LỜI CẢM ƠN

Qua nhiều năm, rất nhiều người đã mang đến cho tôi sự giúp đỡ, ủng hộ, và những

thông tin vô giá. Những lời khuyên và sự chia sẻ kiến thức hào phóng của họ đã giúp tôi

viết nên cuốn sách này cũng như phát triển những bể cá của riêng mình.

Xin gửi lời cảm ơn chân thành của tôi đến: Parker Adams, Sam Angil, Vince

Apauron, Ed Bauman, Jimmy Boswell, John Burleson, Tony Calfo, Dr. Bruce Carlson,

Greg Cook, C…s Cortese, Charles Delbeek, Peter J.Dziadyk, Dale Fox, Dirk Griffith,

LeRoy và Sally Jo Headlee, Dave Herr, Dr.Rob Hildreth, Roy Hoover, Ron Hunsiker,

Bob James, Dave Jancetic, Kelly Jedlicki, Sanjay Joshi, Stuart Keefer, Doug Kevis,

Millie Klevens, Jack Lentz, Dr.Peter Linden, Kurt Loos, Jeft Macaré, Tom Majocha, Bob

Mankin, Joy và Gary Meadows, Greg Meeker, Martin A.Moe, Jr., Edmund Mowka, Gary

Myers, Valeri Nahay, Alf Jacop Nilsen, Teresa Elaine Pallone, Dick Perrin, Dana Riddle,

Greg Sachs, Greg Scheimer, Mark Scott, Terry Seigel, Wayne Shang, Greg Smith, Julian

Sprung, Bob Stark, Howard Swimmer, Leng Sy, Perry Tishgart, Frank Tosto, Steve

Tyree, Tony Vargas, Penny Williams, Dave Wodecki, Kathleen Wood và Joe Yaiullo.

Tôi vô cùng biết ơn Jeff Voet (Tropical Fish World, Raleigh, North Carolina),

Tom Frakes (Aquarium System), Bob Fenner và Richard Harker không chỉ bởi những gợi

ý nhằm cải thiện bản thảo của tôi mà còn bởi họ đã là những chuyên gia trong việc trả lời

vô số các câu hỏi của tôi trong suốt quá trình hoàn thành bản thảo.

Nhiều người có vai trò tập hợp cuốn sách này, và tôi muốn cảm ơn nhà minh họa

Edward Kadune, nhà nhiếp ảnh John Goodman, nhà thiết kế Eugenie Seidenberg Delaney

và tất cả mọi người ở Microcosm. Cuốn sách này sẽ không thể có diện mạo này nếu

không nhờ có sự tham gia của Scott Michael và những bức ảnh tuyệt vời của anh ấy về

các loài vật.Tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn tới Jeffrey Turner, của câu lạc bộ Ocean Reefs

& Aquariums, Palm Beach, Florida, và Steve Lucas vì đã cung cấp các bức ảnh về đá

sống dựa trên hệ thống cá biển. Cũng xin cảm ơn Teresa và Roy Herndon từ Sea Critter ở

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Dover, Florida và Dennis Reynolds của Aqua Marine ở Hermosa Beach, California vì đã

cung cấp rất nhiều những mẫu đá sống và cát để chụp hình.

Cuối cùng, tôi rất lấy làm biết ơn Jim Prappas và Ken Billin của Pittsburgh Zoo

Aquarium, Ed và Brian Taimuty của cửa hàng Wet Pets Pet, và Dr. Michael Fontana và

Dr. John Cypher vì đã dành thời gian trong quỹ thời gian bận rộn của cho chúng tôi và để

chúng tôi được chụp hình những bể cá tuyệt đẹp tại nhà và tại các cửa hàng của họ.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Việc biên dịch cuốn sách đã được sự cho phép của tác giả để phổ biến cho cộng đồng

chơi. Việc xuất bản cần sự cho phép của đơn vị có bản quyền. Việc sử dụng bản dịch

cần được sự cho phép của đơn vị biên dịch:

Cộng đồng cá cảnh biển Việt Nam SeaLife Aquarium.

Website: www.cacanhbien.com.vn

Đơn vị biên dịch Saltwater Aquarium.

Website: www.saltwateraquarium.com.vn

ĐT: 0988823088

CHƯƠNG I

BẮT ĐẦU

Lên kế hoạch cho hệ thống của bạn: các lựa chọn căn bản và thiết bị dành cho bể cá

cảnh biển đầu tiên

SETUP MỘT BỂ CÁ NƯỚC MẶN là một sự nỗ lực đầy hứng khởi – tạo ra một

thế giới thu nhỏ dưới lòng đại dương đẹp mê ly, và chỉ bằng một vài chuẩn bị cũng như

lên kế hoạch cơ bản, sẽ chẳng còn gì phải bối rối hay đáng sợ nữa.

Mặc dù xây dựng một bể cá nước biển sẽ yêu cầu nhiều bước hơn một bể cá nước

ngọt, nhưng rất nhiều kỹ thuật cũng như thiết bị chúng cần cũng giống nhau và sẽ quen

thuộc với những ai đã từng nuôi cá trước đó (Vật lộn với một bể cá nước ngọt là một bài

tập dượt truyền thống đối với hầu hết những người chơi cá biển. Với những người học

nghề dũng cảm và nhanh nhẹn, việc khởi đầu ngay bằng một bể cá nước mặn cơ bản là

hoàn toàn có thể, nhưng việc có một vài thành công đầu tiên khi nuôi những con cá nước

ngọt với ít những đòi hỏi hơn sẽ là một tài sản lớn. )

Những người hào hứng mới chơi cá nước ngọt thường bắt đầu từ một ý thích chợt

lóe lên. Họ mang về nhà một bình cá vàng hoặc một cái bể 10 gallon với đầy đủ những

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

sinh vật cảnh như cây cỏ và những chí cá mà không hề tính toán trước. Với một bể cá

nước mặn, đó là một hành động dại dột mà không một cửa hàng cá có đạo đức nào lại

khuyến khích khách hàng của mình làm như vậy. Tôi rất mong các bạn đơn giản là dành

một chút thời gian để nghĩ về cái bể mà bạn muốn tạo ra trước khi bắt tay vào.

CÁC KẾ HOẠCH VÀ CHỌN LỰA

LẬP KẾ HOẠCH LÀ MỘT BƯỚC KHỞI ĐẦU LOGIC để setup một bể cá biển mới,

nhưng một vài người xem điều đó như là một kiểu bài tập về nhà để mà thờ ơ và sao lãng.

Thực ra, đó có thể là một niềm vui, kèm một cơ hội để xem xét những lựa chọn của bạn

về đá sống, thiết bị, và người cung cấp dịch vụ tại địa phương mà không phải chịu một áp

lực nào trong việc đưa ra quyết định mua.

Bên trái: Một hệ thống bể cá cảnh biển được lên kế hoạch công phu có thể trở

thành điểm thu hút nhất trong ngôi nhà. Phía trên: điều tra về các thiết bị tạo gian hàng

địa phương

DANH SÁCH NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN LÊN KẾ HOẠCH

CÁC LOẠI CÁ SẼ NUÔI? Chất liệu làm bể

 Một cộng đồng cá phức hợp (từ  Thủy tinh

những loài cá ngoan ngoãn đến cạnh  Acrylic

tranh một cách vừa phải) Loại giá đỡ

 Các loài nhỏ hơn và ngoan hơn  Giá đỡ bể

 Các loài lớn hơn và ưa cạnh tranh  Bàn, quầy, giá

hơn  Tự thiết kế

 Các loài đặc biệt______________  Loại khác________________

BỂ VÀ GIÁ ĐỠ Nắp đạy/mái che

Kích cỡ bể_____________________  Che phủ bằng thủy tinh

Vị trí đặt bể____________________  Nắp đậy kín

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

 Loại khác________________  Các loại khác______________

 Bơm nước hoặc khí (nếu cần) Phông bể

 Giấy vẽ Quạt tạo luồng (tổng dung tích bơm vào

 Sơn/loại khác nên gấp 5 đến 10 lần dung tích bể trên

một giờ) CHIẾU SÁNG

Số lượng cần___________________ Thể loại

BỘ LỌC SINH HỌC

 Đèn fluorescent đơn (không Đá sống

 Đã làm sạch khuyên dùng)

 Chưa làm sạch  Bóng fluorescent kép hoặc bóng

đôi Thể loại

 Đá quặng aragonite: số kg cần  Compact fluorescent

thiết_____________________  Đèn fluorescent công suất cao

 Đá ngầm: số kg cần thiết____  Loại khác_______________

 Đá ngầm hiếm: số kg cần Bóng đèn

thiết_____________________ Mẫu__________________________

 Các loại đá khác: Phân loại______________________

Số kg cần thiết_______________ Bộ lọc điện

Chất nền (xấp xỉ ¼ đến ½ cân Anh  Loại hộp nhỏ lắp ngoài

trên một gallon)  Loại treo ngoài

 Bột san hô khô: số kg____  Loại cao su xốp có thể chìm/loại

 Cát sống (không bắt buộc): số dùng trong

kg_________________ CÁC THIẾT BỊ/ĐIỆN KHÁC

 Lò sưởi (khuyến khích dùng loại BỘ LỌC CƠ HỌC VÀ HÓA HỌC

có công suất trung bình 2 đến 3 w Protein skimmer

 Dạng bể treo trên mỗi gallon)

 Đối lưu (đá khí)  Máy làm nhiễu động bể mặt (GFI)

 Venturi  Dây điện

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

 Thiết bị hẹn giờ chiếu sáng

 Máy khử tia UV (không bắt buộc)

 Bóng quang phổ rộng: số lượng

cần________________

 Bóng huỳnh quang: số lượng

cần_____________________

 Loại khác________________

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

THIẾT BỊ KIỂM TRA Nhiệt kế

 Bên trong  Bên ngoài

Tỷ trọng kế

 Loại nhỏ giọt và đọc thông số  Loại bằng thủy tinh và có thể nổi

Bộ dụng cụ kiểm tra nước

 Ammonic  Nitơrit  Nitơrat  pH  Alkalinity

NƯỚC Nguồn nước mặn

 Nước biển tự nhiên  Nước muối trộn dành cho bể cá____________  Số lượng yêu cầu_______________________

Xử lý nước

 Máy khử clo/khử amin (dành cho nước ống ở thành phố)  Máy lọc nước RO (không bắt buộc)  Máy khử ion hóa (không bắt buộc)  Máy lọc nước ống (không bắt buộc)

Bể cách ly

 Bể nhỏ (10 đến 20 gallon)  Bộ lọc bằng cao su xốp và có thể chìm (cùng với bơm khí hoặc

quạt tạo luồng)

 Máy sưởi  Nắp che  Nhiệt kế  Ống nhựa PVC hoặc các máy móc (đặt ở nơi kín)

Các món đồ hỗn tạp khác

 Nước muối hòa tan và thùng chứa  Thùng múc nước tiện lợi  Lưới  Hộp đựng con vật (dùng khi di chuyển/dành cho cá đang tập thích

nghi)

 Miếng giẻ hoặc cây lau chùi (dành cho bể kính hoặc acrylic)  Đệm chân không với ống xifông  Than hoạt tính (hoặc túi lọc nếu có thể)  Thức ăn cho cá

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Ở giai đoạn này, bạn sẽ bắt đầu khám phá ra loại cá mà bạn thực sự muốn nuôi, rồi

sau đó là nhắm vào các thiết bị hợp với nhu cầu và ngân sách, và bắt đầu lên kế hoạch để

chuẩn bị cho vẻ bề ngoài và khung trang trí cho bể cá.

Suy nghĩ về những gì sẽ được cho vào bể bây giờ và thiết kế tổng thể của bể cá sẽ

đi cùng với những gì quyết định thành công của bể cá trong dài hạn. Với tất cả mọi người,

điều thường thấy là kế hoạch setup một bể cá thường là một quyết định bốc đồng. Tôi đã

có rất nhiều dịp chứng kiến cảnh một người chơi đi ra khỏi cửa hàng với một túi muối,

một cái bể mới và rất nhiều cá để thả. Điều này không chỉ do sự vô trách nhiệm của

người bán mà còn là sự độc ác đối với những con vật mà có rất ít hoặc không có cơ hội

để sống. (Đây cũng là sự thể hiện tầm nhìn cực ngắn trong thương mại, bởi những người

chơi thấy cá của mình chết hết sau khi mới bắt đầu thì nhìn chung đều sẽ nhanh chóng

tìm cho mình một thú vui khác.)

Danh sách những điều cần lên kế hoạch ở 3 trang trên đã bao gồm tất cả những gì

có thể để giúp bạn lựa chọn. Nhiều người chơi giỏi đã mua một cuốn sổ tay hoặc sổ ghi

chép, và giờ là thời điểm tuyệt vời để bắt đầu, lập danh sách các loài bạn thích, thiết bị

bắt mắt với bạn, đặt ra các câu hỏi và trích dẫn giá cả từ nhiều nhà bán lẻ khác nhau trong

khu vực bạn sống.

CỬA HÀNG BỂ CÁ

Lựa chọn cửa hàng bán lẻ bể cá có thể ảnh hưởng nhiều đến thành công của bạn

trong vị thế của một người mới bắt đầu chơi cá biển cũng như bất kỳ quyết định nào khác

của bạn. Một lựa chọn đúng cửa hàng không chỉ mang lại các con vật nuôi khỏe mạnh và

các thiết bị chất lượng mà các nhân viên của cửa hàng đó cũng là nguồn trợ giúp và

nguồn thông tin quan trọng. Chọn sai cửa hàng bạn có thể đang tự mang đến cho mình

những con cá ở ngưỡng bị tật nguyền tăng lên gấp ba, sử dụng sai thiết bị, những lời

khuyên đã lỗi thời và đầy nghi vấn.

Đặc điểm đầu tiên để nhận ra một cửa hàng cá tốt là nhân viên của họ hiểu biết

đến đâu và họ có thể trả lời tốt các câu hỏi của chính những người chơi cá biển như thế

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

nào. Bất kỳ ai có ý định mua một hệ thống bể cá cảnh biển đều nên yêu cầu để nhận được

một vài sự chú ý cá nhân, và tôi thường là bắt đầu từ người đứng đầu và cố gắng nói

chuyện với người chủ hoặc người quản lý. (Ở những cửa hàng lớn, bạn có thể muốn nói

chuyện với người quản lí hoặc giám đốc bán hàng của bộ phận cá biển. )

Những cửa hàng tốt nhất thường có ai đó người đã từng và vẫn luôn là người chơi

cá biển tích cực và tràn đầy lạc quan. Tôi thích hỏi người phục vụ mình anh ta hoặc cô ta

đã nuôi cá biển bao lâu và nuôi loại cá nào. Biết rằng người phục vụ mình cũng đang

tham gia tích cực vào thú chơi sẽ là một bảo đảm rất cao. Anh ta hay cô ta có thể quan

tâm đến những con cá nước ngọt hồ Rift ở châu Phi, nhưng vẫn nên có một phông kiến

thức tốt về việc setup và bảo trì một bể cá cảnh biển. Chắc chắn là bạn muốn có một ai đó

để có thể cập nhật thông tin về những đột phá mới nhất trong thú chơi về những phần

thiết bị, kỹ thuật và vật nuôi.

Tôi luôn cảnh giác với những cửa hàng nơi mà mọi thứ đều đặc sệt tính thương

mại và bất cứ khi nào có một câu hỏi được đưa ra thì ngay lập tức người chủ hay đội ngũ

nhân viên sẽ có ngay một vài câu trả lời có sẵn để đưa ra gán vào – thường là một giải

pháp “hãy mua cái này”để làm cho nó tốt hơn. Dù cho vấn đề của bạn là gì, trong một

phút tranh luận gấp gáp với bạn, những cửa hàng này luôn có ý kiến và ứng phó ngay lập

tức cho tình huống. Những gì người mới chơi thực sự cần là một ai đó để lắng nghe, thảo

luận vấn đề, và sau khi đưa ra nhiều lựa chọn khác nhau, họ sẽ đưa ra nhiều lựa chọn

trong đó có thể có hoặc có thể không phải mua một thứ gì đó.

Trong rất nhiều cửa hàng bể cá, đội ngũ nhân viên bao gồm những người chơi trẻ,

những người luôn sẵn lòng để được thảo luận các khía cạnh khác nhau mà họ yêu thích

nhất của nghề nuôi cá cảnh. Những người chơi này có thể thường xuyên chia sẻ các bí

kíp vô giá trong việc tiết kiệm thời gian và tiền bạc, đặc biệt với những người mới chơi.

Mặt khác, một vài cửa hàng thường thuê nhân viên chỉ toàn là trẻ vị thành niên hoặc sinh

viên – những người chẳng có tý kinh nghiệm hay định hướng nào về nghề nuôi cá cảnh

với mức lương thấp nhất. Những cửa hàng như thế này thì không thể có khả năng cung

cấp cho bạn dịch vụ hay thông tin mà bạn yêu cầu khi có rắc rối phát sinh. Nếu có thể,

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

hãy tìm một nơi mà để lộ sự tự tin và là nơi mà bạn có thể tìm được những lời khuyên

thật thà nhất.

Đi kèm với một đội ngũ nhân viên có kiến thức, một cửa hàng bể cá nên sạch sẽ,

gọn gang và là một điểm đến vui vẻ. Điều này nghe có vẻ nặng tính hính thức, nhưng

theo quan điểm của tôi, khi một cửa hàng được giữ sạch đẹp, tổ chức tốt, thường thường

nó bộc lộ sự quản lý tốt về tổng thể. Điều đó thường đi kèm với những cái bể sạch sẽ,

hàng hóa được cập nhật, vật nuôi được chăm sóc tốt và khỏe mạnh.

Kiểm tra các bể trưng bày cá biển và các loài động vật không xương sống: kính bể

phải sạch từ trong ra ngoài và không có muối đóng cục hay tảo mọc chắn tầm quan sát.

Không nên có cá chết hoặc ốm trong một cái bể mà có các động vật để bán. (Khi một cái

bể chứa những con cá bị ốm, chú ý rằng đó phải là bể chứa những thứ không dành để bán

hoặc chúng đang được cách ly.) Những cái bể phải bắt mắt và không có mảnh vụn cũng

như thức ăn thừa chìm dưới đáy bể.

Những loài cá và động vật không xương sống được bày bán cũng nói lên rất nhiều

về một cửa hàng. Lý tưởng nhất, bạn sẽ tìm thấy hầu hết các loài cá biển phổ biến nhất,

cũng như một vài loài khó kiếm dành cho những người chơi kinh nghiệm quan tâm.

Trong các cửa hàng nhỏ, đặc biệt ở khu vực ngoại thành, sự lựa chọn có thể hạn chế

nhưng những con cá luôn được chăm sóc tốt. (Bất kỳ một cửa hàng bán bể cá đứng đắn

nào đều sẽ vui vẻ để đặt hàng đặc biệt thêm cho bạn những giống mà bạn muốn nhưng

không tìm thấy). Cách phá vỡ tảng băng dễ dàng nhất là hỏi mua loại cá họ giới thiệu cho

hệ thống bể cá biển mới và đặt mua những loại đá sống mà họ bày bán.

Cũng như với vật nuôi, những cửa hàng tốt cũng phân loại hàng cho tất cả người

chơi ở cấp độ khác nhau, và với nhiều hơn một nhãn hiệu trong cùng một dòng sản phẩm.

(Xu hướng trong những dòng sản phẩm nhất định là sự lựa chọn độc nhất: bể Acme, đèn

Acme, máy lọc Acme, và thức ăn Acme. Làm thế nào để một người chơi có thể so sánh

giá cả và chất lượng nếu như chẳng có gì để mà so sánh?). Khi được hỏi về những chiếc

bể hay những chiếc protein skimmer, một cửa hàng tốt sẽ có thể đưa ra nhiều thương hiệu,

mẫu mã và nêu lên những tiện ích và bất tiện của từng loại. Hàng phải được cập nhật và

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

bao gồm một vài cải tiến công nghệ mới nhất. (Hãy xem xét xem liệu cửa hàng có cung

cấp cho những người sở hữu bể cá san hô ở địa phương và thường xuyên bán san hô đá

và san hô mềm và đá sống đã khử trùng không. Nếu được như vậy, rất có thể cửa hàng

không bị lạc hậu so với những phát minh và thông tin mới nhất về thú chơi cá biển .)

“Suy nghĩ về những gì sẽ được cho vào bể bây giờ và thiết kế tổng thể của bể cá sẽ đi cùng với những gì quyết định thành công của bể cá trong dài hạn. Với tất cả mọi người, điều thường thấy là kế hoạch setup một bể cá thường là một quyết định bốc đồng”

Một nhà cung cấp tốt cũng có thể biết giải thích cách vận hành của nhiều loại thiết bị

cũng như làm thế nào để sửa chữa nếu như rắc rối phát sinh. Về mặt này, những cửa hàng

tốt sẽ thường duy trì một cái xưởng để sửa thiết bị cũng như làm các công việc thông

thường như khoan bể hoặc xây các tủ truyền thống. Những cửa hàng này có thể làm cho

bể cá trở thành một phần không thể thiếu trong một ngôi nhà hay một văn phòng bằng

việc cung cấp những nguồn nguyên vật liệu để tạo ra những cái bể và giá đỡ riêng biệt và

giúp đỡ bạn trong việc thiết kế lắp đặt các thiết bị cho phù hợp với nhu cầu và không gian

của bạn. Cuối cùng, tôi sẽ lướt qua các hình ảnh trưng bày của cửa hàng trên các sách báo,

tạp chí về bể cá. Thú chơi này sẽ được tiếp thêm nhiên liệu bởi nguồn thông tin từ sách

báo, và một cửa hàng có tầm nhìn rộng sẽ có các công tác tham khảo hiện thời và cổ điển

để luôn giữ cho khách hàng được cập nhật và luôn có động lực.

Làm một chuyến dạo qua các cửa hàng cá địa phương là một cách tuyệt vời để

khảo sát lựa chọn cá, các kích thước có liên quan cũng như tủ và vô số các lựa chọn dành

cho thiết bị. Nếu có thể, đừng mua vội trong những chuyến khảo sát này. Hãy dành thời

gian để đọc, thu lượm thông tin và vẽ ra kế hoạch hành động.

NGÂN SÁCH

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

NHỮNG CÂU HỎI THƯỜNG NGHE thấy nhất trong các câu hỏi của người chơi

cá biển là: “Chi phí sẽ là bao nhiêu để lắp đặt một trong những thứ này?” Giữa rất nhiều

câu hỏi đưa ra là: kích thước bể, chất lượng của giá đỡ, cách mà bể cá được bán và chất

liệu được cung cấp ở đâu – tất cả đều không dễ để đưa ra câu trả lời. Tuy nhiên, một cuộc

dạo chơi qua các nguồn cung ở địa phương có thể nhanh chóng mang lại cho bạn hình

dung gần chính xác về chi phí của một cái bể cá cảnh biển mới, một khi bạn đã thu hẹp

các lựa chọn theo cách nào đó.

Các loài và các hệ thống nhìn chung khá đắt đỏ khi mua, setup và bảo trì hơn là

các bạn nước ngọt của chúng. Muối trộn tổng hợp là một khoản chi phí thường xuyên mà

những người chơi cá biển phải chấp nhận (trừ khi có một nguồn nước biển sạch có sẵn ở

gần đó). Tuy nhiên, đa phần các chi phí dài hạn thông thường liên quan đến các bể cá

nước biển, trong quá khứ, xuất phát từ nhu cầu thường xuyên phải thay thế bởi những con

cá không chịu nổi chất lượng nước thấp.

(23): 1. Các thành phần, dụng cụ đặc trưng cho một người bắt đầu chơi cá biển

2. Tất cả những thứ cần mua ngoại trừ sinh vật sống cho một bể cá biển đầu

tiên: nhiều cửa hàng cung cấp “các gói hàng cho người bắt đầu” nhằm tiết kiệm cho

những người mới chơi.

Nói cách khác, những người chơi mà vô tình bắt đầu bằng một hệ thống lọc rẻ và không

chuẩn sẽ trả giá bằng cái chết của những con cá chỉ trong vòng vài tháng.

Các phương pháp và cách lắp đặt bể cá được miêu tả ở đây lúc đầu sẽ đắt hơn hệ

thống trang bị bộ lọc đệm truyền thống, nhưng về lâu dài nó sẽ tiết kiệm hơn rất nhiều và

không chịu thất thoát. Sử dụng lời khuyên của bạn bè về các thiết bị và phụ gia theo yêu

cầu, bạn phải xây dựng một ngân sách tương đương với kích thước bể bạn lên kế hoạch

mua với mức giá hiện tại ở các nhà bán lẻ địa phương.

Rõ ràng, tổng giá sẽ phụ thuộc vào sự kết hợp của nhiều thành phần khác nhau.

Cuối cùng, bạn có thể tạo ra hệ thống hoặc phong phú hoặc giản đơn như phong cách

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

riêng của bạn hoặc và tùy thuộc vào túi tiền của bạn nữa. Những người chơi tháo vát có

thể sẽ luôn tìm cách để cắt giảm chi phí, tìm kiếm lợi nhuận hoặc nếu không thì tìm cách

đạt được những thành quả tốt đẹp bằng cách đầu tư thời gian thay vì tiền mặt. Những

người chơi mới với một ngân sách rộng rãi sẽ thích thú với sự sẵn có của các thiết bị công

nghệ cao hoặc những con cá hiếm. Tuy nhiên, hãy tâm niệm một điều rằng thành công

trong việc nuôi cá và thiết kế một bể cá cảnh đẹp, khỏe mạnh liên quan nhiều đến phương

pháp của bạn hơn là số tiền mà bạn bỏ ra.

KÍCH THƯỚC BỂ

LỰA CHỌN MỘT BỂ CÁ THỰC SỰ và các thiết bị hỗ trợ của nó là một trong

những khía cạnh hấp dẫn nhất của việc setup một hệ thống mới nhưng cũng là phần dễ

gây bối rối nhất. Lý do của vấn đề này là có quá nhiều lựa chọn về thiết bị cũng như

thương hiệu. Nhưng trước khi bạn đi vào những thành phần nhỏ và những lựa chọn khó

khăn hơn, bạn cần quyết định thành tố chính: bể đựng cá.

Quy chuẩn để setup một bể cá cảnh biển là tìm kiếm một cái bể lớn nhất có thể, cả

về sức chịu đựng không gian của nó. Bể không phải là thành phần đắt nhất trong lắp đặt

một bể cá biển, các kích cỡ bể lớn hơn không quá đắt so với các bể kích thước nhỏ hơn

gần với nó nhất. Hơn nữa, các chi phí có liên quan cũng không tăng lên tương ứng cùng

với sự gia tăng của kích thước bể. Điều đó có nghĩa là, nếu bạn chuyển từ một cái bể 20

gallon lên bể 40 gallon, bạn không cần 2 cái máy sưởi hoặc 2 cái protein skimmer, bạn

chỉ cần gia tăng công suất của một cái máy sưởi và kích thước của một cái protein

skimmer, và cả hai điều này đều không làm tăng chi phí.

Có rất nhiều lý do giải thích tại sao một cái bể lớn hơn lại tốt hơn. Đầu tiên, một

cái bể lớn sẽ ổn định hơn một cái bể nhỏ theo rất nhiều cách. Sự co giãn về nhiệt độ cũng

ổn định hơn trong bể lớn; nếu một máy làm lạnh gặp trục trặc, một sự cố về điện xảy ra,

hoặc một luồng nhiệt tấn công, nhiệt độ trong bể lớn sẽ mất nhiều thời gian hơn để tăng

lên đến mức nguy hiểm. Một điều quan trọng không kém nữa đó là một cái bể lớn thì ổn

định hơn về mặt sinh học. Nếu một con cá hay động vật không xương sống chết mà

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

không bị phát hiện, nó cũng rất khó có thể làm ô nhiễm phần còn lại của bể bởi có một

khối lượng nước lớn để pha loãng và làm giảm đi tác dụng của chất độc ammoniac mà có

thể xuất hiện. Một cái bể lớn cũng dễ dàng dung thứ cho những vấn đề đặc trưng của

người mới chơi như cho ăn quá nhiều và nuôi quá nhiều và bể đi đến giai đoạn nguy kịch

chậm hơn so với bể nhỏ. Tự thân cái bể không thể ngăn chặn được những sai lầm trong

quản lý diễn ra liên tục nhưng những lỗi nhỏ xảy ra với bể lớn sẽ cho phép rắc rối đang

phát triển mất nhiều thời gian hơn để được phát hiện và sửa chữa.

(24): bể cá thủy tinh với nắp đậy kín

Một cái bể thủy tinh hiện đại đặc trưng, bền và sức chứa tốt, dài 2 foot với những bóng

đèn và nắp đậy kín sẽ là điểm khởi đầu cho hầu hết những kiểu thiết kế bể cá biển mới.

Nhiều chuyên gia gợi ý kích thước bể nhỏ nhất là 40 gallon

Nhân tố khác mà thường được đưa ra tranh luận để ủng hộ một cái bể lớn đó là

mong muốn riêng của người chơi để được nuôi những con cá nhất định. Ngoại trừ một số

con cá nhỏ, nhiều màu sắc trong các bãi đá ngầm là có thể sống yên ổn trong một cái bể

có kích thước khiêm tốn, những con cá khác sẽ nhanh chóng trở nên quá khổ trong cái bể

của người mới chơi. Nếu trái tim của bạn đã hoàn toàn bị khích động bởi những con cá

moray eel, cá sư tử lớn hay một trong những con cá angel, Tangs, một cái bể nhỏ đơn

giản là sẽ chẳng dùng được lâu.

Từ kinh nghiệm cá nhân, tôi sẽ gợi ý rằng 40 gallon là kích thước hợp lý đặc trưng

cho bể cá cảnh biển đầu tiên. Miễn là nó được nuôi một cách thông minh, nó có thể chứa

được một bộ sưu tập các vật nuôi thú vị khác nhau và đủ rộng để cung cấp một mức độ

ổn định về hóa học và nhiệt độ hợp lý. Một bể“gây giống/thấp” dung tích 40 gallon sẽ dài

36 inch, một kích cỡ chung cho nhiều thành phần cần thiết khác như giá đỡ, mái che và

hộp đèn.

Chuyển đến một độ dài tiêu chuẩn khác – 48 inch chúng tôi tìm ra bể 40 gallon dài

như bể 55 gallon tiêu chuẩn, loại bể mà được sản xuất hàng loạt trên thị trường Bắc Mỹ

và thường có sẵn với giá hấp dẫn, và với giá đỡ, bóng đèn và các vật cố định khác được

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

lắp ráp dễ dàng. Cùng với những cái bể dài 48 inch, còn có các loại dung tích sẵn có để

lựa chọn bao gồm 75, 90, 110, 120 và 150 gallon với sự gia tăng rõ ràng ở chiều rộng

và/hoặc chiều cao. Con đường thông thường và thận trọng nhất là bắt đầu với một cái bể

nằm từ 40 đến 50 gallon, với một kế hoạch để tiến lên một khi mà các kỹ năng và sự tự

tin của bạn đã phát triển.

Tôi can ngăn việc sử dụng bất kỳ một loại giá đỡ nhựa cỡ lớn nào hay thậm chí

với bể cá cỡ nhỏ từ 10 đến 20 gallon đối với cá biển. Mặc dù nhỏ và rẻ, chúng lại đòi hỏi

khắt khe về chăm sóc và với một lỗi rất nhỏ xảy ra với việc cho ăn nuôi, cho ăn và bảo trì

hằng ngày hãy xem “Những khởi đầu từ số tiền nhỏ”

HÌNH DÁNG BỂ

CÙNG VỚI VIỆC CHỌN BỂ với dung tích hợp lý, việc lựa chọn một hình dáng chính

xác cũng rất quan trọng, đặc biệt nó phải có nhiều diện tích bề mặt nhất có thể. Đơn giản

như, hãy thận trọng khi chọn một cái bể mà chiều cao lớn hơn quá nhiều so với chiều

rộng. Bể cá rộng và thấp sẽ có nhiều tiện ích hơn một cái bể cao và hẹp ở cùng một thể

tích, đặc biệt với những người mới chơi.

Đầu tiên, một tỷ lệ bề mặt cao hơn cho phép sự trao đổi khí gas lớn hơn giữa ranh

giới mặt nước và không khí. Dù những cái khác là tương đương, một cái bể sâu và hẹp dễ

chịu tình trạng nghèo ôxy hơn kiểu bể rộng và nông. Bể cao đòi hỏi những trợ giúp vật lý

nhiều hơn (công suất bơm nước hoặc không khí) để giữ cho nước được lưu thông và trao

đổi oxy tốt hơn. Tôi không phủ định hoàn toàn việc sử dụng bể cao, nhưng nó sẽ yêu cầu

các quạt tạo luồng có kích cỡ phù hợp và máy hớt bọt protein skimmer để bù đắp cho sự

sụt giảm diện tích bề mặt

Một cái bể rộng cho phép tạo ra cảm giác về độ sâu từ trước ra sau lớn hơn trong bể và

điều này cung cấp nhiều không gian hơn và tạo cho bố cục của bể cá trông tự nhiên hơn

cũng như mang lại nhiều nơi trú ngụ tiềm ẩn cho những con cá của bạn. Những vùng đáy

cộm lên và những nơi có thể tìm thấy vật che đậy có thể làm tăng cảm giác an toàn cho

những con cá và giúp giảm áp lực khi bị nhốt trong một môi trường tù túng. Những cái bể

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

cao cũng có vị trí của nó, đặc biệt khi nó được dùng ở những ở những nơi công cộng hoặc

văn phòng, những nơi mà nó được quan sát từ vị trí đứng là chủ yếu. Nhưng những bể cá

rộng sẽ có “độ sâu” từ trước ra sau và diện tích mặt đáy rộng hơn có thể tạo ra một tầm

ngắm thú vị hơn từ vị trí ngồi – vị trí thường sắp xếp trong một gia đình.

Những người mới chơi sẽ đặc biệt dễ cảm thấy một cái bể nông hơn sẽ đỡ đắt hơn

khi lắp đặt các thiết bị hoàn chỉnh, dễ setup và bảo trì, và có thể dễ tải được một bầy cá

khỏe mạnh hơn. Nhiều sinh vật biển đã quen với những điều kiện môi trường nhiều oxy

và lưu thông nước tốt mà cả hai điều kiện này đều khó duy trì hơn trong một cái bể cao.

Cho tới gần đây, hầu hết các bể cá xây dựng ở Mỹ đều cao và hẹp, trong khi

những cái bể này ở châu Âu thường thấp và rộng hơn. Thật may mắn tình huống này giờ

đây đã thay đổi, giờ đây bạn đã có thể tìm thấy một cái bể ở bất kỳ kích cỡ nào. Bể hình

cánh cung phía trước, bể hình ngũ giác, bể đặt ở góc, các loại bể hình chữ L và nhiều kiểu

dáng khác đều sẵn có. Tất cả đều rất ổn, miễn là chiều cao không mất cân đối với đáy và

chân. (Bể sáu cạnh có sẵn ở hầu hết các cửa hàng không thích hợp lắm với vai trò một bể

cá cảnh biển, quá cao và quá khó lắp đặt máy hớt bọt, bơm, hệ thống ống nước và các

máy móc cần thiết khác.)

Tóm lại, hãy tìm kiếm các bể nông mà được dán nhãn là “long”, “low” hay

“breeder”. Nghĩ kỹ trước khi mua một cái bể đề là “tall” , “hịgh” hoặc “show”.

BỂ THỦY TINH

TRONG KHI KÍCH CỠ LÀ RẤT QUAN TRỌNG, so với nó, chất liệu của bể lại

là một quyết định khá đơn giản với những người mới chơi. Đã qua rồi cái thời mà chỉ có

bể cá với khung bằng thép nguyên chất và đáy bằng đá phiến. Ngày nay hầu hết các bể

đều được làm từ thủy tinh hoặc acrylic. Một cái bể được sử dụng cho hệ thống cá cảnh

biển có thể được làm từ một trong hai chất liệu này, và hoàn toàn có thể nói rằng đó

không bao giờ là một quyết định một mất một còn. Mỗi một lựa chọn đều có mặt tích cực

và hạn chế, nhưng nhân tố quyết định với nhiều người lại là giá cả và thẩm mỹ.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

MỘT VÀI KÍCH THƯỚC BỂ TIÊU CHUẨN DÀNH CHO HỆ

DUNG LƯỢNG VÀ KÍCH THƯỚC TƯƠNG ĐỐI

các kích cỡ (dài x rộng x cao theo

inch)

(48x13x13) (48x13x17) (48x13x20) (48x18x21) (48x18x24) (48x18x30) (48x24x24) (48x24x30)

THỐNG CỦA NGƯỜI BẮT ĐẦU NUÔI CÁ BIỂN Khổ bể (theo gallon) chiều dài 36 inch 30 gallon (36x13x16) 30 gallon “nhân giống/thấp” (36x18x13) (36x13x20) 38 gallon (36x18x17) 40 gallon “nhân giống/thấp” (36x18x19) 50 gallon 65 gallon (36x18x24) Chiều dài 48 inch 33 gallon loại dài 40 gallon loại dài 55 gallon 75 gallon 90 gallon 110 gallon loại cao 120 gallon 150 gallon loại cao (Đây là những mức dung tích bằng gallon và những kích thước bên ngoài theo các mẫu của rất nhiều nhà cung cấp. Hãy kiểm tra các kích thước chính xác trước khi xây hoặc đặt mua cabinet. Sử dụng các kích thước chính xác bên trong để tính toán chính xác dung tích bể. )

Các bể cá làm từ thủy tinh khá sẵn có, với một tập hợp lựa chọn rộng rãi về kích

cỡ, hình dáng và cách trang trí. Mỗi loại vật nuôi ở địa phương có một tập hợp lựa chọn

các bể thủy tinh cơ bản và tiết kiệm. Các thanh kính để ngắm nhìn bể được liên kết với

nhau bằng chất bịt kín từ cao su silicon, cùng với khung được từ nhựa đúc để tăng thêm

sự chắc chắn. Những cái bể này nhẹ hơn, rẻ hơn và khỏe hơn những bể cá kiểu cũ, và nếu

được lắp đặt với một độ quan tâm thỏa đáng, đó sẽ là một dịch vụ không rò rỉ năm này

qua năm khác. Bởi chúng được sản xuất với kích thước tiêu chuẩn, các thiết bị để lắp đặt

với chúng như đèn chiếu sáng trên mái che và các vật bao phủ thường khá dễ kiếm.

Trong khi các bể cá từ thủy tinh được sản xuất hàng loạt rẻ hơn các kiểu mẫu về

acrylic với cùng kích cỡ, rất nhiều nhà sản xuất quốc tế bể kính cao cấp lại thêm vào các

tính năng như thêm vào lắp kính ở hệ số đường truyền cao, các chất bịt kín đặc biệt, các

cảnh trí độc đáo và nhiều lựa chọn khác mà có thể đẩy những chiếc bể thủy tinh này lên

thứ hạng cao về giá cả và chất lượng.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

BỂ ACRYLIC

CÁC BỂ CÁ ĐƯỢC CẤU THÀNH TỪ ACRYLIC có rất nhiều hình dạng và kích cỡ,

trong đó một vài kích cỡ không thể đạt được với chất liệu từ thủy tinh – ít nhất là với

ngân sách của hầu hết người chơi. Những thiết kế này cho ra những chiếc bể với hầu như

không có một góc tam giác nào, các góc hình tròn hay thậm chí là các bể hình trụ hay

hình ovan. Acrylic thường được sử dụng trong các bể cá bởi tốc độ truyền ánh sáng và độ

trong suốt lớn hơn thủy tinh trong hầu hết các bể, mặc dầu một số người quan sát cho

rằng sự khác biệt này là không đáng kể. Các mạch nối acrylic khỏe hơn không bị lộ rõ

bởi nó không có lớp đường gân silicon dày. (Những người chơi ở khu vực hay xảy ra

động đất thường sở hữu những chiếc bể acrylic lớn bởi chúng bền hơn khi chịu những áp

lực đột ngột). Những đường gân sáng sủa và không có khung nhựa cũng giúp chúng trông

bắt mắt hơn về thẩm mỹ với nhiều người quan sát và những người ngắm chúng tại nhà.

Các bể acrylic thì nhẹ hơn rất nhiều so với các bể thủy tinh cùng kích cỡ, làm cho

chúng dễ dàng vận chuyển và lắp đặt hơn – đặc biệt với những chiếc bể cỡ lớn. Acrylic

cũng có thể khoan dễ dàng hơn thủy tinh chỉ cần người chơi sử dụng các công cụ tiêu

chuẩn.( Khoan thủy tinh nguy hiểm và lại làm mất hiệu lực bảo hành từ phía các nhà sản

xuất. Khi có thể, hãy làm ngay việc này tại nhà máy trước khi lắp giáp bởi ở đây mới có

các máy cắt kính chuyên nghiệp. Nhiều cửa hàng bể cá cũng có thể đảm nhận việc khoan

các bể mới.). Với những người chơi chuyên nghiệp muốn cái bể có thể vừa vặn với

những thiết bị ống nước bên ngoài của riêng mình, họ sẽ thực hiện dễ dàng hơn với

acrylic. Điều cuối cùng, acrylic có giá trị cách nhiệt lớn hơn nhiều – một nhân tố quan

trọng trong nhiều trường hợp lắp đặt đặc biệt khi hệ thống sẽ được giữ lạnh (thấp hơn

nhiệt độ trong phòng) để nuôi các loài khác ngoài vùng biển nhiệt đới.

Không phải tất cả các cửa hàng bể cá đều bán đầy đủ các mẫu bể acrylic, nhưng

hầu hết đều có thể cung ứng các mẫu với kích thước tiêu chuẩn bằng vận chuyển nhanh.

Các bể riêng biệt, gồm cả bể acrylic và thủy tinh thường cần 3 đến 4 tuần, hay thậm chí

lâu hơn nếu yêu cầu các thiết kế phức tạp.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

(27): Một bể thủy tinh 175 gallon trong một ngôi nhà ở bang Frolida trưng bày

tiềm năng kiến trúc của các hệ thống bể cá cảnh được thiết kế đẹp.

(28): Một vị trí tuyệt vời để đặt bể, tiện quan sát và với các điều kiện ổn định: tránh ánh

nắng trực tiếp và xa đường giao thông.

Các bể acrylic vẫn đắt hơn hầu hết các đối thủ của nó là bể thủy tinh, mặc dù sự

chênh lệch về giá cả đã giảm xuống trong những năm gần đây. Acrylic có thể có thể bị cọ

xát ở cả bên ngoài và bên trong các tấm quan sát bởi bất cứ đồ trang trí có cạnh hay các

công cụ làm sạch nào. Nhiều bể acrylic có các “cặp môi” rộng hoặc các miếng che bịt kín

chỉ có các điểm tiếp cận; đặc điểm này tăng thêm sự khỏe khoắn nhưng đồng thời cũng

cản trở quan sát tiếp cận trong suốt quá trình bảo trì.(Một vài người chăm sóc bể cá thích

phần trên của bể được che kín một nửa để giảm bốc hơi nước và ngăn chặn những con cá

nhảy ra ngoài. Những người khác cảm thấy điều này làm cho việc bảo trì không hơn một

công việc vặt trong nhà.) Miếng che rộng có thể làm hỏng khả năng thêm vào các thiết bị

treo như là máy hớt bọt, trừ khi có một khe tiện ích được cắt trên mặt trên của bể.

Những người ủng hộ bể thủy tinh cho rằng các tấm quan sát cũng có thể dễ dàng

được làm sạch bằng một loại dao cạo tiện ích mà có thể loại bỏ nhanh chóng ngay cả các

loại tảo bám chặt nhất. Những người sở hữu bể acrylic phải thực hành việc chăm sóc thì

chưa bao giờ sử dụng các lưỡi kim loại sắc hoặc hay những chiếc bàn chải cùn cho hệ

thống của họ mà họ dùng những thanh cạo bằng nhựa cho các mặt acrylic và cũng đem

lại hiệu quả giống như dao cạo trên thủy tinh vậy.

Cuối cùng, thủy tinh và acrylic phần lớn đều ngang nhau trong khả năng nuôi giữ

những con cá khỏe mạnh – quyết định cuối cùng là thuộc về chi phí, vẻ bề ngoài và sở

thích cá nhân.

VỊ TRÍ ĐẶT BỂ

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

SAU KHI LỰA CHỌN KÍCH CỠ VÀ LOẠI BỂ, quyết định tiếp theo là phải đặt nó ở

đâu. Chắc chắn, kích thước và vị trí cần phải quyết định cùng lúc bởi không gian dành

cho bể cá cần phải tương xứng với nó. Bể cá cần đặt ở vị trí tiện quan sát nhưng phải

tránh xa nơi có các hoạt động mạnh diễn ra liên tục. Đặt bể cá tránh xa chỗ nhiều người

qua lại là một gợi ý quan trọng bởi một vài con cá có thể trở nên khó điều khiển và ẩn

nấp phần lớn thời gian với những điều kiện không ổn định như vậy.

Bể nên được đặt tránh ánh nắng trực tiếp từ mặt trời để tránh nhiệt độ trong bể lên

quá cao. Cũng với những lý do tương tự, nó nên được đặt tránh những khu vực có gió lùa,

lỗ thông của lò sưởi hoặc máy lạnh, máy điều hòa.

Một chi tiết không thể bỏ qua: bể phải được đặt gần một số ổ điện thích hợp. Lý

tưởng nhất, chúng nên lắp đặt cao hơn bể để giảm nguy cơ sự cố về điện khi chúng có thể

gặp nước muối trong bể - loại nước dẫn điện rất tốt. Nếu các ổ điện thấp hơn bể, tất cả

các đường dây nên được lắp thêm cầu chì để đảm bảo an toàn (xem minh họa trang 39).

Không cần thiết phải dùng dây cắm quá dài và lớn đến các máy bơm, máy sưởi và các

bóng điện ở bể cá bởi các dây cắm này sẽ cùng lúc yêu cầu một lượng điện tiêu thụ liên

tục và có thể là khá nhiều.

Để đơn giản hóa việc lên kế hoạch và lựa chọn được một tập hợp các bức tường

hoặc ngăn tủ phù hợp, cần phải nhớ rằng các bể cá có kích thước tiêu chuẩn được hầu hết

những người chơi cá biển mới lựa chọn thường là dài 3 feet (91 cm) hoặc 4 feet (122 cm)

(xem các kích thước bể tiêu chuẩn, trang 25). Những kích thước này sẽ mang lại cho bạn

những cái bể có dung tích nằm trong khoảng từ 30 đến 150 gallon.

Nhìn chung, tôi sẽ không gợi ý việc sử dụng bể nhỏ hơn 40 gallon và lớn hơn 120

gallon với bể cá đầu tiên bởi những cái bể như thế thường đòi hỏi phải chăm sóc nhiều

hơn và phải bảo trì chuyên nghiệp.

(29):

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

1. Một góc thư giãn trong phòng làm việc tại nhà, hệ thống cá biển với kích

cỡ khiêm tốn này sỡ hữu một tập hợp các con cá khỏe mạnh và những loại san hô dễ

trồng.

2. Một bể cá cảnh thêm vào đã tăng thêm vẻ duyên dáng cho phòng ở của

gia đình, mở ra một cửa sổ mang tính giáo dục nhìn vào một thế giới trong các rạn san

hô đẹp kỳ lạ dưới lòng các vùng biển nhiệt đới.

GIÁ ĐỠ CHO BỂ

KHI ĐÃ XEM XÉT HẾT CÁC KHÍA CẠNH trên, đã đến lúc cần lựa chọn một

cái giá đỡ cho bể cá. Một cái tủ quây vững chắc, với những ngăn tủ và mặt trên cứng cáp

có thể hợp với mục đích này, nhưng với hầu hết người chơi, giải pháp tốt nhất là một cái

giá đỡ được thiết kế đặc biệt cho riêng cái bể. Nước muối khá nặng – khoảng 8 pound

(3,6 kg) trên một gallon. Thậm chí với một cái bể khiêm tốn 40 gallon, khi đã đổ đầy

nước, dải lớp cát san hô và thêm đá vào, cũng có thể dễ dàng lên tới 350 đến 400 pound

(bể: gần 55 pound; nước: xấp xỉ 255 pound; đá và cát: 60 đến 100 pound).

Đừng cố gắng để tìm một giải pháp qua loa. Một cái giá đỡ thiết kế tồi sẽ dễ bị

chùng xuống qua thời gian và có thể dễ dàng bị sập. Vấn đề không hề nhỏ ở đây, đặc biệt

với những người sống trong các căn hộ. Chúng ta đều biết một lượng nước tràn ra có thể

lớn như thế nào từ một cái bể thủy tinh chứa đầy nước; hãy tưởng tượng đống lộn xộn

tương đương với nước từ đổ ra từ 8 cái máy làm lạnh. Để tránh thảm họa này, hãy chắc

chắn rằng bạn có một cái giá đỡ vững chãi và vơi mặt đỡ không thể lung lay.

Nước có thể phá hủy lớp gỗ không được bảo vệ, và nước muối thì lại càng dễ dàng

bào mòn. Các chất liệu thích hợp dành cho giá đỡ hay bệ đặt bể cá là gỗ được dán kín

hoặc xử lý và gỗ cán mỏng. Nhiều nhà sản xuất bể acrylic cũng kết hợp sản xuất cả các

giá đỡ acrylic, chống thấm và ngăn được sự tàn phá của nước. Tôi khuyên không nên sử

dụng các loại giá đỡ bằng sắt kiểu, bởi những loại này rất dễ bị gỉ khi tiếp xúc với nước.

Với một cái bể nhỏ, chiều cao của giá đỡ và không gian bên trong tủ thường

không phải là vấn đề. Việc xem xét quan trọng nhất là lựa chọn một cái giá để nó mang

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

lại chiều cao thích hợp nhất cho vị trí quan sát của bạn. Một giá đỡ bể cá đặc trưng được

tạo ra để mang lại một tầm quan sát lý tưởng từ vị trí ngồi. Những cái bể cao hơn là để

dùng trong những trường hợp hầu hết những người quan sát đang đứng.

Với những cái bể lớn, chiều cao của giá đỡ và khoảng trống trong tủ phải được

tính toán cẩn thận hơn. Những người chơi chuyên nghiệp thường thích giấu kín các thiết

bị lọc bên dưới bể cá, hơn là ở quanh nó. Thông thường một bể chứa (bể thông với bể

chính để xử lý nước), máy hớt bọt, bơm, bộ điều khiển và những thiết bị khác phải đặt

vừa trong tủ và được tiếp cận dễ dàng để tiện bảo dưỡng. Nếu bạn đang mua một cái bể

với ý định sẽ nâng cấp nó trong tương lai, hãy đảm bảo tủ mà bạn chọn có đủ khoảng

trống trong các ngăn, khoảng trống bên dưới và các cửa mở rộng.

Nếu các giá đỡ được trưng bày trong các cửa hàng bể cá không bắt mắt với bạn

hoặc không hợp với cảnh trí trong nhà bạn, hãy tìm hiểu về các lựa chọn khác. Rất nhiều

thiết kế hấp dẫn (truyền thống hoặc hiện đại ở nhiều phân đoạn, từ gỗ sồi rửa sạch và gỗ

cứng nhuộm màu đến những loại gỗ cán công nghệ cao và sơn bề mặt) đều sẵn có với

nhiều bể cá kích cỡ tiêu chuẩn. Một vài cửa hàng cũng có thể giúp bạn liên lạc với những

người đóng tủ có kinh nghiệm trong sản xuất giá đỡ và nắp che cho hồ cá hay những bể

trong gia đình.

(30):

1. Mái che với nắp khớp bằng bản lề

2. Hộp đèn và tấm chắn

3. Bể

4. Giá đỡ

5. Các giá đỡ và nắp đậy cho một bể cá đặc trưng

6. Thiết kế giá đỡ, bể và mái che truyền thống

7. Giá đỡ bằng gỗ sồi, cùng với bể và mái che hiện đại

Một giá đỡ bể cá cứng cáp và nắp đậy phù hợp để tạo ra một cái nhìn vui mắt về

tổng thể với nhiều kiểu dáng thiết kế, phong cách và các phân đoạn sẵn có

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

CHIẾU SÁNG

Hầu hết các loài cá biển thông thường được đánh bắt ở vùng nước nông và đã

quen với ánh sáng mạnh và nhiều. Với một bể cá cảnh biển đơn giản mà chỉ nuôi một loài

cá, chiếu sáng bằng 2 bóng đèn fluorescent công suất thông thường sẽ không hoàn toàn

thay thế được ánh sáng mặt trời nhưng sẽ vừa đủ và tiết kiệm.

Tôi rất mong những người mới chơi hãy tránh xa những bóng đèn nóng sáng vì

chúng tạo ra quá nhiều nhiệt và hãy tránh cả những hộp đèn bóng fluorescent đơn, rẻ

ngay với bể cá đầu tiên của mình. Trong khi cái sau thường là một thiết bị tiêu chuẩn với

những bể cá nước ngọt mới, nhưng những bóng đèn fluorescent đơn vẫn không thể mang

lại cho những con cá biển đầy đủ sự tiện lợi. Đó có lẽ là một trong những lý do tại sao

một vài con cá biển trông rất hoạt bát ở cửa hàng nhưng khi mang thả vào bể được chiếu

sáng mờ nhạt ở nhà lại trở nên lờ đờ đáng thất vọng. Một trong những lí do để chúng ta

nuôi cá biển là để ngắm những màu sắc rực rỡ của chúng, nhưng sử dụng một đèn ống

duy nhất sẽ chỉ làm hỏng điều đó. Gấp đôi lượng chiếu sáng tạo ra một cả thế giới khác

biệt, mang đến một diện mạo giống tự nhiên hơn cho bể cá, tạo điều kiện sinh sôi cho

một số loại tảo cỡ lớn và mang đến sức khỏe tốt nhất cho những con cá của bạn.

Ngoài những hộp đèn fluorescent cơ bản, còn có một loạt những lựa chọn chiếu

sáng đắt đỏ khác cung cấp cường độ chiếu sáng mạnh dành cho các loài san hô và các

loài cần quang hợp khác trong cộng đồng bãi đá ngầm (không dành cho người mới chơi).

Những hệ thống chiếu sáng đó bao gồm: đèn fluorescent công suất cao (HO) và đèn

fluorescent công suất rất cao (VHO), cả hai loại này đều yêu cầu những chiếc ballast và

chụp bóng đèn đặc biệt; đèn metal hailide, loại này yêu cầu những cái hộp đèn và ballast

đặc biệt; và một loại đèn compact fluorescent mới và cường độ chiếu sáng mạnh.

(31): 1.Hộp chiếu sáng cho bóng fluorescent đôi

2. Kiểu dáng bóng đôi đáng mơ ước có gắn thêm màng che bằng thủy tinh

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Một hộp đèn hai bóng fluorescent dành cho bể cá, thường gọi là bóng strp sẽ

mang đến niềm thích thú khi quan sát và các điều kiện môi trường khỏe mạnh hơn cho

vật nuôi hơn là bóng đơn.

NẮP ĐẬY

Khi chọn hộp đèn, người chơi sẽ phải chọn giữa rất nhiều loại nắp đậy và tấm

ngăn. Một cái nắp đậy đầy đủ đính kèm cả hộp đèn và tấm ngăn đạy mặt trên của bể sẽ là

lựa chọn tốt nếu người chơi nhận ra rằng một nguyên nhân thông thường trong cái chết

của những con cá là chúng nhảy ra khỏi bể khi không được che chắn.

