan.

6. Các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch động thực vật

Liên quan đến việc cải tiến các quy định về SPS, các nước TPP đã chia sẻ mối quan tâm trong việc bảo đảm các quy định dựa trên căn cứ khoa học mang tính minh bạch, không phân biệt đối xử, và tái khẳng định quyền của các nước trong việc bảo đảm an ninh lương thực và bảo vệ sức khỏe vật nuôi và cây trồng tại nước mình. Hiệp định TPP dựa trên các quy định của Hiệp định SPS của WTO về xác định và quản lý rủi ro theo một cách không hạn chế thương mại hơn mức cần thiết. Các nước TPP nhất trí cho phép công chúng được đóng góp ý kiến vào các dự thảo quy định SPS trong quá trình đưa ra quyết định và ban hành chính sách cũng như để bảo đảm rằng doanh nghiệp hiểu rõ các quy định mà họ sẽ phải tuân thủ. Các nước nhất trí rằng việc kiểm tra hàng hóa đáp ứng các quy định SPS được dựa trên các rủi ro tiềm tàng trên thực tế có gắn với việc nhập khẩu và thông báo cho nhà nhập khẩu hoặc xuất khẩu trong vòng bảy ngày nếu hàng hóa bị cấm nhập khẩu vì lý do liên quan đến SPS. Các Bên cũng nhất trí rằng các biện pháp khẩn cấp cần thiết để bảo vệ sức khỏe con người, động thực vật có thể được thực hiện với điều kiện Bên thực hiện biện pháp đó phải thông báo cho tất cả các Bên về sự cần thiết mang tính khoa học của biện pháp được áp dụng.Ngoài ra, các Bên cam kết cải thiện việc trao đổi thông tin liên quan tới các yêu cầu về tương đương và khu vực hóa, cũng như đẩy mạnh việc kiểm tra trên toàn hệ thống để đánh giá tính đầy đủ trong việc kiểm soát về mặt quy định đối với an toàn thực phẩm của các Bên TPP. Trong nỗ lực giải quyết nhanh các vấn đề SPS phát sinh giữa các Bên, các Bên đã nhất trí thiết lập một cơ chế tham vấn giữa các chính phủ.

7. Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT)

39

Các thành viên TPP đã nhất trí về các nguyên tắc minh bạch và không phân biệt đối xử khi xây dựng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp, trong khi vẫn bảo lưu quyền của các thành viên TPP trong quản lý vì các lợi ích công cộng. Các thành viên TPP đồng ý hợp tác để đảm bảo rằng các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật không tạo ra rào cản không cần thiết đối với thương mại. Để cắt giảm chi phí cho các doanh nghiệp TPP, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ, các thành viên TPP nhất trí các quy định giúp xóa bỏ các quy trình kiểm tra và chứng nhận trùng lắp đối với các sản phẩm, thiết lập quy trình dễ dàng hơn giúp các công ty tiếp cận thị trường các nước TPP. Trong Hiệp định TPP, các thành viên phải cho phép công chúng góp ý đối với dự thảo các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật và đánh giá sự phù hợp trong quá trình xây dựng chính sách và để đảm bảo rằng các thương nhân hiểu rõ các quy định mà họ cần phải thực hiện. Các thành viên cũng sẽ đảm bảo một khoảng thời gian hợp lý giữa thời điểm công bố các quy định kỹ thuật và đánh giá sự phù hợp và

thời điểm có hiệu lực để các doanh nghiệp có đủ thời gian đáp ứng các yêu cầu mới. Ngoài ra, Hiệp định TPP bao gồm các phụ lục liên quan tới các quy định về các lĩnh vực cụ thể nhằm thúc đẩy các cách tiếp cận chung về chính sách trong khu vực TPP. Các lĩnh vực này bao gồm mỹ phẩm, thiết bị y tế, dược phẩm, các sản phẩm công nghệ thông tin và truyền thông, rượu và đồ uống có cồn, thực phẩm và các chất gây nghiện và các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.

8. Phòng vệ thương mại

Chương Phòng vệ thương mại thúc đẩy minh bạch hóa và quy trình thủ tục trong các vụ kiện phòng vệ thương mại thông qua việc công nhận các thực tiễn tốt nhất nhưng không ảnh hưởng đến các quyền và nghĩa vụ của các thành viên TPP trong WTO. Chương này đưa ra một cơ chế tự vệ tạm thời, cho phép một thành viên thực hiện một biện pháp tự vệ tạm thời trong một khoảng thời gian cụ thể nếu việc nhập khẩu tăng đột biến do kết quả của việc cắt giảm thuế được thực hiện theo Hiệp định TPP đủ để gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong nước. Các biện pháp này có thể được duy trì lên tới 2 năm, với việc gia hạn 1 năm, nhưng phải được tự do hóa dần dần nếu các biện pháp này đã kéo dài hơn 1 năm. Các thành viên áp dụng các biện pháp tự vệ sẽ phải thực hiện các yêu cầu thông báo và tham vấn. Chương này cũng đưa ra các quy định yêu cầu một thành viên TPP đang áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời cung cấp khoản bồi thường được các bên thống nhất. Đồng thời, các thành viên không được cùng lúc áp dụng nhiều hơn một biện pháp tự vệ được cho phép trong TPP đối với một sản phẩm.

9. Đầu tư

Khi xây dựng các quy định về đầu tư, các thành viên TPP đã đưa ra các nguyên tắc yêu cầu các chính sách và bảo hộ đầu tư công bằng và không phân biệt đối xử nhằm bảo đảm nguyên tắc cơ bản của luật pháp, trong khi vẫn bảo đảm khả năng của Chính phủ các thành viên để đạt được các mục tiêu chính sách công hợp pháp. TPP quy định sự bảo hộ đầu tư cơ bản như trong các hiệp định thương mại khác, bao gồm: đối xử quốc gia; đối xử tối huệ quốc; “tiêu chuẩn đối xử tối thiểu” đối với đầu tư trên cơ sở tập quán luật thương mại quốc tế; nghiêm cấm việc trưng thu không vì mục đích công cộng, không theo quy trình thủ tục và không có bồi thường; tự do chuyển tiền liên quan đến đầu tư với các ngoại lệ trong Hiệp định TPP nhằm đảm bảo cho các Chính phủ giữ quyền linh hoạt quản lý các dòng vốn không ổn định, bao gồm thông qua biện pháp tự vệ tạm thời không phân biệt đối xử (chẳng hạn như kiểm soát vốn) nhằm hạn chế việc chuyển tiền liên quan đến đầu tư trong trường hợp khủng hoảng hoặc có nguy cơ khủng hoảng cán cân thanh toán, và các cuộc khủng hoảng kinh tế khác hoặc để đảm bảo sự toàn vẹn và ổn định của hệ thống tài chính; nghiêm cấm “các yêu cầu thực hiện” chẳng hạn như yêu cầu về hàm lượng nội địa hoặc tỷ lệ nội địa hóa công nghệ; và tự do bổ nhiệm các vị trí quản lý cấp cao mà không quan tâm đến quốc tịch.

Các thành viên chấp nhận các nghĩa vụ dựa trên cơ sở “một danh mục chọn bỏ”, nghĩa là thị trường các nước là mở hoàn tòan đối với các nhà đầu tư nước ngoài, 40

trừ khi các Thành viên đưa ra một ngoại lệ (biện pháp bảo lưu không tương thích) trong một trong hai Phụ lục cụ thể của quốc gia đó đính kèm Hiệp định TPP: (1) các biện pháp hiện hành trong đó một quốc gia chấp nhận nghĩa vụ không đưa ra các biện pháp hạn chế hơn trong tương lai và ràng buộc bất kỳ sự tự do hóa nào trong tương lai, và (2) các biện pháp và chính sách mà theo đó một quốc gia duy trì quyền tự do làm theo ý mình một cách đầy đủ trong tương lai. Chương này cũng đưa ra trọng tài quốc tế trung lập và minh bạch đối với các tranh chấp về đầu tư, với cơ chế tự vệ mạnh mẽ nhằm ngăn chặn các khiếu nại lạm dụng và không đáng kể và đảm bảo quyền của các Chính phủ quản lý lợi ích công cộng, bao gồm bảo vệ sức khỏe, an toàn và môi trường. Cơ chế tự vệ theo quy trình bao gồm: quy trình trọng tài minh bạch, đệ trình của các bên quan tâm, đệ trình của bên thứ ba; việc rà soát được tiến hành đối với các khiếu nại không đáng kể và quyết định về phí luật sư; rà soát tạm thời và cơ chế quyết định; diễn giải chung mang tính ràng buộc của các Bên TPP; các hạn chế thời gian thực hiện khiếu nại; và các quy định nhằm ngăn chặn bên nguyên đơn theo đuổi một khiếu nại theo các quy trình song song.

10. Thương mại dịch vụ qua biên giới

Trên cơ sở tầm quan trọng ngày càng tăng của thương mại dịch vụ đối với các Thành viên TPP, 12 quốc gia chia sẻ sự quan tâm về tự do hóa thương mại trong lĩnh vực này. TPP bao gồm các nghĩa vụ cốt lõi trong WTO và các hiệp định thương mại khác: đối xử quốc gia; đối xử tối huệ quốc; mở cửa thị trường yêu cầu không Thành viên TPP nào có thể áp dụng các hạn chế định lượng đối với việc cung cấp dịch vụ (chẳng hạn như một hạn chế về số lượng các nhà cung cấp hoặc số lượng các dịch vụ) hoặc yêu cầu thành lập một loại thực thể pháp lý hoặc liên doanh cụ thể; và hiện diện địa phương, nghĩa là không một nước nào có thể yêu cầu một nhà cung cấp dịch vụ từ một quốc gia khác thiết lập một văn phòng hoặc liên kết hoặc cư trú trong lãnh thổ của mình để được cung cấp dịch vụ. Các Thành viên TPP chấp nhận các nghĩa vụ dựa trên cơ sở “một danh mục chọn bỏ”, nghĩa là thị trường các nước là mở hoàn tòan đối với các nhà đầu tư nước ngoài, trừ khi các Thành viên đưa ra một ngoại lệ (biện pháp bảo lưu không tương thích) trong một trong hai Phụ lục cụ thể của quốc gia đó đính kèm Hiệp định TPP: (1) các biện pháp hiện hành trong đó một quốc gia chấp nhận nghĩa vụ không đưa ra các biện pháp hạn chế hơn trong tương lai và ràng buộc bất kỳ sự tự do hóa nào trong tương lai, và (2) các biện pháp và chính sách mà theo đó một quốc gia duy trì quyền tự do làm theo ý mình một cách đầy đủ trong tương lai.

41

Các Thành viên TPP cũng đồng ý quản lý các biện pháp áp dụng chung theo cơ chế hợp lý, khách quan và công bằng; và chấp nhận các yêu cầu về minh bạch hóa trong xây dựng các quy định mới về dịch vụ. Các lợi ích của chương này có thể bị từ chối đối với “các doanh nghiệp bên ngoài TPP” và một nhà cung cấp dịch vụ được sở hữu bởi các bên không phải là Thành viên TPP và một Thành viên TPP nghiêm cấm các giao dịch cụ thể với bên đó. Các Thành viên TPP đồng ý cho phép tự do chuyển tiền liên quan tới cung cấp dịch vụ qua biên giới với các ngoại lệ của Hiệp định TPP

nhằm đảm bảo cho các Chính phủ giữ quyền linh hoạt quản lý các dòng vốn không ổn định, bao gồm thông qua biện pháp tự vệ tạm thời không phân biệt đối xử (chẳng hạn như kiểm soát vốn) nhằm hạn chế việc chuyển tiền cung cấp dịch vụ qua biên giới trong hoàn cảnh khủng hoảng hoặc có nguy cơ khủng hoảng cán cân thanh toán, và các cuộc khủng hoảng kinh tế khác hoặc để đảm bảo sự toàn vẹn và ổn định của hệ thống tài chính. Thêm vào đó, Chương này bao gồm phụ lục dịch vụ chuyên môn nhằm khuyến khích hoạt động hợp tác về công nhận việc cấp giấy phép hoặc các vấn đề chính sách khác và phụ lục về dịch vụ chuyển phát nhanh.

11. Dịch vụ tài chính

Chương Dịch vụ tài chính của TPP cung cấp các cơ hội mở cửa thị trường đầu tư và qua biên giới quan trọng, trong khi đảm bảo rằng các Thành viên TPP duy trì quyền quản lý đầy đủ đối với các tổ chức và thị trường tài chính, thực hiện các biện pháp khẩn cấp trong trường hợp khủng hoảng. Chương này bao gồm các nghĩa vụ cốt lõi tìm thấy trong các hiệp định thương mại khác, bao gồm: Đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc, các quy định cụ thể của Chương Đầu tư, bao gồm Tiêu chuẩn đối xử tối thiểu (chẳng hạn như cho phép các khiếu nại bị từ chối tại tòa hoặc không được cung cấp bảo vệ an ninh) tuân theo các tập quán luật thương mại quốc tế (ví dụ như các khiếu nại về một số hành động của chính phủ không nằm trong nghĩa vụ pháp lý chung), cũng như các khiếu nại vì các thiệt hại do nội chiến (ví dụ như thua lỗ gây ra do xung đột vũ trang hoặc nội chiến); và mở cửa thị trường. Điều này cho phép việc bán dịch vụ tài chính cụ thể qua biên giới sang một Thành viên TPP từ một nhà cung cấp dịch vụ của một Thành viên TPP khác mà không yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ phải thành lập cơ sở hoạt động tại một nước khác để bán các dịch vụ của mình – nhưng cho phép một Thành viên TPP yêu cầu đăng ký hoặc được ủy quyền của nhà cung cấp dịch vụ tài chính qua biên giới ở nước TPP khác nhằm giúp đảm bảo việc quản lý và giám sát thích hợp. Một nhà cung cấp dịch vụ của một Thành viên TPP có thể cung cấp một dịch vụ tài chính mới tại thị trường của nước TPP khác nếu các công ty trong nước tại thị trường này được phép cung cấp dịch vụ đó. Các Thành viên TPP có các ngoại lệ cụ thể của mình đối với một số các quy định trong hai phụ lục đính kèm Hiệp định TPP: (1) các biện pháp hiện hành trong đó một quốc gia chấp nhận nghĩa vụ không đưa ra các biện pháp hạn chế hơn trong tương lai và ràng buộc bất kỳ sự tự do hóa nào trong tương lai, và (2) các biện pháp và chính sách mà theo đó một quốc gia duy trì quyền tự do làm theo ý mình một cách đầy đủ trong tương lai.

Các Thành viên TPP cũng đưa ra các nguyên tắc công nhận chính thức tầm quan trọng của quy trình hoạch định chính sách để giải quyết việc đưa ra các dịch vụ bảo hiểm của các nhà cung cấp được cấp phép và các quy trình để đạt được mục tiêu này. Thêm vào đó, Hiệp định TPP bao gồm các cam kết cụ thể về quản lý danh mục đầu tư, dịch vụ thanh toán thẻ điện tử và chuyển thông tin để xử lý dữ liệu. Hiệp định cũng bao gồm các quy định cụ thể về tranh chấp đầu tư liên quan tới tiêu chuẩn đối xử tối thiểu trên cơ sở tập quán luật thương mại quốc tế, cũng như các quy định liên quan tới các chuyên gia dịch vụ tài chính trong ban trọng tài và cơ chế trình tự đặc biệt nhằm tạo điều kiện cho việc áp dụng ngoại lệ thận trọng và các ngoại lệ khác của 42

Chương. Cuối cùng, Hiệp định bao gồm các ngoại lệ duy trì quyền linh hoạt lớn cho các nhà quản lý tài chính của TPP thực hiện các biện pháp thúc đẩy sự ổn định tài chính và sự toàn vẹn của hệ thống tài chính bao gồm các ngoại lệ thận trọng và ngoại lệ về các biện pháp không phân biệt đối xử nhằm theo đuổi các chính sách tiền tệ hoặc chính sách cụ thể khác.

12. Nhập cảnh tạm thời của khách kinh doanh

Chương Nhập cảnh tạm thời của khách kinh doanh khuyến khích các cơ quan có thẩm quyền của các thành viên TPP cung cấp thông tin về việc nộp đơn xin nhập cảnh, để đảm bảo rằng phí nộp đơn là hợp lý, đưa ra quyết định đối với đơn xin nhập cảnh và thông tin cho các ứng viên nộp đơn về quyết định là sớm nhất có thể. Các thành viên TPP đồng ý đảm bảo rằng các yêu cầu về nhập cảnh tạm thời là sẵn sàng công khai cho công chúng, bao gồm công bố thông tin kịp thời và trực tuyến nếu có thể và cung cấp tài liệu giải thích; và các Bên đồng ý tiếp tục hợp tác về các vấn đề nhập cảnh tạm thời chẳng hạn như xử lý thị thực. Đa số các thành viên TPP cũng đã cam kết về mở cửa thị trường khách kinh doanh cho nhau, theo như Phụ lục cụ thể của từng nước đính kèm Hiệp định TPP.

13. Viễn thông

Các Thành viên TPP chia sẻ sự quan tâm trong việc đảm bảo mạng lưới viễn thông hiệu quả và đáng tin cậy tại mỗi quốc gia. Các mạng lưới này là cần thiết đối với các công ty lớn và nhỏ như là một cổng ra vào đối với các dịch vụ Internet cũng như các sản phẩm như điện thoại di động thông minh và các thiết bị máy tính bảng và các ứng dụng và nội dung tích hợp của các thiết bị này. Lần đầu tiên trong một hiệp định thương mại khu vực, các quy định tiếp cận mạng lưới hỗ trợ cạnh tranh được mở rộng đối với các nhà cung cấp điện thoại. Các thành viên TPP cam kết đảm bảo rằng các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông trong lãnh thổ của mình cung cấp sự kết nối nội địa, các dịch vụ cho thuê thiết bị, địa điểm dùng chung, và tiếp cận các cổng hoặc thiết bị khác theo các điều khoản và điều kiện hợp lý và theo một thời gian kịp thời. Các Thành viên cũng cam kết, nếu có yêu cầu cấp giấy phép, đảm bảo minh bạch hóa về bất kỳ quy định nào trong lĩnh vực này và quy định đó không giới hạn các công nghệ cụ thể như cách thức nhằm tạo điều kiện cho công nghệ trong nước. Nhằm tránh các thất bại thị trường hoặc các hành vi độc quyền, các Thành viên TPP đồng ý dựa trên áp lực thị trường và các đàm phán thương mại trong lĩnh vực viễn thông. Các Thành viên cũng đồng ý thúc đẩy cạnh tranh nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng các phương tiện khác nhau trong chuyển vùng di động. Các Thành viên TPP đồng ý rằng nếu một Thành viên lựa chọn quản lý mức phí dịch vụ chuyển vùng di động quốc tế bán buôn thì Thành viên đó phải cho phép các nhà hoạt động từ các Thành viên TPP không quản lý các dịch vụ điện thoại được hưởng lợi ích với mức phí thấp hơn.

43

14. Thương mại điện tử

Trong Chương Thương mại điện tử, các Thành viên TPP cam kết đảm bảo rằng các công ty và người tiêu dùng có thể tiếp cận và chuyển dữ liệu, với các mục tiêu chính sách công hợp pháp, chẳng hạn như quyền riêng tư, nhằm đảm bảo tự do lưu chuyển thông tin và dữ liệu toàn cầu, dẫn dắt nền kinh tế Internet và kỹ thuật số. 12 Thành viên TPP cũng đồng ý không yêu cầu các công ty TPP thiết lập các trung tâm dữ liệu để lưu trữ dữ liệu như là một điều kiện để được hoạt động tại một thị trường TPP và thêm vào đó, mã nguồn của phần mềm không được yêu cầu lưu chuyển hoặc tiếp cận. Chương này nghiêm cấm việc áp dụng thuế quan đối với các sản phẩm kỹ thuật số và ngăn chặn các thành viên TPP tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất hoặc nhà cung cấp dịch vụ trong nước đối với các sản phẩm kỹ thuật số này thông qua các biện pháp như thuế phân biệt đối xử hoặc sự ngăn cấm một cách rõ ràng. Để bảo vệ người tiêu dùng, các Thành viên TPP đồng ý thông qua và duy trì các luật bảo vệ người tiêu dùng liên quan đến các hoạt động thương mại gian lận và lừa bịp trực tuyến và đảm bảo rằng sự riêng tư và sự bảo vệ người tiêu dùng khác sẽ có hiệu lực tại các thị trường TPP. Các Thành viên cũng được yêu cầu phải có các biện pháp để chấm dứt các tin nhắn thương mại điện tử được gửi đi không do yêu cầu. Để tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại điện tử, chương này bao gồm các quy định khuyến khích các nước TPP thúc đẩy thương mại không giấy tờ giữa các doanh nghiệp và chính phủ, chẳng hạn như các mẫu khai thuế quan được đưa ra dưới dạng điện tử, cũng như cung cấp chứng minh xác thực và chữ ký điện tử cho các giao dịch thương mại. 12 Thành viên TPP đồng ý hợp tác để giúp đỡ các doanh nghiệp nhỏ và vừa tận dụng lợi thế của thương mại điện tử và Chương này khuyến khích hợp tác chính sách liên quan tới việc bảo vệ thông tin cá nhân, bảo vệ người tiêu dùng trực tuyến, sự đe dọa của tội phạm máy tính và khả năng của tội phạm máy tính.

15. Mua sắm chính phủ

Các Thành viên TPP cùng quan tâm tới mở cửa thị trường mua sắm chỉnh phủ rộng lớn của nhau thông qua các quy tắc công bằng, minh bạch, có thể dự đoán, và không phân biệt đối xử. Trong chương Mua sắm chính phủ, các Thành viên TPP cam kết với những nguyên tắc chính về đối xử quốc gia và không phân biệt đối xử. Các Thành viên cũng đồng ý công bố các thông tin liên quan một cách kịp thời, để các nhà cung cấp có đủ thời gian nhận được hồ sơ dự thầu và nộp bản chào thầu, để đối xử với các nhà thầu một cách công bằng, bình đẳng, và để duy trì tính bảo mật cho các nhà thầu. Thêm vào đó, các Thành viên đồng ý sẽ sử dụng các mô tả kỹ thuật công bằng và khách quan, sẽ chỉ duyệt hợp đồng dựa trên những tiêu chí đánh giá đã mô tả trong các thông báo và hồ sơ dự thầu, sẽ xây dựng các quy trình hợp lý để chất vấn hoặc xem xét các khiếu nại đối với một phê duyệt nào đó. Mỗi Thành viên sẽ đưa ra một danh sách chọn cho các đơn vị mà Thành viên đó sẽ xây dựng, được liệt kê tại phụ lục gắn liền với Hiệp định TPP.

16. Chính sách cạnh tranh

44

Các Thành viên TPP cùng quan tâm bảo đảm một khung khổ cạnh tranh bình đẳng trong khu vực thông qua những quy định yêu cầu các Thành viên TPP duy trì hệ

thống luật pháp cấm những hành vi kinh doanh phi cạnh tranh, cũng như những hoạt động thương mại gian lận và lừa đảo, gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Các Thành viên TPP đồng ý sẽ thông qua hoặc duy trì hệ thống luật cạnh tranh quốc gia cấm hành vi kinh doanh phi cạnh tranh và sẽ làm việc để áp dụng những luật lệ này vào tất cả các hoạt động kinh doanh trong phạm vi lãnh thổ của mình. Để đảm bảo những luật lệ này được thực thi một cách hiệu quả, các Thành viên TPP đồng ý sẽ thành lập hoặc duy trì các cơ quan chức năng chịu trách nhiệm về việc thực thi luật cạnh tranh quốc gia, và thông qua hoặc duy trì luật lệ hoặc quy định cấm các hoạt động thương mại gian lận và lừa đảo gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Các Thành viên cũng đồng ý sẽ hợp tác, trong trường hợp có thể, về những vấn đề các bên cùng quan tâm liên quan đến các hoạt động cạnh tranh. 12 Thành viên đồng ý với những nghĩa vụ liên quan đến thủ tục hợp lý và tính công bằng trong quy trình, cũng như quyền cá nhân đối với những hành động gây ra tổn hại do vi phạm luật cạnh tranh của một Thành viên. Thêm vào đó, các Thành viên TPP đồng ý hợp tác trong phạm vi chính sách cạnh tranh và thực thi luật cạnh tranh, bao gồm thông qua thông báo, tham vấn hoặc trao đổi thông tin. Chương này không thuộc đối tượng điều chỉnh của các quy định về giải quyết tranh chấp của Hiệp định TPP, nhưng các Thành viên TPP có thể tham vấn để xử lý những quan ngại liên quan đến chương này.

