TNU Journal of Science and Technology
230(08): 79 - 87
http://jst.tnu.edu.vn 79 Email: jst@tnu.edu.vn
“THE SORROW OF WAR” OF BAO NINH FROM
THE ARCHETYPAL PERSPECTIVE
Hoang Thi Thuy Duong*
Ho Chi Minh University of Pedagogy, HCM City
ARTICLE INFO
ABSTRACT
Received:
14/02/2025
For the novel "The sorrow of war", writer Bao Ninh wrote about war
by expressing the character's memories of the past war and the
character's experiences after the war. With love for the country, love
for life and kindness, the character overcame the hardships of war and
the trauma left by war. This article uses the archetype criticism
research method, analytical and synthetic research operations... to
study the form and meaning of typical archetypes in the novel "The
sorrow of war" by Bao Ninh. The research results show that typical
archetypes in this novel include natural archetypes such as forest,
water, night and social archetypes such as death, woman, dream, etc.
These primordial symbols carry the original meaning in the myth and
new meanings in modern times. These archetypes have contributed to
helping the work "The sorrow of war" not only shows a perspective
on the war of the Vietnamese people but also expresses the humane
issues of humanity, infinite love for the human and evokes great
sympathy in the hearts of readers. The results of the article contribute
reference materials for research and teaching of Vietnamese literature
after 1975 on post-war topics.
Revised:
04/4/2025
Published:
04/4/2025
KEYWORDS
War
Bao Ninh
Archetype
Nature
Society
“NỖI BUN CHIẾN TRANH” CỦA BO NINH T GÓC NHÌN C MU
Hoàng Th Thùy Dương
Trường Đại học Sư phạm Thành ph H Chí Minh
TÓM TT
Ngày nhn bài:
14/02/2025
Đối vi tiu thuyết “Nỗi bun chiến tranh”, nhà văn Bảo Ninh đã viết
v chiến tranh bng cách th hinc ca nhân vt v cuc chiến đã
qua và nhng tri nghim ca nhân vt sau chiến tranh. Vi tình yêu
đất nước, tình yêu cuc sống lòng hướng thin, nhân vật đã vượt
qua nhng gian kh ca cuc chiến tranh nhng chấn thương do
chiến tranh đ li. Bài báo này s dụng phương pháp nghiên cu phê
bình c mu, các thao tác nghiên cu phân tích, tng hợp để tìm hiu
hình thái ý nghĩa của các c mu tiêu biu trong tiu thuyết “Nỗi
bun chiến tranh” của Bo Ninh. Kết qu nghiên cu cho thy các c
mu tiêu biu trong tiu thuyết này bao gm các c mu t nhiên như
rừng, nước, bóng đêm các c mu hội như cái chết, người n,
mng. Các biểu ợng nguyên này va mang những nét nghĩa gc
trong huyn thoi va mang những nét nghĩa mi ca thi hiện đại.
Các c mẫu này đã góp phần giúp tác phẩm “Ni bun chiến tranh”
không ch th hin mt góc nhìn v cuc chiến tranh ca dân tc Vit
Nam còn th hin nhng vấn đ nhân bn của loài người, tình
thương hạn dành cho con người khơi gi s đồng cm ln lao
trong lòng người đọc. Kết qu của bài báo đóng góp liệu tham
kho cho vic nghiên cu ging dạy văn học Vit Nam sau 1975
v đề tài hu chiến.
Ngày hoàn thin:
04/4/2025
Ngày đăng:
04/4/2025
DOI: https://doi.org/10.34238/tnu-jst.12053
Email: duonghtt@hcmue.edu.vn
TNU Journal of Science and Technology
230(08): 79 - 87
http://jst.tnu.edu.vn 80 Email: jst@tnu.edu.vn
1. Gii thiu
Nhà văn Bảo Ninh thường viết v chiến tranh, v người lính vi nhng kí c ca bn thân ông
v cuộc đời b đội thi chiến tranh chng Mỹ. Ông đã sáng tác tiểu thuyết “Nỗi bun chiến
tranh” (Thân phận ca tình yêu) [1] và nhiu truyn ngn. Tiu thuyết “Nỗi bun chiến tranh” đã
đạt giải thưởng ca Hội nhà văn Việt Nam năm 1991, được nhiu nhà nghiên cứu đánh giá là một
thành tu của văn học đổi mi c v giá tr ni dung ngh thut. Tác phẩm này được viết nên
t tri nghim ca tác gi v chiến tranh hu qu ca chiến tranh. Con người phi chu rt
nhiu chấn thương do chiến tranh gây ra c v th xác ln tinh thần. Tuy nhiên, con người vn
luôn dũng cảm đối mt vi nhng th thách khc nghit trong cuc sng. Tác phm s nhìn
nhn li v con người: va yếu đuối va mnh m, vừa đau thương vừa hnh phúc, va hu hn
va hn. Mt trong nhng yếu t khiến tác phm luôn khiến người đọc đồng cm các c
mu (biểu tượng c sơ).