Những cái nắp đậy trọn vẹn sẽ loại bỏ hầu hết khả năng cá nhảy ra ngoài, nhưng

mặt hạn chế của nó là hầu hết những cái nắp đậy này không được thiết kế để có thể sử

dụng dễ dàng các thiết bị treo trên bể, chẳng hạn như protein skimmer. Nếu hệ thống mà

bạn đang hình dung trong đầu bao gồm có cả protein skimmer, hãy đảm bảo rằng nắp đậy

sẽ cho phép sự hiện diện của nó hoặc cung cấp một khoảng trống để cho hệ thống ống

nước có thể chảy vào cái skimmer. Một bất lợi khác của nắp đậy đầy đủ là tất cả lượng

nhiệt tỏa ra trong bể sẽ bị bẫy lại ở đây. Kết quả là trong suốt những tháng mùa hè, khi

tình trạng nóng bức trở thành vấn đề, không những cần phải mở nắp đậy mà còn phải sử

dụng quạt thổi để giữ cho bể mát. (Các nắp đậy có gắn các bóng đèn cao áp fluorescent

hay metal halide thường được trang bị kèm với những chiếc quạt nhỏ, không phát ra âm

thanh để ngăn cản tình trạng nóng lên của bể. Những người chơi bể san hô thường mắc

lỗi bỏ quên không đậy nắp cho bể cá và tạo ra rủi ro mất mát từ những con cá nhảy ra

ngoài cộng hưởng với nguy hiểm lớn hơn từ tình trạng quá nóng từ những bóng đèn công

suất cao.)

Vì lý do an toàn, hầu hết các nắp đậy tốt đều có kèm các tấm kính thủy tinh hoặc

acrylic giữa bóng đèn và mặt nước. Các bóng đèn để trần thường có xu hướng dễ bị bọc

một lớp muối bên ngoài và đôi khi có thể vỡ thậm chí nổ nếu bị nước té mạnh hoặc bắn

vào khi vẫn còn nóng. Mặc dù những trường hợp như vậy hiếm khi xảy ra, một tấm chắn

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

sẽ giúp giảm thiểu mối nguy hiểm này. Cùng với đó, tấm chắn này cũng cần được giữ

sạch sẽ và không bị kết đọng muối, nếu không lượng truyền ánh sáng sẽ bị giảm đi rõ rệt.

Nhìn chung, một nắp đậy đầy đủ hoặc một hộp đèn strip khớp, đính kèm với một

tấm chắn bằng thủy tinh tạo ra cảm giác tốt cho một cái bể cá biển mới. Phần đỉnh, mái

che, nắp hoặc tấm chắn làm giảm sự bốc hơi, giảm rất lớn khả năng cá nhảy ra khỏi bể,

và tránh bụi, thú nuôi trong nhà, bàn tay của những đứa trẻ tò mò và những người quan

sát khác.

CÁC BÓNG ĐÈN FRUORESCENT

Bóng fluorescent đôi strip đang trở nên rất phổ biến trong những năm gần đây.

Cùng với việc tạo ra tổng lượng ánh sáng lớn hơn, chúng còn cho phép hòa trộn lẫn với

nhiều bóng đèn đặc biệt khác nhau để làm tăng tầm nhìn cho bể cá.

Hầu hết các bóng đèn fluorescent strip và các nắp đậy được bán cho những người

chơi mới với các bóng đèn được thiết kế để thúc đẩy sự phát triển của các loài thực vật

nước ngọt. Những bóng đèn này không chắc đã là lựa chọn tốt nhất dành cho bể cá cảnh

biển. Những bóng đèn dành cho bể nước ngọt tạo ra ánh sáng ấm – có màu vàng hoặc đỏ

- bởi màu sắc mà chúng phát ra có quang phổ cao ở dải màu đỏ. Ưu điểm duy nhất để sử

dụng những bóng đèn này là chúng sẽ làm đậm màu đỏ hoặc tía trên thân con cá của

bạn.(Đừng bao giờ sử dụng bóng “trắng lạnh” hoặc bóng “thắp vườn” cho bể cá cảnh

biển.)

Một thiết kế khác tốt hơn với nắp đậy gắn bóng đôi cho bể cá biển đó là bóng

“trắng” với quang phổ rộng và một loại bóng “reef-type” hay bóng huỳnh quang. Loại

thứ hai sẵn có với nhiều thương hiệu và kiểu cách đa dạng, nó có màu xanh lơ và ảnh

hưởng lên màu của nhiều con cá. Người quan sát thường rất vui thích với loại đèn này

bởi nó được kết hợp với một bóng quang phổ rộng.

Một cách đơn giản để lựa chọn bóng đèn là chọn cùng loại đèn với loại được sử

dụng ở các bể cá trong các đại lý lớn nơi bạn mua những con cá biển của mình nếu bạn

cũng thấy thích thú với những kiểu đèn đó. Hầu hết các cửa hàng bể cá sử dụng kiểu

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

chiếu sáng mà làm nổi bật những con cá của họ nhất. Bởi đây cũng là mục đích của một

bể cá cảnh biển tại nhà nên việc chọn cùng loại bóng đèn cũng là điều dễ hiểu. Một cái

lợi nữa đó là nếu bạn có cùng kiểu chiếu sáng như cửa hàng cá của bạn thì vẻ ngoài của

những con cá cũng sẽ không bị biến đổi ngay khi chúng được đặt vào ngôi nhà mới.

BỘ LỌC

Để hoàn thành danh sách các thiết bị và nguyên vật liệu cần thiết, bể cá sẽ cần

thêm một cái protein skimmer, một hoặc vài cái quạt tạo luồng để lưu thông dòng nước,

một lượng đá sống và nếu muốn, có thể thêm một cái power filter hoặc canister filter bên

ngoài để xử lý những vấn đề đặc biệt. Tất cả những vấn đề này sẽ được bàn đến cụ thể

trong hai chương sau.

Lựa chọn bộ lọc được coi là phần sống động và thú vị nhất để đi tham khảo các

cửa hàng bể cá trong một chuỗi liên tiếp các lựa chọn. Hãy hỏi từng cửa hàng để họ chỉ

cho bạn thấy lựa chọn của họ về protein skimmer, quạt tạo luồng, power filter và đá sống.

Lúc đầu, việc này tưởng như dễ gây nhầm lẫn hay bối rối, nhưng hãy nhớ rằng bạn không

cần phải cố gắng để có một quyết định tức thì. Tôi sẽ điều tra thị trường ở địa phương và

rồi sau đó ghé thăm lại một hoặc hai cửa hàng tốt nhất với những quyết định được định

hình sẵn một khi đã sắp xếp, tính toán kỹ càng và đọc thêm một chút nữa.

(32) : Nhiều người chơi cá biển thích kết hợp các bóng đèn khác nhau vào trong hộp đèn

của họ, thường bao gồm cả bóng “trắng” quang phổ rộng và bóng huỳnh quang

MÁY HÓT BỌT PROTEIN SKIMMER

Hớt bọt protein là gì và tại sao nó lại cải thiện rõ rệt chất lượng nước trong bể cá

cảnh biển? Đầu tiên, với những người đã từng chơi cá nước ngọt, các bạn có lẽ đang băng

khoăn tại sao bạn chưa từng nghe tới phương pháp hớt bọt protein. Đơn giản vì một cái

máy hớt bọt chẳng có tác dụng gì trong một bể cá nước ngọt. Hớt bọt protein (hay còn

gọi là tách bọt, như nó vẫn thường được biết đến) là một quá trình mà thực hiện tốt hơn

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

nhiều trong một bể cá nước ngọt, khi mà nó tăng độ rộng bề mặt và cho phép sự hình

thành của những bong bóng nhỏ được coi là chìa khóa của kỹ thuật lọc này.

Nói tóm lại, protein skimmer là một ống acrylic hay ống nhựa hay hộp PVC mà

qua đó nước muối trong bể được luân chuyển. Nước được truyền vào và đẩy ra liên tục

bởi một miếng đá khí bằng gỗ hoặc một cái vòi khí hoặc nước đặc biệt được gọi là

venturi. Trong cả hai cách trên, đống hỗn độn bao gồm những bong bóng hút lấy các chất

thải đã bị phân giải (protein, các chất béo và những hợp chất hữu cơ phức tạp khác) và

làm cho chúng nổi lên trên bề mặt của cái skimmer, cùng với những mảnh vụn lơ lửng. Ở

đó, lớp váng tuôn thành một dòng chảy ẩm, tối vào trong phễu chứa để được loại bỏ.

Một cái máy hớt bọt có thể loại bỏ lượng chất thải đáng ngạc nhiên này ra khỏi

một bể cá - thậm chí cả khi trông nước của nó có vẻ sạch. Trong những năm vừa qua, các

bể cá cảnh biển được biết đến là đã phải chịu những tổn thất của “hội chứng chết đột

ngột” mà nhiều người tin rằng đó là do sự tích lũy của các hợp chất hữu cơ bị phân giải

trong nước. Một cái máy protein skimmer sẽ loại bỏ những hợp chất này một cách hiệu

quả, và những cái chết hàng loại của những con cá từ những nguyên nhân bí ẩn hầu như

không còn nghe nói đến trong một bể có đá sống và những cái máy protein skimmer hoạt

động tốt. Hơn nữa, máy hớt bọt còn là một công cụ mạnh mẽ để tăng oxy cho nước trong

hệ thống và loại bỏ CO2 và nhờ đó mà giữ nồng độ pH trong bể ổn định.

Những bong bóng nhỏ góp phần chủ yếu trong việc hình thành lớp bọt đậm đặc

với một bề mặt tập trung nước hoặc không khí. Máy hớt bọt protein lợi dụng thực tế là

nhiều hợp chất có hai thành tố phân biệt: một cái là hydrophobic (đẩy nước) và một cái là

hydrophilic (hút nước). Những chất này làm cho một vài hợp chất có thể hút lấy bề mặt

của những bong bóng nơi mà cả hai đặc tính trên đều được hội tụ. Những thành tố được

gọi là “hoạt động bề mặt” như vậy hút lấy những bong bóng khí quá mạnh đến nỗi chúng

nối lên trên và ra khỏi cột nước trong máy hớt bọt. Một cái protein skimmer chỉ đơn giản

là tạo ra một đống hỗn độn những bong bóng khí rất lớn trong một không gian xác định

để mà những chất hoạt động bề mặt này có thể được tập trung, thu thập và kết quả là loại

bỏ.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

(33):

7. Những máy protein skimmer treo đặc trưng

1. Phễu chứa

2. Ống dẫ nước trở lại bể

3. Hệ thống lọc sinh học (không bắt buộc)

4. Bơm

5. Cột lọc/buồng lọc

6. Vòi khí

8. Vòi khí

9. Vòi cung cấp nước

10. Phễu chứa chất thải

11. Ống dẫn nước trở lại

12. Cột lọc

13. Chú ý: mẫu bên phải được bán không kèm bơm mà người mua bắt buộc phải mua

riêng

Dễ dàng lắp đặt và bảo trì, một cái máy protein skimmer bên ngoài là một lựa

chọn thích hợp với kiểu bể cá cảnh biển giản đơn

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA PROTEIN SKIMMER

Sau đó, bọt được tập trung ở đỉnh cột nước và bị thu hẹp trong một cái

Hớt bọt protein nghe có vẻ phức tạp, nhưng thực tế nó khá đơn giản. Trong hầu hết những cái protein skimmer, những bong bóng khí nhỏ được tạo ra từ một miếng đá khí bằng gỗ hoặc một cái van venture, chúng sẽ trộn không khí và nước trong một cái vòi và từ đó liên tục tạo ra những dòng bong bóng mịn. Những bong bóng này nổi lên trên, thường thì chúng hoạt động trong những dòng nước có xu hướng chuyển động đi xuống một cách vừa phải trong bể cá. Những chất hoạt động bề mặt (gồm có protein, lipid, và những hợp chất bị phân giải khác trong nước) hút lấy bong bóng và được mang lên trên bề mặt của cột nước trong máy hớt bọt. ống nhỏ hơn hoặc một cái phễu được chuyển đổi để tập trung lớp bọt nhiều hơn. Lớp bọt này sẽ tràn qua thành ống hoặc phễu để tập trung trong một cái phễu chứa váng hay phễu nhánh để từ đây chúng được loại bỏ. Hiệu quả của một cái protein skimmer được quyết định không chỉ bởi lượng váng được hớt bỏ mà còn bởi độ đậm đặc của nó. Trong một cái skimmer làm việc hiệu ửua, lớp váng có thể có màu và độ rắn của cà phê đen và sặc mùi sunfua.

Những nhân tố chính ảnh hưởng đến hiệu quả của một cái protein skimmer là kích

thước của những quả bong bóng khí và thời gian liên hệ giữa bong bóng và nước.

Những bong bóng nhỏ luôn tốt hơn, chúng không chỉ mang lại bề mặt tốt hơn mà

chúng còn nổi chậm hơn bong bóng lớn. Những miếng đá khí sử dụng trong hầu hết

những máy hớt bọt đối lưu tạo ra những bong bóng cực mịn nhỏ. Thời gian gắn kết

trong nước nhìn chung phụ thuộc vào chiều cao và dung tích của buồng lọc chính

trong một cái máy hớt bọt, nơi mà bong bóng khí và nước được trộn lẫn. Xét về tỷ lệ

dòng nước và thu nạp không khí, ống lọc càng cao, dung tích càng lớn thì máy hớt bọt

càng hiệu quả. Bong bóng khí nổi càng chậm và thời gian liên hệ với nước càng lớn,

hiệu quả tập trung chất thải càng cao. Với hầu hết những bể cá gia đình, buồng lọc

nên có chiều cao xấp xỉ từ 18 đến 24 inch và đường kính vào khoảng 3 inch.

Hầu hết các máy hớt bọt rẻ tiền được thiết kế để treo bên trong bể sẽ thường quá

hẹp và quá ngắn và do đó không thể lọc hiệu quả được. Trong hầu hết các trường hợp,

máy hớt bọt tốt nhất nên được đặt bên ngoài bể. Mặc dù không hoàn toàn là một quy

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

luật chắc chắn, cái to hơn lại tốt hơn khi lựa chọn máy hớt bọt.Trong những kiểu bể

lớn khác thường và kiểu bể mang tính thương mại, một vài cái protein skimmer được

sử dụng cao tới trên 8 feet.

Với bể cá đầu tiên, những cái máy hớt bọt thực sự hiệu quả, đơn giản và phù hợp

nhất được treo ở phía sau bể. Một cái skimmer treo bên ngoài bể thường được cung

cấp nước từ hệ thống qua một cái bơm nhỏ được đặt chìm trong bể. Sau khi nước

được bơm vào cột lọc hoặc buồng lọc, nước được lọc xong sẽ phun trực tiếp trở lại

vào bể. Hàng loạt các mẫu máy tốt có sẵn tại các đại lý bán lẻ những người mà phân

phối tới tận tay người chơi cá biển. Một cái protein skimmer tốt là một phần thiết bị

cần thiết cho tất cả mọi người chơi cá biển – chứ không chỉ riêng những chủ bể san hô.

Nó làm việc liên tục để loại bỏ các chất thải tiềm ẩn ra khỏi bể và cung cấp một nơi

rất tốt để trao đổi khí gas và ôxy.

Bạn có lẽ sẽ chú ý tới những cái máy hớt bọt “in-sump”, đó là những cái máy mà

được gắn và đặt bên trong bể chứa – một bể lọc và xử lý nước riêng rẽ thường đặt bên

dưới bể chính. Các bể chứa luôn cực kỳ hữu ích với các hệ thống chuyên nghiệp

nhưng nó đòi hỏi phải thành thạo hơn trong việc kiểm tra và vận hành. Hầu hết những

người mới chơi có lẽ đều nên xem xét việc đầu tư một cái bể chứa trong tương lai, sau

khi đã thành thạo trong việc vận hành một cái bể cá cảnh biển cơ bản.

ĐÁ SỐNG

Một thành phần cực kỳ cần thiết cho bất kỳ bể cá nào đó là chiếc máy lọc sinh học

– một phương tiện trung gian với bề mặt lớn mà các vi khuẩn có lợi có thể phát triển

và liên tiếp phá hủy các chất thải đã phân giải. Đá sống chính là con ngựa kéo trong

kế hoạch sử dụng bộ lọc sinh học của bạn, chúng bị xâm lấn bởi cực kỳ nhiều vi

khuẩn có lợi mà sử dụng hay phân hủy các chất thải đã phân giải từ những con cá,

thức ăn thối hay các chất hữu cơ khác.

Bạn sẽ cần xấp xỉ 1/3 khoảng không gian trong bể với những hòn đá được sắp xếp

lỏng lẻo. Một vài người chơi thích lượng đá sống nhiều hơn hoặc ít hơn như vậy – từ

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

¼ đến một nửa không gian sẵn có trong bể - tùy thuộc vào bố cục thủy sinh mà họ

đang cố gắng tạo ra. Như sẽ được bàn đến rất nhiều trong chương tới, loại chủ yếu sẽ

là đá sống được nuôi trồng ở Đại Tây Dương (từ bang Florida và vịnh Mexico) và đá

sống vụn Thái Bình Dương (từ Fiji, Indonisia, quần đảo Marshall, Tonga, Samoa và

các nơi khác).

Như một quy luật ngón tay cái, chúng ta sẽ mất khoảng 1 pound đá sống Thái

Bình Dương (loại đá nhẹ hơn) và 1,5 tới 2 pound đá sống Đại Tây Dương (loại này

đặc hơn) cho mỗi gallon bể. Khi đặt mua đá sống, hãy hỏi xem liệu nó đã được “vô

trùng ” hay chưa.

Đá chưa vô trùng sẽ rẻ hơn nhiều, nhưng nó được nhập khẩu tươi mới và chịu sự

va đập trong quá trình thu thập, vận chuyển, điều đó thường có nghĩa rằng nó được

cho ra khỏi mặt nước(gói trong những tờ báo ẩm và đặt trong các túi nhựa và các hộp

xốp) ít nhất một ngày mà thường là lâu hơn. Không thể tránh khỏi đá chưa vô trùng sẽ

kèm cả những sinh vật phù du, thực vật, giáp xác, động vật thân mềm và các sinh vật

sống trong các bãi đá ngầm đang hoặc đã chết trên bề mặt hoặc sâu bên trong hòn đá.

Vô trùng hòn đá có nghĩa là phải chịu đựng cái hơi mùi hoặc mùi nặng đó của nó khi

phải thường xuyên lau chùi và làm sạch cho hòn đá và thay nước cho nó.

Đá đã vô trùng là đá đã được thích nghi với các điều kiện của môi trường giam giữ

qua thời kỳ vài tuần (hoặc vài tháng) trong các bể chứa. Khi nó được những người

chăm sóc bể cá gia đình đặt mua thì nó đã được loại bỏ các phần tử đang và đã chết và

đã mang cái mùi sạch sẽ, đúng mùi của biển hoặc ven biển. Loại này đắt hơn đá chưa

vô trùng nhưng sẽ bớt đi các công việc phải làm và phiền toái cho một người mới bắt

đầu chơi cá biển.

Nhiều cửa hàng bể cá đã cung cấp loại “đá nền” đã vô trùng là loại đá thiếu đi

nhiều loại tảo coralline sinh sôi nhiều màu sắc khắc trên hòn đá cùng những dạng sinh

vật sống khác được coi là bảo bối của những nhà chăm sóc bể san hô. Loại đá nền này

có thể là một khoản lợi nhuận và là một chất liệu hoàn hảo cho những kiểu bể cá cảnh

biển chỉ có cá (những bể mà không có những động vật không xương sống nhạy cảm).

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Hãy hỏi các loại đá mà cửa hàng có thể cung cấp đồng thời tìm hiều cả các lựa

chọn có sẵn khác bằng cách yêu cầu đặt hàng đặc biệt. Hỏi xem liệu người chủ cửa

hàng cũng sẽ vô trùng những đơn đặt hàng đá sống đặc biệt đí cho bạn (hoặc ít nhất

cũng giữ chúng trong vòng một tuần để những phần chết tồi nhất xảy ra).

Cuối cùng, hãy chuẩn bị đối phó với một vài phản ứng bất ngờ xảy ra. Nhiều cửa

hàng khẳng định rằng chỉ có những người chơi bể san hô mới quan tâm tới đá sống.

Một người bán hàng có kiến thức sẽ tán thành mong muốn của bạn là thiết lập một bể

cá cảnh biển chỉ có cá mà tận dụng đá sống và phương thức hớt bọt hơn là đi qua giai

đoạn sử dụng đệm lọc thông thường.

(35) : 1. Nơi chứa cacbon hoạt tính và sợi lọc

2. Bơm nước

3. Máy lọc Power dùng ngoài

Một trong nhiều kiểu máy power filter dùng ngoài (kiểu treo) được thiết kế để treo

ở đằng sau bể, tạo ra hệ thống loại bỏ chất thải cơ học, tăng cường lưu thông nước

và là nơi để chứa cacbon hoạt tính.

POWER FILTER DÙNG NGOÀI

Để giúp loại các chất thải rắn ra khỏi bể cá, bạn có thể kết nối một cái máy lọc

power filter dùng ngoài với bể cá của mình. Chắc chắn, nó có thể mang nhiều chức

năng khác nhau, làm nổi lên những mảnh vụn và cặn bã, chứa than hoạt tính để thu

hút những chất thải đã phân giải, có lẽ được coi như một bộ lọc sinh học bổ trợ, và

bằng hiệu quả của những cái bơm của nó có thể làm cho nước trong bể lưu thông tốt

hơn.

Có hai loại power filter dùng ngoài chính sẵn có là : loại treo và canister. Nhiều

kiểu máy treo khá giống một kiểu đồ chơi và được thiết kế để cho những mức sử dụng

nhẹ hơn trong các bể cá nước ngọt nhỏ. Tuy nhiên, nhiều thiết kế công suất cao hơn

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

có thể được sử dụng cho bể cá nước mặn của người mới chơi, thường là cho các bể 50

gallon hoặc nhỏ hơn.

Các máy lọc canister có thể có nhiều thiết kế khác nhau. Chúng thường có công

suất mạnh hơn và có một khoảng trống lớn hơn để giữ bộ lọc hơn là những máy lọc

treo dùng ngoài. Hãy hỏi xem những cái máy lọc canister khác nhau được kết nối với

bể như thế nào và việc tắt, mở, dừng, khởi động lại có khó khăn gì không. Một cái

máy lọc canister được vận hành dưới một sức ép và bạn phải tắt nó thường xuyên để

bảo trì. Máy lọc power dạng treo thường là mở và có thể dễ dàng được tu sửa mà

không cần tháo ống xifon và không phải khởi động lại.

(36) : Hình 1:

1. máy lọc canister

2. lát cắt: khoảng trống rộng để đặt hệ thống lọc

Một cái máy lọc canister trợ giúp việc loại bỏ chất thải và cung cấp không gian

cho cacbon hoạt hóa loại bỏ các chất thải đã phân hủy

CÁC LỰA CHỌN KHÁC CHO BỘ LỌC

Các máy lọc power filter chìm hay đặt trong bể thường được trang bị thêm một

miếng bọt biển để lọc ra những những chất cặn thải lơ lửng trong nước và cũng cung

cấp một vài lựa chọn có thể chấp nhận được. Chúng có nhiều kích cỡ khác nhau (từ

nhỏ bé đến mạnh mẽ) và rất thuận tiện để lọc cho một bể cá nhỏ hay một bể cách ly

nếu có kích thước và chế độ bảo trì thích hợp. Trong một hệ thống đã được thiết lập,

bọt biển nhanh chóng trở thành một bộ lọc sinh học kiêm bộ lọc cơ học và phải được

cọ rửa thường xuyên. Hạn chế của những chiếc máy lọc power đặt bên trong bể là

chúng khá thiếu thẩm mỹ, nhiều người chơi muốn giấu những thiết bị như thế này đi.

Tuy nhiên, một cái máy lọc power chìm chất lượng tốt, mạnh mẽ, hợp lý kết hợp với

một lượng đá sống và một cái protein skimmer có thể là một hệ thống cấu trúc rất

được việc.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Những cái máy lọc chảy nhỏ giọt, những cái bàn chải cọ tảo, máy lọc sinh học phụ

trợ và những thiết kế tiên tiến hơn sẽ rơi vào danh mục của những cái bể chứa một

cách hợp logic: những lựa chọn hấp dẫn dành cho những hệ thống và người chơi

chuyên nghiệp.

Những cái máy khử tia cực tím cũng đang khác phổ biến, cho phép người chơi

kiểm soát hay loại bỏ những mầmbệnh trong nước mà không sử dụng chất hóa học.

Tóm lại, một luồng nước đã qua lọc (có lẽ là luồng nước được bơm trở lại từ một cái

máy lọc ngoài canister) được đi qua một buồng thủy tinh dạng ống nơi nó được quét

qua một luồng tia UV mà có thể giết chết các tổ chức cơ thể cỡ lớn (có thể có lợi hoặc

có hại) đang lơ lửng tự do. Mặc dù hiếm khi cần cho một bể cá tại nhà, một máy khử

UV có thể có ích trong những hệ thống mà cá và san hô bị truyền bệnh từ những mầm

bệnh nhất định. Những cái máy này tương đối dễ lắp đặt và sử dụng, nhưng phải được

lau chùi thường xuyên và những bóng đèn phải được thay thế định kỳ như chú thích

của nhà sản xuất.

(36) Hình 2:

1. máy lọc nhỏ giọt (kiểu ẩm – khô)

2. hộp lọc tràn (treo trên bể)

3. hệ thống lọc sinh học

4. Khu vực bể chứa

5. miếng bọt biển

Các bể chứa ngoài, thường được đặt bên dưới bể trưng bày, rất hữu ích với những hệ

thống bể cá biển lớn. Nhiều người chơi hiện đã loại bỏ bộ lọc sinh học truyền thống

(như trên) và sử dụng bể chứa để bổ sung nước cho máy hớt bọt và là nơi chứa các

thiết bị và bộ lọc khác.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

QUẠT TẠO LUỒNG

Quạt tạo luồng là một món quà hiện đại đối với những người chơi cá cảnh, nó đem

lại một phương pháp vừa rẻ lại đơn giản để đẩy mạnh lưu thông nước. Chúng hầu hết

được đặt dưới nước với những cái motơ được bịt kín, và được gắn một cách dễ dàng

vào phần sau bể hay phía giáp các mặt bên để tạo ra những dòng nước ngẫu nhiên hay

ổn định.

Giống như máy sưởi, quạt tạo luồng dành cho chuyển động của dòng nước cần

phải bền và đáng tin cậy. Ở hầu hết các bộ phận, tất cả các quạt tạo luồng trông giống

như những cái hộp nhỏ màu đen với những chiếc vòi. Lựa chọn tốt nhất phải đợi thời

gian kiểm chứng và phải được sản xuất bởi các nhà sản xuất có uy tín, và thường hơi

đắt hơn những sản phẩm cạnh tranh khác. Khi chọn quạt tạo luồng, hãy tìm kiếm

những cái có thể dễ dàng tháo gỡ. Đó là một xem xét quan trọng bởi các quạt tạo

luồng cần được thường xuyên lau chùi để hoạt động hiệu quả và không cháy sớm.

Môtơ cũng cần phải được bịt kín bằng epoxy, nếu không điện có thể truyền ra nước và

gây giật.

Một cái quạt tạo luồng tốt cũng cần phải có phương pháp để loại bỏ khả năng cá

có thể bị hút vào luồng nước. Trong hầu hết các trường hợp, điều này có nghĩa là nó

gắn thêm một màng chắn. Thật không may là nhiều khi cái màng chắn này quá nhỏ

đến nỗi mà nước không chảy vào được nữa, đặc biệt khi các chất cặn tích lũy trên

màng chắn. Luồng nước bị cản trở dẫn đến quạt tạo luồng bị nóng lên, làm giảm tuổi

thọ của nó. Nó cũng thải một lượng nhiệt không cần thiết ra bể. Khi lựa chọn một cái

quạt tạo luồng, hãy tìm kiếm một cái có màng chắn ngoại cỡ hoặc một hợp lựa chọn

bao gồm cả cái màng chắn lớn.

Quạt tạo luồng với dung lượng như thế nào là cần thiết? Theo ý kiến của tôi,

những chiếc quạt tạo luồng nên đảo nước trong bể từ 5 đến 10 lần trong một tiếng, vì

thế, chúng ta sẽ đặt một hoặc tốt hơn là hai cái quạt nhỏ với tổng lượng đầu ra là 200

đến 400 gallon trên một giờ. Không có nền tảng khoa học nào cho sự giới thiệu này –

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

đơn giản đó là khoảng dung lượng lưu thông nước mà tôi thấy hiệu quả nhất trong

những chiếc bể của mình. Nếu nó có vẻ thừa, hãy nhớ rằng nhiều nhà chăm sóc bể san

hô giờ đây đã để tổng lượng nước đảo lên 20 lần trong một giờ. Trong một bể cá cơ

bản, điều này có thể không cần thiết, nhưng chuyển động của nước cần phải đủ mạnh

để giữ cho cặn bẩn và thức ăn thừa nổi lơ lửng để bị các máy lọc cơ học hút mất –

nhưng không quá mạnh đến nỗi mà cá không thể chuyển động ngược lại được.

(37): 1. quạt tạo luồng chìm

2. giá đỡ để gắn quạt

3.màng chắn

4. màng chắn tùy chọn

Mỗi bể cá cảnh biển nên được gắn một hoặc nhiều cái quạt tạo luồng để tăng chuyển

động của nước và tăng cường trao đổi ôxy.

MÁY SƯỞI

Bởi hầu hết các loại cá biển đến từ vùng nước nhiệt đới, người ta khuyên rằng bạn nên để nhiệt độ ở khoảng giữa 74 đến 780 F (23- 260 C). Với hầu hết các địa phương ở

Bắc Mỹ, một cái máy sưởi là cần thiết, đặc biệt trong những tháng mùa đông. Nếu nhiệt độ trong phòng nơi đặt bể cá biển đã từng giảm xuống dưới 740, một cái máy

sưởi kiểm soát nhiệt tĩnh phải được mở liên tục.

Hầu hết tất cả những cái máy sưởi được sử dụng ngày nay đều là các máy độc lập,

có thể đặt dưới nước và có những bộ điều chỉnh nhiệt gắn liền vào máy chính. Máy

sưởi không quá đắt nhưng chúng lại dễ hỏng (dẫn tới cá bị lạnh hoặc bị luộc), do vậy

hãy đảm bảo tìm kiếm những thương hiệu bền, đáng tin cậy và có uy tín. Sức bền là

chỉ cái máy sẽ khỏe mạnh như thế nào và nó sẽ chống chọi tốt như thế nào với những

cú va đập mà thường xuyên xảy ra. Máy sưởi nên được dán nhãn là có thể đặt dưới

nước và hoàn toàn không thấm nước. Ngay cả khi máy sưởi được treo trên cạnh đỉnh

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

của bể cá thì khả năng mà nó bị rơi hay nước té lên là rất lớn và bạn phải đảm bảo là

nước không thể lọt vào trong máy.

Những cái máy sưởi bị hỏng hoặc lỗi chức năng có cả một kho lịch sử về những

tai nạn mà chúng gây ra, và việc ý thức rằng nước muối là kẻ dẫn điện rất tốt là hết

sức quan trọng. Nếu một chất bịt kín nào đó không hiệu quả hoặc bình thủy tinh bị vỡ,

cái máy sưởi lỗi có thể gây ra một cú giật mạnh hoặc thậm chí chết người đối với chủ

bể cá.

Sự đáng tin cậy là để chỉ nhiệt độ mà nó tỏa ra bên ngoài khớp với nhiệt độ cài đặt

bên trong bộ điều khiển như thế nào. Đó là, nếu bạn để nhiệt độ ở mức 75 độ F thì

nhiệt độ trong bể cũng nên ở mức 75 độ F. Cũng cần chú ý rằng có sự chênh lệch là 2

độ F (độ dao động cho phép) quanh mức nhiệt độ cố định. Điều này cho phép máy

sưởi ít cần phải điều chỉnh thường xuyên hơn nếu chênh lệnh nhiệt độ chỉ là 1 độ và

kết quả là máy ít bị hỏng hơn.

Những người nuôi cá nhiều kinh nghiệm thường lựa chọn những cái máy sưởi đặt

chìm dưới nước tốt nhất – đây là phần thiết bị tốn ít tiền nhất để mà hà tiện. Bất kỳ

một người bán bể cá nào đều sẽ vui vẻ để giới thiệu cho bạn một thương hiệu đã được

thử thách qua thời gian, đáng tin cậy. Một máy sưởi tốt sẽ dùng được từ 3 đến 7 năm

trước khi phải thay thế. Nhân tố chính trong sự tin cậy dài hạn của một cái máy sưởi

là chất lượng và những điều kiện trong những điểm tiếp xúc bên trong của nó, những

thứ mà gắn liền với tuổi thọ của máy sưởi. Nếu những mối liên hệ trong một cái máy

sưởi (được nhìn thấy qua ống thủy tinh) cho thấy sự hao mòn sau một thời gian ngắn

sử dụng, sẽ cho thấy cái máy gặp vấn đề và sắp phải thay thế.

Lựa chọn máy sưởi nên ấn định công suất từ 2 đến 3 watt trên mỗi gallon bể để

cung cấp lượng nhiệt chính xác.(Những người sống ở gần xích đạo có thể lựa chọn

mức công suất thấp hơn trong khi những người chơi ở miền khí hậu lạnh hoặc trong

những ngôi nhà mà giữ nhiệt độ rất lạnh thì nên để ở mức 3 watt hoặc hơn trên mỗi

gallon để an toàn.) Theo ý kiến riêng của tôi thì nên định mức thấp cho cái máy sưởi

của bạn bởi điều này sẽ làm giảm nguy cơ máy hỏng và nấu chín cái bể của bạn. Như

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

một sự thay thế, bạn có lẽ sẽ muốn lắp đặt 2 chiếc máy nhỏ hơn là một chiếc lớn. Ví

dụ, một cái bể 50 gallon thường sẽ cần một cái máy sưởi công suất 100 hoặc 150 watt,

nhưng hai cái máy 50 hoặc 75 watt sẽ làm tốt công việc này hơn với biên độ dao động

nhiệt độ nhỏ hơn và giảm khả năng gây ra tình trạng quá nóng nếu các điểm tiếp xúc

của nó cứ phải luôn bị nhấn nút “on”.

NHIỆT KẾ

Cùng với máy sưởi, một cái nhiệt kế chất lượng tốt cũng nên được sử dụng kèm

với nó. Có rất nhiều lựa chọn bao gồm cả kiểu nổi lơ lửng trên mặt nước và kiểu đính

vào bên ngoài lớp kính. Những cái nhiệt kế điện tử kỹ thuật số rất tiện lợi, dễ đọc

nhưng lại đắt hơn.

Dù với thiết kế nào, nhiệt kế phải đưa ra được các thông số chính xác. Cái này có

thể được quyết định đơn giản chỉ bằng việc nhìn vào một nhóm các mẫu trưng bày

của các nhiệt kế cùng thương hiệu. Bởi chúng đều được định cỡ ở cùng một nhà máy,

chúng sẽ có cùng thông số ở cùng một địa điểm tại cùng một thời điểm. Một nhóm

các nhiệt kế đáng tin cậy chắc chắn sẽ có cùng nhiệt độ. Rõ ràng phải tránh những cái

nhiệt kế không đáng tin cậy – cùng thương hiệu nhưng các thông số của cái này khác

với cái bên cạnh.

TỶ TRỌNG KẾ

Thiết bị này để đo trọng lượng riêng của nước, là một cách để đo nồng độ muối,

hay độ mặn (xem trang 48). Có hai loại tỷ trọng kế sẵn có phù hợp với những người

chơi cá cảnh nghiệp dư và nhìn chung cả hai đều làm công việc quan trọng này một

cách khá ổn.

Một cái tỷ trọng kế thủy tinh nổi trên mặt nước – thường được kết hợp với một cái

nhiệt kế được đặt ở một cái bình cao cổ trong nước để kiểm tra và thông số đọc được

ở mức chính xác khi dụng cụ nổi một cách ổn định. (Rất khó để có được thông số tốt

khi thả trực tiếp một cái tỷ trọng kế nổi vào trong bể).

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Một cái tỷ trọng kế dạng hộp thì ở dạng riêng biệt và được dùng để múc một mẫu

nước từ bể , một miếng nhựa nổi trong cái hộp sẽ cho biết thông số về độ mặn.

Trong cả hai trường hợp, độ mặn càng lớn, sức nổi, thiết bị đo đạc sẽ càng nổi cao,

và chỉ đến một mức thông số trọng lượng riêng càng cao. Kiểu hộp này có xu hướng

phổ biến hơn vì 3 lý do: nó không đắt, các thông số có thể dễ dàng đọc được từ mặt

trước của hộp, và nó không hề dễ vỡ. Rất nhiều cuộc thử nghiệm khác nhau đã khẳng

định với người chơi cá cảnh rằng tỷ trọng kế dạng hộp nhựa mang thương hiệu

Seatest hiện sẵn có ở khắp nơi cho những thông số khá chính xác và tốt hơn một vài

kiểu bóng thủy tinh đang được bán rộng rãi hiện nay. Tỷ trọng kế dạng hộp cần được

rửa sạch bằng nước ngọt giữa các lần sử dụng và những cái bong bóng cần được loại

bỏ trong suốt quá trình đo. Nếu không thực hiện được điều này, các thông số đọc

được có thể sẽ không chính xác.

Thêm vào đó, tỷ trọng kế dạng hộp nhựa đọc thông thường được định mức để đọc

nhiệt độ ở mức nhiệt độ của bể cá thông thường (thường là 75 độ F, tức 24 độ C).

Nhiều tỷ trọng kế thủy tinh dành cho các phòng thí nghiệm khoa học được tiêu chuẩn

hóa để đọc chính xác ở mức 59 độ F và nếu vì sự nhầm lẫn nào đó nó có thể bị dùng

cho bể cá. Nếu bạn lựa chọn tỷ trọng kế thủy tinh dạng nổi, hãy cố gắng tìm ra cái

được dán nhãn là “đo ở mức 75 độ F” và đi kèm với một ống nước mẫu. Cái ống này

sẽ cho ra các thông số dễ dàng hơn, chính xác hơn và có thể nhắc nhở bạn đừng để cái

tỷ trọng kế bập bềnh trên mặt nước vì sớm muộn gì nó sẽ nổ.

Ổ ĐIỆN VÀ GFI

Ba loại thiết bị khác đều thuộc phần cứng của cửa hàng điện cũng là thứ cần được

xem xét lúc này, một thiết bị ngắt điện tự động (GFI) và một thiết bị hẹn giờ.

Một ổ cắm điện sẽ cung cấp một số chân phù hợp và cần thiết cho bất kỳ kiểu bể

cỡ nào. Trong các kiểu sẵn có, cái hữu dụng nhất chứa một vài chân mà cung cấp điện

liên tục còn một vài chân có công tắc. Kiểu thiết kế này cho phép các thiết bị nhất

định ví dụ như máy lọc và quạt tạo luồng có thể được tắt đi khi cho ăn và lau chùi

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

trong khi đó đèn và protein skimmer vẫn có thể chạy được. Thêm vào đó, cần phải

thêm vào cả thiết bị chống quá tải để giữ cho các thiết bị đỡ bị hỏng khi bất cứ sự cố

về điện nào xảy ra. Tránh các ổ cắm có bọc kim loại thay vào đó hãy sử dụng các ổ

cắm bằng nhựa không bị ăn mòn và chống dẫn.

GFI là một thiết bị vô cùng cần thiết bởi nó có thể phát hiện sự chập mạch hoặc rò

điện và ngay lập tức cắt dòng điện để ngăn không gây ra các cú giật. Một thợ điện hay

bất cứ ai khéo tay với các công việc cơ bản liên quan đến dây điện đều có thể dễ dàng

thay thế một cái thùng chứa tiếp đất, dạng tiêu chuẩn bằng một hộp chứa GFI. Các

dây nối mở rộng từ GFI có thể mang lại sự bảo vệ tương đương mà không cần nối lại

dây. Những thiết bị này không hề rẻ nhưng chúng có thể ngăn điện giật và đáng với

chi phí bỏ ra. Nước và điện có thể là một sự kết hợp chết người và việc tất cả các thiết

bị điện được nối qua GFI là một sự thận trọng mà mọi người chơi cá cảnh nên có.

(39): 1. Cái kẹp dây

2. Thiết bị ngắt tự động (GFI)

3. Ổ cắm

4. Dây nối tới bể, bóng đèn và bơm

5. Chú ý: nước phun ngẫu nhiên có thể rớt xuống bất kỳ dây nào nhưng

không được phép dẫn tới một điểm tiếp xúc nào của dòng điện hay dây cắm

6. Drip loop

7. hệ thống kết nối điện an toàn

Sự cố chập mạch gây nguy hiểm tiềm tàng(tới người và thiết bị) có thể được tránh bởi

việc tạo ra drip loop và nối tất cả các dây chạy thiết bị qua thiết bị an toàn GFI.

THIẾT BỊ HẸN GIỜ

Trong một bãi đá ngầm, ánh sáng ban ngày chiếu suốt 12 tiếng một ngày và chiếu

quanh năm. Những con cá biển đã tiến hóa qua hàng triệu năm để sống cuộc sống của

chúng với kiểu ánh sáng ngày và đêm đều đặn và có thể báo trước như vậy. Thậm chí

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

ngay cả với sự trưng bày đơn giản, kiểu ánh sáng thay thế ngày/đêm như vậy vẫn cần

được bắt chước.

Cách tốt nhất để làm cho chu trình này diễn ra tự động và ổn định là sử dụng kiểu

chiếu sáng hộ gia đình hay một thiết bị bấm giờ để bật và tắt đèn đúng giờ mỗi ngày.

Những thiết bị như vậy đều sẵn có ở các cửa hàng bán phần cứng và chúng giúp loại

bỏ gánh nặng phải nhớ tắt điện bằng tay. Những kiểu chiếu sáng không đáng tin cậy

có thể can thiệp vào nhịp sinh học hàng ngày của những chú cá, làm tăng mức độ

stress và làm ảnh hưởng tới kiểu hoạt động và ăn uống thông thường của chúng.

Bởi những con cá không quen với kiểu ánh sáng chuyển đột ngột từ tối đen như

mực sang sáng chói, những bóng đèn trong bể chính nên bật sau khi đã có một chút

ánh sáng trong căn phòng. Những con cá bị sợ hãi trước những ngọn đèn bị bật đột

ngột có xu hướng nhảy ra khỏi bể hoặc đâm sầm vào các chướng ngại vật. Nếu những

bóng đèn trong bể của bạn được cài đặt bật trong suốt thời gian của đêm, một bóng

đèn nhỏ phụ trợ có thể được đặt lên thiết bị bấm giờ để bắt chiếc thời kỳ bình minh.

Tương tự, biển nhiệt đới hiếm khi đen ngòm vào ban đêm, do vậy tôi khuyên nên

giữ những con cá trong ánh sáng đêm lờ mờ trong căn phòng đặt bể cá. Kể từ khi thực

hành việc này, tôi đã để ý thấy ít có những bằng chứng về các cuộc cạnh tranh ban

đêm giữa những chú cá của tôi như là: các vết chày xước, các đám vây bị rách vào

buổi sáng.

(40): 1. thiết bị hẹn giờ siêu công suất

Các sinh vật sống dưới biển hoạt động tốt nhất với chu kỳ chiếu sáng 12 giờ thường

xuyên mỗi ngày, và một thiết bị hẹn giờ đơn giản sẽ đảm bảo những chu trình on/off

này diễn ra ổn định

BỘ DỤNG CỤ KIỂM TRA

Với mắt thường, hai mẫu nước khác nhau có thể cùng trong như pha lê, với tất cả

ý nghĩa và mục đích đều ngang nhau. Tuy nhiên, một loại có thể là môi trường hoàn

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

hảo cho những con cá biển trong khi mẫu kia lại chứa những thành phần chết chóc

như ammoniac, độ pH thấp – điều này có nghĩa là nước mang tính axit tiềm ẩn nguy

cơ phá hỏng các cơ thể sống và sự khỏe mạnh của những con vật.

Chúng ta biết được sự khác nhau đó thông qua các cuộc kiểm tra nguyên tố thành

phần trong nước và bằng những dụng cụ kiểm tra nước mặn cơ bản. Những cuộc kiểm

tra này thường bao gồm các cuộc kiểm tra nồng độ pH, ammoniac, nitơrit, nitơrat

Những việc này đều cực kỳ hữu ích trong giai đoạn đầu khi vận hành một cái bể mới.

Nếu lựa chọn những bộ dụng cụ cá nhân thay vì những bộ sưu tập dụng cụ kiểm tra

mang tính tiết kiệm hơn thì việc lựa chọn cả bộ kit từ cùng một nhà sản xuất sẽ là một

ý tưởng hay. Bởi vì hầu hết các nhà sản xuất sử dụng cùng một định dạng từ dụng cụ

này đến dụng cụ khác, và một khi dụng cụ này đã vạch ra các phương hướng, cái khác

thường dễ dàng thực hiện các bước tiếp theo. Hơn nữa nếu một phần của bộ kit cá

nhân bi mất hay vỡ, các phần từ bộ khác có thể được sử dụng thay thế ngoại trừ thuốc

thử.

Bất kỳ bộ dụng cụ kiểm tra nào đều cần sự chính xác và độ tin cậy. Hơn nữa,

chúng cần phải dễ dàng không chỉ trong việc trộn hay thêm chất hóa học mà còn trong

việc xác định sự khác nhau giữa các giá trị đạt được. Nếu các giá trị được biểu diễn

bởi những màu sắc khác nhau, những màu này phải phân biệt khi có sự khác nhau rõ

ràng trong các giá trị. Nếu không sự hiểu nhầm và dẫn đến một thông số sai là kết quả

thường thấy.

Nhiều cửa hàng cá cảnh giờ đây đã cung cấp cá dịch vụ kiểm tra thông số nước,

điều này mang lại cho người chơi cơ hội được quan sát xem việc sử dụng những dụng

cụ kiểm tra đặc biệt khó dễ như thế nào. Nếu bạn nhận thấy một dụng cụ nào đó khó

sử dụng hoặc có sự thay đổi màu sắc mà khó phân biệt, thì đừng nên mua nó.

Một trong những cái lợi của việc lựa chọn các dụng cụ cùng loại với của nhà bán

lẻ là giá trị của bạn sẽ khớp với của họ khi bạn kiểm tra. Đây cũng là cách hay để bạn

kiểm tra liệu bạn có đang thực hiện việc kiểm tra chính xác hay không và đọc các

thông số có ổn không.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Thêm nữa, một vài nhà bán lẻ sẽ đưa ra một sự bảo hành hay ít nhất một khoản bồi

thường nếu một con cá chết trong vòng 24 đến 48 giờ sau khi được mua – điều kiện là

nước nơi cá được thả phải có chất lượng tốt. Nếu cửa hàng bạn mua cá có chính sách

này, bạn có thể phải mang cả cá chết và mẫu nước đến. Bởi đôi khi kết quả các cuộc

kiểm tra khác nhau rất nhiều từ bộ dụng cụ của hãng này so với hãng khác, cho nên sẽ

có ích khi bạn sử dụng cùng một phương pháp đo đạc với các cửa hàng.

Cuối cùng, bạn có thể sẽ muốn chọn một thương hiệu sản xuất dụng cụ kiểm tra

mà nó tràn ngập trong các cửa hàng bán lẻ.

(41):

KHỞI ĐẦU VỚI NGÂN SÁCH EO HẸP

Nếu chi phí để setup một cái bể cá cảnh biển đặc trưng từ 40 đến 50 gallon dường

như bị ngăn cản, thì vẫn còn nhiều biện pháp thay thế với những ai phải khởi đầu từ

một ngân sách hạn chế.

BẮT ĐẦU NHỎ

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Trong khi những cái bể lớn thường dễ dàng giữ ổn định, một người bắt đầu cần

thậ sẵn sàng theo đuổi những quy tắc nghiêm ngặt sẽ có thể bắt đầu với một bể cá 10

đến 20 gallon.

Với kích thước bể như thế này, mọi thứ sẽ cần được thực hiện trên quy mô nhỏ.

Chỉ cần 10 đến 15 pound đá sống, 10 pound san hô và một số thiết bị khác với định

mức thấp nhất là đủ. Ở mức tối thiểu, bạn sẽ cần một cái power filter (dùng ngoài

hoặc đặt chìm), cùng với một quạt tạo luồng nhỏ, một máy sưởi 25 đến 50 watt và một

hộp đèn. Bể phải có một mái che thích hợp để giảm lượng nước bốc hơi, và mực nước

phải được kiểm tra hàng ngày hoặc hai ngày một lần để ngăn không có sự biến

chuyển đột ngột về độ mặn. (Bởi lượng nước càng ít, bất kỳ lượng bay hơi nào cũng

nhanh chóng ảnh hưởng đến độ mặn).

Sử dụng than hoạt tính trong bộ lọc một cách cẩn thận và thay 10% nước hàng

tuần có thể giúp bạn vượt qua mà không cần đến protein skimmer. (Thay than hàng

tháng và mua thêm một cái máy hớt bọt ngay khi bạn có đủ tiền).

Chăm sóc và cho ăn thường là những rắc rối lớn nhất với những cái bể nhỏ. Bạn

sẽ phải chấp nhận sự hạn chế tạm thời với 2 đến 5 con cá nhỏ. Sự lựa chọn tốt nhất

có lẽ là một đôi cá chú hề Ocellaris và một con Royal Gramma (Gramma loreto) hoặc

một con Cherub Angelfish(Centropyge argi) (Xem trang 84 phần lựa chọn cá). Chúng

sẽ cần cho ăn bằng sự quan tâm lớn nhất, bởi thức ăn thừa có thể nhanh chóng bốc

mùi trong bể nhỏ. Một vài con ốc sên, ốc mượn hồn ăn cỏ hay tôm cleaner có thể tăng

thêm phần thú vị và giúp duy trì bể.

Chìa khóa thành công là phải vẽ ra một ranh giới tinh thần và kiên quyết nói

không với bất kỳ ý định thả thêm cá nào. Một khi một cộng đồng nhỏ đã được thiết lập,

sẽ rất khó khăn khi thả thêm bất cứ con cá nào mà tránh được không bị đả thương

một cách tàn nhẫn – hoặc phá vỡ nghiêm trọng sự cân bằng sinh học trong bể

.

MUA THIẾT BỊ ĐÃ QUA SỬ DỤNG

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Một cách khác thay thế để tiết kiệm tiền là mua thiết bị đã qua sử dụng. Các quảng

cáo đã sắp xếp thường liệt kê danh sách các bể cá và các thiết bị có liên quan để bán.

Các cửa hàng bể cá và cộng đồng thường chỉ dẫn người chơi tới các thiết bị đã qua

sử dụng. Thêm vào đó, họ có thể biết đến cả những người đang chuẩn bị dọn đi khỏi

vùng và không muốn chở thiết bị theo. Nhiều người chơi sẵn sàng bán đá sống và bể

cá của mình với giá rẻ để khỏi phải vác đi dọc đất nước mình.

Hãy cảnh giác khi chọn mua bất kỳ loại thiết bị, đá hoặc cát nào đã qua sử dụng

nếu cái bể trước từng bị dịch bệnh quét sạch hoặc phải chịu một liều lượng đồng quá

nặng hay bất kỳ một phương thuốc nào. Bể và thiết bị có thể được làm sạch và dùng

lại, nhưng những thành phần sống trong bộ lọc sinh học có thể đã nhiễm bệnh và khó

phục hồi trở lại được.

Không cần thiết phải mua mọi thứ ngay lập tức – một vài loại thiết bị và cá có thể

lắp đặt và mua sau tùy từng giai đoạn.

HAI ĐIỀU CẢNH BÁO

1. Nếu thêm đá sống theo từng giai đoạn, trước hết hãy vô trùng nó trong một hệ

thống riêng rẽ khác. Đừng cố gắng để thả thêm cá, đá sống chưa vô trùng vào bể

trưng bày cùng một lúc. Một khi bể đang chạy và đã được chu chuyển, việc thêm đá

sống chưa vô trùng có thể gây phá vỡ cân bằng, làm cá, những động vật không xương

sống và cả những cơ thể sống trên hòn đá bị chết.

2. Nuôi thật ít cho tới khi bạn đã thiết lập được bộ lọc sinh học và sự lưu thông nước

phù hợp. Khi những thông số đã đạt được, việc nuôi cá có thể được tiến hành ở bất kỳ

nhịp độ nào mà bạn muốn, miễn là những sinh vật mới được cách ly, tập thích nghi và

được thả một cách hợp lý. (Thả những con cá ôn hòa nhất trước tiên).

GIA NHẬP MỘT CỘNG ĐỒNG

Nếu có một cộng đồng những người nuôi cá biển địa phương trong vùng của bạn, hãy

tham dự các cuộc họp của họ. Hãy cho mọi người biết bạn đang cố gắng thiết lập một

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

bể cá biển với ngân sách hạn hẹp. Nhiều nhà chơi cá cảnh có thừa thiết bị và vật nuôi

và bạn có thể tìm thấy một món hời kèm theo những lời khuyên miễn phí. (Bằng việc

truy nhập internet, bạn cũng có thể tìm thấy cả một thế giới thông tin và các mối quan

hệ trong nghề nuôi cá cảnh trên mạng).

MUỐI

Muối biển tổng hợp sẽ được dùng để chuyển đổi nước máy thành dạng nước gần

giống với nước biển ở mức có thể chấp nhận được. Hãy đảm bảo mua đủ muối bởi

bạn không chỉ phải đổ đầy bể mà còn phải dùng nó để thay nước nhiều lần. Tôi sẽ bắt

đầu bằng một lượng muối vừa đủ để hòa với lượng nước gấp 2 đến 3 lần dung tích bể.

(Bạn sẽ tiết kiệm hơn nếu mua muối đựng trong các thùng hoặc hộp với số lượng lớn.

Tuy nhiên, khi đã mở nắp, muối thường hút ẩm trong không khí rất nhanh và trở nên

cứng, rất khó hòa tan. Với những người chủ của các bể cá nhỏ, mua 3 túi muối trộn

cho bể 50 gallon có lẽ tốt hơn mua một túi dành cho bể 150 gallon.)

CHẤT NỀN

Cát, bột san hô, hoặc các chất nền khác được dùng để che phủ đáy bể với độ dày lên

đến ½ đến 1 inch (1 tới 2,5 cm). Hãy hỏi thật chắc chắn về chất nền có nguồn gốc từ

san hô như cát ngầm, bột san hô hoặc aragonite – chất chứa canxi cacbonat. Tránh xa

các loại chất nền như cát hộp, đôlômit, cát sông hay bất kỳ loại chất nền phun màu

hay nhuộm màu nhân tạo nào được dành để bán cho những người chơi cá nước ngọt.

Chuẩn bị 3 đến 5 pound cát cho mỗi mét vuông mặt đáy, hoặc gần đúng hơn là ¼ đến

½ pound cho mỗi gallon dung tích bể.

PHÔNG BỂ

Chất liệu phông bể ở mức nào đó sẽ cần thiết trong việc tạo nên cái nhìn hoàn thiện

cho bể cá nếu cái bể không có những tấm kính màu hay tối màu ở phía sau. Trong hầu

hết các trường hợp, phần sau một cái bể sáng sủa nên được che phủ bởi chất liệu mở

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

đục bên ngoài hoặc một lớp sơn để bố cục thủy sinh trong bể cá trông thật hơn và để

che giấu đi bất cứ loại dây dợ, ống nước hay thiết bị nào đằng sau bể. Các tấm phông

màu đen hoặc xanh da trời là những lựa chọn phổ biến nhất, và hầu hết các cửa hàng

cá sẽ chào bán các sản phẩm giấy in màu không thấm nước hoặc giấy phim mà chúng

được cắt theo chiều dài của bể. (Một vài con cá sẽ theo thói quen đánh nhau với chính

cái bóng của mình, do vậy đôi khi gương chiếu hậu có thể gây ra những rắc rối. Nước

muối cũng có xu hướng làm mòn các chất liệu thủy tinh.)

