
Tình hình Việt Nam lúc đó, sách báo mới chưa nhiều, sách chủ
yếu là chữ Hán viết về Nho, Y, Lý, Số với những quan niệm, tư tưởng
phong kiến cũ kỹ, còn báo thì m ới có một số tờ như Gia Đinh báo (ra
đời 1865), Nông Cổ mím đàm (ra đời năm 1901), Nam Kỳ địa phận
(ra đời năm 1908 ), Đăng cổ tùng báo (chuyển từ tờ Đại Nam đồng
văn nhật báo năm 1907 )... Các tờ báo Việt Nam thời đó mới ở giai
đoạn hình thành, chưa có những chuyên mục đều và chuyên nghiệp
về chính trị và xã hội tư tưởng mà dừng ở chức năng đơn giản ban
đầu. Sau này xuất hiện thêm các tạp chí lớn có dịch những chuyện
Âu, Trung Quốc, truyền bá văn hóa các nước... Đại đa số nhân dân
thất học, quá nửa trí thức nông thôn vẫn chỉ quan tâm tới sách
Khổng, Mạnh, Kinh điển, cần thiết cho văn chương, khoa cử
học theo "tầm chương trích cứ' lối cũ. Nhưng ở kinh đô Huế và các
thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn... những trí thức, sĩ phu tiến bộ,
năng động dã tiếp cận với Tân Thư Trung Quốc qua nhiều con đường.
Trước năm 1880, Việt Nam coi Trung Quốc là t ôn chủ nên theo lệ
vẫn thông hiếu, đi sứ với nhiều lễ vật, các sứ thần Việt Nam có dịp
được sĩ phu Trung Hoa tặng sách báo, thư tịch: Từ sau 1880, Trung
Quốc từ bỏ quyền tôn chủ nên khi Tân Thư xuất hiện, nhất là vào thời
Quang Tự và sau đó nhiều tư tưởng ưu thời mẫn thế, muốn chấn hưng
quốc gia được bày tỏ trong các Tân thư thì con đường truyền bá của
Tân thư đã theo cách khác: chủ yếu thông qua Hoa kiều và thương
nhân Hoa Nam mang đến Việt Nam. Sau khi Tân thư chuyển đến việt
Nam , có những gia đình trí thức quan lại đầu óc tiến bộ ở kinh đô như
Thân Trọng Huề,Nguyễn Lộ Trạch và các gia đình nho sĩ, trí thức ở các
thành phố là Trung tâm văn hóa lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, Sài Gòn...
đã thu thập lưu trữ và quảng bá (Trường hợp chí sĩ Phan Châu Trinh