C mu thut ngngun gc t ngành phân tâm học. Carl Gustav Jung đưa ra thuật ng
Archetype, “những yếu t tâm thn không th cắt nghĩa được bng mt s vic xy ra trong
đời sống nhân, hình như bẩm sinh đã có, t nguyên thy, là mt thành phn trong
gia tài tinh thn ca nhân loi” [2, tr.96]. C mu “va hình nh, vừa xúc động. Người ta
ch th nói đến siêu tượng khi nào hai khía cạnh đó cùng xuất hin mt lúc. Khi nào ch
hình ảnh thì siêu tượng ch tương đương với mt s t cảnh không có âm vang gì. Nhưng khi siêu
ng cha chất xúc động tâm tình thì hình nh tr nên huyn nhim” [2, tr.142]. Thut ng
Archetype đưc dch ra bng nhiu thut ng như cổ mu, mu gc, biểu tượng nguyên ,
nguyên mẫu, nguyên tượng, vết tích ti c. Trong bài báo này, chúng tôi s dng thut ng c
mu, s kế tha cách gi ca nhà nghiên cứu Đào Ngọc Chương cng s trong công trình
“Huyền thoại văn học” [3]. Cổ mu nhng biểu tượng tinh thn ca nhân loi - mang tính
cm xúc, khởi đầu, di truyn, bn vng, ph quát. Khi đi vào tác phẩm văn học, c mu th hin
c th thành hình ảnh, p, đề tài, biểu tượng. C mu t quá kh đến vi thi hiện đại phi
vượt không gian thi gian bao la. Vì thế, c mẫu khi đi vào tác phẩm văn học th s s
biến đổi nhưng vẫn da trên những hình thái và ý nghĩa gốc.
c công trình nghiên cu v tiu thuyết “Nỗi bun chiến tranh” của Bảo Ninh khá đa dạng, có
th k đến các công trình Hi c và gic mơ trong “Ni bun chiến tranh” dưới góc nhìn thi pháp
hc[4], Tiu thuyết “Nỗi bun chiến tranh” dưới c nhìn t s hc [5], Ch đề nh yêu đôi lứa
trong văn xuôi viết v chiến tranh ca Bo Ninh [6], v.v. Mt s bài báo khoa học đề cập đến tiu
thuyết “Ni bun chiến tranh” như một đốiợng để phân tích, so sánh: “S tng hp đặc điểm ca
các loi nh ngh thut trong tiu thuyết Ni bun chiến tranh ca Bảo Ninh” của Nguyn Lâm
Đin và cng s [7], “Bóng âm của rng thiêng trong Ni bun chiến tranh ca Bo NinhMin
hoang của Sương Nguyệt Minhcủa Nguyn Thùy Trang và Nguyn Th Kim Ngân [8], “Nghiên
cu th pháp phân mnh trong hai tác phm Chapaev Pustota ca Victor Pelevin Ni bun
chiến tranh ca Bo Ninhcủa u Thu Trang [9], “Tự do gia kiếp lưu đày: v tiu thuyết Ni
bun chiến tranh ca Bảo Ninhcủa Phm Ngọc Lan [10], “Một s ng nghn cu tiu thuyết
hu chiến Việt Nam” của Nguyn Phương Hà [11]. Việc nghiên cu các c mẫu trong “Ni bun
chiến tranh của Bo Ninh vn là mt khong trng trong nghiên cứu văn hc.
Bài báo này trình bày kết qu khảo sát, phân tích hình thái và ý nghĩa của các c mu tiêu biu
trong tiu thuyết “Nỗi bun chiến tranh” ca Bo Ninh. Mục đích của vic nghiên cu này
nhm góp phần làm cách nhà văn sử dng các biểu tượng mang tính ph quát để tái hin chn
thương của chiến tranh và s phn của con người. Bên cạnh đó, việc nghiên cu c mu còn góp
phn lý gii sc hp dn ca tác phm, cho thy mi liên h giữa “Nỗi bun chiến tranh” của Bo
Ninh vi truyn thống văn học và tư tưởng nhân loi.