ĐIỀU HÒA NƯỚC MÁY

Chất sử lý nước hay chất điều hòa nước máy sẽ rất hữu ích nếu nước máy ở địa

phương bạn có chứa clorine hay cloramin, hoặc các kim loại nặng. Hãy liên hệ với

cửa hàng của bạn hoặc hỏi một người nuôi cá địa phương về các điều kiện của nước

trong khu vực để học hỏi về các quy trình xử lý nước nếu có bất cứ người nuôi cá

thành công nào đang sử dụng chúng. Nếu sử dụng chất hóa học để khử clo hay

cloramin ra khỏi nước, hãy sử dụng sản phẩm của các thương hiệu được đảm bảo từ

các công ty như Kordon, Tetra hay Seachem. (Một vài công thức xử lý nước rẻ tiền có

chứa fomanđêhit, chất ăn da cá, làm mất lớp màng nhấy bảo vệ. Phương pháp này

chắc chắn là rẻ hơn trung hòa clorine và cloramine, nhưng rõ ràng ít được mong muốn

hơn vì những ảnh hưởng tiêu cực lên bộ lọc sinh học).

PHA TRỘN

Một vài thứ tạp nham vẫn góp phần setup và thiết lập một bể cá cảnh biển trơn tru.

Một cái thùng chứa con giống, một lưới cá cỡ trung bình, một cái đệm chân không

kèm với một ống xiphôn, một hoặc một vài cái thùng nhựa tiện ích, một thùng chứa

để hòa và để ngấu nước muối, một lượng than hoạt tính, và một cái giẻ hoặc cái gậy

để lau chùi (dùng cho thủy tinh hoặc acrylic, tùy trường hợp), tất cả sẽ hoàn thiện

danh sách hỗn độn vật tư và thiết bị cần thiết.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Cùng lúc, tôi cũng thúc giục tất cả những người mới chơi cá cảnh hãy đầu tư một

khoản tiền khiêm tốn để lắp đặt một cái bể cách ly. Hệ thống đơn giảm mà không đắt

tiền này sẽ nhanh chống hoàn lại nhiều lần chi phí của nó bằng việc đảm bảo bất kỳ

con cá nào thả vào bể chính cũng được khỏe mạnh. (Xem trang 113 – 115 để xem

hướng dẫn về phần setup và sử dụng bể cách ly hợp lý.)

10 LỖI PHỔ BIẾN KHI LÊN KẾ HOẠCH

1. Chuẩn bị không tốt những con cá bạn muốn nuôi. (Kết hợp không tốt giữa vật nuôi và thiết bị hoặc kết hợp các loài không thích hợp.) 2. Định mức kích thước bể nhỏ hơn thực tế (đặc biệt nếu muốn nuôi nhiều loài ) 3. Không cung cấp sự chuyển động của nước, lọc protein, chiếu sáng một cách phù hợp. 4. Mua thiết bị rẻ nhất có thể: tiết kiệm những phần thiết bị quan trọng nhất để rồi phải sớm thay thế chúng. 5. Đẽo cày giữa đường (Hãy cố gắng lập một kế hoạch thống nhất của riêng bạn) 6. Đặt bể ở nơi nhiều người qua lại có thể làm cho những con cá nhút nhát phải trốn tránh. 7. Đặt hệ thống ở nơi mà không thuận tiện để sử dụng nhiều nguồn điện. 8. Không chuẩn bị được vị trí thích hợp để đặt thùng chứa nước cũ và bể cách ly nhỏ. 9. Cố gắng để đẩy nhanh quá trình: không cho phép đủ thời gian để chuẩn bị, setup, thực hiện chu trình nitơ và thêm vật nuôi theo từng bước một – và không cách ly tất cả các vật nuôi mới vào trong một cái bể riêng biệt dành riêng cho mục đích này. 10. Hy vọng thành công hoàn toàn và ngay lập tức (không tự thư giãn được và không chấp nhận sự thật là thiết lập một bể cá đẹp và ổn định luôn cần có thời gian và sự kiên nhẫn.)

CÁC MỨC GIÁ CẢ VÀ NHỮNG DỤNG CỤ CHO NGƯỜI MỚI BẮT

ĐẦU

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Gom tất cả những dụng cụ này lại và con số có thể làm bạn sốc. Thật may là, hầu hết các

cửa hàng bể cá có “bộ dụng cụ cho người mới bắt đầu”, được thiết kế riêng cho những

người mới có thể dễ dàng và nhanh chóng đến với thú chơi. Nếu có thể, bạn nên tận dụng

món chiết khấu này, đó là cách mà một cửa hàng thu hút một người khách mà có thể quay

lại để mua thêm cá, muối, thức ăn, các công cụ - và cuối cùng một hệ thống lớn hơn nếu

anh ta hay cô ta trở thành một người chơi chuyên nghiệp.

Dựa vào người sử dụng những gói hàng này, giá cả và lựa chọn thành phần có thể

rất hấp dẫn hoặc hoàn toàn không thích hợp. Hãy cảnh giác để không phải bộ dụng cụ

hay kiện hàng cho người bắt đầu chơi cá nước ngọt mà chứa các thiết bị lạc hậu, vô dụng

hoặc những thiết bị không mong muốn khác. So sánh một lần nữa giá của bộ dụng cụ với

danh sách các thiết bị cơ bản trong chương này (xem danh sách chuẩn bị, trang 20, 21.)

Nhiều cửa hàng sẽ vui lòng để được đáp ứng những khách hàng là người mới chơi

cá biển, giúp họ thay đổi một phần gói hàng cho người mới bắt đầu, hoặc lắp giáp các

thiết bị lựa chọn trực tiếp bằng tay mà thường mang lại khoản tiết kiệm tương đương với

gói hàng cho người mới bắt đầu. Nếu bạn quyết định chọn mua hầu hết hoặc tất cả các

thiết bị và đá sống (hạt nhân của bộ lọc sinh học) từ cùng một cửa hàng, bạn sẽ có thể

nhận được một khoản ưu đãi và điều này thì tốt hơn việc mua mỗi thứ từ nhiều nguồn

khác nhau.

Một lưu ý cuối cùng: ủng hộ cho nhà bán lẻ tốt bụng tại địa phương, người mà

luôn hào phóng trong việc đưa ra lời khuyên và giảm giá cho bể cá đầu tiên của bạn là

một điều quan trọng. Nhiều cửa hàng cá độc lập làm việc hết sức để nuôi những con cá

khỏe mạnh, những con cá được bắt bằng lưới – bao gồm cả các loài hiếm có khó tìm.

Trung thành với các cửa hàng cá địa phương có thể mang lại cho bạn những lời khuyên

vô giá và cả sự giúp đỡ (bao gồm cả những cuộc gọi khẩn cấp và cho vay mượn thiết bị)

khi có điều gì đó tồi tệ xảy ra – cũng như một địa điểm dành để người giúp việc gọi tới

khi bạn đi nghỉ. Có được một cửa hàng tốt thân quen gần nhà là một thuận lợi lớn, nó

đảm bảo cho bạn có thể có được những hàng hóa đặc biệt cho cá biển và những con cá,

các loài không xương sống khỏe mạnh, đáng mơ ước.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

CHƯƠNG II

CẨM NANG VỀ NƯỚC MUỐI

Một môi trường khỏe mạnh: hãy làm cho nó lấp lánh nhiều màu và thích hợp với

những con cá

Nhìn từ vũ trụ, trái đất là một quả cầu màu xanh, phủ lên mình nó 70% là nước

biển, dẫn đến một số người yêu biển gợi ý rằng chúng ta thực sự nên gọi trái đất là

hành tinh Nước Muối mới đúng.

Mặc dầu là địa điểm chung của cả hoàn cầu, nước biển mang lại những chất lượng

không ngờ tới cho những người chơi cá biển mới sở hữu một bể cá trung bình. Một

vài người chơi cảm thấy họ đang trở thành sinh viên ngành hóa chất biển, trong khi

nhiều người khác chỉ học đủ những thứ cơ bản về các cuộc kiểm tra và các kỹ thuật

bảo trì chất lượng nước để giữ cho hệ thống và những con vật nuôi của họ sinh sôi

phát triển.

Trong cả hai trường hợp, một kiến thức cơ bản về các điều kiện môi trường nước

trong các rạn san hô và làm thế nào để tạo ra một môi trường nhân tạo như vậy trong

các hệ thống bể thì cực kỳ hữu ích đối với tất cả những người sở hữu bể cá biển. Hơn

bất cứ thứ gì khác, chất lượng trong bể sẽ quyết định đến sức khỏe của những con cá,

đến khối lượng công việc bảo trì mà bạn phải làm, và cuối cùng là sự thích thú mà bạn

có được từ việc sở hữu một bể cá nước biển.

CÁC CHẤT HÓA HỌC TRONG NƯỚC

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Những người tiên phong trong nghề chăm sóc bể cá cảnh biển hầu hết đều là

những người sống gần biển, nơi mà việc setup một cái bể đồng nghĩa với việc đi ra bờ

biển với những cái thùng trong tay. Kể từ khi ra đời các công thức muối trộn vào

những năm 50 và 60, các bể cá cảnh biển đã di chuyển vào sâu trong đất liền và kéo

giãn khoảng cách bất cứ nhu cầu nào đối với nước biển trong tự nhiên. Những loại

muối trộn tổng hợp tốt thậm chí được xem là ưu việt hơn nước muối thật bởi chúng

không những không chứa nhiều ký sinh trùng cũng như các chất thải mà còn tăng khả

năng chống lại sự biến đổi nồng độ pH – chưa kể đến việc chúng rất tiện lợi. Nếu bạn

tình cờ sống gần nguồn nước biển sạch, không có lý do gì mà không sử dụng nó, xử lý

hợp lý bằng cách loại bỏ các chất gây ô nhiễm trên đường bờ biển, lọc và để ngấu

trước khi sử dụng để ngăn ngừa sự xâm nhập của các tác nhân và các chất thải gây

bệnh. Tuy nhiên, hầu hết các nhà chăm sóc bể cá cảnh lại chọn mua các hỗn hợp muối

khô để hòa với nước tại nhà.

Nước biển tổng hợp không đơn thuần chỉ là nước hòa với muối ăn (NaCl) (đặt một

con cá biển vào dung dịch muối này nó sẽ chết.). Nước biển là một dung môi phức tạp

bao gồm 6 loại ion lớn, 5 loại ion nhỏ và hơn 70 nguyên tố vi lượng, trong đó có 14

loại được coi là thiết yếu với sức khỏe của các sinh vật sống trong bể cá. (Xem bảng

thành phần nước biển ở trên.)

Thật may mắn, nước biển hầu hết đều tương tự nhau trên khắp thế giới cho nên

một người chăm sóc cá biển hạng trung thường không cần những điều chỉnh đặc biệt

khi chăm sóc một vài giống cá hoặc một vài loài từ những vùng cụ thể nào đó.

(Những người chơi cá nước ngọt thường phải đấu tranh giải quyết với rất nhiều dạng

nhiệt độ, nồng độ pH, độ cứng những con cá đến từ những vùng nước khác nhau). Có

được nguồn nước biển nhân tạo tốt từ một hỗn hợp là một vấn đề tương đối đơn giản.

Tất cả những gì cần thiết là một nguồn nước sạch và một hỗn hợp muối trộn chất

lượng tốt.

Trong chương này, trước tiên chúng ta sẽ bàn bạc về vấn đề làm thế nào để tạo ra

nước biển, sau đó khám phá ra sự suy biến của nó khi thả cá vào bể. Cuối cùng, chúng

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

ta sẽ điều tra về các thiết bị và các biện pháp cần thiết để giữ chất lượng nước trong bể

ở mức cao – nhân tố quan trọng nhất quyết định sự sống chết của những con cá và sự

thường xuyên góp mặt hay vắng mặt của tảo sợi và các loại sinh vật gây hại khác

trong bể. Cuối cùng, chất lượng nước trong bể sẽ quyết định đến thành công và sự

thích thú mà bạn tìm thấy được từ thú chơi này.

NGUỒN NƯỚC: ĐẠI DƯƠNG

Những người chơi sống gần bờ biển thường thấy rằng sử dụng muối trộn thì an toàn

hơn, thuận tiện hơn và có lẽ rẻ hơn lấy nước từ đại dương. Nước biển tự nhiên ở

những khu vực ven bờ và gần các thành phố có thể chứa nhiều chất thải gây hại,

những ký sinh trùng và những loại vi khuẩn mà sẽ sinh sôi và chết đi, gây ra sự suy

giảm các điều kiện môi trường bể cá.

Tuy vậy, nước biển tự nhiên vẫn được rất nhiều người chơi trên thế giới sử dụng

thành công. Một vài người chơi chỉ đơn giản là điều chỉnh nhiệt độ của nước, lọc đi

các chất cặn và sử dụng nước biển chưa qua xử lý trong hệ thống của họ. Tuy nhiên

đó là một giai đoạn dài trong lịch sử của những sinh vật gây hại, của những con vi

khuẩn không mong muốn và những sinh vật phù du gây phiền toái (cả dạng thực vật

và động vật) đi kèm với nước biển chưa qua xử lý.

“Cẩn tắc” sẽ “vô ưu” với những rắc rối từ nước biển, đó là: lọc nước qua rất nhiều hệ

thống lọc nhỏ, ngâm ngấu nước trong bóng tối trong vòng 2 tuần hoặc lâu hơn, hoặc

xử lý nước với clorine, sau đó lọc và khử clo trước khi xử dụng. Một số người chơi

thường thường kết hợp những phương pháp này để đảm bảo độ an toàn của nguồn

nước mà họ lấy từ đại dương.

NGUỒN NƯỚC: NƯỚC NGỌT

Khi tự pha chế lấy nước biển của riêng chúng ta, một nguồn nước ngọt tốt là rất cần

thiết – và nó không nhất thiết phải là nước máy lọc, thứ nước mà bạn vẫn uống hàng

ngày. Thật không may là trong rất nhiều trường hợp, các nguồn nước ở đô thị hay

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

nước giếng đều có chứa nhiều nitơrat, phosphate, hay kim loại nặng. Ví dụ, chỉ dẫn

quốc gia (EPA) cho phép nồng độ nitơrat là 10mg/l đủ gây đau đầu cho các nhà chăm

sóc cá cảnh. Ví dụ, một vài đô thị người ta bỏ thêm kẽm hoặc phosphate vào nước để

chống nhiễm đồng hoặc chì từ ống nước gia đình. Phosphate có thể làm cho tảo gây

hại phát triển và đặc biệt có hại đối với những động vật không xương sống ở biển.

Nếu nồng độ nitơrat và phosphate tăng lên trong nước ngọt thêm vào để bù đắp

cho lượng nước bốc hơi và trong khi thay nước, những chất này sẽ được thêm vào liên

tục cùng với đó. Kết quả là nồng độ của chúng sẽ dần tăng lên, và người nuôi cá sẽ

gánh chịu hậu quả là tảo gây hại và các ổ vi khuẩn sinh sôi.

Sự tập trung các kim loại nặng như là đồng có thể còn mang lại những hậu quả tai

hại hơn bởi những nguyên tố này gây độc cho rất nhiều dạng sinh vật sống ở biển.

Cũng cần chú ý rằng hệ thống lọc nước tại nhà không phải là một giải pháp cho vấn

đề này bởi đa phần những hệ thống này làm tăng rõ rệt nồng độ natri trong nước và có

ảnh hưởng tiêu cực đến sinh vật biển. Để xác định xem có vấn đề rắc rối gì hay không,

bạn có thể liên hệ đến cơ quan cung cấp nước tại địa phương và họ sẽ cung cấp cho

bạn những báo cáo về chất lượng nước, kèm theo danh sách rất nhiều hợp chất có

trong nước. (Những người chơi sử dụng nước giếng có thể liên hệ với các công ty bán

và lắp đặt máy lọc nước và các thiết bị xử lý nước khác để họ phân tích nước cho

mình. Dịch vụ này thường khá rẻ nhưng đương nhiên học sẽ tìm cách để bán thiết bị

khử nước cho bạn.)

Nếu bạn cần một nguồn nước tốt hơn, sẽ có rất nhiều cách để thay thế. Một số

người chơi cá cảnh chỉ đơn giản là mua nước sạch ở cửa hàng thực phẩm hoặc cửa

hàng bán vật nuôi ở địa phương. Nhiều nhà buôn giờ đây đã có hệ thống làm sạch

nước tại nhà, do đó đây thường là một nguồn nước sạch có sẵn nữa.

Các cửa hàng bể cá cảnh cũng chào bán cả các đầu máy lọc nước máy để giúp tạo

ra những mẻ nước khử ion giá rẻ tại nhà. Để cung cấp lượng nước lớn hơn ở mức vài

xu mỗi gallon, có lẽ cần phải đầu tư một hệ thống máy lọc nước RO hoặc DI. Không

cần quá tỉ mỉ, những chiếc compact canister với màng lọc và hệ thống lọc vẫn có thể

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

loại bỏ một lượng lớn chất gây ô nhiễm trong nước. Chỉ riêng máy lọc RO hoặc liên

kết thêm với máy khử ion (DI) sẽ là quá đủ để cung cấp nước sạch cho một bể cá

nước mặn. Nhiều chủ bể san hô cũng như những người chơi cá nước ngọt chuyên

nghiệp đều tín nhiệm nước lọc RO/DI, nhưng với một bể cá cảnh biển đơn giản có lẽ

sẽ không cần đến chúng trừ khi nguồn cung cấp nước ở địa phương bất ổn. (Nếu bạn

đã có một cái máy lọc nhẹ nước, hệ thống máy RO/DI sẽ được dùng để cải thiện sự

mất cân bằng mà cái máy đó tạo ra. )

MUỐI TRỘN

Cùng với nước sạch, hỗn hợp muối trộn tổng hợp chất lượng tốt cũng rất cần thiết.

Không phải tất cả các loại muối biển đều như nhau, và thương hiệu rẻ tiền thường

mang lại những kết quả không đảm bảo và có thể thiếu một vài thành tố cần thiết nhất

định. Hãy tìm đến một thương hiệu với danh tiếng đã được tạo dựng chắc chắn và

tránh mua những hỗn hợp giảm giá.

Nước muối mới hòa là chất có tính ăn da và vì thế nó nên được hòa trước khi trút

vào bể cá có vật nuôi. Trước khi sử dụng cho lần thay nước, nó cần được làm cho

thoáng khí hoặc khoắng lên trong vòng ít nhất một ngày trong một cái thùng tiện ích

riêng biệt hoặc một cái xô nhựa sạch để lắng trong (nước muối mới hòa có màu trắng

sữa) và dành thời gian để ổn định độ pH.

Không bao giờ được cho muối tổng hợp khô vào thẳng bể nuôi có cá và động vật

không xương sống, thậm chí khi độ mặn của bể đã giảm xuống mức rất thấp. Kết quả

có thể làm tổn thương nghiêm trọng đến lớp màng nhầy và mang cá và sự thay đổi

mạnh trong độ mặn có thể gây sốc đối với những loài không xương sống yếu ớt.

(47): Muối trộn tổng hợp

Muối trộn tổng hợp dành cho bể cá cung cấp một phương pháp thuận tiện để tạo ra

loại nước biển tổng hợp mà cân bằng về mặt hóa học, làm trung gian tốt và có thể

giúp duy trì thậm chí cả những sinh vật mong manh của rạn san hô.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

ĐỘ MẶN

Nước muối nặng hơn một thể tích nước ngọt tương đương và vì thế có độ đậm đặc lớn

hơn. Độ mặn là một thước đo tổng lượng muối có trong nước. Trọng lượng riêng

(TLR) là một thước đo gián tiếp của lượng muối trong đó.

Với những người chơi nghiệp dư, các thuật ngữ độ mặn và trọng lượng riêng được

sử dụng một cách lỏng lẻo và có thể hoán đổi cho nhau, tuy vậy không có bộ dụng cụ

kiểm tra hay thiết bị rẻ tiền nào có thể cho được những thông số chính xác về độ mặn.

Sử dụng tỷ trọng kế, những gì chúng ta đo được là trọng lượng riêng và cái này thì

hoàn toàn thỏa mãn cho việc quản lý một bể cá.

Độ đậm đặc (độ mặn) trung bình của nước biển là cao hơn 2,6% so với nước ngọt

và vì thế sẽ thu được số đo 1,026 với một cái tỷ trọng kế. Các thông số về TLR thông

thường với hầu hết các bể là từ 1,022 đến 1,026. Ở những mức này, hầu hết các loại

cá thậm chí cá từ Biển Đỏ sẽ sống tốt. Bể chỉ có cá có thể chạy ở mức thấp từ 1,022

đến 1,023 mà không có vấn đề gì nhưng những người nuôi san hô và động vật không

xương sống giữ TLR trong bể của họ ở mức gần với nước biển trong tự nhiên từ

1,024 – 1,026.

Cần phải chú ý rằng có một mối quan hệ giữa nhiệt độ và trọng lượng riêng: nước

lạnh thì đặc hơn nước ấm. Tầm quan trọng của việc này là nhiều tỷ trọng kế dành cho

phòng thí nghiệm thường được định cỡ ở nhiệt độ lạnh hơn (59 độ F) và các thông số

sẽ thay đổi khoảng 0,001 khi cứ 7 độ F ở mức nhiệt độ chệch đi so với nhiệt độ được

định mức. Vì thế ở nhiệt độ trên 59 độ F, các thông số quan sát được từ những tỷ

trọng kế này sẽ thấp hơn một chút so với mức được mong đợi.

Trong thực tế, một người bắt đầu chơi cá biển được khuyên là nên mua một cái tỷ

trọng kế (cả dạng nổi hoặc dạng hộp) được định mức ở nhiệt độ 75 độ F. Nếu bạn

luôn đo TLR và thay nước ở cùng mức nhiệt độ - lý tưởng nhất là 75 độ F – bạn sẽ

không cần phải lo lắng về định mức nhiệt độ. (Những người chơi bể san hô mà nuôi

cả các loài động vật không xương sống có thể sẽ muốn sử dụng loại nhiệt kế, tỷ trọng

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

kế hay dụng cụ đo chiết xuất dành cho phòng thí nghiệm để đạt được các giá trị về độ

mặn hoặc trọng lượng riêng chính xác.)

pH

Cùng với độ mặn, có hai thông số hóa học khác cũng rất quan trọng đối với bể cá biển:

pH và alkalinity. Định nghĩa trong phạm vi hẹp, pH là tỷ lệ giữa ion H+(hydrogen) và

ion OH- (hydroxit) (thông số đọc được nằm trong khoảng từ 0 đến 14). Khi cả hai

loại ion đều tập trung với tỷ lệ ngang bằng trong nước, thông số đọc được sẽ là 7, và

nồng độ pH lúc này là trung tính. Khi tỷ lệ ion H+ lớn hơn, nước có nồng độ pH thấp

hơn 7 và mang tính axit. Ngược lại, khi trong nước thừa ion OH-, nó có nồng độ pH

lớn hơn 7, và nó mang tính bazơ hay tính kiềm.

Nước biển trong tự nhiên có nồng độ pH nằm trong khoảng từ 7,8 (ở vùng nước

sâu) đến 8,4 (vùng biển nước nông). Mục tiêu trong hầu hết các bể cá biển là có nồng

độ pH từ 8,1 đến 8,4 (tính kiềm nhẹ). Qua thời gian, nồng độ pH trong bể sẽ có xu

hướng giảm (điều đó đồng nghĩa, nó có xu hướng mang tính axit). Đó phần nhiều là

do sự phân giải các chất thải, sự tích lũy các mảnh vụn và sự tiếp diễn của các quá

trình khoáng hóa. Để ngăn nồng độ pH trong bể giảm xuống quá thấp, cần thiết phải

duy trì tính kiềm của hệ thống.

(48) : 1. Tỷ trọng kế chìm

2. Tỷ trọng kế nổi (có bình chứa)

Các tỷ trọng kế đơn giản, cả loại chìm và loại nổi, cho phép những người chơi đo

trọng lượng riêng của nước biển, một phương pháp tiện lợi để đánh giá độ mặn.

(49) : Một bộ dụng cụ kiểm tra đặc trưng nước biển nhằm kiểm tra nồng độ ammoniac,

nitơrit, nitơrat và pH; một bộ dụng cụ kiểm tra alkalinity cũng được khuyên dùng.

ALKALINITY

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Alkalinity là một thước đo của khả năng trung hòa trong nước biển hay sự tập trung

cacbon và axit cacbonat trong hệ thống. Khả năng trung hòa chỉ khả năng nước có thể

chống lại sự giảm nồng độ pH trong nước gây ra bởi sự axit hóa. (Một cách tự nhiên

axit sẽ tăng lên trong bể qua thời gian, gây ra sụt giảm khả năng trung hòa). Hầu hết

các nhà khoa học đo alk bằng đơn vị mili đương lượng trên lít (meq/L). Khoảng lý

tưởng dành cho bể cá là từ 2,5 đến 3,5 meq/L.

Nhiều người chơi cũng sử dụng thước đo dKH (degree Karbonate Hardness) (có

nguồn gốc từ Đức) để đo độ cứng của cacbonat. Mục tiêu là có dKH nằm giữa 7 và 10.

(Để chuyển đổi dKH sang meq/L, chia dKH cho 2,8.)

Ở các mức alk như vậy, thậm chí cái chết và và sự phân hủy của một con cá lớn sẽ

không gây ra sự hạ thấp đột ngột trong nồng độ pH – mặc dù sự gia tăng nồng độ

ammoniac có thể vẫn gây ra rắc rối. Duy trì alk ở mức cao là một cách tốt để ngăn

chặn sự sụt giảm mạnh nồng độ pH.

Để xác định những mức độ thích hợp phải cần đến các bộ kiểm tra pH và alk.

Trong suốt 6 tháng đầu setup bể mới, những thước đo này thông thường không phải là

vấn đề. Tuy nhiên, khi hệ thống già đi và nếu bảo trì lỏng lẻo hoặc không chính xác,

những giá trị này bắt đầu sụt giảm. Vì thế, sau khoảng 6 tháng, kiểm tra nồng độ pH

và alk sẽ bắt đầu nhưng chỉ ở mức hằng tháng. Để ngăn chặn sự sụt giảm nồng độ pH

và để duy trì nồng độ alk (Khả năng trung hòa) trong bể cá của bạn, việc thêm kiềm

và thay nước thường xuyên là cần thiết.

Một khía cạnh khác của thành phần hóa học trong nước mà cần được đạt tới đó là

sự ổn định. Nhờ có kích thước khổng lồ của nó mà hầu hết các phần của đại dương

đều có môi trường rất ổn định. Kết quả là lũ cá sẽ không quen với sự sụt giảm đột

ngột nồng độ pH. Thậm chí khi nồng độ pH xuống thấp ở mức 7,9 cũng không làm

ảnh hưởng đến các loài cá nuôi nhốt mà đã quen sống trong môi trường đó và chịu sự

sụt giảm từ từ của nồng độ pH từ 8,3 xuống 7,9. Nhưng một con cá mới rơi vào môi

trường nước như thế có thể sẽ chết. Bởi vì thế khi đột ngột nhận ra các thông số hóa

học trong nước đang ở mức không thích hợp, nếu bể cá vẫn hoạt động tốt, việc thay

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

đổi các thông số trong nước về mức thích hợp nên được thực hiện trong từ từ trong

nhiều ngày hoặc nhiều tuần. Nếu không các sinh vật đang sống khỏe mạnh trong bể

có thể bị stress nghiêm trọng hoặc chết đột ngột. Trừ các trường hợp khẩn cấp, việc

thay đổi nồng độ các chất hóa học trong nước nên được thực hiện một cách từ từ.

Nhiệt độ

Có một mối liên quan trực tiếp giữa nhiệt độ và nồng độ pH. Rõ ràng là có mối

quan hệ giữa tất cả những gì đang diễn ra trong bể cá với nhiệt độ của nó. Bởi tất cả

các sinh vật đều là động vật máu lạnh (không thể kiểm soát được nhiệt độ cơ thể của

chúng), chúng phải phụ thuộc vào nhiệt độ của môi trường xung quanh. Sự trao đổi

chất của cá, tỷ lệ các chất thải bị phân hủy, sự trao đổi chất của vi khuẩn cá các loài

không xương sống khác đều phụ thuộc vào nhiệt độ.

Hầu hết các cư dân trong bể cá cảnh biển đều sẽ phát triển tốt với nhiệt độ ổn định

ở khoảng giữa 72 và 82 độ F (22 – 28 độ C), và nhiệt độ tối ưu trong khoảng 74 – 78

độ F (23 – 26 độ C). Nói chung, nhiệt độ trong bình thấp hơn một chút đều tốt hơn

cho hầu hết các bể. Không chỉ bởi vì nước mát hơn sẽ hòa tan được nhiều ôxy hơn mà

nhiệt độ thấp còn hạn chế sự trao đổi chất. Lũ cá sẽ có xu hướng ăn ít, lớn chậm và

sống lâu hơn. Bởi hầu hết những thứ tồi tệ như sự bùng phát dịch bệnh, những cái

chết và sự phân hủy xảy ra nhanh và nếu chúng ta có thể làm chậm quá trình này lại,

chúng ta sẽ có thể tìm ra cách khắc phục trước khi những rắc rối vượt quá tầm kiểm

soát. Trong khi nhiệt độ cao rất thích hợp cho việc đẻ trứng hoặc để các loại cá con và

san hô phát triển mạnh mẽ nhất, hầu hết những người chơi cá cảnh đều nhận thấy rằng

nhiệt độ xấp xỉ 75 độ F sẽ tạo ra một hệ thống khỏe mạnh hơn nền nhiệt 80 độ F hoặc

cao hơn.

Miễn là mọi sự thay đổi đều được thực hiện từ từ, hầu hết các loài các sống trong

rạn san hô đều có thể chịu đựng được nhiệt độ trong khoảng từ 68 – 86 độ F, nhưng

nhìn chung các ông chủ bể cá nên đề phòng cẩn thận nếu nhiệt độ trong bể vượt ra

khỏi nền nhiệt từ 70 – 80 độ F. Một lần nữa cảnh báo với bạn, giữ các thông số ổn

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

định hết mức có thể và thay đổi mọi thứ một cách từ từ. Nếu nhiệt độ trong bể tăng

lên đến 86 độ F chỉ sau vài tiếng đồng hồ, bạn cũng không nên đưa nó trở về 76 độ

chỉ sau 15 phút. Cần phải giảm nhiệt độ nhưng phải thật từ từ. Hậu họa của việc thay

đổi nhiệt độ đột ngột (nếu việc đó không giết chết lũ cá của bạn) là sự nảy sinh của

bệnh tật thường gây ra do sự stress.

Chuyển động của nước

Một trong những giải thích rõ ràng nhất cho sự thống nhất về các chất hóa học và

sự ổn định lớn của đại dương so với các vũng nước ngọt và là do sự di chuyển liên tục

của các dòng nước trong lòng đại dương. Tất cả các con sóng, thủy triều và các dòng

chảy đều góp phần phân phối đều các chất hóa học cả tốt lẫn xấu cho một khối lượng

nước lớn như vậy, không để cho chúng có thể tích tụ tại một điểm nào cả. Ví dụ, các

chất thải của cá sẽ nhanh chóng bị phân tán hoặc tiêu thụ, và nước trong các rạn san

hô thường cho các thông số về nồng độ các chất ô nhiễm thông thường như ammoniac,

nitơrit, nitơrat và phosphate bằng không. Vùng nước bề mặt bị đốt nóng bên ngoài các

phá hoặc bên trong các rạn đá ngầm thường được trộn liên tục với các dòng nước mát

bên dưới tạo ra một nền nhiệt cũng như nồng độ các chất hóa học ổn định ở các vùng

nước sâu phía trên hoặc bao quanh các rạn san hô. Trong khi nhiệt độ trong các hồ

nước ngọt có xu hướng phân tầng và các tầng nước sâu sẽ lạnh hơn nhiều thì nhiệt độ

của các bãi đá ngầm dưới đại dương sâu xuống 150 feet (45m) vẫn phổ biến ở mức

trên 70 độ F, thậm chí khi xuống sâu hơn cả 300 feet (90 m).

Những con cá sống trong các bãi đá ngầm đã tiến hóa để thích nghi với hầu hết sự

chuyển động liên tục của nước. Thật không may là trong nhiều hệ thống đóng, chuyển

động của nước hoặc là bị xem nhẹ hoặc hoàn toàn bị lãng quên. Kết quả là nhiều bể cá

cảnh biển đã mô phỏng mô hình của một hồ nước ngọt chứ không phải một đại dương

xét về số lượng dòng chảy. Việc này một phần có nguồn gốc từ sự áp đặt các thiết bị

cũ dùng cho hồ cá nước ngọt, ví dụ như bộ lọc đệm vào sử dụng cho bể cá nước mặn.

Khả năng lưu thông nước để đặt dòng nước trong bể cá ở trạng thái tốt nhất của bộ lọc

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

này là tương đối khiêm tốn và rồi khả năng lọc cũng kém hơn hẳn bởi dễ dàng bị các

mảnh vụn làm nghẽn lại.

Như những gì chúng tôi biết, sự lưu thông mạnh của các dòng nước trong bể

không phải là một sự bày đặt tốn kém mà là sự thiết yếu đối với sự tồn tại của các loài

cá trong một hệ thống cá cảnh biển đóng. Chuyển động mạnh của nước trong bể giúp

ngăn chặn tích tụ các sinh vật chết và làm cho thức ăn thừa và các mảnh vụn hút vào

các cột nước và lọc ra ngoài. Sự lưu thông hoạt náo của nước kích động các phản ứng

ăn của cá bởi vì dòng nước sẽ làm chuyển động các loại thức ăn khô và đông lạnh, bắt

chước tạo hành vi săn mồi cho cá trong tự nhiên. Các dòng nước chuyển động cũng

góp phần nâng cao hiệu quả của các bộ lọc sinh học như đá sống, tạo điều kiện cho

các vi khuẩn nitrat hóa nhanh chóng tiếp cận với các chất thải đã phân hủy và dòng

nước đã oxy hóa. Cuối cùng, dòng nước chuyển động mạnh giữ cho cá bơi và tạo sự

khỏe khoắn, duy trì sự vừa vặn, giống như những bài tập thể dục dành cho con người

vậy. (Hãy để ý những con cá bị cho ăn quá nhiều, trở thành những con vật già nua

trong những bể cá công cộng được thiết lập từ lâu. Một vài con quá béo và chẳng còn

giống với hình thù của những con cùng loài với nó trong thế giới hoang dã nữa.)

(50): Khoảng nhiệt độ từ 72 đến 82 độ F là an toàn đối với bể cá, và 75 độ F là

nhiệt độ định mức hàng ngày.

Trong một hệ thống đóng nhỏ, lượng chuyển động phù hợp có thể dễ dàng được

cung cấp bởi các dòng chảy ngược trở lại từ các máy đánh bọt protein và các máy lọc

bên ngoài cùng với cả dòng chảy ra trực tiếp từ các quạt tạo luồng. Những cái bơm

nhỏ đặt ngầm dưới nước cũng làm rất tốt công việc tạo ra các dòng chảy ổn định, phù

hợp và liên tục. Để đạt được hiệu quả tốt nhất, tôi thích sử dụng ít nhất 2 chiếc quạt

tạo luồng trong bất kỳ một bể cá cảnh nào. Một đôi bơm nhỏ sẽ tốt hơn một chiếc

bơm lớn. Hai chiếc bơm này cũng phải đặt đối diện nhau ở hai đầu bể và các dòng

chảy của chúng bắt chéo nhau theo hình chữ X. Theo cách này, sự chuyển động hỗn

loạn và chuyển ngoặt của dòng nước sẽ đạt mức lớn nhất. (Các nhà chơi bể san hô

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

thường đầu tư vào các thiết bị tạo sóng hay các thiết bị bấm giờ để thay đổi và xáo

trộn ngẫu nhiên các luồng nước của một hoặc hai cái quạt tạo luồng. Hãy coi như đây

là một khoản đầu tư cho tương lai.)

Các quạt tạo luồng trong bể cá có nhiều kích cỡ khác nhau và đánh giá chất lượng

dựa trên khối lượng nước mà chùng có thể di chuyển dưới các điều kiện lý tưởng.

Khối lượng nước mà quạt tạo luồng và các bơm lọc bên ngoài có thể di chuyển

thường gấp 5 đến 10 lần khối lượng nước trong bể. (Ví dụ, một bể 50 gallon sẽ có

tổng lượng nước được lưu thông trong mỗi một giờ là trong khoảng từ 250 đến 500

gallon. Hai cái quạt tạo luồng nhỏ có thể đạt được lượng nước lưu thông từ 150 đến

250 gallon một cách đơn giản với sự trợ giúp thêm của các dòng chảy trở lại yếu hơn

từ các máy protein skimmer.)

Chu chuyển dinh dưỡng

Nói một cách đơn giản, tất cả các cơ thể sống đều thải ra chất thải và nhiều loại rác

thải có thể độc nếu cho phép chúng tự do phân tán trong môi trường bể. Cá sống trong

môi trường nước, và chất thải của chúng giải phóng ra là các khí ammoniac phân hủy

(bài tiết qua mang), chất thải rắn và nửa rắn mà một phần trong số đó có xu hướng

phân hủy nhanh trong cột nước.

Trong thế giới hoang dã, đây không phải là một vấn đề gì lớn do rất nhiều yếu tố.

Đầu tiên, các dòng nước và chuyển động của nước liên tục phân tán các chất thải rộng

khắp và ngăn chặn sự tích tụ. Bởi khối lượng nước rất lớn mà các chất thải này càng

ngày càng trở nên rất loãng. Đội quân vi khuẩn cũng sẵn có hầu hết khắp trên bề mặt

đại dương, chúng tiêu thụ hoặc chuyển đổi các chất thải sang các dạng ít độc hơn. Các

cơ thể sống lọc nước để ăn cũng có thể gặn được nhiều mảnh vụn và vô số những

động vật không xương sống ví dụ như san hô, trai, động vật thân mềm, tảo cũng ăn

các chất dinh dưỡng đã phân hủy. (Giữa các loài cá và các loài động vật không xương

sống còn có các loài ăn mùn bã, chúng có thể tiêu thụ nhanh chóng các chất thải rắn

của cá.) Các sinh vật này nhanh chóng tái chết cả các chất thải vón lại và các chất thải

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

đã phân hủy, điều này lý giải sự ngược đời của sự tồn tại của các cơ thể sống trong

môi trường đói chất dinh dưỡng như trong bể san hô đóng kín về mặt sinh học.

Tình huống này thay đổi lớn trong các hệ thống đóng. Lượng nước nhỏ hơn nhiều

và tỷ lệ cá so với khối lượng nước lớn hơn theo hàm số mũ. Cùng với việc nuôi quá

nhiều, nhiều bể cá còn bị cho ăn quá nhiều. Trong khi điều này có thể thường xảy ra ở

bể cá nước ngọt, nó lại không thể xảy ra trong bể cá cảnh biển bởi sự khác biệt về mặt

hóa học. Đó là vì trong các hệ thống nước ngọt, khi nồng độ pH thấp hơn 7,0, các chất

thải nitơ hóa chủ yếu thải ra ở dạng amoni. Ở mức pH này, amoni tương đối không

độc và vi khuẩn trong bể nhanh chóng phân hủy chúng thành các hợp chất ít độc hơn

như nitơrat và nitrit. Trong bể cá cảnh biển, nơi nồng độ pH sẽ luôn ở mức trên 8,0, cá

thả amoni qua mang của chúng và amoni từ các nguồn khác cũng có thể chuyển sang

thành ammoniac. Và bởi vì ammoniac độc đối với hầu hết các sinh vật biển kể cả với

độ tập trung thấp, nó cần phải nhanh chóng bị khử độc bằng cách nào đó.

(51): Sự lưu thông nước không phù hợp là một vấn đề phổ biến trong các bể cá

nhưng dễ dàng được giải quyết chỉ bằng cách thêm vào một hoặc hai cái quạt tạo

luồng nhỏ.

1. Dòng nước

2. Các quạt tạo luồng có thể đặt dưới nước

3. Sự lưu thông tăng lên

(52): Quá trình chu chuyển nitơ trong một bể lắp đặt bộ lọc đệm đặc trưng: nước

trong bể được lưu thông qua một lớp đệm nền dày chứa nhiều vi khuẩn có tác dụng

chuyển đổi ammoniac độc thành nitrit – ít độc hơn và sau đó là thành nitrat – loại hợp

chất có thể chấp nhận được với những con cá sống ở biển.

1. Bộ lọc đệm

2. Chất thải amoni

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

3. Nitrat

4. Ống đẩy nước lên

5. Lớp chất nền

6. Tấm đệm

Bộ lọc sinh học

Để ngăn chặn thậm chí một lượng nhỏ ammoniac tồn tại trong bể , cần thiết phải

thiết lập một vài công cụ phá hủy nó một cách nhanh nhất có thể. Thật may mắn, có

rất nhiều loại vi khuẩn phát triển nhờ vào các dạng chất thải nitơrat hóa khác nhau,

vừa có thể làm nhiên liệu cho quá trình tồn tại của chúng vừa giúp giải độc amoni cho

bể cá. Quá trình này được biết đến là chu trình khử nitơ hay lọc sinh học - ở đó các vi

sinh vật tấn công và phân giải các hợp chất amoni biến chúng trở nên vô hại.

Bởi thế một nhân tố thiết yếu để sở hữu một bể cá cảnh biển thành công là thiết lập

một lực lượng các vi khuẩn thích hợp. Sự chuyển đổi ammoniac thành nitrat là một

quá trình 2 bước đòi hỏi sự tham gia của ít nhất hai loại vi khuẩn khác nhau. Đầu tiên

là các loài vi khuẩn nitrat hóa (thường được nói đến dưới cái tên Nitrosomonas)

chuyển ammoniac thành nitrit – loại hợp chất vẫn khá độc với các sinh vật biển ở một

mức độ nào đó. Sau đó, loại vi khuẩn thứ hai (thường được biết đến là loài

Nitrobacter) phát triển trong sự liên đới với loại thứ nhất, chúng oxy hóa nitrit thành

nitrat, loại này không độc với các sinh vật biển khi tập trung ở mức thấp hoặc vừa

phải.

Các bể cá cảnh biển thời kỳ đầu có xu hướng trở thành cái bẫy chết người đối với

các loài cá. Chúng được lắp đặt các thiết bị mượn từ thú chơi cá nước ngọt như các

máy lọc bơm khí cỡ nhỏ, những loại máy mà đa phần chạy dưới công suất và không

cung cấp đủ không gian phát triển cho vi khuẩn. Trong những bể như thế, các vấn đề

rắc rối lớn xảy đến bởi những vật cảnh trang trí trống trơn, sự lưu thông kém và nồng

độ oxy thấp đã không làm thỏa mãn các điều kiện để tạo sự phát triển của các loại vi

khuẩn nitrat hóa. Khi cá chết, các bể thường bị phá hủy và nhiễm bệnh, vì thế mà loại

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

bỏ các loại vi khuẩn có lợi đang hình thành. Thật may là chúng ta đã phát hiện ra vai

trò của bộ lọc sinh học và các phương pháp đảm bảo cho nó hoạt động hiệu quả trong

bể cá cảnh biển đã được cải thiện rất nhiều trong các thập niên gần đầy.

Bộ lọc đệm

Bộ lọc sinh học cho bể cá nghe có vẻ hơi thần bí nhưng từ quan điểm thực tế, tất

cả những gì cần thiết ở đây là sự nuôi cấy vi khuẩn, một nơi để cho nó sống và sinh

sản, một nguồn amoni và thời gian. Khi những nhân tố này được lợi dụng một cách

thích hợp, một bể cá cảnh sẽ tự mình chu chuyển và có đầy đủ các thành tố để cho các

vi khuẩn hữu ích tự nó phát triển tốt nhất.

Đầu những năm 1960, những tấm lọc đệm được phủ cát đã làm tăng rõ rệt những

phương tiện sẵn có cho sự phát triển của vi khuẩn, cũng như chuyển động của nước và

nồng độ oxy trong bể. Nước trong bể liên tục được hút qua cát bên dưới tấm lọc nhựa

và được đẩy lên bởi không khí trong các đường ống để trở về bể (xem phần minh họa

bên trái). Tỷ lệ những con cá sống sót đầu tiên đã đến với những hệ thống sử dụng bộ

lọc đệm và trong suốt những thập kỷ sau đó, hầu hết những bể cá mới bắt đầu được

setup ở Bắc Mỹ đã sử dụng công nghệ đơn giản này. Thật không may là có rất nhiều

khiếm khuyết khiến bộ lọc đệm làm giảm cơ hội đạt được thành công lâu dài.

Để hệ thống sử dụng bộ lọc đệm làm việc, vi khuẩn cần có nguồn nước được oxy

hóa chảy qua chúng. Tuy nhiên, trong một bộ lọc đệm, dòng nước liên tục trong bể

cũng mang theo cả các mảnh vụn (thức ăn thừa, chất thải rắn, tảo chết,…), những thức

này bị giữ lại trong lớp chất nền, làm nghẽn các kênh dẫn các luồng nước trong bể.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Kết quả là hiệu quả của bộ lọc giảm dần theo thời gian. Trong một kịch bản tồi tệ hơn,

các khu vực giữa lớp cát và tấm lọc trở nên thiếu oxy (yếm khí) và chứa các hợp chất

vô cùng độc như hyđro sunfit có thể được hình thành và có thể phá hủy hoàn toàn cái

bể.

Để giảm nguy cơ này xảy ra, những người khởi xướng sử dụng bộ lọc đệm sửa

chữa bằng cách khuấy động lớp sỏi đệm và loại bỏ các mảnh vụn trong quá trình thay

nước. Thật không may mắn, thậm chí ngay cả khi thực hành việc này, người chơi vẫn

thường phải dỡ cả bể ra vì sự tích tụ của một lượng lớn các mảnh vụn ngay bên dưới

tấm đệm. Dỡ cả bể ra đồng nghĩa với việc di chuyển tất cả các thứ có trong bể, bao

gồm cả lớp cát sỏi và tấm đệm để những cặn bã có thể bị loại bị loại bỏ hết. Công việc

này cần làm sau từ 12 đến 18 tháng, tùy thuộc vào gánh nặng sinh học trong bể.

Một điểm hạn chế nữa của hệ thống này là chỉ được đặt một lượng tối thiểu vật

liệu trang trí trên lớp chất nền trên tấm lọc đệm. Các điểm chết có thể hình thành

nhanh chóng trên những khu vực bị che phủ quá nhiều, và điều này sẽ để lại hậu quả

là bể nhanh chóng phải tháo dỡ để làm vệ sinh thường xuyên hơn.

Để giữ cho lớp nền cát tiếp xúc nhiều hơn với dòng nước, người ta chỉ dùng một

vài bộ xương san hô hoặc mô hình bằng nhựa hoặc bằng thủy tinh của san hô được sử

dụng để trang trí. Việc sử dụng các bộ xương san hô chết không chỉ đáng ngờ về mặt

môi trường mà nó còn không tạo được một nơi cư trú tự nhiên và không gây stress

cho các cư dân trong bể. Những bộ xương san hô đã được tẩy trắng và đặt trên nền cát

trắng sẽ cung cấp ít nơi trú ẩn cho cá, không những thế còn làm cho nhiều loài cá bị

mất màu. (Cá biển có một khả năng đáng ngạc nhiên là biến đổi màu sắc để thích nghi

với môi trường xung quanh. Trong một môi trường sinh vật cảnh không tự nhiên,

chúng có xu hướng chuyển sang dạng màu nhạt hơn, kém hấp dẫn hơn.) Thêm vào đó,

vẻ ngoài tổng thể của một cái bể trang trí bằng san hô chết trông rất không thật và

không cuốn hút người xem, đặc biệt với bất kỳ ai đã từng một lần được ngắm một cây

san hô thực sự trông như thế nào.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Các bộ lọc nhỏ giọt

Các thiết bị lọc sinh học khác đã vượt qua được những hạn chế của bộ lọc đệm.

Trong đó bao gồm cả những bộ lọc khô ẩm hay còn gọi là bộ lọc nhỏ giọt mà giúp

phát trỉển thú chơi bể san hô trong những năm 1980. Những thiết bị lọc này hiện vẫn

còn phổ biến với nhiều người chơi và đặc trưng của chúng là có chứa những

“biomedia” – bao gồm từ những mầm nhánh san hô cho đến những quả bóng nhựa

sinh học, lưới sắt và lưới sợi tổng hợp mà ở trên đó các tổ chức vi khuẩn có thể sinh

sôi nảy nở. Loại media này thường được dùng trong một bể riêng biệt hoặc bể chứa và

thường nằm bên dưới bể trưng bày. Ở đây, các luồng nước oxy hóa cao được nhỏ giọt

hoặc phun qua hàng loạt các biomedia này trước khi tập trung ở đáy bể chứa và được

bơm ngược vào trong bể chính.

Các máy lọc nhỏ giọt có thể được tin dùng để nâng cấp thú chơi cá biển bằng việc

tăng lượng lớn lưu thông nước, tăng lượng nước trong hệ thống và cho phép các mẩu

cặn bã được loại bỏ ra ngoài một cách cơ học trước khi chúng tới biomedia. Những

máy lọc như thế sẽ phân giải các hợp chất amoni cực kỳ hiệu quả.

Một hạn chế lớn của các bộ lọc nhỏ giọt cũng như các bộ lọc đệm là chúng có xu

hướng sản sinh ra nitrat ở sản phẩm cuối cùng. Dù không độc với cá thậm chí với mức

độ tập trung cao thì nitrat vẫn làm nở rộ các loại tảo rác và gây hại với các loài động

vật không xương sống.

Đá sống với vai trò bộ lọc sinh học

Thật may là giờ đây chúng ta đã có một phương pháp tiếp cận tốt hơn và thực tế

hơn với lọc sinh học và công việc chăm sóc cá biển. Rút ra bài học từ tất cả những

hiểu biết về bể san hô suốt hàng thập kỷ, chúng ta đã nhận ra rằng đá sống là một bộ

lọc sinh học hoàn hảo. Nó tập trung một lượng vi khuẩn cực lớn, ổn định và ít cần bảo

trì, cung cấp nơi trú ẩn cho cá và là một vật liệu sinh vật cảnh tự nhiên nhất có thể.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Với vai trò là một bộ lọc sinh học hoàn hảo, đá sống đã cách mạng hóa nghề chăm

sóc bể san hô. Nó có thể sở hữu một số lượng lớn vi khuẩn nitrat mà sẽ khử độc các

chất thải có chứa nitơ đã bị mục rữa trong bể. Không giống như hầu hết các thiết bị

lọc sinh học khác, đá sống có thể hoạt động ở nơi mà quá trình khử nitơ (việc chuyển

đổi nitrat thành khí nitơ vô hại) có thể diễn ra trong môi trường yếm khí hoặc lượng

oxy cực thấp.

Theo lệ thường, chúng tôi đã cố gắng để hạn chế sự hình thành của những khu vực

yếm khí (không có oxy) trong các bể cá cảnh biển. Thật may, đá sống mang lại một

phương pháp hiệu quả ngăn chặn sự tích tụ của nitrat bằng việc cho phép các quá

trình yếm khí diễn ra ngay sâu bên trong hòn đá mà không chịu những thách thức về

bảo trì hay mối nguy hại nào mà thường đi kèm với các công cụ lọc yếm khí khác.

Bởi bề mặt của đá sống và không gian bên trong nó sẽ không bị bít hay nghẽn lại

qua thời gian như hiện tượng thường vẫn xảy ra với các nền lọc đệm. Bể sử dụng đá

sống sẽ không cần phải tháo bỏ hết để lau dọn. Nhiều hệ thống như vậy đã chạy được

hơn 10 năm mà không cần phải đại tu lại và thực tế thì chúng dường như ngày càng

chạy tốt hơn theo thời gian chứ không phải là tệ đi.

Không có những sự thay đổi mang tính đứt đoạn cao của việc tháo bỏ hết bể cá,

các sinh vật trong bể sẽ phải chịu ít stress hơn và sẽ không cần phải cấy lại một lượng

vi khuẩn thích hợp sau mỗi lần tổng vệ sinh bể như vậy. Đá sống có làm tích tụ một

số chất cặn nhưng có thể dễ dàng rửa trôi đi bằng vòi phun của một cái turkey baster

hoặc bằng dòng nước từ một cái quạt tạo luồng nhỏ, cầm tay và sau cùng chúng sẽ bị

một máy lọc cơ giữ lại. – hoặc bị hút ra ngoài bằng ống xifon trong mỗi đợt thay nước.

Với hầu hết các chức năng còn lại, đá sống xứng đáng là vật liệu bố cục sinh cảnh tốt

nhất với mức bảo trì thấp, không yêu cầu xử lý, làm sạch hay bất kỳ sự chăm sóc đặc

biệt nào khi đã được đặt vào vị trí.

Ngoài khả năng lọc tuyệt vời, dễ chăm sóc, đá sống còn có những lợi ích khác.

Với hầu hết những người quan sát, đá sống tạo ra một cái nhìn xác thực và trông gần

với tự nhiên hơn những bộ xương san hô chết. (Sự thu mua quá nhiều một lượng san

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

hô quá lớn để làm vật kỷ niệm hoặc cho các mục đích trang trí gây ra rắc rối ở nhiều

nơi, trong khi lấy đá sống từ các bãi đá ngầm chỉ gây ra một ảnh hưởng không đáng

kể). Thêm vào đó, những bộ xương san hô tẩy trắng quen thuộc trong thời kỳ đầu của

nghề chăm sóc bể cá cảnh biển sẽ nhanh chóng bị xấu đi khi lũ tảo xanh nhanh chóng

phát triển trên đó và thật tai hại là bạn rất khó có thể làm sạch cho chúng. Việc này đã

đẩy nhiều người chơi chuyển sang bể chỉ nuôi riêng cá biển.

Các bể sử dụng nguyên đá sống không chỉ trông thú vị hơn mà các sinh vật trong

bể dường như cũng chịu ít stress và bồn chồn sợ hãi hơn như khi chúng bị nhốt cùng

với những bộ xương san hô chết. Thêm vào đó, đá sống còn cung cấp thêm cho cá

nhiều nguồn thức ăn. Tảo có xu hướng mọc rất nhanh trên bề mặt đá sống và các loài

ăn cỏ liên tục có cơ hội ăn dạo. (Một lượng nhỏ tảo mọc trên đá sống có thể dễ dàng

hòa vào với khung cảnh trong bể nhưng những vết bẩn màu xanh trên những bộ

xương san hô chết, trần trụi chỉ cho thấy một sự thiếu chăm sóc, bảo trì.) Cũng có

nhiều loại động vật khác như các loại giun, động vật chân kiếm sống và sinh sản trên

hòn đá và những sinh vật này là thực đơn bổ sung tuyệt vời cho rất nhiều loài trong bể

san hô. Những công dụng khác của đá sống cũng như cách xử lý nó sẽ được thảo luận

kỹ hơn ở chương sau.

Hệ thống lọc cơ học

Ngoài bộ lọc sinh học hiệu quả, hai loại lọc khác thường được sử dụng trong một

bể cá biển vận hành tốt đó là: máy lọc cơ (để loại bỏ các cặn bã) và máy lọc hóa học

(để loại bỏ các hợp chất đã phân giải).

Không giống với các bộ lọc sinh học hoạt động dưới một cơ chết bao gồm một

chuỗi các sự kiện mà không thể thấy hết bằng mắt thường, bộ lọc cơ học lại tương đối

đơn giản. Giống như cái tên đã ngụ ý, bộ lọc cơ học loại bỏ các chất thải bằng phương

pháp vật lý là gạn bỏ các chất rắn nổi lơ lửng. Trong hầu hết các trường hợp, dòng

nước của bể sẽ đi qua một miếng xốp hay màng lọc và ở đó các chất thải lơ lửng trong

nước (như là phân cá, thức ăn thừa, tảo chết và những chất mùn bã khác) bị giữ lại.