17. Doanh nghiệp nhà nước (SOEs)

Tất cả các Thành viên TPP đều có SOEs, thường đóng vai trò cung cấp dịch vụ công và các hoạt động khác, nhưng các Thành viên TPP đều nhận thấy lợi ích của việc thống nhất một khung khổ quy định về cạnh tranh liên quan đến các SOEs. Chương SOEs điều chỉnh những SOEs chủ yếu tham gia vào các hoạt động thương mại. Các Thành viên nhất trí bảo đảm rằng các SOEs của mình sẽ tiến hành các hoạt động thương mại trên cơ sở tính toán thương mại, trừ trường hợp không phù hợp với nhiệm vụ mà các SOEs đó đang phải thực hiện để cung cấp các dịch vụ công. Các Thành viên cũng đồng ý bảo đảm rằng các SOEs hoặc đơn vị độc quyền sẵn có không có những hoạt động phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp, hàng hóa, dịch vụ của các Thành viên khác. Các Thành viên đồng ý trao cho tòa án quyền tài phán đối với các hoạt động thương mại của các SOEs nước ngoài và bảo đảm rằng các cơ quan hành chính quản lý cả các SOEs và doanh nghiệp tư nhân cũng làm như vậy một cách công bằng. Các Thành viên TPP đồng ý sẽ không tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với lợi ích của các Thành viên TPP khác khi cung cấp hỗ trợ phi thương mại cho các SOEs, hay làm tổn hại đến ngành trong nước của Thành viên khác thông qua việc cung cấp các hỗ trợ phi thương mại cho SOEs sản xuất và bán hàng hóa trên lãnh thổ của SOE khác đó. Các Thành viên TPP đồng ý chia sẻ danh sách các SOEs với các Thành viên khác và khi được yêu cầu sẽ cung cấp các thông tin bổ sung về mức độ sở hữu hoặc kiểm soát của chính phủ và những hỗ trợ phi thương mại cung cấp cho các SOEs. Chương này cũng tạo ra các trường hợp ngoại lệ cho các SOEs không có ảnh hưởng trên thị trường TPP, cũng như những ngoại lệ cụ thể theo từng nước, được quy định trong các phụ lục, gắn liền với Hiệp định TPP.

45

18. Sở hữu trí tuệ

Chương Sở hữu trí tuệ (IP) trong TPP điều chỉnh các lĩnh vực về bằng sáng chế, nhãn hiệu, bản quyền, bí mật thương mại, các hình thức khác của quyền sở hữu trí tuệ, và việc thực thi các quyền về sở hữu trí tuệ, cũng như các lĩnh vực mà các Thành viên đồng ý hợp tác.

Chương này xây dựng tiêu chuẩn cho bằng sáng chế, lấy từ Hiệp định TRIPS của WTO và những thông lệ quốc tế tốt nhất. Về nhãn hiệu, chương này làm rõ và củng cố việc bảo vệ tên nhãn hiệu và những dấu hiệu khác mà các doanh nghiệp và cá nhân sử dụng để phân biệt sản phẩm của họ trên thị trường. Chương này cũng yêu cầu các Thành viên đưa vào cả tính minh bạch và quy trình bảo vệ phù hợp liên quan đến việc bảo vệ những chỉ dẫn địa lý mới, bao gồm cả những chỉ dẫn địa lý đã được công nhận hoặc được bảo vệ ở những hiệp định quốc tế khác. Việc bảo vệ này bao gồm cả việc phân định rõ mối quan hệ giữa nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý, cũng như việc bảo vệ việc sử dụng những thuật ngữ thường dùng.

Chương IP sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm, đăng ký và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ở các thị trường mới, và đây là điều rất cấn thiết cho các doanh nghiệp nhỏ.

Bên cạnh đó, chương này cũng bao gồm những điều khoản thích hợp liên quan đến dược phẩm tạo điều kiện cho cả việc phát triển các loại thuốc cứu sinh mới cũng như việc phổ biến các loại thuốc thông dụng, có tính đến thời gian từng Thành viên cần để đáp ứng được các tiêu chuẩn này. Chương này bao gồm những cam kết liên quan đến việc bảo vệ mật kết quả thử nghiệm và các dữ liệu khác để có được quyền marketing dược phẩm và hóa phẩm nông nghiệp. Chương này cũng tái khẳng định cam kết của các Thành viên với Tuyên bố 2001 của WTO về Hiệp định TRIPS và Sức khỏe cộng đồng và cụ thể là xác nhận rằng các Thành viên không bị hạn chế áp dụng các biện pháp bảo vệ sức khỏe cộng đồng, bao gổm cả trong trường hợp có những đại dịch như HIV/AIDS.

Về bản quyền, chương IP xây dựng những cam kết liên quan đến quyền của người sáng chế, và tạo ra bảo hộ rõ rệt đối với các tác phẩm như bài hát, phim, sách, và phần mềm, và bao gồm những điều khoản cân đối và hiệu quả về các biện pháp bảo vệ công nghệ và thông tin quản lý bản quyền. Bên cạnh các cam kết này, chương này cũng bao gồm một nghĩa vụ - lần đầu tiên xuất hiện trong bất kỳ hiệp định thương mại nào – để các Thành viên có thể liên tục cố gắng đạt được sự cân bằng trong hệ thống bản quyền thông qua, trong số những nội dung khác, những ngoại lệ và hạn chế - bao gồm cả những nội dung trong môi trường số - để phục vụ những mục đích chính đáng, như phê bình, góp ý, báo cáo tin tức, dạy học, học bổng, và nghiên cứu. Chương này yêu cầu các Thành viên phải thông qua hoặc duy trì một khung khổ về vùng an toàn cho các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP). Các nghĩa vụ này không cho phép các Thành viên tạo ra các vùng an toàn ngẫu nhiên để giám sát hệ thống của các IPS tìm kiếm nội dung vi phạm.

Chương này yêu cầu các Thành viên TPP cung cấp các công cụ hợp pháp để ngăn ngừa việc sử dụng sai các bí mật thương mại, và xây dựng các quy trình thủ tục 46

và xử phạt hình sự đối với tội phạm trộm cắp bí mật thương mại, bao gồm cả trộm cắp qua mạng.

Cuối cùng, các Thành viên TPP đồng ý cung cấp các hệ thống chế tài mạnh, bao gồm cả những quy trình thủ tục dân sự, các biện pháp tạm thời, các biện phảp quản lý biên giới, và chế tài hình sự đối với tội giả mạo nhãn hiệu và vi phạm bản quyền.

19. Lao động

Tất cả các Thành viên TPP đều là thành viên của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và thừa nhận mối liên hệ giữa quyền của người lao động với thương mại. Trong TPP, các Thành viên đồng ý thông qua và duy trì trong luật và thông lệ của mình các quyền cơ bản của người lao động như được thừa nhận trong Tuyên bố 1998 của ILO, đó là quyền tự do liên kết và quyền thương lượng tập thể; xóa bỏ lao động cưỡng bức; xóa bỏ lao động trẻ em và cấm các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; và loại bỏ sự phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp. Các Thành viên cũng đồng ý có luật quy định mức lương tối thiểu, số giờ làm việc, an toàn và sức khỏe nghề nghiệp. Những cam kết này áp dụng cả với các khu chế xuất. 12 Thành viên TPP đồng ý không miễn trừ hoặc giảm hiệu lực của luật lệ quy định việc thực thi các quyền cơ bản của người lao động để thu hút thương mại hoặc đầu tư, và sẽ thực thi hiệu quả luật liên quan đến lao động một cách bền vững hoặc đều đặn có thể có ảnh hưởng tới thương mại hoặc đầu tư giữa các Thành viên TPP. Bên cạnh các cam kết của các Thành viên xóa bỏ lao động cưỡng bức trong nước mình, chương Lao động bao gồm cả những cam kết không khuyến khích việc nhập khẩu hàng hóa được sản xuất bằng lao động cưỡng bức hoặc lao động trẻ em, hoặc sử dụng đầu vào được sản xuất ra bằng lao động cưỡng bức, bất kể nước xuất xứ có nằm trong TPP hay không. Mỗi Thành viên TPP đều cam kết bảo đảm khả năng tiếp cận với hệ thống thủ tục hành chính và tư pháp công bằng, không thiên vị và minh bạch và sẽ cung cấp các biện pháp khắc phục hiệu quả những vi phạm luật lao động của mình. Các Thành viên cũng đồng ý cho phép sự tham gia của công chúng vào việc thực thi chương Lao động, bao gồm cả việc xây dựng cơ chế tiếp nhận ý kiến đóng góp của công chúng và đáp ứng các yêu cầu về thông tin.

Các cam kết tại chương này là đối tượng điều chỉnh của các thủ tục giải quyết khiếu nại được quy định tại chương Giải quyết tranh chấp. Để thúc đẩy việc giải quyết nhanh các vấn đề về lao động giữa các thành viên TPP, chương Lao động cũng xây dựng cơ chế đối thoại mà các Thành viên có thể lựa chọn áp dụng để cố gắng giải quyết bất cứ vấn đề nào về lao động trong chương này giữa các Thành viên. Cơ chế đối thoại này cho phép việc xem xét nhanh các vấn đề và cho phép các Thành viên cùng nhất trí với chương trình hành động để xử lý vấn đề. Chương Lao động tạo ra một cơ chế hợp tác về các vấn đề về lao động, bao gồm cả các cơ hội để các bên đóng góp xác định phạm vi hợp tác và tham gia, nếu phù hợp và các Thành viên cùng tham gia, trong các hoạt động hợp tác.

47

20. Môi trường

Với tư cách là ngôi nhà đối với của một phần quan trọng của thế giới hoang dã, các giống cây trồng và sinh vật biển, các Thành viên TPP chia sẻ một cam kết mạnh mẽ nhằm bảo vệ và bảo tồn môi trường, bao gồm cả việc các thành viên làm việc với nhau nhằm giải quyết các thách thức về môi trường, ví dụ như ô nhiễm môi trường, buôn bán động vật hoang dã, khai thác trái phép, đánh bắt trái phép và bảo vệ môi trường biển. Trong khuôn khổ của Hiệp định TPP, 12 Thành viên nhất trí đối với thực thi có hiệu quả pháp luật về môi trường và không làm suy giảm hệ thống pháp luật về môi trường nhằm mục đích khuyến khích thương mại và đầu tư. Các Bên cũng nhất trí thực thi các nghĩa vụ theo Công ước về Thương mại quốc tế đối với các loài động thực vật nguy cấp (CITES) và thực hiện các biện pháp nhằm đấu tranh và tăng cường hợp tác để ngăn chặn thương mại về động thực vật hoang dã được tiến hành một cách bất hợp pháp. Ngoài ra, các Thành viên cũng đồng ý thúc đẩy quản lý phát triển rừng bền vững, bảo vệ và bảo tồn các loài động vật và giống cây hoang dã được xác định là nguy cấp trong lãnh thổ của nước mình, trong đó bao gồm cả các hành động mà các Bên tiến hành nhằm bảo tồn toàn vẹn sinh thái của các vùng tự nhiên được bảo vệ đặc biệt, ví dụ như khu vực đầm lầy. Trong nỗ lực bảo vệ vùng đại dương chung, các Thành viên TPP nhất trí đối với quản lý bền vững nghề cá, thúc đẩy việc bảo tồn các loài sinh vật biển quan trọng, ví dụ như cá mập, đấu tranh chống đánh bắt trái phép, cũng như nghiêm cấm một số hình thức trợ cấp nghề cá có tác động tiêu cực nhất dẫn đến tình trạng khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên cá. Các hình thức trợ cấp này ảnh hưởng tiêu cực đến dự trữ cá và tiếp tay cho các hoạt động đánh bắt trái phép, không được thống kê và không được pháp luật quy định. Các Bên nhất trí tăng cường tính minh bạch liên quan đến các chương trình trợ cấp và nỗ lực hết sức ngăn chặn việc đưa ra các hình thức trợ cấp mới dẫn đến đánh bắt cạn kiệt và vượt quá trữ lượng các nguồn tài nguyên.

Các Thành viên TPP cũng nhất trí bảo vệ môi trường biển khỏi ô nhiễm đánh bắt và bảo vệ tầng ô zôn khỏi các chất gây phá hủy. Các Thành viên tái khẳng định cam kết của họ trong việc thực thi Hiệp định nhiều bên về môi trường (MEAs) mà họ là thành viên. Các Thành viên cam kết minh bạch trong các vấn đề khi đưa ra, thực thi và thúc đẩy các quyết định về môi trường. Ngoài ra, các Thành viên nhất trí đối với việc tạo điều kiện cho cộng đồng đóng góp đối với việc thực thi Chương Môi trường thông qua các phiên xem xét và đánh giá việc thành lập Ủy ban về Môi trường nhằm giám sát việc thực thi chương này. Chương này cũng bao gồm cam kết về minh bạch hóa trong việc thực thi và tuân thủ và các đối tượng của quy trình giải quyết tranh chấp được quy định trong Chương Giải quyết tranh chấp. Các Thành viên còn nhất trí khuyến khích các sáng kiến tự nguyện về môi trường, ví dụ như các chương trình hợp tác về trách nhiệm xã hội. Cuối cùng, các Bên cam kết hợp tác và giải quyết các vấn đề thuộc mối quan tâm chung, trong đó bao gồm các khu vực bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học, và thời gian chuyển đổi sang các nền kinh tế có mức khí thải thấp và phát triển bền vững.

48

21. Hợp tác và Nâng cao năng lực

12 nền kinh tế thành viên TPP rất đa dạng về trình độ phát triển. Mọi Thành viên đều nhận thức rằng các thành viên kém phát triển hơn của Hiệp định TPP có thể phải đối mặt với các thách thức nhất định khi thực thi hiệp định, tận dụng tối đa lợi thế về cơ hội do hiệp định này tạo ra và đảm bảo sự tham gia đầy đủ của các doanh nghiệp nhỏ hơn, cộng đồng vùng nông thôn, phụ nữ và các nhóm thu nhập xã hội thấp hơn. Nhằm giải quyết các thách thức trên, Chương Hợp tác và Nâng cao năng lực thiết lập một Ủy ban về Hợp tác và Nâng cao năng lực nhằm phát hiện và rà soát các khu vực có tiềm năng hợp tác và xây dựng năng lực trên cơ sở tự nguyện và sự sẵn có của các nguồn lực. Ủy ban này sẽ thúc đẩy trao đổi thông tin nhằm hỗ trợ các yêu cầu về hợp tác và nâng cao năng lực.

22. Cạnh tranh và Tạo thuận lợi kinh doanh

Chương Cạnh tranh và Tạo thuận lợi kinh doanh nhằm mục tiêu giúp cho TPP đạt được các tiềm năng của khu vực nhằm phát triển sức cạnh tranh của các thành viên tham gia hiệp định và của cả khu vực nói chung. Chương này tạo nên các cơ chế chính thức nhằm rà soát tác động của TPP lên sức cạnh tranh của các Thành viên thông qua các cuộc đối thoại giữa các chính phủ và giữa chính phủ với doanh nghiệp và cộng đồng, tập trung tham gia sâu vào chuỗi cung ứng khu vực nhằm đánh giá sự phát triển, tận dụng lợi thế của các cơ hội mới, và giải quyết bất cứ các thách thức có thể nổi lên khi Hiệp định TPP có hiệu lực. Trong số các giải pháp này có việc thành lập Ủy ban về Cạnh tranh và Tạo thuận lợi kinh doanh. Ủy ban này sẽ nhóm họp thường xuyên nhằm rà soát tác động của Hiệp định TPP lên sức cạnh tranh của khu vực và quốc gia, và lên hệ thống kinh tế khu vực. Ủy ban sẽ xem xét các khuyến nghị và đề xuất từ các đối tượng liên quan đối với các cách thức mà Hiệp định TPP có thể thúc đẩy hơn nữa sự cạnh tranh, bao gồm cả việc tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào chuỗi cung ứng khu vực. Chương này cũng thiết lập một khung cơ bản dành cho Ủy ban để đánh giá hoạt động của chuỗi cung ứng theo Hiệp định, trong đó bao gồm các cách thức để thúc đẩy sự tham gia của SME vào chuỗi cung ứng và rà soát đóng góp của các đố tượng liên quan và các chuyên gia.

23. Phát triển

49

Các thành viên TPP tìm kiếm giải pháp nhằm đảm bảo Hiệp định TPP sẽ là một hình mẫu của sự hội nhập thương mại và kinh tế tiêu chuẩn cao, và đặc biệt nhằm đảm bảo mọi Thành viên TPP có thể thu được các lợi ích từ hiệp định, có đầy đủ năng lực để thực thi các cam kết của mình và nổi lên như các nền kinh tế thịnh vượng hơn và thị trường mạnh mẽ hơn cho tất cả các thành viên. Chương Phát triển gồm có 3 lĩnh vực cơ bản được coi như dành cho các chương trình hợp tác khi Hiệp định có hiệu lực. Các lĩnh vực này bao gồm: (1) tăng trưởng kinh tế toàn diện và cơ bản bao gồm có phát triển bền vững, giảm đói nghèo và thúc đẩy các doanh nghiệp nhỏ; (2) thúc đẩy phụ nữ và kinh tế, trong đó có việc hỗ trợ phụ nữ xây dựng năng lực và các kỹ năng, tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ với thị trường, đạt được kỹ năng về công nghệ thông tin và tài chính, thiết lập mạng lưới lãnh đạo nữ giới, và chỉ ra các thực tiễn tốt nhất trong ứng dụng linh hoạt trong môi trường công việc; và (3) giáo dục,

khoa học và công nghệ, nghiên cứu và sáng tạo. Chương này cũng thiết lập Ủy ban TPP về phát triển - là cơ quan sẽ nhóm họp thường xuyên để thúc đẩy các chương trình hợp tác tự nguyện trong các lĩnh vực này và các cơ hội mới khi nó phát sinh.

24. Doanh nghiệp vừa và nhỏ

Các nước TPP chia sẻ mối quan tâm đến việc thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp nhỏ và vừa vào thương mại và bảo đảm rằng các doanh nghiệp nhỏ và vừa chia sẻ các lợi ích của Hiệp định TPP. Bên cạnh những cam kết tại các chương khác của Hiệp định về tiếp cận thị trường, giảm các công việc giấy tờ, tiếp cận internet, thuận lợi hóa thương mại, chuyển phát nhanh và các nội dung khác, Chương về Doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm các cam kết của mỗi Bên về thiết lập một trang web thân thiện với người sử dụng dành cho đối tượng sử dụng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ để dễ dàng tiếp cận các thông tin về Hiệp định TPP và những cách thức mà các doanh nghiệp nhỏ có thể tận dụng Hiệp định này, bao gồm cả việc diễn giải các điều khoản của Hiệp định TPP liên quan tới doanh nghiệp vừa và nhỏ; các quy định và thủ tục liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ; các quy định về đầu tư nước ngoài; các thủ tục về đăng ký kinh doanh; các quy định về lao động và các thông tin về thuế. Ngoài ra, Chương này quy định việc thành lập Ủy ban Doanh nghiệp vừa và nhỏ được tiến hành họp định kỳ để rà soát mức độ hỗ trợ của Hiệp định TPP cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cân nhắc các cách thức để nâng cao hơn nữa những lợi ích của Hiệp định và giám sát các hoạt động hợp tác hoặc nâng cao năng lực để hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua tư vấn xuất khẩu, hỗ trợ, đào tạo cho doanh nghiệp vừa và nhỏ; chia sẻ thông tin; cấp vốn thương mại và các hoạt động khác.

25. Gắn kết môi trường chính sách

50

Chương Gắn kết môi trường chính sách của TPP sẽ giúp mở ra một môi trường thông thoáng, bình đẳng và dễ dự đoán dành cho các doanh nghiệp hoạt động trên các thị trường TPP bằng cách khuyến khích minh bạch hóa, công bằng và hợp tác giữa các chính phủ để đạt được một phương thức tiếp cận chính sách một cách gắn kết. Chương này nhằm mục đích tạo thuận lợi về gắn kết môi trường chính sách tại mỗi quốc gia TPP bằng việc thúc đẩy các cơ chế cho quá trình tham vấn và hợp tác giữa các cơ quan nội bộ một cách hiệu quả. Chương này cũng khuyến khích việc chấp nhận rộng rãi các chính sách tốt, ví dụ như các đánh giá tác động của các biện pháp chính sách được đề xuất, trao đổi thông tin của các nhóm nền tảng cho quá trình chọn lựa các chính sách thay thế và bản chất của chính sách được giới thiệu. Chương này còn bao gồm các điều khoản nhằm giúp đảm bảo các chính sách rõ ràng, chính xác về mặt văn bản, theo đó cộng đồng có thể tiếp cận thông tin đối với các biện pháp chính sách mới, nếu có thể thì theo hình thức trực tuyến, và các biện pháp chính sách hiện hành đã được rà soát định kỳ nhằm quyết định xem các biện pháp đó đang còn là các công cụ hiệu quả nhất để đạt được các mục tiêu đề ra. Ngoài ra, chương cũng khuyến khích các chính phủ TPP cung cấp các thông báo thường niên về tất cả các biện pháp chính sách mà chính phủ đó định thực hiện. Cuối cùng, chương cũng thiết lập một Ủy ban mà theo đó sẽ cung cấp cho các quốc gia TPP, doanh nghiệp và cộng đồng tiếp

tục có các cơ hội báo cáo về quá trình thực thi, chia sẻ kinh nghiệm về các thực tiễn tốt nhất, và xem xét các khu vực có tiềm năng hợp tác. Chương này, dưới bất kỳ hình thức nào, không ảnh hưởng đến quyền của các Thành viên trong việc đưa ra các chính sách về sức khỏe cộng đồng, an toàn, an ninh và các lý do vì lợi ích công cộng khác.

26. Minh bạch hóa và Chống tham nhũng

Chương Minh bạch hóa và chống tham nhũng có mục đích thúc đẩy các mục tiêu, được chia sẻ bởi toàn bộ các Bên tham gia Hiệp định, tăng cường quản trị tốt và xử lý những ảnh hưởng xói mòn của việc hối lộ và tham nhũng lên nền kinh tế. Theo Chương này, các Bên tham gia TPP phải đảm bảo rằng, trong chừng mực có thể, luật pháp, quy định và các quy chế hành chính có liên quan tới bất kỳ vấn đề nào được quy định bởi Hiệp định TPP sẽ được công bố công khai và tiếp nhận các nhận xét. Các Bên sẽ đảm bảo quyền lợi theo quy trình thủ tục đối với tố tụng hành chính cho các bên liên quan đến TPP, bao gồm việc nhanh chóng xem xét thông qua các tòa án hoặc thủ tục tố tụng hành chính hoặc quan tòa công bằng. Các Bên cũng đồng ý áp dụng hoặc duy trì luật hình sự hóa đối với việc cung cấp những lợi ích không chính đáng của một công chức hay những hành động hối lộ khác có ảnh hưởng đến đầu tư và thương mại quốc tế. Các Bên cũng cam kết sẽ áp dụng hiệu quả các quy định và luật pháp về chống hối lộ. Hơn nữa, các bên đồng ý nỗ lực duy trì hoặc áp dụng các tiêu chuẩn, quy tắc ứng xử của các công chức cũng như các biện pháp nhằm xác định và quản lý xung đột lợi ích, qua đó tăng cường đào tạo công chức, tránh việc xử dụng quà tặng, khuyến khích việc thông báo về các hành động hối lộ và có hình thức kỷ luật hoặc các biện pháp khác đối với các công chức có hành động hối lộ. Trong một Phụ lục của Chương này, các Bên TPP cũng đồng ý với các điều khoản thúc đẩy tính minh bạch và quy trình liên quan đến danh sách và các chi phí cho các sản phẩm dược phẩm hoặc các thiết bị y tế. Các cam kết trong phụ lục này không thuộc đối tượng của thủ tục giải quyết tranh chấp.

27. Các điều khoản về hành chính và thể chế

Chương về Các điều khoản hành chính và thể chế của TPP xây dựng một khung thể chế thông qua đó các Bên có thể đánh giá và hướng dẫn việc thực hiện hoặc hoạt động của Hiệp định, đặc biệt bằng việc thành lập Ủy ban TPP, bao gồm các Bộ trưởng hoặc các quan chức cấp cao, giám sát hoạt động và quá trình thực thi Hiệp định và định hướng phát triển tương lai. Ủy ban này sẽ rà soát mối quan hệ kinh tế và đối tác giữa các Bên theo định kỳ để đảm bảo duy trì liên kết chặt chẽ với những thách thức mà cách bên gặp phải. Mọi sửa đổi cần có sự đồng thuận và kết luật thông qua các thủ tục pháp lý của các Bên. Chương này cũng cung cấp thông tin về đầu mối liên lạc của các Bên để tạo thuận lợi cho trao đổi và tạo ra một cơ chế để những Bên có thời hạn chuyển đổi cụ thể đối với một nghĩa vụ nào đó có thể báo cáo về tiến trình thực hiện và định hướng nhằm đảm bảo tính minh bạch trong việc thực hiện các nghĩa vụ.

