LỜI MỞ ĐẦU

Tập bài giảng Lịch sử kinh tế quốc dân được xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu

phục vụ công tác dạy và học học phần Lịch sử các học thuyết kinh tế cho đối tượng là sinh viên đại học các chuyên ngành thuộc Khoa Kinh tế của Trường Đại học Sư phạm

Kỹ thuật Nam Định.

Tập bài giảng được xây dựng với bố cục gồm 8 chương, được trình bày trên 150

trang đánh máy, kết thúc mỗi chương có phần câu hỏi ôn tập.

Cách tiếp cận khi xây dựng tập bài giảng Lịch sử kinh tế quốc dân theo hướng

khái quát hóa nội dung, diễn đạt để phù hợp với đối tượng chính là sinh viên đại học

thuộc Khoa Kinh tế của Trường Đại học SPKT Nam Định.

Trong quá trình xây dựng tập bài giảng, nhóm tác giả đã tham khảo nhiều tài

liệu trong và ngoài nước; đặc biệt có sử dụng trích dẫn hoặc phát triển ý tưởng, nội

dung của nhiều tác giả (nêu trong phần danh mục tài liệu tham khảo). Tập thể nhóm

tác giả xin phép được sử dụng tài liệu của quý vị với vai trò là nền tảng cơ bản xây

dựng tập bài giảng này nhằm góp phần phát triển những kiến thức về lịch sử kinh tế

quốc của các quốc gia đến gần với người đọc, tăng cường tính phổ biến về các kiến

thức về lịch sử kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là kiến thức này có ý

nghĩa thực tiễn cũng như kinh nghiệm lớn đến việc xây dựng nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Cuối cùng, nhóm tác giả chúng tôi xin gửi những lời cám ơn trân trọng nhất tới

các nhà nghiên cứu, các học giả, bạn bè, đồng nghiệp... đã cung cấp cho chúng tôi

những tư liệu, những lời góp ý quý giá để chúng tôi hoàn thành tập bài giảng này.

Tập bài giảng Lịch sử kinh tế quốc dân có thể còn nhiều thiếu sót. Chúng tôi

mong nhận được sự góp ý của bạn đọc.

NHÓM TÁC GIẢ

i

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. i

CHƢƠNG MỞ ĐẦU. KHÁI QUÁT VỀ MÔN HỌC ............................................................... 1 1. Vị trí và tác dụng của môn học .......................................................................................... 1

2. Đối tƣợng và nhiệm vụ môn học ........................................................................................ 3 2.1. Đối tƣợng ............................................................................................................................... 3

2.2. Nhiệm vụ của môn học ......................................................................................................... 4 3. Phƣơng pháp nghiên cứu.................................................................................................... 4

Câu hỏi ôn tập ............................................................................................................................ 5 CHƢƠNG 1. KINH TẾ CÁC NƢỚC TƢ BẢN CHỦ NGHĨA ................................................ 6

1.1. Sự ra đời của phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa .................................................... 6 1.1.1. Sự phân công lao động và trao đổi hàng hóa .................................................................... 6

1.1.2. Thành thị phong kiến Châu Âu .......................................................................................... 6 1.1.3. Tác động của các phát kiến địa lý ...................................................................................... 7

1.1.4. Tích luỹ nguyên thuỷ tƣ bản ............................................................................................... 8 1.1.5. Phát triển kỹ thuật ............................................................................................................... 9

1.2. Kinh tế các nƣớc tƣ bản thời kỳ tự do cạnh tranh ........................................................... 9 1.2.1. Quan hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa giữ vai trò thống trị ................................................... 9

1.2.2. Cách mạng công nghiệp và hậu quả của nó .................................................................... 10 1.2.3. Sự phát triển kinh tế của các nƣớc tƣ bản ........................................................................ 12

1.3. Kinh tế các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa thời kỳ độc quyền .................................................. 13 1.3.1. Thời kỳ độc quyền hóa (1871 – 1913)............................................................................. 13

1.3.2. Thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918 – 1939) ............................................. 14 1.4. Thời kỳ sau chiến tranh thế giới 2 (1946 – đến nay) .................................................... 15

1.4.1. Giai đoạn khôi phục kinh tế (1945 – 1950) ..................................................................... 15 1.4.2. Giai đoạn tăng trƣởng (1951 – 1973) .............................................................................. 15