Bộ lọc này sẽ hoạt động tốt trong một thời gian ngắn, nhưng qua thời gian, nó sẽ bị bít

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

lại nếu không được cọ rửa và có thể sẽ biến thành một đống chất thải mục giũa. Một

khi vấn đề này xảy ra, tất cả những gì bị bít lại trong màng lọc gần như ngay lập tức

sẽ bị chuyển đổi thành các hợp chất bị phân giải và gây hại rồi lại bị hút trở lại bể.

(55): Một phương pháp hiện đại hơn, tự nhiên hơn để loại bỏ các chất thải

nhờ sự trợ giúp của đá sống và bột san hô để tạo nên bộ lọc sinh học hoàn hảo.

1. Chu chuyển nitơ trong một bể cá cảnh mới với đá sống và cát nền

2. Nitơ

3. Thức ăn

4. Chất thải

Bởi thế, để cho một bộc lọc cơ có thể thực thiện vai trò của nó tốt hơn, nó cần

được lau dọn thường xuyên, một lần một tuần là phù hợp mặc dù nếu được hai lần

một tuần thì tốt hơn. Một trong những máy lọc cơ tốt nhất dành cho bể nhỏ là máy lọc

canister. Những chiếc máy lọc treo bên ngoài loại này sẽ lấy nước vào qua một ống

lọc rồi đưa nó qua một cái canister có chứa media. Canister có thể tận dụng nhiều kiểu

media cơ học khác nhau (thường phối hợp với cả media hóa học như than hoạt tính

dạng viên) để lọc nước. Sau khi đi qua những tầng lọc media này, nước sẽ được bơm

ngược trở lại bể, tạo thêm một nguồn nữa cung cấp sự lưu động cho nước. Loại máy

này được sản xuất với rất nhiều thương hiệu và hầu hết chúng đều vận hành tương đối

tốt.

Khi lựa chọn, xem xét chủ yếu sẽ là khả năng bơm của máy và liệu máy lọc có dễ

dàng tắt, mở để lau chùi rồi khởi động lại hay không. Những xem xét từ góc độ bảo trì

này rất quan trọng bởi việc tắt máy để lau dọn cần được thực hiện nhanh chóng và

đơn giản. Nếu không nó sẽ trở thành một công việc vặt đáng sợ chẳng ai muốn đụng

đến và chiếc máy lọc sẽ chắc chắn lại biến thành một chiếc máy tắc nghẽn với những

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

chất cặn, mùn bã. Những chiếc máy lọc canister có lắp đặt van tắt và chế độ ngắt

nhanh ở cả ống lấy nước và ống bơm ra sẽ cho phép lau dọn máy mà không cần phải

tháo dỡ máy rồi sau đó có thể khởi động lại ống xifon và bơm.

Bạn có thể có những lựa chọn khác trong nhóm máy lọc cơ bao gồm các máy

power filter treo, máy lọc điatomit và các hệ thống điều áp sử dụng các lõi lọc pleated

fiber cartridge.

Các máy power filter treo ngoài được đóng vào bể và rất dễ bảo trì, rất phổ biến

trong giới chơi cá nước ngọt. Chúng hầu hết đều chạy dưới công suất trong các bể cá

biển trừ trong những bể cá biển rất nhỏ với khả năng bơm hạn chế và không gian

không đủ lắp đặt các media cơ học. Những cái máy này cũng có cái lợi là dễ mua, dễ

lau chùi (thậm chí không cần phải cho máy dừng lại) và có rất nhiều mẫu siêu công

suất đáng để xem xét sử dụng cho các bể kích cỡ trung bình 40 – 50 gallon với những

người mới bắt đầu chơi.

Điatomit (DE) là một chất bột trắng bao gồm thân các loại tảo cát đã chết và phải

nhìn qua kính hiển vi mới thấy. Trong các máy lọc đặc biệt, chất này hình thành một

rào chắn ẩm có thể loại bỏ các chất mùn bã nhỏ mịn một cách cực kỳ hiệu quả. DE

còn hiệu quả đến mức có thể được dùng để loại bỏ các đám váng nước nhanh chóng

nhưng không được dùng liên tục bởi nó rất dễ nghẽn lại.

Các máy lọc điều áp sử dụng các lõi lọc mà người ta vẫn thường dùng trong một

vài bể bơi. Chúng làm công việc dọn sạch cặn bã cho bể cá rất hiệu quả nhưng các

nhà chăm sóc bể cá đã sớm nhận thấy rằng các lõi lọc phải lau chùi thường xuyên để

tránh sự tụt giảm đột ngột trong tỷ lệ dòng nước đi qua máy lọc. Những người chơi sở

hữu một bộ sưu tập lớn nhận thấy rằng những máy lọc có lõi lọc này có tác dụng rất

lớn để giúp làm trong nước và loại bỏ cặn bã. Những người khác chỉ đơn giản là thích

có một máy lọc điều áp để làm sạch bể nhanh chóng sau khi đã lau chùi hoặc loại bỏ

một số rắc rối khác.

Tuy máy lọc cơ có tác dụng rất lớn với vai trò bảo trì tổng thể, nhiều bể cá thành

công mà không cần sử dụng riêng máy lọc cơ ngoại trừ trong các giai đoạn lau chùi

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

định kỳ khi các cặn bã được hút ra ngoài bể chính (hoặc bể chứa) bằng ống xifon. Nếu

bể đã có đá sống, các máy đánh bọt protein hiệu quả và có sự lưu thông nước phù hợp

nhờ các quạt tạo luồng thì việc sử dụng máy lọc cơ là tùy chọn mặc dù phần lớn các

bể cá cảnh biển vẫn sử dụng chúng.

Lọc hóa học

Nhóm kiểu lọc này bao gồm rất nhiều phương pháp khác nhau để loại bỏ các chất thải

đã phân giải ra khỏi nước: protein skimming, sử dụng than hoạt tính hoặc nhựa trao

đổi ion để thấm hút, sử dụng ozone (O3) để oxy hóa. Đây là một kỹ thuật được sử

dụng rộng rãi trong các bể công cộng hoặc giữa những người chơi đẳng cấp.

Trong thập kỷ trước, rất nhiều thành công nổ ra trong nghề nuôi cá biển đã cống

hiến thêm cho những hiểu biết của chúng ta về phương pháp loại chất thải ra khỏi một

hệ thống đóng một cách hiệu quả hơn. Công cụ quan trọng nhất và đã chứng tỏ sự hữu

dụng nhất chính là protein skimmer hay máy đánh bọt. Kỹ thuật protein skimming

không còn là cái gì đó quá mới. Việc sử dụng nó đã được tán thành trong những năm

1960, nhưng chỉ đến khi nghề chăm sóc bể san hô nổi lên thì việc sử dụng và sự sẵn

có của các máy protein skimmer mới tăng lên. Nói một cách ngắn gọn, skimmer tạo ra

một đám bọt từ nước muối, trong đó các hợp chất và mùn bã bị hút dính lấy bề mặt

của hàng triệu bong bóng nhỏ xíu và làm các chất thải này nổi lên thành các đám váng

hoặc dòng chảy độc hại và ra khỏi hệ thống (xem trang 32).

Các lợi ích từ protein skimmer

Protein skimming cực kỳ hữu ích trong việc nâng cao chất lượng nước vì rất nhiều lý

do. Đầu tiên nó giúp loại bỏ các hợp chất nitrat, đặc biệt là protein, ngoài ra còn có

phenol, các loại chất béo, bào tử của tảo và nhiều chất khác không liên quan tới

protein như đồng và kẽm. Bằng việc loại bỏ các hợp chất thải trước khi chúng bị

khoáng hóa, chúng yêu cầu ít lượng vi khuẩn trong bể hơn để phân giải các hợp chất

này và lượng nitrat sản sinh ra cũng ít hơn.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Nhưng một cái máy đánh bọt protein sẽ loại bỏ tất cả các hợp chất không phân biệt

tốt xấu, nó chỉ đơn giản loại bỏ tất cả những gì có trong đám bọt mà nó đã tạo ra. Kết

quả là đã có một vài lo ngại rằng các hợp chất như các vitamin và khoáng chất cũng

sẽ bị cạn kiệt sau một thời gian sử dụng một chiếc máy protein skimmer hiệu quả. Để

giảm khả năng này, các nguyên tố vi lượng thiết yếu cần được bổ sung hằng tuần và

các loại vitamin cũng cần được thêm vào thường xuyên trong thực đơn của lũ cá.

Một lợi ích thêm nữa từ máy đánh bọt protein là một lượng lớn nước sẽ được tham

gia vào quá trình tạo bọt và giúp tăng hàm lượng oxy trong bể. Thêm nữa, hỗn hợp

không khí và nước mang lại các chức năng trao đổi khí rất hữu ích, bao gồm cả việc

loại bỏ cacbon đioxit (CO2) ra khỏi hệ thống. Khi bị tích tụ lại, CO2 có xu hướng

hình thành axit cacbonic, làm giảm nồng độ pH trong bể xuống dưới mức tối ưu là từ

8,1 đến 8,4. Thậm chí dù không phải lúc nào máy đánh bọt cũng tạo ra các đám bọt

hay các lớp váng tối màu, nó vẫn tiếp tục hỗ trợ cho việc giữ chất lượng nước trong

bể ở mức cao.

Than hoạt tính dạng hạt

Dù protein skimming là viên đá tảng của các kiểu bể tự nhiên, có đá sống (đôi khi còn

được gọi là “phương pháp Berlin” để ám chỉ nơi nó được phổ biến đầu tiên), nó vẫn

không thể loại bỏ hết các loại hợp chất cần loại bỏ, đặc biệt là những hợp chất mà gây

ố vàng nước. Những người chơi cá cảnh ở Đức gọi những hợp chât ố vàng này là

gelbstoff và thường để nhiều túi lưới đựng than hoạt tính dạng hạt trong hệ thống lọc

của họ để thấm hút các hợp chất phức tạp đã phân giải này. Bất cứ ai từng chăm sóc

bể cá nước ngọt có lẽ đều quen thuộc với những mẩu than củi nhỏ màu đen được đặt ở

trên tóc thần hay áo lọc ở trong hộp lọc. Than hoạt tính dạng hạt (GAC) về cơ bản

cũng chỉ là một phiên bản phức tạp hơn và đắt tiền hơn so với than củi của những

người chơi cá nước ngọt mà thôi.

Than hoạt tính có thể được làm từ một số chất khác nhau bao gồm san hô mềm, vỏ

dừa, xương hoặc gỗ. Những sản phẩm tốt nhất là những sản phẩm được làm từ than

non hay than chứa bitum và không để lại cặn nitrat hay phosphat. Quá trình làm than

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

hoạt tính gồm 2 bước. Đầu tiên các nguyên liệu nguồn được cắt hoặc đúc, nặn thành

các kích cỡ và hình dáng thích hợp và được khử nước bằng cách nung lên ở nhiệt độ

400 độ C trong điều kiện chân không. Bước tiếp theo, khi quá trình hoạt hóa xảy ra,

cacbon được nung ở nhiệt độ 800 đến 950 độ C trong điều kiện có hơi nước. Mỗi một

hạt cacbon đều chứa rất nhiều các lỗ nhỏ li ti. Nhiệt độ cao sẽ làm mở các lỗ nhỏ này

ra bằng việc đốt cháy các hợp chất bít chúng lại, trong khi đó hơi nước sẽ rửa bỏ

những chất bị đốt này đi.

Những lỗ nhỏ mở ra đó sẽ giữ lại nhiều hợp chất khác nhau bao gồm protein, đồng,

ozone, thuốc nhuôm, iôt,kim loại nặng, thuốc và các hợp chất hữu cơ đã phân giải.

GAC đặc biệt hữu ích trong việc loại bỏ các hợp chất mà làm ố vàng nước bể. Cũng

giống như protein skimmer, than hoạt tính không thể phân biệt được thuộc tính các

hợp chất mà nó loại bỏ. Khi chất liệu này được sử dụng, các nguyên tố vi lượng cần

thiết cũng có nguy cơ bị loại bỏ.

Qua thời gian, các lỗ nhỏ trong than hoạt tính bị bít lại và mất đi khả năng thấm

hút của chúng. Tỷ lệ bị bít lại này phụ thuộc vào loại than được sử dụng và các điều

kiện của nước. Bởi vậy đã có rất nhiều hệ phương pháp được hình thành và phát triển

để giải quyết vấn đề than nên được sử dụng như thế nào và nó nên được thay thường

xuyên ra sao. Những thử nghiệm này bao gồm cả việc sử dụng lượng than nhỏ và thay

thường xuyên cho tới sử dụng lượng than lớn và sẽ loại bỏ một phần hoặc thay thế

một phần trong các lần nghỉ quãng thường xuyên.

Tôi nghĩ lời khuyên tốt nhất là bắt đầu bằng một lượng than vừa phải (dùng

khoảng 4 – 6 muỗng canh trên 10 gallon nước bể) và thay thế một nửa số đó khi nước

trong bể bắt đầu chuyển sang màu vàng. Để giúp than hoạt động hết khả năng, để cho

dòng nước chảy xuyên qua nó khi các mảnh vụn và cặn bã lớn đã được loại bỏ bởi các

máy lọc cơ. Vì lí do này, hãy đặt than ở trong một máy lọc treo ngoài hay máy lọc

canister, hay thậm chí là trong một cái power filter mà có thể đặt dưới nước cũng là

một ý kiến hay.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Cùng với than hoạt tính, còn có rất nhiều hợp chất trên thị trường có chứa các loại

nhựa trao đổi ion và những máy loại bỏ các hợp chất đặc biệt. Những lời quảng cáo về

các sản phẩm này thường được phóng đại lên và người chơi cần luôn thận trọng khi

sử dụng. Loại than hoạt tính đơn giản ở dạng hạt nhiều hơn là dạng viên và đây là một

công cụ trợ giúp việc lọc đã được kiểm nghiệm qua thời gian và sử dụng cho nhiều

dạng ô nhiểm bể khác nhau. Sử dụng một hợp chất đơn gảin với các hiệu quả đã biết

còn tốt hơn loại hợp chất chỉ có các kết quả trên giấy.

Tuy nhiên, cuối cùng thì kết lại vẫn là chẳng có một sản phẩm hay bí quyết nào có

thể giúp duy trì chất lượng nước cao trong bể cá cảnh biển. Giả sử với chất lượng

nước ban đầu tốt, thì những yếu tố cần thiết nhất đó là sự lưu thông nước mạnh và

nhiệt độ thích hợp. Để chống lại sự tích lũy của các chất thải độc hại tiềm tàng, người

chơi cần sử dụng kết hợp bộ lọc sinh học, cơ học và hóa học cùng với việc thay nước

thường xuyên. Đó là chìa khóa để giải quyết nhiều vấn đề rắc rối và chống lại sự mất

cân bằng.

CHƯƠNG 3

ĐÁ SỐNG

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Bộ lọc sinh học của tự nhiên: Làm thế nào để mua và sử dụng nó

Hơn bất kỳ một phát minh mới hay điều kỳ diệu nào về công nghệ, đá sống đã nổi

lên như một sự đột phá trong hệ thống lọc dành cho bể cá nước mặn của thế kỷ và là

người bạn đồng minh tốt nhất của những người chơi cá biển. Thực tế, không gì có khả

năng mức độ thành công của việc chăm sóc cá biển nhiều hơn việc sử dụng đá sống như

một nhân tố thiết yếu trong một bể cá cảnh biển hiện đại và đạt độ cân bằng cao.

Dù tất cả quá trình sinh học của đá sống vẫn đang được lấy dẫn chứng một cách

khoa học, chúng ta đều đã biết rất rõ rằng những hiệu ứng cuối cùng là ở các bể cá tại nhà:

chất lượng nước tăng lên, số vật nuôi chết giảm và các công việc bảo trì được đơn giản

hóa đi rất nhiều. Không có các bộ phận chuyển động nên đá sống có thể đạt đến chức

năng của một máy lọc nước trong suốt nhiều năm liền mà không cần điều chỉnh hay di

chuyển ra khỏi bể.

(61): Bên trái: Một trong những tác giả của hệ thống bể lọc bằng đá sống với một

bộ sưu tập cá và san hô lớn. Trên: một hòn đá Fiji trông rất lôi cuốn

Thêm vào đó, các bể được trang trí bằng đá sống hấp dẫn hơn và trông thú vị hơn

tất cả các kiểu hình bể sử dụng các bộ xương san hô chết và được tẩy trắng. Đá sống cung

cấp một môi trường trông tự nhiên hơn, một bố cục sinh cảnh mà lôi cuốn cả người quan

sát lẫn lũ cá trong bể san hô khi chúng sử dụng nó để làm nơi trú ẩn, giảm stress và là

một nơi cung cấp thức ăn thiên nhiên.

Có thể tưởng tượng về một mẩu đá sống tốt giống như một máy lọc sinh học, một

dạng như một miếng bọt biển bằng đá với diện tích bề mặt cực lớn, và hầu hết diện tích

nằm giấu bên trong và chứa một lượng vi sinh vật có lợi cực lớn. Những mầm vi khuẩn

này phát triển rất nhanh với sự góp mặt của các chất ô nhiễm hữu cơ đã phân giải. Chúng

chung sức làm việc để phân hủy hoàn toàn các chất thải độc hại từ cá và thải ra các khí

nitơ vô hại.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Được thu nhặt từ lớp nền dưới đáy các mảnh vỡ lắng xuống qua các trận bão, hầu

hết đá sống chỉ là những mẩu san hô trong tự nhiên bị vỡ (thường là các chủng phát triển

nhanh như Acropora và Porites) mà đã bị rất nhiều các dạng sinh vật sống bao gồm có vi

khuẩn, tảo, côn trùng biển, bọt biển, bryozoan và các loại san hô xâm chiếm và sinh sôi

trên đó. Thường sẽ không gặp các loại cua, ốc sên, nhím biển, ấu trùng các loài tôm hay

động vật giáp xác bám trên hòn đá. Thậm chí những mẩu đá thiếu sự sống nhất cũng phải

làm các nhà chăm sóc bể cá ngạc nhiên khi chúng nở rộ cá loại tảo san hô màu hồng, đỏ

tía, xanh pha đỏ, các loại tảo xanh cỡ lớn, nạm những lớp san hô, bryozoan, các loại thân

vỏ và vô số các loài khác.

Không giống như các bộ xương san hô đã tẩy trắng được dùng để trang trí cho bể

cá cảnh biển truyền thống, đá sống không yêu cầu phải thu hoạch và hy sinh sự xâm thực

lớn của các loại san hô cứng. Với hầu hết đá sống, các mẩu mà được chọn lựa bằng tay

mà những người chơi luôn ao ước đều ít nhất đã nhiều năm tuổi và bị xói mòn từ những

đợt sóng đánh hay bị đứt gãy thành các mảnh vụn và được hình thành nhờ sự tấn công

của các loài động vật ăn dạo và đào bới trong các rạn san hô. Khi thực hiện công việc thu

hoạch có trách nhiệm, đá sống sẽ trở thành một nguồn nguyên liệu có thể tái sinh vô hạn.

Hãy cẩn thận, chúng chỉ có thể chống đỡ với sự thu hoạch bằng tay chứ không phải các

công cụ mang tính nạo vét, phá hủy hoàn toàn và sử dụng hóa học như vẫn thường được

dùng để hu hoạch đá san hô với lượng lớn dùng cho các dự án xây dựng và làm đường.

(62): Đá Samoan nhập khẩu trực tiếp cho thấy cấu trúc bề mặt lô nhô. Những đám

tảo cát đầy màu sắc sẽ sớm xuất hiện.

Đã vô trùng và chưa vô trùng

Khi mua đá sống, có một lựa chọn lớn mà cần được xem xét dù bạn chọn mua loại đá

sống nào. Tất cả đá sống được phân loại thành đá đã vô trùng và chưa vô trùng.

Hầu hết đá sống được lấy từ biển và được vận chuyển ẩm hoặc khô tới người chơi

hoặc nhà buôn. (Nhà cung cấp đá sống tốt sẽ gói đá sống bằng giấy báo ẩm đựng trong

các túi nhựa đặt trong các hộp đựng bọt tách riêng và những hộp này lại được đóng trong

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

thùng cát tông). Đá sống được vận chuyển không có nước để giảm chi phí lớn nếu vận

chuyển mà đặt chúng dưới nước. Khi tới nơi, chúng được bán ngay trong tình trạng khô

hoặc ẩm, đó là đá sống chưa vô trùng hay là đá “tươi”.

Kết quả của việc vận chuyển gần như khô, nhiều sinh vật trên đá sống tàn héo

hoặc bắt đầu chết và giải phóng ra khí hidro sunfua và ammoniac và tình trạng này có thể

tiếp diễn trong nhiều tuần trước sau khi đá sống được bỏ vào nước. Một khi quá trình này

đã hoàn toàn ngừng lại và những sinh vật còn sống sót ổn định trở lại, đá sống lúc đó trở

thành đá “đã vô trùng”.

Một vài nhà phân phối và các nhà buôn đã nắm những kỹ thuật vô trùng đá sống

và khi những người mới bắt đầu chơi sử dụng sẽ nhận thấy vật liệu sẵn dùng này mang

lại cho cái bể mới của mình một bộ lọc sinh học dùng được ngay với hiệu quả tức thì mà

không có mùi, sự hỗn loạn nào mặc dù giá cả có cao hơn.

Lợi ích của những hệ thống chứa đá sống: 1. Mức độ ổn định sinh học cao hơn. 2. Khả năng sống của cá và các loài động vật không xương sống cao hơn. 3. Chi phí bảo trì thấp hơn. 4. Bố cục thủy sinh trong bể hấp dẫn hơn, màu sắc và hành vi của cá cũng tự nhiên hơn. 5. Tránh được việc sử dụng những bộ xương san hô tẩy trắng hoặc bị nhuộm, những thứ mà bị các nhà sinh vật biển phản đối việc thu hoạch, khai thác.

Vô trùng đá sống của bạn

Khoản phí trả thêm khi mua đá sống đã vô trùng thường lại là động lực thúc đẩy

người chơi mua đá nhập khẩu thẳng và tự vô trùng đá của mình. Tôi đã dùng một phương

pháp vô trùng duy nhất trong suốt nhiều năm với kết quả tốt.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Trước khi trước khi mang bất kỳ viên đá sống nào về nhà, bạn nên chuẩn bị sẵn

một thùng chứa hỗn hợp nước muối đã ngâm ngấu trong nhiều ngày và được điều chỉnh

về nhiệt độ thông thường và trọng lượng riêng giống như trong bể nuôi của bạn (74 – 78

độ F, trọng lượng riêng 1,022 – 1,026 ). Sau khi nhấc đá sống ra khỏi thùng vận chuyển,

nó sẽ được nhúng vào nước muối. Việc này giúp loại bỏ bất kỳ thứ mùn bã nào còn bám

lấy hòn đá cũng như loại bỏ các sinh vật chết hàng loạt – những thứ mà sẽ chỉ còn ở mức

tối thiểu nếu bạn mua đá sống đã vô trùng từ trong bể của các nhà buôn.

Sau khi hoàn thành việc nhúng nước, đá sống nên được kiểm tra xem có còn bất

kỳ sinh vật chết nào còn bám trên đó không (côn trùng lông cứng, tảo, bọt biển,…) để

gắp bỏ bằng kẹp, nhíp hoặc bàn chải đánh răng cũ. Các sinh vật chết thường xuất hiện với

màu trắng hoặc màu đỏ, cấu trúc mỏng và có mùi khó chịu. Nếu đá sống được vận

chuyển khô, bất kỳ dạng bọt biển nào đang phát triển trển hòn đá cũng cần bị loại bỏ.

Việc này là quan trọng, bởi những loại bọt biển bị để ra ngoài không khí dù với bất cứ

thời gian bao lâu thường sẽ chết sau đó bởi cơ thể của chúng không có cách nào để giải

thoát không khí đang bị nghẽn lại trong các mô. Hơn nữa bọt biển có xu hướng chết từ từ

do đó trong khi trông chúng có vẻ như vẫn sống thì thường là chúng đang trong quá trình

chết và sẽ giải phóng các chất hữu cơ vào trong nước trong suốt một thời gian dài.

Thủ phạm tồi tệ nhất chính là loài bọt biển Chicken Liver (Cbondrila nucula), một

chủng nạm thành một lớp màu đen bóng hoặc nâu sậm trên hòn đá và thường được gặp ở

đá sống vùng Đại Tây Dương hoặc vùng biển Caribê. Nếu không được loại bỏ ngay, phải

mất nhiều tuần hoặc nhiều tháng chúng mới chết hẳn và sẽ giải phóng ra các chất hữu cơ

trong suốt quá trình đó. Tôi luôn cố gắng loại bỏ bất kỳ một mẩu bọt biển nào khỏi đá

mới mua về mặc dù một số người chơi có may mắn là nuôi sống được chúng trong bể của

họ.

Tất cả các loại tảo cỡ lớn cũng nên được nhổ khỏi đá sống. Hầu hết các đám tảo

này đều đã chết trong quá trình vận chuyển và giải phóng ra các chất dinh dưỡng do đó

tốt hơn hết là tách chúng khỏi đá sống trước khi bắt đầu quá trình vô trùng. (Đáng ngạc

nhiên, những sự phát triển mới của tảo cỡ lớn và thậm chí những đám bọt biển khỏe

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

mạnh cũng sẽ thường xuất hiện lại trên đá sống hàng tuần hoặc hàng tháng sau khi vô

trùng nếu các điều kiện là phù hợp.)

Tôi thích vô trùng tất cả các hòn đá ngay lập tức bởi cho đá sống mới, chưa vô

trùng vào trong bể đã được chu chuyển là cực kỳ có hại. Nồng độ ammoniac và nitrat có

thể tăng đột biến khi thêm vào như vậy và có thể làm chết các sinh vật trong bể và sự

bùng phát của tảo nhớt. (Xem trang 64 để biết về phương pháp thay thế cho vô trùng

trong bể.)

Chú ý khi vô trùng

Để giảm mùi từ quá trình vô trùng đá sống, hãy sử dụng một cái power filter chứa đầy cacbon hoạt tính, thay media khi hiệu quả giảm.

Các điều kiện khi vô trùng

Để vô trùng đá sống nhanh chóng và hiệu quả cần phải có hai quá trình xảy ra.

Đầu tiên, phải có sự lưu thông nước mạnh mẽ. Bằng việc tạo ra sự chuyển động mạnh

của nước, bất cứ loại vật chất đã chết nào đều sẽ bị cuốn đi khỏi hòn đá. Thêm vào đó,

lưu thông nước mạnh sẽ ngăn mùn bã bám lại trên hòn đá và phủ kín bên dưới. Để tạo ra

chuyển động của nước, bạn cần một vài cái quạt tạo luồng. Để loại bỏ các khu vực bị thối,

bạn cần sử dụng một cái turkey baster để thổi bỏ lớp màng mỏng màu trắng và mảng bám

màu đen hình thành đặc trưng trên các hòn đá đang được vô trùng. Quá trình thứ hai cần

thiết để vô trùng một cách trơn tru là sử dụng protein skimming. Trong suốt quá trình vô

trùng, máy đánh bọt sẽ giúp lọc bỏ số lượng lớn các loại bọt bốc mùi và loại bỏ các chất

độc ra khỏi nước trước khi nó phân giải ra thêm và làm ô nhiễm bể. Thêm vào đó, máy

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

đánh bọt sẽ giúp tăng cường oxy cho nước trong bể để các vi khuẩn kỵ khí không phát

triền.

Trong suốt quá trình vô trùng và khi các sinh vật đã ngừng chết, việc thay nước

một phần là cần thiết. Việc này không chỉ giúp loại bỏ một số chất thải ra khỏi bể và ngăn

chặn sự tích tụ của ammoniac mà còn giúp giảm những loại mùi khó chịu. Để tạo thuận

lợi cho việc loại bỏ các loại mùn bã, đầu tiên các quạt tạo luồng sẽ cần được tắt bỏ trong

khoảng 30 phút và để cho các mảnh vụn có thể lắng xuống. Sau đó, nó có thể được hút ra

bằng ống xifon khỏi đáy và bề mặt của đá sống, với ống xifon được dùng để dẫn các chất

mùn bã ra khỏi các khe hở, ngóc ngách. Lượng nước bị hút ra theo sau đó sẽ thay thế

bằng lượng nước đã ngâm ngấu ít nhất vài ngày.

Trong suốt một hoặc hai tuần đầu tiên, việc này có thể sẽ cần phải thực hiện cách

nhật, đặc biệt nếu số lượng sinh vật chết nhiều và có mùi nồng. (Một cái máy đánh bọt

protein chất lượng tốt và một cái máy lọc kèm theo than hoạt tính sẽ giúp giảm lượng mùi

bốc ra.) Khi lượng sinh vật chết đã giảm bớt, việc thay nước khoảng 10 – 20% có thể cần

thiết chỉ một lần hoặc hai lần trong một tuần cho tới khi đá sống hoàn toàn được vô trùng.

Quá trình vô trùng được hoàn thành khi không còn dấu hiệu sinh vật chết trên hòn

đá và bể đã sạch mùi của đại dương, của mùi khó ngửi hoặc hydro sunfua. Nồng độ

ammoniac và nitrit đều nên đạt ở mức không. Trong khi quá trình vô trùng đang tiến

hành, không nên thả vật nuôi, thức ăn hay các chất bổ sung vào bể. Một số người chơi

thích tắt đèn trong quá trình này để ngăn chặn sự phát triển của tảo, nhưng thực tế sẽ

không có nhiều loại tảo cỡ lớn có thể phát triển trong khi thiết nguồn cung dinh dưỡng

như vậy.

Quá trình vô trùng đá mới đầy đủ thường kéo dài từ 4 – 6 tuần, phụ thuộc vào đá

sống của bạn được khai thác ở đâu và như thế nào, thời gian mà nó phải tiếp xúc trực tiếp

với không khí, nhiệt độ không khí xung quanh trong suốt quá trình vận chuyển và các

điều kiện chuyên chở khác. Rõ ràng, đá sống đã được vô trùng một phần từ tay các nhà

bán lẻ sẽ hoàn thành quá trình vô trùng tạo nhà nhanh hơn.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Một vài điều quan trọng bề mùi của quá trình vô trùng đá sống: nó có thể có mùi

thối. Trong quá trình setup những cái bể mới, tôi đã nhận thấy các mức độ của mùi này từ

nhẹ (mùi của tảo thối rữa) cho đến nặng (mùi của quá trình phân hủy động vật chết) . Nếu

người nhà nhà bạn mà không chịu được mùi này, hãy thay thế phương pháp vô trùng đá

trong bể tại nhà bằng một không gian ấm cúng và xa hơn như trong gara chẳng hạn.

(Những khu vực ngoài trời hoặc những cái lán nửa hở nửa kín là lý tưởng nhất nếu địa

điểm đó của bạn có nguồn điện, có thể chống mưa và có nhiệt độ phù hợp.) Tôi đã nhận

thấy rằng một cái thùng làm bằng nhựa cao su khoảng 32 gallon là hoàn hảo cho việc vô

trùng đá sống. (Tôi đặt chiếc thùng trên một cái giá đỡ để có thể dễ dàng xifon các chất

mùn bã dưới đáy bể trong quá trình vô trùng.)

Nếu phương pháp thay thế này được lựa chọn, cứ vài ngày, các mẩu đá sống cần

được nhấc lên và đảo đều. Việc này là rất quan trọng, bởi trong một cái thùng nhựa

không trong suốt thì rất khó nhìn thấy đá sống dưới đáy và bất cứ vật liệu chết nào đều có

xu hướng tích tụ tại đây. Cũng có thể phải thay nước một phần thêm vài lần nữa, đặc biệt

nếu mùi của chúng vẫn cực kỳ khó ngửi. Đổ đá sống luôn phiên giữa hai cái thùng chứa

hoặc bể vô trùng là một ý lựa chọn tốt. Xóc thật mạnh từng mẩu đá sống dưới nước cho

trong một cái thùng hoặc can để rửa sạch các vật liệu chết trước khi bỏ chúng vào một cái

thùng chứa nước muối sạch.)

(64): Nhiều người chơi thích vô trùng đá sống mới trong một cái bể hoặc thùng

chứa cách xa khu vực nhà ở để tránh gây mùi. Một hệ thống vô trùng đơn giản chẳng có

gì ngoài một cái thùng nhựa đổ đầy nước muối sạch, một cái bơm tạo luồng và một cái

máy sưởi.

1. Thùng vô trùng đá sống

2. Quạt tạo luồng

3. Máy sưởi đặt ngầm

4. Giá nâng để tiện cho việc xifon các chất cặn bã ra khỏi thùng

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Cùng với cách xử lý này và chi phí của những tuần thay nước có thể không đáng

bằng tất cả sự mất thời gian và sự phiền toái mà nó gây ra, đặc biệt là với những người

setup một bể cá khiêm tốn đầu tiên. Bạn có thể chỉ đơn giản là quyết định đặt mua đá

sống đã được vô trùng. Biết được những chi phí cần thiết phải tạo ra, bạn sẽ biết được

khoản phải trả thêm cho từng mẩu đá sống mà mình đem về. Tuy nhiên, với bất kỳ ai có

ý định setup một cái bể lớn hoặc bể san hô đều cần một lượng đá sống lớn thì tự vô trùng

đá sống có thể giúp bạn tiết kiệm được một khoản lớn. Thêm vào đó, các xử lý cẩn thận,

tập trung có thể giúp giữ lại được nhiều sinh vật mà có thể sẽ chết đi trong các hệ thống

xử lý tập trung.

Hướng dẫn người mua đá sống

Khi bạn đi mua đá sống, có rất nhiều lựa chọn về chất lượng, thể loại và mức giá

khác nhau. Tuy nhiên, nên nhớ rằng chất lượng của đá sống bạn chọn sẽ có ảnh hưởng

quan trọng đến bộ mặt và sự thành công lâu dài của bể cá.

Các quảng cáo đá sống thường liệt kê ra nhiều loại đá khác nhau như đá nền, đá

mặt, đá cuội, đá ký sinh trùng, đá ngầm. Mỗi loại đá khác nhau có các tính chất khác

nhau phụ thuộc vào độ sâu và các điều kiện của nước nơi nó được khai thác. Các tính

chất của đá sống cũng khác nhau từ vùng địa chất này tới vùng khác, cũng như vùng đá

ngầm này với vùng đá ngầm khác. Giá cả thường liên quan trực tiếp tới độ che phủ của

tảo san hô với các màu hồng, đỏ tía, xanh pha đỏ, và điều này thường phụ thuộc vào độ

sâu mà đá được khai thác.

Chú ý khi vô trùng

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Sử dụng một cái turkey baster hằng ngày để hướng dòng chảy thẳng vào đá sống đang vô trùng để rửa trôi bỏ các mảnh vụn rồi sau đó sẽ được hút bỏ. Một chiếc quạt tạo luồng nhỏ cầm tay cũng có thể được sử dụng để thổi bỏ các chất cặn ra khỏi đá sống.

Đá nền

Đá nền thông thường để chỉ các hòn đá sống to lớn, đồ sộ mà hoặc bị chôn dưới

cát hoặc vùi dưới những hòn đá sống khác. Loại đá sống này thường không chứa nhiều

các sinh vật sống bên ngoài hoặc tảo san hô, và nó được bán với giá thấp hơn nhiều các

loại đá thông thường. Đá nền có thể bị cát hoặc bùn thâm nhập, và nó cần được nhúng hết

vào nước trước khi bắt đầu quá trình vô trùng.

Loại đá này cũng giống như cái tên của nó đã ngụ ý là một cái nền thích hợp cho

bể san hô và những loại đá sống đắt tiền và đẹp hơn để hoàn chỉnh bố cục thủy sinh. Sử

dụng loại đá này làm đáy của một cấu trúc rạn san hô mini sẽ tốt hơn nhiều so với dùng

đá khô hoặc đá chết. Tôi muốn khuyến cáo mạnh mẽ với các bạn không nên sử dụng đá

khô để đi tắt và tiết kiệm tiền. Đá khô và đá chết gây mối nguy mang đến các chất gây ô

nhiễm độc hại vào bể, những chất mà không có trong đá sống. Đá núi lửa và đá xốp có

nguồn gốc từ núi lửa dường như cũng thể hiện giống như một cái nam châm cho các chất

cặn tích lũy lại. Kết quả là, các loại tảo cỡ lớn không mong muốn thường nảy nở trên

những hòn đá đó.

Với những người bắt đầu chơi với một ngân sách eo hẹp, toàn bộ bể có thể được

sử dụng đá sống. Hãy tìm kiếm cửa hàng mà còn tồn loại đá sống đã ngâm trong bể của

họ nhiều tuần hoặc nhiều tháng. Một vài trong số này có thể là đá sống có hình dạng đẹp

nhưng đá xuống hạng với giá bằng giá của đá nền bởi chúng đã mất màu và các sinh vật

khảm nạm trên đó mà những người chơi mong muốn. Tuy vậy, chúng vẫn chứa các mầm

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

vi khuẩn thích hợp và sẽ dễ dàng thực hiện tất cả các chức năng cần thiết của một bộ lọc

sinh học trong một bể chỉ có cá. Dưới các điều kiện về nước và chiếu sáng thích hợp, bề

ngoài của đá nền có thể được phục hồi trong một số trường hợp.

(65): “Đá nền” đặc trưng xuất rất ít các sinh vật sống hấp dẫn nhưng nó rẻ và có

thể làm nền cho một cái bể san hô mini. Hãy thận trọng với đá tái sử dụng từ các bể đã

dùng thuốc chữa.

(66): Đá mặt Thái Bình Dương nở rộ các loại tảo cỡ lớn mà thường là sẽ chết tạm

thời nếu không được loại bỏ nhưng sau đó chúng sẽ nở rộ trở lại.

(67): Các mẩu lớn đá ngầm Fiji giống như hòn đá này sẽ làm cho cấu trúc đá

sống ổn định hơn và tạo ra nhiều nơi trú ẩn tự nhiên cho các loài cá nhỏ.

Tuy vậy, hãy thận trọng khi dùng lại đá nền mà đã được sử dụng ở một bể khác.

Nếu bể đã từng bị sử dụng đồng hoặc các loại thuốc khác, đá có thể sẽ chết và thậm chí

còn hút đồng vào bể mặt của nó. Hãy chắc chắn về nguồn gốc của đá tái sử dụng trước

khi bỏ tiền ra mua dù với bất cứ mức giá nào.

Đá mặt

Đá mặt là một cực hoàn toàn đối lập với đá nền bởi nó chứa quá nhiều sinh vật

sống. Loại đá này được lấy từ vùng nước biển nông nơi có nhiều loại tảo cỡ lớn sinh sống.

Để đạt được những kết quả tốt nhất, tôi thường cạo sạch bất kỳ một loại tảo cỡ lớn nào có

thể nhìn thấy: tảo nâu, đỏ, xanh lá cây. Đá mặt cũng có thể mang lại sự phát triển mạnh

của tảo san hô cũng như một lượng lớn các loại trùng lông cứng không mong muốn.

Khi làm sạch loại đá này cần phải thật cẩn thận để không những loài bọ cắn khi

thò tay nhặt hòn đá lên. Một số nhà xử lý đá sống vẫn đeo găng tay cao su như thường lệ

để bảo vệ. Những chiếc nhíp cầm tay cũng rất tiện dùng để nhanh chóng gắp bỏ bất kỳ

con bọ nào trong suốt quá trình làm sạch đầu tiên. Quan sát phần đáy bể làm sạch để tìm

xem có con bọ lông cứng nào chết khi mới được chuyển đến hay không và nhanh chóng

loại bỏ chúng.

Đá ký sinh trùng

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Đá ký sinh trùng khác với hai loại đá còn lại ở chỗ nó thường chứa một số lượng

lớn các loại côn trùng cứng (chứa đá vôi) sống ngay trên hòn đá. Những hòn đá sống này

khá đẹp mắt. Vấn đề duy nhất đó là đá ký sinh trùng thường đến từ những vùng nước có

sự tập trung các vật chất trôi nổi cao (ví dụ như chất dinh dưỡng) hơn là từ những bãi đá

ngầm khác. Một cách tự nhiên là vì những con côn trùng cần được nuôi sống trong môi

trường giàu dinh dưỡng để duy trì khỏe mạnh. Nếu sử dụng quá nhiều đá ký sinh trùng

trong bể, nguy cơ gây ô nhiễm bể từ lượng thức ăn thừa thả vào bể tăng lên để nuôi sống

côn trùng dạng ống sẽ tăng cao. Ngược lại, nếu những con vật này không được cho ăn

đầy đủ, chúng có thể chết và gây ô nhiễm cho bể khi chúng phân giải, đặc biệt là trong

quá trình làm sạch đá sống.

Đá san hô

Trong hầu hết các trường hợp, đá san hô hay đá vụn sẽ là lựa chọn tốt nhất với các

nhà chăm sóc bể cá cảnh. Nó có thể được tìm thấy với nhiều hình dạng khác nhau, các

loại nhánh và các mặt bằng phẳng. Loại đá này thường chứa nhiều các mẩu vụn từ những

bộ xương san hô cũ bị vỡ và rơi xuống gần với bãi đá ngầm trong các vùng nước nông.

Vì thế mà đá san hô chứa nhiều tảo san hô nhất cũng như sự xâm thực của các loài động

vật và thực vật khác. Phụ thuộc vào nguồn gốc của nó, nó có thể chứa nhiều các loại san

hô sống cũng như các loài thực vật có vỏ, bryozoan, zoanthid, bọt biển và hải tiêu.

Trong các bể san hô, loại đá sống này sẽ hình thành nên cấu trúc khối đá sống. Với

những người mới chơi cá biển, loại đá san hô thêm vào này cũng rất đáng mơ ước nhưng

không cần thiết. Để tiết kiệm, bố cục thủy sinh của bể san hiô chỉ nên được xây dựng chủ

yếu bằng đá nền cùng với một hoặc một số mẩu đá san hô thêm vào để hoàn chỉnh cấu

trúc.

(67):1. Đá nuôi trồng ở khu vực vùng bờ biển Vịnh của bang Florida thường

mang những con bọt biển nhiều màu sắc và chúng có thể sống nếu được vận chuyển một

cách thích hợp

2. Đá nhánh Thái Bình Dương có thể được dùng để trang trí trên đầu bể san hô và

tạo ra một bố cục thủy sinh phức tạp, nhiều màu sắc và trông gần với tự nhiên hơn.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Đá nuôi trồng

Trong những năm gần đây, một loại chất liệu mới đã đi vào thị trường với số

lượng lớn: đá sống được nuôi trồng. Loại đá này khác với tất cả những loại khác ở chỗ nó

được khai thác trên cạn, thường là đá vôi san hô được khai thác khô rồi đặt vào lòng đại

dương. Đá nuôi trồng là một cố gắng nhằm thay thế đá sống và là một bản sao của đá

sống, loại đá mà thú chơi bể cá đã loại bỏ suốt 10 năm qua. Loại đá này có độ ổn định

tương tự như các loại đá sống trước kia lấy từ các bãi đá ngầm bang Florida và vịnh

Mexico. Việc khai thác đá sống tự nhiên hiện tại đã bị cấm ở khu vực hải phận của bang

Florida nhưng vì hầu hết đá nuôi trồng hiện nay được nuôi trồng tại đây nên chúng có

chứa nhiều loại sinh vật được tìm thấy trên đá sống tự nhiên của bang này. Loại đá này

thường khá rắn và làm nền khá tốt. Hầu hết các loại đá nuôi trồng hiện nay đã được đặt

dưới biển ít nhất 2 năm và chúng đang bị xâm thực khá nhiều bởi các loài động vật không

xương sống của bãi đá ngầm.

Đá Đại Tây Dương

Không chỉ có khu vực địa lý của đá tạo ra tính chất cho nó mà còn do cả bản thân

chất lượng nước. Đá của vùng biển Caribê, Đại Tây Dương và vùng Vịnh đều có thể

được kết cấu rất đặc. Một số loại đá Đại Tây Dương nặng và giống với gạch, có nguồn

gốc từ những bộ xương san hô Elkhorn hay đá vôi nền. Loại vật liệu này vẫn có thể chấp

nhận được mặc dù nó không được xốp lắm và kém lý tưởng đối với bể cá cảnh biển. Một

vài nguồn mới ở Trung Mỹ hay Brazil có thể cung cấp một vài loại đá cực kỳ tốt nhưng

không phải lúc nào cũng sẵn có.

Đá Thái Bình Dương

Đá sống khai thác ở Thái Bình Dương thì cực kỳ phổ biến trong giới những người

chơi cá biển và thường không đặc như đá Đại Tây Dương. Loại đá này thường có nhiều

hình dạng khác nhau, với một cấu trúc xương xẩu hoặc có nhiều nhánh. Nó chứa nhiều

ngóc ngách, khe nẻ và không gian mở hơn đá đặc Đại Tây Dương. Cấu trúc mở và vô số

các sinh vật cư ngụ trên đá Thái Bình Dương làm cho nó trở thành một lựa chọn được ưa

thích bởi rất nhiều người chơi bể san hô.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Hãy để ý rằng tuy vậy nhưng hai chuyến hàng đá Thái Bình Dương dù từ một địa

điểm nhưng có thể khác nhau rất lớn. Chất lượng còn phụ thuộc vào việc đá được khai

thác, xử lý và vận chuyển như thế nào. Nếu đặt đá trên tàu, bến tàu hoặc bãi đậu để khô

dưới trời nắng nóng dù trong thời gian bao lâu thì hầu hết các sinh vật trên đó sẽ chết.

Trong suốt quá trình vận chuyển, bởi sẽ có rất ít nước để tưới cho chúng nên các sinh vật

còn sống sót trên đá sẽ chết nếu chúng bị đặt trong các hộp trong điều kiện quá nóng hoặc

quá lạnh. Trước khi đặt hàng mua đá sống Thái Bình Dương, cố gắng nhìn (và ngửi) mẫu

hàng của cùng một nhà cung cấp hoặc nghe theo giới thiệu của một nhà buôn hoặc một

người chơi khác.

Tạo bố cục cho đá

Cả trong quá trình vô trùng hay ngay sau đó thì bạn cũng nên đặt đá sống gần với

vị trí cuối cùng của nó trong bể. Vị trí của đá là vô cùng quan trọng bởi rất nhiều lý do.

Những con vật có trên đá đên được đặt ở vị trí gần giống như cách chúng được đặt trong

tự nhiên. Đó là bởi san hô, nếu các loài động vật không xương sống và tảo san hô đang

được hướng lên trên để đón nhận ánh sáng mạnh và những dòng chảy lớn thì đó chính là

cách mà chúng cần được đặt trong bể. Sẽ chẳng có ý nghĩa gì khi bạn đặt những loài cần

ít ánh sáng hướng lên trên vì như thế sẽ chỉ làm cho chúng chết nhiều hơn.

Cấu trúc của đá sống cần phải thật vững để giảm thiểu mối nguy hiểm khi nó đổ,

làm vỡ bể hoặc làm bị thương bất kỳ loài vật nào trong bể. (Cá chình đôi khi trở thành

nạn nhân của những vụ đổ đá sống). Cấu trúc cũng cần phải thoáng hết sức có thể để tạo

nơi trú ẩn cho các cư dân trong bể. Tuy nhiên, quan trọng hơn, cấu trúc mở này phải cho

phép nước di chuyển xung quanh và xuyên qua nó nhằm ngăn ngừa sự tích tụ của các

chất cặn bã. Đừng sắp xếp các hòn đá sống khít vào với nhau như thể bạn đang xây một

bức tường gạch.

Xem xét cuối cùng là phải sắp xếp đá sống làm sao cho sinh động về mặt thẩm mỹ

và bắt chước như thật hay ít nhất là một phần của một rạn san hô thật sự trong tự nhiên.

Thay vì chất đống hay xây một bức tường vuông vức, hãy thiết kế một hoặc một vài cái

đỉnh, các rãnh, kênh rạch hoặc các hòn đảo (xem biểu đồ minh họa bên dưới).

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Chú ý khi thiết kế

Trước khi đặt đá sống vào bể, việc thử bố cục chúng ở bên ngoài bể trước xem kiểu bố trí nào là phù hợp với chúng nhất có thể khá hữu ích.

(68): 1. Cấu trúc hòn đảo: đây là kiểu hình đơn giản nhất có thể với một đỉnh được sắp

xếp lỏng lẻo ở giữa, tạo ra một mô hình mà gợi nhớ đến một hòn đảo nhiệt đới hay một

mẩu san hô. Không gian mở bên ngoài cho phép tạo khoảng không rộng rãi cho các loại

cá ưa hoạt động và cho công việc bảo trì lau chùi kính bể.

2. Cấu trúc đảo san hô vòng: kiểu bố cục này chỉ là một sự khác biệt giản đơn so

với kiểu ở trên là có một khoảng sân cát ở giữa để tạo ra ấn tượng về một vùng phá được

bảo vệ dưới nước. Thiết kế này có tính ứng dụng cao, với các chiều cao khác nhau tạo sự

thích thú khi ngắm nhìn.

Không cần thiết phải chất một đống đá sống đầy lên tới mặt nước. Quy tắc ngón

tay cái thông thường đó là sử dụng 2 pound đá đặc Đại Tây Dương trên mỗi gallon hoặc

1 pound đá nhẹ Thái Bình Dương trên mỗi gallon. Bởi các loại đá sống có sẵn ngày nay

rất đa dạng nên những chỉ dẫn trên không phải đúng trong mọi trường hợp. Thay vì chọn

một lượng đá sống cố định cho mỗi gallon, việc bỏ thêm đá vào cho đến khi chúng chiếm

áng chừng gần một phần ba hoặc một nửa dung lượng bể sẽ thực tế hơn nhiều. Lượng đá

sống này sẽ vừa vặn một bộ lọc sinh học.

Nếu bạn thích trưng bày một đống đá sống bừa bãi, bạn có thể bỏ thêm đá nhưng

không quá nhiều để làm cho cá thiếu không gian bơi. (Nhiều bể san hô theo tập quán có

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

tới 2/3 bể là đá sống và giống với một nơi cho san hô phát triển vượt sự cần thiết sinh

học).

Lý tưởng nhất, bạn có thể phải chọn bằng tay những hòn đá sống đã vô trùng từ bể

cá của nhà buôn và lấy đó làm căn cứ để lấy đủ số lượng cho không gian trong bể cá của

mình. Khi mua từ các cửa hàng ở địa phương, bạn có thể dễ dàng quay lại để mua thêm

nếu cần. Đặt mua đá sống chưa vô trùng tạo ra nhiều thách thức trong vấn đề quyết định

đúng số lượng cần mua, một nhà buôn hoặc một người chơi cá biển dày dạn có thể đưa ra

những lời khuyên cần thiết.

Chú ý khi thiết kế

Chừa lại đủ không gian giữa kính bể và đá sống cho tay bạn có thể dễ dàng thò vào. Kiểm tra khung nền bằng cách dùng một cái chổi cọ để đảm bảo có chỗ trống ở mặt trong các thanh đằng trước và mặt bên.

(69): 1. Cấu trúc một đỉnh: yêu cầu ít đá sống hơn và để lại nhiều lối mở cho nước hơn

kiểu hòn đảo cơ bản, kiểu bố cục này có một đỉnh cao thoải dần xuống nền cát, trông rất

đẹp và xây dựng đơn giản. Các mẩu thiết bị bể cá cần thiết có thể đặt giấu sau cấu trúc

đá.

2. Hai đỉnh và có kênh rạch: bắt chước hình ảnh hai hòn đảo với một dòng nước

chảy ngang qua chúng, kiểu hình này cung cấp nơi trú ẩn tuyệt vời cho lũ cá đồng thời

tạo không gian bơi rộng rãi. Đá tròn hoặc đá cuội sẽ khó sử dụng ở bất cứ kiểu phối hợp

nào trong những kiểu này.

Phương pháp giấu khung

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Một cách để giảm lượng đá sống cần thiết là đặt nó lên một cái khung đỡ. Cái

khung này có thể được xây dựng từ loại ống nhựa PVC đường kính ½ inch với những

ống khuỷu có thể được tìm thấy dễ dàng ở các cửa hàng phụ tùng, ống nước. Ống nhựa

sau đó được trang trí thành những hình lập phương khối gồm nhiều ống lập phương nhỏ

và đá sống được đặt lên những hình vuông này (xem minh họa). Phương pháp này không

chỉ tiết kiệm tiền bằng việc sử dụng ít đá hơn mà nó còn tạo ra một cấu trúc rất thoáng.

Thêm vào đó, chỉ cần một chút tưởng tượng, các hang động và các phần nhô ra trông rất

thẩm mỹ có thể được thiết kế để tăng vẻ đẹo tự nhiên cho bể cá. Chỉ cần một chút quan

tâm đến việc đặt đá, khung nhựa PVC có thể hoàn toàn bị che khuất đi khỏi tầm nhìn.

Để tạo ra các hang động và các phần nhô ra, bạn có thể sử dụng rất nhiều kỹ thuật.

Đá sống có thể được khoan dễ dàng, do đó có một cách là khoan các lỗ và đặt ống nhựa

PVC cứng vào đá để giữ nó đúng vị trí. Theo cách này, rất nhiều mẩu nhỏ đá sống có thể

được ghép vào với nhau để tạo một cái mái vòm hay một mái che nhô ra. Sử dụng các

biến dạng trong kỹ thuật này, cần khoan một cái lỗ đủ lớn để đút vừa một mẩu ống nhựa

PVC trên hòn đá sống và những ống nhựa như thế này chạy xuyên khắp cấu trúc của đá

sống để giữ vững cái mái nhô hay một cái hang. Nên khoan các lỗ trên ống nhựa PVC để

tránh ứ đọng nước trong các ống nhựa này. Sử dụng các dây nhựa màu đen để buộc chặt

các mẩu đá sống với nhau cũng có thể đạt được sự ổn định tương tự. Tất cả những biện

pháp này xem ra đều khá lâu dài và đó là một lý do tốt. Cấu trúc của đá sống càng ổn

định, nó càng đỡ bị đổ hoặc phải sắp xếp lại. Điều đó tạo ra một môi trường ổn định và

cái này lại giúp ích cho sự tồn tại lâu dài của các loài sinh vật trong bể.

Một cách khác để tăng sự ổn định và vững chắc của bố cục đá sống là sử dụng loại

keo không thấm nước và an toàn với nước muối mới tung ra thị trường gần đây. Hai loại

mà tôi đã có kinh nghiệm sử dụng đó là Devcon 11600 và Aquarium Systems’Holdfast

Epoxy stick. Cả hai loại đều không độc với bể cá biển và có thể hàn dưới nước. Những

ống keo gồm hai loại này cần phải đổ ra và trộn chúng vào nhau cho tới khi hỗn hợp

chuyển sang màu trắng. Khi đã được rồi thì phết keo vào giữa hòn đá và những vật cần

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

dính với nó và nén chúng lại với nhau. Những hòn đá cần được giữ như vậy trong khoảng

ít nhất 40 phút khi keo dính đang hàn. Các dây cao su và dây điện có thể được dùng để

giữ chúng. Mặc dù keo dính sau đó trông sẽ chưa đủ cứng để sờ vào nhưng nó đã hàn

được một phần và phải cần tới 24 tiếng để hàn gắn hoàn toàn. Không được phép đặt một

áp lực nào lên mối hàn trước thời điểm này.

