Tám đặc điểm của Trần thức
Thái cực quyền(Phần 1)
Thái cực quyền là 1 loại quyền thuật ưu tú , sáng tạo và phát
triển dần dần trong sinh hoạt thực tế trường kỳ củaTrung Quốc.Trải qua
hơn 300 trăm năm lưu truyền và đúc kết kinh nghiệm, người ta mới dần
nhận thức được mối quan hệ nội tại và quy luật vận động của nó .
Tiền nhân có để lại một bản quyền phổ chính là tổng kết thực
tiễn, đây là con đường nghiên cứu học tập quý báu. Nhưng vì những
hạn chế của thời đại lý luận của tiền nhân cũng không ít lầm lẫn.Vì vậy,
trong thực tiễn chúng ta cần phải kết hợp nhận thức mới để kiểm
nghiệm nhằm loại trừ sai lầm , hấp thu tinh hoa mà tiến lên nắm vững
lý luận chính xác khiến loại trừ sai lầm , hấp thu thu tinh hoa mà tiến
lên nắm vững lý luận chính xác khiến loi quyền này càng có thể phục
vụ tốt trong công cuộc bảo vệ sức khoẻ của người dân. Do đó , khi học
TCQ bước đầu cần phải nắm vững lý luận chính xác của TCQ phổ,
nghiền ngẫm để quán triệt đâu là cái tinh yếu chủ đạo, từ cơ sở này mà
phát triển lên rồi thâm nhập dần dần.
Quá trình vận động của TCQ từ đầu đến cuối cần quán xuyến
"âm dương" và "hư thực" . Điều này có nghĩa là mỗi quyền thức đều
biểu hiện "khai hợp"(đóng mở), "viên phương"(vuông tròn) , "quyển
phóng"(thu phóng), "hư thực", "khinh trầm", "nhu cương"và "khoái
mạn"(nhanh chậm). Đồng thời trong mỗi động tác đều có hình thái đặc
thù, hàm ý các mặt đối lập mà thống nhất như "tả-hữu", "thượng- hạ",
"đại- tiểu"và "tiến-thoái".Đó là nguyên tắc đối lập bản của TCQ.
TCQ không chcó đặc điểm về ngoại hình mà cũng còn có
những yêu cầu đặc thù bên trong. Đòi hỏi hàng đầu trong việc luyện
TCQ là "dụng ý bất dụng chuyết lực" do đó bên trong thì "ý khí vận
động" bên ngoài thì "thần khí cổ đảng vn động"; nghĩa là cần luyện ý
mà cũng cần luyện khí . Loại "vận động ý khí" này là tinh hoa của TCQ
, đồng thời thống lĩnh các đặc khác của TCQ.
Ngoài ra, khi luyện TCQ thì "tại toàn thân phóng trường" mà
"thuận nghịch triền ty", "tương hỗ biến hoán". Động tác cần phải biểu
hiện nhu, lúc cương gồm nhiều "đàn tính". Trạng thái động trong TCQ
yêu cầu "nhất động toàn động" , "tiết tiết quán xuyến", "tương liên bất
đoạn", "nhất khí ha thành". Tốc độ của quyền lộ thì cần có nhanh
chậm , nhanh chậm xen nhau , "lực lượng" của nó yêu cầu có cương có
nhu, cương nhu tương tế .Thân pháp và động tác cần phải trung chính ,
không nghiêng lệch , trong hư có thực , trong thực có hư và trong khai
có hp , trong hợp có khai. Hội đủ những điều kiện này , TCQ mới
hoàn toàn phát huy tác dụng đặc thù của nó . Về phương diện thể dục
dưỡng sinh TCQ không những giúp ta cường vượng các cơ quan vận
động và cơ quan nội tạng mà còn có thể giúp ta rèn luyện tăng cường
năng lực chỉ huy của ý thức chính là khả năng "dụng ý bất dụng lực"
khả dĩ thuận lợi cho việc điều khiển khí linh hoạt khắp toàn thân . Như
vậy, luyện khí rồi tức là luyện ý rồi , ý khí tương hỗ tăng trưởng sung
ợng , thân thủ tự nhiên cường tráng. Cũng vậy, về phương diện chiến
đấu TCQ cũng có tác đặc biệt có thể dùng khinh chế trọng , dùng chậm
chế nhanh ,khắc chế tự nhiên .Động tác có thể "nhất động toàn động" ,
toàn thân là một , đạt đến trình độ "tri kỷ tri bỉ" và "tri hô tri thế" của
công phu "đổng kình".
