TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 8-2014
TÁI TẠO DÂY CHẰNG CHÉO TRƯỚC DẠNG HAI BÓ BẰNG GÂN CƠ BÁN GÂN VÀ GÂN CƠ THON GẬP BA
Vũ Nhất Định*
Từ 6 - 2013 đến 7- 2014, 74 bệnh nhân (BN) được tái tạo dây chằng chéo trước (DCCT)
dạng 2 bó bằng gân cơ bán gân và gân cơ thon tự thân gập ba.
Nghiên cứu bao gồm 66 nam, 8 nữ, tuổi trung bình 31,1 (18 - 44 tuổi). Tổn thương sụn chêm trong 12 BN, tổn thương sụn chêm ngoài 16 BN, tổn thương cả 2 sụn chêm 1 BN. 59/74 BN được đánh giá kết quả ở thời điểm > 3 tháng sau phẫu thuật (3 - 14 tháng).
Phẫu thuật tái tạo DCCT dạng 2 bó với 2 đường hầm đùi và 1 đường hầm chày, đường hầm đùi cho bó trước trong sâu 30 mm, đường hầm đùi cho bó sau ngoài sâu 25 mm. Đường hầm chày được khoan với góc 45º. Mảnh ghép dây chằng được cố định bằng vít chèn sinh học.
Kết quả: dấu hiệu ngăn kéo trước (-) ở 56/59 BN (94,92%), dấu hiệu ngăn kéo trước (±) 3/59 BN (5,08%); dấu hiệu Lachman (-) 58/59 BN (98,31%), dấu hiệu Lachman (±) 1/59 BN (1,69%); dấu hiệu Lachman alternative (-) 58/59 BN (98,31%), dấu hiệu Lachman alternative (±) 1/59 BN (1,69%); dấu hiệu Pivot - shift (-) 59/59 BN (100%). Kết quả theo thang điểm Lysholm, 57/59 BN (96,61%) đạt kết quả tốt và rất tốt, 2/59 BN (3,39%) đạt kết quả trung bình.
* Từ khóa: Dây chằng chéo trước dạng 2 bó; Gân cơ bán gân; Gân cơ thon.
TÓM TẮT
DOUBLE BUNDLE ACL RECONSTRUCTION USING TRIPLE GRACILIS AND SEMITENDINOUS TENDONS
From 6 - 2013 to 7 - 2014, a total of 74 consecutive and selected patients underwent double
bundle ACL reconstruction using triple gracilis and semitendinous autograft.
The study included 66 males and 8 females, the ages at operation ranged from 18 to 44 years (average 31.1 years). A single tear of the medial meniscus was found in 12 cases, a single tear of the lateral meniscus in 16 cases, a tear of both menisci in 1 case. 59/74 patients who underwent this procedure were evaluated at minimum 3 months follow-up (3 - 14 months).
Arthroscopycally, double bundle ACL reconstruction with two femoral single tibial tunnel was done using triple gracilis and semitendinous tendon grafts. The grafts were fixed with bioasorbable interference screw. The AM femoral tunnel was drilled with a depth of 30 mm, PM femoral tunnel was drilled with a depth of 25 mm. The tibial tunnel was drilled with angle of 45º. Treatment for the associated injuries included partial meniscectomy.
SUMMARY
* Bệnh viện Quân y 103 Người phản hồi (Corresponding): Vũ Nhất Định (vunhatdinhbv103@gmail.com) Ngày nhận bài: 12/08/2014; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 17/09/2014 Ngày bài báo được đăng: 23/09/2014
141
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 8-2014
Results: anterior drawer test (-) in 56/59 patients (94.92%), anterior drawer test (±) in 3/59 patients (5.08%); Lachman test (-) in 58/59 patients (98.31%), Lachman test (±) in 1/59 patients (1.69%); Lachman alternative test (-) in 58/59 patients (98.31%), Lachman alternative test (±) in 1/59 patients (1.69%); Pivot - shift test (-) in 59/59 patients (100%). A good or excellent result was obtained in 57/59 patients (96.61%), 2/59 patients (3.9%) faire.
* Key words: Double bundle ACL reconstruction; Gracilis semitendinous; Tendon semitendinous.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật tái tạo 2 bó DCCT hay còn gọi là phẫu thuật tái tạo DCCT theo giải phẫu được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong lâm sàng. Nguyên nhân tổn thương chủ yếu do tai nạn thể thao (thứ tự thường gặp là: bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, võ thuật), 6/74 BN bị ngã do tập vượt vật cản (quân đội) và 5/74 BN bị tai nạn xe máy.