Đừng cố gắng để ganh đua với trọng một rạn san hô; cho dù bể của bạn lớn đến cỡ

nào, nó cũng không thể so sánh với một rạn san hô dù là rất nhỏ. Tuy nhiên, chỉ cần có đá

sống, cát và thêm một chút tưởng tượng bạn cũng có thể bắt chước một phần thu nhỏ của

các rạn san hô ven bờ hay trong các phá. Không giống như những bộ xương san hô tẩy

hay những vật trang trí nhân tạo, đá sống là vật liệu bố cục thủy sinh trông thật nhất mà

bạn có thể mua. Những chi phí ban đầu có thể được hoàn trả lại theo nhiều cách: đá sống

cung cấp một mô hình trông rất thực, một bộ lọc sinh học sống và một nguồn thức ăn và

nơi trú ẩn không bao giờ vơi cạn cho những sinh vật trong bể.

(70) : một cấu trúc giấu khung, từ những ống nhựa PVC ½ inch và các ống khuỷu

PVC sẵn có có thể tạo ra các dạng hỗ trợ để nâng cao cấu trúc đá sống và tạo ra hình

ảnh một bố cục thủy sinh lớn và hỗn tạp nhưng thực chất lạo chỉ cần vài viên đá sống.

1. Mô hình nâng đá sống giấu khung

2. Ống khuỷu PVC ½ inch

3. Ống côn PVC ½ inch

4. Ống hình chữ T PVC ½ inch

Những điều kỳ lạ của sự sống: những thứ mà có thể sống trên đá sống

(71): Đá san hô Fiji được rất nhiều tảo san hô cư ngụ và mang trong mình nhiều loại

sinh vật không nhìn thấy bằng mắt thường

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Sau nhiều tháng được đặt trong bể, đá sống có thể trở thành một nguồn cung cấp

các sinh vật mới, hấp dẫn đôi khi cũng gây khó chịu. Sau đây chỉ là danh sách một vài

nhóm mà bạn có thể gặp:

Giáp xác chân hai loại (oder Amphipoda)

Hải quỳ (Phylum Cnidaria)

Hàu (Class Ophiuroidea)

Sò biển (Class Bivalvia)

Trùng lông cứng (Phylum Annelida)

Sao biển (Class Ophiuroidea)

Tảo nâu (Division Phaeophyta)

Bryozoan hay sinh vật chỉ thị (Phylum Bryozoa)

Ốc song kinh (Class Polyplacophora)

Bộ chân kiếm (Order Copepoda)

Coralline (calcareous red) algae (Division Rhodophyta)

Các loại san hô (Phylum Cnidaria)

Các loại cua ốc (Phylum Arthropoda)

Giun dẹt (Phylum Platyhelminthes)

Trùng có lỗ (Phylum Protozoa)

Tảo xanh cỡ lớn (Division Phaeophyta)

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Các loài thủy tức (Order Hydroida)

Sao sao (Class Gastropoda)

Các loại tôm tích (Oder Stomatopoda)

Nudibranchs (Subclass Opisthobranchia)

Oysters (Class Bivalvia)

Sea Hares (Subclass Opisthobranchia)

Sea Stars (Class Asteroidea)

Sea urchins (Class Echinoidea)

Ốc sên (Class Gastropoda)

Tôm tích (Alpheus spp.)

Bọt biển (Phylum Porifera)

Terebellid worms (Class Polychaeta)

Tubeworms (Families Serpulidae và Sabellidae)

Tunicate hay sea squirt (Class Ascidiacea)

Zoanthids (Phylum Cnidaria)

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Chương 4: THIẾT LẬP BỂ CÁ MỚI

Hướng dẫn từng bước : Từ một bể trống tới một hệ sinh thái sống động

Một trong những chuyện hoang đường của công việc setup bể cá cảnh miêu tả một

ngày đầy những sự hào hứng và áp lực, với những túi cá sống nằm chờ đợi khi nhà chơi

cá cảnh mới khẩn trương đổ đầy bể cá và dò độ sâu của bể. Cuối ngày bể cá rực rỡ sắc

màu và những con cá đang bơi lội tung tăng và hạnh phúc về ngôi nhà mới của chúng.

Hãy quyên câu chuyện cổ tích thần tiên đó đi bởi đó chắc chắn không phải là những gì sẽ

xảy ra.

Thực sự công việc setup bể chỉ bắt đầu khi tất cả các thiết bị và nguyên vật liệu đã

sẵn sàng. Ở thời điểm này, chưa được phép mua sinh vật sống nào cả và quá trình có thể

thay đổi ở bất cứ nhịp độ nào mà bạn chọn để setup. Thực sự thì không cần thiết phải vội

vàng và đừng có hy vọng rằng bể có thể được lấp đầy, thả cá và hoàn thành chỉ trong vài

tiếng đồng hồ.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Sự thiếu kiên nhẫn là hoàn toàn bình thường trong những giai đoạn đầu nhưng bất

cứ người chơi nào cũng sẽ nói với bạn rằng sự vội vàng và cố gắng rút ngắn các bước cơ

bản để setup bể gần như chắc chắn sẽ mang theo nhiều điều hối tiếc. Cứ từ từ mà làm,

bám lấy những thủ tục đơn giản được trình bày trong chương này và đặt một nền tảng

vững chắc trước cái ngày bạn thả những con cá đầu tiên vào trong thế giới bể nuôi mà

bạn đã tạo ra.

“Cứ từ từ mà làm, bám lấy những thủ tục đơn giản được trình bày trong chương này và đặt một nền tảng vững chắc trước cái ngày bạn thả những con cá đầu tiên vào trong thế giới bể nuôi mà bạn đã tạo ra.”

Bên trái: những cái hang trong một bể san hô. Bên trên: Cá thỏ một đốm (Siganus

unimaculatus)

Chú ý khi thiết kế

Các chất tẩy rửa kính được sử dụng tại nhà như Windex rất độc và không bao giờ được phép sử dụng trong bể hoặc với bất kỳ thiết bị đặt chìm dưới nước nào. Tốt nhất không nên dùng những chất tẩy rửa này với bể của bạn hoặc sử dụng cực kỳ thận trọng.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Bước 1: Làm sạch bể

Với một cái bể mới, việc rửa sạch trước với nước ấm sẽ giúp loại sạch lớp

bụi bẩn và váng được tạo ra trong quá trình sản xuất, vận chuyển và lưu kho. Bắt đầu việc

lau chùi này, hãy tạo thói quen tránh sử dụng bất cứ một loại xà phòng, chất tẩy rửa hay

làm sạch kính nào cho bể cá hoặc với bất cứ thiết bị nào mà được đặt trong nước bể.

Tương tự, bất cứ miếng xốp, giẻ lau hay cái thùng chứa nào cũng không được để bị

nhiễm các chất hoạt hóa hay các chất hóa học sử dụng trong việc nhà, chăm sóc vườn bởi

chúng có thể gây chết sinh vật trong bể. Thiết kế một số loại thùng chứa và dụng cụ chỉ

dùng riêng cho bể cá là một ý kiến rất hay.

Để loại bỏ những vết ố, hằn hay những chất bẩn bám chặt lấy bề mặt kính hay

acrylic, hãy dùng giấm trắng (axit axetic) và chúng lại hết bằng nước sạch. Đừng bao giờ

dùng bàn chải để chà xát lên bề mặt acrylic. Hãy đảm bảo sự cẩn thận khi bạn xử lý với

cái bể. Đặc biệt, các bể cá bằng thủy tinh rất dễ bị rịa, vỡ khi đang rỗng mà chịu sự va

đập hay khi một dụng cụ rơi xuống dù chỉ với khoảng cách vài inch. (Luôn để tay khô khi

mang hoặc di chuyển một bể cá.)

Nếu bể đã được dùng từ trước, việc tiệt trùng hoàn toàn bằng chất sát trùng hydro

peroxyt hay clo sẽ là một biện pháp khôn ngoan. Một lần nữa, giấm trắng lại là một giải

pháp rẻ tiền và hữu ích giúp loại bỏ những mảng bám canxi cứng đầu trên các thiết bị đã

qua sử dụng. Hãy đảm bảo chúng được rửa sạch lại bằng nước ngọt sau khi sử dụng bất

cứ loại sát trùng, tẩy clo hay giấm nào.

(74): Bước 1: Lau sạch bể bằng miếng xốp mới và nước sạch, tránh sử dụng bất

cứ loại nước lau kính hay chất tẩy rửa nào.

1. Miếng xốp dành riêng cho bể cá

2. Nước ngọt

Bước 2: Tạo phông

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Với bể cá cảnh biển đặc trưng tại nhà, mặt sau của bể thường được đặt quay vào

một bức tường hoặc cách xa tầm nhìn của người quan sát. Phủ lên phía bên ngoài của tấm

kính phía sau một tờ giấy nền hoặc sơn sẽ làm cho bộ mặt của bể cá trông gọn gang hơn

và với một bố cục thủy sinh trông thật mắt hơn. Việc tạo nền cho bể cá sẽ đơn giản hơn

nhiều khi vẫn có thể tiếp cận với nó và bể chưa bị đặt vào đúng vị trí của nó. (Phải đặt

một tấm phông lên bể khi bể đã đầy đủ các thiết bị với các loại vòi ống và dây dợ khác

nhau thật sự là một điều phiền toái. )

Nếu sử dụng giấy nền không thấm nước, cắt nó vừa cỡ và dán chặt bốn cạnh của

nó vào bể bằng băng dính chống thấm hạng nặng như là băng keo duct. Sơn mặt kính là

biện pháp lâu dài hơn; chỉ cần hai lượt sơn latex loại nhanh khô là đủ. (Các bể acrylic kỵ

dùng sơn nhưng bạn có thể thay bằng kính màu đen hoặc xanh da trời.)

(74): Bước 2: Lau khô bể và gắn một tấm phông với chất liệu màu sắc làm nền cho bể

hoặc sơn hai lớp sơn latex vào tấm kính phía sau bể.

3. Giấy nền không thấm nước

4. Băng keo

Bước 3: Bể và giá đỡ

Trước tiên, hãy đảm bảo rằng giá đỡ của bể (hay bất cứ phần bề mặt nào mà chống

đỡ bể) phẳng và nó sẽ dễ dàng xử lý trọng lượng bể khi bể đầy. Dùng một cái ống ni vo

của thợ mộc để đảm bảo rằng bể bằng phẳng từ trước ra sau và từ cạnh này sang cạnh kia.

Nếu không có sẵn ống ni vo, ít nhất hãy kiểm tra qua loa một chút bằng cách sử dụng

một cái ly thủy tinh. Đổ đầy một nửa cốc nước, đặt nó lên mặt phẳng cho trước, ví dụ như

bàn ăn chẳng hạn rồi đánh dấu bằng một vệt ngang mỏng bên ngoài cốc. Đặt cốc trên giá

đỡ và để ý xem nước trong cốc có chênh khỏi vạch đánh dấu hay không. Nếu giá đỡ

không phẳng, hãy chỉnh các chân hoặc chèn thêm nếu cần.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Trước khi bể được đặt trên giá, bạn nên đặt vào giữa bể và giá đỡ một lớp mỏng

Styrofoam hay một tấm đệm nỉ dày. Styrofoam hay đệm cứng sẽ có tác dụng như một bộ

phận lò xo giảm sốc để bất cứ lực mạnh nào tác động lên bể cũng không làm cho bể bị vỡ.

Tấm đệm cũng giúp cân bằng bể và ngăn chặn sự đổ vỡ nếu có một hòn cuội hay bất cứ

vật nào bị mắc giữa bể và giá đỡ.

Giờ đây, khi bể đã được đặt lên giá đỡ và trước khi đổ nước vào bể, hãy kiểm tra

để đảm bảo rằng nó thăng bằng từ trước ra sau và từ cạnh nọ sang cạnh kia. Nếu vẫn chưa

được, hãy chỉnh giá đỡ một lần nữa. Các bước làm thận trọng để giữ thăng bằng cho bể

như vậy là cần thiết để tránh cho các cạnh của bể phải chịu các áp lực không đều lên các

cạnh một khi đã được lấp đầy. Bỏ ra một vài phút để thực hiện công việc này sẽ giúp bạn

giảm phần lớn khả năng rò rỉ của bể qua thời gian.

(75): Bước 3: Sử dụng ống nivo của thợ mộc để đo mức độ bằng phẳng của giá đỡ,

sau đó hãy chắc chắn rằng chính cái bể của bạn cũng bằng phẳng.

1. ống ni vo

2. đệm

3. Giá đỡ

Bước 4: Đổ đầy và kiểm tra: vận hành bể

Tiếp đến, tất cả các thiết bị được đặt vào bể khô nhưng không được đặt đá sống và

cát. Đặc biệt: không được cắm điện hoặc bật thiết bị nào lên cả, máy đánh bọt cần được

treo phía sau bể, lắp máy lọc ngoài nếu cần sử dụng và kết nối tất cả các đường ống. Đặt

các quạt tạo luồng và các máy sưởi ở các góc phía sau nơi chúng sẽ được giấu đi một

cách hợp lý. Hãy cố gắng mường tượng ra dòng chảy của nước từ các thiết bị khi được

cắm điện và tạo ra không gian phù hợp cho chúng. Hãy đảm bảo tất cả bộ phận kết nối

với dòng điện đều khô ráo và tránh để ở những chỗ nước có thể bị rò rỉ. (Xem trang 39).

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Vào lúc này, có thể sử dụng nước máy mới và chưa qua xử lý để đổ vào bể, máy

đánh bọt và máy lọc ngoài. (Nếu bạn sử dụng máy đánh bọt protein đối lưu, bạn cần bật

máy bơm khí trước khi đổ nước vào. Cần phải làm như vậy bởi sẽ dễ dàng bơm khí qua

một hòn đá khí khô hơn là một hòn đá khí đã ngậm nước. Bắt đầu với một hòn đá khí đặt

ở chỗ khô cũng sẽ tạo ít áp lực ban đầu cho máy bơm khí.)

Bạn có thể sẽ nghĩ đến loại nước mà bạn đổ vào đầu tiên và “vận hành ẩm”. Nước

đó sẽ dùng để kiểm tra sự rò rỉ trong bể và trong các ống dẫn cũng như giúp giửa sạch bụi

và các mảng bám từ quá trình sản xuất của các thiết bị. Đổ nước vào cũng giúp bạn thiết

lập độ cao phù hợp của nước trong bể và tính toán các dòng chảy của nước qua các máy

đánh bọt và quạt tạo luồng. (Kẻ một vạch và đánh dấu bằng loại mực không xóa được

mức nước mà bạn mong muốn ở đâu đó trên góc sau của bể sẽ là một ý kiến hay. Đó sẽ là

điểm tham khảo vĩnh viễn để đổ đầy nước và giữ ở mức trọng lượng riêng phù hợp của

nó.)

Để đảm bảo không có gì bị rò rỉ ra ngoài, hãy lau sạch các vết nước hoặc vũng

nước trên và xung quanh bể cá và cả trên các thiết bị chứa nước của nó. Để cho bể vận

hành bằng nước ngọt trong khoảng 24 đến 48 giờ. Kiểm tra mọi đường nối và tất cả các

bộ phận thiết bị của bể xem có chỗ nào rò rỉ không. Điều chỉnh máy sưởi về mức nhiệt lý

tưởng (74 – 78 độ F) và bắt đầu kiểm tra nhiệt độ. Nó cần phải được giữ ổn định và

không vượt quá ngưỡng trên (80 độ) sau khi tất cả đèn trong bể đã bật lên từ 10 đến 12

tiếng.

Mọi thứ sẽ hoạt động tốt trong đa phần các trường hợp, nhưng nếu có rắc rối gì

xảy ra, chúng cần được chỉnh sửa ngay tại thời điểm đó. Nếu chẳng may bạn phát hiện

cái bể của mình có rò rỉ hoặc có một phần thiết bị nào đó không hoạt động, chúng cần

được trả lại và thay thế ngay lập tức. (Hãy đảm bảo bạn giữ mọi giấy tờ bảo hành, sách

hướng dẫn và hóa đơn để việc hoàn trả thuận tiện và dễ dàng nhất. Giữ lại nguyên kiện

cho tới khi đã chứng minh được các thiết bị mới không có bất cứ khuyết điểm nào. Nếu

bạn phải mang trả lại một thứ gì đó, khôn ngoan hơn cả là hãy gọi điện trước. Một số vấn

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

đề có thể được xử lý ngay qua điện thoại. Nếu việc này là không thể, bạn sẽ muốn đảm

bảo rằng một ai đó sẽ đổi hàng hoặc trả lại tiền cho bạn tại cửa hàng khi bạn mang sản

phẩm lỗi tới.)

(75): Bước 4: Đổ đầy bể và các máy lọc bằng nước ngọt, sau đó khởi động và

chạy hệ thống từ 24 tới 48 tiếng để kiểm tra tất cả các thiết bị.

1. Nước ngọt

2. Máy lọc Canister

3. Tất cả các thiết bị đều tháo rời

Bước 5: Tháo nước ra và đổ đầy trở lại

Giờ đây có thể tháo bỏ nước mà bạn đổ vào lúc đầu và đổ đầy bể trở lại bằng nước

muối đã pha trước trong một cái thùng chứa to hoặc hồ chứa. Nếu bạn muốn trộn đợt

nước muối đầu ngay trong bể, trước tiên hãy đổ đầy nước ngọt sạch vào đó. Loại nước

mới này cần phải cực kỳ trong sạch và nhất định phải là nước xả ra từ vòi nước lạnh.

(Các bể nước nóng cực kỳ không tốt bởi chứa nhiều chất gây ô nhiễm từ kim loại nặng.)

Nếu bạn sử dụng nước máy đã qua xử lý của thành phố, hãy bỏ thêm các chất điều hòa

hoặc xử lý nước máy để trung hòa các chất clorin, cloramin và các kim loại nặng (Xem

phần các nguồn nước, trang 46).

Nếu sử dụng một nguồn nước ngọt thay thế (nước được làm sạch bán tại các cửa

hàng bể cá, nước suối hoặc nước được lọc từ các thiết bị xử lý của riêng bạn), hãy sử

dụng nó ngay bây giờ để đổ đầy vào bể, máy đánh bọt và bất cứ máy lọc ngoài nào.

Khi đã thêm nước ngọt vào, tất cả các thiết bị có thể được khởi động lại. Hãy để

mọi thứ vận hành cho tới khi nhiệt độ lên tới điểm mục tiêu rồi sau đó thêm vào muối

trộn tổng hợp. (Muối tan chậm trong nước lạnh, và bạn phải lấy các thông số về trọng

lượng riêng ở nhiệt độ vận hành phù hợp, do đó không nên thêm muối trộn vào trước khi

nước ấm lên.) Đầu tiên chỉ nên cho ít muối thôi bởi nhiều bể cá sẽ có dung lượng nhỏ hơn

một chút so với mức mà nó được quảng cáo. Khi đã dành thời gian để cho muối tan trong

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

vòng 24 tiếng đồng hồ, bạn có thể lấy các thông số về trọng lượng riêng và thêm muối và

nước ngọt vào để đạt được độ mặn mong muốn từ 1,022 – 1,026.

Bể cần phải chạy thêm vài ngày nữa để kiểm tra kỹ hơn mọi vấn đề rò rỉ hoặc các

rắc rối về thiết bị cũng như dành thời gian để nước muối mới pha thêm ngấu.

Hãy kiểm tra nhiệt độ nhiều lần một ngày suốt quá trình này, đặc biệt trong khi

đang bật đèn. Vặn lại bộ điều chỉnh nhiệt của máy nhiệt nếu cần thiết.

(76): Bước 5: Khi bể đã được kiểm tra khả năng rò rỉ và tất cả các thiết bị đã

được kiểm tra, nước ngọt nên được tháo bỏ, dùng ống xifon và hút ra. Đổ đầy bể trở lại

bằng nước muối pha trước hoặc đổ nước ngọt rồi thêm muối tổng hợp dùng cho bể cá

cảnh biển vào sau.

1. Ống xifon ½ inch

2. Nước muối

3. Tất cả các thiết bị tháo rời

Chú ý khi setup

Đá sống sẽ dùng để lấp đầy một khoảng không gian mà bạn mong muốn hơn là để đạt được yêu cầu về khối lượng riêng. Một lượng đá sống đặt lỏng lẻo và đạt xấp xỉ 1/3 dung lượng bể sẽ tạo ra một bộ lọc sinh học thích hợp. Thêm đá sống vào bể sẽ tạo ra các lựa chọn về bố cục thủy sinh và cung cấp thêm nơi trú ẩn cho cá.

Bước 6: Thêm đá sống vào bể

Khi độ mặn và nhiệt độ thích hợp đã được thiết lập thì đó là thời gian thích hợp để

thêm vào đá sống và có thể là cả chất nền. Thêm đá sống vào bể với nước muối vừa mới

trộn hoặc với nhiệt độ hoặc độ mặn không thích hợp có thể dễ dàng giết chết các vi khuẩn

có lợi hoặc các loại sinh vật khác trên đá sống. Đá sống sẽ tồn tại và phục hồi sau rất

nhiều chấn thương nhưng nếu bạn càng chăm chút cho nó thì nó càng phục hồi càng

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

nhanh và cho bạn thấy càng nhiều sự sống trên mình nó. Nếu bộ khung PVC được dùng

bên dưới cấu trúc đá sống (xem trang 69), bạn cần đặt nó vào vị trí trước đá sống. Ở thời

điểm này, chất lượng và các điều kiện của đá sống sẽ quyết định việc chất nền có được

thêm vào bể hay không và thêm vào như thế nào. Nếu chúng được vô trùng và nhúng kỹ

trong nước muối, bạn có thể xếp chúng vào bể và chất nền có thể được thêm vào ngay lập

tức. Nếu đá sống chưa được vô trùng và bạn chuẩn bị vô trùng nó bây giờ trong bể, bạn

có thể cho nó vào nhưng phải đảm bảo không cho thứ gì vào đáy bể. Trong suốt quá trình

vô trùng, một lượng cặn bã sẽ rụng ra khỏi hòn đá và được dễ dàng hút ra khỏi bể nếu

đáy bể không bị thứ gì che phủ. Sau khi thêm đá sống vào bể, loại bỏ lượng nước dâng

lên quá vạch định mức và sự trữ cho những lần thay nước sau.

(77): Bước 6: Khi nước muối đã được làm sạch và nhiệt độ, độ pH đã ổn định, đá

sống có thể được thêm vào. Đặt những mẩu to trước, đặt chúng trực tiếp lên đáy bể

(không có chất nền) và sắp xếp chúng như mong muốn, để lại một không gian thoáng

đãng để tiện cho việc làm sạch sau này.

Bước 7: Bắt đầu tạo bể cách ly

Vào thời điểm này, bể cách ly có thể bắt đầu được thiết lập. (Xem thêm trang 113)

Bước 8: Chu chuyển cho bể

Chu chuyển là một khái niệm cũ trong ngôn ngữ của bể cá mà ý nghĩa của nó là

hãy để tự nhiên thực hiên nhiệm vụ của nó. Trong suốt quá trình chu chuyển, các mầm vi

khuẩn nhờ được cung cấp nguồn thức ăn là chất thải nitơrat mà phát triển và lan rộng

khắp trong bể. Những con cá damsel khỏe mạnh và nguồn thức ăn cổ điển của chúng là

ammoniac trong bể mới có thể được dùng nhưng đá sống sẽ hoạt động tốt hơn nhiều. Quá

trình chu chuyển có thể được bắt đầu khi ammoniac được phát hiện ra trong nước, sau đó

tiến lên giai đoạn mà lượng ammoniac giảm xuống và nitơrit tăng lên. Ngay khi cả

ammoniac và nitrit (vẫn độc mặc dù ít nghiêm trọng hơn ammoniac.) giảm xuống tới mức

không thể phát hiện, bể được coi là đã chu chuyển và sẵn sàng để thả cá.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Quá trình chu chuyển có thể mất từ 1 – 8 tuần, phụ thuộc vào các điều kiện ban

đầu của đá sống. Với loại đá sống đã được vô trùng kỹ càng, chỉ có một lượng tối thiểu

ammoniac và nitrit sẽ xuất hiện (đôi khi là không có một chút nào) và hệ thống đã bắt đầu

sẵn sàng nhận đợt thả cá đầu tiên với lượng nhỏ.

Khi sử dụng đá sống chưa vô trùng hoặc chỉ được vô trùng một phần, thì quá trình

chu chuyển thường mất 3 – 4 tuần hoặc thậm chí có thể lên đến 8 tuần. Trong suốt quá

trình vô trùng đá sống, protein skimmer sẽ loại bỏ một lượng lớn vật chất và nó cần phải

được loại bỏ rác hàng ngày. Bằng chứng là khi quá trình vô trùng gần kết thúc thì lượng

vật chất được loại ra khỏi protein skimmer giảm xuống rất lớn. Một khi đá sống đã được

vô trùng và bạn không còn nhìn thấy (hoặc ngửi thấy) sinh vật chết nào nữa, thì nồng độ

ammoniac và nitrit trong bể sẽ giảm xuống còn không. Tuy nhiên, lúc này sự tập trung

nitrat có thể khá cao, và bạn nên thực hiện thay nước từ 25 – 50 % bằng nước muối đã

chuẩn bị trong vòng 3 đến 4 ngày để loại bỏ nước chất đầy dinh dưỡng ở mức nhiều nhất

có thể.

Bước 8: Trước khi thêm vào bất cứ vật nuôi nào, hãy dành thời gian cho phép hệ

thống chu chuyển, nghĩa là để cho các vi khuẩn có lợi phát triển cho tới khi các cuộc

kiểm tra nước cho thấy các thông số đọc được của ammoniac và nitrit đều bằng không.

Các chú ý khi setup

 Khi đặt đá sống vào bể, hãy xây dựng một cấu trúc vững chắc nhưng thoáng đãng để dành cho cá nhiều không gian bơi và cho phép dễ dàng loại bỏ các chất cặn bã trong suốt quá trình hút bằng xifon.  Chất đống đá sống hay xây các bức tường vuông vức như tường gạch đều không đẹp mắt. Nếu bạn băn khoăn về một bố cục thủy sinh trong bể, hãy xem các kiểu hình đơn giản tham khảo trên trang 68 tới 69 hoặc các bức tranh về những bãi đá ngầm thực sự.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Bước 9: Bố cục hoàn chỉnh

Ở thời điểm này đá sống cần được đặt vào vị trí cuối cùng nếu như vẫn chưa

làm bạn thỏa mãn. Như đã lưu ý ở trên, đá sống cần được đặt vào vị trí thoáng đãng nhất

có thể, với những đỉnh núi, các thung lũng, hang động trông thật tự nhiên. Cố gắng tránh

chất đống một cách đơn điệu các hòn đá vừa khít vào nhau, cá và các dòng nước cần phải

đi được qua cấu trúc đá của bạn. Thường thường bạn nên đặt những hòn đá to nhất xuống

trước để tạo ra một nền tảng vững chắc cho cả cấu trúc. Đá có hình dạng bất định sẽ khó

có thể sắp xếp trước nhưng các hòn đá tròn sẽ dễ dàng đặt vào. Dù bạn tạo ra cấu trúc nào,

nó cũng phải thật vững chãi, không có mẩu đá nào đặt lơ lửng hoặc những vùng bị lung

lay. Bất cứ thứ gì lỏng lẻo sau đó cũng sẽ rơi hoặc trượt (xem bố cục đá sống trang 68.)

(79): a. Nếu đá sống đã được vô trùng trong bể, thì đáy bể cần được hút hết các

chất mùn bã; khi chu trình nitơ hoàn thành có thể thêm vào chất nền là cát san hô

1. Chất nền cát san hô

b. Bước bố cục cuối cùng hay chính là bước thêm vào chất nền, nước trong hệ

thống sẽ thường nổi ván, một vấn đề hoàn toàn bình thường trong giai đoạn này; nó sẽ

sạch trở lại trong vòng một ngày

2. Tất cả các thiết bị đang vận hành

3. Làm trong nước

Khi bố cục đá sống đã hoàn thành, bạn có thể đặt một loại chất nền thích hợp

(Xem trang 82 - 85). Như đã nhắc nhở trước, một trong những cái lợi của việc sử dụng

khung nhựa PVC để hỗ trợ đá sống là những bộ khung này sẽ giảm các điểm chết tập

trung do tình trạng yếm khí trong chất nền bởi hầu hết trọng lượng của đá sẽ đè lên nó.

Chất nền cần được trải khắp mặt đáy với độ dày từ ½ tới 1 inch. Nếu các khu vực nhất

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

định không thể rải tới được, bạn cũng không cần lo lắng, bởi lũ cá và dòng nước cuối

cùng sẽ giúp trải đều khối chất nền này.

Nếu khi thêm chất nền, có một lượng nhỏ nào đó rơi lên đá sống, đơn giản bạn chỉ

cần dùng turkey baster để phủi chúng xuống. Chất nền sẽ rơi xuống phía trước nơi các

chất mùn bã có thể dễ dàng bị loại bỏ.

Sau khi chất nền đã được thêm vào, bể sẽ xuất hiện lớp váng dù cho công việc làm

sạch có kỹ càng đến đâu. Đó là do lớp bụi mịn ở tất cả các vật liệu làm chất nền. Các chất

cặn của cát san hô lơ lửng trong nước là hoàn toàn vô hại vào lúc này và chỉ cần lo lắng ở

một điểm là nó sẽ làm cho công việc tạo bố cục cho bể cá tiếp tục một cách khó khăn hơn.

Trong vòng 24 giờ, bể sẽ trong sạch và sau đó việc bố cục có thể được điều chỉnh khi cần

thiết để tạo sự ổn định và tính thẩm mỹ.

Khi đá sống và chất nền đã được đưa vào đúng vị trí, sẽ tốt hơn nếu không thả bất

cứ một con vật nuôi hay chất phụ gia nào vào bê trong ít nhất một tuần để giữ cho các

điều kiện trong bể ổn định trở lại. Thứ duy nhất cần phải thêm vào là nước ngọt để bù cho

lượng nước đã bốc hơi (kiểm tra qua vạch đánh dấu tạo ra ở bước 4).

Một thủ thuật cuối cùng dành cho những người không kiên nhẫn: nếu bạn thực sự

muốn có một cái gì đó để ngắm nhìn trong bể mới khi đá sống đang được vô trùng (chính

quá trình này cũng rất thú vị nếu bạn quan sát kỹ) và trước khi những điều kiện của nước

ổn định và những chú cá đã qua quá trình cách ly, hãy mua một cái bơm khí nhỏ, một

đoạn ống silicon và một cái burping clam hoặc những đồ chơi nước sinh động khác.

Nghiêm trọng hơn, nếu thả cá mới trước khi bể ổn định có thể dễ dàng làm bùng

phát dịch bệnh khó cứu chữa và có thể tạo ra hàng loạt các vấn đề. (Ở thời điểm này, bể

cách ly của bạn cần được đổ nước thêm và vận hành và bạn sẽ có thể ngắm những chú cá

đầu tiên tại đây.)

(80):

Danh sách các bước setup một bể chỉ có cá

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

 Đặt và làm phẳng giá đỡ, tạo sự Chuẩn bị hệ thống

sạch sẽ cho các điểm kết nối với Ghé thăm các cửa hàng cá địa phương

 Khảo sát các loại cá, bể, giá đỡ điện

 Tìm hiểu về sự kết hợp của các loài  Đặt bể vào vị trí hoặc đệm dưới cho

cá bạn muốn nuôi bể

 Hỏi về các lựa chọn cho bộ dụng cụ  Làm phẳng bể

bắt đầu nuôi cá biển và các lựa chọn  Lắp đặt các thiết bị vào trong bể

(không cắm phích) Xem xét các lựa chọn và thiết kế bể cá

 Đổ nước máy vào bể và các thiết bị của bạn

 Quyết định kích thước và vị trí của lọc

bể Khởi động hệ thống

 Lập danh sách các thiết bị Làm rỗng bể

cần/muốn mua  Đánh dấu một vạch bên ngoài góc

 Phác họa một vài ý tưởng cho kiểu bể phía sau bằng loại mực đánh dấu

không tẩy được để thể hiện mức hình của bể

 Giới hạn ngân sách về thiết bị và nước cố định và bạn muốn để trong

một bể với các thiết bị đang chạy vật nuôi

 Lập một bản kế hoạch viết tay đơn  Tắt tất cả các thiết bị

giản về hệ thống  Hút nước ngọt ra khỏi bể

 Xác định các giống cá được nuôi Đổ nước muối vào bể

 Đổ vào bể và các máy lọc bằng nước Mua thiết bị và phụ tùng

 Mua thiết bị muối pha sẵn (nếu thùng pha nước

 Đặt hàng hoặc dự trữ đá sống muối quá nhỏ và không phù hợp với

yêu cầu đổ ban đầu của bể, hãy trộn Setup và kiểm tra thiết bị

muối ngay trong bể) Chuẩn bị bể

 Làm sạch bể  Khởi động lại tất cả các thiết bị; điều

 Gắn phông bể chỉnh mức nước nếu cần

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

 Cho phép bể vận hành với các thiết bị  Kiểm tra các sản phẩm chất thải của

trong vài ngày (protein skimmer sẽ lôi protein skimmer (không có một loại

ra được ít hoặc chẳng một chút rác thải rác thải nào trong máy đánh bọt cho

nào từ bể nhưng sẽ có lợi ở chức năng tới khi muối và các sinh vật sống

oxy hóa nước bể và trao đổi khí) được thêm vào bể)

Kiểm tra các thông số nước Thùng trộn muối

 Nhiệt độ mục tiêu: 74 – 78 độ F (23 –  Vật đựng muối trộn có thể là một cái

thùng to, bể cá cũm thùng nhựa 26 độ C)

 Trọng lượng riêng định mức: 1,022 – sạch loại dùng đựng rác hoặc các

loại thùng chứa khác 1,026

 pH định mức: 8,1 – 8,3  Để cho muối tan trong vòng 24 tiếng

 Thêm nước ngọt vào khi cần thiết để với một cái máy sưởi và một máy

làm đầy nước đến vạch và bù cho bơm khí hoặc bơm nước nhỏ để tạo

lượng nước đã bay hơi và liên tục duy sự lưu thông; điều chỉnh trọng

trì độ mặn lượng riêng khi cần thiết

Thiết lập bể cách ly

 Tại bất cứ thời điểm nào trong

suốt quá trình chuẩn bị nhưng ít một cái bể cách ly nhỏ (xem trang

nhất 2 tuần trước khi mua bất cứ 113 - 115)

con cá nào, hãy setup Chuẩn bị đá sống

 Dỡ đã ra và nhúng vào nước muối

 Chải sạch đá và nhặt bỏ tất cả các Thực hiện việc kiểm tra trong nước

 Khởi động tất cả các thiết bị sinh vật đã chết hoặc đang chết, gồm

 Để cho bể chạy từ 24 – 48 tiếng cả bọt biển và thực vật

 Kiểm tra các vết rò rỉ  Đặt vào trong thùng chứa để vô trùng

 Kiểm tra nhiệt độ khi bật và không hoặc vào bể trưng bày với đáy bể để

bật đèn; điều chỉnh máy sưởi trống (xem phần bố cục bể cá bên

dưới)

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

 Thực hiện theo các quy trình vô trùng

(xem trang 62)

 Nếu vô trùng đá sống trong bể trưng

bày, chuẩn bị đủ nước muối trong

một thùng chứa bên ngoài để thay từ

25 – 50% nước

 Bắt đầu kiểm tra nitrat một tháng một

(81): lần

 Bằng việc giữ nồng độ nitrat dưới 10

Khi đá sống đã được vô trùng hoặc hầu ppm, sự phát triển của tảo gây hại có

hết các thành phần chết đã được thể được giữ ở mức tối thiểu; nếu nồng

độ nitrat vượt quá 20 ppm, hãy sửa

chữa lại (xem bên dưới)

Thực hiện thay nước

 Nếu đá sống đã được vô trùng trong bể

và nitrat ở mức cao, thay nước (có thể

loại bỏ, thực hiện tạo bố cục (xem bên lên đến 50%), dùng nước muối đã pha

dưới) và ngâm ngấu

Nếu bắt đầu bằng đá đã vô trùng và làm

 Tháo bỏ máy sưởi để ngăn không làm sạch hoàn toàn

 Giữ đá ẩm ướt với nền nhiệt trong vỡ bể

phòng (70 – 80 độ F) cho tới khi  Giữ mức nước thấp để khi cho thêm đá

được đặt vào bể sống vào không bị tràn (giữ nước muối

 Thực hiện theo các bước để bố cục bể thừa để cho những lần thay nước sau

(xem bên dưới) này)

 Đặt đá sống vào trong bể, tạo bố cục Bố cục thủy sinh cho bể cá

 Tắt tất cả các loại máy bơm mà bạn muốn; sử dụng khung PVC nếu

thích (xem trang 69)

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

 Kiểm tra độ lỏng lẻo của đá hoặc

những cấu trúc không ổn định mà có  Lặp lại việc thay nước nếu cần, cho tới

thể đẫn đến đổ hoặc làm xước bể hoặc khi nồng độ nitrat đo được thấp hơn 10

làm cho vật nuôi bị thương; tạo độ ổn ppm

định cho cấu trúc của đá. Thêm vào chất nền

 Chỉ cần khoảng ¼ - ½ pound cát san hô Để thời gian cho bể chu chuyển

 Chỉ để nước muối và đá sống trong bể, làm chất nền cho mỗi gallon bể là sẽ đủ

để cho bể vận hành từ 3 đến 8 tuần,  Nếu muốn, bạn có thể thêm một lượng

trong khi vẫn kiểm tra các nồng độ cát sống hoặc cát từ một bể cá cảnh

ammoniac, nitrit và nitrat biển khỏe mạnh và đã được thiết lập tốt

để cấy thêm vi khuẩn và vi sinh vật có Kiểm tra ammoniac

 Bắt đầu kiểm tra nồng độ ammoniac từ lợi

1 – 3 ngày sau khi thêm đá sống và tiếp Mua những con cá đầu tiên

tục kiểm tra 4 ngày một lần cho tới khi  Kiểm tra xem bể cách ly có vận hành

nồng độ ammoniac bắt đầu giảm tốt hay không

 Nếu bắt đầu bằng đá sống đã vô trùng,  Mua hai hoặc ba con cá theo kế hoạch

nồng độ ammoniac có thể đạt đỉnh vào của bạn cùng với một lượng thức ăn

ngày thứ 3 hoặc có thể không bao đo thích hợp

được  Nuôi cá trong bể cách ly khoảng 3 tuần

 Tiếp tục các cuộc kiểm tra nồng độ  Trị bệnh cho cá trong bể cách ly nếu

ammoniac cho tới khi đọc được thông cần

số bằng không (xấp xỉ ngày thứ 20)  Nếu cho cá sử dụng dược phẩm trong

bể cách ly, hãy tiếp tục kiểm tra thông Kiểm tra nitrit

 Bắt đầu kiểm tra nitrit khi nồng độ số về ammoniac hằng ngày

ammoniac giảm sau gần 8 ngày và tiếp  Kết thúc thời kỳ trong bể cách ly sẽ

tục kiểm tra ít nhất 4 ngày một lần trùng hoặc đến sau thời kỳ vô trùng đá

 Nếu không xuất hiện ammoniac, nitrit sống

có thể cũng không phát hiện được

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

 Sau quá trình nuôi trong bể cách ly, cá  Bắt đầu các công việc bảo trì phù hợp

sẽ ăn khỏe, lúc này hãy chuyển chúng (xem trang 123 - 131)

vào bể chính  Ghi lại vào sổ, bảng biểu các thông số

 Kiểm tra nồng độ ammoniac trong bể về nước, thả thêm vật nuôi, số lượng cá

trưng bày hằng ngày; thông số nhận chết

được sẽ phải bằng không; nếu thông số  Không nuôi hoặc cho ăn quá nhiều

tăng lên trên mức 0,2 – 0,4, hãy thay  Luôn vận hành bể cách ly

nước một phần và giảm lượng cho ăn

cho tới khi nồng độ bằng không

Thả thêm cá

 Tiếp tục kiểm tra nitrit cho tới khi nồng

độ nitrit đọc được là bằng không

(khoảng ngày thứ 21)

Kiểm tra nitrat

 Bắt đầu các cuộc kiểm tra nitrat sau khi

các thông số về ammoniac và nitrit đã

không còn phát hiện nữa (khoảng ngày

thứ 21); sự có mặt của nitrit sẽ đưa ra

thông số sai lệch cao về nitrat

 Các cuộc kiểm tra sẽ cho thấy sự sụt

giảm trong nồng độ nitrat khoảng ngày

thứ 45

 Nếu nồng độ ammoniac không tăng,

các loại cá (sống hòa hợp với những

con đã thả) có thể thêm vào sau khi đã

qua thời kỳ sống trong bể cách ly

Giữ cho hệ thống phát triển khỏe

mạnh

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

(82):

Cát sống: khai thác từ bãi đá ngầm hoặc tự nuôi trồng

Có lẽ loại chất nền có tầm quan trọng đặc biệt với hầu hết các nhà chăm sóc cá

cảnh biển đó là “cát sống”, thứ cát được khai thác từ các rạn san hô và vận chuyển ẩm để

bảo tồn lượng lớn vi khuẩn và các loại động vật không xương sống ở dưới đáy (sinh vật

đào cát) có lợi. Được tạo ra từ phần vỡ vụn của san hô, vỏ sò và các bộ xương đá vôi, cát

sống hiện tại đang được thu hoạch từ bờ biển Florida, vinh Mêhicô và quần đảo Fiji.

Đá sống chất lượng tốt có chứa nhiều vi khuẩn, động vật giáp xác, bộ chân kiếm,

động vật thân mềm vùi cát và nhiều động vật không xương sống đào cát và sống dưới đáy

khác, đặc biệt là trùng lông cứng. Hiện đang nảy sinh trào lưu nuôi những con trùng lông

cứng này trong bể san hô, vừa để hỗ trợ việc phân giải các chất thải và vừa mang lại một

nguồn cung liên tục các loại thức ăn sống nhỏ cho cá nuôi trong bể.

Đã có nhiều báo cáo cho rằng cát sống có thể giúp giảm hàm lượng nitrat. Để đạt

được điều này đòi hỏi phải có một lớp nền nhân tạo bên dưới để đẩy độ dày của lớp nền

cát lên tới xấp xỉ 4 inch so với đáy, tạo ra một khoảng trống nước đọng (dày xấp xỉ 1 inch)

bên dưới chất nền (gần giống như tấm đệm dưới của bộ lọc đệm, nhưng không có các

dòng nước hoạt động ở khoảng không bên dưới lớp đệm.)

Cái này thường được gọi chung là hệ thống Jaubert sau khi phương pháp của tiến

sĩ Jean Jaubert được tuyên dương ở Monaco Aquarium. Hệ thống dường như làm việc rất

tốt dưới các bóng đèn bioload và không phải tất cả người chơi đều thành công với

phương pháp mới này. Một số người chơi còn chứng minh được rằng cát sống có thể

được tận dụng bằng cách dải trực tiếp xuống đáy bể mà không cần có khoảng nước tù và

vẫn có tác dụng giảm hàm lượng nitrat xuống chỉ bằng không. (Thậm chí chỉ một lớp nền

cát sống dày ½ inch cũng cho thấy một vài lợi ích trong việc giảm hàm lượng nitrat.)

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Một vấn đề đó là làm thế nào để có cát “sống” thực sự. Trong rất nhiều trường hợp,

cát sống vận chuyển và dự trữ quá nóng hoặc quá lạnh hoặc vận chuyển đường dài khó

tránh khỏi sẽ “chết”. Giờ đây, một số người chơi thích bắt đầu với một số lượng lớn cát

san hô mới (khô) và trộn nó với một số lượng nhỏ (0,5 – 1 kg) cát sống chất lượng cao –

hoặc cát từ một bể san hô khỏe mạnh đã được thiết lập.

Cũng như nhiều loại chất nền khác, cát sống chỉ nên được đặt vào bể sau khi đá

sống đã được vô trùng và đặt trong bể. (Lượng ammoniac quá tải từ quá trình vô trùng đá

sống có thể giết chết những sinh vật mỏng manh trong cát). Sau đó cát nên được rải lên

đáy bể xung quanh đá sống với độ sâu khoảng ¾ inch. Không nên để đá đè lên cát vì như

vậy sẽ tạo điều kiện hình thành những vùng chết (yếm khí) và giải phóng ra khí hidro

sunfua độc.

Những người chơi thành công với cát sống khuyên rằng nên thêm những con vật

đào cát vào trong bể. Những con vật này giúp loại bỏ những mảnh vụn lắng lại dưới cát

và liên tục khuấy cát lên giúp cho nó khỏi bị rắn lại. Việc này làm giảm khả năng hình

thành các điểm chết. Các sinh vật biển có khả năng thực hiện nhiệm vụ quan trọng này có

các loài cá bống, ốc mượn hồn và sao biển,…(Khi không có các sinh vật đào cát, người

chơi có thể thỉnh thoảng dùng một chiếc que nhựa nhẹ nhàng khuấy lớp cát nền để làm

tan những chỗ bị vón cục.)

Cát sống cũng có thể trợ giúp trong việc làm đệm cho nước trong bể mà vẫn cung

cấp chỗ trú ẩn cho cá thích vùi mình. Khi xem xét sự thay thế các chất nền, cát sống sẽ

được xem như là một lựa chọn tốt nếu có sẵn một nguồn vật liệu chất lượng tốt.

Tuy nhiên, đối với hầu hết những người chơi mới, một loại chất nền khô với chất

lượng tốt có nguồn gốc từ san hô – như cát san hô, cát từ bãi đá ngầm, mảnh san hô vỡ

hoặc aragonite sẽ đáp ứng yêu cầu. Vừa hay, chúng sẽ tích tụ một lượng sinh vật giống

như trong cát sống, đặc biệt nếu có đá sống chất lượng tốt.

Về chất nền

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Chất nền trong bể cá biển là một yếu tố đặc biệt quan trọng khi bạn sử dụng

phương pháp lọc bằng bộ lọc đệm. Nếu quá mịn, chúng sẽ trôi tự do bên dưới bộ lọc đệm;

quá thô chúng sẽ không thể gặn lại các chất cặn bã hiệu quả. Trong khi đó, chất nền được

chọn trong một hệ thống có đá sống sẽ đóng một vai trò quan trọng trong thành công lâu

dài của bể cá nhưng sẽ không còn là nhân tố quyết định nữa.

Mặc dù đá sống đang được sử dụng thì chất nền vẫn cung cấp một lôcốt cho các

loại vi khuẩn sinh sống. Cũng như việc đá sống duy trì được sự xâm nhập của vi khuẩn

nitrat hóa, chuyển đổi khí ammoniac độc sang dạng ít độc hơn là nitrat, chất nền cũng có

tác dụng như vậy. Trong một bể cá, số lượng vi khuẩn càng lớn, khả năng mà nó sẽ vượt

qua các rắc rối do các vấn đề như cái chết đột ngột của cá, cho ăn quá nhiều, nuôi quá

nhiều sẽ càng lớn. Chất nền có thể cung cấp một diện tích bề mặt lớn cho sự xâm nhập

của vi khuẩn, phụ thuộc vào việc sàn bể được che phủ nhiều hay ít cát.

Một đóng góp nữa của chất nền là nó giúp làm đệm cho nước. Việc phân giải các

chất có chứa protein trong bể thông thường sẽ làm ảnh hưởng tới nồng độ pH trong bể,

làm cho nước bị axit hóa qua thời gian, nhưng loại chất nền được chọn sẽ có tác dụng làm

đệm hoặc trung hòa cho nước khi nồng độ pH giảm xuống. Vì lý do này, chất nền được

dùng sẽ có tỷ lệ lớn canxi cacbonat (một hợp chất mang tính kiềm) trong thành phần của

nó. Lựa chọn đơn giản nhất là cát có nguồn gốc từ xương san hô, thường được bán với

các dạng cát ngầm, mảnh vụn san hô hoặc aragonite. Đó là tất cả những chất đệm như

một dạng của đá vôi và sẽ là chất đệm tốt cho bể cá: khi các axit hữu cơ trong bể sản sinh

ra, chúng sẽ phản ứng chất nền một cách chậm chạp (thường là thời gian cả năm) và liên

tục điều hòa nồng độ pH trong bể.

Chú ý khi setup

Luôn thêm chất nền (cát san hô) vào bể sau khi cấu trúc đá sống đã được

xây dựng trực tiếp trên sàn bể. Các sinh vật đào cát có thể làm sập mô hình đá sống đặt chèn lên nền cát.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Sandbox hay play sand sẽ không có chỗ trong bể cá biển. Nó có chứa silic và sẽ

tạo nguồn sống cho tảo cát nâu, sự phát triển các lớp váng và sẽ có xu hướng vón cục và

hình thành các khu vực yếm khí, dẫn đến việc sản sinh khí độc hydro sunfua. Chọn lựa

chất nền phù hợp sẽ giúp giữ ổn định cho bể, tăng tuổi thọ cho các cư dân trong bể.

10 lỗi phổ biến khi setup

1. Sự kiên nhẫn: đổ nước muối và khởi động các thiết bị trước khi: giữ bể thăng bằng; kiểm tra các dấu vết rò rỉ; kiểm tra tất cả các thiết bị và các ổ cắm. 2. Sử dụng nước muối tổng hợp quá sớm sau khi pha. 3. Đặt đá sống quá gần với tường bể, làm cho công việc lau dọn dường như trở nên khó khăn hoặc hầu như không thể. 4. Chồng đá sống lên giống như xây một bức tường hơn là một cấu trúc mở và tự nhiên. 5. Không vô trùng đá sống trước khi thả cá vào bể. 6. Không dành thời gian để bể “chu chuyển” và để cho các vi khuẩn sinh sôi. 7. Không cách ly những con cá mới. 8. Thả quá nhiều cá quá sớm. 9. Không thả động vật ăn cỏ (các loài động vật lau dọn) vào bể ngay khi các tảo váng xanh bắt đầu xuất hiện. 10. Thêm đá sống chưa được vô trùng vào bể sau khi đã thả cá.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Bể cá cơ bản đặt bàn hay một hệ thống dành cho người chơi mới bắt

đầu

Các vật liệu cơ bản

 Bể thủy tinh 15 – 20 gallon

 Bóng đèn gắn kèm và tấm che bằng thủy tinh hoặc mái che

 Máy lọc điện treo ngoài (tốc độ lọc 100 – 300 gallon/giờ) cùng với media lọc cơ

(vải lọc hoặc miếng xốp để giữa lại các mảnh vụn) và có ngăn chứa than hoạt tính.

 Quạt tạo luồng nhỏ (100 – 200 gallon/giờ)

 Đá sống đã vô trùng (10 – 15 cân Anh)

 Cát san hô (5 – 10 cân Anh)

 Máy sưởi 50 wat

 Nhiệt kế

 Muối biển tổng hợp

 Lưới

 Giẻ lau

 Ống xifon và bộ lọc sỏi

Lựa chọn cá (tổng số 3 – 5 con)

 1 – 2 con cá chú hề Ocellaris hoặc Percula (Amphiprion ocellaris; A. percula)

Hoặc 1 con cá thiên thần Cherub (centropyge argi)

Hoặc 1 con jawfish (Family Opistognathidae)

Hoặc 1 con cá Damsel xanh đuôi vàng (Chrysiptera parasema)

Phần dư:

 1 con Royal Gramma (gramma loreto)

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Hoặc 1 con Orchid, Springer’s, hoặc Sankey’s Dottyback (Pseudochromis fridmani;

P.springeri; P.sankeyi)

Hoặc 1 đến 2 con Golden hoặc Canary Wrasses (Halichoeres chrysus)

Lựa chọn động vật không xương sống

 1 – 2 con tôm lau dọn thông thường (Lysmata amboinensis)

Hoặc 1 con tôm Banded Coral (Stenopus hispidus)

Hoặc 3 – 5 con tôm peppermint (Lysmata Wurdemanni)

Phần dư: (tất cả đều tùy chọn)

 1 con sao biển (Class Ophiuroidea)

 1 con ốc mượn hồn nhỏ (Section Anomura)

 1 – 5 con trùng feather duster (Families Serpulidae & Sabellidae)

 3 – 5 con ốc sên vỏ sao (Lithopoma [Astraea] spp.)

Nâng cấp

 Bóng huỳnh quang đôi

 Máy đánh bọt treo

 Đồng hồ hẹn giờ chiếu sáng

Cảnh báo: Kiểu setup bể này sẽ chỉ thành công với sự phòng ngừa và chăm sóc thường

xuyên như sau:

 Không thêm những con cá thừa.

 Không cho ăn quá nhiều.

 Không thêm những loại động vật không xương sống có khả năng quang hợp như

san hô, hải quỳ.

 Thay lượng nước bị bốc hơi bằng nước ngọt đã được để ngấu và khử nitơ ít nhất là

cách nhật.

 Thay 5 – 10% tổng lượng nước bằng nước muối mới pha, ngâm ngấu mỗi tuần.

 Kiểm tra và điều chỉnh trọng lượng riêng, nhiệt độ, và các điều kiện của media lọc

hàng tuần.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

 Thay thế than hoạt tính hàng tháng.

 Làm theo các quy trình về bảo trì (trang 123 - 131)

(84): Bể cá cảnh biển để bàn 20 gallon cơ bản, với yêu cầu nuôi ít hơn và các bảo trì

cẩn thận hơn các hệ thống lớn)

Cùng với việc cung cấp nơi cho vi khuẩn xâm nhập và trung hòa nước bể, chất nền

còn mang rất nhiều những chức năng quan trọng khác. Đầu tiên, về mặt thẩm mỹ, bạn

sẽ thích thú hơn khi nhìn vào một bể có chất nền. Trong khi một số bể cá vẫn để đáy

bể trống trơn, với hầu hết chúng ta những bể cá ấy trông giống những chiếc bể thí

nghiệm hơn là bể cá cảnh trong nhà. Cùng với việc làm cho bể trông tự nhiên hơn,

chất nền còn làm cho các loài động vật trong bể khỏe mạnh hơn. Một vài loài cá như

là wrasse, jawfish và cá bống đòi hỏi phải có chất nền như là thói quen tự nhiên của

chúng: wrasse chôn mình trong chất nền để ngủ hoặc khi bị đe dọa; jawfish và một

loài cá bống đào nhà của chúng ở đó.

Có một vài đặc điểm khác cần được xem xét khi lựa chọn chất nền. Nó không

được phép quá to cánh để còn giữ lại được các chất cặn bã. Nó cũng không được phép

quá mịn bởi nó sẽ có xu hướng rắn lại và trở nên yếm khí, hình thành các túi khí

hydro sunfua độc hại. Nó nên ở cỡ trung bình và các hạt đều nhau nếu không các rãnh

sẽ hình thành khi các mẩu nhỏ bị kẹt giữa các mẩu lớn, tạo ra các vùng yếm khí. Các

hạt chất nền hình cầu sẽ làm giảm các rãnh và tăng diện tích bề mặt tiếp xúc lên cực

đại. Các dạng chất nền hình tròn này, tiêu biểu là các hạt cát ngầm hoặc mẩu san hô

vỡ cũng làm giảm khả năng có các cạnh thô có thể làm xước hoặc cào vào cá khi

chúng tiếp xúc với các vật liệu gần dưới đáy.

Theo kinh nghiệm của tôi, các hạt chất nền có đường kính xấp xỉ 1/8 inch (2 mm)

sẽ tạo ra diện tích bề mặt tiếp xúc là lớn nhất và ít khả năng bị vón cục cũng như tích

tụ các chất cặn nhất. Loại chất nền mà đáp ứng mọi yêu cầu đó chính là cát san hô

(aragonite). Những lựa chọn tốt nhất tiếp theo đó là chất nền vỡ ra từ vỏ sò hoặc đá

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

vôi. Những loại chất nền chứa đá vôi và có nguồn gốc từ biển này tốt hơn rất nhiều so

với đôlômit (canxi magie cacbonat), loại đôi khi vẫn được gợi ý bởi giá của nó rất rẻ.