51

28. Giải quyết tranh chấp

Chương về Giải quyết tranh chấp có mục tiêu nhanh chóng giúp đỡ các Bên giải quyết những vướng mắc trong quá trình thực hiện Hiệp định TPP. Các Bên TPP có mục tiêu là giải quyết các tranh chấp thông qua tham vấn và khi cần thiết có thể thông qua các Ban hội thẩm công bằng, không thiên vị. Cơ chế giải quyết tranh chấp đề ra trong Chương này áp dụng cho toàn bộ Hiệp định TPP, trừ một số ít trường hợp đặc biệt. Công chúng có thể theo dõi tiến trình tố tụng từ thời điểm các đệ trình được công bố, công chúng cũng có thể theo dõi phiên điều trần và báo cáo cuối cùng của các Ban hôi thẩm cũng sẽ được công bố. Các Ban hội thẩm cũng sẽ cân nhắc các yêu cung cấp quan điểm tới vụ tranh chấp từ của các đơn vị phi chính phủ hoạt động trong lãnh thổ của bất kỳ Bên tranh chấp nào. Các Bên TPP sẽ nỗ lực hết sức nhằm giải quyết tranh chấp thông qua hợp tác và tham vấn và được khuyến khích sử dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp khác nếu phù hợp. Trong trường hợp tham vấn thất bại, các Bên có thể yêu cầu thành lập một Ban hội thẩm, được thành lập trong vòng 60 ngày kể từ khi có yêu cầu tham vấn hoặc 30 ngày đối với hàng hóa mau hỏng. Ban Hội thẩm sẽ bao gồm 3 chuyên gia độc lập về thương mại quốc tế và có liên quan tới lĩnh vực tranh chấp cùng với một quy trình thủ tục để chắc chắn rằng Ban Hội thẩm sẽ được thành lập trong một khoảng thời gian nhất định ngay cả khi các Bên không thống nhất được về thành phần của Ban. Ban Hội thẩm sẽ tuân theo một quy tắc ứng xử chung nhằm đảm bảo tính thống nhất của cơ chế giải quyết tranh chấp. Ban Hội thẩm sẽ có một báo cáo ban đầu trong vòng 150 ngày kể tư khi thành viên cuối cùng của Ban được chỉ định hoặc 120 ngày trong trường hợp khẩn cấp, như là trường hợp liên quan tới các hàng hóa dễ hỏng. Báo cáo ban đầu này sẽ là báo cáo mật và các Bên có thể nhận xét bổ sung. Báo cáo cuối cùng sẽ được hoàn thành trong vòng 30 ngày kể từ ngày có báo cáo ban đầu và phải được công báo trong vòng 15 ngày nhưng các thông tin mật sẽ được giữ kín. Để đảm bảo các Bên sẽ tuân thủ, Chương giải quyết tranh chấp cho phép sử dụng trả đũa thương mại (ví dụ như ngừng không cho hưởng lợi ích), nếu một Bên không tuân thủ với nghĩa vụ của mình. Trước khi sử dụng biện pháp trả đũa thương mại, Bên không tuân thủ có thể thảo luận hoặc yêu cầu một khoảng thời gian hợp lý để khắc phục các vi phạm của mình.

29. Ngoại lệ

52

Chương về Ngoại lệ mang lại các linh hoạt cho các Bên trong Hiệp định TPP để đảm bảo đầy đủ quyền lợi chung, bao gồm lợi ích an ninh cơ bản và các phúc lợi công. Chương này kết hợp các ngoại lệ chung trong Điều XX của Hiệp định chung về Thương mại và thuế quan 1994 cho các điều khoản liên quan tới hàng hóa thương mại, theo đó Hiệp định TPP sẽ không ngăn cản các Bên áp dụng hoặc thực thi các biện pháp cần thiết để bảo vệ đạo đức công cộng, bảo về đời sống hoặc sức khỏe con người, động hoặc thực vật, bảo vệ sở hữu trí tuệ, thực thi các biện pháp liên quan tới các sản phẩm của lao động tù nhân, để bảo vệ tài sản quốc gia giá trị nghệ thuật, lịch sử, hoặc khảo cổ và bảo tồn các nguồn tài nguyên bị cạn kiệt. Chương này cũng bao gồm các ngoại lệ chung tương tự như trong Điều XIV của Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ liên quan tới các điều khoản liên quan tới thương mại dịch vụ. Chương này bao gồm cả ngoại lệ về tự đánh giá áp dụng chung cho toàn bộ Hiệp định

TPP, theo đó một Bên có thể sử dụng các biện pháp mà họ thấy cần thiết để bảo vệ lợi ích an ninh cơ bản. Chương này cũng xác định các hoàn cảnh cụ thể và điều kiện mà theo đó một Bên có thể áp dụng các biện pháp tự vệ tạm thời (ví dụ như kiểm soát vốn) để hạn chế giao dịch - ví dụ như góp vốn, chuyển lợi nhuận và cổ tức, thanh toán lãi hoặc tiền bản quyền - đối với các khoản đầu tư, để đảm bảo chính phủ duy trì linh hoạt để quản lý dòng vốn biến động, bao gồm bối cảnh của cán cân thanh toán hoặc các khủng hoảng kinh tế khác. Hơn nữa, chương này cũng xác định rõ rằng trong Hiệp định TPP không Bên nào bị ép buộc phải cung cấp thông tin nếu đi ngược lại quy định pháp luật trong nước hoặc lợi ích cộng đồng, hoặc phương hại đến lợi ích thương mại hợp pháp của doanh nghiệp cụ thể.

30. Các điều khoản cuối cùng

53

Chương về Các điều khoản cuối cùng là về những hình thức mà Hiệp định TPP sẽ có hiệu lực, những hình thức sửa đổi cam kết, những quy tắc xây dựng tiến trình để các nước và vùng lãnh thổ khác có thể gia nhập TPP sau này, các hình thức rút ra khỏi Hiệp định và ngôn ngữ chính được sử dụng để công bố. Chương này nhằm đảm bảo các cam kết trong Hiệp định TPP có thể được sửa đổi, nhưng chỉ sau khi mỗi Bên đã hoàn tất thủ tục trong nước và nộp lưu chiểu. Chương này cũng quy định rõ rằng Hiệp định TPP mở cho các nước thuộc thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương và những quốc gia hoặc vùng lãnh thổ khác gia nhập nếu được các Bên đồng thuận. Hiệp định TPP sẽ có hiệu lực theo các thủ tục cần thiết được quy định tại Chương này. Chương về các điều khoản cuối cùng cũng quy định rõ quy trình để một Bên có thể rút ra khỏi Hiệp định, chỉ định một cơ quan lưu chiểu để tiếp nhận và cung cấp tài liệu, và cũng xác định tiếng Anh, Tây Ban Nha và Pháp là những ngôn ngữ chính đồng thời được sử dụng cho Hiệp định./.

MỘT SỐ NÉT CHÍNH CAM KẾT VỀ NÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM TRONG TPP

Ngày 8/11/2015, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công bố nội dung Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) trong lĩnh vực nông nghiệp. Hàng loạt thách thức, cơ hội đã được chỉ ra.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Việt Nam đã có những thỏa thuận quan trọng mở cửa thị trường với các nước TPP. Hàng loạt hàng hóa Việt Nam sẽ được giảm thuế.

Cụ thể, với Hoa Kỳ, khoảng 98% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nông sản của VN vào Mỹ sẽ được hưởng thuế nhập khẩu 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực. Với thủy sản là 92,68%. Đặc biệt, 100% kim ngạch xuất khẩu gỗ của Việt Nam Mỹ được xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực.

Với Ca-na-đa, mức độ cam kết còn tốt hơn với mức độ xóa thuế ngay khi hiệp

định có hiệu lực cao hơn mức Hoa Kỳ dành cho Việt Nam.

Với Nhật Bản, mặc dù đồng ý để Nhật Bản loại trừ mặt hàng gạo khỏi cam kết, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn khẳng định tại TPP, Việt Nam đã đạt được mức cải thiện hơn so với Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA).

Với gạo, có 8 nước cam kết xóa bỏ toàn bộ thuế quan ngay cho gạo từ Việt

Nam. Chi-lê, Mê-hi-cô sẽ xóa bỏ thuế có lộ trình 8-10 năm…

Với mặt hàng nhạy cảm là thịt lợn, thịt gà, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn khẳng định Việt Nam giữ được lộ trình xóa thuế tương đối dài, 8-13 năm thuế mới về 0%; đồng thời vẫn áp hạn ngạch với ba sản phẩm là đường, trứng và muối; riêng lá thuốc lá mở cửa hơn so với WTO.

Về các cam kết Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn nêu các nội dung về trợ cấp đánh bắt tự nhiên… là một trong những nội dung gây nhiều bất đồng trong quá trình đàm phán. Tuy nhiên, cuối cùng các nước TPP đã đưa ra các cam kết chỉ bỏ trợ cấp cho hoạt động đánh bắt mà hoạt động đó được xác định là gây ra tác động xấu tới nguồn lợi hải sản đã trong tình trạng bị đánh bắt quá mức; xóa bỏ mọi hình thức trợ cấp cho các tàu đánh bắt bất hợp pháp, không theo quy định và không báo cáo…

Bên cạnh yếu tố thuế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công bố 4 vấn

đề lớn trong TPP liên quan nông nghiệp:

1. Về xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản

Bộ NN&PTNT khẳng định các thành viên TPP cam kết xóa bỏ trợ cấp xuất

khẩu đối với hàng nông sản kể từ khi hiệp định có hiệu lực.

54

Đây là một cam kết quan trọng, là mục tiêu đàm phán giữa các thành viên WTO hiện nay “nhằm giảm bớt hàng rào bảo hộ nông sản ở một số thành viên phát triển như Hoa Kỳ, EU”.

2. Về An ninh lương thực

WTO cho phép các thành viên áp dụng các biện pháp hạn chế xuất khẩu lương thực tạm thời nhằm mục đích bảo đảm an ninh lương thực khi trong nước thiếu thốn lương thực trầm trọng.

Trong Hiệp định TPP, các thành viên cam kết sẽ thông báo cho nhau khi một thành viên áp dụng biện hạn chế xuất khẩu nhằm mục đích trên, đồng thời cam kết tiến hành tham vấn và trao đổi thông tin với các nước thành viên có nhu cầu nhập khẩu mặt hàng lương thực liên quan.

Cam kết nhằm đảm bảo những nước chủ yếu phải nhập khẩu lương thực có

điều kiện tham vấn, tìm giải pháp khắc phục khi nguồn nhập khẩu bị hạn chế.

3. Không áp dụng tự vệ đặc biệt

Mặc dù Hiệp định Nông nghiệp của WTO cho phép các thành viên áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt để bảo hộ nông sản trong những điều kiện nhất định, nhưng TPP không cho phép áp dụng biện pháp này đối với hàng nông sản có xuất xứ từ khu vực TPP!

4. Thương mại đối với sản phẩm biến đổi gen

Các thành viên TPP cam kết, khi luật pháp trong nước cho phép, sẽ phổ biến cho công chúng các hồ sơ cần thiết để đăng ký lưu hành các sản phẩm biến đổi gen, danh mục các sản phẩm biến đối gen đã được phép lưu hành...

Nước xuất khẩu sản phẩm thực vật chứa công nghệ biến đổi gen chỉ phải cung

cấp cho nước nhập khẩu kết quả đánh giá rủi ro và phương pháp đánh giá.

Tám cơ hội, bảy thách thức…Bộ NN&PTNT đánh giá TPP có 8 cơ hội chính,

7 thách thức và đề ra 7 giải pháp:

Về Cơ hội

1. Mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng cường tiếp cận các thị trường lớn nhất

thế giới với ưu thế đáng kể.

2. Tham gia vào những chuỗi cung ứng toàn cầu;

3. Tạo động lực và sức ép cho doanh nghiệp trong nước đầu tư sản xuất trong nước theo hướng giảm xuất khẩu nguyên liệu và sơ chế, đầu tư phát triển chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng, tăng cường xuất khẩu sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao;

4. Tăng cường cơ hội tiếp cận vốn và khoa học công nghệ thông qua đầu tư

trực tiếp nước ngoài (FDI);

5. Tăng cơ hội việc làm, cải thiện thu nhập cho người lao động;

6. Nâng cao trình độ, tay nghề cho người lao động;

55

7. Tạo thêm động lực phát triển ngành, phát triển kinh tế và xã hội

8. Tạo động lực đẩy nhanh quá trình hoàn thiện thể chế và môi trường chính

sách; thúc đẩy tính minh bạch của môi trường chính sách

Bảy thách thức

1. Hạn chế về năng lực cạnh tranh

2. Khó khăn trong việc đáp ứng được các yêu cầu về quy tắc xuất xứ do sự phụ

thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu

3. Thiếu thông tin, nghiên cứu, phân tích và dự báo thị trường thế giới, thị

trường nhập khẩu và thị trường trong nước.

4. Thiếu vốn và công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ kỹ thuật thông minh

nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu và kiểm soát dịch bệnh.

5. Hạn chế về trình độ lao động và nguồn nhân lực.

6. Hạn chế trong việc vận dụng công cụ hữu ích trong thương mại quốc tế nhằm

tái lập công bằng thương mại và giải quyết tranh chấp

7. Môi trường chính sách chưa hoàn thiện đầy đủ; chưa được thực hiện đồng bộ

và thiếu biện pháp chế tài, tồn tại hạn chế trong thực thi quy định.

Bảy giải pháp

1. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hóa nông lâm thủy

sản Việt Nam

2. Tăng cường nhân lực; nâng cao năng suất lao động; phát triển lực lượng lao

động tiên tiến phục vụ cho ngành

3. Đẩy nhanh quá tái cơ cấu ngành theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát

triển bền vững, giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu

4. Khẩn trương hoàn thiện môi trường chính sách; nâng cao năng lực thực thi

pháp luật và các quy định khác

5. Nâng cao năng lực phân tích và dự báo thị trường;

6. Nâng cao khả năng vận dụng cam kết và các biện pháp được áp dụng trong

các FTAs

7. Tăng cường năng lực cho Hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp Việt Nam

56

trong bối cảnh hội nhập kinh tế./.

MỘT SỐ CAM KẾT CỦA VIỆT NAM VỀ NÔNG NGHIỆP TRONG TPP

1. Thịt bò: Sau 3-8 năm, thuế nhập khẩu với thịt bò và sản phẩm từ thịt bò

sẽ được miễn (hiện cao nhất là 34%)

2. Thịt lợn: Sau 5-10 năm, thuế nhập khẩu với thịt lợn và sản phẩm từ thịt

lợn sẽ được miễn (hiện cao nhất là 30%).

3. Gia cầm: Sau không quá 13 năm, thuế nhập khẩu với gia cầm và sản phẩm từ thịt gia cầm sẽ được miễn (hiện cao nhất là 40$. Sau 6 năm sẽ bỏ hạn ngạch với trừng.

4. Sữa: Sau không quá 5 năm, thuế nhập khẩu sẽ được miễn (hiện cao nhất

là 20%). Thuế nhập khẩu với pho-mai, sữa bột được miễn ngay lập tức.

5. Thực phẩm chế biến: Sau không qua 12 năm, thuế nhập khẩu hầu hết

thực phẩm chế biến sẽ được miễn (hiện cao nhất là 55%).

6. Gạo: Thuế nhập khẩu sẽ được miễn ngay lập tức (hiện đang là 40%). Sau không quá 8 năm, thuế nhập khẩu với các sản phẩm từ gạo sẽ được miễn (hiện cao nhất là 34%).

7. Lúa mạch: Thuế nhập khẩu sẽ được khóa về 0%. Sau 4 năm thuế nhập

khẩu với lúa mạch xay được miễn (hiện là 15%).

8. Lúa mỳ: Sau không quá 4 năm, thuế nhập khẩu với lúa mỳ và sản phẩm

từ lúa mỳ sẽ được miễn (hiện cao nhất là 35%).

9. Ngô: Sau 4-7 năm, thuế nhập khẩu với Ngô và sản phẩm từ ngô sẽ được

miễn giảm (hiện cao nhất là 20%).

10. Đường: Sau 11 năm, hạn ngạch đường sẽ bị xóa bỏ. Sau không quá 11 năm, thuế nhập khẩu với các sản phẩm chứa đường sẽ được miễn (hiện cao nhất là 35%).

11. Rau: Sau không quá 11 năm, thuế nhập khẩu sẽ được miễn (hiện cao nhất là 40$. Trong đó, có nhiều loại rau và thức phẩm chế biến từ rau sẽ được miễn ngay lập tức.

12: Lạc (đậu phụng) Sau không quá 8 năm, thuế nhập khẩu với lạc và sản

phẩm từ lạc sẽ được miễn (hiện cao nhất là 30%).

13.Trái cây: Sau 3-4 năm, thuế nhập khẩu với nhiều hoa quả sẽ được miễn (hiện đang là 10% với táo, lê, cherry; 20% với cam; 40% với bưởi, 20% với chanh…). Sau không quá 8 năm, thuế nhập khẩu với trái cây đóng hộp sẽ được miễn (hiện cao nhất là 40%).

57

14. Khoai tây: Sau không quá 6 năm, thuế nhập khẩu với khoai tây và các sản phẩm từ khoai tây sẽ được miễn (hiện cao nahats là 34%). Sau 4 năm, thuế nhập khẩu với khoai tây chiên đông lạnh sẽ được miễn (hiện đang là 13%).

15. Thực phẩm chế biến: Sau không quá 12 năm, thuế nhập khẩu với hầu

hết thực phẩm chế biến sẽ được miễn (hiện cao nhất là 55%).

16. Bông: Không quá 4 năm, thuế nhập khẩu sẽ được miễn (hiện cao nhất

là 10%).

17. Thuốc lá: Sau 16 năm, thuế nhập khẩu sẽ được miễn (hiện đang là

135%)

18. Rượu, bia: Sau 11-12 năm, thuế nhập khẩu sẽ được miễn (hiện cao

58

nhất là 55% với rượu và 35% với bia).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

59

BỘ NGOẠI GIAO

------------

TÀI LIỆU QUÁN TRIỆT

NGHỊ QUYẾT 22/NQ-TW NGÀY 10/4/2013 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

-------------------------------

PHẦN MỞ ĐẦU

Sau 27 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, đất nước ta đã từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, mở rộng và làm sâu sắc hơn quan hệ với các nước, tham gia tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế. Có thể nói hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, tiếp thu tinh hoa của văn minh nhân loại, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm tin của mọi tầng lớp nhân dân và cộng đồng quốc tế vào sự nghiệp phát triển và đổi mới của đất nước, góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Trong giai đoạn cách mạng sắp tới, nhận thức sâu sắc về tình hình quốc tế và trong nước, phát huy những thành quả to lớn mà công cuộc đổi mới đã đạt được, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) đã đề ra chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Triển khai thực hiện chủ trương này, ngày 10 tháng 4 năm 2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế.

Nghị quyết 22-NQ/TW được ban hành là hết sức cần thiết và kịp thời vì:

Thứ nhất, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI đã chỉ rõ định hướng đối ngoại của nước ta là: “…chủ động và tích cực hội nhập quốc tế vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Đây là bước chuyển chiến lược lớn của Đảng ta, theo đó, hội nhập không còn giới hạn trong lĩnh vực kinh tế mà mở rộng ra cả các lĩnh vực khác như chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội v.v.; đồng thời diễn ra trên cả bình diện song phương, đa phương, ở cả tầm tiểu khu vực, khu vực, đến liên khu vực và toàn cầu; đồng thời liên quan đến công việc của tất cả các cấp, các ngành trong cả nước. Chủ trương này đặt ra nhiều nhiệm vụ mới cần phải được làm rõ và quán triệt, để triển khai thực hiện.

Thứ hai, trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực đang có những diễn biến hết sức phức tạp, để triển khai thực hiện thành công chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” của Đại hội XI, cần phải:

60

Một là, thống nhất ý chí, nhận thức và hành động; thể hiện được quyết tâm chính trị của Đảng coi hội nhập quốc tế là một quyết sách chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa, tạo nên được sự đồng thuận trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân;

Hai là, tạo được bước đột phá trong nhận thức và cách tiếp cận, tổ chức, điều hành; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế; năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, vượt qua các khó khăn, thách thức để đưa đất nước tiến lên;

61

Ba là, xác định mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp lớn tạo cơ sở cho việc xây dựng chiến lược hội nhập của đất nước, kế hoạch hành động của các cấp, các ngành; theo đó các cấp, các ngành, các lĩnh vực phối hợp chặt chẽ hơn để hỗ trợ lẫn nhau, bổ sung cho nhau trong quá trình hội nhập quốc tế.

PHẦN NỘI DUNG

Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị đã tổng kết đánh giá kết quả thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác của Đảng ta từ Đại hội IX đến nay, phân tích bối cảnh quốc tế và trong nước, trên cơ sở đó xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, và phương hướng nhiệm vụ hội nhập quốc tế của nước ta giai đoạn tới.

I. HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA NƯỚC TA

1. Quá trình phát triển tư duy của Đảng ta về hội nhập quốc tế

Xét từ nhiều góc độ, quá trình hội nhập quốc tế của nước ta đã bắt đầu từ khá lâu. Hội nhập chính trị thực tế đã bắt đầu từ khi Việt Nam trở thành thành viên Liên hợp quốc từ năm 1977 và hội nhập kinh tế cũng có thể coi là bắt đầu từ khi ta gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế năm 1978.7 Tuy nhiên, quá trình phát triển tư duy của Đảng ta về hội nhập quốc tế chỉ thực sự bắt đầu cùng với sự nghiệp đổi mới được Đại hội VI (1986) khởi xướng.

Đại hội VI đã có bước khởi đầu cho nhận thức về hội nhập, đó là lần đầu tiên thừa nhận quá trình quốc tế hoá các lực lượng sản xuất: “Một đặc điểm nổi bật của thời đại là cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá các lực lượng sản xuất”.8

Đến Đại hội VII (1991), nhận thức của Đảng ta về quá trình “quốc tế hoá” càng sâu sắc thêm và là tiền đề quan trọng để phát triển tư duy về hội nhập quốc tế. Như vậy, cho đến Đại hội VII, khái niệm hội nhập chưa xuất hiện, nhưng nhận thức của Đảng ta về quá trình “quốc tế hoá” là các tiền đề quan trọng để phát triển tư duy về hội nhập quốc tế. Trong thời kỳ này, trên thực tế, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã bắt đầu diễn ra với việc ta bình thường hoá quan hệ với Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tháng 10/1993.

7 Mặc dầu các chuẩn mực và nguyên tắc hợp tác có nhiều khác biệt so với các cơ chế hợp tác quốc tế hiện nay và Hội đồng Tương trợ Kinh tế đã bị giải thể năm 1991, nhưng xét theo các tiêu chí căn bản của hội nhập quốc tế, thì cũng có thể coi đây là một giai đoạn hội nhập quốc tế của nước ta.

8 Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V tại Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, website: www.cpv.org.vn, truy cập ngày 19/5/2013 9 Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, website: www.cpv.org.vn, truy cập ngày 19/5/2013

62

Thuật ngữ “hội nhập” được đề cập lần đầu tiên trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội VIII (1996) của Đảng: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới”.9 Chính trong giai đoạn này, hội nhập quốc tế của nước ta đã chính thức bắt đầu với việc gia nhập ASEAN (1995), tham gia AFTA (1996), ký Hiệp định hợp tác khung Việt Nam–Uỷ ban Châu Âu dựa theo các chuẩn mực quốc tế (1995), gia nhập Diễn đàn Hợp tác Á–Âu (ASEM) năm 1996, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á–Thái Bình Dương (APEC) năm 1998. Cũng trong giai đoạn

này, ta đã nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 1995, tuy nhiên quá trình đàm phán còn chậm và chưa được thúc đẩy mạnh mẽ.

Đến Đại hội IX (2001), lần đầu tiên thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế” được chính thức sử dụng trong văn kiện của Đảng. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã nhấn mạnh: ''Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế”.10 Quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế sau đó được thể hiện cụ thể trong Nghị quyết 07-NQ/TW của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khoá IX (2001) về hội nhập kinh tế quốc tế. Giai đoạn này, hội nhập quốc tế của nước ta đã bắt đầu đi vào chiều sâu với việc ký kết Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ có hiệu lực năm 2001, đẩy nhanh đàm phán gia nhập WTO, thực hiện AFTA v.v.

Đại hội X (2006) lần đầu tiên đề cập tới hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác (tới nay nhiều nội dung là hội nhập): “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác.”11 Giai đoạn này đánh dấu những thay đổi về chất trong hội nhập kinh tế quốc tế, thể hiện ở việc ta chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu WTO (2007). Những năm sau đó, quá trình hội nhập kinh tế hướng mạnh sang các thỏa thuận mậu dịch tự do (FTA) song phương và khu vực như Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện với Nhật Bản (JVEPA) năm 2008; Hiệp định khung về đối tác và hợp tác toàn diện với EU (PCA) năm 2010; FTA với Chi-Lê năm 2011; FTA của ASEAN với các đối tác; bắt đầu đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) năm 2010. Đồng thời, ta đã đảm nhận thành công vị trí ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, Chủ tịch ASEAN năm 2010, và tham gia một cách chủ động, tích cực, đóng góp có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề chung ở khu vực và thế giới. Cũng trong giai đoạn này, hợp tác quốc phòng-an ninh được mở rộng với việc ta tham gia một số cơ chế đối thoại về quốc phòng như ADMM, ADMM+. Các bộ, ngành chức năng cũng đã tích cực mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực chuyên ngành, tham gia ngày càng nhiều hơn vào các tổ chức quốc tế và khu vực. Có thể nói, trên thực tế, ta không chỉ hội nhập kinh tế quốc tế mà đã từng bước hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc phòng và các lĩnh vực khác.