1.4.3. Giai đoạn phát triển chậm chạp và không ổn định (1973 - 1985).................................. 17 1.4.4. Điều chỉnh kinh tế từ năm 1985 đến nay ......................................................................... 17

Câu hỏi ôn tập .......................................................................................................................... 26 CHƢƠNG 2. KINH TẾ NƢỚC MỸ ....................................................................................... 27 2.1. Kinh tế Mỹ trƣớc khi giành độc lập (trƣớc 1776) ......................................................... 27 2.1.1. Công cuộc khẩn thực của ngƣời Châu Âu....................................................................... 27

2.1.2. Kinh tế Mỹ thời kỳ thống trị của thực dân Anh. ............................................................. 28 2.2. Kinh tế Mỹ thời kỳ trƣớc độc quyền (1776 - 1865) ...................................................... 28

2.2.1. Công cuộc di thực bành trƣớng đất đai mở rộng thị trƣờng ........................................... 28 2.2.2. Cách mạng công nghiệp và bành trƣớng lãnh thổ .......................................................... 28 2.2.3. Nội chiến ở Mỹ (1861 - 1865) ......................................................................................... 30

2.3. Kinh tế Mỹ thời kỳ độc quyền (1865 đến nay) ............................................................. 30 2.3.1. Thời kỳ bùng nổ kinh tế Mỹ (1865 - 1913) ..................................................................... 30

ii

2.3.2. Kinh tế Mỹ từ chiến tranh thế giới thứ nhất đến chiến tranh thế giới hai (1914 - 1945)

...................................................................................................................................................... 31 2.3.3. Kinh tế Mỹ từ sau chiến tranh thế giới hai (1945 – 1973) ............................................. 32

2.3.4. Kinh tế Mỹ từ năm 1974 đến nay .................................................................................... 34 Câu hỏi ôn tập ........................................................................................................................... 41

CHƢƠNG 3. KINH TẾ NHẬT BẢN ...................................................................................... 42 3.1. Kinh tế Nhật Bản thời kỳ phong kiến ............................................................................ 42

3.1.1. Đặc điểm kinh tế xã hội Nhật Bản cuối thời kỳ phong kiến Nhật Bản ......................... 42 3.1.2. Sự ra đời của Chủ nghĩa tƣ bản Nhật Bản ....................................................................... 43

3.2. Kinh tế Nhật Bản từ cải cách Minh Trị đến chiến tranh thế giới thứ II (1868 – 1945) . 44 3.2.1. Cải cách Minh Trị ............................................................................................................. 44

3.2.2. Cách mạng công nghiệp và chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản.............................................. 45 3.2.3. Kinh tế Nhật Bản thời kỳ (1914 - 1945) ......................................................................... 46

3.3. Kinh tế Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay ....................................... 47 3.3.1. Thời kỳ khôi phục kinh tế sau chiến tranh (1945 – 1954) ............................................. 47

3.3.2. Thời kỳ phát triển nhanh (1955 – 1973) ......................................................................... 48 3.3.3. Thời kỳ kinh tế trƣởng thành (1974 đến nay) ................................................................. 51

Câu hỏi ôn tập ........................................................................................................................... 59 CHƢƠNG 4. KINH TẾ CÁC NƢỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ................................................ 60

4.1.Quá trình hình thành hệ thống kinh tế Xã hội chủ nghĩa ................................................ 60 4.1.1. Sự xuất hiện Chủ nghĩa xã hội ......................................................................................... 60

4.1.2. Quan hệ hợp tác giữa các nƣớc Xã hội chủ nghĩa .......................................................... 61 4.2. Kinh tế các nƣớc xã hội chủ nghĩa thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (1917-1960) . 63

4.2.1. Cải tạo quan hệ sản xuất cũ xây dựng quan hệ sản xuất mới ........................................ 63 4.2.2. Xây dựng cơ sở vật chất của Chủ nghĩa xã hội .............................................................. 64

4.2.3. Xây dựng thể chế kinh tế Xã hội chủ nghĩa. ................................................................... 65 4.3. Kinh tế các nƣớc Xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ từ 1961 - 1991 ................................ 65

4.3.1. Cải cách kinh tế ................................................................................................................. 65 4.3.2. Phát triển kinh tế ............................................................................................................... 66

4.4. Kinh tế các nƣớc Xã hội chủ nghĩa thời kỳ từ 1991 đến nay ........................................ 67 Câu hỏi ôn tập ........................................................................................................................... 69