Cát sống cũng là một lựa chọn của chất nền (xem trang 82), mặc dù hầu hết những

người sở hữu bể cá mới thuộc kiểu hình bể chỉ có cá sẽ được hưởng các lợi ích một

cách hoàn hảo nhất từ việc sử dụng chất nền từ những hạt cát san hô khô cơ bản.

Khi đã lựa chọn một loại chất nền, câu hỏi tiếp theo đó là mua bao nhiêu. Hãy mua

một lượng đủ để tạo ra một nền cát dày khoảng 1 inch hoặc khoảng từ ¼ đến ½ pound

chất nền khô trên mỗi gallon. Độ dày này có thể tăng lên hoặc giảm đi phụ thuộc vào

loại sinh vật mà bạn nuôi. Nếu bạn nuôi các loài như wrass, cá bống hoặc các sinh vật

đào hang khác, bạn có thể cần phải tạo ra một lớp chất nền sâu hơn. Tuy nhiên, nếu

bạn nuôi những loài cá ăn thịt lớn và thải ra lượng chất thải lớn thì tốt hơn hết là hãy

sử dụng một lớp chất nền nông hơn để các chất mùn bã có thể dễ dàng được lọc ra

ngoài.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Chương 5

CHỌN CÁ

Hướng dẫn gây dựng một bể cá cộng đồng

Trong thế giới tự nhiên, nhiều con cá được cá nhà chơi cá biển ưa thích lại cực kỳ bạo lực,

chúng bảo vệ lãnh thổ của mình trong các bãi đá ngầm để chống lại mọi kẻ xâm phạm.

Những con cá khác tuy không bạo lực thì lại là loài ăn cá, sống bằng cách ăn những con

cá nhỏ hơn. Nhiều loài cá lại quá yêu mến nơi cư trú của chúng trong các bãi đá ngầm

hoặc các nguồn thức ăn đến nỗi chúng sẽ chết dần khi bị nuôi nhốt.

Làm thế nào để lựa chọn loài phù hợp?

Với nhiều người mới chơi, việc lựa chọn giữa hàng trăm loài phổ biến được tìm

thấy trong các cửa hàng cá vừa thú vị lại vừa gây bối rối. Thật không may là chuyện mua

nhầm cá hoặc kết hợp nhẩm đã là chuyện hết sức phổ biến. Để cứu những đồng đôla khỏi

bị lãng phí và để ngăn những cái chết oan của các con giống, bạn cần phải quyết định một

vài lựa chọn cơ bản trước khi mua dù chỉ một con cá. Tìm hiểu về kiểu hình cộng đồng

mà bể cá của bạn sẽ chứa hoặc các loài là điểm nhấn có thể giúp ích rất nhiều trong việc

đưa ra quyết định nuôi với tất cả các con giống.

Hoạt động cân bằng

Có một sự thật mà nhiều người mới bắt đầu chơi không biết đó là: một bể cá với những

con giống khỏe mạnh, “hạnh phúc” sẽ dễ nuôi và vui mắt hơn nhiều một bể cá mà liên

tục đánh nhau, rách vây và những con cá cứ dần biến mất, bị tàn phá dần.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Chương này là một cố gắng nhằm trình bày những lựa chọn tốt nhất cho những

người mới chơi và để giúp những người mới gia nhập tránh những lỗi cũ mà nhiều người

đã từng mắc phải. Tôi hữu hình hóa ba nhân tố quan trọng trong việc chọn cá, coi như ba

tiêu chuẩn chất lượng có liên quan:

Sự cạnh tranh

Kích thước sự khỏe mạnh

Bên trái: yellow tang (Zebrasoma flavescens) là một trong những loài cá biển được yêu

thích nhất. Bên trên: chọn cá từ bể trưng bày của nhà bán lẻ.

Tính cạnh tranh và kích thước

Do tính bạo lực tự nhiên của hầu hết các loài cá biển, việc chọn loài nào để cùng nuôi

trong một bể lúc đầu sẽ cần phải kết hợp xem xét cả mức độ cạnh tranh và kích thước của

cá được chọn.

Ví dụ, tuy cá damsel là một loài cá nhỏ, nhưng thỉnh thoảng chúng cũng dễ nổi

quạu như bất cứ loài nào trong bãi đá ngầm. Với đặc tính hay gây gổ tự nhiên của mình,

chúng nhìn chung không phải là bạn đồng hành tốt cùng với các loài cá nhỏ và hiền lành

hơn như các loài cardinal, cá bống nhưng chúng lại có thể giữ mình trước những loài cá

cạnh tranh khác, trong đó có cả những loài cá lớn. Tuy nhiên, chúng không thể sống

chung với các loài cá lớn ăn thịt như cá sư tử hay cá cá mú bởi những con vật này có thể

dễ dàng biến damsel thành một bữa tiệc và đức tính hay gây gổ của chúng chẳng còn ý

nghĩa gì với một kẻ săn mồi tập trung với cái bụng đang trống.

Khi xem xét nên thả loài cá nào vào một bể cá cảnh biển, tôi thích nhóm các sự

lựa chọn vào một trong bốn nhóm sau:

1 Cạnh tranh chậm

2 Cạnh tranh nhanh

3 Cạnh tranh vừa phải

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

4 Ngoan ngoãn

Những loài cạnh tranh chậm bao gồm các loài cá ăn thịt lớn, đáng chú ý có các loài cá

mú, cá sư tử, cá chình moray và các loài khác.

Các loài cạnh tranh nhanh trong hệ thống của tôi thường không phải là loài ăn

thịt đồng loại trong bể nhưng lại có thể trở nên rất hung hăng khi tranh giành thức ăn

hoặc chỗ ở. Những loài cá như vậy bao gồm cá trigger, các loài tang lớn, cá thiên thần

lớn và các loài wrasse lớn.

Một lượng đáng kể các loại cá nuôi trong bể của người chơi cá cảnh biển thuộc

loại cạnh tranh vừa phải. Nhóm này bao gồm cá thiên thần dwarf, dottyback và hầu hết

các loài wrass, cá chim ưng, cá damsel và các loài khác. Một vài loài trong số này rất

nhanh nhẹn nhưng chúng bị xếp vào nhóm này bởi chúng nhỏ hơn và có xu hướng chiều

theo những con cá lớn trong nhóm trước.)

Nhóm những con ngoan ngoãn bao gồm những con cá hầu hết đều không thích

gây gổ và ăn uống với phong cách chậm, không cạnh tranh. Chúng không thích hợp với

các cuộc cạnh tranh thức ăn ở cự ly gần và chỉ thích hợp để nuôi với những loài không

cạnh tranh. Thành viên của nhóm cá này bao gồm cá mandarin, cá lửa, cá có hàm, cá

bống nhỏ và một số loài khác. Biểu hành vi (trang 89) liệt kê xếp hạng của tôi về các loài

cá biển phổ biến và độ cạnh tranh tương ứng của chúng.

Nguyên tắc dùng thời gian kiểm nghiệm là để tránh sự xáo trộn giữa những thái

cực (con nhỏ với con to, cạnh tranh với không cạnh tranh) trong các bể cá cộng đồng.

Hãy quyết định sớm xem bạn sẽ sở hữu một bể cá với nhiều cá nhỏ, đầy màu sắc hay một

bể cá với vài con cá to, tính cách hung tợn hoặc thậm chí là bể chỉ có một con duy nhất

(xem phần Những bể chơi mới thiết lập, trang 99).

Nói chung, các loài cá trong cùng một nhóm trong biểu đồ sẽ phù hợp hơn với các

thành viên trong cùng nhóm mặc dù đôi khi chúng có thể được nuôi chung với những con

ở nhóm cận trên hoặc cận dưới. (Cần nhắc lại rằng, những con cá ngoan ngoãn mà không

thể cạnh tranh để lấy thức ăn và không gian sống với các con cá cạnh tranh hơn thường

chỉ được nuôi cùng với những con thuộc nhóm ngoan ngoãn.)

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Một vài nhóm chứa các thành viên phù hợp với nhiều hơn một nhóm. (Ví dụ một

vài con dottyback có thể là loài cạnh tranh nhanh ví dụ như Australian Dottyback

[Ogilbyina novaebollandiae]; những con khác chỉ là cạnh tranh vừa phải, ví dụ như loài

Pseudocbromis). Vì thế, những nhóm này có chút gì đó hơi tùy ý nhưng được xây dựng

lên để cung cấp một khuôn mẫu trong sự cố gắng kết hợp các loài có hành vi giống nhau

vào với nhau. Ở đây cũng có nhiều ngoại lệ, và cần phải chú ý rằng thi thoảng một con

giống cá biệt có thể trưng ra một kiểu hành vi cực kỳ khác thường: như khi một con cá

bống có thể tấn công tất cả các con cùng bể nuôi. Vì thế cần phải có phán đoán sắc sảo và

sự quan sát tinh tường ngay cả khi đã nhận biết nhóm hành vi của con vật. Khi mua một

con giống mới, hãy luôn kiểm tra độ cạnh tranh, kích thước tiềm năng và khả năng kết

hợp của nó trong bộ sưu tập các loài cá thú vị của bạn.

Sự khỏe mạnh

Sự khỏe mạnh là một cụm từ mang tính kỹ thuật trong nghề làm vườn, khi một

loài thực vật thường được miêu tả là khỏe mạnh trong một khu vực địa lý hoặc một nền

nhiệt độ nhất định. Cá biển nhìn chung được đánh giá mức độ khỏe mạnh dựa vào hàng

loạt tiêu chí lớn khác nhau: khả năng phục hồi khỏi những stress khi khai thác, vận

chuyển; khả năng thích nghi với các điều kiện của bể cá; mức độ sẵn sàng chấp nhận các

loại thức ăn đã chuẩn bị, khả năng tồn tại trong những tình huống bất lợi. Những người

mới chơi sẽ có cơ hội thành công lớn hơn nhiều với các loài nhìn chung được đánh giá là

khỏe mạnh hoặc bền sức. (Hãy hỏi những người chơi thành thạo hoặc nhân viên cửa hàng

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

bể cá hoặc tham khảo một tài liệu tin cậy về các loài cá sống trong rạn san hô.)

Mật độ nuôi thả

Cùng với việc chọn các loài cá phù hợp để nuôi kết hợp với nhau, việc xác định mật độ

nuôi thích hợp để không gây quá tải trong bể có vai trò cực kỳ quan trọng. Đó là vì sao

dù bạn có chọn được một nhóm cá tốt, hệ thống lọc bể cũng phải xử lý được lượng thải ra

nếu không bể sẽ thất bại. Trong những bể cá được lắp đặt bộ lọc đệm dưới và được trang

trí bằng san hô chết, đây là vấn đề cực kỳ quan trọng. Thật may mắn, phương pháp lọc sử

dụng đá sống hoặc protein skimmer cho phép bạn nuôi một lượng lớn cá mà không để bộ

lọc sinh học trở nên quá tải. Rắc rối dễ xảy ra ở sự cạnh tranh giữa các loài cá - hậu quả

của sai lầm trong việc chọn nuôi hơn là ở dung lượng lọc không phù hợp trong hệ thống

như thế này.

Một quy tắc cũ khi nuôi thả trong một hệ thống cá cảnh biển đó là 1 inch chiều dài

của cá cho 5 gallon nước. Đây là quy tắc khá đại khái và khá tùy tiện và thường bị bỏ qua

vì đơn giản nhiều khi nó không có ý nghĩa: một con cá mú 5 inch sẽ thải ra lượng chất

thải nhiều hơn rất nhiều so với 5 con cá damsel 1 inch. Một hệ thống có đá sống sẽ có

biên độ dao động khá lớn trong giới hạn nuôi. Tôi sẽ gợi ý một mức sơ sơ là 1 inch cá

cho 2 gallon nước bể. Rõ ràng là càng nuôi ít cá thì biên độ dao động của giới hạn an toàn

càng lớn.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Tuy vậy, mỗi bể cá có giới hạn riêng của nó. Nếu một bể nuôi quá nhiều, một biến đổi

nào đó như bệnh tật hay sự cạnh tranh dẫn đến cái chết của những con giống yếu hơn sẽ

đưa số lượng cá và sức chứa sinh học của hệ thống ở vào thế cân bằng. Tuy bể chạy vẫn

ổn khi vận hành bình thường nhưng một hệ thống nuôi quá nhiều sẽ tàn phá nhanh hơn

nhiều khi có sự cố về điện. Nuôi quá nhiều công thức của phiền toái và hệ thống sinh thái

mà bạn tạo ra, dù to hay nhỏ cuối cùng sẽ trải qua nhiều vấn đề do nuôi quá nhiều. Rõ

ràng, mọi thứ đều sẽ ổn hơn khi giữ mật độ của cá trong những giới hạn hợp lý.

Những người mới chơi nhìn chung phải học bài học này một cách khó khăn. Thả

quá nhiều con giống hoặc nuôi những loại cá phát triển kích thước vượt trội so với kích

thước bể là những lỗi thường gặp. Vì thay thế cá chết liên tục không phải là cái đích của

nghề nuôi cá, chúng ta đều phải tuân thủ một số quy tắc và tránh sự quyến rũ của việc

“chỉ thêm một con nữa thôi”.

CÁ DÀNH CHO NGƯỜI MỚI BẮT ĐẦU

Gần như bất cứ một loại cá biển nào mà có yêu cầu về chế độ ăn và không gian dễ dàng

phù hợp với các loại thức ăn tiêu chuẩn và một cái bể có kích thước hợp lý thì đều là loại

cá phù hợp cho những người mới gia nhập vào thú chơi. Tuy nhiên có một số họ cá sẽ

thích nghi dễ dàng hơn với môi trường giam giữ hơn những nhóm khác. Bởi ít người mới

chơi có những cái bể lớn hơn 100 gallon nên hầu hết việc nuôi các loài cá lớn sẽ phải gác

lại. Dù rất nhiều trong số này có sẵn giống và nhìn chung sẽ dễ nuôi khi còn nhỏ nhưng

cuối cùng thì chúng lại lớn quá sức tải của bể. Nếu lúc đầu bể nuôi cá nhỏ thì sẽ đến một

ngày chúng sẽ tiêu thụ cả những người bạn của mình. Tôi khẩn thiết khuyên bạn rằng

đừng bao giờ nghĩ đến chuyện mua một con cá có kích thước to lớn tiềm năng như cá mú,

cá mập, cá chình, cá thiên thần lớn và cá trigger nếu chúng có khả năng sẽ lớn vượt trội

cái bể của bạn và bạn chẳng có cái bể nào nữa đang trong trạng thái chờ đợi và sẵn sàng

cho chúng. (Các bể cá công cộng sẽ từ chối những lời chào bán những con cá to lớn

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

nhưng một vài nhà bán lẻ sẽ mang về những con cá lớn và khỏe mạnh “theo ký gửi”. Hãy

hỏi về chính sách của họ trước khi mua. Trong nhiều trường hợp, người chơi sẽ không bù

đắp lại được giá ban đầu khi mua cá và sẽ đơn giản kết thúc bằng lòng cảm ơn vì đã tìm

ra được ngôi nhà mới cho con vật của mình.)

Thật may là có hàng trăm các loài cá rất khỏe mạnh và hấp dẫn trong các bãi đá

ngầm mà vẫn còn có kích cỡ tương đối nhỏ. Những danh sách đính kèm theo chương này

đã trình bày một vài lựa chọn tốt nhất cho một người mới bắt đầu chơi cá cảnh biển. (Một

vài nhóm được liệt ra như là seahorse, pipefish không có các giống được khuyên dành

cho người mới chơi. Chúng được liệt ra trong đó bởi chúng rất hấp dẫn với người mới

chơi nhưng do những yêu cầu đặc biệt về chăm sóc, nhưng chúng cần được tránh cho tới

khi bạn đạt đến một trình độ nuôi cá với chuyên môn cao hơn.)

Rõ ràng là có nhiều loài khác thích hợp hơn nhưng những con được liệt ra bên

dưới đây đã lựa chọn ra một bộ sưu tập dành cho người mới bắt đầu rất hấp dẫn mà nhìn

chung là sẵn có và đã được minh chứng là những kẻ tồn tại khỏe khoắn với nhiều người

chơi.

MORAY EEL

Họ Muraenidae

Moray eel khỏe mạnh và thú vị, chúng có thể sống tốt dù với sự chăm sóc của một

người mới chơi. Thật không may là nhiều loài phát triển quá lớn với hầu hết các bể cá.

Thậm chí một loài rất phổ biến và thường có kích thước nhỏ là Snowflake Moray

(Ecbidna nebulosa) cũng sẽ lớn quá khổ so với một bể cá cỡ trung bình sau một vài năm.

(Chỉ riêng loài cá chình có thể sống tốt trong một cái bể cỡ 30 – 40 gallon nhưng nó sẽ là

quá lớn với một cái bể cộng đồng cùng kích cỡ.) Trong thời gian ngắn, một con cá chình

sẽ rất thú vị nếu được thả thêm vào nhưng hãy chuẩn bị để di chuyển nó hoặc nâng cấp

tới một cái bể lớn hơn khi nó bắt đầu bước vào tuổi trưởng thành. (Hãy kiểm tra kỹ kích

thước tiểm năng của bất kỳ một con cá chình loại nào mà bạn đang xem xét.)

Moray eel thông thường có thị lực kém nhưng lại có khứu giác phi thường, do vậy

chúng cần được cho ăn trực tiếp trong bể nếu không những con cá nhanh hơn trong bể sẽ

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

tranh hết thức ăn của chúng. Phương pháp tốt nhất là cắm một mẩu tôm hoặc móc nó vào

gậy cho ăn và đặt nó gần hang của cá chình hoặc lắc lư nó cho tới khi cá chình nổi lên để

ăn. (Không nên cho ăn bằng tay)

Bể nuôi moray eel phải được bịt kín hoàn toàn – những con vật mảnh mai này sẽ

trốn thoát khỏi bể dù qua một khe hở rất nhỏ chỉ để nằm chết khô trên sàn. (Những con cá

chình như vậy đôi khi sẽ hồi lại khi được cho vào nước kịp thời thậm chí ngay cả khi

chúng trông rõ ràng là đã chết.)

Giới thiệu một số loài (chọn những con cá nhỡ): Snowflake Moray (Ecbidna

nebulosa); Whitemouth Moray (Gymnothorax meleagris); Whitelip Moray

(Gymnothorax chilospilus); Jewel Moray (Muraena lentiginosa).

(90): 1. White mouth Moray (Gymnothorax meleagris): là một loài cá xinh đẹp nhưng sẽ

lớn quá khổ so với bể.

2. Snowflake Moray (Ecbidna nebulosa): một loài tuyệt vời và rất phổ biến với

những người bắt đầu chơi, dễ nuôi và sẵn có.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

SQUIRRELFISH & SOLDIERFISH

Họ Holocentridae

Những con mắt lớn và sắc đỏ đã gợi ý những thói quen về đêm của loài cá này.

Squirrelfish và soldierfish thường sẽ khó nuôi nếu bạn tạo cho chúng những cái hang

hoặc chỗ ẩn nấp không phù hợp. Tuy nhiên, với một môi trường phù hợp chúng sẽ thích

nghi khá nhanh trong bể nuôi dù chúng chung luôn có xu hướng khá nhút nhát trừ những

lúc cho ăn.

Squirrelfish và soldierfish sẽ thích nghi nhanh với việc ăn từng khoanh thức ăn

sống được vứt gần nơi trú ẩn của chúng. Những con cá này cũng sẽ tiêu thụ bất cứ người

bạn nào cùng bể (cá, cua, tôm nhỏ) mà chúng có thể nuốt chửng, do đó hãy xem xét cẩn

thận về kích cỡ khi lựa chọn loài vật thả cùng bể.

Giới thiệu một số loài: Longspine Squirrelfish (Holocentrus rufus); Crown Squirrelfish

(Sargocentron diadema); Redcoat Squirrelfish (Sargocentron rubrum); Hawaian

squirrelfish (Sargocentron xantherybrum); Blackbar Soldierfish (Myripristis jacobus);

Violet Soldierfish (Myripristis Violacea); Whitetip Soldierfish (Myripristis vittata).

(91): 1. Longspine Squirrelfish (Holocentrus rufus): sẽ không ăn các loại tôm

trang trí bể

2. Blackbar Soldierfish (Myripristis jacobus): cần cung cấp một cái hang

hoặc các phần mái nhô bằng đá

3. Hawaian squirrelfish (Sargocentron xantherybrum): có thể nuôi theo đàn

CÁ NGỰA VÀ CÁ CHÌA VÔI

Họ Syngnathidae

Dù được bán cho bọn trẻ con nuôi cá bằng bình, cá ngựa vẫn cần được cho ăn thường

xuyên bằng thức ăn sống, ví dụ như tôm brine trưởng thành và chúng kết hợp khá tồi với

hầu hết các loại cá rạn san hô. Thêm vào đó, cá ngựa hiện nay đang chịu một áp lực lớn

trên toàn cầu khi bị phá hoại môi trường sống và khai thác quá mức do nhu cầu làm thuốc

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

đông y của các quốc gia phương Đông. Cả cá ngựa và cá chìa vôi nên được để dành cho

những người chơi dày dạn – những người mà sẵn sàng dành ra một cái bể gây giống và

có sự tập trung chăm sóc. Khi đã trở nên sẵn có, những con giống được nhân giống trong

bể nuôi sẽ là sự lựa chọn tốt nhất đối với những người chơi quan tâm đến chúng.

Các loài được giới thiệu: không có loài nào. (Chỉ nên dành cho những người chơi

giàu kinh nghiệm.)

CÁ SƯ TỬ

Họ scorpaenidae

Cá sư tử nằm trong nhóm những loài cá thú vị nhất sẵn có đối với người chơi bởi bộ vây

trau chuốt và sự thần bí trong khả năng tiết ra nọc độc của một loạt những chiếc ngạch

được bày binh bố trận trên mình chúng.

Phần lớn các loài đều khá khỏe mạnh và không thích đánh nhau ngoại trừ khả

năng cắn để phòng vệ. Chúng chỉ làm phiền những con cá nhỏ hơn hoặc những con tôm

trang trí mà chúng có thể nuốt chửng; còn không chúng sẽ để yên cho những con cùng bể

khác. Thách thức lớn nhất là việc chọn được giống có kích thước khi trưởng thành phù

hợp với bể nuôi. Thật may là các giống cá sư tử có nhiều loại kích cỡ khác nhau do đó

bạn có thể chọn được một con cho mọi kích thước bể.

Những con cá này ban đầu thường chỉ ăn thức ăn sống. Chúng cần được tập

chuyển từ thức ăn sống sang thức ăn đông lạnh càng nhanh càng tốt để bạn có thể cung

cấp cho chúng một thực đơn giàu dinh dưỡng hơn. Để làm được điều này, bạn nên dùng

một khoanh thức ăn đặt lắc lư dưới nước (chỉ được dùng gậy cho ăn, không được dùng

tay không) giả như thức ăn sống. Dùng các loại thức ăn gây mùi cao như mực hoặc tôm

khi cho ăn kiểu này thường đủ sức để hấp dẫn chúng ăn. Cần phải cẩn thận để không cho

cá sư tử ăn quá nhiều bởi điều này thường để lại hậu quả là chúng bị béo phì và cuối cùng

dẫn đến cái chết của chúng. (Việc sử dụng thường xuyên thức ăn sống từ cá vàng không

được khuyến khích bởi có thể gây ra những vấn đề về sức khỏe thậm chí cả cái chết của

cá sư tử.)

Luôn thận trọng khi làm việc với cá sư tử. (Nếu bạn bị cắn, đặt vết thương dưới

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

vòi nước nóng (không phải là nước sôi bỏng) để rửa trôi chất độc của vết thương. Hãy gọi

bác sỹ ngay lập tức nếu vết thương có triệu chứng lan rộng.)

Giới thiệu một số loài: các giống cá sư tử khỏe mạnh và có kích thước luôn ở

mức tương đối nhỏ đó là cá sư tử Hawai (Petrois sphex), cá sư tử Spotfin (Petrois

antennata)và cá sư tử Zebra (Dendrochirus zebra). Cá sư tử Volitan (Petrois volitans) và

cá sư tử Russell (Petrois russelli) còn được rao bán với cái tên Red Volitan cũng là

những lựa chọn tuyệt vời nhưng sẽ lớn quá khổ so với một cái bể nhỏ và sẽ ăn những con

cùng bể nhỏ hơn và chậm hơn như cá chú hề.

(92): 1. cá sư tử Zebra (Dendrochirus zebra): một trong những loài cá sư tử tương

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

đối nhỏ và còn được rao bán với cái tên cá sư tử Dwarf.

2. Cá sư tử Spotfin (Petrois antennata) : một loài khỏe mạnh với kích thước

khiêm tốn nhưng có nghiều ngạnh độc giống như nhiều loại cá khác trong nhóm này.

CÁ MÚ

Họ Serranidae – Bộ Epinephelini

Cá mú là loài cá lớn được yêu thích của người chơi cá biển. Rất nhiều trong số những con

cá biển này đạt đến kích thước lớn và có thể nuôi vừa trọn cả một cái bể nếu được cho ăn

tốt. Những con cá mú lớn sẽ nuốt chửng bất cứ con cá nào có thể - đôi khi chỉ trong chớp

mắt – thậm chí cả khi nạn nhân có kích thước bằng 2/3 cơ thể của chúng. Do đó hãy cẩn

thận khi chọn loài nuôi cùng bể. Bể nuôi nên được bố cục để tạo ra nhiều chỗ ẩn nấp từ

đá, dù nhiều người chơi cảm thấy thất vọng khi thấy rằng cá mú trong tự nhiên tiêu tốn

phần lớn thời gian của mình trốn trong các hang hoặc các mái hang hơn là việc bơi ở

ngoài.

Cho loài cá này ăn không có gì khó khăn một khi chúng đã được thích nghi bởi

chúng sẽ ăn hết bất cứ mẩu thức ăn tươi kích thước lớn nào mà chúng có thể nuốt chửng.

Các khoanh tôm hoặc cá sẽ được chúng chấp nhận khi thi thoảng cho ăn kèm với cá sống.

Hãy cẩn thận đừng cho chúng ăn quá nhiều – chúng sẽ có xu hướng béo phì và chết. Cho

chúng ăn cá vàng không nên bị lạm dụng bởi chúng có giá trị dinh dưỡng thấp. (Nhiều

người chơi tránh sử dụng cá vàng để cho ăn bởi nó có thể làm tăng độ cạnh tranh của các

loài ăn thịt như cá sư tử, cá chình và cá mú.)

Trước khi mua bất cứ loại cá mú kích thước lớn nào, hãy xem xét kỹ kích thước,

hành vi ăn thịt, khả năng đào thải của chúng, bởi những yếu tố đó sẽ giới hạn nhiều đến

chủng loại và số lượng các loài khác mà bạn muốn nuôi trong bể. (Để thay thế, bạn có thể

xem xét một số loài cá biển nhỏ hơn và các loài họ hàng với cá mú như gramma basslet

và Comet (Calloplesiops altivelis).)

Giới thiệu một số loài tham khảo: Cá mú panther (Cromisleptes altives); Coral

Hind hay cá mú Miniata (Cephalopholis miniata), Hind đuôi chữ V, cá mú đuôi cờ hay

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Hind vây đen (Cephalopholis urodeta); Coney (Cephlopholis fulva).

(93): 1. Coral Hind hay cá mú Miniata (Cephalopholis miniata): lòe loẹt và khá

phổ biến nhưng là loài ăn thịt hay ẩn náu.

2. Coney (Cephlopholis fulva): một loài cá mú từ biển Caribe với nhiều

màu gồm đỏ, nâu, hai màu và màu ánh vàng.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

(94): 1. Chalk Bass (Serranus Tortugarum): một trong những loài cá biển Caribe

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

được khuyên dành cho người mới chơi.

2. Hariequin Bass (Serranus tigrinus): hoạt bát hơn và thích hợp với các bể

cá nhỏ hơn bất cứ loài cá mú nào.

3. Royal Gramma (Gramma loreto) : một loài hoàn hảo dành cho người mới chơi.

4. Swissguard Basslet (Liopropoma rubre): một loài tuyệt hảo nhưng khó kiếm và

đắt đỏ.

5. Blackcap Basslet (Gramma melacara): sự lựa chọn thích hợp cho những vùng

nước sâu.

DWARF SEABASS

Họ Serranidae – Giống Serranus

Rất giống với cá mú ở tính cách tự tin và bản năng ăn thịt, dwarf seabass gồm một

số loài rất hấp dẫn với kích thước luôn ở mức khiêm tốn. Chúng được khai thác hàng

loạt từ Bắc Đại Tây Dương và biển Caribe và sống cực kỳ khỏe mạnh trong các bể có

đá sống và những điểm trú ẩn. Loài Chalk Bass nhỏ bé nên được nuôi theo từng đôi

hoặc từng đàn trong khi các loài cạnh tranh hơn chỉ nên nuôi một con trừ khi bạn mua

cả một đôi đã kết bạn.

Giới thiệt một số loài tham khảo: Chalk Bass(Serranus Tortugarum); Orangeback

Bass (Serranus annularis); Lautern Bass (Serrenus baldwini); Harlequin Bass

(Serranus tigrinus).

ANTHIAS

Họ Serranidae – Phân họ Anthiinae

Mặc dù rất đẹp và có nhiều, các loài anthias lại không có loài nào được coi là lựa chọn

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

tốt đặc biệt cho những người mới chăm sóc cá cảnh biển. Anthias yêu cầu cho ăn

thường xuyên và rất bạo lực với những thành viên cùng loài – và những con Anthias

khác.

Loài được đề cử: không có loài nào. (Cần được chăm sóc bởi những người chơi giàu

kinh nghiệm.)

GRAMMA & REEF BASSLET

Họ Grammatidae & Serranidae

Các loài gramma và Reef Basslet thuộc về hai nhóm cá có mối liên quan với nhau,

được tìm thấy hầu hết ở vùng biển nhiệt đới của Bắc Đại Tây Dương và Caribe.

Chúng đã được nuôi trong bể từ những ngày đầu của nghề nuôi cá cảnh hiện đại. Màu

sắc tươi sáng, sự khỏe mạnh và những hành vi thú vị của chúng đã khiến chúng trở

thành những lựa chọn tuyệt hảo đối với những người mới chơi. Thành viên thường

được bắt gặp của nhóm này là Royal Gramma (Gramma loreto). Loài này có thể được

nuôi nhiều hơn một con giống trong bể miễn là có nhiều nơi trú ẩn phù hợp. Nuôi hai

hoặc nhiều cá chưa trưởng thành hoặc các con cá ở nhiều kích thước có thể giúp làm

giảm sự cạnh tranh – con đực thường lớn hơn hẳn và tỷ lệ phù hợp là 2 cái một đực.

Những con cá này có xu hướng bị nhạt màu dần khi được nuôi trong bể. Để giảm khả

năng này, thức ăn của chúng cần được đa dạng hóa và chứa hàm lượng lớn là tôm

hoặc thịt các loài động vật giáp xác khác.

Hai loài gramma đã từng một thời khan hiếm giờ đang trở nên sẵn có hơn đó là

loài Blackcap Basslet (Gramma melacara) và loài cạnh tranh hơn là Brazilian

Gramma (Gramma sp.) thường có giá cao hơn loài Royal Gramma (Gramma loreto).

Một số loài thuộc giống Liopropoma cũng khá đắt đỏ, trong số đó loài thường

được bắt gặp nhất là . Swissguard hay Peppermnint Basslet (Liopropoma rubre). Cực

kỳ tinh thông trong việc tránh các cạm bẫy, những con cá Basslet rạn san hô này

thường được bán với giá cực cao và rất ít khi sẵn có. Nếu được ở trong một môi

trường bể có nhiều đá sống che phủ và không có những kẻ địch lớn, chúng sẽ là loài

tuyệt vời trong bể.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Các loài được đề cử: Royal Gramma (Gramma loreto); Blackcap Basslet (Gramma

melacara); Brazilian Gramma (Gramma sp.); Swissguard Basslet (Liopropoma rubre).

COMET & ASSESSOR

Họ Plesiopidae

Loài cryptic comet (đôi khi được mang tên Marine Betta) và những con cá assessor

nhỏ và nhiều màu sắc sẽ sống tốt trong hầu hết các kiểu hình bể miễn là có nhiều các

hang và chỗ ẩn nấp phù hợp. Thật không may, những con cá này sẽ dành hầu hết thời

gian của chúng trong những cái hang hoặc dưới các mái che. Điều này cực kỳ đúng

với loài Comet. Dù mắc thiếu sót này, vẻ đẹp của những đốm trắng trên thân mình

vẫn giúp loài này trở thành một trong những lựa chọn phổ biến để nuôi trong bể.

Nếu nuôi trong bể có những con cá cạnh tranh hơn, hãy cẩn thận để không cho

những con cá này chết đói. Thay vì chỉ đơn giản là thả thức ăn vào bể, người chơi

phải hướng những mẩu thịt vào nơi những con cá này đang ẩn nấp.

Giới thiệu một số loài: Comet (Calloplesiops altivelis); Yellow Assessor (Assessor

flavissimus); Blue Assessor (Assessor macneilli).

(95): 1. Comet (Calloplesiops altivelis): còn được biết đến với cái tên Marine

Betta, loài này đôi khi hơi nhát nhưng cũng giống như hầu hết các loài cá trong bể.

2. Blue Assessor (Assessor macneilli): không phải lúc nào cũng sẵn có

những là loài trông bắt mắt và chúng đòi hỏi có những cái hang đá và nơi trú ẩn.

JAWFISH

Họ opistognathidae

Mặc dù thiếu đi những màu sắc tươi sáng thường thấy ở các loài cá bãi san hô, các thành

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

viên của họ cá jawfish vẫn hấp dẫn khi thêm vào bể bởi hành vi chôn mình của chúng.

Nếu chất nền đủ dày và có độ cứng vừa phải, những con cá này sẽ đào một đường hầm

hoặc hàng loạt những đường hầm để sống trong đó.

Trong bể trưng bày, bạn có thể cần phải tạo ra một vài những sự sắp xếp đặc biệt

để nuôi thành công những con cá jaw. Chất nền sẽ cần phải dày ít nhất 4 inch trong ít

nhất một phần tỷ lệ của bể cá, và bạn nên đặt một viên đá phẳng lên đó. Khi những điều

kiện này đã được hội tụ, cá jaw sẽ đào một cái hang lớn lấy hòn đá bằng đó làm mái che,

hình thành một ngôi nhà an toàn cho nó phát triển trong một bể nuôi.

Giới thiệu các loài: Yellowhead jawfish (Opistognathus aurifront); Dusky Jawfish

(Opistognathus whitebursti).

DOTTYBACK

Họ Pseudochromidae

Một vài loài Pseudochromidae tỏ ra rất cạnh tranh dù chúng có kích thước tương đối nhỏ.

Sau cá Damsel, phần lớn Dottyback có tính hay gây gổ hơn bất kỳ một họ cá biển nào

được thường được nuôi. Dù vậy, những con cá này vẫn được chào đón đối với hầu hết

các bể nuôi bởi sức sống mãnh liệt và những màu sắc rực rỡ của chúng chỉ cần đảm bảo

một vài quy tắc khi nuôi trồng.

Xu hướng cạnh tranh của chúng thường nảy sinh đối với các thành viên trong họ

cũng như các loài cá có hình dạng tương tự như cá wrasse và assessor. Chúng cũng có xu

hướng phẫn nộ với bất cứ con cá nào được thêm vào bể một khi chúng đánh dấu lãnh thổ

riêng của mình. Thành viên lớn nhất của họ này là những con cá có sức phá hủy lớn nhất.

Để tránh rắc rối, chỉ nên nuôi một con duy nhất trong bể thuộc lớp những con dottyback

cạnh tranh và nó nên được thả vào bể sau cùng. Những con cá khác có hình dánh tương

tự chỉ nên nuôi ở mức tối thiểu và những thành viên lớn nhất của nhóm này nên được

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

mua về chỉ khi bạn có một cái bể lớn (trên 90 gallon). Thêm vào đó, những con dottyback

thích gây gổ chỉ nên được nuôi cùng với những con cá có tính cạnh tranh khác.

Giới thiệu một số loài: những lựa chọn tốt nhất là 3 loài ít gây gổ hơn: Orchid dottyback

(Pseudochromis fridmani); Springer’s Dottyback (Pseudochromis springeri) và Sankey’s

(Black-and-white) Dottyback (Pseudochromis sankeyi). Nếu bạn có một cái bể đủ lớn và

chúng được thả vào cùng nhau, bạn có thể nuôi hay nhiều loài như vậy. Các loài có kích

cỡ nhỏ nhưng thích gây gổ có Neon Dottyback (Pseudochromis aldabraensis); Sunrise

Dottyback (Pseudochromis flavivertex); Bicolor Dottyback (Pseudochromis

paccagnellae); và Purple Dottyback (Pseudochromis porphyreus). Những con này nên

được nuôi một con trong một bể.

Các loài nên tránh: thành viên của các giống Ogilbyina và Labracinus – ví dụ như Australian

Dottyback (Ogilbyina novaebollandiae); Sailfin Dottyback (Ogilbyina velifera); và Red

Dottyback (Labracinus cyclophthalmus) – là những loài lớn, dữ tợn và có thể gây gổ với tất cả

bể cá.

(96): 1. Yellowhead jawfish (Opistognathus aurifront): một thợ đào bới thú vị mà cần

được cung cấp một lố chất nền dày.

2. Springer’s Dottyback (Pseudochromis springeri): sự lựa chọn tốt, ít cạnh tranh.

3. Orchid dottyback (Pseudochromis fridmani): sống động, ít cạnh tranh.

4. Sankey’s (Black-and-white) Dottyback (Pseudochromis sankeyi): đẹp, ít cạnh

tranh.

5. Neon Dottyback (Pseudochromis aldabraensis): nóng nảy và chỉ nên nuôi một

con.

6. Bicolor Dottyback (Pseudochromis paccagnellae): là loài nhỏ nhưng thích gây

gổ.

7. Sunrise Dottyback (Pseudochromis flavivertex): sẽ đánh nhau với những con

Dottyback khác

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

CARDINALFISH

Họ Apogonidae

Họ cá đông đúc gồm nhiều loài cá ăn thịt nhỏ này có các thành viên ở hầu hết các vùng

biển nhiệt đới. Có một hành vi hết sức thú vị là chúng ấp trứng bằng miệng; con đực sẽ

ấp và bảo vệ trứng trong miệng của nó. Nhờ thói quen sinh sản khác thường này mà hiện

nay loài cá Banggai Cardinal (Pterapogon kauderni) hiện nay đã được nhiều người chơi

nhân giống và nuôi trồng trong bể tại nhà mà không cần có thiết bị gì đặc biệt. (Với loài

cá này, con đực ngậm cả trứng và cá con trong miệng. Khi những con cá con đủ lớn để ăn

những con tôm brine mới nở, chúng sẽ được thả cho bơi lội tự do.)

Hầu hết các loại cá cardinal đều dễ nuôi miễn là chúng được cung cấp nơi trú ẩn

để tạo cảm giác an toàn. Việc cho ăn cũng khá đơn giản miễn là thức ăn từ thịt như tôm

băm, hoặc xiên, động vật phù du đông lạnh. Một vài loài hình thành những bầy lớn, các

loài khác sống trong những tập thể nhỏ hơn và cũng có loài sống cô độc. Trong các loài

mà hình thành nên các nhóm, việc tranh chấp giữa các cá nhân chỉ dừng lại ở những cuộc

tranh giành nhỏ, nhưng chúng sẽ chiến đấu với nhau nếu bể đông mà lại thiếu nơi trú ẩn.

Các loài tham khảo: Banggai hay Highfin cardinalfish (Pterapogon kauderni); Pajama

Cardinalfish (Sphaeramia nematoptera); Flamefish (Apogon maculatus); Orangestriped

Cardinalfish (Apogon cyanosoma).

(97): 1. Pajama Cardinalfish (Sphaeramia nematoptera): một loài khỏe và không

ồn ào.

2. Orangestriped Cardinalfish (Apogon cyanosoma): có thể nuôi theo nhóm.

3. Banggai hay Highfin cardinalfish (Pterapogon kauderni): dễ nhân giống trong

bể nuôi

BUTTERFLYFISH

Họ Chaetodontidae

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Các loài tham khảo: Không một loài nào. (Theo kinh nghiệm của tôi, không có loài

butterflyfish nào thích hợp với người mới chơi.) Khi người chơi đã có đôi chút tự tin về

nghề nuôi cá bể san hô, người ta có thể lựa chọn một vài loài khỏe mạnh trong nhóm

butterfly như Longfin Bannerfish (Heniocbus acuminatus); Raccoon Butterflyfish

(Chaetodon lunula); Threadfin Butterflyfish (Chaetodon auriga) và Yellow Longnose

Butterflyfish (Forcipiger flavissimus).

ANGELFISH

Họ Pomacanthidae

Họ Thiên Thần là một trong những nhóm cá biển phổ biến nhất do màu sắc đẹp và những

hành vi táo bạo của chúng. Chúng được khái quát thành 3 nhóm, chủ yếu dựa vào kích

thước:

1 Loại to (giống Holacanthus và Pomacanthus)

2 Loại trung bình (giống Chaetodontoplus và Genicanthus)

3 Loại nhỏ (giống Centropuge)

Có nhiều giống Thiên Thần khác mà một vài trong số đó là hoa khôi của các loài cá

biển nhưng những giống này đều không phù hợp với người mới chơi bởi chúng cần

đến sự chăm sóc đặc biệt. Thậm chí nhiều người chơi dày dạn cũng chưa thể nuôi

được chúng. Đó là các giống Pygoplites, Apolemichthys, và phân giống Euxiphipops.

Việc nuôi cá Thiên Thần khó hay dễ thường liên quan đến yêu cầu về thức ăn. Nhiều loài

to lớn không sống được vì thức ăn chủ yếu của chúng trong tự nhiên là bọt biển sống và

loài này không thể sinh sản trong bể nuôi. Khi mua bất cứ loài Thiên Thần lớn nào, người

ta khuyên rằng bạn nên mua những con cá chưa trưởng thành và nuôi chúng bằng thực

đơn có bọt biển. Thực đơn của chúng cần bao gồm cả protein chất lượng cao từ hải sản và

một hàm lượng lớn chất xơ, đó là nhân tố thiết yếu để nuôi chúng thành công. Một vài

khẩu phần ăn đông lạnh cố định của cá Thiên Thần hiện nay có chứa bọt biển và một vài

loài sẽ thích chỉ đôi khi có một bữa ăn như vậy.

Đừng bao giờ thả cá Thiên Thần vào một bể mới. Nếu được thả trong một hệ

thống đã được thiết lập ổn định và có cơ hội ăn dạo một cách tự nhiên, cơ hội thích nghi

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

và ổn định trong một thời gian dài của nhóm cá này sẽ cao hơn nhiều. Nếu bạn nuôi một

con cá Thiên Thần cỡ trung bình hoặc nhỏ, việc có đá sống đã được thiết lập để cung cấp

nơi ăn dạo là cực kỳ quan trọng. (Nếu không có đá sống, nhiều loài Thiên Thần có xu

hướng sụt giảm và cuối cùng sẽ chết.)

Cá Thiên Thần dễ nuôi nhất khi không nuôi cùng với những thành viên cùng giống

khác bởi chúng thường đánh nhau khi một con vượt trội hơn hẳn những con khác. Chỉ

nuôi một con Thiên Thần trong một bể là quy luật cũ nhưng khôn ngoan với mọi bể cá

trừ những bể thật lớn. Nếu một con cá Thiên Thần có vẻ nhút nhát và không chịu rời khỏi

chỗ ẩn nấp, bạn có thể thêm một loại cá mồi vào như một bầy cá chromis nhỏ chẳng hạn

để giúp chúng cảm thấy an toàn hơn.

Các loài tham khảo: Lớn: French Angelfish (Pomacanthus paru); Koran Angelfish

(Pomacanthus semicirculatus); Halfmoon Angelfish (Pomacanthus maculosus). Trung

bình: Lamarck’s Angelfish (Genicanthus lamarck); Blackspot Angelfish (Genicanthus

melanospilos). Nhỏ: Flame Angelfish (Centropyge loricula); Coral Beauty Angelfish

(Centropyge bispinosa); Cherub Angelfish (Centropyge argi)

(98): 1. French Angelfish (Pomacanthus paru): là một loài rất khỏe của vùng biển

Caribe, nhưng lại đòi hỏi có một hệ thống lớn (dài ít nhất 6 foot).

2. Halfmoon Angelfish (Pomacanthus maculosus): một loài thích gây gổ đến từ

Biển Đỏ. Chúng sẽ nhanh chóng trở nên quá khổ so với bể nuôi.

3. Coral Beauty Angelfish (Centropyge bispinosa): giống như những loài khác

trong nhóm này, tốt nhất nên thả vào bể đã chạy được ít nhất vài tháng.

4. Flame Angelfish (Centropyge loricula): là một loài angel dwarf cực kỳ quý giá

và sẽ sống tốt trong những bể được bố cục đá sống.

(99):

CHỌN CÁ CHO 5 BỂ CỦA NGƯỜI MỚI BẮT ĐẦU

Không cần phải nói, có rất nhiều cá ở biển và những gợi ý sau đây được đưa ra chỉ đơn

giản như những điểm khởi đầu với người mới chơi để họ lên kế hoạch cho bộ sưu tập các

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

loài cá đầu tiên của mình. Cố gắng để cân bằng giữa các dạng kích cỡ, hành vi, mức độ

hoạt động và màu sắc để tạo ra một kết hợp thú vị và thành công.

Hướng dẫn nuôi: cứ 1 inch cá cho 2 gallon bể.

Bể cộng đồng hòa hợp dung tích 40 gallon

1 1 đôi cá chú hề Ocellaris (Amphiprion ocellaris)

2 2 con Pajama Cardinalfish (Sphaeramia nematoptera)

3 1 – 2 con Firefish (Nemateleotris magnifica) hoặc 2 – 3 con Neon Goby

(Gobiosoma oceanops)

4 1 con tôm goby (Ví dụ Cryptocentrus hoặc Amblyeleotris spp.) cùng với tôm tích

(Alpheus spp.) nếu có sẵn.

Chú ý: một bể dài 36 inch sẽ vừa đủ cho một bộ sưu tập những con cá ngoan nhưng

thú vị và nhiều màu sắc này.

Bể cộng đồng hỗn hợp dung tích 40 – 50 gallon

1 3 – 5 con cá Damsel đuôi vàng (Chrysiptera parasema) hoặc 1 -2 con Golden

Wrasse hoặc Canary Wrasse (Halichoeres chrysus)

2 1 Flame Angelfish (Centropyge loricula) hoặc 1 Flame Hawkfish (Neocirrhites

armatus)

3 1 Midas Blenny (Ecsenius midas) hoặc 1 Lawnmower Blenny (Salarias fasciatus)

4 1 Foxface Rabbitfish (Siganus vulpinus) hoặc một con yellow Tang nhỏ

(Zebrasoma flavescens)

Chú ý: Để nuôi một con Foxface hoặc Tang yêu cầu phải có một cái bể 40 gallon (chiều

dài 48 inch).

Bể cộng đồng hỗn hợp dung tích 55 – 75 gallon

1 1 – 2 con Yellow tail Blue (Hippo) tang (Paracanthurus hepatus)

2 5 – 7 con Blue Green Chromis (Chromis viridis)

3 1 Coral Beauty Angelfish (Centropyge bispinosa)

4 1 Longnose Hawkfish (Oxycirrhites typus)

5 2 – 3 Banggai Cardinalfish (Pterapogon kauderni)

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Chú ý: Những con Yellow Blue Tang được gợi ý sẽ cùng tồn tại trong hệ thống này

nhưng hầu hết những con cá surgeon khác những loài tang nên được một mình để tránh

đánh nhau.

Bể cộng đồng các loài từ vùng Caribe dung tích 70 – 90 gallon

1 1 Cherub Angelfish (Centropyge argi)

2 Royal Gramma (Gramma loreto) hoặc 2 Blackcap Basslet (Gramma melacara)

3 2 Flamefish (Apogon maculates)

4 1 – 2 con Blackbar Soldierfish (Myripristis jacobus)

5 3 Chalk Bass (Serranus Tortugarum)

Các loài chọn thêm tùy ý:

1 1 Spotfin Hogfish (Bodianus pulchellus)

2 1 Swissguard Basslet (Liopropoma rubre)

Chú ý: Bộ sưu tập này tiếp cận kiểu hình biotope đơn giản, với tất cả các loài đến từ

cùng một khu vực địa lý. Hãy tạo ra các hang động và một vài mẩu san hô để giúp các

loài cá này thể hiện hành vi tự nhiên của nó.

Bể dành cho các loài cạnh tranh/ăn thịt dung tích 120 gallon

1 1 Cá sư tử Volitan (Petrois volitans) hoặc 1 cá sư tử Zebra (Dendrochirus zebra)

2 1 Picasso triggerfish (Rhinecanthus aculeatus) hoặc 1 con Redtooth (Niger)

Triggerfish (Odonus niger)

3 1 Arc-eye Hawkfish (Paracirrhites arcatus)

4 1 Purple Tang (Zebrasoma xanthurum) hoặc 1 con yellow tang (Zebrasoma

flavescens)

Các loài chọn thêm tùy ý:

1 1 Hind/cá mú đuôi chữ V (Cephalopholis urodeta)

2 1 moray eel (Họ Muraenidae), ví dụ như Snowflake Moray (Echidna nebulosa)

hoặc Zebra Moray (Gymnomuraena zebra)

Chú ý: Bộ sưu tập này bao gồm cả các loài cạnh tranh và các loài lớn, một vài loài trong

số đó có thể cuối cùng sẽ yêu cầu một không gian lớn hơn. Trong việc chuẩn bị cho một

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

hệ thống nuôi một con cá chình, các quy tắc xác định mật độ nuôi thông thường dựa vào

chiều dài cơ thể cá có thể được co giãn tới mức nào đó có thể chứa được cơ thể thon dài

của moray và các thói quen tĩnh tại thông thường của chúng.

HAWKFISH

Họ Cirrhitidae

Hawkfish là một nhóm cá rất thú vị, nó được mang tên như vậy là do thói quen làm tổ

trên một mẩu san hô hoặc đá sống và thỉnh thoảng sẽ nhào xuống để cướp lấy thức ăn

hoặc săn những con mồi đi qua. Hành vi này được quy cho là do việc thiếu các bong

bóng khí để bơi lượn lâu trong các cột nước.

Nhóm Hawkfish có rất nhiều màu sắc và kích thước và một số con còn đủ lớn để

tạo ra một mối đe dọa thực sự đối với những con cá nhỏ, tôm, cua và ốc sên. Tốt nhất chỉ

nên nuôi một con, Hawkfish cần được cho thức ăn từ thịt động vật và nên được cung cấp

địa điểm để cho chúng có thể làm tổ. Mặc dù Hawkfish không phải là một loài hay bơi lội

nhưng những con mắt vô cùng lanh lợi và khả năng lao ra để bắt mồi bằng những động

tác cực kỳ lanh lẹ làm cho nó trở thành một cư dân đáng yêu, thú vị của bể nuôi.

5 Các loài được đề cử (nuôi cùng với những loài ít cạnh tranh hơn): Longnose

Hawkfish (Oxycirrhites typus); Flame Hawkfish (Neocirrhites armatus);

Redspotted Hawkfish (Amblycirrbitus pinos).

6 Các loài được đề cử (nuôi cùng với các loài cạnh tranh cao hơn): Coral hoặc

Pixy Hawkfish (Cirrbitichthys oxycephalus); Arc-eye Hawkfish (Paracirrbites

arcatus); Freckled Hawkfish (Paracirrbites forsteri);

(100): 1. Redspotted Hawkfish (Amblycirrbitus pinos): là một loài cá nhỏ rất lôi cuốn

và là một kẻ sống cô độc ở cùng biển Caribe.

2. Longnose Hawkfish (Oxycirrhites typus): một loài cá tuyệt vời cho bể nuôi

nhưng có thể tấn công và nuốt chửng những con cá và tôm nhỏ.

3. Freckled Hawkfish (Paracirrbites forsteri): một loài làm tổ và giống như những

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

con Hawkfish khác, rất cảnh giác với những đối tượng con mồi đi qua.

4. Arc-eye Hawkfish (Paracirrbites arcatus): một loài khỏe mạnh, phổ biến trong

những hệ thống có các loài cá bạn lớn và cạnh tranh cao.

DAMSELFISH

Họ Pomacentridae

Cá Damsel nhìn chung được coi là nhóm cá tốt nhất cho người mới chơi cá cảnh biển.

Chúng đầy màu sắc, hoạt bát, dễ cho ăn và rất khỏe mạnh. Trong thực tế chúng rất khỏe

mạnh nên thường được dùng để “khai phá” một cái bể mới, tạo ra và tồn tại qua đợt khí

độc ammoniac đầu tiên.

Thật không may, chúng cũng là một trong những loài cá nhỏ bạo lực nhất trong

các loài cá rạn san hô. Nếu chúng được thả vào bể đầu tiên, chúng sẽ tấn công đa số

những con cá được thả vào sau chúng. Trong giới hạn nhỏ hợp của hầu hết các bể nuôi,

nếu thả nhiều hơn một con cá Damsel, con lớn nhất và cạnh tranh nhất sẽ tấn công và làm

bá chủ tất cả những con nhỏ hơn. Kết quả là, những con cá Damsel nhỏ hơn sẽ thường

xuyên bị rách vây và dễ nhiễm bệnh hơn.

Cá Damsel thường được bán khi còn rất nhỏ do đó tính cạnh tranh của chúng

thường bị giấu đi. Tuy nhiên, khi chúng lớn lên (một số sẽ phát triển rất to), tính cạnh

tranh thực sự của chúng bắt đầu lộ ra. Một quy tắc tốt là chỉ nuôi duy nhất một con cá

Damsel trong một bể - hoặc nếu không thì một nhóm bốn con hoặc nhiều hơn để làm lan

tỏa sự cạnh tranh. Có một ngoại lệ là loài Chromis nên được nuôi theo bầy.

Các loài được đề cử: Blue Green Chromis (Chromis viridis) và loài tương tự Black-axil

Chromis (Chromis atripectoralis); Neon Damsel (Pomacentrus coelestic); Yellowbellied

Damsel (Pomacentrus caeruleus); Yellowtail Damsel (Chrysiptera parasema); Blue

Damsel (Chrysiptera cyanea); South Seas Devil Damsel (Chrysiptera taupou).

(101): 1. Black-axil Chromis (Chromis atripectoralis): tập hợp thành một bầy cá

đẹp mắt.

2. Blue Damsel (Chrysiptera cyanea): con đực trưởng thành thường có đuôi màu

cam.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

3. Behn’s Damsel (Neoglyphydodon nigroris): màu sắc rực rỡ của những con chưa

trưởng thành sẽ nhạt dần

CLOWNFISH

Họ Pomacentridae

Giống Amphiprion & giống Premnas

Cá chú hề là thành viên của họ nhà cá damsel, có lẽ là loài có sức hấp dẫn với người chơi

hơn bất cứ loài cá nào khác. Cảnh tượng những con cá chú hề đùa giỡn với những xúc tu

vươn ra của một con hải quỳ biển có lẽ là một hình ảnh đã bị đánh đồng với khái niệm bể

san hô. Thật may mắn, hầu hết các loài cá chú hề sẵn có đều khá dễ nuôi và có thể sống

thỏa mãn trong một bể nuôi suốt nhiều năm. Thật đáng buồn là, hầu hết những loài hải

quỳ cộng sinh của chúng rất khó nuôi trồng nếu không có hệ thống chiếu sáng lớn, sự lưu

thông nước mạnh và chăm sóc chuyên nghiệp. Đối nghịch lại với đa số những lời khuyên,

cá chú hề sẽ sống tốt thậm chí có thể sinh sản trong những cái bể tại nhà mà không cần sự

có mặt của hải quỳ.