10 Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, website: www.cpv.org.vn, truy cập ngày 19/5/2013 11 Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, website: www.cpv.org.vn, truy cập ngày 19/5/2013

63

Đại hội XI (2011) đánh dấu một bước chuyển căn bản trong tư duy của Đảng ta về Hội nhập khi thuật ngữ “hội nhập quốc tế” lần đầu tiên xuất hiện một cách chính thức trong văn kiện của Đại hội Đảng: “…chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội

chủ nghĩa giàu mạnh” 12. Triển khai thực hiện chủ trương này, ngày 10 tháng 4 năm 2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế. Đây là văn kiện quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, làm rõ mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nội dung cơ bản của hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực, và các định hướng giải pháp lớn để triển khai thực hiện.

2. Một số thành tựu và hạn chế

2.1 Về thành tựu

Nghị quyết chỉ rõ một số thành tựu cơ bản trong quá trình thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác của nước ta từ Đại hội IX đến nay, cụ thể là:

Thứ nhất, về đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần quan trọng giúp Việt Nam triển khai đường lối đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa. Qua 13 năm thực hiện chủ trương này, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước, là thành viên của hầu hết các tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng với vị thế và vai trò ngày càng được khẳng định. Quan hệ giữa nước ta với các nước trên thế giới ngày càng đi vào chiều sâu; hợp tác về chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội và các lĩnh vực khác được mở rộng.

Đến năm 2013, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 181 nước, quan hệ kinh tế với hơn 160 nước và 70 vùng lãnh thổ, và tham gia một cách có hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế và khu vực, trong đó có WTO. Hợp tác chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa-xã hội và các lĩnh vực khác được mở rộng. Ta đã tích cực đóng góp xây dựng Cộng đồng và phát huy vị thế, vai trò trung tâm của ASEAN, qua đó làm sâu sắc các mối quan hệ song phương với các nước thành viên ASEAN và các đối tác lớn. Nhiệm kỳ Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc 2008- 2009 và Chủ tịch ASEAN 2010 đã thể hiện được tinh thần độc lập tự chủ, qua đó nâng cao vị thế chính trị của Việt Nam trên trường quốc tế. Đồng thời, ta cũng đã tham gia và đóng góp một cách tích cực, có trách nhiệm vào việc giải quyết các vấn đề quan tâm chung của cộng đồng quốc tế như: xóa đói giảm nghèo, phát triển bền vững, môi trường, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, an ninh hạt nhân… Hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực an ninh, tình báo, quân sự cũng đã góp phần giúp chúng ta tăng cường lòng tin trong quan hệ với các đối tác quan trọng trong và ngoài khu vực, từ đó tạo được thế chủ động trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; ta cũng đã tích cực tăng cường các hoạt động thăm viếng, trao đổi thông tin, hợp tác chống khủng bố, phòng chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, cứu hộ, cứu nạn…

12 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, website: www.cpv.org, truy cập ngày 19/5/2013

64

Có thể nói, qua hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đã không ngừng mở rộng quan hệ đối ngoại, từng bước khẳng định được vị thế của một quốc gia thành công

trong đổi mới, tích cực và có trách nhiệm trong hợp tác quốc tế; tăng cường sự hiểu biết của cộng đồng quốc tế về văn hoá, con người và đất nước Việt Nam.

Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện giúp cho thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện năng lực cạnh tranh quốc gia và của các doanh nghiệp ngày càng được nâng cao; mở rộng thị trường, tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, tri thức, công nghệ và các nguồn lực quan trọng khác, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Minh chứng tiêu biểu cho thành tựu này là việc sau khi gia nhập WTO, thể chế kinh tế thị trường của Việt Nam đã có sự chuyển biến tích cực, các yếu tố của kinh tế thị trường ngày càng được hoàn thiện, phù hợp hơn với chuẩn mực quốc tế và định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc thực hiện cam kết WTO cũng như các cam kết quốc tế khác đã góp phần hình thành về cơ bản các thị trường hàng hóa, dịch vụ, tài chính- tiền tệ, bất động sản, lao động, khoa học-công nghệ v.v. Môi trường pháp lý minh bạch hơn, bình đẳng hơn, mức độ mở cửa cao hơn sau khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, cùng với các điều kiện ưu đãi trong các hiệp định thương mại, đầu tư mà Việt Nam đã tham gia là những yếu tố quan trọng nhất thu hút các nguồn vốn đầu tư tại Việt Nam. Nếu trong thời kỳ 2001-2006 tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 13,3% bình quân hàng năm thì đến năm 2007 (năm đầu tiên sau khi Việt Nam được chấp thuận gia nhập WTO ngày 7/11/2006) đã tăng cao kỷ lục tới 27,0%13. Có thể nói, hội nhập quốc tế đã giúp chúng ta xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước cải thiện được vị thế của Việt Nam trên bản đồ kinh tế của khu vực và thế giới.

Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra sự đổi mới mạnh mẽ tư duy về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trong quá trình hội nhập quốc tế, nước ta ngày càng gắn kết chặt chẽ với thế giới và khu vực trên nhiều lĩnh vực. Nhờ đó, tư duy và nhận thức của chúng ta về các vấn đề liên quan đến xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng đã có nhiều bước phát triển mới, phù hợp với tình hình đất nước và thời đại, đặc biệt là trên các vấn đề: kết hợp sức mạnh dân tộc với thời đại; độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; mức độ ưu tiên của các lợi ích an ninh, phát triển và vị thế quốc tế; v.v.

2.2. Về hạn chế

Nghị quyết đã thẳng thắn chỉ rõ “bên cạnh kết quả đạt được, hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ đối ngoại còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém”, cụ thể là:

13 Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với nền kinh tế Việt Nam sau ba năm Việt Nam gia nhập WTO, , tr.63

65

Thứ nhất, chủ trương của Đảng chưa được quán triệt đầy đủ, chậm được cụ thể hóa và thể chế hóa. Các cấp, các ngành, tổ chức và cá nhân chưa nhận thức rõ và chủ động tận dụng các cơ hội mới mở ra, đồng thời chưa thấy rõ thách thức mới nảy sinh để chủ động ứng phó. Thể chế, chính sách, chất lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ

tầng chậm được cải thiện, năng lực đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập. Các chính sách và luật pháp của nước ta còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo và trái với các chuẩn mực quốc tế.

Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển bền vững, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Cơ chế chỉ đạo, điều hành, giám sát và phối hợp thực hiện quá trình hội nhập, từ trung ương đến địa phương, giữa các ban, ngành còn nhiều bất cập. Hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác chưa được tiến hành đồng bộ với quá trình gia tăng liên kết giữa các vùng, miền trong cả nước. Ngoài ra, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng chậm được cải thiện, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thấp; chủ yếu khai thác tiềm năng sẵn có; chưa tạo nên năng lực cạnh tranh mới; sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm thô với giá trị gia tăng thấp, làm cho chúng ta chịu nhiều thua thiệt và rủi ro; năng lực cán bộ làm công tác hội nhập chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.

Hội nhập cũng dẫn đến phát sinh một số hệ quả tiêu cực, cả về xã hội và môi trường; chênh lệch mức độ phát triển giữa các vùng, miền ngày càng gia tăng; nhiều bộ phận dân cư không được hưởng lợi, thậm chí bị tác động tiêu cực từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt; vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm, môi trường ở nhiều nơi trở nên trầm trọng.

Thứ ba, hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh chưa được phát huy đầy đủ, chưa gắn kết chặt chẽ với hội nhập kinh tế quốc tế; hợp tác về văn hóa, xã hội và một số lĩnh vực khác chưa sâu rộng. Thời gian qua, các hoạt động hợp tác quốc tế trong nhiều lĩnh vực chưa được tiến hành trong một chiến lược tổng thể để phối hợp chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho hội nhập kinh tế quốc tế và ngược lại. Các khuôn khổ hợp tác được xác lập với nhiều nước chưa được bổ sung nội hàm một cách phong phú và thiết thực; chưa tạo dựng được mối quan hệ đan xen lợi ích một cách vững chắc giữa nước ta với các đối tác. Đồng thời, chúng ta vẫn còn thiếu sự chủ động và sáng tạo trong tham gia và thực hiện các cam kết, chuẩn mực, sáng kiến quốc tế trên các lĩnh vực văn hóa, xã hội. Nhìn chung, mức độ hội nhập trong các lĩnh vực này chưa sâu và trong nhiều trường hợp còn bị động. Khuynh hướng nặng về tiếp nhận sự trợ giúp quốc tế đa phương, song phương và tổ chức phi chính phủ còn phổ biến.

3. Nhận thức về hội nhập quốc tế trong giai đoạn tới

66

Trong giai đoạn tới, quá trình hội nhập quốc tế của nước ta đứng trước nhiều thuận lợi lẫn khó khăn, thách thức. Công cuộc đối mới và mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới giai đoạn vừa qua đã tạo nên thế và lực mới. Đây là nền tảng cần thiết để thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước. Mặt khác, do quá trình hội nhập quốc tế đã bước sang một giai đoạn mới, một nấc thang cao hơn với nhiều nội dung và đặc điểm mới, thách thức đặt ra đối với chúng ta là phải có được nhận thức rõ ràng và thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân về hội nhập quốc tế,

nhằm triển khai thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế một cách thống nhất, hiệu quả và thành công.

3.1. Nhận thức chung về hội nhập quốc tế

Trên cơ sở tổng kết quá trình đổi mới tư duy về hội nhập quốc tế của Đảng ta và tiếp thu các quan điểm phổ biến về hội nhập quốc tế trên thế giới phù hợp với thực tiễn của nước ta, có thể nhận thức hội nhập quốc tế của nước ta trong giai đoạn tới thực chất là giai đoạn phát triển cao của hợp tác quốc tế, là quá trình áp dụng và tham gia xây dựng các quy tắc và luật lệ chung của cộng đồng quốc tế, phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc của Việt Nam.

Hợp tác quốc tế có thể hiểu là quá trình các nước giao lưu hoặc hành động cùng nhau để đạt được một mục tiêu nào đó. Có thể hợp tác quốc tế thành ba mức độ cơ bản, là: (i) Trao đổi, tham vấn giữa các nước với nhau để chia sẻ thông tin, quan điểm, lập trường; (ii) Phối hợp chính sách, tức là các quốc gia có sự thỏa thuận với nhau trong việc thực thi các chính sách của mình nhằm đạt được các mục tiêu nhất định; và (iii) Xây dựng và thống nhất áp dụng luật lệ, chuẩn mực chung một cách ổn định, từ đó hình thành nên các luật lệ, thể chế, chuẩn mực quốc tế chung điều tiết chính sách của các quốc gia. Đây chính là hội nhập quốc tế.

Về mục tiêu, hội nhập quốc tế cũng như các hình thức hợp tác quốc tế khác đều

vì lợi ích quốc gia, dân tộc.

Về hình thức, hội nhập quốc tế có thể bao gồm các hoạt động như: thúc đẩy quan hệ hợp tác song phương dựa trên cơ sở các chuẩn mực quốc tế; gia nhập các tổ chức quốc tế, áp dụng và tham gia xây dựng chuẩn mực của các tổ chức đó; tham gia hoặc tiến hành các hoạt động quốc tế có áp dụng các chuẩn mực quốc tế (bao hàm hoạt động của cả Nhà nước, tổ chức và cá nhân).

Về trình tự, quá trình hội nhập diễn ra trong mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đến các lĩnh vực khác. Hội nhập trên các lĩnh vực có mối liên hệ hữu cơ mật thiết, đan xen, tác động qua lại lẫn nhau. Tuy nhiên, thực tế ở nước ta cũng như các nước trên thế giới cho thấy, thông thường hội nhập kinh tế quốc tế là lĩnh vực đi đầu và là cơ sở vững chắc cho hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực khác, đồng thời hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực khác cũng tạo nên môi trường thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế.

Về chủ thể, không chỉ nhà nước, mà cả các chủ thể phi nhà nước như doanh nghiệp, người dân, các tổ chức xã hội v.v. đều tham gia khá tích cực vào quá trình hội nhập quốc tế. Tùy theo từng lĩnh vực của hội nhập quốc tế, mà vai trò, mức độ tham gia của mỗi loại chủ thể có thể khác nhau. Chính sự đa dạng về chủ thể tạo nên một sự đan xen nhiều cấp độ, tầng nấc trong hội nhập quốc tế.

3.2. Nhận thức về hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực

67

Thứ nhất, trong lĩnh vực chính trị, ở phạm vi toàn cầu, về cơ bản các nước trên thế giới đều là thành viên của Liên hợp quốc – một tổ chức quốc tế có mức độ thể chế

hoá khá cao với các cơ chế ràng buộc trách nhiệm và trừng phạt các thành viên vi phạm trong một số lĩnh vực. Sự khác biệt chính về cấp độ hội nhập trong lĩnh vực chính trị là ở các cơ chế hội nhập khu vực.

Dựa trên mức độ thể chế hoá, có thể phân chia hội nhập về chính trị thành 3 cấp độ từ thấp đến cao là: (i) Tham gia các hiệp hội hoặc các liên kết lỏng lẻo, ví dụ như ASEAN trước khi có Hiến chương. Cho đến trước ngày 15/12/2008 (khi Hiến chương ASEAN có hiệu lực), ASEAN vẫn là một cơ chế, không có các chuẩn mực ràng buộc các thành viên về chính trị; (ii) Tham gia các tổ chức quốc tế có hiến chương như Tổ chức Thống nhất Châu phi (OAU), Tổ chức Các Quốc gia Châu Mỹ (OAS), hay ASEAN (khi Hiến chương ASEAN đã có hiệu lực và đặc biệt là khi ASEAN bắt đầu trở thành Cộng đồng từ 2015); và (iii) Tham gia các tổ chức siêu quốc gia, trong đó các nước thành viên chấp nhận chuyển giao một số thẩm quyền quốc gia cho tổ chức. EU có thể coi là một mô hình hội nhập chính trị ở cấp độ này.

Thứ hai, trong lĩnh vực kinh tế, hội nhập quốc tế gồm cả việc Nhà nước chấp nhận, tham gia xây dựng và thực thi các luật lệ và chuẩn mực chung; và các tổ chức, cá nhân tham gia các hoạt động kinh tế quốc tế dựa trên các luật lệ và chuẩn mực chung đó.

Từ góc độ nhà nước, dựa trên phạm vi và mức độ cam kết, có thể phân chia hội nhập kinh tế quốc tế thành năm cấp độ từ thấp đến cao là: (i) Tham gia các thỏa thuận thương mại ưu đãi, ví dụ như: Hiệp định thương mại ưu đãi của ASEAN (1977), Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) năm 1947, Hiệp định Thương mại song phương Việt-Mỹ (2001).v.v.; (ii) Tham gia các thỏa thuận thương mại tự do (FTA)14; (iii) Tham gia các liên minh thuế quan, tức là các FTA trong đó các nước tham gia áp dụng chung một chính sách thuế quan với các đối tác bên ngoài ví dụ như: Nhóm ANDEAN15, Liên minh thuế quan Nga-Bêlarút-Cadăcxtan v.v. ; (iv) Tham gia thị trường chung, tức là các liên minh thuế quan, trong đó các yếu tố sản xuất (vốn, lao động) được tự do di chuyển giữa các nước thành viên; và (v) Tham gia liên minh kinh tế - tiền tệ như EU hiện nay.16

14 Các FTA mà các nước tham gia ngày nay gồm 4 thế hệ: (i) tự do hoá thương mại hàng hoá; (ii) tự do hoá hàng hoá và một phần dịch vụ; (iii) tự do hoá dịch vụ và đầu tư; và (iv) tự do hoá thương mại, dịch vụ đầu tư kèm theo các tiêu chuẩn trong một số lĩnh vực phi thương mại (tiêu chuẩn xã hội, lao động, môi trường v.v.). 15 Tổ chức thương mại gồm các nước Bolivia, Chile, Colombia, Ecuador và Peru được thành lập năm 1969. 16 Gần đây trong bối cảnh phải đối phó với khủng hoảng nợ, EU đã phải bổ sung thêm các cam kết về tài khoá trong liên minh.

68

Thứ ba, trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, dựa trên mức độ cam kết và phạm vi tham gia, có thể phân chia hội nhập quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh thành bốn cấp độ từ thấp đến cao là: (i) Tham gia các diễn đàn hợp tác an ninh như Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), các diễn đàn để giải quyết các vấn đề phòng chống tội phạm, chống khủng bố, đối phó với các vấn đề an ninh phi truyền thống v.v.; (ii) Tham gia vào các hoạt động quân sự và trao đổi quân sự trên thực tế như: hợp tác công nghiệp quốc phòng, đào tạo, huấn luyện

quân đội, các hoạt động gìn giữ hoà bình, các hoạt động diễn tập chung, các hoạt động chống khủng bố quốc tế, chống tội phạm xuyên quốc gia, kiểm soát phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt v.v.; (iii) Tham gia các dàn xếp an ninh tập thể như Liên đoàn Ả- rập, Tổ chức các Quốc gia châu Mỹ (OAS), Tổ chức Thống nhất châu phi (OAU) v.v;17 và (iv) Tham gia vào các liên minh quân sự như: các hiệp ước liên minh quân sự song phương của Mỹ với một số nước, liên minh quân sự đa phương như Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO).

Thứ tư, trong các lĩnh vực khác, hội nhập quốc tế bao gồm cả việc Nhà nước chấp nhận, tham gia xây dựng và thực thi các luật lệ và chuẩn mực chung quốc tế; và các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia vào các hoạt động hợp tác, giao lưu, trao đổi quốc tế dựa trên các luật lệ và chuẩn mực chung.

Từ góc độ Nhà nước, một số hình thức hội nhập quốc tế tiêu biểu trong các lĩnh vực này gồm: (i) Ký kết các thoả thuận, điều ước quốc tế hợp tác song phương trong các lĩnh vực dựa trên một số chuẩn mực chung như: các thoả thuận công nhận bằng cấp của nhau, các thoả thuận bảo tồn, thúc đẩy các giá trị văn hoá–nghệ thuật v.v.; (ii) Gia nhập, tham gia đàm phán xây dựng các điều ước quốc tế đa phương trong các lĩnh vực;18 và (iii) Tham gia các tổ chức hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực chuyên ngành như Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc, Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới, Tổ chức Lao động Quốc tế v.v. Trên thực tế, các nước đều tham gia vào hầu hết các hình thức hội nhập trên, do đó khó có thể phân chia cấp độ hội nhập quốc tế của các nước trong các lĩnh vực này một cách rõ ràng được.

II. BỐI CẢNH, MỤC TIÊU VÀ QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO

1. Bối cảnh

17 Trong tương lai, cộng đồng chính trị-an ninh mà ASEAN hướng tới cũng có thể trở thành một hình thức của dàn xếp an ninh tập thể. 18 Một số công ước quốc tế tiêu biểu trong các lĩnh vực này như: Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật 1886; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá 1966; Công ước quốc tế về đa dạng sinh học 1992; v.v.

69

Trong giai đoạn tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục chuyển biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất trắc khó lường; hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, nhưng xung đột tôn giáo, sắc tộc, tranh giành tài nguyên và lãnh thổ có thể gia tăng; kinh tế thế giới tiếp tục bị tác động tiêu cực từ khủng hoảng tài chính-kinh tế; hội nhập quốc tế đang phát triển mạnh mẽ, thu hút sự tham gia của hầu hết các nước trên thế giới, gia tăng mức độ tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước; các cơ chế đa phương, các tổ chức quốc tế có vai trò ngày càng quan trọng trong mọi mặt của đời sống nhân loại; khu vực Châu Á–Thái Bình Dương phát triển năng động với mức độ liên kết ngày một gia tăng và đang trở thành trung tâm phát triển của thế giới. Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) tiến tới hình thành Cộng đồng và tiếp tục giữ vai trò trung tâm trong nhiều cơ chế hợp tác khu vực.

Nước ta đã trở thành một nước có mức thu nhập trung bình, song cũng đang đứng trước những thách thức lớn cả về an ninh và phát triển. Nhiệm vụ cấp bách là phải thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển, nhanh chóng nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, đối phó một cách hiệu quả với các thách thức về an ninh, trong đó có thách thức đối với chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Tình hình mới đòi hỏi nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, thực hiện thành công chủ trương hội nhập quốc tế của Đảng để phát huy tối đa sức mạnh của dân tộc, tranh thủ hiệu quả sức mạnh của thời đại.

2. Mục tiêu

Nghị quyết xác định “Hội nhập quốc tế phải nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

Như vậy, Nghị quyết đã xác định hội nhập quốc tế trong thời gian tới phải hướng tới cả ba nhóm mục tiêu cơ bản của đối ngoại là phục vụ phát triển, bảo đảm an ninh và nâng cao vị thế quốc tế của đất nước. Về phát triển, hội nhập quốc tế cần góp phần giúp nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững đồng thời góp phần triển khai ba đột phá chiến lược, hướng tới tham gia vào những nấc thang cao hơn trong mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài, nhất là nguồn vốn, công nghệ tiên tiến, để tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Về an ninh, hội nhập quốc tế phải góp phần thực hiện phương châm thêm bạn, bớt thù, tạo dựng mối quan hệ bền chặt và gia tăng tính tùy thuộc lẫn nhau giữa nước ta và các quốc gia khác, nâng cao vai trò trong các tổ chức quốc tế, đóng góp tích cực hơn cho phát triển và bảo vệ an ninh chính trị, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Về vị thế, hội nhập phải đóng góp một cách chủ động, tích cực và có trách nhiệm, cho hoà bình, ổn định, tăng cường hợp tác, phát triển và thịnh vượng của thế giới; đồng thời, góp phần gia tăng sự hiểu biết của thế giới về đất nước, con người và văn hóa Việt Nam; bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; tiếp thu tri thức tiên tiến và tinh hoa văn hóa của nhân loại;

3. Quan điểm chỉ đạo

70

Do hội nhập quốc tế của nước ta trong giai đoạn tới có phạm vi bao trùm rộng rãi tất cả các lĩnh vực và bao gồm cả các thành tố đối nội và đối ngoại, Nghị quyết đã nêu rõ quan điểm chỉ đạo chung là “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; quán triệt và vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm và giải quyết tốt

các mối quan hệ lớn được tổng kết trong Cương lĩnh”.19 Đây cũng chính là các nguyên tắc lớn, gắn với đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta, đã được cụ thể hoá trong các văn kiện của Đại hội XI, đặc biệt là Cương lĩnh (bổ sung và phát triển năm 2011). Bên cạnh quan điểm chỉ đạo chung, Nghị quyết cũng nhấn mạnh sáu quan điểm chỉ đạo cụ thể:

3.1. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn của Đảng và Nhà nước nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, chúng ta từ chính sách phá bao vây cấm vận, từng bước hội nhập quốc tế, đưa đất nước tham gia vào toàn cầu hóa-một xu thế lớn của thời đại, đến nay đã coi hội nhập quốc tế toàn diện là định hướng chiến lược lớn. Việc xác định hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn vừa thể hiện phương châm “chủ động và tích cực” trong hội nhập quốc tế, vừa định vị hội nhập quốc tế như là một định hướng chiến lược để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế thời gian tới. Xác định hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn, các bộ, ban, ngành, địa phương, các tổ chức và cá nhân cần luôn coi hội nhập quốc tế là nội dung thường xuyên và quan trọng trong quá trình hoạch định các chiến lược, kế hoạch, cũng như trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình; đầu tư thích đáng nguồn lực cho hội nhập quốc tế, xử lý tối ưu thách thức và tận dụng hiệu quả các cơ hội mà hội nhập quốc tế mang lại cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình.