2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chính trong bài viết này là phê bình cổ mẫu. Phê bình cổ mẫu nghiên
cứu hình thức ý nghĩa của các cổ mẫu tồn tại trong tác phẩm văn học. Tác giả bài viết này đã
TNU Journal of Science and Technology
230(08): 79 - 87
http://jst.tnu.edu.vn 81 Email: jst@tnu.edu.vn
tiến hành khảo sát tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh xác định các cổ mẫu tiêu
biểu trong tác phẩm này. Bài viết trình bày về hình thức, ý nghĩa gốc của cổ mẫu và hình thức, ý
nghĩa của cổ mẫu trong tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh.
3. Kết qu và bàn lun
Kết qu kho sát cho thy nhiu c mu xut hin trong tiu thuyết “Nỗi bun chiến tranh”
ca Bo Ninh. Tiêu biu nht là các c mu t nhiên như rừng, nước, bóng đêm và các cổ mu xã
hội như cái chết, người n, mng.
3.1. C mu t nhiên trong “Nỗi bun chiến tranh” của Bo Ninh
3.1.1. C mu rng
C mu rng có tính hai mt huyn “nơi sản sinh ra va s lo lng va s bình tâm, s c
hiếp lòng thin cảm, cũng như tất c nhng biu hin mnh m ca s sng [12, tr.787].
Theo Jung, rừng có đặc điểm tối tăm và sự bt r ăn sâu nên “rừng tượng trưng cho vô thức”[12,
tr.787], con người luôn mang theo s khiếp s đối vi rng.
Trong “Nỗi bun chiến tranh”, rừng được nhc ti ngay t đầu tác phm. Kiên quay tr li
chiến trường B3 trong năm đầu tiên sau chiến tranh, nơi đây vẫn hoang vu như những ngày trong
chiến tranh “Và âm thầm ln trong tiếng sui là tiếng th dài ca rng sâu nghe vi vi xa xôi và
tuyệt ảo như là âm vang vọng li t mt thời nào đó, như tiếng của vàng rơi trên
thm c t lâu lm ri” [1, tr.4]. Trong chiến tranh, rừng là nơi tiểu đoàn 27 n náu và chiến đấu.
Các thành viên ca tiểu đoàn 27 như anh em ruột tht, h sát cánh bên nhau trong chiến đấu, thm
chí còn nhường s sng cho nhau. Rừng đã che chở cho những người lính tránh những thương
vong. Khi đêm về, những người lính li quây qun bên nhau, cùng chia s ni nh nhà, nhng
khát vng v tình yêu sum hp. Rng chng kiến che ch cho nhng n c tinh thn ca
những người lính. Rng che ch cho những con người mun thoát khi s đau thương của cuc
sng hin thc. Đó là Tùng một người lính của trung đoàn, anh bị điên và li vi rng; là cp
v chồng người rng; là một vài người dân còn sót li sau nhng trn dch. Tuy nhiên, rừng cũng
n cha nhng sc mnh phi phàm, ghi du nhng trn chiến oanh lit nht của Kiên đồng
đội, cùng chu nhng tồn thương nhưng không bao giờ gục ngã. Trong đó, mt ln, giặc đã
tẩm xăng bom na pan khiến cho rng chết cháy, tiểu đoàn 27 bị gic bao vây. Trên cao,
dùng trực thăng bay trên ngọn cây để truy sát quân ta. mặt đất, giặc đi thành từng toán,
đạn bắn ra như ong, lùng sục tìm người. Tiểu đoàn trưởng đã tự sát để không rơi vào tay giặc.