Hầu hết các loài cá chú hề sống tốt nhất khi được nuôi một mình hoặc theo cặp.

Những con cá này là loài lưỡng tính có cơ quan sinh dục đực hình thành trước. Bắt đầu

chúng đều là những con đực, nhưng khi chúng lớn lên và phát triển, con lớn nhất và trội

nhất sẽ trở thành con cái. Để tạo thành một cặp, cần thả 2 con cá chú hề nhỏ cùng loài

vào bể cùng một lúc. Con hơi to hơn trong hai con sẽ phát triển thành con cái sau đó.

Trong đôi này, con cái sẽ phải cạnh tranh và tấn công các con khác nhiều để bảo vệ lãnh

thổ của mình nhiều hơn là con đực. Con đực là kẻ thứ yếu phục vụ con cái. (Với loài

Maroon Clownfish [Premnas biaculeatus] dễ nổi nóng, hãy luôn nhớ đặt 2 con có kích

thước không ngang nhau và sẵn sàng loại bỏ ngay lập tức một con ra nếu giữa chúng có

đánh nhau gay gắt. May mắn là con lớn sẽ trở thành nữ chúa.) Một ngoại lệ trong quy tắc

này là cá chú hề Ocellaris (False Percula) có thể được nuôi theo nhóm, ít nhất cho đến khi

các đôi được hình thành và cần phải tìm nhà mới cho những con còn lại.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Cá chú hề thường không khoan nhượng cho những loài cá chú hề khác loài hiện

diện trên lãnh thổ của mình. Hãy chống lại sự cám dỗ của việc nuôi nhiều loài cá chú hề

khác nhau trong một bể - loài cạnh tranh nhất thường sẽ giết chết loài yếu thế hơn cho

đến khi chỉ còn một loài duy nhất.

Các loài được đề cử: Ocellaris Clownfish (Amphiprion ocellaris); Pink Skunk

Clownfish (Amphiprion perideraion); Maroon Clownfish (Premnas biaculeatus); Tomato

Clownfish (Amphiprion frenatus); Clark’s Clownfish (Amphiprion clarkii). (Clark’s

Clownfish thường bị mang sai mác là “Sebae Clownfish”. Loài Sebae Clownfish

[Amphiprion sebae] thực sự là loài cực kỳ hiếm gặp.)

(102): 1. Ocellaris Clownfish (Amphiprion ocellaris): là một lựa chọn tuyệt vời

dành cho bể cá cảnh biển đầu tiên của bạn.

2. Clark’s Clownfish (Amphiprion clarkii): có những sọc ngang sống động và rất

dễ nuôi.

3. Pink Skunk Clownfish (Amphiprion perideraion): sẽ sống tốt mà không cần đến

hải quỳ cộng sinh

WRASSE

Họ Labridae

Nhóm cá hỗn tạp này gồm nhiều loài có kích cỡ rất khác nhau từ loài bé xíu Sixline

Wrasse (Pseudocheilinus hexataenia) cho tới loài khổng lồ Napoleon hoặc Humphead

Wrasse (Cheilinus undulatus). Cũng như với kích cỡ, những loài cá này cũng khác nhau

rất nhiều xét về khả năng thích nghi với đời sống trong bể. Thật may mắn, có đủ các

thành viên sẵn có của nhóm này phù hợp cho bất cứ kiểu hình hay kích cỡ bể nào. Nhiều

con wrasse được bán khi chưa trưởng thành do đó cần phải tìm hiểu xem chúng có thể

phát triển đến đâu trước khi mua bất cứ một con cá nào.

Cùng với những màu sắc rực rỡ của chúng, wrasse là loài cá có những hành vi thú

vị. Một vài con wrass tự chôn mình dưới cát khi chúng ngủ hoặc khi sợ hãi. Nếu nuôi cá

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

wrasse, bạn cần phải có lớp chất nền dày và hạt nhỏ mịn. Một lớp chất nền lổn nhổn có

thể tạo ra những vết thương ở miệng hay da và làm cho vi khuẩn gây bệnh dễ dàng xâm

nhập.

Một vài con wrasse tiết ra lớp nước nhầy bao quanh mình khi ngủ. Việc này có thể

ngăn chặn kẻ địch ăn đêm phát hiện ra vị trí của chúng bằng tài đánh hơi. Những con

wrasse khác lại dành nhiều thời gian để lau dọn những mảnh vụn trên mình những con cá

lớn khác.

Hầu hết wrasse ăn thịt do đó một thực đơn nhiều thịt hải sản đông lạnh hoặc tươi

sống sẽ giữ cho chúng khỏe mạnh. Wrasse liên tục di chuyển do đó rõ ràng là chúng cần

được cho ăn thường xuyên. Dù cho ăn thường không phải là một rắc rối thì một số loài

wrasse vẫn gặp khó khăn khi thích nghi với bể nuôi. Cần phải có một nỗ lực lớn để giúp

chúng tập thích nghi với bể nuôi một cách từ từ và chậm chạp nếu chúng đang có dấu

hiệu lớn nhanh.

Nhiều loài wrasse lớn trở thành một thành viên tuyệt vời của các bể cá cộng đồng

với những con cá lớn hơn và cạnh tranh hơn. Những loài thích hợp cho những người mới

bắt đầu đó là các loài khỏe mạnh như Spanish Hogfish (Bodianus rufus), Cuban Hogfish

(Bodianus pulchellus) và Diana’s Hogfish (Bodianus diana).

Cần chú ý rằng nhiều loài wrasse lớn sẽ tấn công những con cá, cua, tôm nhỏ và

các loài động vật không xương sống khác của bể san hô.

7 Các loài được đề cử (cho các bể cộng đồng tĩnh): các loài Halichoeres nhỏ như

Golden Wrasse hoặc Canary Wrasse (Halichoeres chrysus) và loài Lemon

Meringue Wrasse (Halichoeres leucoxanthus); loài wrasse (Cirrbilarus spp.) xinh

đẹp như tiên; và loài wrasse có khả năng nhấp nháy (Paracheilinus spp.)

8 Các loài được đề cử (cho các bể với các loài lớn và cạnh tranh hơn): Moon

Wrasse (Thalasoma lunare); Sunset Wrasse (Thalassoma lunare); các loài

Thalasoma khác; các loài Halichoeres lớn hơn; Hogfish (Bodianus spp.); bird

wrasse (Gomphosus spp.); Halequin Tuskfish (Choerodon fasciatus).

9 Các loài cần tránh: tamarin wrasse (Anampses spp.), cleaner wrasse (Labroides

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

spp.) và loài leopard wrasse (Macropharyngodon spp.)

(103): 1. Sharpfinned Flasher Wrasse (Paracheilinus angulatus): dành cho các bể tĩnh.

2. Spanish Hogfish (Bodianus rufus): là một loài cá tuyệt vời nhưng sẽ chật trội

với những bể nhỏ.

3. Coral Hogfish (Bodianus mesothorax): một loài lấp lánh nhưng dễ nuôi và phổ

biến.

4. Golden Wrasse (Halichoeres chrysus): khỏe mạnh, rực rỡ và có kích thước

khiêm tốn.

5. Bird Wrasse (Gomphosus varius): một loài bắt mắt được yêu thích nhất cho các

hệ thống lớn.

6. Harlequin Tuskfish (Choerodon fasciatus): một loài wrasse đặc biệt

PARROTFISH

Họ Scaridae

Các loài đề cử: Không có loài nào. (Cá vẹt sẽ không chịu được không gian nhỏ hẹp. Yêu

cầu người có kinh nghiệm chăm sóc và các hệ thống lớn.)

BLENNY

Họ Blennidae

Blenny là một họ cá lớn gồm các thành viên dành phần lớn thời gian để làm tổ hoặc bơi

lượn từ nơi này đến nơi khác bởi chúng ăn dạo tảo mọc trên đá sống. Nhiều loài trong

nhóm cá này không bơi theo phong cách cổ điển của cá loài cá mà có thể bơi lượn dễ

dàng trong các cột nước – bộ xương của chúng chỉ cho phép chúng bơi ở những khoảng

cách ngắn, làm cho chuyển động bơi của chúng trông như đang nhảy hết chỗ này đến chỗ

khác. Blenny có ý thức rất cao về lãnh thổ và sẽ bảo vệ một khu vực nhỏ chống lại mọi

kẻ xâm phạm, đặc biệt những con cùng loài. Hãy nuôi chỉ một con giống blenny của một

loài cho một bể.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Bởi kích thước tương đối nhỏ, blenny rất thích hợp với các bể nuôi tại nhà miễn là

chúng được cung cấp những cái hang hoặc một góc khuất để làm tổ. Chúng cũng đòi hỏi

một thực đơn nhiều rau. Trong thế giới tự nhiên, chúng dành phần lớn thời gian của

mình để gặm tảo. Nếu không có một lượng tảo thích hợp trong bể, cần thiết phải bổ sung

thực đơn cho chúng bằng nori hoặc tảo xoắn.

Các loài đề cử: Bicolor Blenny (Ecsenius bicolor); Dusky Blenny (Astrosalarias fuscus);

Lawnmower Blenny hoặc Jewelled Rockskipper (Salarias fasciatus).

(104): 1. Lawnmower Blenny (Salarias fasciatus): sẽ gặm tảo trên lớp chất nền

của bể.

2. Bicolor Blenny (Ecsenius bicolor): một lựa chọn hài hước và đầy thú vị

cho các bể cá tĩnh.

3. Redspotted Blenny (Istiblennius chrysospilus): một lựa chọn rất phổ biến

của một loài Blenny kỳ lạ.

GOBY & GOBYLIKEFISH

Họ Gobiidae, Microdesmidae & các họ khác

Goby gồm những họ cá lớn ở biển. Wormfish và dartfish thường được bán với mác goby

trong các trao đổi thương mại cá cảnh biển. Chúng tương tự như goby nhưng được xếp

vào họ Microdesmidae, gồm có cả 2 loại cá phổ biến là cá lửa và cá đục.

Các thành viên của nhóm cá lớn bao gồm nhiều loài cá nhỏ, đầy màu sắc này nhìn

chung thường không cạnh tranh và thích nghi rất tốt với môi trường bể nuôi. Vì những lý

do đó, chúng trở thành các công dân tốt cho các hệ thống tại nhà – miễn là các bạn của

chúng không quá cạnh tranh và mỗi giống chỉ được nuôi một con trong một bể.

Bởi một số loài goby cực kỳ nhỏ, những con cá này cần được cho ăn bằng thức ăn

với kích cỡ phù hợp ví dụ như tôm xay nhỏ. Những con tôm brine trưởng thành và trứng

tôm panđan là những lựa chọn tốt. Những loài goby lớn có thể được cho ăn với mức

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

thông thường, mặc dù với một vài loài goby thuộc kiểu giống như tôm, sleeper hoặc

signal sẽ cần phải yêu cầu đặt thức ăn trực tiếp xuống đáy để chúng có thể ăn được. Hầu

hết các loài goby chỉ nên được nuôi cùng với các loài cá nhỏ, ngoan ngoãn.

Goby kiếm ăn nhờ các quần thể động vật phát triển trên và dưới khu vực đá sống.

Cá mandarin (chắc chắn là cá đàn lia trong họ Callionymidae) nói riêng, yêu cầu một

lượng động vật bộ chân kiếm và các động vật nhỏ khác trên đá sống để tồn tại. Những

con cá này không nên được thả vào bể trước khi một lượng thích hợp các loại động vật đó

được hình thành. Các nhóm khác mà có thể dễ dàng bị thiếu ăn đã được đề cập từ trước là

cá bống ngủ và cá bống dùng dấu hiệu (cá bống mắt cua) rất giỏi trong việc đào chất nền

để kiếm thức ăn từ động vật. Chúng có yêu cầu về cho ăn đặc biệt hoặc phải có một vùng

rộng lớn cát sống giàu thức ăn và vì thế không được khuyến khích cho người mới bắt đầu.

Một nhóm tốt hơn nhiều dành cho người mới bắt đầu có thể chọn lựa đó là bống

tôm hay watchman goby (ví dụ như amblyeleotris và Cryptocentrus spp.). Đó là nhóm cá

lấy tên từ một mối quan hệ cộng sinh hết sức đặc biệt giữa chúng với một loại tôm

snapping (Alpheus spp.). Loài cá bống này sống trong một cái hang do tôm đào sau đó

con tôm sẽ canh ở cửa hang. Khi có nguy hiểm đến gần, cá bống sẽ cảnh báo loài tôm

gần như mù này biết để rút lui vào trong hang. Nếu một cặp tôm – bống được mua về,

đảm bảo bạn sẽ được chứng kiến hành vi thú vị này.

Các loài được đề cử: cá lửa (Nemateleotris magnifica); Purple Firefish (Nemateleotris

decora); Neon Goby (Gobiosoma oceanops); Clown Goby (Gobiodon citrinus) và các

thành viên khác trong nhóm bống tôm hay watchman (ví dụ như amblyeleotris và

Cryptocentrus spp.).

(104): 4. Firefish (Nemateleotris magnifica): những con cá thanh lịch này sẽ sống tốt với

bể nhiều nơi trú ẩn từ đá, nơi chúng có thể lao xuống để cảm thấy an toàn.

5. Purple Firefish (Nemateleotris decora): một loài bơi lượn rất đẹp và không nên

được nuôi cùng với các loài cạnh tranh.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

(105) :

CÁC LOẠI CÁ KHÔNG DÀNH CHO NGƯỜI MỚI CHƠI

Khi người chơi còn đang học hỏi kinh nghiệm, những lựa chọn này tốt nhất nên được

dành cho những người chơi tiến bộ hơn.

1. Rock Beauty Angelfish (Holacanthus tricolor)

2. Cá hoàng đế (Pomacanthus imperator)

3. Threadfin Butterflyfish (Chaetodon auriga)

4. Neon Goby (Gobiosoma oceanops): một loài nhỏ, hấp dẫn mà dễ dàng được nhân

giống trong bể nuôi và là một lựa chọn tốt cho các bể cá yên tĩnh.

5. Wheeler’s Whatman Goby (Amblyeleotris wheeleri): là một loài đặc trưng trong các

nhóm cá bống hình thành quan hệ cộng sinh với các loài tôm.

Angelfish:

Các loài Apolemichthys: tất cả

Bandit (Desmoholacanthus arcuatus)

Bicolor (Centropyge bicolor)

Blueface (Pomacanthus imperator)

Majestic hoặc Bluegirdled (Pomacanthus navarchus)

Manybar (Centropyge multifasciata)

Regal (Pygoplites diacanthus)

Rock Beauty (Holacanthus tricolor)

Venusta (Holacanthus venusta)

Anthias (Phân họ Anthiinae): tất cả

Batfish: Pinnate hoặc redfinned (Platax pinnatus)

Butterflyfish (Họ Chaetodontidae): Tất cả

Firefish : Longnosed (Oxymonacanthus longirostris)

Moorish Idol (Zanclus cornutus)

Parrotfish (Họ Scaridae): Tất cả

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Ribbon Eel : Xanh hoặc đen (Rhinomuraena quaesita)

Cá ngựa và cá chìa vôi (Họ Syngnathidae): Tất cả

Sweetlip: cá chú hề (Plectorhinchus chaetodontoides)

Surgeonfish/Tangs:

Achilles (Acanthurus achilles)

Lined (Acanthurus lineatus)

Powderblue (Ancanthurus leucosternon)

Vlamingi’s (Naso vlamingii)

Whitecheek (Acanthurus nigricans)

Tilefish (Họ Malacanthidae): Tất cả

Wrasse:

Cleaner (Labroider spp.)

Leopard (Macropharyngodon spp.)

Tamarin (Anampses spp.)

CÁ DƠI

Họ Ephipidae

Được đặt tên như vậy bởi chúng trông khá giống dơi (một loài động vật biết bơi)

khi nhìn từ phía bên cạnh khi chúng đang bơi. Cá dơi nhìn chung khá khỏe mạnh và phát

triển khá tốt miễn là bạn mua chọn những con giống trẻ và khỏe. (Những con cá dơi đã

lớn, trưởng thành thường không phải lúc nào cũng thích nghi tốt với môi trường bể nuôi.)

Rắc rối lớn nhất với loài cá dơi là chúng sẽ nhanh chóng lớn và trở nên quá khổ so

với bể nuôi. Những con cá này nhìn chung di chuyển chậm và hiền lành vì thế thích hợp

nhất để nuôi cùng với các loài hiền lành.

Các loài đề cử: Orbiculate Batfish (Platax orbicularis); Teira Batfish (Platax pinnatus).

Các loài cần tránh: Pinnate hoặc Redfinned Batfish (Platax pinnatus).

(106): Orbiculate Batfish (Platax orbicularis): hiền lành nhưng sẽ lớn quá khổ trong các

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

hệ thống nhỏ.

CÁ THỎ

Họ Signadae

Giống như loài cá đuôi gai (được thảo luận bên dưới), các thành viên của họ cá này sở

hữu những chiếc gai ngạnh mà chúng dùng để tự vệ. Tuy nhiên, những chiếc ngạnh của

cá thỏ rỗng và chứa nọc độc mà có thể gây ra những vết thương rất đau. Thật may là cá

thỏ không có tính cạnh tranh và chỉ là loài ăn cỏ, gặm tảo trên các hòn đá sống. Không

giống như nhiều loài cá đuôi gai, cá thỏ có thể được nuôi theo cặp hoặc đàn nhỏ.

Khi đã được thích nghi, cá thỏ lớn khá nhanh nhưng phải được cho ăn nhiều chất

liệu xanh và cần luôn chăm sóc một cách thận trọng để tránh những vết cắn bất ngờ.

Các loài được đề cử: Foxface (Siganus vulpinus); Onespot Rabbitfish (Siganus

unimaculatus); Magnificent Rabbitfish (Siganus magnificus

CÁ ĐUÔI GAI (TANG)

Họ Acanthuridae

Họ cá đuôi gai có nhiều loài được nuôi khá phổ biến. Chúng được mang tên cá đuôi gai

bởi những cái gai sắc ở đuôi. Những chiếc gai này không có độc nhưng cần tránh bởi một

con cá tang lớn có thể gây ra một cắt sâu.

Cá đuôi gai cần được cung cấp thực đơn với nhiều chất xơ như tảo xoắn, nori, rau

diếp lá dài hoặc rau bina miễn là thỉnh thoảng cho chúng ăn kèm tảo Cauperla tươi sống.

Những con cá này cần được cho ăn nhiều lần trong một ngày bởi chúng có sự trao đổi

chất rất lớn.

Hạn chế lớn nhất trong việc nuôi những con cá đuôi gai là chúng dễ bị ký sinh

trùng xâm nhập, đặc biệt là ngay sau khi vận chuyển và thả vào trong bể nuôi. Trừ khi

được cách ly một cách phù hợp, chúng sẽ truyền bệnh lây nhiễm cho các sinh vật trong

bể. Hầu hết những con cá đuôi gai phát triển khá lớn, do đó những con trưởng thành cần

được nuôi trong các bể không nhỏ hơn 70 – 90 gallon. Chỉ nên nuôi 1 con tang thuộc một

loài (hoặc một giống) trong một bể trừ khi bạn có một hệ thống cực lớn sẽ ngăn chặn các

cuộc đại chiến diễn ra liên tục và thường là vĩnh cửu giữa chúng.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Các loài được đề cử: Yellow Tang (Zebrasoma flavescens); Yellowtail Blue hay Hippo

Tang (Paracanthurus bepatus); Purple Tang (Zebrasoma xanthurum).

(107): 1. Onespot Rabbitfish (Siganus unimaculatus): là một trong số rất nhiều loài cá

thỏ có thể ăn cỏ tốt và được nuôi theo bầy.

2. Magnificent Rabbitfish (Siganus magnificus): một loài ít phổ biến hơn, nhưng

những cái ngạnh độc của nó rất đặc trưng cho loài cá thỏ.

3. Purple Tang (Zebrasoma xanthurum): một loài quý hiếm và đắt giá từ vùng

Biển Đỏ mà thức ăn chủ yếu là rau.

4. Yellow Tang (Zebrasoma flavescens): Tạo thêm một màu sắc nữa, loài cá này

cực kỳ bạo lực và tốt nhất chỉ nên nuôi một mình trừ trong những bể lớn.

TRIGGERFISH

Họ Balistidae

Được đánh giá trên sự kết hợp giữa màu sắc đậm và những kiểu mẫu hành vi phát triển

vượt trội, sẽ khó có thể tìm ra được nhóm cá nào thú vị hơn trigger. Là những kẻ bơi lượn

cực kỳ duyên dáng, chúng có thể tự khóa mình vào trong một hang đá chật hẹp và bằng

việc xòe những cái ngạnh khỏe mạnh ở vây lưng, chúng có thể lật ngược lưng của con

mồi xuống như những con nhím biển chẳng hạn, để chuẩn bị tấn công vào phần bên dưới

dễ bị tổn thương của chúng. Cá trigger khỏe mạnh và dễ nuôi, nhưng bản tính cạnh tranh,

khó đoán trước và cả xu hướng ăn hoặc tấn công hầu như bất cứ sinh vật nào trong bể

khiến cho hầu hết các loài các trigger không phải là một lựa chọn tốt với các bể cá cộng

đồng. Một vài con cá trigger sẽ sống nhiều năm mà không gây ra bất cứ vấn đề gì trong

khi những con khác có thể đột ngột quyết định ăn thịt hoặc cắn bất cứ sinh vật nào được

thả vào bể của chúng. Để an toàn, hãy chọn những loài cá trigger ít cạnh tranh nhất và có

thể bảo vệ chính mình (cá sư tử, moray, cá wrasse lớn, và những loài tương tự). Cũng cần

chú ý rằng một con cá trigger lớn có thể cắn một vết khá đau và sâu vào những cánh tay

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

không nghi ngại mà những người chăm sóc sơ ý đặt vào trong bể.

Các loài ít cạnh tranh hơn: Redtooth hay Niger Trigger (Odonus niger); Bluethroated

Trigger (Xanthichthys auromarginatus); Picasso triggerfish (Rhinecanthus aculeatus).

Các loài cạnh tranh: Cá trigger vạch vàng hay lượn sóng (Balistapus undulatus); Queen

Trigger (Balistes vetula); Clown Trigger (Balistoides conspicillum).

(108): 1. Redtooth hay Niger Trigger (Odonus niger): một trong những loài cá trigger dễ

tấn công bạn cùng bể nhất.

2. Queen Trigger (Balistes vetula): với một vết cắn hiểm và tính khí thù địch, đây

là loài chỉ thích hợp cho các bộ sưu tập các loài cá cạnh tranh.

PUFFER & PORCUPINEFISH

Họ Tetraodontidae & Diodontidae

Những người mới chơi bị những con puffer thu hút: chúng có những con mắt lớn và tính

cách dễ mến – luôn đòi thức ăn và hình thành một mối gắn kết với chủ của mình. Trong

khi khỏe mạnh và dễ nuôi, cá puffer và cá nhím lớn lại nổi tiếng là loài cắn và ăn san hô

hay những loài cá và động vật không xương sống khác. Vì lý do này, không nên thả một

con puffer hay cá nhím nào vào một bể cộng đồng nhỏ và ít cạnh tranh. Một con puffer

có thể dài đến hơn một foot và yêu cầu những bể nằm trong khoảng từ 100 – 200 gallon.

Các loài puffer nhỏ được biết đến như toby (hay puffer mũi nhọn) là những lựa

chọn tốt hơn cho nhiều người chơi. Các thành viên của giống Canthigaster thường là

nhiều màu sắc và cũng đẹp như những người bà con kích thước lớn khác của chúng. Một

vài loài toby khác được tiếng là những kẻ dùng vây để cắn nhưng chúng nhìn chung đều

ngoan và sẽ thích hợp nhất trong những bể ít cạnh tranh.

Các loài được đề cử: các loài toby khác nhau (Canthigaster spp.), còn được biết đến như

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

puffer mũi nhọn, bao gồm puffer mũi nhọn (Canthigaster rostrata); Saddled hay

Valentini Toby (Canthigaster Valentini); và loài Hawaiian hay Whitespotted Toby

(Canthigaster jactator).

(108): 3. Saddled hay Valentini Toby (Canthigaster Valentini): một trong những loài

puffer nhỏ mà có thể trở thành loài vật cưng cho các bể cá.

ĐỘNG VẬT KHÔNG XƯƠNG SỐNG

Bể trưng bày sẽ không dùng đồng hoặc bất kỳ phương thuốc nào để chữa bệnh, do đó

ngoài cá bạn có thể thả thêm một số loài động vật không xương sống. Những con vật này

sẽ không chỉ tăng thêm những hành vi thú vị mà nhiều loài còn có thể làm cho bể sạch

hơn.

Ốc sên và nhím biển sẽ gặm tạo trên đá sống và kính bể. Brittle star và ốc mượn

hồn nhỏ sẽ ăn các mảnh vụn và khuấy chất nền lên. Một số loài tôm nhất định còn hỗ trợ

việc giảm thiểu bệnh tật bằng cách lau dọn các mảnh vụn, mảng bảm khỏi những con cá

bị nhiễm bệnh.

Hầu hết các loài động vật không xương sống được liệt kê trong danh sách trên

không yêu cầu sự chăm sóc đặc biệt nào, thậm chí không cần cho ăn trực tiếp. Chúng cần

được tập thích nghi với nước trong bể trong khoảng 30 phút và cần có nơi để ẩn náu.

Chúng sẽ sống tốt và làm công việc lau dọn của mình liên tục miễn là không có thứ dược

phẩm nào được thêm vào bể.

CHỌN NHỮNG CON CÁ KHỎE MẠNH

Khi bạn đã thu hẹp sự lựa chọn các loài cá đặc trưng cho bể của bạn, cuối cùng sẽ là thời

gian để bắt đầu mua chúng. Với một người mới học việc, quyết định xem một con cá nào

đó trong bể của nhà buôn có khỏe hay không là một việc khá khó khăn. Nhưng với một ít

thực tế và hiểu biết về những gì bạn cần tìm kiếm, điều đó sẽ trở nên dễ dàng hơn. (Đây

là một môn nghệ thuật đã được biết đến, một thứ gì đó đạt được khi ngắm nhìn và chăm

sóc cá biển.) Ở thời điểm này, ít nhất việc có một danh sách ghi nhớ các loài mà bạn dự

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

định nuôi trong bể sẽ giúp ích.

Hãy cố gắng tạo ra những sự thay thế và chuẩn bị những đơn hàng đặc biệt mua

một số con cá – không thể có cửa hàng bán lẻ nào dù là tốt nhất sẽ có tất cả các loại cá

mà bạn yêu cầu lần đầu ngay lập tức. Tôi khuyên bạn hãy kiên nhẫn và chọn loài mà bạn

thực sự muốn, chọn những con giống khỏe mạnh và ăn khỏe.

Chọn những con giống khỏe mạnh sẽ làm tăng khả năng sống sót của chúng một

vài tuần sau khi mua về. Đây là thời kỳ mà nhiều con cá gặp rủi ro chết đột ngột rất cao.

Một khi chúng đã vượt qua thời kỳ đầu tiên từ 4 – 6 tuần, cơ hội để chúng kéo dài cuộc

sống trong bể nuôi tại nhà là rất cao. Nguyên nhân của những cái chết sớm có thể có rất

nhiều, trong đó bao gồm việc bị hoảng hốt do bị bắt và vận chuyển, không có khả năng

thích nghi với các điều kiện của môi trường nuôi nhốt hoặc không chịu ăn, hoảng loạn do

bị thả vào một cái bể mới với những con cá cạnh tranh, hoặc do bệnh tật.

Nguyên tắc đầu tiên và đơn giản nhất là cá phải bơi một cách bình thường. Đó là,

nó sẽ thể hiện bản thân tốt và trong khỏe khoắn khi bơi trong bể. Con cá trông sẽ không

vật lộn khi bơi mà phải bơi nhẹ nhàng như không mất sức hoặc di chuyển theo phong

cách riêng của loài của nó. (Một vài loài cá có phương pháp bơi đặc trưng hoặc riêng biệt

mà bạn sẽ nhanh chóng nhận ra.)

Tránh bất cứ con cá nào mà thở hổn hển hoặc bơi lượn liên tục với cái mũi chỉ

hướng về một góc. Một con cá thuộc loài ưa thích bơi trong không gian mở sẽ không ẩn

náu cả ngày. Nhiều loại cá sẽ trốn ngay lập tức sau khi vào bất cứ môi trường mới nào,

do đó hãy hỏi xem con cá đó đã ở trong bể bao lâu rồi. Hơn thế, nhiều loài cá như cá mú,

cá gramma, và cá chình sẽ dành nhiều thời gian để ẩn náu theo bản năng tự nhiên; việc

tìm hiểu các đặc điểm của một họ cá sẽ giúp ích để biết được đâu là hành vi bình thường

hoặc bất thường.

Một hành vi bơi khác cũng đáng chú ý cần được lưu ý như là một dấu hiện để cảnh

báo. Đôi khi bạn sẽ trông thấy những hành động khuôn sáo mà một con cá liên tục nhắc

lại cùng một kiểu hành vi. Những ví dụ đặc trưng là một con cá liên tục bơi trong một

quỹ đạo tròn quanh một đầu cây san hô hoặc một điểm trong bể, hoặc đớp liên hồi hoặc

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

đi tới đi lui dọc theo chiều bể. Con cá không dừng lại để ăn mà bơi không mục đích và

không đổi đường – nó hành động như thể đang lãng quên mọi thứ xung quanh. Những

dấu hiệu này có thể là dấu hiệu của một cái gì đó hư hỏng về thể chất hoặc tinh thần của

con giống. Những con cá này thường không thích nghi tốt với môi trường giam giữ.

Cùng với việc có hành vi bơi thông thường, một số đặc điểm cũng cần được kiểm

tra trước khi mua một con cá. Nếu kiểu bơi thông thường bị ảnh hưởng do con cá đó bị

xướng hoặc xây xát vào các vật thể trong bể hoặc tự lắc mình thì sẽ có nhiều ký sinh

trùng xâm nhập lên nó hoặc các vấn đề về sức khỏe khác sẽ phát triển. Mắt cá cũng cần

phải sạch và không có vết. Mắt phải phẳng so với thân và không có dấu hiệu bị sưng lên.

Mắt phồng lên có thể là một dấu hiệu cá đã mắc bệnh nhiễm khuẩn hoặc nấm cực kỳ khó

chữa.

Cá không được có bất cứ dấu vết hay thương tổn nào trên cơ thể, cũng không được

phép có một vết lởm chởm nào trồi ra khỏi cơ thể. Đừng bao giờ mua những con giống

với những triệu chứng như vậy. Nếu con cá khác thường và đặc biệt đáng mơ ước, hãy

hỏi cửa hàng cá xem liệu họ có thể giữ nó cho tới khi nó được chữa khỏi bệnh.

Những con mà vây bị rách hoặc xước nhẹ cũng vẫn có thể mua được. Nếu chúng

chỉ bị rách nhẹ, những chiếc vây trên mình một con giống khỏe mạnh sẽ lành lại rất

nhanh chóng trong một cái bể sạch. Ngược lại, nếu vây bị rách nát hoặc mất vây, hoặc bất

cứ thứ gì mọc ra từ vây đều có thể là dấu hiệu của những vấn đề nghiêm trọng.

Rất ít người buôn mà lại cố gắng bán một con cá với nhiều triệu chứng dễ nhận

dạng như vậy. (Đôi khi những nhân viên thiếu kinh nghiệm hoặc ẩu có thể nhỡ tay, tuy

nhiên bạn cần phải tận tay chọn từng con cá bạn mua.) Một dấu hiệu tinh vi nữa đó là

xem cá thở. Nhịp thở không được quá khó khăn hoặc quá gấp gáp, mang cá cũng không

được mở quá rộng trong quá trình hô hấp. Đây thường là dấu hiệu của sự hoảng sợ ở mức

nghiêm trọng và con cá sẽ không thể sống lâu hoặc đang chiến đấu với một bệnh truyền

nhiễm ở mang.

Một dấu hiệu cảnh báo nữa đó là những mảng màu sắc bất thường, hoặc là quá

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

sáng hoặc quá tối ở một thời điểm không phù hợp. Một con cá có thể thể hiện những màu

sắc bất thường này khi bị stress. Một số nhà quan sát tin rằng cá cũng trưng ra những màu

sắc mạnh khi phải chịu những hậu quả do được đánh bắt bằng xyanua. Tuy nhiên, trong

một nhóm cá trông bình thường trong cùng loài thì con có màu sáng nhất có thể chỉ là

con khỏe mạnh vượt trội và màu sắc tươi tắn có thể cũng là một dấu hiệu của sức sống và

sự khỏe khoắn.

KIỂM TRA NHANH

Dấu hiệu tốt nhất chỉ ra rằng một con cá còn khỏe mạnh đó là nó ăn ngấu nghiến khi

được cho ăn. Từ chối thức ăn có thể là một dấu hiệu của nhiều vấn đề khác nhau, bao

gồm bệnh tật từ trước, có thể là do khai thác bằng xyanua và sự hoảng loại kéo dài và bị

đói trong suốt quá trình khai thác và vận chuyển. Trước khi mua bất kỳ con cá nào, bạn

nên yêu cầu được xem nó ăn trong bể của nhà buôn.

Những con nhanh lớn, dễ nuôi sẽ thường ăn thức ăn vụn mà không hề kén chọn.

(Giả sử trong trường hợp chúng chưa được ăn no.) Với các loài đắt đỏ hơn, tôi thích xem

chúng ăn nhiều loại thức ăn. Nếu thức ăn vụn không được, bạn có thể thử bằng thức ăn

đông lạnh băm nhỏ, tiếp đó là thức ăn sống như tôm brine trưởng thành chẳng hạn.

Ngoài việc thể hiện con cá có khỏe mạnh hay không, việc kiểm tra chúng ăn còn

có thể chỉ ra rằng con cá không bị giới hạn bởi một loại thức ăn nhất định. Bằng việc xem

cá chọn thức ăn cũng có thể biết được con cá thích cái gì hơn. Nếu nó chỉ ăn một loại

thức ăn (hầu như tất cả các loài khỏe mạnh đều không hề từ chối thức ăn sống), sẽ rất khó

để tập cho nó ăn những loại thức ăn khác và có thể bị suy dinh dưỡng.

Nếu con cá không ăn ở lần này, hãy nhờ người bán để xem liệu họ có thể giữ con

cá để sau vài ngày bạn quay lại và quan sát tiếp tục xem nó có ăn hay không. Trong lần

quay lại này, hãy thử một loại thức ăn khác. Việc này sẽ tăng thêm khả năng rằng con cá

sẽ ăn.

Một thứ khác cần tìm kiếm khi xem liệu những con cá này có ăn trong bể của

người bán hay không là quan sát xem nó tương tác với những con cá khác khi ăn như thế

nào. Đó là, những người bạn cùng bể của nó tranh giành hết thức ăn hay nó vượt hết

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

những con khác trong bể và ngăn chúng giành thức ăn? Những kiểu hành vi này có thể là

dấu hiệu để cho thấy nó sẽ tương tác với những con cá khác trong hệ thống của bạn như

thế nào.

Một thước đo nữa trong thói quen ăn uống của một con cá là điều kiện thể chất của

nó. Vòng bụng co hoặc thắt lại nghiêm trọng có thể là một dấu hiệu tồi và đầu con cá

không nên có một khu vực hẹp, mỏng hoặc lõm xuống đằng sau mắt. Sự co lại này là một

dấu hiệu của chế độ dinh dưỡng tồi hoặc bị đói và có nghĩa rằng con cá đã sụt cân. Đây

thường là hậu quả của con cá bị hoảng loạn hoặc phải trải qua một thời kỳ vận chuyển dài

hoặc giam giữ mà không được ăn. Nó sẽ không chịu đựng được thêm stress nữa và bị coi

là con kém triển vọng.

Nguyên tắc chung là khi một con cá bỏ ăn trong bể của người buôn thì đừng mua

nó. Bạn sẽ tiết kiệm được một khoản chi phí đáng kể khi đi theo nguyên tắc này. Nhiều

người chơi cảm thấy rằng sự chăm sóc mà họ tạo ra sẽ tuyệt hảo hơn của nhà bán lẻ, rằng

họ có thể cho cá ăn thức ăn đa dạng hơn, và rằng họ sẽ làm cho con cá ăn được. Theo

kinh nghiệm của tôi đó chỉ là một ngoại lệ. Một con cá không ăn lại bắt đầu ăn trở lại

trong bể tại nhà chỉ là một hiện tượng hiếm gặp. Hãy nhớ rằng một số con cá đã bị hủy

hoại nghiêm trọng do khai thác bằng xyanua hoặc bị hoảng loạn nặng thậm chí trước khi

đến tay nhà bán lẻ, và những con giống này có rất ít khả năng sống sót. Nói chung, nhiều

con cá sẽ chết hơn là sẽ được cứu sống nếu được mua khi chúng bỏ ăn.

TẬP THÍCH NGHI CHO NHỮNG CON GIỐNG MỚI

Khi một con cá khỏe mạnh đã được mua và mang bể nhà, bước tiếp theo là tập cho nó

thích nghi một cách phù hợp. Nhiều con cá biển khỏe mạnh sẽ nhanh chóng ổn định lại

trong một cái bể mới, nhưng để cho một vài con có thể sống sót trong một cái bể - đặc

biệt là bể mới thì đôi khi khá khó khăn

Tháng đầu tiên dường như là thời kỳ cá chết nhiều nhất. Tôi đã học được bài học

khó khăn đó là trừ khi thật cẩn thận khi thả cá nếu không tỷ lệ những cái chết trong vài

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

tuần đầu tiên sai khi thả chúng là rất cao – đôi khi có thể đạt tới 50%. Đầu tiên thì tôi

nghĩ rằng những cái chết như vậy trong bể của tôi là do chất lượng nước kém hoặc một

vài nhân tố khác. Tuy nhiên khi tôi so sánh những kinh nghiệm của riêng tôi về các loại

san hô sống trong cùng điều kiện nước và được thích nghi cùng một phương pháp, bức

tranh đã có những nét khác biệt rõ rệt. Tỷ lệ sống sót của san hô là hơn 80%. Tôi biết

rằng một vài nhân tố khác chắc chắn phải là nguyên nhân của việc cá chết nhiều khi mới

thả như vậy.

Ngoài chất lượng nước, một phần cá chết đơn giản là do quá trình thả cá vào trong

một hệ thống đóng. Không giống với một bể san hô, bể cá là một môi trường bể rất nhỏ.

Rất nhiều nhân tố sẽ tham gia vào quá trình đưa một con giống từ đại dương vào trong

một cái bể tương đối nhỏ như vậy.

Nhân tố đầu tiên, lãnh thổ của một con cá bị thu hẹp quá lớn và việc này có thể để

lại một số hậu quả nghiêm trọng. Lấy một ví dụ, một số loài cá damsel có lãnh thổ cư trú

trong tự nhiên vào khoảng 6 feet vuông một con giống. Trong hầu hết các bể trừ những

bể cực lớn, một trong những con cá này damsel sẽ chiếm dụng hầu như toàn bộ cả cái bể.

Vì thế, nếu bất cứ một con cá damsel hoặc một loài cá mang tính cạnh tranh tương tự nào

được thả vào bể sau khi cá damsel đã thiết lập địa bàn riêng của mình, chúng đều sẽ bị

tấn công như những kẻ đã xâm phạm lãnh thổ của chúng trong tự nhiên. Khoảng không

gian hạn hẹp trong bể cá làm cho những con cá mới gần như không thể tránh được những

con cạnh tranh. Sự quấy rầy này có thể để lại hậu jquả là con cá mới không chịu ăn.

Để cho bất cứ con cá nào trong bể cũng có thể thích nghi thành công, nó bắt buộc

phải vượt qua ba nhân tố quan trọng sau:

- Chịu stress từ việc bị giam giữ và vận chuyển;

- Những điều chỉnh để thích hợp với môi trường mới xung quanh, nước và

thức ăn;

- Sự cạnh tranh của những con vật cùng bể hiện tại.

Khó khăn thứ nhất có thể được giảm đi bằng cách cứ để cho chúng ở trong bể của

nhà buôn khoảng một tuần hoặc hơn để thích nghi với môi trường giam giữ, miễn là

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

chính sách của cửa hàng có bao gồm giữ hộ con giống cho khách hàng. Chỉ cần một

khoản đặt cọc nhỏ, một vài nhà buôn có thể nuôi cá hộ cho khách hàng. Thời kỳ này cũng

sẽ giúp cá ổn định lại cũng như để lộ ra mọi bệnh tật của chúng. (Nếu cá ốm hoặc chết

trong thời gian nhà buôn chăm sóc, tiền đặt cọc thường sẽ được dùng để mua một con

khác thay thế. Hãy hỏi về chính sách đó ở cửa hàng mà bạn mua.)

Sau giai đoạn đầu tiên này, cá được mua và mang về nhà, nhưng không được đặt

trực tiếp vào bể trưng bày. Bất cứ một con cá nào mới mua về cũng cần được thả vào bể

cách ly nơi nó có thể bắt đầu sự điều chỉnh của mình. Trong bể cách ly, một con cá mới

có thể được nuông chiều và chăm sóc, nếu cần thiết là xây dựng sức khỏe, tập thích nghi

với nước và thức ăn mà bạn cung cấp.

Sau đó, công việc đầu tiên của người chăm sóc cá cảnh là xử lý đối với bất cứ sự

khác biệt nào trong nồng độ các chất hóa học trong nước so với bể cá của nhà buôn.

Phương pháp đơn giản nhất đó là:

- Đặt túi chứa con giống mới vào trong một thùng chứa nhỏ, chậu

nhựa hoặc bất cứ thùng chứa không thấm nước nào để có thể giữ túi ở tư thể đứng thẳng.

- Mở túi và trút bỏ một phần tư cho tới một phần ba nước vận chuyển.Thay

thế lượng nước này bằng một lượng tương tự từ bể cách ly. Lặp lại quy trình này cứ 15

cho tới 20 phút và sau 30 cho tới 45 phút; cuối cùng nhiệt độ của nước trong túi và nồng

độ hóa học sẽ giống như trong bể cách ly nơi bạn thả cá vào.

- Chắt nước qua một cái lưới giữ lại cá và để nước chảy xuống cống hoặc

thùng chứa. Giải phóng những con cá này vào bể cách ly ngay lập tức. Nếu không, bạn có

thể cẩn thận chắt hết nước ra khỏi túi, đảm bảo rằng cá không trốn thoát, sau đó nhanh

chóng thả con giống từ túi vào bể cách ly. (Nếu trước kia bạn từng là một nhà chơi cá

nước ngọt, bạn có thể quên đi thói quen thả nổi túi cá khoảng 15 phút trong bể trưng bày

rồi sau đó dốc thẳng nước và cá vào trong bể. Đây là một quy trình tồi kể cả đối với cá

nước ngọt.)

- Hãy đảm bảo chỉ để ánh sáng yếu trong bể cách ly, nhưng đừng để cá mới

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

vào trong bóng tối hoàn toàn – điều này có thể làm cho nó bị stress và mất hương hướng

giống như việc đặt nó đột ngột vào trong ánh sáng trong bể. Nếu căn phòng tối, hãy để

ánh sáng yếu hoặc bóng ngủ.

QUÁ TRÌNH CÁCH LY

Các con vật trong bể cá cũng giống như con người vậy, phòng bệnh luôn dễ hơn nhiều so

với chữa bệnh. Vì lý do này, việc thiết lập một bể cách ly tách rời khỏi bể chính là một sự

đầu tư rất xứng đáng. Bể cách ly không chỉ giúp cá thích nghi với môi trường mới xung

quanh mà còn với môi trường giam giữ. Thời kỳ sau khi bị giam giữ và vận chuyển là khi

cá cực kỳ dễ nhiễm bệnh hoặc chịu sự tấn công của ký sinh trùng. Bể cách ly giúp chữa

trị những bệnh tật như thế và không ảnh hưởng đến bể chính. Điều này làm giảm khả

năng ký sinh trùng lan rộng trong phạm vi giam giữ của bể chính.

Bể cách ly không cần bất cứ cái gì phức tạp. Một bể 10 – 20 gallon với bộ lọc xốp,

nắp đạy, lò sưởi và một vài chỗ ẩn náu (chậu nhựa, cọc nhựa PVC hoặc một vài mẩu

đường ống) là tất cả những gì thực sự cần thiết. Bởi chiếc bể này không có gánh nặng

sinh học như một bể trưng bày đầy đủ nên bộ lọc cũng không cần lớn như của bể chính.

Sự cư ngụ của các loại vi khuẩn có lợi trong bộ lọc xốp (bộ lọc từ bọt biển) khá

đơn giản. Sau khi hòa được nước muối với độ mặn mong muốn, bộ lọc xốp được lắp vào

bể cách ly. Sau khi bể đã chạy được một vài ngày, bạn có thể thêm vào bể một hòn đá

sống chưa được vô trùng. Vi khuẩn trên hòn đá sau đó sẽ xâm nhập vào miếng bọt biển

và những thành phần chết trên hòn đá sẽ có tác dụng như một nguồn ammoniac. Theo

cách này, sau khoảng từ 3 – 4 tuần, một bộ lọc sinh học năng động sẽ được thiết lập. Có

một cách thay thế đó là đặt miếng bọt biển vào trong một bể đã thiết lập trong khoảng 1

tuần hoặc tương tự và để cho vi khuẩn xâm nhập lên nó. Còn có một cách khác là lấy vài

hòn sỏi trong bể đã thiết lập và đặt quanh miếng bọt biển để nó biến thành một nguồn

chứa vi khuẩn. Thay cho đá sống, bạn có thể thêm vào một túi mắt lưới đựng cát từ một

bể đã được chu chuyển và hoàn toàn khỏe mạnh với vài mẩu thức ăn để chúng phân giải

ra ammoniac. (Một khi bộ lọc từ bọt biển đã được vi khuẩn xâm nhập, đá sống và cát có

thể được loại bỏ.)

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Sau khi vi khuẩn đã được cấy vào và thể hiện qua nồng độ đo được của ammoniac và

nitrit là bằng không, bể có thể được dùng để cách li những con cá mới hoặc bị ốm. Thêm

nữa, bất cứ con cá nào được thích nghi vào trong bể cũng cần được tập thích nghi với

nước trong bể trước.

Để thận trọng hơn nữa, một số người chơi cá cảnh đã nhúng vào bể nước ngọt hoặc

nước đã được vô trùng để giảm lượng ký sinh trùng trước khi cách ly.

CHƯƠNG 6

CHO ĂN VÀ BẢO TRÌ

Những thói quen đơn giản giúp cá ăn tốt và bể cá trông hấp dẫn

Có lẽ mối quan tâm cấp bách nhất của một người chơi mới sở hữu bể cá là cho cá

của họ ăn và ưu tiêm cuối cùng của họ là bảo trì chất lượng nước. Thực sự thì việc cho

những con cá biển khỏe mạnh ăn không phải là quá khó trong khi đó việc sao nhãng thói

quen chăm sóc đơn giản có thể làm cho bể cá của bạn nhanh chóng mất đi vẻ đẹp của nó

rồi sau đó là cả vật nuôi của mình. Tuy nhiên, việc cho ăn nhiều và bảo trì ở mức tối thiểu

bao giờ cũng đi kèm với nhau. Cho ăn nhiều là một lỗi phổ biến của những người chơi cá

cảnh tại nhà sẽ đòi hỏi tiêu tốn nhiều thời gian để xử lý rác thải và những hậu quả chẳng

vui vẻ do nó gây ra. Người chơi khi cho ăn mạnh tay sẽ thấy chất lượng nước giảm xuống

nhanh hơn, các bộ lọc cần được để ý nhiều hơn và sự phát triển của tảo gây hại cũng tăng

nhanh chóng.

Thật may mắn, sự ổn định của hệ thống lọc và sự lựa chọn các loại cá dễ cho ăn

đầu tiên đã được thiết kế để cung cấp cho người mới chơi một độ trễ nhất định. Các kỹ

năng cho ăn tốt và thói quen bảo trì cần thời gian để hình thành nhưng chẳng có gì đặc

biệt khó khăn hay phiền toái về bất cứ công việc vặt nào bạn phải làm hằng ngày để giữ

cho một hệ thống duy trì ổn định.

CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN KHI CHO CÁ ĂN

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Nhiều người chơi cực kỳ thích thú với việc cho các con vật của mình ăn và quan

sát hành vi ăn của chúng. Việc này có vẻ như là một nhiệm vụ khá đơn giản khi bạn chọn

lựa những con cá cẩn thận và tập thích nghi tốt cho chúng, chúng sẽ ăn ngấu nghiến. Tuy

nhiên, để chống cự lại mong muốn được cho cá ăn bất cứ khi nào chúng trông có vẻ đói

lại là bài học khó khăn nhất với nhiều người.

Nhiều loài cá biển liên tục tìm kiếm thức ăn khi ở trong các bãi đá ngầm và chúng

gặm hoặc rỉa mồi suốt cả ngày. Thực chất, phần lớn năng lượng của một con cá được tiêu

tốn khi chúng tìm kiếm thức ăn hoặc cố gắng săn mồi mà không được. Nhiều loài cá sống

trong bãi đá ngầm tìm kiếm thức ăn và ăn trong suốt thời gian hoạt động của chúng. (Một

số loài ăn thịt lớn hơn như moray eel và cá mú ăn ít thường xuyên hơn.) Hậu quả là việc

ném từng lượng lớn thức ăn vào bể một lần trong một ngày không hề có lợi cho sức khỏe

của cá về mặt lâu dài. Không chỉ vì chính lũ cá nhồi nhét thức ăn mà còn bởi vì hầu hết

người chơi có xu hướng thích thả những bữa ăn lớn, vài mẩu thức ăn còn rơi rớt lại sẽ

làm tăng gánh nặng về chất thải nitơrat mà hệ thống lọc của bạn phải giải quyết.

Một phương pháp tốt hơn nhiều khi cho bể ăn – thực tế chính cái bể mới được cho

ăn – là cung cấp từng lượng nhỏ thức ăn trong suốt cả một ngày. Khi cho ăn, tôi cố gắng

không cho nhiều hơn lượng thức ăn mà con cá có thể ăn trong vòng từ 1 – 2 phút. (Quy

tắc cũ là cho lũ cá 10 phút để lau dọn sạch mọi thứ dường như đã khuyến khích người

chơi cho đủ lượng thức ăn để cho cá ăn trong 10 phút. Việc này gần như đảm bảo rằng đa

phần lượng thức ăn sẽ lắng xuống chất nền, rơi vào trong các ngóc ngách trong phần bố

cục thủy sinh và bị thối rữa trong bể hoặc trong các hệ thống lọc.)

Nhiều loài cá biển khỏe mạnh có thể được duy trì một bữa ăn trên một ngày, đặc

biệt khi có thêm đá sống để cung cấp cho chúng các bữa ăn dạo và ăn bổ sung. Tuy nhiên,

cho ăn hai lần thì một ngày thì tốt hơn nhiều, có lẽ một bữa ăn nhanh với thức ăn vụn

chất lượng cao và một bữa ăn từ thức ăn đông lạnh. (Thức ăn biển đông lạnh luôn có

trong tủ của những người chơi cẩn thận.)

Với một số lượng cá hoạt bát và khó nuôi trong bể của mình, tôi đã tạo được thói

quen cho chúng ăn 4 bữa một ngày. Đó dường như là một cái lịch khó có thể duy trì,

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

nhưng chỉ với một kế hoạch nhỏ, bạn có thể tạo thói quen đó khá dễ dàng. Thời gian biểu

được gợi ý là bắt đầu bằng một bữa ăn nhẹ vào buổi sáng trước khi người chơi rời khỏi

nhà. Đèn trong bể có thể chưa bật nhưng có đủ ánh sáng ở bao quanh để cho cá có thể

hoạt động. Một bữa ăn nhẹ sẽ thỏa mãn nhu cầu của những con cá hoạt bát này. Bữa ăn

thứ hai được cho đúng vào lúc bạn về nhà vàp cuối ngày. Đây sẽ là bữa ăn nặng nhất bởi

đèn vẫn bật và tất cả những con cá đều đang hoạt động lúc này. Bữa ăn thứ ba được cho

khoảng một vài tiếng sau đó vào giữa buổi tối và bữa ăn cuối cùng được cho khoảng ít

nhất nửa tiếng trước khi tắt đèn. Dành ra một khoảng thời gian trước khi tắt đèn để cá ăn

hết thức ăn và tránh khả năng thức ăn thừa tích tụ xuống đáy bể. Thời gian cho những

bữa ăn này là vào các khoảng 8 giờ sáng, 6 giờ chiều, 8 giờ tối và 10 giờ đêm.

Nếu cái lịch cho ăn này đơn giản là không phù hợp với bạn, giải pháp dễ dàng hơn

đó là sử dụng hệ thống cho ăn tự động bằng máy hẹn giờ. Nhiều loại máy chất lượng tin

cậy và không quá đắt (vừa có phích cắm vừa có thể dùng pin) hiện đang sẵn có và chúng

sẽ mang thức ăn vụn hoặc các loại thức ăn khô khác đều đều như vậy vào đúng các giờ đã

định trong một ngày.

Cho dù bạn có thiết lập thời gian biểu như thế nào, cũng không được để cho cá ăn

quá nhiều, một bữa ăn không nên nhồi nhét thức ăn cho cá và làm cho chúng trưng những

cái bụng lồi ra. Đôi khi việc này xảy ra sẽ không gây hại nhưng những con cá được

thường xuyên nhồi nhét thức ăn sẽ chết sớm vì mập ú. (Nguyên nhân của những cái chết

như thế cũng có thể được đổi cho là do không có sự lưu thông nước phù hợp. Để giảm

khả năng cá của bạn gặp vấn đề như vậy, hay giảm lượng thức ăn giàu chất béo xuống

mức tối thiểu và cung cấp những dòng nước mạnh trong bể.)

Nếu các chú cá đã không ăn suốt vài ngày, không nên cho chúng ăn quá nhiều vội.

Việc đó không những không làm chúng no lên suốt khoảng thời gian đó mà bữa tiệc bất

thường còn không tránh được làm tăng lượng chất thải. Nếu cá của bạn luôn được cho ăn

tốt, trải qua một vài ngày không có thức ăn cũng chẳng hề làm hại đến chúng. Tảo và các

sinh vật trên đá sống sẽ giúp chúng cầm cự trong nhiều ngày. (Nhiều con cá thông thường

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

sống được tới 2 tuần mà không cần phải cho ăn giữa khoảng thời gian chúng được bắt lên

cho tới khi đến bể của nhà buôn.)

“Chẳng có gì đặc biệt khó khăn hay phiền toái về bất cứ công việc vặt nào bạn phải làm hằng ngày để giữ cho một hệ thống duy trì ổn định.”

Đói ăn hầu hết không phải là vấn đề với hầu hết tất cả các loài cá biển thông thường và

phổ biến. Tuy nhiên thói quen cho ăn ít lâu dần sẽ làm cho chúng gầy đi, đặc biệt là khu

vực phía sau mắt.

Cuối cùng, bể không nên được cho ăn vào mỗi lần người chăm sóc đi qua và lũ cá

trông theo như “có vẻ đói”. Hành vi này không cho thấy chúng bị đói mà ngược lại nó

cho thấy lũ cá đã huấn luyện được người chủ phải nghe theo sự “cầu xin” của chúng. Cho

cá ăn quá nhiều làm cho chúng trở nên to kềnh càng, mất đặc tính tự nhiên, những hành

vi tự nhiên của chúng hiếm khi được thể hiện ra và chúng thường có vòng đời ngắn. Tôi

thích cho cá ăn ở các điểm khác nhau dọc theo bể và theo đúng lịch hơn là cho ăn mỗi khi

chúng làm ra vẻ đói. Về lâu dài, cho ăn như vậy có lợi cho cả cá và chất lượng nước.