Quan điểm chỉ đạo này dựa trên một số cơ sở sau:

Một là, hội nhập quốc tế ngày nay là một xu thế khách quan, thu hút sự tham gia của hầu hết các nước trên thế giới. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, các quốc gia không thể tự biệt lập mình trong không gian toàn cầu. Sự tương tác giữa quốc gia và môi trường quốc tế ngày càng gia tăng, tính tùy thuộc lẫn nhau ngày càng lớn. Do đó, một cách tự nhiên, các quốc gia chủ động phát triển các luật lệ và chuẩn mực chung nhằm thúc đẩy hợp tác, tranh thủ những xu hướng, điều kiện quốc tế theo hướng có lợi cho quốc gia – dân tộc mình nhất. Hầu như tất cả các quốc gia đều là thành viên của một tổ chức khu vực hoặc thể chế đa phương quốc tế nào đó, rất ít quốc gia nằm ngoài hoặc biệt lập hoàn toàn với khu vực hay với thế giới. Đặc biệt, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động với mức độ liên kết ngày một gia tăng và trở thành trung tâm của hội nhập quốc tế trên thế giới. ASEAN cũng đang tiến tới hình thành Cộng đồng vào 2015 và tiếp tục giữ vai trò trung tâm trong các cơ chế hợp tác khu vực. Có thể nói, ngày nay hội nhập quốc tế, thông qua việc tham gia hữu hiệu vào quá trình toàn cầu hoá và liên kết khu vực, đã trở thành một phương thức cơ bản phổ biến của các nước.

19 Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế

71

Hai là, hội nhập quốc tế có thể được coi là một phương cách hữu hiệu giúp các nước giải quyết các vấn đề an ninh và phát triển đang đặt ra cấp bách. Hội nhập quốc

tế giúp các quốc gia chủ động hợp tác, thiết lập các khuôn khổ pháp lý nhằm điều tiết sự tùy thuộc lẫn nhau, xử lý các thách thức toàn cầu và khu vực đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát và năng lực tự chủ của từng quốc gia riêng lẻ. Chính vì vậy, hội nhập quốc tế tạo cơ hội sử dụng ngày càng nhiều hơn các nguồn lực bên ngoài để giải quyết các vấn đề trong nước. Đặc biệt, hội nhập quốc tế giúp các nước vừa và nhỏ có thể dựa vào các luật lệ và chuẩn mực quốc tế để được bình đẳng hơn với các nước, hạn chế việc lạm dụng sức mạnh bất tương xứng và các hành vi đơn phương của các nước lớn hơn. Thực tiễn của nước ta những năm qua cũng đã cho thấy hội nhập quốc tế đã giúp Việt Nam huy động được nguồn lực bên ngoài, nâng cao vị thế quốc tế, qua đó tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia, tận dụng các cơ chế quốc tế để giải quyết các vấn đề an ninh và phát triển của đất nước. Đây là một minh chứng thực tiễn cho sự đúng đắn của đường lối đổi mới, hội nhập quốc tế của Đảng ta và là tiền đề quan trọng cho chủ trương “tích cực, chủ động hội nhập quốc tế” trong giai đoạn tới.

3.2. Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị

dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.

Quan điểm chỉ đạo này đã được kế thừa và phát triển từ Nghị quyết 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng nhấn mạnh tầm quan trọng và làm rõ hơn yêu cầu phải phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân trong việc thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế.

Trong giai đoạn tới, chủ thể của hội nhập quốc tế ở nước ta không chỉ dừng lại ở cấp nhà nước, chính phủ, mà còn mở rộng ra tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị-xã hội, doanh nghiệp và công dân Việt Nam trong và ngoài nước. Do đó, mọi chủ trương, chính sách cần phải “phát huy tính chủ động, tích cực và khả năng sáng tạo của tất cả các tổ chức, cá nhân, khai thác hiệu quả các tiềm năng của toàn xã hội, của các tầng lớp nhân dân, bao gồm cả cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Việc tái khẳng định quan điểm này có ý nghĩa quan trọng: (i) khẳng định vị trí vai trò của nhân dân đối với quá trình Hội nhập quốc tế ở nước ta; mặc dù quá trình hội nhập bắt đầu từ cam kết của nhà nước, song chỉ có sự ủng hộ, và thực hiện một cách tự giác của nhân dân mới là điều kiện tiên quyết để quá trình hội nhập đạt kết quả, nói cách khác, hành động tự giác của nhân dân bao gồm cả doanh nhân chính là nhân tố thực hiện và bảo đảm thắng lợi cho hội nhập quốc tế; (ii) từ vị trí, vai trò quan trọng đó của nhân dân, mọi cơ chế, chính sách về hội nhập quốc tế phải được triển khai theo hướng huy động đông đảo nhân dân trong và ngoài nước tham gia, phát huy sự chủ động, sáng tạo nhằm đạt tới mục tiêu đem lại lợi ích tối đa cho người dân; một mặt, tạo cơ chế công bằng hơn đối với người dân trong việc tiếp cận các cơ hội, mặt khác giảm mức độ tổn thương, thách thức mà hội nhập quốc tế có thể gây ra đối với các nhóm dân cư khác nhau.

72

3.3. Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực

Phát huy được nội lực là cơ sở để bảo đảm tranh thủ được các cơ hội và đối phó hiệu quả với các thách thức của hội nhập quốc tế. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cũng cho thấy, chuẩn bị tốt các điều kiện bên trong cho hội nhập sẽ giúp các quốc gia tận dụng được tối đa cơ hội, giảm thiểu được các tác động tiêu cực của hội nhập. Trong nhiều năm qua, công tác hội nhập quốc tế của ta chỉ tập trung vào việc gia nhập, tham gia chứ chưa chú trọng đến việc tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; các bước đi còn chậm và chưa có tính đột phá; các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và cả người dân đều chưa được chuẩn bị tốt để đối phó hiệu quả với các thách thức và tranh thủ kịp thời các cơ hội mở ra của quá trình hội nhập quốc tế, khiến cho quá trình hội nhập chưa đạt được hiệu quả cao nhất, tương xứng với kỳ vọng và tiềm năng sẵn có. Do đó, việc chuẩn bị thật tốt nội lực, các điều kiện bên trong, là hết sức quan trọng để hội nhập quốc tế có hiệu quả.

Nghị quyết cũng đã nêu rõ phương thức huy động nguồn nội lực phục vụ cho hội nhập quốc tế, cụ thể là gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; hiện đại hóa kết cấu hạ tầng; nâng cao sức mạnh tổng hợp và năng lực cạnh tranh quốc gia; gắn kết chặt chẽ hội nhập quốc tế với việc tăng cường mức độ liên kết giữa các vùng, miền, khu vực trong cả nước.

3.4. Hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm, được triển khai đồng bộ với hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực khác; hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội.

Như vậy, Nghị quyết đã xác định rõ thứ tự ưu tiên và mối quan hệ giữa các lĩnh vực trong quá trình hội nhập quốc tế thời gian tới với trọng tâm là Hội nhập kinh tế. Nội dung này phản ánh rất rõ quá trình đổi mới tư duy cũng như thực tiễn triển khai hội nhập quốc tế ở nước ta thời gian qua: Hội nhập kinh tế là lĩnh vực đi đầu, mở đường cho các lĩnh vực hội nhập khác. Song, cũng cần lưu ý, trong một số trường hợp, hội nhập chính trị, hoặc thậm chí là hội nhập văn hóa- xã hội cũng có thể trở thành động thái khai thông bế tắc, tạo điều kiện cho các hợp tác về kinh tế sâu hơn tiếp theo đó. Trong tất cả các tiến trình hội nhập, cần quán triệt chủ trương: hội nhập trong các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước.

3.5. Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên định lợi ích quốc gia, dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu.

Như vậy, một lần nữa tính chất hai mặt của hội nhập quốc tế lại được quán triệt đầy đủ nhằm nhận thức rõ cả hai mặt cơ hội và thách thức của quá trình này. Bản chất của hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; hợp tác về các lĩnh vực có lợi ích nhưng không từ bỏ đấu tranh đối với các vấn đề bất lợi; trong đấu tranh bảo vệ lợi ích của đất nước không để đổ vỡ hợp tác. Nhận thức rõ điều này sẽ giúp chúng ta không chủ quan, nhưng cũng không thụ động; tranh thủ cơ hội mà hội nhập quốc tế 73

có thể mang lại, nhưng phải cảnh giác phòng ngừa trước những thách thức của hội nhập quốc tế.

Trong xử lý các vấn đề nảy sinh của quá trình hội nhập quốc tế, cho dù ở mặt hợp tác hay đấu tranh, thì nguyên tắc tối thượng vẫn là vì lợi ích quốc gia, dân tộc; xử lý linh hoạt và khôn khéo mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh; không để rơi vào thế bị động, đối đầu; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc. Đây cũng là chính khuôn khổ của hội nhập quốc tế: đấu tranh không đi đến đối đầu; hợp tác không đến mức tập hợp lực lượng, liên minh với bên này để chống bên kia.

3.6. Nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia, đi đôi với chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế.

Quan điểm chỉ đạo này làm rõ nội hàm của phương châm “chủ động, tích cực” trong hội nhập quốc tế: chủ động, tích cực trước hết là tuân thủ các cam kết; cao hơn nữa là chủ động, tích cực trong tham gia xây dựng, đề xuất các sáng kiến, cơ chế hợp tác; và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật pháp quốc tế. Quan điểm này cũng có vai trò như định hướng tham gia của ta. Từ trước tới nay, ta tập trung vào “nghiêm chỉnh tuân thủ” các cam kết, nay trong giai đoạn hội nhập sâu, rộng hơn, cần chủ động tham gia tích cực trong xây dựng luật lệ quốc tế và tận dụng các khuôn khổ luật lệ quốc tế phù hợp với lợi ích quốc gia của ta.

III. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Trong giai đoạn tới, để đạt được các mục tiêu hội nhập quốc tế và trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo trên, Nghị quyết đã nhấn mạnh cần thực hiện tốt một số phương hướng, nhiệm vụ hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực cụ thể như sau:

1. Trong lĩnh vực kinh tế Hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng và

cơ cấu lại nền kinh tế, theo đó:

Thứ nhất, chúng ta sẽ “tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới trong tình hình mới gắn với các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhất là nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế”.

74

Các nhiệm vụ chính mà chúng ta cần thực hiện thời gian tới, căn cứ trên các chủ trương, chính sách của Nghị quyết Trung ương 4 khóa X bao gồm: xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế; xây dựng và phát triển đồng bộ các yếu tố kinh tế thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu quả đầu tư; nâng cao năng lực cạnh tranh; cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế; chú trọng giáo dục- đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển

nông thôn; thực hiện chính sách an sinh xã hội; bảo vệ môi trường và phát triển bền vững; bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa dân tộc và bảo đảm an ninh, quốc phòng20.

Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế phải được tăng cường về chiều sâu, hiệu quả, theo đó cần phải: “không ngừng cải thiện môi trường thu hút đầu tư nước ngoài, gắn thu hút đầu tư với giám sát quá trình thực thi, bảo đảm an ninh kinh tế, hiệu quả kinh tế - xã hội – môi trường. Đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu đầu tư công, khuyến khích các hoạt động đầu tư tư nhân và các hoạt động hợp tác công – tư. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư; quản lý chặt chẽ nợ công, bao gồm cả vay nợ nước ngoài.”

Thứ ba, thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế mà ta đã tham gia. Đến nay, ta đã là thành viên của nhiều cơ chế kinh tế đa phương quan trọng ở cả cấp độ khu vực lẫn toàn cầu. Trong giai đoạn tới, việc tích cực, chủ động phát huy vai trò của ta tại các cơ chế này là rất cần thiết nhằm thể hiện trách nhiệm của ta đối với cộng đồng khu vực và thế giới; qua đó phát huy vai trò và vị thế của đất nước; bảo vệ các lợi ích của ta; phát hiện và khai thác các cơ hội hợp tác. Đồng thời, chúng ta sẽ phải chủ động xây dựng và thực hiện các biện pháp bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng trong nước trong quá trình hội nhập.

Thứ tư, xây dựng và triển khai chiến lược tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các đối tác kinh tế quan trọng trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích và khả năng của đất nước; đồng thời, đẩy mạnh việc tham gia vào các thể chế thương mại–tài chính–tiền tệ khu vực và toàn cầu.

20 Nghị quyết ban hành Chương trình hành động của CP thực hiện NQ hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ưong đảng khoá X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi VN là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới 21 BIS hiện có 58 nước thành viên và rất nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á như Malaysia, Philippin, Thái Lan, Singapore, Indonesia đều là thành viên của tổ chức này.

75

Thứ năm, xây dựng và triển khai chiến lược hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ phù hợp với yêu cầu và trình độ phát triển của đất nước. Giai đoạn tới, ta cần thúc đẩy hội nhập kinh tế trong lĩnh vực tài chính–tiền tệ; hướng tới áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong các lĩnh vực này, vì: (i) Hội nhập thương mại và đầu tư ngày càng gia tăng sẽ dẫn đến các hình thức hội nhập quốc tế ở mức độ cao hơn là tài chính - tiền tệ; (ii) Ngoài tư cách thành viên IMF, WB như hầu hết tất cả các các nước khác, cho đến nay ta chưa tích cực tham gia vào các cơ chế xây dựng luật lệ và chuẩn mực tài chính quốc tế, đặc biệt là chưa phải là thành viên của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) – một định chế tài chính quốc tế có vai trò quan trọng trong xây dựng các tiêu chuẩn điều tiết, giám sát tài chính quốc tế;21 (iii) Hội nhập tài chính – tiền tệ khu vực gần đây phát triển mạnh với hàng loạt thoả thuận hoán đổi tiền tệ được ký kết; nhiều cơ chế hợp tác được hình thành như các cơ chế cảnh báo kinh tế vĩ mô, các diễn đàn hợp tác tài chính – tiền tệ và phối hợp chính sách, các cơ chế hợp tác phát triển thị trường vốn; (iv) sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009, các nước đã đẩy mạnh cải cách và có lộ trình áp dụng các chuẩn mực mới về giám sát tài

chính–ngân hàng, đặc biệt là Bộ tiêu chuẩn Basel III.22 Ta cũng cần có lộ trình để từng bước áp dụng các chuẩn mực quốc tế này.

2. Trong lĩnh vực chính trị Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chính trị của nước ta thực chất là quá trình chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế hợp tác, các tổ chức quốc tế dựa trên các chuẩn mực quốc tế, nhằm bảo đảm tối đa lợi ích quốc gia, dân tộc. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chính trị sẽ được triển khai trên cả hai cấp độ song phương lẫn đa phương, thông qua các kênh ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Đảng, đối ngoại Quốc hội và ngoại giao nhân dân. Đây cũng là một bước phát triển về tư duy, làm rõ hơn các cấp độ, các kênh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chính trị.

Thứ nhất, về song phương, chúng ta sẽ “đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác có tầm quan trọng chiến lược đối với sự phát triển và an ninh của đất nước; đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập đi vào thực chất, tạo sự đan xen gắn kết lợi ích giữa nước ta với các đối tác”.

Việc phát triển các mối quan hệ ngày càng đi vào thực chất với các quốc gia trên thế giới sẽ mở ra các cơ hội hợp tác trên mọi mặt. Đồng thời, các lợi ích đan xen phát sinh từ những mối quan hệ này sẽ giúp đảm bảo duy trì quan hệ bền vững và nâng cao vị thế của nước ta trong chính sách đối ngoại của các nước. Thời gian qua, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 11 nước23 và đang tiếp tục thúc đẩy xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với các đối tác quan trọng khác. Đây có thể coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình triển khai hội nhập chính trị của nước ta thời gian tới.

Thứ hai, về đa phương, chúng ta sẽ “chủ động và tích cực tham gia các cơ chế đa phương”, tích cực tham gia và đóng góp với tinh thần thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vào các diễn đàn đa phương quan trọng như Liên hợp quốc, không liên kết, APEC, ASEM, Cộng đồng Pháp ngữ… đặc biệt, “chú trọng việc tham gia xây dựng Cộng đồng ASEAN, phát huy vai trò của Việt Nam trong ASEAN và các cơ chế, diễn đàn do ASEAN giữ vai trò trung tâm, nhằm tăng cường đoàn kết, gia tăng liên kết nội khối củng cố quan hệ hợp tác với các bên đối thoại ASEAN, thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực”. Đồng thời, chúng ta sẽ “xây dựng và triển khai kế hoạch gia nhập các tổ chức, diễn đàn quốc tế khác, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tích cực triển khai chủ trương đưa người Việt Nam vào làm việc tại các tổ chức quốc tế; chủ động chuẩn bị nhân sự ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo của các tổ chức quốc tế”.

22 Năm 2009, Uỷ ban Giám sát Ngân hàng Basel (BCBS) ban hành Bộ tiêu chuẩn Basel III theo hướng tăng cường các chuẩn mực an toàn vốn của hệ thống ngân hàng. 23 Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Liên Bang Nga (2001), Ấn Độ (2007), Trung Quốc (2008), , Nhật Bản (2009), Hàn Quốc, Tây Ban Nha (2009), Vương quốc Anh (2010), Đức (2011), Ý, Thái Lan và Indonesia (2013), trong đó một số mối quan hệ như với Trung Quốc và LB Nga đã được nâng lên tầm "đối tác chiến lược toàn diện". Ngoài ra, từ năm 2009, Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ "đối tác toàn diện" với Australia, New Zealand

76

Trong những năm qua, Việt Nam đã từng bước phát huy vai trò tích cực và có trách nhiệm tại các tổ chức, cơ chế hợp tác quốc tế và khu vực, đặc biệt là đã thực

hiện thành công vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2010 và vai trò ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2008- 2009. Trong thời gian tới, chúng ta sẽ cần phải tiếp tục phát huy tinh thần chủ động, tích cực và có trách nhiệm, tham gia có hiệu quả tại các diễn đàn quốc tế và khu vực, đặc biệt là trong bối cảnh Cộng đồng ASEAN sẽ được thành lập vào năm 2015.

Thứ ba, về kênh hội nhập, bên cạnh các hoạt động ngoại giao của Nhà nước, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chính trị còn được triển khai thông qua các kênh đối ngoại Đảng, đối ngoại Quốc hội, và ngoại giao nhân dân, cụ thể là: “chủ động mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng, tích cực và nâng cao hiệu quả tham gia các diễn đàn các chính đảng; tích cực tham gia các cơ chế hợp tác nghị viện và liên nghị viện khu vực và quốc tế; mở rộng giao lưu nhân dân”. Như vậy, các binh chủng khác nhau của nền ngoại giao toàn diện Việt Nam sẽ chủ động và tích cực tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế trong một chiến lược tổng thể thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.

Trong quan hệ đối ngoại của Đảng, quán triệt chủ trương “mở rộng quan hệ với các đảng cánh tả, đảng cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển” của Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011.

Trong quan hệ đối ngoại của Quốc hội, tích cực tham gia và nâng cao hiệu quả tham gia các cơ chế hợp tác nghị viện và liên nghị viện khu vực và quốc tế như Hội đồng Liên nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (AIPA), Diễn đàn Nghị viện Châu Á-Thái Bình Dương (APPF), Liên minh Nghị viện Pháp ngữ (APF), Liên minh Nghị viện Thế giới (IPU), v.v.

Trong giao lưu nhân dân và các tầng lớp xã hội, khuyến khích các tổ chức xã hội và mọi tầng lớp nhân dân tích cực tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, nhằm xây dựng hình ảnh một nước Việt Nam đổi mới, mở cửa, giầu bản sắc văn hóa ngày càng được quảng bá rộng rãi trên thế giới; đồng thời, nâng cao hiểu biết chung của xã hội về khu vực và quốc tế, tạo thuận lợi cho hội nhập lâu dài.

3. Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh

Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh sẽ được đẩy mạnh theo hướng tham gia các hoạt động hợp tác ở mức độ cao hơn, theo đó sẽ xây dựng và triển khai chiến lược hội nhập quốc phòng, an ninh “phù hợp với tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, đảm bảo an ninh quốc gia, khai thác hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, vị thế quốc tế của đất nước nhằm phục vụ mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

77

Thứ nhất, chúng ta sẽ “đẩy mạnh các hoạt động hợp tác song phương về quốc phòng, an ninh với các nước láng giềng, các nước ASEAN, các nước lớn, các nước bạn bè truyền thống; từng bước đưa hợp tác đi vào chiều sâu, hiệu quả”. Đây cũng là một hình thức đưa các mối quan hệ song phương đã thiết lập đi vào chiều sâu; xây

dựng lòng tin chiến lược; tranh thủ khai thác các cơ hội hợp tác về quốc phòng và an ninh, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ hai, chúng ta sẽ “đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các cơ quan an ninh, tình

báo, cảnh sát các nước, trước hết là các nước láng giềng”.

Thứ ba, chúng ta sẽ “chủ động và tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh mà nước ta là thành viên, trước hết là các cơ chế trong khuôn khổ ASEAN và do ASEAN làm chủ đạo” và “tích cực tham gia các cơ chế hợp tác chống tội phạm xuyên quốc gia và đối phó với các thách thức về an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh năng lượng, an ninh mạng, an ninh biển và các thách thức an ninh phi truyền thống khác”. Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia vào các diễn đàn hợp tác quốc phòng, an ninh tại khu vực như Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM); Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN Mở rộng (ADMM+); Đối thoại Shangri-La v.v. Những hoạt động này sẽ giúp Việt Nam thể hiện vai trò một thành viên tích cực, có trách nhiệm với các vấn đề chung của khu vực và thế giới, qua đó góp phần nâng cao uy tín và vị thế quốc tế của đất nước.

Thứ tư, chúng ta sẽ “tham gia các hoạt động hợp tác ở mức độ cao hơn như hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, kiểm soát phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, diễn tập chung và các hoạt động khác, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và góp phần đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu ổn định, bền vững”.

4. Trong các lĩnh vực khác

Hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, y tế và các lĩnh vực khác sẽ được triển khai theo hướng “lồng ghép các hoạt động hội nhập quốc tế trong quá trình xây dựng và triển khai chiến lược phát triển các lĩnh vực này”.

78

Thứ nhất, chúng ta sẽ “thực hiện các cam kết và đóng góp vào việc sửa đổi, hoàn thiện và xây dựng mới các chuẩn mực, sáng kiến của các tổ chức quốc tế mà nước ta là thành viên”. Cho đến nay, hội nhập quốc tế của nước ta trong các lĩnh vực này đã diễn ra trên nhiều bình diện và cấp độ. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện các cam kết quốc tế còn chậm và thiếu đồng bộ; đặc biệt, vẫn còn tồn tại rất nhiều lực cản trong việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế phổ thông, các quy tắc và thông lệ được cộng đồng quốc tế thừa nhận một cách rộng rãi. Thời gian tới, chúng ta sẽ phải nghiêm túc thực hiện các cam kết, chuẩn mực, sáng kiến của các tổ chức quốc tế mà ta là thành viên, trước hết là Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Tổ chức Lao động Thế giới (ILO) v.v. Đồng thời, chúng ta cũng cần xây dựng được lộ trình phù hợp và chiến lược tham gia các tổ chức, diễn đàn hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực này nhằm phát huy vai trò và vị thế của đất nước. Do vậy, định hướng nhiệm vụ này có thể coi là một bước đột phá quan trọng về tư duy và hành động đối với hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực này.

Thứ hai, chúng ta sẽ “đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương về văn hóa, xã hội, khoa học-công nghệ, giáo dục-đào tạo” nhằm tranh thủ sự hợp tác quốc tế, tiếp thu tri thức, nhất là tri thức, tinh hoa văn hóa của nhân loại, đồng thời tăng cường quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam với bạn bè quốc tế; chủ động, tích cực giới thiệu, tham gia và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao v.v. ở khu vực và thế giới.

Ở khu vực, ưu tiên của Việt Nam trước hết là xây dựng cộng đồng văn hóa – xã hội ASEAN, tập trung vào phát triển nguồn nhân lực, phúc lợi xã hội- an sinh xã hội, thu hẹp khoảng cách phát triển, xây dựng xã hội đùm bọc lấy con người làm trung tâm, nhằm quảng bá hình ảnh đất nước, tranh thủ sự hợp tác quốc tế, tiếp thu tri thức và tinh hoa văn hóa của nhân loại, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.

Ở phạm vi toàn cầu, ưu tiên của chúng ta là các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc, đồng thời tích cực tham gia xử lý các vấn đề toàn cầu như đối phó với các vấn đề môi trường, biến đổi khí hậu v.v, qua đó học tập, trao đổi kinh nghiệm quốc tế v.v... nhằm phục vụ tốt cho việc xử lý các vấn đề trong nước.

Thứ ba, tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, văn hóa, thông tin tuyên truyền; đấu tranh có hiệu quả nhằm hạn chế các tác động tiêu cực về xã hội, văn hóa, tư tưởng, đạo đức, lối sống.

IV. CÁC GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Trên cơ sở tổng kết các bài học kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta giai đoạn vừa qua và mục tiêu, quan điểm chỉ đạo cũng như các định hướng lớn về hội nhập quốc tế giai đoạn tới, Nghị quyết 22-NQ/TW đã đề ra một số giải pháp lớn có tính chất bao trùm để triển khai thực hiện chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế giai đoạn tới, bao gồm:

1. Công tác tuyên truyền

Một trong những điểm hạn chế của hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta thời gian qua là chủ trương của Đảng chưa được quán triệt đầy đủ, chậm được cụ thể hóa và thế chế hóa; các cấp, cách ngành, tổ chức và cá nhân chưa nhận thức rõ và chủ động tận dụng các cơ hội mới mở ra, đồng thời chưa thấy rõ thách thức mới nảy sinh để chủ động ứng phó. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền, quán triệt các nội dung cơ bản của Nghị quyết là một yêu cầu then chốt để thực sự đưa hội nhập quốc tế thành sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Nghị quyết xác định rõ “tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về yêu cầu hội nhập quốc tế, về các cơ hội và thách thức, về phương hướng, nhiệm vụ trọng yếu của hội nhập quốc tế trong từng ngành, từng lĩnh vực”.