CHƢƠNG 5. KINH TẾ LIÊN XÔ (cũ) .................................................................................... 70 5.1. Đặc điểm kinh tế nƣớc Nga trƣớc cách mạng tháng Mƣời (1917) ............................... 70

5.1.1. Nƣớc Nga phong kiến từ thế kỷ VI đến đầu thể kỷ XIX .............................................. 70 5.1.2. Nƣớc Nga tƣ bản chủ nghĩa (1861 – 1913) ..................................................................... 70

5.2. Kinh tế Liên Xô thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội (1918 -1955) ............................... 70 5.2.1. Những cải cách sau cách mạng tháng 10 ........................................................................ 70

5.2.2. Thời kỳ nội chiến (1918 - 1920) ...................................................................................... 71 5.2.3. Thời kỳ khôi phục kinh tế (1921 – 1925) ........................................................................ 72

5.2.4 Thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. .... 72

iii

5.2.5. Thời kỳ chiến tranh vệ quốc (1941– 1945) ..................................................................... 74

5.2.6. Thời kỳ hoàn thiện chủ nghĩa xã hội (1951 – 1955) ...................................................... 74 5.3. Kinh tế liên xô thời kỳ củng cố và hoàn thiện CNXH (1956 – 1990) .......................... 74

5.3.1. Đặc điểm kinh tế Liên Xô giai đoạn 1956 - 1975 ........................................................... 74 5.3.2. Đặc điểm kinh tế trong giai đoạn 1976 - 1990 ................................................................ 76

5.4. Kinh tế Nga thời kỳ hậu Liên Xô .................................................................................. 76 5.4.1. Chuyển đổi nền kinh tế theo hƣớng thị trƣờng ............................................................... 76

5.4.2. Kinh tế Nga hồi phục (1995 – nay) .................................................................................. 77 Câu hỏi ôn tập .......................................................................................................................... 78

CHƢƠNG 6. KINH TẾ TRUNG QUỐC ................................................................................ 79 6.1. Đặc điểm kinh tế Trung Quốc thời kỳ phong kiến ....................................................... 79

6.2. Kinh tế Trung Quốc từ ngày thành lập nƣớc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đến năm 1978. ..................................................................................................................................... 79

6.3. Kinh tế Trung Quốc từ 1978 đến nay ........................................................................... 86 6.3.1 Kinh tế Trung Quốc từ năm 1978 tới năm 1987 .............................................................. 86

6.3.2. Kinh tế Trung Quốc từ năm 1988 đến nay ...................................................................... 91 Câu hỏi ôn tập .......................................................................................................................... 96

CHƢƠNG 7. KINH TẾ ASEAN ............................................................................................. 97 7.1. Kinh tế Asean trƣớc khi giành độc lập .......................................................................... 97

7.1.1. Cơ cấu kinh tế .................................................................................................................... 97 7.1.2. Chính sách kinh tế ............................................................................................................. 98

7.2. Kinh tế Asean sau khi giành độc lập ............................................................................. 99 7.2.1 Sự xâm nhập của CNTD mới ............................................................................................ 99

7.2.2. Mô hình phát triển ASEAN ............................................................................................ 100 7.2.3. Những thành tựu và hạn chế ........................................................................................... 107

7.2.4. Một số kinh nghiệm của ASEAN .................................................................................. 110 Câu hỏi ôn tập ........................................................................................................................ 111

CHƢƠNG 8. KINH TẾ VIỆT NAM ..................................................................................... 112 8.1. Kinh tế Việt Nam thời kỳ phong kiến ......................................................................... 112

8.1.1.Kinh tế Việt Nam thời kỳ tiền phong kiến ..................................................................... 112 8.1.2. Kinh tế Việt Nam thời kỳ phong kiến hóa (179 trƣớc công nguyên đến 938)............ 115

8.2. Kinh tế Việt Nam thời kỳ thực dân Pháp thống trị ..................................................... 119 8.2.1. Kinh tế Việt Nam từ khi Pháp xâm lƣợc đến chiến tranh thế giới lần thứ hai. .......... 119

8.2.3. Kinh tế trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954) ..................... 119 8.3. Kinh tế Việt Nam thời kỳ 1955 - 1975 ....................................................................... 122

8.3.1. Đặc điểm tình hình và nhiệm vụ cơ bản của miền Bắc ................................................ 122 8.3.2. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ............................................................................. 123