29/74 BN có tổn thương sụn chêm
Trước đây, chúng tôi sử dụng gân cơ bán gân và gân cơ thon tự thân gập đôi để tái tạo DCCT dạng 2 bó. Phần lớn số BN này phải lấy gân cả ở chân bên đối diện để đảm bảo đường kính đủ lớn cho mỗi mảnh ghép. Đây là lý do khiến bác sỹ và người bệnh vẫn phải cân nhắc trước khi thực hiện kỹ thuật.
(6 BN bị rách sừng sau sụn chêm trong, 1 BN rách ở thân sụn chêm trong, 5 BN sụn chêm trong bị rách hình quai xách, 10 BN rách sừng sau sụn chêm ngoài, 1 BN bị rách ở thân sụn chêm ngoài, 5 BN sụn chêm ngoài bị rách hình quai xách và 1 BN bị rách cả 2 sụn chêm).
Thời gian từ khi bị tổn thương đến khi được mổ tái tạo dây chằng trung bình 9,3 tháng (1 - 14 tháng). Từ 6 - 2013 đến nay, chúng tôi tiến hành gập ba mỗi gân cơ bán gân và gân cơ thon. Nghiên cứu này nhằm: Đánh giá kết quả phẫu thuật tái tạo DCCT dạng 2 bó theo kỹ thuật trên. 2. Kỹ thuật mổ.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu.
74 BN, trong đó 8 nữ và 66 nam với độ tuổi trung bình 31,1 (18 - 44 tuổi), bị đứt DCCT được phẫu thuật nội soi tái tạo DCCT dạng 2 bó với 3 đường hầm bằng gân cơ bán gân và gân cơ thon tự thân gập ba tại Bệnh viện Quân y 103 (từ 6 - 2013 đến 7 - 2014). Những BN này không bị tổn thương dây chằng chéo sau (DCCS), dây chằng bên, gãy xương chi dưới, thoái hóa khớp nặng nề. Chuẩn bị mảnh ghép dây chằng (hình 1): gập ba gân cơ bán gân, khâu mỗi đầu gân một đoạn dài 30 mm bằng chỉ safil 1/0 để tái tạo bó trước trong. Gập ba gân cơ thon, đầu nhỏ hơn, khâu bện dài 25 mm, đầu còn lại khâu bện dài 30 mm bằng chỉ safil 1/0 để tái tạo bó sau ngoài. Đo độ dài của mỗi mảnh ghép. Đo đường kính của từng mảnh ghép dây chằng để xác định đường kính của 2 đường hầm đùi, đo đồng thời đường kính của 2 mảnh ghép để xác định đường kính của đường hầm chày.
142
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 8-2014
Hình 1: Gân cơ bán gân và gân cơ thon gập ba.
Lối vào khớp: sử dụng 3 đường vào (trước trong, trước ngoài và đường vào phía trong cách lối vào trước trong 2 cm).
ứng đường kính mảnh ghép gân cơ thon gập 3.
Tạo đường hầm chày: khoan đường hầm chày tạo với mặt khớp mâm chày góc 45º, có đường kính bằng đường kính của cả 2 mảnh gân ghép.
Tạo đường hầm đùi cho bó trước trong: camera đưa qua lối vào trước ngoài, khoan tạo đường hầm chột sâu 30 mm qua lối vào trước trong, với đường kính tương ứng, đường kính mảnh ghép gân cơ bán gân gập ba.
Kéo 2 mảnh ghép dây chằng qua đường hầm chày lên 2 đường hầm đùi tạo bó trước trong và bó sau ngoài (hình 2). Cố định các mảnh ghép dây chằng bằng vít chèn sinh học.
Tháo ga rô, đặt dẫn lưu, đóng vết mổ, cố định gối duỗi. Tạo đường hầm đùi cho bó sau ngoài: camera đưa qua lối vào trước trong, khoan tạo đường hầm chột sâu 25 mm qua lối vào thứ 3, với đường kính tương
Hình 2: Hai bó DCCT sau khi được tái tạo bằng gân cơ bán gân và gân cơ thon gập ba.
143
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 8-2014
3. Đánh giá kết quả.
