
Tăng huyết áp hệ thống động mạch
( Hypertension)
(Kỳ 4)
PGS.TS. Ng.Phú Kháng (Bệnh học nội khoa HVQY)
5. Biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh tăng huyết áp.
Lâm sàng của tăng huyết áp phụ thuộc vào biến chứng của bệnh tăng huyết
áp gây ra trên từng cơ quan.
5.1. Mắt:
Hoa mắt, giảm thị lực, nhìn mờ khi soi đáy mắt. Tổn thương đáy mắt
được chia ra:
. Độ 1: co thắt, hẹp lòng động mạch.
. Độ 2: động mạch co cứng đè lên tĩnh mạch chỗ bắt chéo gọi là Salus-
gunn (+).
. Độ 3: có xuất tiết, xuất huyết.

. Độ 4: xuất tiết, xuất huyết và kèm theo phù gai thị.
5.2. Não:
- Khi bị tăng huyết áp, não bị thiếu máu, vì vậy có phản ứng tăng lưu
lượng máu não (> 50ml máu/100 gam tổ chức não); khi bị thiếu máu não sẽ gây
những triệu chứng: đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, rối loạn giấc ngủ...
Ghi lưu huyết não thấy giảm từng vùng; ghi điện não thấy có rối loạn
hoạt động điện não, nhất là xuất hiện các sóng teta xen kẽ.
- Cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua (TIA: transient ischemic
attack): bệnh nhân bị tổn thương thần kinh khu trú (ví dụ: bại liệt nửa mặt, rối
loạn ngôn ngữ, liệt trung ương dây thần kinh VII, mù...) nhưng phục hồi hoàn
toàn trong 24 h.
- Đột qụy não:
Theo định nghĩa của WHO, đột qụy não là tình trạng đột ngột mất chức
năng não khu vực hoặc lan toả gây hôn mê > 24 h.
Đột qụy thiếu máu não (nhồi máu não) hay gặp hơn đột qụy xuất huyết
não (kể cả xuất huyết trong não, xuất huyết khoang dưới nhện và xuất huyết
dưới màng cứng).

Tùy thuộc vào vị trí tổn thương của động mạch não mà gây những triệu
chứng lâm sàng khác nhau như: liệt trung ương 1/2 người, liệt trung ương dây
thần kinh VII, rối loạn ngôn ngữ, rối loạn cơ vòng, thất điều...
Tăng huyết áp là nguy cơ cao nhất gây đột qụy não.
Hiện nay, chẩn đoán đột qụy não ở giai đoạn sớm dựa vào chụp CT-
scanner sọ não: nếu có vùng tổn thương giảm tỷ trọng (<40 Hu) là đột qụy thiếu
máu, nếu vùng tổn thương tăng tỷ trọng (> 60 Hu) là đột qụy xuất huyết não.
Chọc ống sống thắt lưng, siêu âm xuyên sọ, chụp cộng hưởng từ hạt nhân
(MRI) cũng giúp chẩn đoán đột qụy não.
- Rối loạn tâm thần do tăng huyết áp, sa sút trí tuệ, động kinh..., đều có
thể gặp khi bị bệnh tăng huyết áp.
5.3. Tim mạch:
Tăng huyết áp hay gây những biến chứng sớm ở hệ tim mạch:
- Phì đại thất trái: phì đại đồng tâm hay lệch tâm; chủ yếu là phì đại
vách liên thất và thành sau thất trái, gây tăng khối lượng cơ thất trái và chỉ số
khối lượng cơ thất trái.
- Suy chức năng tâm trương thất trái (giảm khả năng đổ đầy máu về
buồng thất trái), sau đó là suy chức năng tâm thu thất trái (giảm khả năng tống

máu của thất trái : EF% < 40%). Đến giai đoạn sau sẽ xuất hiện suy cả chức
năng tâm thu và suy cả chức năng tâm trương mức độ nặng.
- Rối loạn nhịp tim hay gặp là ngoại tâm thu thất; nhanh thất, rung thất
gây đột tử.
- Tăng huyết áp thường kèm theo vữa xơ động mạch vành gây đau thắt
ngực hoặc nhồi máu cơ tim.
- Động mạch chủ vồng cao, nếu kết hợp vữa xơ động mạch có vôi hoá
cung động mạch chủ;
phình, giãn, bóc tách động mạch chủ (theo các típ của Debakey), động
mạch chậu và động mạch chi dưới.
Những biểu hiện về tim mạch như trên đã được xác định bằng điện tim
đồ, X quang, siêu âm tim.
5.4. Thận:
Thân cũng là một trong số các cơ quan bị ảnh hưởng sớm của tăng HA.
Tổn thương thân diễn biến theo mức độ, giai đoạn của bệnh:

- Tiểu đêm nhiều lần do rối loạn chức năng cô đặc và hoà loãng.
- Protein niệu do tổn thương cầu thân.
- Suy thân ở các mức độ khác nhau: lúc đầu biểu hiện bằng tăng urê và
creatinin máu, về sau xơ hoá lan toả động mạch tiểu cầu thân, không đáp ứng
với các phương pháp điều trị nội khoa, phải lọc máu chu kỳ hoặc ghép thân.
5.5. Những biểu hiện khác:
- Phù phổi cấp: khi có những cơn tăng huyết áp kịch phát dễ gây ra phù
phổi cấp. Trong khi cấp cứu phải tìm mọi cách hạ huyết áp trước, sau đó mới
thực hiện phác đồ cấp cứu phù phổi cấp chung.
- Xuất huyết mũi: vùng màng mạch mũi cũng hay bị tổn thương gây xuất
huyết nặng khó cầm máu.
Về nguyên tắc điều trị cấp cứu là đưa huyết áp về bình thường kết hợp với
các biện pháp cầm máu; hạn chế dùng các thuốc co mạch vì sẽ làm tăng huyết áp.
- Đau thượng vị, loét, thủng dạ dày-hành tá tràng: ở những người bị
vữa xơ động mạch có tăng huyết áp, các nhánh động mạch nuôi dưỡng dạ
dày-hành tá tràng bị hẹp tắc gây thiếu máu có thể gây ra loét, thủng dạ dày-
hành tá tràng; cũng với lý do tương tự bệnh nhân có thể bị rối loạn hấp thu,
hoặc rối loạn chức năng đại tràng.

