Tâm lí đám đông và Phân tích cái Tôi
Sigmund Freud Phạm Minh Ngọc dịch
9
9. Bản năng bầy đàn
Chúng ta schẳng hài lòng được lâu với cách giải quyết huyễn hoặc mật về
đám đông bằng công thức trên. Ý nghĩ rằng thực ra chúng ta đã dựa vào ẩn của
thôi miên, mà thôi miên thì cũng còn biết bao điều chưa rõ lại làm chúng ta không
yên. Và như vậy là lại xuất hiện vấn đề đòi hỏi phải nghiên cứu tiếp.
Chúng ta phải nói ngay rằng những mối liên kết tình cm của đám đông mà
chúng ta đã nói tới cũng đủ để để giải thích một trong các đặc điểm của nó:
nhân thiếu độc lập và sáng kiến, hành động a dua, thể nói là sthoái hoá
nhân thành một đơn vị của đám đông. Nhưng đám đông, nếu xét tổng thể, còn th
hiện những đặc điểm như: họat động trí tuệ thấp, d khích động, không khả
năng t chế và trì hoãn, xu hướng vượt giới hạn trong biểu lộ tình cm và
chuyển những tình cm y thành hành động - tất cả những đặc điểm ấy và c
những đặc điểm khác nữa đã được Le Bon tả rất rõ ràng - cho ta một bức tranh
về sự thoái hoá tinh thần trở lại thang bậc thấp hơn như ta ta thường thấy trẻ con
người tiền sử. Sự thoái hoá đặc biệt rõ những đám đông bình thường, còn
những đám đông nhân tạo, tchức cao thì sthoái hoá không đến mức sâu sắc
như vậy.
Như vậy là chúng ta có cảm giác rằng đấy là trạng thái mà những kích thích tình
cảm và hoạt động trí tuệ của từng cá nhân quá yếu, không thể tự thể hiện một cách
riêng rđược mà nhất định phải chờ tiếp ứng dưới dạng lặp lại một cách đồng loạt
những nời khác. Ta phải nhớ rằng trong xã hội loài người quá nhiều hiện
tượng phụ thuộc như vậy, quá ít sự độc đáo và lòng can đảm riêng, mỗi
người đều bị tâm đám đông chi phối rất mạnh, biểu hiện trong đặc đim về
chủng tộc, trong các thành kiến giai cấp, dư luận xã hội v.v. mật của ảnh hưởng
ám thcàng tăng lên khi chúng ta khẳng định rằng ảnh hưởng ấy không chỉ tác
động từ người cầm đầu mà còn do từng người tác động lẫn nhau, thì chúng ta phải
ttrách mình đã nhấn mạnh một chiều quan hệ với người cầm đầu mà không
chú ý gì đến tác nhân khác là htương ám thị.
Chúng ta hãy khiêm tốn lắng nghe một giọng nói khác, giọng nói sẽ đưa ra cho
chúng ta li giải thích trên một sở đơn giản hơn. Tôi xin mựơn lời giải thích t
cuốn sách viết về bn năng bầy đàn của ông W. Trotter [1] , chỉ tiếc là cuốn sách
đã không hoàn toàn tránh được mối ác cảm do cuộc Đại chiến vừa rồi gây ra
(Cuộc đại chiến thế giới thứ nhất 1914-1918 – ND).
Trotter cho rằng những hiện tượng tinh thần vừa tả là sản phẩm của bản
năng bầy đàn (gregariousness) bm sinh của con người cũng như các loài động vật
khác. Vmặt sinh học thì tính chất bầy đàn đó thcoi là s tiếp tục của chế
đa bào, còn trong thuyết libido thì biu hiện của một khuynh hướng của
libido, khuynh hướng tập hợp tất cả các sinh vật sống giống nhau thành một đơn vị
to lớn hơn [2] . Mỗi thể đều cảm thấy mình chưa toàn vẹn (incomplete) khi
đứng một mình. Nỗi sợ hãi của đứa trẻ là biểu hiện của bản năng bầy đàn này.
Chống lại bầy cũng nghĩa là bchia lìa khỏi bầy nên việc chống đối thường bị
né tránh vì sợ hãi. Nhưng bầy đàn lại phủ nhận bất cứ cái gì là mới mẻ, chưa quen.
Bản năng bầy đàn bản năng nguyên thuỷ, không còn phân tích ra nh n được
nữa (it cannot be split up).