- Đo kích thước và độ dài của 2 mảnh ghép dây chằng. - Chiều dài mảnh ghép gân cơ bán gân gập ba: 8 - 9 cm; trung bình 8,6 cm, đường kính ở đầu lớn nhất 6 - 8 mm.
- Đo chiều dài đường hầm chày. - Chiều dài trung bình của đường hầm
chày: 3,8 cm (3,5 - 4,2 cm).
- Đường kính đầu lớn nhất của cả 2 - Đánh giá tình trạng khớp gối, nơi lấy gân sau phẫu thuật. Chiều dài của mảnh ghép các bó dây chằng so với yêu cầu. mảnh ghép: 7,5 mm (7 - 10 mm).
2. Kết quả sau phẫu thuật.
- Đánh giá độ vững của khớp gối (test ngăn kéo trước, test Lachman, test Lachman alternative, test Pivot - shift) ở thời điểm trên 3 tháng sau phẫu thuật.
- Đánh giá kết quả theo thang điểm của Lysholm ở thời điểm trên 3 tháng.
- Thống kê các tai biến và biến chứng sau phẫu thuật. Không có trường hợp nào bị nhiễm khuẩn khớp, 2/74 BN bị nhiễm khuẩn nông tại vị trí lấy gân. Không có trường hợp nào bị vỡ đường hầm. Tất cả 74 mảnh ghép 2 bó dây chằng đều vươn tới được miệng đường hầm chày hoặc thừa. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm mảnh ghép.
- Chiều dài mảnh ghép gân cơ thon gập ba: 7 - 8,5 cm, trung bình 7,8 cm; đường kính ở đầu lớn nhất: 5 - 7 mm. Kiểm tra lần cuối độ vững của khớp gối: 15/74 BN mới mổ < 3 tháng, phần lớn các trường hợp (59/74) được chúng tôi phẫu thuật > 3 tháng. Đánh giá kết quả xa nhất (14 tháng) sau phẫu thuật (cho 6 BN).
Σ
Sau phÉu thuËt
3 - 6 th¸ng (BN)
6 - 9 th¸ng (BN)
9 - 12 th¸ng (BN)
> 12 th¸ng (BN)
Test
19
9
12
59
19
Ngăn kéo trước:
Rõ Nghi ngờ (±) Âm tính (-)
- 1 18
- - 9
- 1 11
- 3 56
- 1 18
19
9
12
59
19
Lachman:
Rõ Nghi ngờ (±) Âm tính (-)
- 1 18
- - 9
- - 12
- 1 58
- - 19
19
9
12
59
19
Lachman alternative:
Rõ Nghi ngờ (±) Âm tính (-)
- 1 18
- - 9
- - 12
- 1 58
- - 19
19
9
12
59
19
Pivot - Shift:
Rõ Nghi ngờ (±) Âm tính (-)
- - 19
- - 9
- - 12
- - 59
- - 19
Bảng 1: Đánh giá độ vững của khớp bằng các test lâm sàng.
144
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 8-2014
Trường hợp test Lachman alternative (±) nằm trong 3 trường hợp có test ngăn kéo trước (±).
* Điểm Lysholm ở lần kiểm tra cuối:
Σ
%
Thêi ®iÓm ®¸nh gi¸
3 - 6 th¸ng
6 - 9 th¸ng
9 - 12 th¸ng
> 12 th¸ng
®iÓm Lysholm
Rất tốt
10
9
11
18
48
81,36
Tốt
8
-
-
1
9
15,25
Trung bình
1
-
1
-
2
3,39
Xấu
-
-
-
-
-
-
Σ
19
9
12
19
59
100%
Bảng 2: Điểm Lysholm (n = 59).
BÀN LUẬN
1. Mảnh ghép dây chằng.
sau lấy gân bánh chè cũng được báo cáo. Tình trạng teo cơ tứ đầu đùi xảy ra ở năm đầu tiên sau phẫu thuật, nhưng không có sự khác biệt ở năm thứ 2 so với khi lấy gân cơ bán gân và gân cơ thon. Tuy nhiên, mảnh ghép gân bánh chè được cho là sớm liền với đường hầm (4 - 6 tuần sau phẫu thuật) nhờ mẩu xương ở 2 đầu mảnh ghép.