Công tác tuyên truyền và quán triệt Nghị quyết cho các cấp, các ngành, các cán

bộ đảng viên và quần chúng nhân dân cần phải đạt được các yêu cầu sau:

79

Thứ nhất, phải thống nhất được nhận thức trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về các nội dung cơ bản của hội nhập quốc tế ở nước ta giai đoạn tới, đặc biệt là

bản chất, phạm vi và hình thức của hội nhập quốc tế. Quan niệm thống nhất sẽ giúp chúng ta thống nhất hành động, “tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình hội nhập quốc tế”.

Thứ hai, phải nắm vững và áp dụng được sáu quan điểm chỉ đạo lớn mà Nghị quyết đã đề ra, để định hướng chỉ đạo hội nhập quốc tế của nước ta thời gian tới, đặc biệt là tầm quan trọng của hội nhập quốc tế như là một chủ trương lớn của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Các quan điểm chỉ đạo này là những đột phá về tư duy về hội nhập quốc tế rất quan trọng, cần được quán triệt đầy đủ trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách của các cấp, các ngành.

Thứ ba, phải nắm vững và cụ thể hóa được các định hướng nhiệm vụ hội nhập quốc tế trong từng lĩnh vực, đối với các từng cấp, từng ngành, trên cơ sở đó chủ động và tích cực thể chế hóa thành các biện pháp chính sách một cách đúng đắn và sáng tạo, phù hợp.

2. Cơ chế, bộ máy chỉ đạo hội nhập quốc tế

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác ở nước ta những năm qua cho thấy việc phối hợp hoạt động giữa kinh tế, đối ngoại, quốc phòng, an ninh v.v có lúc, có nơi chưa nhịp nhàng, chưa kết hợp thật chặt chẽ, kịp thời; đôi khi quan điểm của Việt Nam về cùng một vấn đề trong các thể chế khác nhau cũng không thống nhất. Do đó, cơ chế chỉ đạo điều hành, giám sát một cách thống nhất và hiệu quả là điều kiện hết sức quan trọng để đảm bảo thành công của hội nhập quốc tế trong thời gian tới. Điều này lại càng cấp thiết trong bối cảnh hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực và ở nhiều cấp độ khác nhau.

Chính vì vậy, một trong những giải pháp tổng thể quan trọng được Nghị quyết xác định là “thiết lập bộ máy đủ thẩm quyền và năng lực để chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, giám sát và phối hợp các hoạt động hội nhập quốc tế. Xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương trong các hoạt động hội nhập trên các lĩnh vực”, theo đó thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu nhằm chỉ đạo phối hợp hoạt động hội nhập quốc tế từ Trung ương đến địa phương. Các cơ chế chỉ đạo liên ngành về hội nhập quốc tế hiện tại sẽ được hợp nhất, sáp nhập vào Ban Chỉ đạo.

Việc thành lập Ban Chỉ đạo do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu thể hiện rõ quyết tâm chính trị của Đảng ta trong triển khai thực hiện chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” những năm tới; sẽ giúp tạo nên sự chỉ đạo tập trung, thống nhất công tác hội nhập quốc tế của tất cả các ngành, các địa phương trong một chiến lược tổng thể, đảm bảo được các yêu cầu đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế.

80

Đồng thời, Nghị quyết cũng yêu cầu Ban Chỉ đạo “định kỳ hàng năm báo cáo Bộ Chính trị về việc tổ chức thực hiện Nghị quyết này”. Cơ chế báo cáo thường

xuyên sẽ tạo động lực để các cấp, các ngành chủ động và tích cực triển khai công tác hội nhập quốc tế, nhanh chóng đưa Nghị quyết đi vào cuộc sống.

3. Chương trình hành động và chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế

Nghị quyết giao Ban Cán sự Đảng Chính phủ chỉ đạo xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết. Chương trình hành động sẽ bao gồm các nội dung công việc lớn mà các cấp, các ngành sẽ phải triển khai thực hiện từ nay đến 2016 và định hướng đến 2020. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với các Bộ, Ban, Ngành hữu quan xây dựng Dự thảo chương trình hành động và trình Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế trong tháng 8 năm 2013.

Trên cơ sở chương trình hành động chung, các cấp, các ngành sẽ xây dựng các chương trình hành động riêng, bám sát các quan điểm chỉ đạo, các định hướng nhiệm vụ lớn về hội nhập quốc tế của Nghị quyết, chủ động và sáng tạo phát huy mọi nguồn lực xã hội để triển khai thực hiện.

Nghị quyết cũng đề ra chủ trương “xây dựng và triển khai chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế, trước mắt là đến năm 2020”. Chủ trương này xuất phát từ thực tế hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng hợp tác quốc tế của nước ta thời gian qua chưa có được sự phối hợp chặt chẽ và bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Trong giai đoạn tới, hội nhập quốc tế sẽ là một quá trình đa dạng về hình thức, cấp độ, và lĩnh vực, có liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Các cấp, ngành cần có định hướng chiến lược rõ ràng để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, nhằm tạo thế bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Vì vậy, việc xây dựng và triển khai một chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế thời kỳ đầy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước mắt đến 2020, là hết sức cần thiết.

4. Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế

Kinh nghiệm của nước ta và các nước đều cho thấy phải chuẩn bị tốt các điều kiện bên trong cho hội nhập thì mới tận dụng được tối đa cơ hội, giảm thiểu được các tác động tiêu cực của hội nhập. Thời gian tới, để có thể hội nhập quốc tế một cách sâu rộng trên nhiều lĩnh vực thì yêu cầu tăng cường năng lực bên trong lại đặt ra càng cấp thiết. Nghị quyết xác định rõ “xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy”, “chú trọng việc đổi mới thể chế, phát triển nguồn nhân lực, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế”, và “đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, dự báo”. Như vậy, có bốn yếu tố lớn liên quan đến năng lực hội nhập quốc tế được Nghị quyết nhấn mạnh, đó là: (i) thể chế; (ii) nguồn nhân lực; (iii) kết cấu hạ tầng; và (iv) công tác nghiên cứu, dự báo.

PHẦN KẾT

Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế vừa được thông qua là một bước tiến quan trọng trong việc cụ thể hóa và xác định các định hướng hành động để triển khai thực hiện chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” đã được thông qua tại Đại hội XI của Đảng. Nghị quyết đã xác định được nhiều định 81

hướng tư duy và hành động quan trọng, nhằm tạo bước đột phá cho quá trình hội nhập quốc tế của nước ta giai đoạn tới.

82

Trong bối cảnh thế giới có nhiều chuyển biến phức tạp hiện nay và đứng trước các yêu cầu của việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chúng ta có nhu cầu cấp thiết phải hội nhập quốc tế ngày càng chặt chẽ và sâu rộng. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng nhu cầu nội tại của quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với sự đồng thuận cao và hành động thống nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, chúng ta nhất định sẽ triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị, tận dụng được những cơ hội, hóa giải được các thách thức, phát huy sức mạnh của dân tộc, tranh thủ tối đa sức mạnh của thời đại để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2013 *

Số 22-NQ/TW

NGHỊ QUYẾT

CỦA BỘ CHÍNH TRỊ

về hội nhập quốc tế

______

I- TÌNH HÌNH

Đại hội lần thứ IX của Đảng đã đề ra chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”; ngày 27-11-2001, Bộ Chính trị khóa X đã ban hành Nghị quyết số 07- NQ/TW “Về hội nhập kinh tế quốc tế”. Đại hội lần thứ X của Đảng khẳng định chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác”; ngày 05-02-2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”.

1- Việc thực hiện chủ trương trên đây của Đảng đã đạt nhiều thành tựu, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, giữ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong đó, nổi bật là:

Nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước, có quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 160 nước và 70 vùng lãnh thổ, là thành viên của hầu hết các tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng với vị thế và vai trò ngày càng được khẳng định. Quan hệ giữa nước ta với các nước trên thế giới ngày càng đi vào chiều sâu; hợp tác về chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội và các lĩnh vực khác được mở rộng.

83

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện; năng lực cạnh tranh quốc gia và của các doanh nghiệp được nâng lên; mở rộng thị trường, tranh thủ được khối lượng vốn đầu tư, tri thức, công nghệ và các nguồn lực quan trọng khác, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Đã có sự đổi mới mạnh mẽ tư duy về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Năng lực đội ngũ cán bộ từ Trung ương đến địa phương được nâng lên một bước; tổ chức, bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước về hội nhập quốc tế và các hoạt động đối ngoại khác được quan tâm củng cố. Đội ngũ doanh nhân nước ta đã có bước trưởng thành.

2- Bên cạnh kết quả đạt được, hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ đối

ngoại còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém như sau:

Chủ trương của Đảng chưa được quán triệt và thực hiện đầy đủ, chậm được cụ thể hóa và thể chế hóa. Các cấp, các ngành, các tổ chức và cá nhân chưa nhận thức sâu sắc và chưa chủ động tận dụng các cơ hội; đồng thời, chưa thấy rõ thách thức để chủ động ứng phó; chưa lường trước các tác động tiêu cực từ bên ngoài để có những biện pháp hạn chế hữu hiệu.

Hội nhập kinh tế quốc tế chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển kinh tế, yêu cầu củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ trong các lĩnh vưc khác chưa được triển khai đồng bộ, nhịp nhàng trong một chiến lược tổng thể. Cơ chế chỉ đạo, điều hành, phối hợp thực hiện và giám sát quá trình hội nhập từ Trung ương đến địa phương, giữa các ban, ngành còn nhiều bất cập. Chất lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng chậm được cải thiện. Năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, doanh nhân chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập.

Hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh chưa được phát huy đầy đủ, chưa gắn kết chặt chẽ với hội nhập kinh tế quốc tế; hợp tác về văn hóa, xã hội và một số lĩnh vực khác chưa sâu rộng.

Cùng với những tác động tiêu cực từ các cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, những hạn chế, yếu kém trên đây đã dẫn đến một số hệ quả xấu cả về kinh tế, xã hội và môi trường.

3- Thời gian tới, hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, nhưng xung đột tôn giáo, sắc tộc, tranh chấp tài nguyên và lãnh thổ, biển đảo, bạo loạn, khủng bố diễn biến phức tạp. Toàn cầu hóa tiếp tục phát triển sâu rộng trên mọi lĩnh vực; kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, thách thức. Mức độ tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày một gia tăng. Các cơ chế đa phương, các tổ chức quốc tế có vai trò ngày càng quan trọng trong mọi mặt của đời sống nhân loại. Khu vực châu Á – Thái Bình Dương phát triển năng động, đang trở thành trung tâm phát triển của thế giới. Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) tiến tới hình thành Cộng đồng, tiếp tục giữ vai trò trung tâm trong phần lớn các cơ chế hợp tác ở khu vực, đồng thời, có vị trí ngày càng cao trong chiến lược của các nước lớn.

84

Nước ta trở thành một nước có mức thu nhập trung bình và đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức mới. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nước ta hiện nay là thực hiện thành công các mục tiêu phát triển đất nước, nhanh chóng nâng cao sức

mạnh tổng hợp quốc gia, đồng thời đáp ứng những yêu cầu mới về bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) đã xác đinh: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”.

Tình hình và nhiệm vụ mới đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân quyết tâm thực hiện thắng lợi chủ trương quan trọng này nhằm phát huy sức mạnh của dân tộc, tranh thủ tối đa sức mạnh của thời đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

II- MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO

1- Mục tiêu

Hội nhập quốc tế phải nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

2- Quan điểm chỉ đạo

Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; quán triệt và vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn được tổng kết trong Cương lĩnh; đồng thời chú trọng một số quan điểm sau:

- Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn của Đảng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Mọi cơ chế, chính sách phải phát huy tính chủ động, tích cực và khả năng sáng tạo của tất cả các tổ chức, cá nhân, khai thác hiệu quả các tiềm năng của toàn xã hội, của các tầng lớp nhân dân, bao gồm cả cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

85

- Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực; gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, nâng cao sức mạnh tổng hợp và năng lực cạnh tranh quốc gia; gắn kết

chặt chẽ với việc tăng cường mức độ liên kết giữa các vùng, miền, khu vực trong nước.

- Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước.

- Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên định lợi ích quốc gia, dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu; không tham gia vào các tập hợp lực lượng, các liên minh của bên này chống bên kia.

- Nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi; củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

III- ĐỊNH HƯỚNG CHỦ YẾU

1 - Tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về yêu cầu hội nhập quốc tế, về các cơ hội và thách thức, về phương hướng, nhiệm vụ trọng yếu của hội nhập quốc tế trong từng ngành, từng lĩnh vực, để thống nhất nhận thức và hành động, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình hội nhập quốc tế.

Xây dựng và triển khai chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế, trước mắt đến năm 2020, chú trọng việc đổi mới thể chế, phát triển nguồn nhân lực, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy, thiết lập bộ máy đủ thẩm quyền và năng lực để chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, giám sát và phối hợp các hoạt động hội nhập quốc tế. Xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương trong các hoạt động hội nhập trên các lĩnh vực; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, dự báo.

2 - Về hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa X “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới” trong tình hình mới gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhất là nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.

86

Không ngừng cải thiện môi trường thu hút đầu tư nước ngoài, gắn thu hút đầu tư với giám sát quá trình thực thi, bảo đảm an ninh kinh tế, hiệu quả kinh tế - xã hội -

môi trường. Đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu đầu tư công, khuyến khích các hoạt động đầu tư tư nhân và các hoạt động hợp tác công - tư. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư; quản lý chặt chẽ nợ công, bao gồm cả vay nợ nước ngoài.

Thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã thỏa thuận. Xây dựng và triển khai chiến lược, tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các đối tác kinh tế - thương mại quan trọng trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích và khả năng của đất nước. Chủ động xây dựng và thực hiện các biện pháp bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng trong nước. Đẩy mạnh việc tham gia vào các thể chế thương mại - tài chính - tiền tệ khu vực và toàn cầu, xây dựng và triển khai chiến lược hội nhập trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ phù hợp với yêu cầu và trình độ phát triển của đất nước.

3 - Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác có tầm quan trọng chiến lược đối với sự phát triển và an ninh của đất nước; đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập đi vào thực chất, tạo sự đan xen gắn kết lợi ích giữa nước ta với các đối tác.

Chủ động và tích cực tham gia các thể chế đa phương, góp phần xây dựng trật tự chính trị và kinh tế công bằng, dân chủ, ngăn ngừa chiến tranh, xung đột, củng cố hòa bình, đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi. Trong đó, đặc biệt chú trọng việc tham gia xây dựng Cộng đồng ASEAN, phát huy vai trò của Việt Nam trong ASEAN và các cơ chế, diễn đàn do ASEAN giữ vai trò trung tâm, nhằm tăng cường đoàn kết, gia tăng liên kết nội khối, củng cố quan hệ hợp tác với các bên đối thoại của ASEAN, thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực.

Phát huy vai trò tại các tổ chức, diễn đàn, cơ chế hợp tác mà nước ta là thành viên. Xây dựng và triển khai kế hoạch gia nhập các tổ chức, diễn đàn khác, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tích cực triển khai chủ trương đưa người Việt Nam vào làm việc tại các tổ chức quốc tế; chủ động chuẩn bị nhân sự ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo của các tổ chức quốc tế.

Chủ động mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng, tích cực và nâng cao hiệu quả tham gia các diễn đàn các chính đảng; tích cực tham gia các cơ chế hợp tác nghị viện và liên nghị viện khu vực và quốc tế; mở rộng giao lưu nhân dân, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

4 - Xây dựng và triển khai chiến lược hội nhập quốc phòng, an ninh phù hợp với tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh quốc gia, khai thác hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, vị thế quốc tế của đất nước nhằm phục vụ mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

87

Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác song phương về quốc phòng, an ninh với các nước láng giềng, các nước ASEAN, các nước lớn, các nước bạn bè truyền thống; từng bước đưa hợp tác đi vào chiền sâu, hiệu quả. Chủ động phát hiện, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng hội nhập quốc tế để xâm

phạm an ninh quốc gia nước ta. Đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các cơ quan an ninh, tình báo, cảnh sát các nước, trước hết là các nước láng giềng, các nước lớn; chủ động, tích cực tham gia các cơ chế hợp tác chống tội phạm xuyên quốc gia và đối phó với các thách thức về an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh năng lượng, an ninh mạng, an ninh biển và các thách thức an ninh phi truyền thống khác.

Chủ động và tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh mà nước ta là thành viên, trước hết là các cơ chế trong khuôn khổ ASEAN và do ASEAN làm chủ đạo. Xây dựng và triển khai kế hoạch gia nhập các cơ chế đa phương khác; trong đó, có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn, như hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, kiểm soát phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, diễn tập chung và các hoạt động khác, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và góp phần đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu ổn định, bền vững.

5 - Về văn hóa, xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế và các lĩnh vực khác, cần lồng ghép các hoạt động hội nhập quốc tế trong quá trình xây dựng và triển khai chiến lược phát triển các lĩnh vực này.

Đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương về văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, trước hết là xây dựng cộng đồng văn hóa - xã hội ASEAN, tập trung vào phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ quốc tế, tiếp thu tri thức, nhất là tri thức về quản lý và khoa học công nghệ, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tăng cường quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam với bạn bè quốc tế.

Thực hiện các cam kết và đóng góp vào việc sửa đổi, hoàn thiện và xây dựng mới các chuẩn mực, sáng kiến của các tổ chức quốc tế mà nước ta là thành viên, trước hết là các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc. Tích cực tham gia các thể chế hợp tác về môi trường, đóng góp vào nỗ lực chung phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, bảo vệ rừng, nguồn nước, động vật, thực vật ở nước ta và trên thế giới.

Chủ động, tích cực giới thiệu, tham gia và nâng cao chất lượng, thành tích trong

các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao…ở khu vực và thế giới.

Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, văn hóa, thông tin, tuyên truyền; đấu tranh có hiệu quả nhằm hạn chế các tác động tiêu cực về xã hội, văn hóa, tư tưởng, đạo đức, lối sống.

II- TỔ CHỨC THỰC HIỆN

88

1- Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết. Thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu nhằm chỉ đạo phối hợp hoạt động hội nhập quốc tế từ Trung ương đến địa phương (các cơ chế chỉ đạo liên ngành về hội nhập quốc tế hiện hành được hợp nhất, sáp nhập vào Ban Chỉ đạo); định kỳ hàng năm báo cáo Bộ Chính trị về việc tổ chức thực hiện Nghị quyết này.

2- Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo quá trình sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới

các văn bản pháp luật phục vụ cho quá trình hội nhập quốc tế.

3- Các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tỉnh ủy, thành ủy và đảng ủy trực thuộc Trung ương có trách nhiệm tổ chức phổ biến, quán triệt Nghị quyết; xây dựng và triển khai thực hiện chương trình hành động thực hiện Nghị quyết.

T/M BỘ CHÍNH TRỊ

TỔNG BÍ THƯ

(đã ký)

89

Nguyễn Phú Trọng

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ --------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ----------------

Số: 596/QĐ-TTg Hà Nội, ngày 23 tháng 04 năm 2014

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC THÀNH LẬP BAN CHỈ ĐẠO QUỐC GIA VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10 tháng 4 năm 2013 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI về hội nhập quốc tế;

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Căn cứ Quyết định số 34/2007/QĐ-TTg ngày 12 tháng 03 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của tổ chức phối hợp liên ngành;

Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế (sau đây gọi tắt là Ban Chỉ đạo quốc gia), gồm:

1. Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia và các Phó Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia:

- Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia là Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng;

- Phó Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia là các Phó Thủ tướng Chính phủ: Vũ Văn Ninh, Vũ Đức Đam, Phạm Bình Minh;

- Trong trường hợp Thủ tướng Chính phủ - Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia bận chương trình công tác, Phó Thủ tướng Chính phủ - Trưởng Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về chính trị, an ninh, quốc phòng sẽ thay mặt Thủ tướng Chính phủ - Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia điều hành công việc chung của Ban Chỉ đạo quốc gia.

2. Các Trưởng Ban Chỉ đạo liên ngành:

- Trưởng Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về chính trị, an ninh, quốc phòng: Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Bình Minh;

90

- Trưởng Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế: Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Văn Ninh;

- Trưởng Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ và giáo dục, đào tạo: Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam;

3. Các ủy viên thường trực:

- Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ;

- Bộ trưởng Bộ Ngoại giao;

- Bộ trưởng Bộ Công Thương;

- Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội

4. Các Ủy viên:

- Lãnh đạo Bộ Quốc phòng;

- Lãnh đạo Bộ Công an;

- Lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư;

- Lãnh đạo Bộ Tài chính;

- Lãnh đạo Bộ Tư pháp;

- Lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ;

- Lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo;

- Lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Điều 2. Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế có các chức năng và nhiệm vụ sau:

1. Giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đề ra các định hướng, chiến lược, các giải pháp lớn liên quan đến hội nhập quốc tế; đề xuất những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm về hội nhập quốc tế cần tập trung chỉ đạo, điều hành trong từng giai đoạn.

2. Giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, triển khai các chủ trương, chính sách lớn về hội nhập quốc tế; giải quyết những vấn đề quan trọng, liên ngành liên quan đến hội nhập quốc tế.

3. Giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phối hợp, đôn đốc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong việc triển khai đồng bộ các chủ trương chính sách về hội nhập quốc tế.

4. Tổng hợp và định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tình hình triển khai các nhiệm vụ hội nhập quốc tế.

5. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Thủ tướng Chính phủ phân công.

Điều 3. Tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo quốc gia

1. Ban Chỉ đạo quốc gia có ba Ban Chỉ đạo liên ngành:

- Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về chính trị, an ninh, quốc phòng;

91

- Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế;

- Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ và giáo dục, đào tạo;

Thành phần tham gia và Quy chế hoạt động của các Ban Chỉ đạo liên ngành do các Trưởng Ban Chỉ đạo liên ngành quyết định.

2. Thủ tướng Chính phủ - Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia quyết định ban hành Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo quốc gia.

3. Các cơ quan giúp việc Ban Chỉ đạo quốc gia và các Ban Chỉ đạo liên ngành:

- Văn phòng Chính phủ thực hiện chức năng giúp việc Ban Chỉ đạo quốc gia;

- Bộ Ngoại giao thực hiện chức năng cơ quan giúp việc Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về chính trị, an ninh, quốc phòng;

- Bộ Công Thương thực hiện chức năng cơ quan giúp việc Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế;

- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện chức năng cơ quan giúp việc Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ và giáo dục, đào tạo;

Các cơ quan giúp việc cho Ban Chỉ đạo quốc gia và các Ban Chỉ đạo liên ngành phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan trên cơ sở sử dụng các đơn vị chức năng hiện có của mình, không thành lập thêm tổ chức và không thêm biên chế.

4. Kinh phí hoạt động của Ban Chỉ đạo quốc gia được dự toán hàng năm và được cấp vào ngân sách của Văn phòng Chính phủ; kinh phí hoạt động của các Ban Chỉ đạo liên ngành được dự toán hàng năm và được cấp vào ngân sách của các Bộ thực hiện chức năng cơ quan giúp việc các Ban Chỉ đạo liên ngành.

Điều 4. Hiệu lực và trách nhiệm thi hành

1. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và thay thế các Quyết định số 174/2007/QĐ-TTg ngày 19 tháng 11 năm 2007 về việc kiện toàn Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Ban Chỉ đạo quốc gia Hội nhập quốc tế về giáo dục và khoa học, công nghệ (Quyết định số 208/QĐ-TTg ngày 17 tháng 02 năm 2012).

2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các thành viên Ban Chỉ đạo quốc gia chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

Nơi nhận: - Ban Bí thư Trung ương Đảng; - Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ; - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP; - HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW; - Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng; - Văn phòng Tổng Bí thư;

92

THỦ TƯỚNG (đã ký) Nguyễn Tấn Dũng

- Văn phòng Chủ tịch nước; - Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; - Văn phòng Quốc hội; - Tòa án nhân dân tối cao; - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; - Kiểm toán Nhà nước; - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - Cơ quan Trung ương của các đoàn thể; - Các thành viên Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế; - VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTCP, TGĐ Cổng TTĐT, các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo; - Lưu: Văn thư, QHQT (3b).