8.3.3. Kinh tế miền Nam trong vùng Mỹ – Ngụy kiểm soát .................................................. 132 8.3.4. Kinh tế trong vùng giải phóng........................................................................................ 134

8.4. Kinh tế Việt Nam thời kỳ 10 năm đầu sau khi đất nƣớc thống nhất (1976 – 1985) ... 136

iv

8.4.1. Đặc điểm tình hình và đƣờng lối phát triển kinh tế ...................................................... 136

8.4.2. Thực trạng nền kinh tế nƣớc ta 1976 – 1985 ................................................................ 138 8.5. Kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay) ................................................. 141

8.5.1. Bối cảnh và nội dung đổi mới ....................................................................................... 141 8.5.2. Những chuyển biến của nền kinh tế .............................................................................. 143

Câu hỏi ôn tập ......................................................................................................................... 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................... 152

v

CHƢƠNG MỞ ĐẦU. KHÁI QUÁT VỀ HỌC PHẦN

1. Vị trí và tác dụng của học phần

Sự hình thành và phát triển của môn học: Môn lịch sử kinh tế đƣợc ra đời từ khi

chủ nghĩa tƣ bản xuất hiện ở Tây Âu. Đến giữa thế kỷ XIX nó trở thành một môn

khoa học độc lập tách khỏi các khoa học lịch sử và khoa học kinh tế để trƣởng thành

lên với cuộc sống riêng của mình; Trƣớc khi chủ nghĩa Mác ra đời, khoa học lịch sử kinh tế theo quan điểm tƣ sản đã đƣợc hình thành và phát triển ở các nƣớc tƣ bản chủ

nghĩa: Đức, Anh, Pháp, Hà Lan,…Trong các nƣớc đó có nhiều công trình nghiên cứu

lịch sử kinh tế, nhƣng các tác phẩm ấy còn thiên về mô tả sự phát triển kỹ thuật và

lƣợc bỏ tính chất xã hội trong sự phát triển. Họ chứng minh tính ƣu việt và tính vĩnh

hằng của nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa.

Chủ nghĩa Mác ra đời tạo nên một bƣớc ngoặt cho khoa học xã hội nói chung,

cho lịch sử kinh tế nói riêng. Hai ông Mác và Ăngghen, đã sáng tạo ra môn lịch sử

kinh tế trên quan điểm Mác xít và đã đặt nó vào vị trí xứng đáng. Chính Mác - Ăngghen (và sau đó là Lênin) cũng đã rất chú trọng nghiên cứu lịch sử kinh tế.

Từ đó đến nay, khoa học lịch sử kinh tế đƣợc phát triển mạnh mẽ trên thế giới ở

các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.

Ở nƣớc ta, từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay, môn khoa học này cũng ngày

càng đƣợc chú trọng. Trong vòng vài ba thập kỷ nay, ở nhiều Viện nghiên cứu và

Trƣờng đại học kinh tế đã thành lập các bộ môn chuyên nghiên cứu và giảng dạy môn

học này, các ấn phẩm về lịch sử kinh tế cũng xuât hiện ở nƣớc ta ngày càng nhiều.

Vị trí của môn học: Môn lịch sử kinh tế quốc dân giữ một vị trí quan trọng trong

cơ cấu kiến thức của sinh viên và cán bộ kinh tế. Đây là một môn học kinh tế cơ sở,

trang bị những kiến thức kinh tế chung, tổng hợp, tạo nên cái “nền” để sinh viên đi vào

tiếp thu kiến thức chuyên ngành đƣợc tốt hơn. Nếu thiếu kiến thức lịch sử kinh tế thì

sinh viên sẽ có “lỗ hổng” về lý luận kinh tế và có thể bị vấp váp, sai lầm trong hoạt

động thực tiễn về kinh tế.

Môn lịch sử kinh tế ngày càng trở nên rất cần thiết đối với lý luận và thực tiễn vì

nó có nững tác dụng thiết thực, góp phần làm cho sinh viên:

- Nghiên cứu lịch sử kinh tế góp phần nâng cao trình độ lý luận kinh tế:

Những kiến thức về lịch sử kinh tế giúp cho sinh viên nắm vững lý luận kinh tế

cơ bản sâu sắc hơn và phong phú hơn trên cơ sở thực tiễn.