Mảnh ghép gân tự thân là chất liệu được sử dụng rộng rãi nhất trong phẫu thuật tái tạo DCCT. Lựa chọn gân ghép tự thân phải đảm bảo không làm mất hoàn toàn chức năng của nhóm cơ đó. Mảnh ghép gân tự thân có ưu điểm không bị lây nhiễm bệnh, không có phản ứng miễn dịch và không mất chi phí mua gân. Tuy nhiên, mảnh ghép gân tự thân có nhược điểm là tăng thời gian phẫu thuật (cho lấy gân), hy sinh gân ở vùng cho ít nhiều ảnh hưởng đến kết quả phẫu thuật, nhất là khi phải lấy gân ở nhiều vị trí.
Mảnh ghép gân bánh chè (xương - gân - xương) là một trong các chất liệu tự thân được sử dụng rộng rãi trong tái tạo DCCT. Có khoảng 17 - 57% trường hợp bị đau ở mặt trước gối sau lấy gân bánh chè làm mảnh ghép DCCT [4]. Ngoài ra, các biến chứng gãy xương bánh chè, viêm gân bánh chè, tiếng kêu ở bánh chè và đứt gân bánh chè, yếu cơ tứ đầu đùi, co gấp gối, tê bì vùng gối (do tổn thương nhánh trên bánh chè của thần kinh hiển) Những báo cáo gần đây cho thấy tỷ lệ lựa chọn mảnh ghép gân đồng loại và mảnh ghép gân bánh chè tự thân dần được thay thế bằng mảnh ghép gân bán gân và gân cơ thon tự thân. Mục đích của phẫu thuật tái tạo DCCT dạng 2 bó là tái tạo lại DCCT gần giống cả về giải phẫu và chức năng vốn có của nó. Trong 1 báo cáo gần đây, chúng tôi đã thông báo kết quả sử dụng gân cơ bán gân và gân cơ thon gập đôi để tái tạo DCCT dạng 2 bó cho 60 BN, trong đó 42 BN phải lấy thêm gân cơ bán gân ở chân đối diện để đảm bảo kích thước đủ lớn cho mảnh ghép dây chằng. Điều này làm chúng tôi trăn trở tìm lời giải làm thế nào để không phải lấy thêm gân ở chân đối diện mà vẫn tái tạo lại được 2 bó DCCT.
145
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 8-2014
Hiện nay có nhiều phương tiện được sử dụng để cố định mảnh ghép dây chằng, trong đó phổ biến nhất là vít chèn. Yêu cầu của phương pháp cố định này là mảnh ghép dây chằng phải nằm trong mỗi đường hầm đùi ít nhất 25 mm, mảnh ghép dây chằng phải đủ tới miệng đường hầm chày (ở mặt trong xương chày).
Để đảm bảo kích thước đủ lớn cho mỗi bó, tiến hành gập ba mỗi gân cơ bán gân và gân cơ thon. Như vậy sẽ tạo được 2 bó DCCT gồm 6 dải gập lại của gân cơ bán gân và gân cơ thon. Tuy nhiên, mỗi mảnh ghép có 1 đầu to và 1 đầu nhỏ, thân của mảnh ghép cũng có kích thước khác với kích thước của mỗi đầu mảnh ghép. Với kỹ thuật này, chúng tôi tạo được mảnh ghép bó trước trong có kích thước của đầu to 6 - 8 mm, mảnh ghép bó sau ngoài có kích thước đầu to 5 - 7 mm.
Supradeeptha C và CS (2013) [6] nghiên cứu trên tử thi người Ấn Độ cho thấy: gân cơ bán gân khi gập ba tạo được mảnh ghép có đường kính trung bình 7,7 ± 0,8 mm. 42% trường hợp đường kính mảnh ghép gập ba trong khoảng 7 - 8 mm, 12% trường hợp mảnh ghép gập ba có đường kính < 7 mm và 46% có đường kính > 8 mm. Để đảm bảo yêu cầu này, chúng tôi khoan đường hầm đùi chột cho bó trước trong sâu 30 mm, đường hầm đùi chột cho bó sau ngoài sâu 25 mm và đường hầm chày tạo với mặt khớp mâm chày góc 45º. Với kỹ thuật này, điểm vào của đường hầm chày còn cách mặt khớp mâm chày đủ lớn để không bị phá vỡ đường hầm khi bắt vít chèn cố định mảnh ghép dây chằng, đồng thời đường hầm chày có chiều dài 3,5 - 4,2 mm. Chiều dài này phù hợp với chiều dài của mảnh ghép khi gập ba và chiều dài của vít chèn (30 mm, 35 mm).