93

CHÍNH PHỦ -------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------

Số: 31/NQ-CP Hà Nội, ngày 13 tháng 05 năm 2014

NGHỊ QUYẾT

BAN HÀNH CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 22-NQ/TW NGÀY 10 THÁNG 4 NĂM 2013 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Căn cứ Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10 tháng 4 năm 2013 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập quốc tế;

Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao,

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Ban hành kèm theo Nghị quyết này Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10 tháng 4 năm 2013 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập quốc tế.

Điều 2. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành.

Điều 3. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị quyết này./.

TM. CHÍNH PHỦ THỦ TƯỚNG (đã ký) Nguyễn Tấn Dũng

Nơi nhận: - Ban Bí thư Trung ương Đảng; - Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ; - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP; - HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW; - Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng; - Văn phòng Tổng Bí thư; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; - Văn phòng Quốc hội;

94

- Tòa án nhân dân tối cao; - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; - Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia; - Kiểm toán Nhà nước; - Ngân hàng Chính sách xã hội; - Ngân hàng Phát triển Việt Nam; - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - Cơ quan Trung ương của các đoàn thể; - Văn phòng Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế; - VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTCP, TGĐ Cổng TTĐT, các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo; - Lưu: Văn thư, QHQT (3b).

95

CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ

THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 22-NQ/TW NGÀY 10 THÁNG 4 NĂM 2013 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN

VIỆT NAM VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 31/NQ-CP ngày 13 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ)

I. MỤC TIÊU

Ngày 10 tháng 4 năm 2013, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế (sau đây gọi là Nghị quyết 22). Đây là Nghị quyết có ý nghĩa rất quan trọng, cụ thể hóa đường lối đối ngoại và chủ trương “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế” mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đề ra. Nghị quyết 22 khẳng định chủ động, tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn của Đảng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết đã chỉ rõ mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và những định hướng chủ yếu để triển khai công tác hội nhập quốc tế toàn diện trong thời gian tới.

Thực hiện sự phân công Bộ Chính trị, Chương trình hành động này được Ban Cán sự Đảng Chính phủ thông qua và Chính phủ ban hành với mục tiêu tiếp tục cụ thể hóa các nhiệm vụ chủ yếu nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết 22. Chương trình hành động này sẽ xác định các nội dung công việc cụ thể, lộ trình, thời gian thực hiện mà các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương và địa phương cần tập trung triển khai trong thời gian tới.

II. NHỮNG NỘI DUNG CỤ THỂ

Để đạt được mục tiêu trên, trong thời gian tới, bên cạnh các nhiệm vụ thường xuyên, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần cụ thể hóa và tổ chức triển khai thực hiện các nội dung công việc sau đây:

1. Thông tin, tuyên truyền, quán triệt Nghị quyết

a) Tổ chức phổ biến, quán triệt, tuyên truyền rộng rãi và sâu rộng nội dung của Nghị quyết 22, các yêu cầu hội nhập quốc tế, cơ hội và thách thức, phương hướng, nhiệm vụ trọng yếu của hội nhập quốc tế trong từng ngành, từng lĩnh vực đến các Bộ, ngành, địa phương, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức Đảng các cấp, doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân.

b) Đẩy mạnh nâng cao nhận thức về các cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hội nhập quốc tế toàn diện, trong đó có các vấn đề kinh tế, thương mại thế hệ mới, nhất là đối với các địa phương, các doanh nghiệp và các hiệp hội ngành nghề.

96

c) Tuyên truyền rộng rãi chủ trương “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế” đến các đối tác, cộng đồng quốc tế và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, nắm bắt và thông báo kịp thời dư luận cho các cơ quan liên quan trong nước. Tăng cường quảng

bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, thông tin về Việt Nam tới các nước trên thế giới. Tiếp tục triển khai hiệu quả Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011 - 2020.

2. Xây dựng thể chế và nâng cao năng lực hội nhập quốc tế

a) Xây dựng và triển khai Chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, trong đó chú trọng đổi mới thể chế, phát triển nguồn nhân lực, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

b) Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy theo hướng tăng cường rà soát, điều chỉnh, sửa đổi, bãi bỏ các quy định pháp luật không phù hợp với các cam kết quốc tế, nội luật hóa các cam kết quốc tế, ban hành các quy định mới đáp ứng các yêu cầu hội nhập. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế và Pháp lệnh ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế. Xây dựng và triển khai kế hoạch đàm phán, ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế mới; đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả thực thi các cam kết quốc tế.

c) Kiện toàn tổ chức bộ máy của Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu, bảo đảm sự chỉ đạo, điều hành, phối hợp, kiểm tra, giám sát các hoạt động hội nhập quốc tế hiệu quả, thống nhất, nhịp nhàng giữa các ngành, các lĩnh vực, từ trung ương đến địa phương.

d) Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa Ngoại giao Nhà nước với Đối ngoại Đảng và Đối ngoại nhân dân, giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh bảo đảm các hoạt động hội nhập quốc tế được thực hiện đồng bộ, nhất quán.

đ) Tổ chức các hoạt động nghiên cứu sâu về lý luận và thực tiễn hội nhập quốc tế phục vụ triển khai hội nhập quốc tế trong từng ngành, từng lĩnh vực và cấp độ.

e) Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nhận thức và năng lực hội nhập quốc tế cho cán bộ, công chức, viên chức các cấp, các ngành.

3. Hội nhập kinh tế quốc tế

a) Rà soát, cập nhật và tổ chức thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ nhằm tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa X về một số chủ trương để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), bảo đảm hài hòa, đồng bộ với Chương trình hành động về hội nhập quốc tế; bổ sung các nhiệm vụ mới để đáp ứng được những yêu cầu đặt ra đối với sự phát triển của đất nước từ nay đến năm 2020.

b) Xây dựng và triển khai Chương trình hành động thực hiện Chiến lược tham gia các thỏa thuận thương mại tự do (FTA) đến năm 2020.

c) Xây dựng và triển khai Chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế đến năm 2020, trong đó lồng ghép các định hướng chiến lược về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ. Xây dựng định hướng nâng cao hiệu quả tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các định chế kinh tế, thương mại, tài chính - tiền tệ như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng 97

phát triển châu Á (ADB)...; tham gia tích cực các cơ chế hợp tác khác như Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM)...

d) Nâng cao hiệu quả tham gia và tăng cường đóng góp thiết thực tại các cơ chế hợp tác đa phương ở châu Á Thái Bình Dương như Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC); đề xuất và dẫn dắt các sáng kiến mới, ở tầm khu vực và toàn cầu, trong các lĩnh vực Việt Nam có thế mạnh như an ninh lương thực, ứng phó biến đổi khí hậu...; ưu tiên đóng góp xây dựng và khai thác hiệu quả sự tham gia của nước ta trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN và hợp tác kinh tế giữa ASEAN với các đối tác, nhất là tăng cường kết nối và phát triển nguồn nhân lực; nâng tầm các cơ chế liên kết kinh tế tiểu vùng và liên quan, trong đó coi trọng cơ chế hợp tác Mê Công, GMS, ACMECS, Mê Công với các đối tác, Sáng kiến Hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng...

đ) Cải thiện môi trường thu hút đầu tư nước ngoài đồng thời bảo đảm an ninh kinh tế, hiệu quả kinh tế - xã hội - môi trường; xây dựng và triển khai đồng bộ các biện pháp thu hút các tập đoàn xuyên quốc gia vào đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam; đẩy nhanh tái cơ cấu đầu tư công, khuyến khích các hoạt động đầu tư tư nhân và hợp tác công - tư; nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, quản lý chặt chẽ nợ công. Xây dựng cơ chế, chính sách phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam.

e) Triển khai mạnh mẽ các biện pháp vận động chính trị, ngoại giao kết hợp giải trình kỹ thuật trong việc vận động các nước sớm công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam; đẩy mạnh vận động chính trị, ngoại giao phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế.

4. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chính trị

a) Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác có tầm quan trọng chiến lược đối với phát triển và an ninh của đất nước, tăng cường đan xen lợi ích trên các lĩnh vực.

b) Tích cực, chủ động tham gia và phát huy vai trò của nước ta tại các thể chế đa phương, nhất là trong việc đóng góp xây dựng Cộng đồng ASEAN và định hướng phát triển Cộng đồng sau năm 2015, nâng cao hiệu quả tham gia Cộng đồng chính trị - an ninh ASEAN, thúc đẩy hợp tác trong các cơ chế khu vực do ASEAN giữ vai trò trung tâm như ASEAN+1, ASEAN+3, Diễn đàn an ninh khu vực (ARF), Cấp cao Đông Á (EAS)...; nâng cao hiệu quả tham gia của Việt Nam trong việc thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm xây dựng Bộ quy tắc ứng xử (COC). Chủ động đóng góp có trách nhiệm tại các diễn đàn quan trọng như Liên hợp quốc, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), Phong trào Không liên kết, Hợp tác Nam-Nam, Tổ chức các nước sử dụng tiếng Pháp (Francophonie), các cơ chế hợp tác tiểu vùng...

c) Chuẩn bị việc đăng cai các sự kiện ngoại giao đa phương lớn và ứng cử của Việt Nam vào các tổ chức quốc tế quan trọng. Đẩy mạnh nghiên cứu, thúc đẩy các sáng kiến của Việt Nam đối với các vấn đề chung của khu vực và thế giới.

d) Xây dựng và triển khai Kế hoạch gia nhập các tổ chức, diễn đàn quốc tế mà Việt Nam chưa là thành viên, phù hợp với nhu cầu và lợi ích của đất nước. Tăng cường 98

đào tạo cán bộ đa phương, chuẩn bị nhân sự người Việt Nam để đưa vào làm việc và ứng cử vào các vị trí quan trọng tại các tổ chức quốc tế.

đ) Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, đặc biệt là tại các diễn đàn đa phương có liên quan và trong quan hệ song phương với các đối tác chủ chốt.

e) Tích cực hỗ trợ, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban, ngành của Đảng trong việc mở rộng và phát triển quan hệ đối ngoại đảng, nâng cao hiệu quả tham gia các diễn đàn các chính đảng, các cơ chế hợp tác của các tổ chức xã hội và các tổ chức phi chính phủ khu vực và quốc tế, nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại nhân dân.

g) Tích cực hỗ trợ và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Quốc hội trong việc tăng cường các hoạt động đối ngoại của Quốc hội, nâng cao hiệu quả tham gia các cơ chế hợp tác nghị viện và liên nghị viện khu vực và quốc tế.

h) Áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế vào công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, phục vụ hội nhập trong lĩnh vực chính trị và hỗ trợ hội nhập trong các lĩnh vực khác.

5. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh

a) Xây dựng và triển khai Chiến lược hội nhập quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng đến năm 2020, khai thác hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, vị thế quốc tế của đất nước nhằm góp phần xây dựng quân đội từng bước hiện đại và tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước, đồng thời nâng cao chất lượng dự báo, tham mưu chiến lược, tăng cường khả năng bảo đảm an ninh, quốc phòng của đất nước. Đề xuất các biện pháp phát triển và đưa vào chiều sâu quan hệ quốc phòng song phương với các nước; tham gia chủ động, tích cực, có trách nhiệm và hiệu quả vào các hoạt động đối ngoại đa phương về quốc phòng, nhất là các diễn đàn trong khuôn khổ ASEAN và do ASEAN giữ vai trò trung tâm, các cơ chế hợp tác khác trong cấu trúc an ninh khu vực.

b) Xây dựng và triển khai kế hoạch tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc từ năm 2014; các hoạt động kiểm soát phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, các hoạt động diễn tập chung với lộ trình phù hợp với khả năng của quân đội ta.

99

c) Xây dựng và triển khai Chiến lược hội nhập quốc tế trong lĩnh vực an ninh đến năm 2020; chủ động phát hiện, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch và các loại tội phạm lợi dụng hội nhập quốc tế xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội của đất nước; nâng cao hiệu quả quan hệ, hợp tác với các cơ quan an ninh, tình báo, cảnh sát các nước, hoàn thiện hành lang pháp lý, từng bước đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, có hiệu quả thiết thực. Tham gia tích cực các cơ chế hợp tác đa phương về đấu tranh phòng chống tội phạm xuyên quốc gia, ngăn ngừa, giảm thiểu các mối đe dọa an ninh phi truyền thống; phát huy vai trò, trách nhiệm của Việt Nam tại các cơ chế hợp tác đa phương như Tổ chức Cảnh sát các nước ASEAN (ASEANPOL), Tổ chức Cảnh sát Hình sự quốc tế (INTERPOL), Diễn đàn hợp tác phòng chống tội phạm xuyên quốc gia giữa các nước ASEAN, Diễn đàn

an ninh khu vực (ARF), Hội nghị Những người đứng đầu cơ quan an ninh các nước ASEAN (MACOSA)...

6. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, dân tộc, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ và các lĩnh vực khác

a) Rà soát các nội dung cam kết quốc tế của Việt Nam và tình hình triển khai thực hiện, phương hướng tham gia các cam kết quốc tế trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế và các lĩnh vực khác để đề xuất lộ trình triển khai thực hiện.

b) Lồng ghép các hoạt động hội nhập quốc tế vào quá trình xây dựng và triển khai các chiến lược, kế hoạch, đề án về phát triển văn hóa - xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, lao động, y tế, thể thao..., nhằm tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ quốc tế, tiếp thu kiến thức, tinh hoa văn hóa nhân loại, quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam với bạn bè quốc tế, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.

c) Xây dựng và triển khai Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Tăng cường vai trò chủ động của Việt Nam tại các thể chế, diễn đàn đa phương về văn hóa (tham gia các công ước, các cơ quan của UNESCO, các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ ASEAN, APEC, ASEM...). Nâng cao chất lượng, thành tích trong các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao ở khu vực và thế giới, khai thác tối đa hiệu quả hợp tác du lịch song phương và đa phương phục vụ phát triển bền vững. Tiếp tục triển khai Chiến lược Ngoại giao Văn hóa đến năm 2020.

d) Xây dựng và triển khai Chiến lược hội nhập quốc tế về lao động và xã hội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

đ) Triển khai Đề án đóng góp xây dựng và triển khai kế hoạch thực hiện các mục tiêu của Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN.

e) Triển khai hiệu quả Đề án hội nhập quốc tế về khoa học công nghệ đến năm 2020.

g) Triển khai hiệu quả Đề án hội nhập quốc tế về giáo dục và dạy nghề đến năm 2020, các hoạt động hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo trong khuôn khổ các tổ chức khu vực và quốc tế như Hội nghị Bộ trưởng Giáo dục Á - Âu (ASEMME), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), Tổ chức Bộ trưởng Giáo dục các nước Đông Nam Á (SEAMEO)...

h) Xây dựng và triển khai Chiến lược hội nhập quốc tế về công tác dân tộc đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Đề án tăng cường hợp tác quốc tế hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

100

i) Xây dựng và triển khai kế hoạch thực hiện các cam kết trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế chuyên ngành mà Việt Nam là thành viên, nhất là các tổ chức liên chính phủ và các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc. Tăng cường tham gia các cơ chế hợp tác giải quyết vấn đề môi trường, đề xuất các sáng kiến của Việt Nam nhằm đóng góp

tích cực cho nỗ lực chung ứng phó biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, rừng, nguồn nước, động vật, thực vật, phòng chống thiên tai....

k) Mở rộng quan hệ hợp tác nghiệp vụ, trao đổi thông tin với các hãng thông tấn, phát thanh truyền hình nước ngoài. Tăng cường tham dự các Hiệp hội, diễn đàn đa phương về truyền thông. Củng cố và tăng cường mạng lưới Cơ quan thường trú ở nước ngoài.

l) Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng, văn hóa, thông tin, tuyên truyền; đấu tranh có hiệu quả nhằm hạn chế các tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế về xã hội, văn hóa, tư tưởng, đạo đức, lối sống.

III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Trên cơ sở những nội dung nhiệm vụ chủ yếu trong Chương trình hành động này và căn cứ chức năng, nhiệm vụ đã được phân công, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo xây dựng Chương trình hành động của Bộ, ngành, địa phương mình, báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế trong tháng 6 năm 2014, trên cơ sở đó, cụ thể hóa thành các nhiệm vụ trong kế hoạch công tác hàng năm.

2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập trung chỉ đạo, tăng cường kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện Chương trình hành động này; định kỳ hàng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Trưởng Ban Chỉ đạo tình hình thực hiện.

3. Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế tham mưu giúp Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, đôn đốc việc triển khai thực hiện Chương trình hành động này, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư về tình hình thực hiện.

101

4. Trong quá trình tổ chức thực hiện Chương trình hành động này, nếu thấy cần sửa đổi, bổ sung những nội dung cụ thể của Chương trình, các Bộ, ngành, địa phương chủ động báo cáo Thủ tướng Chính phủ - Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế xem xét, quyết định./.

PHỤ LỤC

NHỮNG CÔNG VIỆC CẦN TRIỂN KHAI THỰC HIỆN (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 31/NQ-CP ngày 13/5/2014 của Chính phủ)

TT

Nội dung công việc

Sản phẩm

Cơ quan chủ trì

Cơ quan phối hợp

Thời gian thực hiện và hoàn thành

1 Thông tin, tuyên truyền, quán triệt Nghị quyết

1.1 Phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung

Các lớp tập huấn theo từng địa bàn

Bộ Ngoại giao Các Bộ, ngành, địa phương

ương tổ chức quán triệt Nghị quyết 22- NQ/TW của Bộ Chính trị và Chương trình hành động tới các tổ chức Đảng các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan trung ương, địa phương và các doanh nghiệp

1.2 Tuyên truyền về chủ trương hội nhập

2014

Bộ Ngoại giao Các Bộ, ngành liên quan

Các đề án tuyên truyền, các hoạt động đối ngoại

quốc tế đến các đối tác, cộng đồng quốc tế và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài

2014 - 2016

Bộ Thông tin và Truyền thông

Các bản tin, bài báo, chương trình phát thanh và truyền hình

Các cơ quan báo chí ở trung ương và địa phương

1.3 Thực hiện các chương trình phát thanh và truyền hình tuyên truyền về hội nhập quốc tế; quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, thông tin về Việt Nam tới các nước trên thế giới thông qua các mối quan hệ hợp tác về phát thanh truyền hình, các hoạt động trao đổi phóng viên viết bài

Bộ Công Thương

2014 - 2016

Các Bộ, ngành, địa phương

Các chương trình tuyên truyền, bài viết, ấn phẩm

1.4 Thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức về tình hình hội nhập kinh tế quốc tế, các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về Cộng đồng Kinh tế ASEAN, sự tham gia của Việt Nam trong WTO và các thỏa thuận thương mại tự do

102

2014 - 2016

2 Xây dựng thể chế và nâng cao năng lực hội nhập quốc tế

2.1 Xây dựng Chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030

Bộ Ngoại giao Các Bộ, ngành, địa phương

Dự thảo Chiến lược trình Thủ tướng Chính phủ và Bộ Chính trị

2.2 Xây dựng các Đề án về hoàn thiện thể

Bộ Tư pháp

2015

Các Đề án trình Thủ tướng Chính phủ và Quốc hội

Các Bộ, ngành, địa phương liên quan

chế pháp luật đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, cụ thể: (i) Xây dựng Luật về tư pháp quốc tế; (ii) Rà soát bổ sung các quy định trong Bộ luật hình sự để thực hiện các công ước quốc tế liên quan mà Việt Nam là thành viên; (iii) Đề xuất gia nhập Công ước La Hay về tống đạt giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp

2.3 Đề xuất việc sửa đổi, bổ sung Luật ký

2014 - 2016

Các Đề án trình Thủ tướng Chính phủ, Quốc hội

kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế và Pháp lệnh ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế

Bộ Ngoại giao Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành liên quan

2.4 Xây dựng Đề án về Chính sách phát

2014 - 2015

Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Đề án trình Thủ tướng Chính phủ

Các Bộ, ngành liên quan

triển đồng bộ kết cấu hạ tầng, gắn phát triển kết cấu hạ tầng trong nước với mạng lưới hạ tầng trong các liên kết khu vực

2014

Đề án trình Thủ tướng Chính phủ

2.5 Xây dựng Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đối ngoại của các Bộ, ngành, địa phương phục vụ hội nhập quốc tế

Bộ Ngoại giao Các Bộ, ngành liên quan

Các chương trình giảng dạy

2014

Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo

Các Bộ, ngành liên quan

2.6 Đưa nội dung “hội nhập quốc tế” vào chương trình giảng dạy tại các trường Đảng, trường hành chính, các trường đại học và cao đẳng, các trường và trung tâm đào tạo của các Bộ, ban, ngành

Bộ Tư pháp

Đề án trình Thủ tướng Chính phủ

2014 - 2015

Các Bộ, ngành, địa phương liên quan

2.7 Xây dựng Đề án tăng cường kiến thức pháp luật quốc tế và các kỹ năng xử lý các vấn đề pháp luật quốc tế cho đội ngũ cán bộ pháp chế các Bộ, ngành và địa phương

2.8 Xây dựng Đề án tăng cường đào tạo

2014 - 2016

Bộ Công Thương

Các Bộ, ngành liên

Đề án trình Thủ tướng Chính phủ

nguồn nhân lực hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là cán bộ tham gia đàm phán kinh

103

2014

tế, thương mại quốc tế

quan

3 Hội nhập kinh tế quốc tế

3.1 Rà soát, cập nhật và tổ chức thực hiện

Bộ Công Thương

Báo cáo trình Chính phủ

Các Bộ, ngành, địa phương liên quan

Chương trình hành động của Chính phủ tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa X về một số chủ trương lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững sau khi Việt Nam là thành viên WTO

3.2 Xây dựng Chiến lược hội nhập kinh tế

2013 - 2014

quốc tế đến năm 2020

Bộ Công Thương

Các Bộ, ngành, địa phương

Dự thảo Chiến lược trình Thủ tướng Chính phủ

3.3 Xây dựng Báo cáo tổng kết, đánh giá

Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Báo cáo Thủ tướng Chính phủ

2014

Các Bộ, ngành liên quan

tổng thể tình hình kinh tế - xã hội nước ta sau 10 năm gia nhập WTO. Xây dựng Báo cáo “Việt Nam 2030” làm cơ sở hoạch định chính sách phát triển, hội nhập quốc tế cho Việt Nam đến 2030

2014 - 2016

Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Đề án trình Thủ tướng Chính phủ

3.4 Xây dựng Đề án xây dựng cơ chế, chính sách phát triển nền kinh tế xanh ở Việt Nam

Các Bộ, ngành liên quan

3.5 Xây dựng Đề án tăng cường kết nối giao

2014

thông vận tải trong ASEAN

Bộ Giao thông vận tải

Đề án trình Thủ tướng Chính phủ

Các Bộ, ngành liên quan

2014

3.6 Xây dựng Chiến lược hội nhập quốc tế của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Các Bộ, ngành liên quan

Dự thảo Chiến lược trình Thủ tướng Chính phủ

2014

Đề án trình Thủ tướng Chính phủ

3.7 Xây dựng Đề án đẩy mạnh việc tham gia vào các thể chế tiền tệ - ngân hàng khu vực và quốc tế

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Các Bộ, ngành liên quan

2015

4 Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chính trị

4.1 Xây dựng và triển khai các Đề án tham

gia, đề xuất, thúc đẩy sáng kiến của Việt Nam tại các diễn đàn đa phương

Bộ Ngoại giao Các Bộ, ngành liên quan

Các Đề án trình Thủ tướng Chính phủ

4.2 Xây dựng các Đề án gia nhập các tổ

chức, diễn đàn mới; chuẩn bị nhân sự

Bộ Ngoại giao, các Bộ quản lý

Các Bộ, ngành liên

Các Đề án trình Thủ tướng Chính

2014 - 2016

104

2014 - 2016

chuyên ngành

quan

phủ, Bộ Chính trị

người Việt Nam để đưa vào làm việc và ứng cử vào các vị trí công việc quan trọng trong các tổ chức quốc tế

5 Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng

5.1 Xây dựng Chiến lược hội nhập quốc tế

về quốc phòng đến năm 2020

Bộ Quốc phòng

Các Bộ, ngành liên quan

Dự thảo Chiến lược trình Thủ tướng Chính phủ và Bộ Chính trị

2014

Bộ Quốc phòng

Bộ Ngoại giao

5.2 Xây dựng chiến lược hội nhập về quốc phòng với ASEAN và các nước đối tác, đối thoại của ASEAN đến năm 2020

Dự thảo Chiến lược trình Thủ tướng Chính phủ

2014

5.3 Xây dựng Chiến lược hội nhập quốc tế trong lĩnh vực an ninh đến năm 2020

Bộ Công an Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao

Dự thảo Chiến lược trình Thủ tướng Chính phủ

2014

6 Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, dân tộc, giáo dục - đào tạo, khoa học -

công nghệ và các lĩnh vực khác

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Các Bộ, ngành liên quan

Dự thảo Chiến lược trình Thủ tướng Chính phủ

6.1 Xây dựng Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030; Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa

2014

6.2 Xây dựng Chiến lược hội nhập quốc tế về lao động và xã hội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội

Các Bộ, ngành liên quan

Dự thảo Chiến lược trình Thủ tướng Chính phủ

2014

Đề án trình Thủ tướng Chính phủ

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội

Các Bộ, ngành liên quan

6.3 Xây dựng Kế hoạch thực hiện các cam kết trong khuôn khổ Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và các tổ chức khác thuộc hệ thống Liên hợp quốc trong lĩnh vực lao động - xã hội giai đoạn 2014 - 2020 và tầm nhìn đến 2030

6.4 Xây dựng Đề án tăng cường tham gia

2014

Bộ Tài nguyên và Môi trường

Đề án trình Thủ tướng Chính phủ

Các Bộ, ngành liên quan

các cơ chế hợp tác giải quyết vấn đề môi trường trong khuôn khổ đàm phán Hiệp định thương mại tự do (FTA)

2014

Ủy ban Dân tộc

Các Bộ, ngành liên quan

6.5 Xây dựng Chiến lược hội nhập quốc tế về công tác dân tộc đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Đề án tăng cường hợp tác quốc tế hỗ trợ phát triển kinh tế

Dự thảo Chiến lược/Đề án báo cáo trình Thủ tướng Chính phủ

105

2014

- xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số

6.6 Xây dựng và triển khai các dự án trọng

điểm trong quy hoạch phát thanh, truyền hình đối ngoại đến năm 2020

Các Đề án, báo cáo trình Thủ tướng Chính phủ

Các đài phát thanh truyền hình địa phương

Bộ Thông tin và Truyền thông, Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam

Thanh tra Chính phủ

2014 - 2016

Các Bộ, ngành liên quan

Các Đề án, báo cáo trình Thủ tướng Chính phủ

6.7 Xây dựng Kế hoạch thực hiện cam kết của ta khi tham gia Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng, Kế hoạch phát huy vai trò của Việt Nam tại các diễn đàn của ASEAN và khu vực về phòng chống tham nhũng

2014 - 2016

Bảo hiểm xã hội Việt Nam

6.8 Xây dựng Chiến lược hợp tác quốc tế và hội nhập quốc tế của ngành Bảo hiểm xã hội đến năm 2020

Các Bộ, ngành liên quan

Dự thảo Chiến lược trình Thủ tướng Chính phủ

2014

Nguồn: http://thuvienphapluat.vn/archive/Nghi-quyet-31-NQ-CP-2014-

106

Chuong-trinh-hanh-dong-thuc-hien-Nghi-quyet-22-NQ-TW-hoi-nhap-quoc-te- vb229515.aspx

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ --------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ----------------

Số: 15/CT-TTg Hà Nội, ngày 07 tháng 07 năm 2015

CHỈ THỊ

TIẾP TỤC TRIỂN KHAI NGHỊ QUYẾT 22 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ

VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Quán triệt Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10 tháng 4 năm 2013 của Bộ Chính trị (Nghị quyết 22) về hội nhập quốc tế, Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động và thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế gồm Ban Chỉ đạo liên ngành về chính trị, an ninh, quốc phòng, Ban Chỉ đạo liên ngành về kinh tế, Ban Chỉ đạo liên ngành về văn hóa xã hội, khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo. Ban Chỉ đạo quốc gia và các Ban Chỉ đạo liên ngành cùng các Bộ, ngành, địa phương đã tích cực triển khai các chương trình, nhiệm vụ đề ra và đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tích cực tranh thủ các nguồn lực cho phát triển bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; củng cố môi trường hòa bình, ổn định; quảng bá và nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên thế giới.