Thực tế cho thấy, việc nghiên cứu đời sống kinh tế, điều kiện phát triển của xã hội, nghiên cứu sự sản xuất ra của cải vật chất chính là cơ sở khoa học trong việc xây

dựng hệ thống lý luận kinh tế của C.Mác và Ph.Ăngghen chứng minh một cách tuyệt

1

diệu lý luận kinh tế của mình và phát hiện ra những quy luật phát sinh, phát triển và

những mâu thuẫn trong đời sống kinh tế xã hội ở các nƣớc tƣ bản.

Cũng từ nghiên cứu những diễn biến sinh động của thực tiễn lịch sử kinh tế của

các nƣớc trên thé giới, một số nhà kinh tế học đã đúc kết, xây dựng các lý thuyết phát

triển kinh tế làm phong phú thêm kho tàng học thuyết kinh tế và có ý nghĩa chỉ đƣờng

cho thực tiễn xây dựng phát triển kinh tế của mỗi nƣớc gắn với những giai đoạn lịch sử cụ thể.

- Học tập nghiên cứu lịch sử kinh tế sẽ giúp nắm bắt và học tập bài học kinh

nghiệm trong phát triển kinh tế:

Việc học tập, nghiên cứu lịch sử kinh tế sẽ giúp sinh viên nắm đƣợc những bài học kinh nghiệm về xây dựng, phát triển kinh tế của các nƣớc cũng nhƣ của nƣớc ta.

Những bài học kinh nghiệm này đƣợc rút ra từ những thành công, thậm chí cả từ

những hạn chế trong sự phát triển kinh tế. Điều đó giúp sinh viên hiểu đƣợc nguyên

tắc kế thừa và phát triển trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế. Mác đã viết:

“Mỗi hiện tƣợng xuất hiện nhất thiết phải từ trên một nền tảng kinh tế nhất định trực

tiếp sẵn có, do quá khứ để lại” . Đồng thời, từ nghiên cứu lịch sử kinh tế, sinh viên sẽ

nhận thức đƣợc xu hƣớng và đặc điểm phát triển kinh tế của thế giới cũng nhƣ của

Việt Nam.

Khi nghiên cứu về kinh tế của các nƣớc tƣ bản đã cho thấy vai trò của cach mạng khoa học công nghệ đối với sự phát triển của lực lƣợng sản xuất và sự đa dạng của

kinh té thị trƣờng cũng nhƣ thấy đƣợc những khuyết tật của nó va sự cần thiết về chức

năng điều tiết của nhà nƣớc đối với các hoạt động kinh tế.

Việt Nam đang trong giai đoạn thực hiện công cuộc hoá, hiện đại hoá trong bối

cảnh toàn cầu hoá và sự bùng nổ của cách mạng khoa học công nghệ thời đại đã làm

thay đổi cả tƣ duy, nhận thức về công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực tế, những bài học

kinh nghiệm của các nƣớc đi trƣớc đều có ý nghĩa lý luận thực tiễn sâu sắc. Điển hình

nhƣ vấn đề về công nghiệp hoá, bài học kinh nghiệm đƣợc rút ra là cần phải xác định

đƣợc mô hình công nghiệp hoá phù hợp để kết hợp tôi ƣu nguồn lực bên trong, bên ngoài, gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá. Mô hình công nghiệp hoá ở Việt Nam cần phải nắm vững các quan điểm: công nghiệp hoá phải bám sát xu thế vận động của kinh tế thế giới, vừa tạo điều kiện khai thác lợi thế của mình, vừa tận dụng những cơ hội do thời đại tạo ra; công nghiệp hoá phải hƣớng đến sự phát triển kinh tế bền vững. - Nâng cao lập trường tư tưởng cho sinh viên: Nghiên cứu lịch sử kinh tế, ngƣời

học sẽ nắm đƣợc thành tựu xây dựng và phát triển kinh tế của thế giới và của nƣớc ta, từ đó nâng cao lòng yêu nƣớc chân chính kết hợp với tinh thần quốc tế xã hội chủ

nghĩa, củng cố đƣợc nhận thức về xu thế tất yếu của xã hội loài ngƣời. Đồng thời,

2

thông qua việc học tập lịch sử kinh tế, ngƣời học sẽ nhận thức rõ hơn cơ sở thực tiễn

của các đƣờng lối chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nƣớc.