Woo S.L.Y và CS (2006) [8] chỉ ra mảnh ghép gân cơ bán gân gập ba có đường kính 7 mm, ó sức bền xấp xỉ 240% so với DCCT.
Theo Scott W.N và CS (1996) [5],
DCCT có chiều dài trung bình 38 mm (25 - 41 mm) và có đường kính trung bình 10 mm (7 - 12 mm).
Đối với bó trước trong, chúng tôi sử dụng gân cơ bán gân gập ba, vì gân này tạo được mảnh ghép có kích thước lớn hơn (6 - 8 mm) và dài hơn (8 - 9 cm). Không có trường hợp nào mảnh ghép bó trước trong bị tụt sâu trong đường hầm chày, tất cả đều đủ dài tới miệng đường hầm hoặc thừa ra ngoài, nhưng phần thừa chỉ xấp xỉ 10 mm.
Nghiên cứu của Tan J.L và CS (1998) [7] trên tử thi tại Singapore và Trung Quốc cho thấy DCCT nhỏ hơn, ngắn hơn và dựng đứng hơn so với các kết quả nghiên cứu ở châu Âu.
Ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu về giải phẫu của DCCT, rất ít nghiên cứu đề cập đến diện bám của dây chằng ở lồi cầu đùi và mâm chày, chưa có nghiên cứu riêng biệt về mỗi bó và kích thước thực của đoạn dây chằng nằm trong khớp. Đối với bó sau ngoài, chúng tôi sử dụng gân cơ thon gập ba, vì gân này tạo được mảnh ghép có kích thước nhỏ hơn (5 - 7 mm) và ngắn hơn (7 - 8,5 cm). Chúng tôi không gặp trường hợp nào mảnh ghép bó sau ngoài bị tụt sâu trong đường hầm chày, hầu hết chiều dài mảnh ghép đủ dài tới miệng đường hầm chày, số trường hợp mảnh ghép thừa ra ngoài ít hơn so với mảnh ghép bó trước trong sử dụng gân cơ bán gân gập ba.
146
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 8-2014
Đánh giá kết quả theo thang điểm Lysholm: 57/59 BN (96,61%) đạt kết quả tốt và rất tốt. 2/59 (3,39%) BN đạt kết quả trung bình.
Nghiên cứu của Supradeeptha C và CS (2013) [6] trên tử thi người Ấn Độ cho thấy: chiều dài trung bình của gân cơ bán gân 24,39 ± 1,3 cm. Nghiên cứu cũng chỉ ra mối liên quan giữa chiều cao cơ thể với chiều dài và đường kính của mảnh ghép (BN cao hơn có mảnh ghép gân cơ bán gân lớn hơn và dài hơn), trong khi đó, tuổi, giới tính, cân nặng và cường độ vận động lại không liên quan tới chiều dài và kích thước của gân cơ bán gân.
Nicolas P (2013) [3] nghiên cứu trên tử thi ở Pháp thấy gân cơ thon dài trung bình 20,2 cm (18 - 22 cm), gân cơ bán gân dài trung bình 23 cm (20 - 27 cm).
Trong quá trình theo dõi đánh giá kết quả chúng tôi thấy ở giai đoạn 3 - 6 tháng sau phẫu thuật, gối thường bị lỏng hơn so với giai đoạn đầu sau phẫu thuật. Trong 59 BN được phẫu thuật > 3 tháng, 6 BN nghi ngờ có dấu hiệu ngăn kéo trước, trong đó, 2 BN nghi ngờ có cả dấu hiệu Lachman. Tuy nhiên, khi qua giai đoạn này, các dấu hiệu trên mất dần chỉ còn 1 BN vẫn tiếp tục có dấu hiệu này ở thời điểm sau phẫu thuật 10 tháng và 1 BN sau phẫu thuật 13 tháng. Trường hợp thống kê ở bảng đã được phẫu thuật 4 tháng. Nghiên cứu của Loo W.L và CS (2010) [2] cho biết: không thể dự đoán trước kích thước của gân cơ bán gân và gân cơ thon ở nam giới châu Á.
Ở Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào về chiều dài và kích thước của gân cơ bán gân và gân cơ thon ứng dụng trong tái tạo DCCT. Tham khảo một số tài liệu cho thấy kết quả sau phẫu thuật tái tạo DCCT ở trong nước và thế giới rất khác biệt, với khoảng dao động lớn cả cho dạng 1 bó và 2 bó (kết quả tốt và rất tốt đạt từ 60 - 99%). 2. Kết quả phẫu thuật.