Kiên người duy nht sng sót tiếp tc gia nhp vào một trung đoàn mới, li tiếp tc chiến
đấu cũng ở vùng đất đó. Vùng đó có tên mới là truông Gi Hn. Hn của người và ca rng sau
nhng tổn thương đã quyện vào nhau. Rng không ch hn cây, hn ca rng còn
nhng hn ma của người vn còn quanh quẩn. Người ta tin rng sau nhng trận đánh ác liệt,
khi hn ma còn loanh quanh khp xnh bi b ch chưa chịu v tri. Truông mt lam
chướng. Vào nhng l lạt, các toán quân đã chết ca tiểu đoàn lại t hp trên trảng như để
điểm danh. Tiếng sui chy, tiếng gió chính tiếng nói ca nhng hn hoang binh nh
người cõi dương thường nghe thy th thu hiểu. Kiên thường nghe k vùng này th
nghe thy tiếng chim chóc khóc than như con người, các loại măng thì màu đỏ lòm, nhng
quầng sáng đom đóm khổng l ma quái. Khi trung đoàn v náu quân vùng này, Kiên đồng
đội đã phải lp bàn th mt t chc cu khn, cúng gi cho các hn ma ca tiểu đoàn 27,
lửa nhang ngày đêm lp lòe. Rng không phải nơi ca những người yếu bóng vía “Có lẽ
núi rng ch không phải con người đã làm nảy sinh ra vùng này nhng huyn thoi rùng
rn, nhng truyn thuyết man r, nguyên thy nht v cuc chiến tranh va qua. Nói chung
nhng k yếu bóng vía rt khó sng đây. Sống đây thể điên lên hoặc chết khiếp sợ”
[1, tr.6]. Như vậy, rng vừa nơi thân thuộc, che ch cho Kiên đồng đội; va n cha nhng
sc mnh siêu nhiên khiến con người không khi khiếp s. C mu rừng trong “Nỗi bun chiến
TNU Journal of Science and Technology
230(08): 79 - 87
http://jst.tnu.edu.vn 82 Email: jst@tnu.edu.vn
tranh” gắn vi nhng s kiện, con người ca hiện đại nhưng vẫn gi những nét nghĩa gc trong
tinh thn nhân loi.
3.1.2. C mẫu nước
C mẫu nước thường chia thành nhiu hình thái rõ rệt như biển, sông, suối, đầm, rch, giếng,
mưa, mây, v.v. Theo “Từ đin biểu tượng văn hóa thế gii: huyn thoi, chiêm mng, phong tc,
c ch, dng th, các hình, màu sc, con số” [12], c mẫu nước mang nhiều ý nghĩa nhưng “ý
nghĩa tượng trưng của nước th quy v ba ch đề chiếm ưu thế: ngun sống, phương tiện
thanh ty, trung tâm tái sinh. Ba ch đề này thường gp trong nhng truyn thuyết c xưa nhất
hình thành nhng t hợp hình tượng đa dạng nhất đng thời cũng chặt ch nht” [12,
tr.709]. Tht vậy, nước có th mang li s sng, s sinh sôi ny n. Trong thn thoại “Cóc kiện
Trời” của Việt Nam, chàng Cóc đã ln lội lên đến tn trời để xin mưa, cu sng c thế gian.
c chy t nguồn, nước ca s sống được coi mt biểu tượng v ngun gốc trụ. Hơn
nữa, nước vi bn cht thanh khiết th thanh lc vn vật năng lực cu sinh. Cái chết ca
Trng Thy trong giếng thành C Loa góp phn thanh lc ti li cho chàng (truyn thuyết “Mị
Châu-Trng Thủy”). típ lấy nước thần để cha bnh rt ph biến trong truyn dân gian thế
gii và “Việc dìm xuống nước có tác dụng tái sinh, làm cho con người ra đời mt ln na, theo ý
nghĩa nước va s chết va s sống. Nước xóa hết lch s, khôi phục con người trong
mt trng thái mi. Việc dìm mình trong nước như việc chôn Chúa Ki xung m: sau khi b
h xuống dưới lòng đất, Chúa đã phục sinh” [12, tr.713]. Mi hình hài của nước li tr thành
mt c mu vi hình thái, chức năng không phải lúc nào cũng giống nhau mc vn da trên
những nét nghĩa gốc. Trong đó, khp mọi nơi trên thế giới, mưa được xem tác nhân làm cho
đất sinh sản, đất tr nên phì nhiêu, màu m. Nhng nghi l cầu mưa đã trở nên quá quen thuc
với con người t c chí kim.