Lý luận cua Trần thức TCQ có chổ tương đồng và cũngchỗ
bất đồng với các phái TCQ khác . Sau đây, chúng ta hãy xem lần lượt
các đặc điểm của Trần thức TCQ
ĐẶC ĐIỂM THỨ NHẤT: ĐẠI NÃO CHI PHỐI SỰ VẬN
ĐỘNG CỦA Ý KHÍ
Quyền phổ quy định:
"Dĩ tâm hành khí, vụ lệnh trầm trước , nãi năng thu liễm nhập
cốt"
"Dĩ khí vận thân, vụ lệnh thuận toại, nãi năng tiện lợi tòng tâm"
"Tâm vi lệnh , khí vi kỳ", "khí dĩ trực dưỡng nhi vô hại"
"Toàn thân ý tại thần , bất tại khí , tại khí tắc trệ"
(Tạm dịch: Dùng tâm đưa khí đi, tâm khí cần trầm trước (chìm
lắng) khí mới có thể thấm vào tuỷ được.Dùng kvận thân , thân phải
thuận theo khí thì vận động mới được như ý.Tâm là mnh lệnh , khí là
cờ lệnh.Phải nuôi dưỡng và không làm hại "chính khí".Ý tại thần không
tại khí , tại khí tắc trệ.)
Bốn điều quy định trên đây có thể cho thấy TCQ là môn quyền
thuật luyện khí-hành khí .Nhưng khi luyện quyền cần "dùng tâm điều
hành khí ","tâm" là cái phát lệnh , "khí" theo lệnh mà làm theo như lá
"clệnh" , nhất cử nhất động đều đòi hỏi dùng ý không dùng lực .
Trước hết ý động , sau đó hình mới động , như vậy mới có thể đạt đến
trình độ "ý đến là khí đến , khí đến là kình đến",động tác mới có thể
"trầm trước" .Luyện tập lâu ngày khí mới có thể thu liễm vào xương cốt
, đạt đến công phu tối cao về "hành khí".Như vậy có thể nói TCQ là
một loại vận động ý khí .Đặc điểm thứ nhất của TCQ là "dùng tâm điều
khiển khí, dùng khí vận động thân" và "dùng ý không dùng lực"( bất
dụng chuyết lực)
1.Nội khí và dụng ý:
Như đã nói trên, khí được ý chỉ huy, khí ấy không phải là
không khí hô hấp thông thường qua phổi .Nó thực là một loại "nội
khí",lý luận Đông y cổ truyền gọi nó là "nguyên khí","chính khi" hay
"tiên thiên khí"(khí thông hành trong kinh lạc) có từ trong bào thai
người mẹ .Cho đến nay,khoa châm cứu và khí công liệu pháp đều xây
dựng trên thuyết này.Các nhà võ thuật gọi khí này là "trung khí", "nội
khí", "nội kình"....và cho là luyện đến khi có và sdụng được thứ khí
này thì "công phu" mới thành tựu (công phu đáo gia).
Tóm lại, từ xưa đến nay bất luận y học , võ thuật hoặc tôn giáo
đều nhận là có thứ khí này trong cơ thể con người.Kinh nghiệm thực
tiễn cũng xác nhận điều này .Nhưng khoa học hiện đại vẫn chưa xác
minh được bản chất của thứ khí này là gì .Các nhà nghiên cứu đều chưa
nhất trí khi nói về khí này .Có người nói khí này là thần kinh, có người
nói là điện sinh vật , có người nói là một loại chất nội tiết đặc thù, có
người nói là một hệ thống công năng trong cơ thể.Thế nhưng hiện
tượng sinh lý của thể là một hiện tượng có tính chỉnh thể, không thể
nói rằng ý đã động rồi mà thần kinh sinh vật điện,....chưa động .Do đó ,
trong khi làm sáng tquyền luận , khi nói về khí chúng ta tạm giả định
nó là một loại tổng hợp cấu thành bởi thần kinh-sinh vật điện-oxygen