Tất cả 74 BN trong nghiên cứu này không có trường hợp nào bị nhiễm khuẩn khớp, chỉ có 2/74 BN bị nhiễm khuẩn nông tại nơi lấy gân.
59/74 BN được phẫu thuật > 3 tháng, trong đó, 31 BN đã được phẫu thuật > 9 tháng. Tuy nhiên, phần lớn nghiên cứu đều khẳng định kết quả phẫu thuật tái tạo DCCT ổn định sau phẫu thuật 2 năm, khi khớp đã ổn định cả về biên độ vận động, cơ sinh học của dây chằng và sức cơ của chi thể. Sau thời điểm này không hy vọng kết quả phẫu thuật sẽ tốt lên nhờ luyện tập.
Trong 59 BN (phẫu thuật > 3 tháng) được đánh giá độ vững của khớp sau phẫu thuật bằng test ngăn kéo trước, test Lachman, test Lachman alternative, test Pivot - shift: 3/59 BN có test ngăn kéo trước (±), trong đó, 1 BN có cả test ngăn kéo trước (±) và test Lachman alternative (±). Cả 3 BN này đều cảm nhận thấy gối vững hơn rất nhiều so với trước phẫu thuật. Trong báo cáo gần đây ở 60 trường hợp được chúng tôi phẫu thuật tái tạo DCCT với kỹ thuật tương tự, nhưng sử dụng gân cơ bán gân, gân cơ thon gập đôi, hoặc lấy thêm gân ở chân đối diện, 95% đạt kết quả tốt và rất tốt, 5% đạt kết quả trung bình (theo thang điểm Lysholm). Tuy nhiên, đây là kết quả đánh giá ở thời điểm < 2 năm sau phẫu thuật.
147
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 8-2014
hamstring graft sizes. Malaysian Orthopaedic J. 2010, 4, pp.9-12.
3. Nicolas P, Steffen Q, Philippe B, Ali M, Philippe B. Anatomy of the anterior cruciate ligament related to hamstring tendon grafts. A cadaveric study. The Knee. 2013, 20, pp.511-514.
4. O’Brien S, Warren R, Pavlov H et al. Reconstruction of the chronically insufficient anterior cruciate ligament with the central third of the patellar tendon. J Bone Jt Surg. 1991, 73ª, pp.278-286.
KẾT LUẬN
5. Scott W.N, Insall J.N. Injuries of the knee. In: Rockwood Jr C.A, Green D.P, Bucholz R.W eds. Rockwood and green’s fractures in adults. Philadelphia, PA, USA: Lippincott Williams & Wilkins. 1996, pp.1799-1816.
Từ kết quả nghiên cứu này cho thấy: gập ba gân cơ bán gân và gân cơ thon, khoan đường hầm chày hợp với mặt khớp mâm chày góc 45º sẽ tạo được mảnh ghép 2 bó DCCT có kích thước đủ lớn, mảnh ghép dây chằng không bị hụt ở miệng đường hầm chày, đáp ứng được yêu cầu của kỹ thuật cố định mảnh ghép bằng vít chèn ở tất cả các đường hầm.
Kết quả kiểm tra sau mổ > 3 tháng theo thang điểm Lysholm, 57/59 BN (96,61%) đạt kết quả tốt và rất tốt, 2/59 BN (3,39%) đạt kết quả trung bình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
6. Supradeeptha C, Jonnalagedda S. Hamstring graft size and anthropometry in south Indian population. Journal of Clinical Orthopaedics and Trauma. 2013, 4, pp.135-138.
1. Brown C.H, Steiner M.E, Carson E.W. The use of hamstring tendons for anterior cruciate ligament reconstruction: Technique and results. Clin Sports Med. 1993, 12, pp.723-756.
7. Tan J.L, Chang P.C.C, Mitra A.K, Tay B.K. Anthropometry of anterior cruciate ligament in Singapore Chinese. Ann Acad Med Singapore. 1998, 27, pp.776-779. 8. Woo S.L.Y, Wu C., Dede O, Vercillo F, Noorani S. Biomechanics, and anterior cruciate ligament reconstruction. J Orthop Surg. 2006, 1, p.2.
2. Loo W.L, Liu B.Y.E, Lee Y.H.D, Soon Y.H.M. Can we predict ACL hamstring graft sizes in the Asian male? A clinical relationship study of anthropometric features and 4-strand