Trotter dẫn ra một một loạt dục vọng (hay là bản năng) mà ông coi nguyên
thuỷ: bản năng bảo tồn, bản năng dinh dữơng, bản năng tính dục và bản năng bầy
đàn. Bản năng bầy đàn thường đối lập với các bản năng khác. Ý thức về tội lỗi và
trách nhim là tài sản đặc trưng của con vật sống thành bày (gregarious animal).
Theo quan nim của Trotter thì sức mạnh dồn nén mà phân m học phát hiện
được trong i “Tôi”, nghĩa là schống cự mà thày thuốc gặp phải khi thực hiện
chữa trị bằng phân m là xuất phát từ bản năng bầy đàn. Tiếng nói tầm quan
trọng vì giúp những nhân trong đoàn hiểu lẫn nhau, dựa vào có s
đồng nhất hoá các cá nhân trong đoàn với nhau.
Le Bon tập trung chú ý vào các đám đông nhất thời, Mc Dougall thì quan m
đến c cộng đồng ổn định, Trotter khảo sát những đoàn thphổ biến nhất trong
đó con người, cái được gọi là sinh vật chính trị (zwou politikou), đang sống và xác
lập cơ sở tâm lí của chúng. Trotter không cần phải tìm cội nguồn của bản năng bầy
đàn vì ông cho rằng nó là nguyên thuỷ, không còn phân tích ra nhn được nữa.
Lời bình của ông rằng Boris Sidis cho rằng bản năng bầy đàn sản phẩm của ám
thcũng may là thừa đối với ông; lời giải thích này theo một mẫu quen thuộc,
sai lầm và lời khẳng định ngược lại rằng ám thlà sản phẩm của bản năng bầy đàn
theo tôi là đúng hơn.
Nhưng chúng ta còn nhiều lí do để phản đối ông Trotter hơn những nời
khác ông gần như không để ý đến vai trò của nời cầm đầu trong đám đông,
trong khi chúng tôi lại ngả sang ý kiến ngược lại rằng nếu bỏ qua người cầm đầu
thì không làm sao hiểu được thực chất của đám đông. Bản năng bầy đàn không
dành chcho người cầm đầu, người cầm đầu được đưa vào bầy một cách ngẫu
nhiên vậy rất cần chú ý đến sự kiện là: bản năng bầy đàn không dẫn đến nhu
cầu thượng đế, nhưng bầy cừu lại cần một người chăn chiên. Ngoài ra còn
thbác bỏ quan điểm của Trotter về mặt m nữa, nghĩa là có thgiả định rằng
bản năng bầy đàn thchia tách được, không phải là nguyên thunhư bản
năng tự bảo tồn hay bản năng tính dục.
Dĩ nhiên là rất khó theo dõi quá trình phát triển của bản năng bầy đàn trong từng
thể. Nỗi sợ hãi của đứa nhỏ bị bỏ một mình (Trotter giải thích đấy là biểu hiện
của bản năng) thể được giải thích hoàn toàn khác. Nỗi sợ hãi ấy liên quan đến
mnó, sau này liên quan đến những người thân yêu khác biu hiện của
một ước muốn không thực hiện được, đứa trẻ không thể làm với ước muốn [3]
đó ngoài việc biến thành nỗi sợ hãi. Nỗi hoảng sợ không hết nời thuộc
“bầy” tới gần, ngược lại, người lạ chỉ làm cho hong sợ hơn thôi. Trong
một thời gian khá i người ta không tìm thy biểu hiện gì của đứa trẻ chứng t
bản năng bày đàn hay ý thức tập thể. Tình cảm đó hình thành trong các nhà trẻ, nơi
nhiều trem và tmối quan hệ với cha mẹ mà cthể là: sghen tị khởi thủy
đứa con lớn dành cho đứa nhỏ n. nhiên đứa lớn muốn gạt bỏ đứa nhỏ,
đẩy đứa nhỏ khỏi cha mẹ, tước mọi quyền lợi của đứa nhỏ, nhưng vì cha m
thương yêu đồng đều các con, đứa lớn n sẽ không thể giữ mãi thái độ thù địch
với em mà không b trừng phạt nên buộc phải đồng nhất hóa mình với những
đứa con khác; còn trong nhà trthì xuất hiện ý thức tập thể hay cộng đồng, ý thức
ấy sẽ phát triển thêm trong nhà trường. Yêu cầu đầu tiên của sự hình thành phản
ứng này scông bằng, cách đối xử giống nhau với mọi người. Chúng ta hẳn
đếu thấy rằng nhà trường yêu cầu công bằng mạnh mẽ đến mức nào. Nếu tôi
không phải là “cục cưng” thì ít ra cũng đừng ai được “cưng” nhé. thể cho rằng
schuyển hóa và thay tính ghen tbằng tinh thần tập thể trong nhà trtrường
học đó là chuyện khó tin nếu như chúng ta không thấy chính quá trình đó trong
những quan hệ khác. Chỉ cần nhớ lại một đám đông các bà các mơ mộng
cùng u một chàng ca sĩ hay nghệ dương cầm, đang m xít chen nhau quanh
chàng ta sau buổi biểu diễn thì srõ. Hn là trong thâm m nào cũng muốn
ghen với cô khác, nhưng vì hđông quá và vì thế mà không nào th một
mình chiếm đọat được thần tượng nên h đành bỏ ý nghĩ ấy và thay vì lao vào cấu
nhau, hhành động như một tập thể thống nhất, hoan thần tượng và lấy làm
sung sướng mà chia nhau lọn tóc của chàng ta. Ban đầu vốn là những tình địch,
nhưng vì tình yêu với một đối tượng nên hđã thđồng nhất hoá với nhau.