SỰ ĐA DẠNG CẦN THIẾT

Trong tự nhiên, hầu hết cá ăn tạp và điều này cũng không ngoại lệ với cá nuôi

trong bể. Một thực đơn bất biến với một loại thức ăn vụn, thưc ăn đông lạnh hoặc thức ăn

khô làm lạnh sẽ không thể giúp cho những chú cá của bạn khỏe mạnh và tươi tắn về lâu

dài. Nhiều nhà chơi cá cảnh thành công đã tự tạo thực đơn cho bữa ăn hàng ngày gồm

thức ăn đông lạnh (làm tan băng) với một hoặc hai phần nhỏ ăn khô chế biến chất lượng

cao và trộn thêm hải sản tươi sống cũng như rau xanh. Một thực đơn đa dạng tạo những

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

hiệu ứng tích cực theo nhiều cách. Thức ăn đông lạnh mang lại vị ngon giống như những

con mồi trong tự nhiên và là thành phần chủ yếu trong thực đơn.Thức ăn vụn và thức ăn

khô cho phép cung cấp các bữa ăn nhanh mà không cần đến máy lạnh. Sự đa dạng không

chỉ giúp một con cá duy trì được sức sống mà còn cả màu sắc của nó.

Ngoài loại thức ăn vụn có ở khắp nơi, bạn còn có thể lựa chọn rất nhiều loại khác.

Vài năm trở lại đây, một lượng lớn thức ăn biển đông lạnh đã được tung ra thị trường,

bao gồm loài nhuyễn thể, sinh vật phù du, tôm brine, cá suốt, mực ống, nhím biển và bọt

biển cũng như một số loại thực đơn pha trộn và một vài trong số đó được thiết kế đặc biệt

cho một số loại cá biển. Một số loài nước ngọt như bloodworm, glassworm, daphnia, tôm

mysis và bọ gậy có thể được dùng để cho cá biển ăn. Thêm vào đó, những nguồn thức ăn

sống hoặc đông lạnh ngoài chợ cá như tôm, cá khúc, trai hoặc hàu đã tách vỏ, thỉnh

thoảng có thể thêm vào cùng.

Việc vận chuyển những loại thức ăn này khá đơn giản. Trong trường hợp là ở dạng

cứng như động vật phù du như động vật phù du và những loài nhuyễn thể, bạn hãy cắt

thành từng miếng vừa phải đủ ăn từ cả một khối đông lạnh. Những mẩu thức ăn như thế

sau đó cần được làm tan băng nữa trước khi cho ăn. Để giảm lượng dinh dưỡng không

được ăn hết như là nước ép hoặc những mẩu vụn quá nhỏ, bạn có thể đặt thức ăn trong

một cái lưới mắt nhỏ, giống như những cái lưới khi bạn cho tôm brine ăn, sau đó nhúng

thẳng lưới xuống dòng nước. (Trong các bể san hô, những phần dịch nước ép giàu protein

này vẫn có thể được san hô và các loài lọc nước tiêu thị, nhưng với hầu hết các bể chỉ có

cá, những chất thải ở dạng lỏng như vậy cần bỏ ở ngoài.)

Bạn cần phải cẩn thận khi rửa bất cứ loại thức ăn tươi nào mua ngoài chợ trước khi

thả chúng vào bể. Tôi khuyên bạn nên mua ở những nơi có tiếng trong việc bán cá tươi

ngon, chất lượng đảm bảo. Điều này đặc biệt quan trọng khi bạn đi mua tôm, bởi chúng

có thể được xử lý hóa học để giữ được vẻ ngoài tươi sống. (Bạn có thể ngửi để nhận biết

chúng có bị xử lý bằng clorin hay không.). Với những con trai hoặc hàu, chúng cần được

rửa sạch bằng nước ngọt không chỉ để loại sạch chất nhờn và bùn bám mà còn cả các loại

vi khuẩn bám trên vỏ của chúng.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

(121): Giới thiệu các loại thức ăn dành cho các cảnh biển, từ trái qua phải, hải

sản vụn khô đông lạnh, gồm nhiều loại như các loại thức ăn khô làm lạnh như là các loài

nhuyễn thể.

Với các loại thức ăn trộn, đông lạnh dành cho cá được mua ở dạng ống hoặc lát

mỏng cần được làm tan băng trước khi được đập vỡ một cách nhẹ nhàng rồi thả vào bể.

Đừng làm ấm lên quá lâu nếu không chúng sẽ hóa lỏng hoàn toàn. Nếu thức ăn đạt đến

điểm này, không nên thả vào bể nữa vì chỉ làm tăng gánh nặng chất thải cho bể.

Hầu hết các loại thức ăn đã được nói đến đều chủ yếu có nguồn gốc từ động vật.

Tuy nhiên, tất cả các loại cá đều nên được cho ăn một lượng thức ăn có nguồn gốc thực

vật nào đó. Điều này rất quan trọng bởi một thực đơn không cân bằng có thể để lại hậu

quả là đầu cá bị biến dạng hoặc hình thành những đường lở loét ở hai bên mình (HLLE –

còn được gọi là bệnh lỗ ở trên đầu). Hơn nữa, màu sắc của cá biển chỉ có thể được duy trì

khi chúng được cung cấp một thực đơn cân bằng và bao gồm cả thành phần thực vật.

Trong thế giới hoang dã, nhiều loại cá biển lấy chất xơ bằng cách gặm tảo mọc

trên đá ngầm. Do kích thước hạn hẹp của hầu hết các bể cá và sự giới hạn của một số loại

tảo đặc trưng mọc trong các hệ thống đóng, sẽ không có đủ các loại tảo thích hợp mọc

trong hầu hết các bể để thỏa mãn những kẻ ăn tảo này. Các loại tảo bổ sung hoặc những

loại chất xơ khác lại rất khó cung cấp. Hiện nay, các dải rong biển khô, được hình thành

dưới dạng tấm mỏng đang khá phổ biến. Những người quen với phong cách ẩm thực của

Nhật Bản sẽ nhận ra đó là nori, một loại rong biển khô dùng để cuốn sushi. Bạn sẽ nhận

ra loại rong biển này là một trong những cách tốt và thuận tiện nhất để cung cấp tảo cho

cá nước mặn. Nori còn có thể được tìm thấy ở hầu hết các cửa hàng thực phẩm của

Oriental. Thường sẽ có hai loại: đỏ và xanh lá cây. (Ở ngoài cửa hàng cá, bạn còn có thể

tìm thấy loại rong màu nâu, loại mà những con cá đuôi gai thích nhất.) Tôi thì nhận thấy

rằng loại màu xanh lá cây tốt hơn loại màu đỏ vì chúng phân rã chậm hơn và dường như

được lũ cá yêu thích hơn.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Nori ở dạng tấm hoặc dải có thể được xé thành từng miếng vừa phải. Khi đã làm

như vậy, bạn có thể chỉ cần dùng một cái kẹp rau - có bán ở các cửa hàng vật nuôi trong

nhà, treo lơ lửng các miếng thức ăn đó trong bể. Với những con cá mới chưa quen với

việc ăn Nori, bạn có thể buộc rong biển khô vào một hòn đá hoặc một bánh xe bằng cao

su để chúng chìm xuống đáy, nơi các cư dân trong bể sẽ sớm tìm thấy và ăn chúng. Có

thể bạn cần phải cố gắng kiên nhẫn một chút để giúp những con cá của mình có thể làm

quen với nguồn thức ăn này nhưng khi một con cá đã ăn thì những con khác cũng dễ

dàng bắt trước theo. Một tác dụng nữa của nori là nó có thể dễ dàng ngấm bất cứ chất

lỏng nào được tưới lên mình nó. Các chất bổ sung vitamin ngày càng trở nên quan trọng

với cá biển, do đó bạn có thể tưới một vài giọt vitamin lên nori để nó ngấm vào trước khi

đem cho cá ăn.

Các lưu ý khi cho ăn

1. Nếu một con cá từ chối ăn hoàn toàn, có thể bạn cần cho nó ăn qua nước. Việc này có thể được thực hiện bởi cá biển liên tục uống nước. Fructose, glucose hoặc dextrose (cornsyrup) có thể được thêm vào ở mức 1 thìa cà fê cho 5 hoặc 10 gallon nước với bể cách ly. Tuy nhiên, đó mới chỉ là giải pháp trong ngắn hạn. Không sử dụng đường sacaro (đường kính thông thường). 2. Bạn không cần lo lắng nếu một con cá không ăn trong suốt 1 hoặc 2 ngày đầu tiên khi mới mua về. Tuy nhiên, nếu một con cá không ăn sau một tuần, bạn có lẽ cần phải thực hiện những đo đạc mạnh mẽ hơn. (Xem gợi ý số 5). 3. Nếu bạn không muốn cá của mình tập trung ở một điểm, mỗi khi một ai đó đi qua bể, hãy thay đổi vị trí đặt thức ăn. 4. Cần đảm bảo rằng tất cả thức ăn đều được ăn hết trong vòng 1 đến 2 phút sau khi được thả vào bể. Hãy giảm lượng thức ăn nếu cá cần nhiều thời gian hơn thế để ăn hết chỗ thức ăn đó. 5. Những loại thức ăn đôi khi được coi là khó có thể cưỡng lại đối với một con giống mới bao gồm: tôm brine tươi trưởng thành, một con trai sống (tách nửa vỏ) mua ở cửa hàng hải sản hoặc các sinh vật tươi sống khác như (trùng, grass shrimp,…). Hãy thử nhiều loài thức ăn khác nhau nếu cá không ăn loại đầu tiên. 6. Nếu một con cá bắt đầu có dấu hiệu của bệnh lở loét (HLLE), nó cần được chữa trị sớm bằng cách tăng lượng thức ăn có nguồn gốc chất xơ thực vật như tảo biển đông lạnh, tảo xoắn, nori, lá rau diếp biển hoặc thức ăn vụn thấm vitamin.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Cùng với việc sử dụng nori, có nhiều cách khác để, còn có nhiều cách khác để cung cấp

chất xơ cho cá. Thức ăn vụn từ tảo xoắn, tảo xanh nuôi trồng được rất nhiều loài cá yêu

thích và sẵn có trong tất cả các cửa hàng cá cảnh. Các nhà sản xuất thức ăn cho cá còn

cung cấp cả khẩu phần ăn cho các loài “ăn cỏ”, bao gồm cả tảo biển, các loại vitamin và

các chất xanh khác. Các loại rau tươi mua ở cửa hàng thực phẩm như rau bina, lá rau diếp

cũng được nhiều người chơi cá sử dụng làm nguồn cung cấp chất xơ cho cá của mình.

Những loại rau này cũng nên được rửa sạch rồi đặt vào máy làm lạnh khoảng 1 tiếng

hoặc đặt trong lò vi sóng khoảng 30 phút làm mềm các đoạn xelulo cứng. Nhưng hãy để

cho chúng mát trở lại trước khi cho ăn. (Hãy loại bỏ những đoạn cẵng dài và cứng, bởi cá

sẽ không ăn.)

Một số loài cá biển còn ăn cả cây bông cải xanh, cà rốt, bí xanh và dưa chuột.

Những loại rau củ này cần được rửa sạch, gọt vỏ, nhúng nước sôi trước khi cho ăn. Cá

tang và cá Thiên Thần cỡ lớn thường rất thích dưa chuột và bí xanh một khi đã ăn quen.

Không nên để cho các loại thức ăn từ rau cỏ này được ở trong bể quá 30 phút, đặc biệt

khi lũ cá tỏ ra không thích thú. Đơn giản là hãy loại bỏ chúng ra và thử một đợt mới vào

lúc khác. Bạn có thể phải mất hàng chục lần để cho cá làm quen với rau, nhưng khi chúng

đã bắt đầu thích, rất nhiều con, đặc biệt là những loài ăn cỏ sẽ ăn ngấu nghiến.

Thức ăn bỏ vào bể cần có kích cỡ thích hợp cho cá. Nếu giả dụ là các loại tôm thì

cũng phải chặt hoặc băm ra để con cá cỡ nhỏ nhất có thể ăn được. Những con cá ăn thịt

lớn như cá chình hay cá sư tử cũng cần có thức ăn với kích thước phù hợp với thói quen

của chúng.

Ở chú ý cuối cùng này, chúng tôi sẽ không muốn quá nhấn mạnh rằng bạn cần bỏ

công sức ra để nghiên cứu về hành vi ăn hay các đặc tính sinh học khác của loài cá mà

bạn nuôi. Trong khi các loài cá nhỏ, năng động có thể sẽ cần được cho ăn làm nhiều bữa

nhỏ mỗi ngày, thì các loài cá ăn thịt lớn và chậm khac snhe cá sư tử, mory eel và cá mú

sẽ sống rất tốt mà chỉ cần 2 hoặc 3 bữa ăn mỗi tuần. Cho ăn quá nhiều sẽ đẩy chúng lớn

quá nhanh, giảm tuổi thọ và tăng gánh nặng về chất thải.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

CÁC KỲ NGHỈ

Đừng bao giờ giao phó việc cho cá ăn cho bất kỳ ai không hiều về các quy tắc. Những

người trông hộ đó hiển nhiên nhiên sẽ giết trọn bộ sưu tập cá biển của bạn bằng sự tử tế

của họ trong khi người chủ đi vắng. Những bộ cho ăn hoặc thức ăn tự động giải phóng

theo thời gian gần như chẳng ích gì và có thể dễ dàng làm ô nhiễm bể cá của bạn. Cách

đơn giản nhất là lựa chọn một máy cho ăn tự động và/hoặc cung cấp cho người cho ăn hộ

của bạn những khẩu phần ăn được đo đạc trước gói trong những tờ giấy nhỏ hoặc những

cái cốc nhựa. Bạn có thể gói những thứ đó vào trong những túi nhựa rồi đặt trong tủ lạnh.

PHƯƠNG CHÂM BẢO TRÌ

Khi bể mới được thiết lập và chạy tốt với một bầy cá, bước tiếp theo là duy trì nó như vậy.

Nếu người chơi không sẵn sàng duy trì những nhiệm vụ hàng ngày thì thậm chí cái bể

đẹp nhất cũng sẽ mất đi vẻ đẹp của nó: tảo sẽ che phủ hết các mảnh kính, bánh răng của

bộ lọc bị cáu bẩn, chất lượng nước sẽ giảm và các vấn đề nghiêm trọng như cá chết cuối

cùng sẽ xảy ra.

Chẳng có cách nào để làm cho công việc bảo trì trở nên thú vị nhưng bằng một

cách tiếp cận phù hợp và một vài mẹo vặt, nó có thể được thực hiện tương đối đơn giản

và tốn ít thời gian. So sánh với các công việc chăm sóc thú nuôi và liên quan đến làm

vườn khác, bảo trì một bể cá cỡ trung bình hoàn toàn không phải là một gánh nặng và

phần thưởng thì có tức thì và làm bạn hài lòng. Một bể cá được bảo trì tốt sẽ luôn mang

lại niềm vui cho bạn, và những công việc vụn vặt sẽ được đền đáp bằng một nhiệm vụ lúc

nào cũng đầy lôi cuốn đó là: nhìn ngắm lũ cá.

THAY NƯỚC

Nhiệm vụ tốn thời gian, thường xuyên và đáng chán nhất đó chính là thay nước.

Đã có rất nhiều tranh cãi xung quanh việc có cần thiết phải thay nước thay không và thay

bao nhiêu, thường xuyên như thế nào là vừa đủ. Sau khi thử nghiệm với gần như mọi

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

kiểu hình thay nước, tôi giờ đây đã chọn kiểu thay nước 5% cách tuần một lần. Tôi đã

chứng kiến những cải thiện rõ rệt trong bể của mình và phương pháp được miêu tả ở đây

làm cho quá trình này vừa nhanh hơn vừa đỡ tẻ nhạt hơn.

Những người chơi thành công khác có những lịch thay nước khác nữa: 5% mỗi

tuần, 10% cứ sau 2 tuần, hoặc thậm chí một lượng rất nhỏ nếu thay hằng ngày – trong

khoảng từ ½ đến 1% lượng nước của bể. Lớp người chơi cũ thường thực hiện việc thay

nước với lượng lớn từ 25 – 30 %, nhưng điều này dường như chỉ làm tăng thêm stress

cho cá và không được giới thiệu cho các bể cá cảnh đặc trưng ngoại trừ trong các trường

hợp khẩn cấp hoặc nỗ lực cứu chữa lớn.

Nếu bạn còn hoài nghi về lượng nước phải thay, thì nồng độ ntơrat và alk trong bể

chính là một chỉ dẫn tốt về chất lượng nước tổng thể. (Cả amoni và nitrit cũng không nên

bị phát hiện ra thấy trong một bể đã thiết lập.) Nếu nồng độ nitrat leo lên mức 10 – 20

ppm hoặc alk đo được ở dưới 2,5 meq/L (hoặc 7 dKH), cần phải tăng dung lượng và tần

suất thay nước.

Nếu bạn thay tổng lượng nước 10 – 20% trong một tháng trong lịch trình bảo trì

hàng tuần hoặc cách tuần, nhiệm vụ sẽ được thực hiện nhanh chóng với hệ thống mà ít bị

phá vỡ và với những triển vọng tốt cho độ ổn định của chất lượng nước.

Yêu cầu đầu tiên cho việc thay nước là một cái xô hay thùng chứa trong đó để hòa

và ngâm nước để thay thế. Tôi may mắn sử dụng lại được luôn cái bể cũ với dung tích

bằng 10% bể chính. Thùng đựng rác bằng nhựa hoặc chậu chuyên dụng cho bể cá có thể

là một lựa chọn khác.

Nước máy hòa với muối bể để phù hợp với độ mặn của bể và đựng trong thùng ít

nhất một vài ngày và đặt đá khí hoặc quạt tạo luồng chạy trong thùng. Bạn có thể gói

riêng từng lượng muối thích hợp cần dùng để tiện sử dụng luôn cho những lần thay nước

sau. (Luôn trộn đúng lượng muối vào đúng lượng nước để trọng lượng riêng đạt được trở

thành một thông lệ. Bạn có thể kẻ những đường vạch không gột sạch được trên thùng hòa

nước muối để tránh đo mỗi lần).

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Một hòn đá khí hoặc một bơm tạo luồng nhỏ nằm gần đáy của thùng chứa sẽ làm

cho nước chuyển động và được thông khí. Sử dụng một cái máy sưởi đặt chìm dưới nước

để giữ nhiệt độ giống như trong bể trưng bày cũng là một ý hay, đặc biệt nếu thùng nước

thẩm thấu được đặt trong hầm lạnh hoặc gara làm lạnh. (Đây là tất cả những thứ mà bạn

sẽ cần đến, và chúng sẽ đơn giản hóa rất nhiều công việc lọc nước.)

Khi đã đến lúc phải thay nước, đầu tiên hãy đổ đầy bể trưng bày nếu nó đã bị bay

hơi làm vơi bớt. (Rõ ràng, dùng nước muối để thay thế cho lượng nước đã bay hơi sẽ

nhanh chóng làm tăng độ mặn của bể lên mức không mong muốn.). Tiếp đó, hút bớt

lượng nước mà bạn cần thay thế ra khỏi bể vào một cái thùng rồi đổ bỏ nó đi. (Trút bỏ

lượng nước này xuống cống là hay nhất kể cả khi bể của bạn bị nhiễm trùng. Lượng muối

bị loại ra khỏi bể tại nhà nên vừa phải để không đủ gây ra các rắc rối.) Khi bạn đã tháo bỏ

lượng nước mong muốn, đánh dấu mức nước thấp hơn này bằng loại mực không xóa

được ở góc phía sau bên ngoài, chỗ mà bạn có thể dễ dàng quan sát được khi thay nước.

Để những lần thay nước về sau bạn có thể tháo trực tiếp lượng nước tương tự này vào

bồn cầu, bồn rửa bát hay bất cứ chỗ nào mà không cần dùng đến thùng. Với những hệ

thống nhỏ, không tiện tháo bỏ, bạn có thể không cần đánh dấu.

Bây giờ bạn đã có thể bơm hoặc trút từ từ lượng nước cần thay thế vào trong bể,

cẩn thận để không làm đổ bất cứ kiểu bố cục trang trí nào. Để xúc tiến việc thay nước và

giữ cho thời gian một số hòn đá sống tiếp xúc với nước là ít nhất, tôi gắn một cái quạt tạo

luồng vào ống dẫn từ thùng đựng nước thay. Bằng việc này, tôi có thể thay 5% nước cho

một bể 400 gallon trong vòng chưa đầy 10 phút.

10 LỖI BẢO TRÌ THƯỜNG GẶP

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

1. Cách quãng quá lâu giữa 2 lần thay nước. 2. Để cho bộ lọc cơ và máy đánh bọt bẩn và nghẽn. 3. Sử dụng nước không sạch để thay thế. 4. Sử dụng loại muối tổng hợp rẻ tiền. 5. Cho ăn quá nhiều. 6. Để cho các điểm chết có cơ hội hình thành và các chất cặn bẩn tích tụ lại ở trên, dưới và phía sau các hòn đá. 7. Không dùng than hoạt tính để làm sạch nước. 8. Không lau chùi quạt tạo luồng và những cái bơm nước khác 3 tháng 1 lần. 9. Chỉ thay các bóng đèn Flourescent sau khi chúng đã cháy. 10. Sử dụng rẻ lau cửa sổ có chứa amoniac ở gần bể.

LOẠI BỎ CẶN

Trong suốt quá trình thay nước, cần phải loại bỏ càng nhiều các cặn bẩn và tảo ra

khỏi bể càng tốt. Sử dụng một cái ống vinyl dài, dẻo và sạch để hút bỏ cặn bẩn náu ở các

ngóc ngách trong đám đá khi bạn đã loại bỏ lượng nước mong muốn ra khỏi bể. (Một số

người chơi cá cảnh thích sử dụng một đoạn ống ngắn cứng ở cuối để lau sạch những điểm

cứng đầu.) Có một phương pháp thay thế là sử dụng turkey baster trước khi thay nước để

cạy bỏ các chất cặn khỏi đá sống. Việc này làm giảm khả năng hình thành các điểm chết

lâu dài và giảm khả năng bùng phát của tảo. Một cái quạt tạo luồng nhỏ, cầm tay cũng có

thể được dùng để thổi cặn bẩn ra khỏi các hòn đá.

Thỉnh thoảng, chất nền của bể cần được làm sạch nhẹ nhàng bằng một ống đệm

chân không nối với một ống xifon. Một số nhà chơi cá cảnh thích hút chân không quá

một nửa khu vực chất nền trong bể cùng một lúc, để ngăn sự phá vỡ dung tích lọc của bộ

lọc sinh học trong bể. Với hệ thống đá sống đã được thiết lập tốt, sự thận trọng này có thể

không cần bảo đảm. Nếu bể cá nuôi nhiều hoặc khả năng chứa đựng của chất nền đã giảm

xuống sau một thời gian dài sử dụng, thỉnh thoảng bạn có thể cần phải hút bỏ từng phần

của chất nền và thay thế chất nền san hô mới và sạch. (Bởi đá sống nằm trực tiếp dưới

đáy bể chứ không phải trên chất nền, cho nên bạn không cần phải di chuyển hoặc đánh

sập cấu trúc của đá sống trong quá trình này.)

Những bước làm sạch này chắc chắn sẽ làm khuấy động bể và tạo ra vài đám bọt

tạm thời nhưng những sự việc tương tự xảy ra trong đá sống đều không gây hại tới cá hay

động vật không xương sống. Nếu bạn tình cờ có nuôi trùng lông mềm, bọt biển hoặc

động vật thân mềm hoặc những loài động vật lọc nước khác trong bể, chúng sẽ có tác

động tích cực tới những “trận bão” cặn bẩn như vậy.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

PHẦN NƯỚC BỔ SUNG

Việc thay nước chỉ có lợi khi nước được mới có chất lượng cao hơn nước bị thay

thế. Một lời cảnh báo đối với những vấn đề về nguồn nước đó là sự bùng phát của tảo

tiếp sau quá trình thay nước, bởi nồng độ các chất nitrat, phosphat hoặc sắt trong nước

thay thế đã tiếp nhiên liệu cho chúng phát triển. Bởi nước máy của thành phố thường

không đạt mức chuẩn để sử dụng cho bể cá nên nhiều người chơi cẩn thận đã nhìn thấy

những lợi ích khi đầu tư một cái máy khử ion hay một máy lọc nước RO để làm sạch

nước. Những chiếc máy này khi vận hành sẽ có tác động loại bỏ các chất hóa học độc hại

và kim loại ra khỏi nước máy. Trong hầu hết các trường hợp, những chiếc máy như vậy

lại trở nên không cần thiết đối với kiểu hình bể chỉ có cá. Tuy nhiên nếu hiện tượng tảo

bùng phát và những cái chết không giải thích được của những con cá vẫn liên tục xảy ra

thì đã đến lúc phải xem lại chất lượng của nước máy bạn dùng. Nếu nước đó chất lượng

tồi thì việc tìm một nguồn nước sạch là vấn đề bức thiết chứ không phải xa hoa lãng phí.

Những chiếc máy khử ion hoặc máy lọc RO dùng tại nhà trong những năm gần đây đã trở

nên phổ biến và không còn đắt đỏ nữa, nhưng chúng đòi hỏi bạn phải làm một số công

việc bảo trì. Một máy khử ion đòi hỏi phải được sạc điện thường xuyên và màng lọc

trong máy RO cũng cần được thay thường xuyên. Ghi lại những thay đổi đó vào một

cuốn sổ.

(125): Bạn có thể dùng một ống nhựa dẻo vinyl giống như một ống xifon để loại bỏ các

chất cặn bám lấy bề mặt và hốc của cấu trúc đá sống trong suốt quá trình thay nước theo

thông lệ.

CÁC CHẤT BỔ SUNG VÀ VI LƯỢNG

Với những kiểu hình bể chỉ có cá đơn giản mà không nuôi quá nhiều và có lợi ích của

việc thay nước thường xuyên, việc sử dụng các chất vi lượng bổ sung và các chất phụ gia

khác có thể không cần thiết. Không giống với các nguyên tố quan trọng mà tạo nên thành

phần chủ yếu của nước biển, các nguyên tố vi lượng chỉ thường đạt mức 1 ppm hoặc ít

hơn nhưng vô cùng cần thiết để duy trì sức khỏe của các sinh vật sống trong bể. Với

những hệ thống có các loài không xương sống ở bãi đá ngầm, đặc biệt là các loài san hô

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

mềm hoặc san hô đá, việc bổ sung những nguyên tố này hàng tuần là hết sức có lợi. Có

rất nhiều hỗn hợp các nguyên tố vi lượng tốt trên thị trường; hãy chọn cái mà những

người chơi thành công khác đang sử dụng. Một số chất phụ gia có thể làm bùng phát các

đám tảo nhớt khi sử dụng đúng theo hướng dẫn về liều lượng của chúng; thử bắt đầu

bằng mức thấp hơn mức gợi ý rồi tăng dần lên.

BẢO QUẢN MÁY ĐÁNH BỌT

Trong khi nhiều mặt khác của công việc bảo trì bể cá yêu cầu thêm vào hoặc loại

bỏ một số thứ, một số khác lại chỉ là những công việc lau chùi đơn giản. Thứ đầu tiên yêu

cầu chú ý bảo quản thường xuyên phải là cái protein skimmer. Phễu chứa của nó cần

được trút bỏ sau 3 – 4 ngày. Trong khi đó, cổ của máy đánh bọt cũng cần được lau hoặc

rửa qua. Việc này không chỉ giúp cho cái máy vận hành hiệu quả hơn mà còn giúp cho

cái máy trông ổn hơn và mủi khá hơn (những chất cặn thải ra thường có mùi hôi, đặc biệt

nếu chúng được gom lại và để thối rữa.)

Tối thiểu nhất thì phễu và cổ máy cần được lau dọn hàng tuần. Nếu bạn chọn kiểu

máy dùng van venturi, mỗi tuần máy vẫn cần tắt từ 5 – 10 phút để cho van mở làm thông

nghẽn. (Trong một máy đánh bọt sử dụng van venturi, muối sẽ ứ đọng lại dần dần trong

ống dẫn khí hoặc nước làm cho máy mất đi hiệu quả. Khi tắt máy, nước sẽ tràn vào ống

dẫn và hòa tan muối. Như vậy van sẽ thông thoáng và hoạt động ở mức hiệu quả cao nhất.

Van venturi cần được rửa giấm định kỳ để hòa tan những phần canxi cacbonat ứ đọng.)

Nếu máy đánh bọt là kiểu chạy bằng khí nén, những miếng đá khí bằng gỗ có xu hướng

làm cho nước bị ứ lại và cần được thay một tháng một lần để duy trì những bong bóng

nhỏ cho phù hợp và đạt được mức hoạt động hiệu quả cao nhất. Định kỳ lau chùi các bơm

của máy lọc khí và thay thế các màng ngăn bị rách.

NHỮNG THIẾT BỊ HỮU ÍCH MÀ CHƯA AI NÓI CHO BẠN

1. Lưỡi dao cạo một mặt dùng để lau dọn phần phía trong

của bể kính bể.

2. Thẻ tín dụng cũ hoặc những mẩu vỡ acrylic dùng để lau

dọn phía bên trong của bể acrylic.

3. Ống nhựa vinyl sạch và dẻo dài 8 feet và đường kính bên

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

trong ½ - ¾ inch dùng để thay nước. 4. Các thùng chứa chỉ dành riêng cho bể cá. 5. Các dụng cụ để làm sạch đá: bàn chải đánh răng cũ, nhíp

để lôi tảo và các chất cặn bám ra khỏi đá sống.

6. Bàn chải để chà cọ: bàn chải có các lông nhựa cứng để cọ

THAN HOẠT TÍNH

Than hoạt tính thường được dùng để loại bỏ các hợp chất có hại và để làm sạch các mảng

nước ố vàng trong một bể cá cảnh. Thông thường bạn phải đặt một hoặc một vài túi dạng

mắt lưới đựng than hoạt tính vào đâu đó trong ống cuộn của máy lọc ngoài – nơi có dòng

nước chảy mạnh. Cácbon có khả năng thấm hút cực mạnh và sẽ nhanh chóng loại bỏ các

chất thải hòa tan hoặc lơ lửng trong nước.

Với tốc độ mà nó có thể làm sạch bể, lúc đầu bạn chỉ nên sử dụng từng lượng nhỏ

cácbon (khoảng 2 thìa xúp tương đương 30 ml cho 10 gallon). Đó là do cácbon không chỉ

hút các hợp chất có hại mà nó có thể còn loại bỏ cả các vi chất cần thiết. Những thay đổi

đột ngột trong những đặc tính tự nhiên này (tốc độ truyền ánh sáng và nồng độ các chất

hóa học trong nước) có thể gây stress cho bất cứ các loài động vật không xương sống có

thể quang hợp cũng như các loại tảo cỡ lớn và tảo san hô nào. Khi bể đã thích nghi được

với sự hiện diện của cacbon, lúc này lượng cacbon có thể tăng lên khoảng 4 thìa xúp cho

mỗi 10 gallon bể. Việc này nên được thực hiện từ từ qua 2 – 3 tháng để ngăn chặn những

cú sốc nhẹ. Khi đã cho vào trong bể lượng cacbon tối đa, bạn cần thay một phần ba cho

đến một nửa lượng cacbon cũ cần được thay mới mỗi tháng. (Sử dụng hai hoặc ba túi

cacbon nhỏ sẽ làm cho bạn thực hiện công việc này dễ dàng hơn là một túi lớn.)

BÓNG ĐÈN

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Các bóng đèn và chùm đèn cần được kiểm tra hằng tuần để khi đã tắt bóng để xem có

muối đọng lại hay không. Tuy trông có vẻ không đáng kể, nhưng một lượng muối tích tụ

nhỏ cũng có thể làm giảm đáng kể lượng ánh sáng truyền đi. Trong khi đã tắt, các bóng

đèn cần được lau sạch bằng khăn tắm làm ướt bằng nước ngọt rồi sau đó lau khô hoàn

toàn. Những cục muối ứ đọng khó lau có thể dùng giấm hoặc propyl alcohol để lau.

Không được lau các bóng đèn khi vẫn còn nóng. (Bóng đèn nóng khi gặp nước lạnh có

thể vỡ hoặc nổ.)

Cùng với việc lau chùi các bóng đèn, thỉnh thoảng bạn cũng cần phải thay chúng.

Hầu hết các bóng dài fluorescent cần được thay sau từ 6 – 9 tháng. Không giống như các

bóng đèn sợt đốt, các bóng fluorescent vẫn tiếp tục cháy ngay cả khi thời gian khả dụng

của chúng đã qua. Sau 9 tháng sử dụng, các bóng fluorescent dài có thể mất tới 60%

cường độ ánh sáng. Thời điểm chính xác để thay bóng đèn phụ thuộc vào không chỉ bóng

đèn mà còn cả thời gian nó được sử dụng mỗi ngày. Nếu chu kỳ chiếu sáng trung bình

của bạn là 12 giờ, bạn có gần 6 tháng sử dụng bóng tốt nhất.

Tầm quan trọng của việc giữ cho bóng luôn ở chế độ chiếu sáng tốt nhất thể hiện

rõ nhất trong các bể san hô với các loài động vật không xương sống hấp thụ năng lượng

từ ánh sáng. Tuy nhiên thú vui ngắm nhìn của bạn cũng sẽ giảm đi cùng với tuổi của

bóng đèn. Khi hệ thống của bạn có chứa những loài động vật không xương sống, đừng

bao giờ thay thế tất cả các bóng đèn cũ cùng một lúc mà thay vì thế hãy thay từng cái một

cứ sau một tuần để cho phép các sinh vật trong bể có thể thích nghi dần dần với sự thay

đổi của cường độ ánh sáng.

NHỮNG LƯU Ý KHI BẢO TRÌ

1. Các dao cạo cần được nhúng rửa bằng nước ngọt sau khi sử dụng rồi sau đó đặt vào trong một thùng bịt kín có chứa một túi cát khô hoặc một vài hạt gạo để hút hết hơi ẩm. Việc này sẽ chống rỉ và tăng thời gian sử dụng của chúng lên rất nhiều.

2. Những thùng đựng muối còn trống (hoặc thùng nhựa sạch) sẽ là những chiếc thùng chứa tuyệt vời để trữ nước muối mới hòa cho đến khi chúng được dùng.

3. Lau chùi phía bên trong kính bể và đánh bật lớp cặn bám ra khỏi đá sống trước khi tiến hành thay nước và để cho những chất cặn Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium lơ lửng này được hút ra khỏi hệ thống. 4. Các bóng đèn cần được tắt và để nguội trước khi được lau chùi.

Pha một ít giấm hoặc rượu isopropyl với nước tinh khiết sẽ có tác

\

KIỂM TRA NƯỚC

Trong suốt pha đầu tiên khi khởi động một hệ thống mới, việc kiểm tra nước thường

xuyên cho phép bạn có thể nắm được tiến độ của quá trình chu chuyển trong bể. Trong

suốt những tuần hoặc những tháng đầu tiên, bạn có thể kiểm tra nồng độ ammoniac, nitrit

và nitrat hằng tuần.

Khi bể đã chu chuyển (là khi nồng độ ammoniac và nitrit đã giảm xuống mức

không thể phát hiện được nữa), bạn chỉ cần thực hiện một vài lần kiểm tra đơn giản mỗi

tháng là đủ. Một vài bài kiểm tra như với ammoniac và nitrit chỉ cần thực hiện khi xuất

hiện vấn đề như là nước nổi váng hoặc có sinh vật chết trong bể. Nếu bể tiếp tục cho ra

các thông số của ammoniac và nitrit, nguyên nhân rất có thể xuất phát từ việc cho ăn quá

nhiều hoặc nuôi quá nhiều. Đầu tiên, thử giảm lượng thức ăn mà bạn đang cung cấp. Nếu

việc này không hiệu quả, hãy tăng cường lọc hớt váng và lưu thông nước hoặc giảm

lượng cá bạn đang nuôi.

Nếu bể vẫn đang chạy tốt, các bài kiểm tra cần làm liên tục và thường xuyên bao

gồm các bài kiểm tra về nhiệt độ, độ mặn, nồng độ nitrat, pH và alk.

Cái mà đo đạc dễ nhất và thường được xem xét nhiều nhất đó chính là nhiệt độ.

Ghé mắt coi nhiệt độ nhiều lần trong tuần (hoặc là hằng ngày vào lúc cho ăn) là một thói

quen tốt. Dù khoảng giữa từ 70 – 80 độ F là chấp nhận được nhưng với hầu hết cộng

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

đồng cá thì khoảng nhiệt độ lý tưởng nhất là từ 74 – 78 độ F. Nếu nhiệt độ quá thấp, hãy

chạy máy sưởi ở mức điện năng phù hợp với kích thước bể và với nhiệt độ bao quanh

trong phòng. Một vấn đề thường gặp phải nhất là bể đang chạy ở nhiệt độ quá ấm. Nếu

trong trường hợp này, máy sưởi cần được kiểm tra một lần nữa để xác định xem liệu nó

có còn hoạt động tốt nữa không và những chỗ tiếp xúc không bị dính. Nếu đó không phải

là vấn đề rất có thể lượng nước dư thừa là do các bóng đèn không được thông gió một

cách thích hợp. Tất cả các bóng đèn đều tỏa nhiệt và nếu bể hoặc các bóng đèn không

được làm mát bằng một cái quạt, lượng nhiệt này sẽ tỏa vào trong phần thủy sinh của bể.

Nếu đây chính là nguồn gốc vấn đề, bạn có thể gắn một cái quạt nhỏ thổi qua các bóng

đèn và qua lớp mặt nước.

Bơm và các quạt tạo luồng cũng góp phần tỏa thêm nhiệt vào cho bể. Vì lý do này,

bạn có thể cần phải gắn thêm quạt hoặc chuyển sang sử dụng bơm và quạt tạo luồng được

làm mát khí, đặc biệt là vào mùa hè. Trong trường hợp xấu nhất, bạn có thể cần phải mua

một cái máy làm lạnh hoặc một cái điều hòa nhiệt độ để làm mát bể và phòng. Những thứ

này thường chỉ cần cho những bể có cường độ chiếu sáng mạnh hoặc ở những vùng rất

nóng vào mùa hè. (Khi nhiệt độ trong bể vượt qua ngưỡng 84 độ F, bạn cần phải hành

động ngay. Hãy tắt hết các bóng đèn, đặt một cái quạt thổi thẳng vào ngang mặt nước để

tăng lượng nước bốc hơi và làm mát. Với những trường hợp khẩn cấp, bạn có thể dùng đá

buộc chặt trong túi và để lơ lửng trên mặt nước để điều hòa nhiệt độ.)

(128):

1. Mặt trong của bể có thể được lau chùi bằng dao cạo hoặc những thanh nhựa, bàn chải

hoặc các dụng cụ làm sạch khác thiết kế riêng cho bể.

2. Những chiếc kẹp dài tay của những người chơi rất hữu dụng trong các hệ thống lớn để

có thể thọc sâu vào bên trong bể trong suốt quá trình cho ăn hoặc bảo trì.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

ALKALINITY

Trong khi nhiệt độ là biến số dễ đo lường và điều khiển nhất thì alk lại là biến số khó

nhất. Alk đo lường khả năng trung hòa của nước, có nghĩa là khả năng chống lại sự axit

hóa của nước. Mức alk tốt nhất là từ 2, 5 – 3,5 meq/L hoặc 7 – 10 dKH.

Qua thời gian, khả năng trung hòa của một bể cá sẽ có xu hướng giảm bởi kiềm sẽ

phản ứng với những axit mà thải ra từ quá trình thối rữa liên tục xảy ra. Việc này thông

thường xảy ra từ từ nhưng nó có thể xảy ra nhanh trong một bể có gánh nặng sinh học lớn

khi bị cho ăn quá nhiều. Khi điều này xảy ra, các quy trình thay nước thông thường để

duy trì alk có thể không còn phù hợp nữa và bạn cần thực hiện một số bước sau để đưa

alk trong bể về mức mong muốn.

Đầu tiên, thử thay nhiều nước hơn trong mỗi lần thay nước hoặc tăng tần suất thay

nước. Tiếp đó, có thể thêm vào bể một chất trung gian có tính kiềm. Có nhiều loại chất

trung hòa trên thị trường do đó bạn chỉ cần đọc kỹ hướng dẫn bên ngoài bao bì là có thể

chọn ra được một cái phù hợp. Thêm vào hoặc thay thế một lượng chất nền cát san hô

(aragonit) cũng có thể giúp ích (xem trang 83). Cuối cùng, nếu không biện pháp nào hiệu

quả, gánh nặng sinh học cần được giảm bằng cách cho ăn ít đi.

NITRAT

Một thông số khác cần đo lường hàng tháng đó là nitrat. Mục đích là để có hàm

lượng nitrat thấp nhất có thể. Những người chơi bể san hô coi mức 0 là mức thấp nhất

cần đạt trong khi với bể chỉ có cá, từ 0 – 50 ppm là có thể chấp nhận được. Lý do mà bạn

cần đạt mục tiêu hàm lượng nitrat từ 0 – 10 ppm là hàm lượng cao hơn gây ra nguy cơ

bùng phát tảo. Nếu nồng độ nitrat cao và tảo bắt đầu phát triển, bạn có thể cần phải thực

hiện một vài động tác như tăng tần suất và dung lượng nước cần thay. Hãy đảm bảo rằng

các máy lọc cơ được lau chùi thường xuyên và không bị tích tụ một lượng lớn các chất

cặn. Tiếp đó, thử giảm lượng thức ăn cho vào bể và xem xét việc cắt giảm gánh nặng sinh

học. (Có lẽ số lượng các con giống đã tăng lên quá cao hoặc một hay một vài con vật đã

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

phát triển quá to và thải ra quá nhiều chất thải so với kích thước bể cá của bạn.) Một

phương pháp thay thế khác là tăng kích cỡ và /hoặc hiệu quả của máy đánh bọt protein.

Tất cả những phương pháp này đểu nhằm giảm lượng chất thải trong bể. Nếu

những phương pháp này không làm giảm hàm lượng nitrat trong bể của bạn, thì các nhân

tố khác có thể được áp dụng. Nước mà bạn thay thế hoặc nước muối hòa tan có thể chứa

đủ nguồn nitrat gây ra rắc rối. Hãy thử kiểm tra nồng độ nitrat ở một vài phần nước sạch

mà bạn dùng để hòa nước muối thay thế. Nếu có phát hiện nitrat, trộn mẫu nước của bạn

với muối và một ít nước cất. Nếu mẫu này vẫn phát hiện nitrat, bạn đã tạo nguồn nitrat

trong bể từ chính hỗn hợp nước muối. Nếu không phát hiện nitrat, nguồn nitrat chính là

phần nước được thay thế. Dù nguồn nitrat này có từ đâu, cần tiến hành các bước để điều

chỉnh lại, nếu không sự phát triển của bọn tảo sẽ tiếp tục quấy rầy bạn.

(129): Một nam châm làm sạch bể khi đã được đặt vào vị trí sẽ làm sạch mặt trong kính

bể khỏi tảo mà bạn không cần phải nhúng tay vào.

LÀM SẠCH TẢO

Thậm chí dưới những điều kiện lý tưởng, các lớp màng tảo có xu hướng xuất hiện bên

trong các thanh kính bể. Hãy cọ sạch chúng đi ít nhất một lần một tuần. Như đã lưu ý,

nếu có sự tập trung nitrat cao, bạn có thể phải làm việc này thường xuyên hơn.

Một miếng lau bằng sợi sẽ có khả năng làm sạch phần lớn lượng tảo đó nhưng với

những loại tảo nạm cứng bám vào kính bể, bạn có thể cần phải dùng đến dao cạo (trên

kính) hoặc thanh cạo nhựa (trên acrylic). Một số người chơi thích sử dụng nam châm

hoặc bàn chải để lau chùi các thanh quan sát này mà không để tay họ phải ướt.

Tảo mọc không kiểm soát được trên các hòn đá hoặc chất nền sẽ được làm sạch tốt

nhất bằng phương pháp tự nhiên. Một con cá tang sẽ giúp ích bằng cách gặm liên tục và

một đám ốc sên và ốc mượn hồn cũng vậy. Brittle star hoặc những con sao biển nhỏ và

những loài động vật không xương sống đào đáy bể cũng trợ giúp bằng cách giữ cho bể

mặt chất nền không có tảo.

NHIỆM VỤ NỬA NĂM MỘT

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Công việc bảo trì mà thường được xem xét kỹ và thực hiện 6 tháng một lần là việc lau

chùi các bơm và quạt tạo luồng. Qua thời gian, cặn bám, dịch nhầy và đôi khi cả canxi có

xu hướng tích tụ lại trên các vòi dẫn vào và cánh quạt. Chúng có thể làm cản trở nghiêm

trọng việc vận hành và đầu ra của các bơm và làm giảm tuổi thọ của chúng. Hai lần một

năm, bơm và các quạt tạo luồng cần được tắt, lấy ra và lau chùi thật kỹ. Nếu những cái

máy này bị tắc nghẽn nghiêm trọng, đó là một dấu hiệu tốt cho thấy chúng cần được lau

chùi thường xuyên hơn. Khi quạt tạo luồng đã được làm sạch, dòng chảy của nó sẽ tăng

lên khá nhanh. (Sau khi khởi động lại những bơm và quạt tạo luồng đã được làm sạch,

hãy chú ý xem chúng làm việc như thế nào bởi sự tăng luồng nước đột ngột có thể làm

khuấy đảo cả bể và những máy đánh bọt hoạt động không ổn.)

SỔ TAY DÀNH CHO BỂ CÁ

Hệ thống cá cảnh biển có nhiều thứ diễn biến trong một khoảng không gian tương đối

nhỏ và việc ghi lại những gì bạn làm và quan sát được thì đặc biệt hữu ích cho công việc

bảo trì và chuẩn bị cho những sự thay đổi. Cuốn sổ này không cần quá tỉ mỉ hay phức tạp.

Tất cả những thứ bạn cần là một phương pháp để ghi dấu lại các thông số trong bể, với

ngày tháng và các thông số của tất cả các lần kiểm tra nước. Cũng cần được ghi lại là

những con giống mới: thời điểm chúng được thêm vào, kích thước của chúng, thời điểm

chúng chết, các lý do có thể. Những ghi chú khác có thể bao gồm cả những bình luận của

bạn về bộ mặt chung của bể và điều kiện cá nhân của từng con giống. Tất cả những thay

đổi về thiết bị cũng cần được ghi lại, đặc biệt ngày tháng khi các bóng đèn được thay thế,

máy sưởi được lắp đặt hoặc bơm được lau chùi.

Việc giữ lại những ghi chép tỉ mỉ có thể dường như khá lặt vặt nhưng bằng việc có

một cuốn sổ, bạn có thể đón đầu được những vấn đề trước khi chúng trở nên tồi tệ hơn và

quan trọng hơn là xác định nguyên nhân của những vấn đề đó. Ghi chép vào một cuốn sổ

cũng rất tiện tay khi có sai sót gì đó và bạn cần những lời khuyên bên ngoài. Nếu bạn

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

viếng thăm một cửa hàng bể cá với một câu chuyện kể lể đầy đau khổ về những con cá đã

chết hoặc về chuyện tảo mọc quá nhiều, cái đầu tiên họ muốn biết là các thông số trong

các đợt kiểm tra nước của bạn. Có một cuốn sổ lúc này sẽ là vô giá.

Theo kinh nghiệm của riêng tôi, một cuốn sổ tỏ ra là kẻ cứu rỗi linh hồn bởi nó

giống như một công cụ chẩn đoán để xác định lý do của điều gì đó tồi tệ đang diễn ra. Đã

có lúc trong bể trưng bày của tôi, nơi chứa một số lượng lớn những con wrasse và anthias,

một lượng lớn trong số đó (6 con) đã nhảy ra trong bể chỉ trong vòng 2 tuần. Lúc đầu tôi

dùng tấm chắn, nhưng sau đó nhật ký của tôi cho thấy tôi đã thả một con wrasse mới vào

bể trước khi tất cả những rắc rối đó xảy ra. Tôi đã không để ý rằng con mới đến này gây

ra rắc rối bởi con cá trông vô tội này không bao giờ làm phiền những con khác khi bật

đèn. Được cảnh báo về mối liên hệ giữa sự có mặt của con wrasse này và những con cá bị

bắt nạt khác, tôi đã bố trí một đêm thức trắng. Và đúng là như vậy, khi đèn bắt đầu tắt

dần, con cá này bắt đầu bắt nạt những người hàng xóm của mình. Sau khi loại bỏ con

wrass đó, những chuyến bay không được xếp lịch đó của lũ cá đã hết hẳn. Như vậy, tôi có

thể đã không nhận ra chuyện gì đang diễn ra nhưng cuốn sổ của tôi đã cho tôi một đầu

mối là con cá này có thể là thủ phạm.

Ngoài việc tiện lợi để ghi chép về các điều kiện của bể và các công việc mà bạn đã

thực hiện, cuốn sổ này còn có thể được dùng làm bản ghi nhớ những công việc sẽ phải

làm. Ghi chú lại xem công việc bảo trì cần được thực hiện thường xuyên như thế nào, rồi

sau đó lên lịch cho chúng một cách thích hợp, ví dụ như là thay nước sau hai tuần, thay

bóng đèn sau 9 tháng và những việc tương tự. Khi các công việc được lên lịch một cách

thường xuyên và được xác định vào một ngày cụ thể, nó sẽ có khả năng được thực hiện

cao hơn. Chính những công việc bảo trì “khẩn cấp” không được lên lịch trước dường như

luôn đến vào lúc không thích hợp mới chiếm nhiều thời gian nhất.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

“ ‘Một công việc bào trì cuối cùng’ cần được thực hiện hàng ngày là ngồi lại phía sau và quan sát bể cá. Nghe có vẻ đơn giản nhưng đó thực sự là một thói quen rất quan trọng.”

“CÔNG VIỆC VẶT SAU CÙNG”

Một công việc bào trì cuối cùng cần được thực hiện hàng ngày là ngồi lại phía sau và

quan sát bể cá. Nghe có vẻ đơn giản nhưng đó thực sự là một thói quen rất quan trọng.

Một danh sách liệt kê các công việc cần làm thường bao gồm hết việc làm sạch nước,

chạy thiết bị, đếm số đầu cá và việc bảo đảm rằng tất cả các con vật đang ăn và cư xử

bình thường. Chỉ bằng cách thường xuyên quan sát bể cá, người chủ bể sẽ đánh giá được

bể cá của mình đang hoạt động như thế nào. Sự quan sát thường xuyên có thể giúp một

người cảm nhận được khi mọi thứ theo đúng hướng hoặc có gì đó sai sót. Những buổi

quan sát này sẽ thường xác định một vấn đề tiềm tàng rất lâu trước khi nó có thể bùng

phát thành một thảm họa.

Nếu người chủ bể biến việc bảo dưỡng một bể cá biển thành thói quen thường

xuyên (ít nhất một vài phút quan sát hàng ngày, với một buổi tập hợp vào một thời gian

cố định mỗi tuần) gần như nên để tự động hóa. Với nhiều người trong số chúng ta, đó trở

thành thời gian thư giãn, gần như là một phép chữa bệnh với kết quả là chúng ta – cũng

như bất cứ người nào khác nữa ngắm nhìn bể cá của chúng ta sẽ thấy và đánh giá được.

(131):

NÂNG CẤP MỘT HỆ THỐNG ĐÃ SỬ DỤNG BỘ LỌC ĐỆM

Sức khỏe và bộ mặt của một bể đã được thiết lập có thể được cải thiện rất lớn bằng việc

thêm đá sống và giảm sự phụ thuộc của bể vào hệ thống lọc đệm. Việc này có thể được

thực hiện trong một lần đại tu hoặc qua một thời kỳ trong vài tháng. (Đừng bao giờ thêm

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

đá sống chưa vô trùng vào một bể đã được thiết lập với sự có mặt của cá và các loài động

vật không xương sống.)

SỬA CHỮA LẠI TOÀN BỘ

1. Bắt đầu khởi động một bể cách ly.

2. Mua đá sống đã vô trùng (hoặc tự vô trùng đá sống trong một cái thùng chứa riêng)

và bất cứ loại thiết bị được yêu cầu thêm nào.

3. Tắt hết mọi nguồn trong bể trưng bày và di chuyển tất cả cá và san hô trang trí

sang bể cách ly.

4. Loại bỏ hết cát và các tấm lọc đệm. Làm sạch toàn bộ bể hoặc để cho nó lắng và

cố gắng hút hết các chất cặn bã ra ngoài. Nhúng cát vào nước muối đã hòa tan, để

ngấu và sạch rồi giữ lại để tái sử dụng.

5. Thêm vào đá sống, cùng với cát đã được rửa và cấy vi khuẩn vào hệ thống ban đầu.

(Thực hiện theo quy trình từng bước một để bắt đầu và chu chuyển một cái bể mới,

trang 73 - 85).

6. Khởi động lại các thiết bị và cho phép hệ thống chu chuyển trong khi vẫn nhốt cá

ở bể cách ly.

7. Thả lại cá vào trong bể chính, theo sát quy trình tập thích nghi chúng với các điều

kiện mới.

SỬA LƯỚT

Nếu làm một cuộc đại tu hoàn toàn không phải là một viễn cảnh hấp dẫn, một hệ

thống với bộ lọc đệm đã tồn tại có thể được chuyển thành bộ lọc sinh học với đá sống

mà không loại bỏ hết cá ra khỏi bể.

1. Hút hết chất nền cho tới khi chỉ còn ½ - 1 inch còn lại trên lớp lọc đệm. Việc này

có thể được thực hiện ngay lập tức hoặc dần dần trong quá trình thay nước. (Nếu

có thể hãy loại bỏ cả các chất cặn tích tụ dưới tấm lọc đệm nữa.)

2. Loại bỏ tất cả những vật trang trí đang có và thay bằng đá sống đã được vô trùng

hoàn toàn. Đá sống có thể được đặt trên lớp nền cũ, với tấm lọc đệm giữ nguyên

và vẫn tiếp tục hoạt động.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

3. Lắp đặt thêm máy đánh bọt protein, bóng đèn mới, quạt tạo luồng và những thiết

bị khác. (Thiết bị mới có thể được thêm vào cả trước và sau khi cho đá sống vào

hoặc được chia theo từng giai đoạn.)

4. Sau khi thả thêm đá sống vào bể, hãy kiểm tra nồng độ ammoniac và nitrit và cho

phép tấm lọc đệm tiếp tục chạy cho tới khi các điều kiện trong bể hoàn toàn được

ổn định.

5. Khi thống số ammoniac và nitrit đã không còn được phát hiện thấy nữa, hãy rút

nguồn (bơm khí hoặc quạt tạo luồng) nối với bộ lọc đệm. Nếu có thể, loại bỏ các

ống trụ và bịt kín các đầu vào các khoảng trống trong bộ lọc đệm. Giữ các tấm lọc

đệm nguyên vị.

Những bổ sung hoặc những thay đổi luôn đi kèm với việc cải thiện chất lượng nước lâu

dài trong bể. Hệ thống này sẽ được cải thiện và ổn định qua một thời gian dài, nhưng

thỉnh thoảng có thể bạn cần phải nhấc đá sống lên và hút hết các chất cặn bên dưới để

loại bỏ tất cả cùng với các tấm lọc đệm.

Phương pháp thay thế tốt nhất vẫn là loại bỏ các tấm đệm ra khỏi bể ở một số chỗ.

Chất nền hoàn toàn có thể sử dụng được và chứa nhiều vi khuẩn, do đó cần được giữ lại.

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium

Tài liệu được biên dịch bởi Saltwater Aquarium