- Bồi dưỡng quan điểm lịch sử và quan niệm thực tiễn cho sinh viên: Có nghiên

cứu toàn bộ lịch sử phát triển của sự vật, hiện tƣợng, ngƣời học mới nắm bắt đƣợc vấn

đề một cách cơ bản nhất, khách quan nhất. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Muốn đề cập tới vấn

đề một cách đúng đắn, nghiêm chỉnh, chắc chắn thì trƣớc hết phải nhìn toàn bộ lịch sử phát triển của nó.”Đồng thời, nắm đƣợc điều kiện lịch sử cụ thể thì ngƣời học mới hiểu

rõ và vận dụng đúng đắn kinh nghiệm lịch sử. Rõ ràng, việc học tập, nghiên cứu môn

lịch sử linh tế sẽ bồi dƣỡng cho sinh viên quan điểm lịch sử và quan điểm thực tiễn. 2. Đối tƣợng và nhiệm vụ học phần

2.1. Đối tƣợng

Lịch sử phát triển của xã hội loài ngƣời là lịch sử của các phƣơng thức sản xuất

nối tiếp nhau. Mỗi phƣơng thức sản xuất gồm có hai mặt: quan hệ sản xuất và lực lƣợng sản xuất - quan hệ biện chứng với nhau. Do đó, đối tƣợng nghiên cứu của lịch

sử kinh tế là sự phát triển của quan hệ sản xuất và lực lƣợng sản xuất. Đồng thời, môn

học còn đề cập đến một số yếu tố của kiến thức thƣợng tầng nhƣ đƣờng lối chính sách

kinh tế, luật pháp của nhà nƣớc…

Lịch sử kinh tế nghiên cứu sự phát triển của quan hệ sản xuất vì quan hệ sản

xuất là cơ sở kinh tế của hình thái kinh tế xã hội, biểu hiện tính chất xã hội của nền sản

xuất. Khi quan hệ sản xuất thay đổi thì xã hội cũng biến đổi từ hình thái này sang hình

thái khác.

Đồng thời, lịch sử kinh tế còn nghiên cứu sự phát triển của lực lƣợng sản xuất vì lực lƣợng sản xuất nói lên trình độ chế ngự thiên nhiên, là tiêu chuẩn để phân biệt

sự khác nhau giữa các thời kỳ phát triển. Hơn nữa, lực lƣợng sản xuất và quan hệ sản

xuất luôn luôn quan hệ chặt chẽ với nhau.

Lịch sử kinh tế nghiên cứu lực lƣợng sản xuất không phải chỉ để hiểu rõ sự tác

động qua lại với quan hệ sản xuất mà còn để hiểu rõ đƣợc bản thân sự phát triển của

lực lƣợng đó. Tuy nhiên, lịch sử kinh tế nghiên cứu sự phát triển lực lƣợng sản xuất chủ yếu về mặt ý nghĩa kinh tế, xã hội của các công cụ lao động, của những phát minh sang chế đối với việc nâng cao năng suất lao động xã hội và trong việc cải tạo các mối quan hệ sản xuất cũ.

Lịch sử kinh tế còn đề cập đến một số yếu tố thuộc kiến trúc thƣợng tầng nhƣ

đƣờng lối chính sách, luật pháp của nhà nƣớc…vì các yếu tố đó trở thành những nhân tố của sự phát triển kinh tế trong một thời kỳ nhất định.Song việc đề cập đó chỉ là để làm rõ đối tƣợng nghiên cứu của lịch sử kinh tế mà thôi.

3

2.2. Nhiệm vụ của

Lịch sử kinh tế có nhiệm vụ phản ánh thực tiễn lịch sử kinh tế một cách khoa học, trung thực, tức là phải thu thập, chọn lọc, mô tả đƣợc các hiện tƣợng và quá trình

kinh tế, vẽ lại bức tranh toàn diện của nền kinh tế, nói lên đƣợc những điều kiện xuất

hiện của các hiện tƣợng và sự kiện kinh tế.