Thường thường nếu một tình trạng thể được giải quyết bằng nhiều cách thì
không có phải ngạc nhiên giải pháp được thực hiện là giải pháp mang lại một
phần thoả mãn trong khi các giải pháp khác, thích đáng hơn, lại không được sử
dụng vì hoàn cảnh thực tế không cho phép đạt mục tiêu.
Tinh thần tập thể, tình đoàn kết v.v. hiệu năng trong đời sống xã hội đều là
do lòng ghen tban đầu này ra. Không ai được vượt lên, ai cũng như ai, mọi
người đều phải những giá trị như nhau. Công bằng xã hội nghĩa là một người
phải tự từ bỏ một số thứ để người khác cũng từ bỏ những cái đó, hay nói khác hơn,
không được đòi những thứ đó. Chính sự đòi hỏi công bằng ấy là cội rễ của lương
tâm tinh thần trách nhiệm. Chúng tôi tình đã m thấy và nh phân m học
hiểu được biểu hiện của đòi hỏi công bằng ấy trong nỗi sợ truyền bệnh cho
người khác của những người mắc bệnh giang mai. Nỗi sợ hãi của người bệnh là
biểu hiện việc chống lại cái ước muốn thức đổ bệnh cho kẻ khác. Bởi vì ti sao
chhọ bị bệnh và chịu thiệt thòi đủ thứ, trong khi người khác thì không? Câu
chuyện tuyệt vời về vụ xử kiện của Solomon cũng cùng một cội rễ như vậy:
nếu con của một bà chết thì những bà khác cũng không được con sống. Căn cứ
vào ước muốn đó mà nhà vua tìm được người bị nạn.
Nvậy là ý thức xã hội được đặt nền móng trên schuyển hóa một tình cm
khởi thủy tđịch thành tình cm tích cực mang đặc điểm của đồng nhất
hoá. Vì chúng tôi theo dõi quá trình đó cho đến nay cho nên chúng tôi nhn thấy là
quá trình ấy diễn ra do ảnh hưởng của tình cm trìu mến với một người khác ở bên
ngoài nhóm ấy. Chúng tôi cũng tự thấy sphân tích về đồng nhất hoá của mình
chưa hoàn hảo, nhưng đối với mục đích của chúng ta hiện nay thì cần phải quay lại
với luận điểm rằng đám đông đòi hỏi một sự công bằng triệt để. Nchúng ta đã
thấy khi bàn vhai loại đám đông nhân tạo là nhà thvà quân đội thì điều kiện
tiên quyết để chúng tồn tại là tình thương đồng đều của người cầm đầu đối với mọi
thành viên của tập thể đó. Nhưng chúng ta cũng không được quên rằng đòi hỏi
công bằng trong đám đông ấy cháp dụng cho các thành viên của chứ không
liên quan đến người cầm đầu. Mọi thành viên của đám đông phải ngang nhau,
nhưng họ đều muốn một người cầm đầu thống trị tất cả. Nhiều người giống
nhau, thđồng nhất hóa với nhau, và một người, một người duy nhất, cao n
tất cả - đấy là tình trạng của một đám đông có sức sống. Bởi vậy cho nên chúng tôi
mạn phép sửa lại quan điểm của Trotter: người là con vật sống thành bầy, người là
con vật thuộc bầy, thành viên của bầy, do một chúa chòm dẫn dắt.