Trong “Nỗi bun chiến tranh” (Bảo Ninh), biu hin tiêu biu nht ca c mẫu nước sui,
mưa. Trong tác phẩm này, nét nghĩa “là ngun sống” của c mẫu nước không được tp trung
th hiện như các nét nghĩa khác như “sự thanh tẩy” hay “sự tái sinh”. Kiên đồng đội đóng
quân cnh mt con suối, Kiên hay ra buông câu nhưng không chú trọng được mt mà ch để thư
thái tâm hn “Kiên thu mình trong tấm tơi lá, bó gối nhìn làn nước cun cun, không mun gì
không nghĩ ngợi cả” [1, tr.11]. Trong trận đánh cuối cùng ca tiu đoàn 27 lúc tiểu đoàn bị
gic bao vây; rng b tổn thương nặng n vi s phá hoi ca k thù. Gic tẩm xăng ướt đẫm
rng, x bom na pan đn vào rng, gót chân gic gim nát rừng để truy tìm những người lính
quân ta. Tiểu đoàn 27 chiến đấu đến cùng nhưng cuối cùng ch mt mình Kiên sống sót. Sau đó,
mt trận mưa lớn đã trút xuống, cun theo nhng du vết khng khiếp ca cuc chiến. Cũng
trong trận đánh đó, Kiên lăn xung dòng sui cạn, ngâm mình trong nước nên thoát chết. Sau đó,
Kiên gia nhập vào trung đoàn 3, lại tiếp tc chiến đấu. Tuy nhiên, Kiên đã sự thay đổi: mất đi
s của tui trẻ, Kiên suy nghĩ nhiều hơn về chiến tranh những đồng đội đã hi sinh, luôn
chìm vào s ưu tư. Dòng suối ấy cũng tiếp tc chng kiến nhng trận đánh mới. Người lính đào
ngũ Can b rơi xuống nước, khi được đồng đội tìm thy thì anh ch còn là cái xác đầy nhng vết
thương. Sau đó, không ai nhắc đến tên hay truy cu Can na. Bin, mt biu hin của nước xut
hin ít ỏi trong “Nỗi bun chiến tranh” và được cm nhn khác vi suối hay mưa. Trong buổi liên
hoan vi các bn hc ngay cnh biển, Kiên và Phương đều cm thy ni lo s, bất an khi đối din
vi khong không gian rng ln, n vi những cơn sóng bạc rn ngợp. Như vậy, trong “Nỗi
bun chiến tranh”, cổ mẫu nước th hin nhng cm nhn khác nhau của con người v nhng
biu hin của nước. Trong đó, suối mưa được th hin nhiu nht tp trung th hin các
nét nghĩa “sự thanh tẩy”, “sự tái sinh” của nước.
3.1.3. C mẫu đêm
Nhà nghiên cu Eliade tng nói rng “Huyền thoi t nhng s đột nhp khác nhau
đôi khi đầy tính kch ca cái thiêng vào thế gii” [13, tr.213] và thi gian trong huyn thoại được
TNU Journal of Science and Technology
230(08): 79 - 87
http://jst.tnu.edu.vn 83 Email: jst@tnu.edu.vn
xác định “Thi gian thiêng là thời gian trong đó thần thánh hin ra và sáng tạo” [13, tr.205]. Có
th thy thi gian thiêng tn ti trong tác phẩm văn học, trong tín ngưỡng dân gian tôn giáo
cho đến tn ngày hôm nay. Thời gian đêm một dng thi gian thiêng: “Đi với người Hi Lp,
đêm con gái của hn mang m ca trời (Ouranos) đất (Gaia). Đêm còn sinh ra giấc
ngs chết, nhng giấc mơ và mối lo âu, tình âu yếm và s la dối. Đêm hay bịo dài thêm
theo ý các thn, h bt mt tri mặt trăng dừng lại để thc hin tốt hơn các kỳ tích ca mình.
Đêm đi khắp trời, được che ph mt tm màn ti trên mt c xe đóng bn ngựa đen, với đoàn
thiếu n h tống, đó các nữ thn Thnh n (Furies) S mệnh (Parques)” [12, tr.297]. Đêm
luôn làm cho con người lo s bởi đêm luôn có tính hai mặt: “mặt tăm tối, nơi đương lên men mọi
s chuyn biến, đi vào đêm tức là tr v với cái chưa xác định trong đó đầy ry nhng ác mng
và quái vt, những ý nghĩ đen ti và mt trù b cho ban ngày, đó sẽ lóe ra các ánh sáng ca s
sống” [12, tr.298]. Đêm là lúc ánh sáng biến mt “trạng thái mi tri thc riêng bit, phân tích, có
th biểu đạt đều biến mất, hơn na, mọi điều hin nhiên mi ch dựa tâm đều mất đi [12,
tr.298]. Trong quan nim dân gian, ban ngày là thời gian con người làm vic, sinh hot cùng cng
đồng loài người còn ban đêm khoảng thi gian ca các nhân vt siêu nhiên, ca s tr v vi
thế gii bí mt ca bản thân con người.
