Tân văn - Tân thư và ảnh hưởng
của nó đến tư tưởng yêu nư
ớc ở Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX
Phần 2
Tân thư góp phần giúp cho trí thức Việt Nam tiêu biu thời đó học được
phương pháp mà sau này người ta thường gọi là: “Tthức tỉnh, tự phê phán" đ
nhìn nhn rõ các ưu khuyết, nhất là các nhược điểm trầm trọng của chính tầng lớp
mình, của nhân dân mình, dân tộc mình đặng sửa chữa, khắc phục.
C Phan Bi Châu thì từ chỗ kính phục Nhật Bản, duy tân ờng
thịnh, đối chọi được với Pháp kẻ thù chiếm nước ta, lại là đồng chủng,
đồng văn nên lập Hi Duy tân chủ trương sang Nhật cầu viện đánh
Pháp. Sau khi xuất dương do không biết tiếng Nhật nên c tiếp tục
đọc Tân Thư để hiểu Nhật Bản và quốc tế Sau khi đến Nhật, hiểu rõ
thực tế và tiếp xúc với chính khách Nhật, một số tác giả Tân thư
Trung Quốc, cụ Phan đã thay đi chủ trương cầu viện Nhật. Tư tưởng
mới chỉ đạo phong trào Đông Du có thể tóm tắt là: “Đưa thanh niên
ưu tú Việt Nam sang du học ở Nhật Bản (Chú trọng học quân sự) để
bồi dưỡng nhân tài. Xây dựng tổ chức cách mạng Việt Nam ở Nhật
thật vững chắc, dùng Nhật là vũ đài triển khai phong trào Đông du.
Chiến lược lâu dài là chính những người học ở Nhật sau này slàm
hạt nhân mmang dân trí, chấn hưng dân khí trongớc, vận động
cách m ng và trong cương lĩnh Duy tân Hi" (viết năm 1906) cụ Phan
và đồng chí của mình ch trương sau khi giành được độc lập, Việt
Nam s theo chế độ quân chủ lập hiến. Cụ Phan Châu Trinh lại ảnh
hưởng Tân Thư về tư tưởng dân ch, văn minh phương Tây nên chủ
trương tạm chấp nhận sự bảo hộ của Pháp, hô hào m i người nâng
cao dân trí, đấu tranh bằng con đường dân chủ, nghị trường để dần
buộc Pháp trao trả độc lập Cụ Phan Châu Trinh chủ trương tư tưởng
"n dân bài quân", ra sức công kích quân chủ.
2 . N gun gốc, xuất xứ, nội dung một số Tân Thư chính và
nhữngtưởng, đường lối mới thể hiện trong các tác phẩm của
chí sĩ Việt Nam tiê u biểu
Đầu thế kỷ XX, sau khi phong trào Cần Vương thất bại, những
người yêu nước Việt Nam, trước hết là các sĩ phu đều cảm thấy bế
tắc, họ tự biết các hình thức đấu tranh cũ đều không phù hợp trong
tình hình ách thống tr của thực dân Pháp đã được thiết lập cứng rắn.
Tình hình Việt Nam lúc đó, sách báo mới chưa nhiều, sách ch
yếu là chHán viết về Nho, Y, Lý, Số với những quan niệm, tư tưởng
phong kiến cũ kỹ, còn báo thì m i có một số tờ như Gia Đinh báo (ra
đời 1865), Nông Cổ mím đàm (ra đời năm 1901), Nam Kỳ địa phận
(ra đời năm 1908 ), Đăng cổ tùng báo (chuyển từ tờ Đại Nam đồng
văn nhật báo năm 1907 )... Các tờ báo Việt Nam thi đó mới ở giai
đoạn hình thành, chưa có những chuyên mc đều và chuyên nghiệp
về chính trị và xã hội tư tưởng mà dừng ở chức năng đơn giản ban
đầu. Sau này xuất hiện thêm các tạp chí lớn có dịch những chuyện
Âu, Trung Quc, truyền bá văna cácớc... Đại đa số nhân dân
thất học, quá nửa trí thức nông thôn vẫn chỉ quan tâm tới sách
Khổng, Mạnh, Kinh điển, cần thiết cho văn chương, khoa cử
học theo "tầm chương trích cứ' lối cũ. Nhưng ở kinh đô Huế và c
thành phố lớn như Hà Nội, Sài n... những trí thức, sĩ phu tiến bộ,
năng động dã tiếp cận với Tân Thư Trung Quc qua nhiều con đường.
Trước năm 1880, Việt Nam coi Trung Quốc là t ôn chủ nên theo l
vẫn thông hiếu, đi sứ với nhiều lễ vật, các sứ thần Việt Nam có dịp
được sĩ phu Trung Hoa tặng sách báo, thư tịch: Từ sau 1880, Trung
Quốc từ bỏ quyền tôn chủ nên khi Tân Thư xuất hiện, nhất là vào thời
Quang Tự và sau đó nhiều tưởng ưu thời mẫn thế, muốn chấn hưng
quốc gia được bày tỏ trong các Tân thư thì con đường truyền bá của
Tân thư đã theo ch khác: ch yếu thông qua Hoa kiều và thương
nhân Hoa Nam mang đến Việt Nam. Sau khi Tân thư chuyển đến việt
Nam , có những gia đình trí thức quan li đầu óc tiến bộ ở kinh đô như
Thân Trọng Huề,Nguyễn Lộ Trạch và các gia đình nho sĩ, trí thức ở các
thành phố là Trung tâm văn hóa lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, Sài n...