Nhƣng lịch sử kinh tế không phải chỉ có nhiệm vụ mô tả các hiện tƣợng và quá trình kinh tế, mà trên cơ sở đó phải đúc kết rút ra đƣợc những bài học kinh nghiệm để

giúp ích cho công việc xây dựng kinh tế hiện tại, qua mỗi quá trình lịch sử kinh tế cụ

thể phải tìm ra những đặc điểm và những quy luật đặc thù 3. Phƣơng pháp nghiên cứu của học phần

- Phương pháp luận nghiên cứu của lịch sử kinh tế quốc dân là phƣơng pháp

duy vật biện chứng. Phƣơng pháp duy vật biện chứng nhìn nhận các hiện tƣợng và quá

trình hoạt động của nền kinh tế trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, có phủ định và kế thừa nhau trong sự vận động và phát triển không ngừng. Do vậy, khi nghiên cứu

lịch sử kinh tế không chỉ chú ý đến các hiện tƣợng kinh tế riêng biệt mà còn phải chú ý

xem xét, phân tích và đánh giá các hiện tƣợng kinh tế trong mối liên hệ phổ biến vì

nền kinh tế nhƣ một cơ thể sống luôn diễn ra đa dạng, phức tạp và nhiều khi hàm chứa

cả mâu thuẫn. Điều đó có nghĩa là khi nghiên cứu lịch sử kinh tế, nếu chỉ tách biệt để

phân tích hiện tƣợng kinh tế một cách riêng biệt thì dễ dẫn đến những kết luận chủ

quan mà không thấy đƣợc động thái tích cực và xu hƣớng vận động của nền kinh tế

trong sự tác động tƣơng tác của nhiều nhân tố. Trong đó, có những nhân tố mang tính

quyết định, phản ánh đặc trƣng và phát triển của nền kinh tế.

- Cơ sở lý luận của lịch sử kinh tế là cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,

các lý thuyết kinh tế học và đƣờng lối, chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nƣớc ta.

Đó cũng chính là cơ sở để xác định những phƣơng pháp cụ thể trong phân tích và đánh

giá động thái phát triển của nền kinh tế, luận giải về các sự kiện, các hiện tƣợng và quá

trình kinh tế của các nền kinh tế quốc dân.

Trong nghiên cứu, lịch sử kinh tế quốc dân sử dụng các phƣơng pháp sau: - Phương pháp lịch sử và phương pháp logic: Phƣơng pháp lịch sử là phƣơng pháp nghiên cứu sự phát triển kinh tế gắn với các sự kiện, hiện tƣợng kinh tế theo tiến trình thời gian và trong hoàn cảnh cụ thể. Sử dụng phƣơng pháp này, khoa học lịch sử kinh tế mới có thể thực hiện tốt nhất nhiệm vụ phản ánh trung thực, khách quan lịch sử

phát triển của các nền kinh tế quốc dân.

Phƣơng pháp logic là phƣơng pháp nghiên cứu bỏ qua những hiện tƣợng kinh tế ngẫu nhiên, đi vào bản chất của hiện tƣợng kinh tế, từ đó khái quát lý luận của tiến trình phát triển kinh tế của các quốc gia.

4

Phƣơng pháp lịch sử cũng nhƣ phƣơng pháp logic đều có những ƣu điểm và

nhƣợc điểm riêng. Phƣơng pháp lịch sử có ƣu điểm là hết sức rõ ràng, cụ thể nhƣng lại có nhƣợc điểm là hạn chế khả năng nhận thức.

Phƣơng pháp logic có tính chất khái quát nhƣng phân tích dƣới dạng thuần tuý

trìu tƣợng nên không nói lên mặt cụ thể của sự phát triển.

Do vậy, trong nghiên cứu lịch sử kinh tế sự kết hợp chặt chẽ cả hai phƣơng pháp lịch sử và logic sẽ hạn chế việc thiên về miêu tả các sự kiện một cách tự nhiên

chủ nghĩa, đồng thời cũng thiên về việc khái quát lý luận và suy diễn chủ quan, không

coi trọng thực tế lịch sử.

Thực tế cho thấy, khi nghiên cứu lịch sử kinh tế nếu các hiện tƣợng kinh tế không rõ ràng, đầy đủ thì những kết luận khoa học rút ra từ các sự kiện kinh tế cụ thể

sẽ không chắc chắn và kém thuyết phục vì lịch sử kinh tế luôn diễn ra với tính muôn

màu, muôn vẻ của nó. Do vậy, nếu chỉ sử dụng phƣơng pháp lịch sử đơn thuần sẽ

không giúp đƣợc nghiên cứu nắm đƣơc chân lý khách quan.