Trong tiu thuyết “Nỗi bun chiến tranh” của Bo Ninh, c mẫu đêm xuất hiện dày đặc. Đêm
thời gian con người tr v vi những đam mê, khát vọng ca bản thân mình. Người lính ngoài
nhng gi phút chiến đấu anh dũng thì cũng những lúc h đa sầu đa cảm theo đúng bản cht
của con người. Trong thi gian truông Gi Hồn, trong đêm tối, vài đồng đội của Kiên đã băng
rừng đi theo tiếng gi tình yêu vi ba cô gái bên b thác nước. Đêm cũng là lúc những người lính
tâm s vi nhau v gia đình, v tình yêu lứa đôi, về nhng khát vọng riêng cháy bỏng.
nhng lúc, h đã mượn những ván bài, mượn khói hồng ma để tm thời quên đi nỗi s hãi, quên
đi nỗi đơn, để chìm đắm trong trò chơi may ri ca s phn nhng o giác sum hp hnh
phúc. Trong đêm, Kiên nhớ Phương, người con gái ca mối tình đầu, da diết. Trong tác phm
này, đêm còn khoảng thi gian nhng hn ma tr v. Hằng đêm, Kiên vẫn thy linh hn
Can tr v “Đêm đêm anh nghe thấy Can tr v thì thào ngay bên võng, lặp đi lặp li cuc
chuyn trò nht nho b sui chiu hôm nào. Tiếng tthào chuyn dn thành tiếng nc n,
thành tiếng nc nghẹn y như tiếng nước sc lên trong hng k sp sa chết chìm” [1, tr.17].
Qua những đêm dài, Kiên nhận ra “Chao ôi! Chiến tranh cõi không nhà, không ca, lang
thang khn kh phiêu bạt đại, cõi không đàn ông, không đàn bà, thế gii bt su
cm và tuyt t khng khiếp nht ca dòng giống con người!” [1, tr.21].
Trong na phn sau ca tiu thuyết “Nỗi bun chiến tranhcủa Bảo Ninh, đêm thường được
khc ha gn lin vi s đơn, lạc loài ca Kiên. Anh tr v t cuc chiến, đã mất đi nhiều
người đồng đội, chu nhiu tổn thương về th xác và tinh thn, b m nh bi kí c, không th hòa
nhp vào cuc sng hin tại. Đêm khoảng thi gian Kiên chìm trong ni nh Phương, nhớ mi
tình đầu ca tui thanh xuân. Anh nh tuổi thơ bên gia đình quãng đời học sinh êm đềm. Anh
nh v cuc chiến đã qua, những người đồng đội tng gn bó, từng nhường s sng cho anh
“Trong đêm đen của hồi tưởng, Kiên nhìn đăm đăm vào bóng tối như nhìn vào cõi âm và lần lượt
thy li h, những con ngưi tuyt vi, nhng con người xứng đáng n ai hết quyền được sng
trên cõi dương này nhưng đã lẳng lng chp nhn quy luật đơn giản ca chiến tranh: mình chết
thì bn mình sống? [1, tr.136]. Anh suy nghĩ về s được mt ca cuôc chiến tranh đối vi bn
thân mình “Thực ra thì trong chiến tranh Kiên được hưng nhiu may mắn hơn là trong thời bình,
bi vì trong chiến tranh anh đã được sng, chiến đấu, trưng thành lên bên những người đồng chí
tht tt. Tuy nhiên, giá ca s may mn ấy là anh đã lần lượt mt hết những người bạn, người anh
em, người đồng đội cthiết nht. H b giết ngay trước mt Kiên hoc là đã chết ngay trong vòng
tay anh. Nhiều người đã chết để g cho tính mng Kiên. Nhiều ngưi hy sinh bi li lm của anh
[1, tr.135]. Để vượt qua s ám nh ca ức, anh chìm trong rượu những cơn mộng du. Anh
cũng tìm đến s an i ca một người ph n câm, để trút đi những tâm sự. Đặc bit, ban đêm,
Kiên thường chong đèn viết. Nhng anh viết ra trong đêm không chịu s chi phi ca bt c