đã thu thập lưu trữ và quảng (Trường hợp chí sĩ Phan Châu Trinh
cũng đọc Tân thư từ kho sách nhà Thân Trọng Huề, Đào Nguyên Ph
ở Huế khoảng năm 1903).
Những sách n Thư được các chí sĩ Việt Nam t iếp xúc trước và
sau năm 1900 có thể kể đến là:
“Đông Trung chiến kỷ” (xuất bản năm 1896) do Young Allen,
người Mỹ, chủ bút tờ “Vạn quốc công báo" viết. Cuốn sách này ghi
chép chi t iết diễn biến cuộc chiến giữa Nhật Bản - Trung Quốc và m ối
bang giao giữa Chính phủ Nhật với Thanh triều. Tác giả đã vạch ra
những hạn chế, trì trệ, kém cỏi của triều đình nhà Thanh nên chịu
tham bại trước Nhật, một nước trước đó chỉ như "nốt ruồi trong biển
Thái Bình Dương, một thực thể danh trên thế giới, thế mà sau Minh
Trị , Duy Tân đã tr nên hùngờng đánh bại Trung Hoa, võ công
hiển hách, chấn động thiên hạ..." , tác giả có chủ ý làm cho người
Trung Quốc nhận thức được sự cấp thiết phải cải cách xã hội mới cứu
vãn được Trung Quốc.
"Doanh hoàn chí lược” là cuốn sách địa lý thế giới do Từ Kế
soạn trong những năm 40 thế kỷ XIX Cuốn sách đã m ở tầm mắt tới
những vùng đất phát triển, đặc biệt là Tây Âu, giúp người đọc Trung
Hoa và Việt Nam hiểu biết, quan tâm nhiều hơn tới bên ngoài đất
nước mình.
Ph Pháp chiến kỷ” (08 tập) được xuất bản năm 1873. Cuốn
sách do bình lun gia Vương Thao biên soạn về chiến tranh Pháp Ph
(1870-1871). Cuốn sách đã bình luận, phân tích sâu sắc tình hình
quốc tế, về sức mạnh của các cường quốc Châu Âu và m iêu tả sự thất
bại của Pháp, một nước sau này li thống trị được Việt Nam.
c tác phm có ảnh hưởng mạnh mẽ là ch báo trong thời kỳ
Biến pháp củaTrung Quc. Đó là các cuốn “Mậu Tuất chính biên kỷ",
Trung Quốc hồn”, của Lương Khải Siêu được ông biên soạn, đăng
nhiu kỳ trên tạp chí “Thanh Nghị báo" phát hành tại Yokohama, nơi
ông lưu vong khi chính biến thất bại, rồi xuất bảnm 1902. Cuốn
sách m đầu bằngc bức thưm huyết của Khang Hữu Vi dâng
hoàng đế, sau đó là din biến của cuộc chính biến, do sơ hở bị Viên
Thế Khải phản bội báo với Từ Hy Thái Hậu nên chính biến bị dập tắt từ
trứng nước, vua Quang Tự bị phế, Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi
may trốn thoát, nhiều chí sĩ hy sinh oanh liệt, trong đóchí sĩ Đàm
Tự Đồng.
Trung Quốc hồn" xuất bản năm 1903 là cuốn sách tập hợp các
bài luận thuyết của Lương Khải Siêu như "Bàn về nguồn gốc sự yếu
kém của Trung Quốc", "Bàn về xu thế cạnh tranh của các dân tộc thời
cận đại và tiền đồ của Trung Quốc", "Bàn về thi đại quá độ", ”Bàn v
chỗ khác nhau và giống nhau về quốc thể giữa Trung Quốc và Châu
Âu.
Lương Khải Siêu sau khi xut bản Tạp chí Thanh Nghị báo còn
sáng lập tờ Tân dân tùng báo (1902) cũng Yokohama t iếp tục đăng
các bài bình lun, chính luận giới thiệu các học thuyết của Âu M và
các tiểu luận của Lương về văn minh, Nhà nước, quốc dân.
Cuốn Nhật Bản duy tân tam thập niên sử” của Takayama Rinjiro
và các học giả Nhật Bản viết năm 1897 được La Hiếu Cao dịch,
Thượng Hải Quảng trí thư cục xuất bản ấnnh năm 1902. Cuốn sách
phân tích những thành tựu của Nhật Bản trong 30 năm sau khi Minh
TrDuy tân công bố bắt đầu cải cách (1868).
c phm gồm 12 phần về lịch sử tư tưởng học thuật chính trị,
quân sự, ngoại gian, tư pháp, thi chính, văn học, giáo dục, tôn giáo,
công nghiệp, giao thông hạ tầng kỹ thuật, văn hóa phong tục và phn