Tuy nhiên, công tác triển khai hội nhập quốc tế vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Nhận thức của các Bộ, ngành, địa phương chưa thực sự đầy đủ và thống nhất; công tác phối hợp triển khai chưa nhịp nhàng, chặt chẽ. Thông tin tuyên truyền đến doanh nghiệp và nhân dân chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Việc nội luật hóa để thực hiện các cam kết quốc tế chưa đầy đủ và đồng bộ. Sự chuẩn bị trong nước đối với các cam kết sắp phải thực hiện còn chậm và thiếu chủ động.

Những năm tới có ý nghĩa rất quan trọng đối với công cuộc phát triển đất nước. Tình hình thế giới thay đổi nhanh, diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường; tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên, xung đột sắc tộc, các thách thức an ninh phi truyền thống nổi lên gay gắt. Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, đồng thời cũng là trọng điểm cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Quá trình toàn cầu hóa và những tiến bộ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ tác động sâu rộng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới. Xu hướng liên kết kinh tế, thương mại, đầu tư, kết nối hạ tầng đa tầng nấc gia tăng; xuất hiện các hình thức liên kết mới, các định chế tài chính - tiền tệ, các hiệp định kinh tế, thương mại, đầu tư song phương và đa phương thế hệ mới, trong đó có việc Cộng đồng ASEAN hình thành vào cuối năm 2015. Tình hình trên đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục chủ động, tích cực đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện trên các lĩnh vực nhằm nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, để hội nhập quốc tế thực sự trở thành 107

phương tiện hữu hiệu phục vụ phát triển bền vững và bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia.

Để đạt được những mục tiêu trên, Thủ tướng Chính phủ, Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế chỉ thị về các nhiệm vụ cấp bách cần thực hiện trong 2 - 3 năm tới như sau:

1. Các Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về chính trị, an ninh, quốc phòng, về kinh tế, về văn hóa xã hội, khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng tham mưu chính sách; vận hành thông suốt, nhịp nhàng cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành; giữa các Bộ phận giúp việc của Ban Chỉ đạo quốc gia và các Ban Chỉ đạo liên ngành; giữa các Ban Chỉ đạo với các cơ quan đầu mối hội nhập quốc tế ở địa phương.

2. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ:

- Xác định hội nhập quốc tế là một nhiệm vụ ưu tiên và phân công, kiện toàn các bộ phận đầu mối phụ trách; khẩn trương rà soát, hoàn thành đúng thời hạn các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 31/NQ-CP ngày 13 tháng 5 năm 2014 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 22 của Bộ chính trị về hội nhập quốc tế và Nghị quyết số 49/NQ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2014 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

- Tập trung cao độ các nguồn lực để sớm hoàn tất, ký kết và chuẩn bị triển khai hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) đang đàm phán theo đúng yêu cầu đặt ra.

- Đẩy mạnh nâng cao vai trò đối ngoại đa phương theo hướng chủ động đóng góp, tích cực tham gia vào việc xây dựng và định hình các cơ chế hợp tác đa phương phù hợp với lợi ích đất nước. Tăng cường nghiên cứu, đề xuất và triển khai các sáng kiến, đóng góp tại các diễn đàn quan trọng, chú trọng nội hàm phát triển bền vững và ứng phó với các thách thức có tính toàn cầu, nhằm phát huy vai trò thành viên có trách nhiệm và nâng cao vị thế của Việt Nam.

- Hỗ trợ hiệu quả các địa phương, doanh nghiệp và hiệp hội ngành nghề mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại; đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về các cơ hội và thách thức của hội nhập, đặc biệt là về Cộng đồng ASEAN, các cam kết kinh tế, thương mại mới của Việt Nam. Chú trọng đối thoại, tiếp nhận và xử lý ý kiến, đề xuất của các đối tượng chịu tác động từ các cam kết hội nhập quốc tế để đảm bảo hội nhập mang lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp và người dân.

108

- Tăng cường rà soát, triển khai nội luật hóa đầy đủ, rõ ràng, minh bạch và đồng bộ các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia; sửa đổi những quy định không còn phù hợp; chủ động có kế hoạch chuẩn bị nội luật hóa cho các cam kết sắp tham gia. Chủ động nghiên cứu, đề xuất việc tham gia và tích cực góp phần xây dựng các điều

ước quốc tế, phát huy vai trò tại các cơ chế về luật pháp và tư pháp quốc tế, nhất là trong lĩnh vực tranh chấp thương mại quốc tế và Luật Biển.

- Chủ động theo dõi, rà soát tình hình thực hiện cam kết hội nhập quốc tế của các nước và kịp thời kiến nghị chủ trương, biện pháp xử lý phù hợp để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam. Chú trọng công tác chuẩn bị, phòng ngừa và xử lý các tranh chấp quốc tế.

- Xây dựng và triển khai kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn bị nguồn nhân lực

tham gia hội nhập quốc tế trong ngành, lĩnh vực phụ trách.

3. Bộ Ngoại giao:

- Chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an nghiên cứu, đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả hợp tác song phương và tham gia các cơ chế, diễn đàn đa phương về chính trị - an ninh - quốc phòng, phục vụ hiệu quả các mục tiêu an ninh, phát triển của đất nước.

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng định hướng đối ngoại đa phương của Việt Nam đến 2030, trong đó có việc đào tạo đội ngũ cán bộ đa phương; nghiên cứu, kiến nghị đưa chủ trương “nâng tầm đối ngoại đa phương” vào các văn kiện của Đảng và Nhà nước.

- Chủ trì tham mưu giúp Thủ tướng Chính phủ, Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế đôn đốc các Bộ, ngành, địa phương triển khai các trọng tâm đối ngoại đa phương theo chức năng, nhiệm vụ của mình, bao gồm: (i) Đảm nhận các trọng trách quốc tế, đăng cai tổ chức thành công các hoạt động đa phương lớn; (ii) Xây dựng Tầm nhìn ASEAN sau 2015 và phát huy vai trò trung tâm của ASEAN ở khu vực; nâng cao hiệu quả hợp tác tiểu vùng Mê Công; (iii) Thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế; (iv) Phát huy hiệu quả các FTA đã ký kết, thúc đẩy hoàn tất và triển khai các FTA sẽ ký kết; (v) Góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định và ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, thúc đẩy nội hàm phát triển bền vững; (vi) Đẩy mạnh vận động chính trị, ngoại giao để các đối tác sớm công nhận quy chế kinh tế thị trường trước ngày 31 tháng 12 năm 2018; (vii) Nâng cao hiệu quả hợp tác đa phương về văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, giáo dục đào tạo và các lĩnh vực khác; (viii) Nâng cao hiệu quả phối hợp liên ngành và chất lượng đội ngũ cán bộ đa phương.

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan triển khai Lộ trình chuẩn bị đăng cai Hội nghị cấp cao Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 25 và các hoạt động của Năm APEC 2017. Đẩy mạnh vận động ứng cử vào các vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, thành viên Hội đồng Kinh tế - Xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016 - 2018, Hội đồng Chấp hành Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) nhiệm kỳ 2015 - 2019.

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan hoàn thiện dự thảo Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế (sửa đổi) trình Chính phủ cho ý kiến trước kỳ 109

họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII; nghiên cứu, đề xuất tham gia thêm một số Công ước Liên hợp quốc về nhân quyền vào thời điểm thích hợp; tiếp tục triển khai Đề án xây dựng đội ngũ pháp lý tham gia các cơ quan pháp lý quốc tế giai đoạn 2012 - 2015 và định hướng đến 2020, xây dựng Đề án xác định và vận động ứng cử viên vào Ủy ban Luật pháp quốc tế của Liên hợp quốc (ILC); nghiên cứu, đề xuất kế hoạch vận động người Việt Nam ở nước ngoài làm việc cho các tổ chức quốc tế hỗ trợ cho hội nhập quốc tế của đất nước.

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng Đề án đào tạo, bồi dưỡng, cử đại diện Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế, trình Thủ tướng Chính phủ trong Quý IV năm 2015.

4. Bộ Quốc phòng:

- Xây dựng Chiến lược hội nhập quốc tế về quốc phòng đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Chiến lược hội nhập quốc phòng với ASEAN, Đề án hợp tác phát triển công nghiệp quốc phòng 10 năm giai đoạn 2016 - 2025.

- Chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Ngoại giao kiến nghị các biện pháp tăng cường tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc (PKO), đưa nhân sự vào làm việc tại cơ quan PKO, tranh thủ sự hỗ trợ của Liên hợp quốc và các nước để nâng cao năng lực tham gia PKO cho Việt Nam.

- Chủ trì đề xuất các biện pháp tăng cường các mối quan hệ quốc phòng song phương, các sáng kiến nhằm xây dựng lòng tin, nâng cao vai trò của Việt Nam tại các diễn đàn đa phương về quốc phòng; xây dựng kế hoạch triển khai các hoạt động kiểm soát phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, các hoạt động diễn tập chung với lộ trình phù hợp với khả năng của quân đội ta.

- Chủ trì đẩy mạnh hợp tác trong các lĩnh vực bảo vệ biên giới quốc gia, chủ quyền và quyền chủ quyền trên biển, an ninh biển, thực thi pháp luật trên biển, tìm kiếm cứu nạn, giải quyết hậu quả chiến tranh, kỹ thuật quân sự và thương mại quân sự.

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương quản lý chặt chẽ các hoạt động đầu tư, kinh doanh có yếu tố nước ngoài trên các địa bàn quan trọng về quốc phòng, an ninh.

5. Bộ Công an:

- Chủ trì đề xuất các biện pháp tăng cường quan hệ hợp tác về an ninh, cảnh sát, tình báo với cơ quan thực thi pháp luật các nước; thúc đẩy các cơ chế Đối thoại an ninh; xây dựng, triển khai các kế hoạch, đề án tăng cường hợp tác tình báo, hành động tình báo với các nước ASEAN, các nước lớn; tăng cường triển khai các kế hoạch phối hợp tấn công trấn áp các loại tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài.

110

- Chủ trì triển khai cam kết, đề xuất các sáng kiến tại các tổ chức Cảnh sát Hình sự Quốc tế (INTERPOL), Cảnh sát ASEAN (ASEANAPOL) và Hội nghị Những người đứng đầu cơ quan an ninh các nước ASEAN (MACOSA); các sáng kiến thúc

đẩy hợp tác phòng chống ma túy trong khuôn khổ Liên hợp quốc, ASEAN và 6 nước tiểu vùng sông Mê Công; tăng cường phối hợp chặt chẽ với các thành viên INTERPOL, ASEANAPOL... đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội và đóng góp gìn giữ an ninh, hòa bình khu vực và quốc tế.

- Chủ trì đảm nhận thành công vai trò Giám đốc điều hành, Giám đốc Cảnh sát, Giám đốc Kế hoạch của Ban Thư ký ASEANAPOL; nghiên cứu, kiến nghị giới thiệu nhân sự ứng cử vào Ban lãnh đạo thường trực INTERPOL, cử cán bộ làm việc tại Tổ hợp toàn cầu của INTERPOL và Ban Thư ký INTERPOL.

- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan chủ động đề xuất, xây dựng các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế song phương và tham gia các điều ước đa phương về an ninh, trật tự, trong đó tập trung vào các văn bản hợp tác về phòng, chống tội phạm, đào tạo cán bộ, các hiệp định về dẫn độ, chuyển giao người bị kết án phạt tù. Đẩy mạnh hợp tác, tranh thủ hỗ trợ quốc tế trong cung cấp trang bị và đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ làm công tác phòng chống các loại tội phạm công nghệ cao, khủng bố, ma túy, rửa tiền; lực lượng phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ và ứng phó, xử lý thảm họa, an ninh mạng...

6. Bộ Công Thương:

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tập trung nguồn lực sớm hoàn tất, ký kết và chuẩn bị triển khai các liên kết kinh tế, thương mại then chốt, bao gồm Cộng đồng Kinh tế ASEAN và các FTA giữa ASEAN với các đối tác, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), các FTA với Liên minh châu Âu (EU), Khối Thương mại tự do châu Âu (EFTA); chủ động, tích cực triển khai các FTA mới được ký kết giữa Việt Nam và Liên minh kinh tế Á-Âu, Việt Nam và Hàn Quốc; trong đó chú trọng tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa Bộ, ngành; nắm bắt quan tâm, mức độ sẵn sàng của các địa phương, doanh nghiệp để định hướng tranh thủ cơ hội và đáp ứng yêu cầu thực hiện các cam kết FTA phù hợp với Chiến lược tham gia FTA của Việt Nam. Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất đàm phán các FTA mới hướng đến việc đa dạng hóa thị trường.

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan chuẩn bị triển khai rà soát giữa kỳ việc thực hiện Mục tiêu Bô-go về tự do hóa thương mại và đầu tư vào năm 2016 và các cam kết khác trong APEC đến 2016.

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan hoàn tất thực hiện các cam kết trong WTO và tích cực tham gia vòng đàm phán Đô-ha; chủ động tận dụng hiệu quả các cơ chế đa phương, nhất là các cơ chế của WTO, để tổ chức cảnh báo sớm và kháng kiện hiệu quả các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam; đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại; bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động và doanh nghiệp Việt Nam

111

- Chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao, các Bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là về

các FTA đã ký kết, đang đàm phán và sẽ ký kết, về gói cam kết Ba-li và về Cộng đồng Kinh tế ASEAN... đến các địa phương và doanh nghiệp.

7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư:

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan đánh giá tác động của việc tham gia và triển khai thực hiện các FTA thế hệ mới đang đàm phán đối với kinh tế - xã hội Việt Nam; xây dựng cơ chế chính sách chủ động thu hút đầu tư và viện trợ phát triển trong tình hình mới.

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan triển khai hiệu quả và tận dụng tốt các cơ hội từ Kế hoạch kết nối tổng thể ASEAN và Kế hoạch kết nối tổng thể APEC 2015 - 2025, rà soát việc triển khai Chiến lược tăng trưởng APEC 2010 - 2015 và Chiến lược cải cách cơ cấu APEC 2010 - 2015.

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, nghiên cứu các vấn đề mới nổi lên trong kinh tế thế giới bao gồm: chiến lược phát triển kinh tế đại dương xanh, kinh tế mạng điện tử, cụm liên kết ngành, kết nối chuỗi giá trị sản xuất và đề xuất chủ trương, biện pháp đối với vấn đề này.

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan chủ động rà soát, đánh giá, bổ sung, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến các vấn đề mua sắm chính phủ, hợp tác công tư, đấu thầu cho phù hợp với các cam kết quốc tế; tận dụng hiệu quả các cơ chế hợp tác cho các đối tác đang phát triển về nâng cao năng lực tuân thủ, thực thi, giám sát các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.

8. Bộ Tài chính:

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan đánh giá tác động của việc thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế đối với thu chi ngân sách trong giai đoạn 2015 - 2020.

- Chủ trì hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành chính về thuế

và hải quan, phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam.

9. Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan thúc

đẩy, tăng cường triển khai kết nối giao thông vận tải trong ASEAN.

10. Bộ Xây dựng đẩy mạnh công tác liên kết đô thị giữa các thành phố lớn của Việt Nam với các thành phố lớn trên thế giới hướng tới phát triển đô thị bền vững, nâng cao chất lượng đô thị, gìn giữ bản sắc kiến trúc đô thị Việt Nam.

11. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan đề xuất các sáng kiến nhằm nâng tầm đóng góp của Việt Nam trong các lĩnh vực an ninh lương thực và thích ứng với biến đổi khí hậu, xóa đói giảm nghèo, hướng đến phát triển bền vững.

112

12. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Ngoại giao, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và các Bộ, ngành liên quan tham gia và hoàn tất phê chuẩn các công ước cơ bản của Tổ chức Lao động quốc

tế (ILO) và các công ước liên quan của Liên hợp quốc về lao động, việc làm, an sinh xã hội, quyền phụ nữ và trẻ em; nghiên cứu, kiến nghị các biện pháp xử lý các vấn đề về lao động trong hội nhập kinh tế quốc tế, đề xuất các biện pháp đảm bảo việc thực hiện các cam kết quốc tế về lao động và xã hội.

13. Bộ Khoa học và Công nghệ:

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tăng cường tiếp cận, tìm hiểu, nghiên cứu thông tin khoa học công nghệ quốc tế để phục vụ phổ cập, ứng dụng trong nước; đẩy mạnh vận động, đề xuất các biện pháp khuyến khích các chuyên gia, nhà khoa học người nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia các chương trình dự án nghiên cứu, đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ.

- Chủ động, tích cực tham gia có hiệu quả các chương trình hợp tác khu vực, các hiệp định, thỏa thuận song phương và đa phương về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng; cập nhật, theo dõi sát sao để đảm bảo thực thi tốt pháp luật quốc tế về sở hữu trí tuệ, tăng cường hợp tác quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, triển khai việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, thiết lập mạng thông tin quốc gia về hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

14. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan điều chỉnh chương trình đào tạo, dạy nghề và nâng cao chất lượng giáo viên, giảng viên, phù hợp với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế; hướng tới việc văn bằng của Việt Nam được công nhận trong khu vực và trên thế giới.

15. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương triển khai Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030; tăng cường triển khai các hoạt động quảng bá hình ảnh và đất nước, con người Việt Nam; chủ động rà soát các phong tục, lễ hội truyền thống trong nước phù hợp với hội nhập quốc tế.

16. Bộ Y tế chủ trì đẩy mạnh tham gia các diễn đàn đa phương về y tế, tăng cường hợp tác về y tế với các đối tác phát triển, các đối tác nước ngoài, các trung tâm khoa học quốc tế lớn; tăng cường điều phối hiệu quả các nguồn viện trợ cho y tế.

17. Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất chủ trương, sáng kiến của ta về các vấn đề ứng phó biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, quản lý và sử dụng bền vững nguồn nước và tài nguyên thiên nhiên.

18. Bộ Thông tin và Truyền thông:

113

- Chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các cơ quan liên quan xây dựng và triển khai kế hoạch thông tin tuyên truyền về các sự kiện hội nhập quốc tế nổi bật hàng năm của Việt Nam để nâng cao, thống nhất nhận thức và sự ủng hộ của toàn xã hội đối với chủ trương hội nhập quốc tế.

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí đẩy mạnh triển khai các hoạt động thông tin đối ngoại và thông tin, tuyên truyền trong nước về các chủ trương, đường lối đối ngoại, chính sách hợp tác và phát triển, hội nhập quốc tế của Việt Nam.

19. Bộ Tư pháp:

- Chủ trì điều phối các Bộ, ngành liên quan tích cực rà soát, kiến nghị điều chỉnh, sửa đổi, bãi bỏ, bổ sung các quy định của pháp luật Việt Nam để phù hợp với các cam kết hội nhập quốc tế của Việt Nam.

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành tăng cường hợp tác đa phương trong lĩnh vực pháp luật, nhất là về tư pháp quốc tế; phối hợp giải quyết các tranh chấp đầu tư quốc tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Chính phủ Việt Nam.

20. Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và triển khai kế hoạch nâng cao vai trò, vị thế Việt Nam tại các thể chế tài chính - tiền tệ - ngân hàng mà Việt Nam hiện đang là thành viên; đẩy mạnh nghiên cứu, đề xuất tham gia các tổ chức tài chính quốc tế khác.

21. Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan triển khai hiệu quả các cam kết của Việt Nam về chống tham nhũng tại các cơ chế đa phương.

22. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:

- Chủ động xây dựng và triển khai kế hoạch hành động về hội nhập quốc tế của địa phương, chú trọng nâng cao năng lực hội nhập, cạnh tranh, đề xuất các yêu cầu, vướng mắc cần sự hỗ trợ của Trung ương.

- Rà soát các cơ chế, chính sách, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đẩy

mạnh cải cách hành chính phù hợp với các cam kết quốc tế và yêu cầu của hội nhập.

- Chủ động thúc đẩy quan hệ hợp tác cấp địa phương với các đối tác nước ngoài, tham gia các chương trình hợp tác tiểu vùng, tích cực đàm phán, ký kết và triển khai hiệu quả, thực chất các thỏa thuận hợp tác cấp địa phương.

- Chủ động đề xuất các biện pháp táng cường liên kết giữa các địa phương nhằm phát huy, bổ sung cho nhau các lợi thế về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực. Thực hiện tốt các chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp trong hội nhập.

- Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực cán bộ địa phương phục

vụ hội nhập quốc tế.

23. Ủy ban nhân dân: thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng và các tỉnh, thành phố liên quan chủ động, tích cực chuẩn bị cơ sở vật chất phục vụ đăng cai tổ chức hội nghị quốc tế lớn tại Việt Nam và các hoạt động trong Năm APEC Việt Nam 2017.

114

24. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chủ động tăng cường nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về các cam kết kinh tế, thương mại mới của Việt

Nam; thúc đẩy sự chủ động tham gia hiệu quả của doanh nghiệp trong triển khai các hoạt động hội nhập quốc tế, trong đó có Năm APEC Việt Nam 2017.

25. Bộ Ngoại giao tổng hợp tình hình, định kỳ hàng năm báo cáo Thủ tướng

Chính phủ, Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia, kết quả thực hiện Chỉ thị này.

26. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm tổ chức, triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị này./

THỦ TƯỚNG

(Đã ký) Nguyễn Tấn Dũng

Nơi nhận: - Ban Bí thư Trung ương Đảng; - Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ; - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; - HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; - Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng; - Văn phòng Tổng Bí thư; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; - Văn phòng Quốc hội; - Tòa án nhân dân tối cao; - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTg, TGĐ Cổng TTĐT, các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo; - Lưu: VT, QHQT (3b).

115