- Phương pháp phân kỳ lịch sử: Trong nghiên cứu, lịch sử kinh tế phân chia quá

trình phát triển kinh tế thành các thời kỳ và giai đoạn khác nhau. Phƣơng pháp này

nhằm làm rõ đặc trƣng trong phát triển kinh tế của các nƣớc trong từng thời kỳ và từng

giai đoạn lịch sử cụ thể.

- Các phương pháp tiếp cận liên ngành: Trong nghiên cứu, lịch sử kinh tế còn sử dụng kết hợp các phƣơng pháp khác nhƣ” các phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp

toán kinh tế, phƣơng pháp đối chứng, so sánh, phƣơng pháp xã hội học…Thực tế, yêu

cầu phát triển khoa học ngày nay gắn với quá trình chuyên môn hoá, chuyên ngành

hoá và gắn với quá trình mở rộng, lien kết thâm nhập vào nhau, hoà quyện lẫn nhau

giữa các chuyên ngành khoa học. Phƣơng pháp lien ngành nảy sinh trong bối cảnh nhƣ

thế và ngày càng trở thành xu thế quan trọng trong đời sống học thuật. Tiếp cận theo

phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành đòi hỏi phải tăng cƣờng các hoạt động thông tin

khoa học, tổ chức nhiều hội thảo bao gồm chuyên gia của các chuyên ngành khác nhau

cùng luận bàn những vấn đề liên quan trong tiếp cạn nghiên cứu của mình. Đồng thời, tiếp cạn liên ngành cần có sự kết hợp chặt chẽ hài hoà giữa các phƣơng pháp truyền thống và phƣơng pháp hiện đại, phải tìm cách cập nhật thành tựu mới của khoa học - công nghệ và nhanh chóng hiện đại hoá phƣơng pháp nghiên cứu.

Câu hỏi ôn tập

1. Trình bày vai trò, vị trí của môn Lịch sử kinh tế quốc dân. 2. Trình bày đối tƣợng nghiên cứu của môn Lịch sử kinh tế quốc dân. 3. Trình bày các phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản của môn Lịch sử kinh tế quốc dân.

5

CHƢƠNG 1. KINH TẾ CÁC NƢỚC TƢ BẢN CHỦ NGHĨA

1.1. Sự ra đời của phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa

1.1.1. Sự phân công lao động và trao đổi hàng hóa

Sự phân công triệt để giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp và sự trao đổi giữa

hai khu vực đó

Sau khi đế quốc La Mã sụp đổ, các lãnh địa phong kiến đƣợc hình thành. Trong

các lãnh địa phong kiến, tuy chƣa có sự thay đổi lớn về kỹ thuật canh tác, ngƣời nông

dân trong hoàn cảnh mới không còn nhƣ thời nô lệ, đã nhiệt tình hơn với sản xuất, do

đó cung cấp nhiều lƣơng thực, thực phẩm cho lãnh chúa. Ngƣời nông dân đã tích lũy đƣợc nhiều kinh nghiệm canh tác, áp dụng nhiều biện pháp thâm canh, mở rộng diện tích

trồng cây công nghiệp. Một số nông dân đã có thể tách một phần hay toàn bộ nông thôn ra

thị trấn làm nghề thủ công đáp ứng nhu cầu của lãnh chúa. Sản xuất phát triển do năng suất lao động nông nghiệp tăng, đã có nhiều sản phẩm trao đổi lấy hàng thủ công.

Trong nghề thủ công, kỹ thuật đúc và chế biến kim loại, dệt vải, thuộc da, sản

xuất gỗ hay đẽo đá...có nhiều tiến bộ trong phạm vi từng lãnh địa. Nhu cầu của lãnh

chúa ngày càng tăng lên. Địa tô thu về đƣợc nhiều, tầng lớp phong kiến tha hồ tiêu xài,

thừa để trao đổi lấy hàng thủ công cần thiết. Các quý tộc, trƣớc kia may âu phục bằng

vải lanh hay da cừu, áo choàng bằng len...Muốn sản xuất loại hàng đặc biệt này, phải

có chỗ ổn định, rộng rãi có thiết bị và ngƣời có chuyên môn. Các lãnh chúa cần có nhà

thờ bề thế để cúng lễ, có tu viện để đào tạo thầy tu, có lâu đài tráng lệ bằng đá, cao,

chắc chắn để tự vệ... Nhu cầu mới nảy sinh, lại xuất hiện nhiều loại thợ, nhiều xƣởng

biệt lập.

Đến thế kỷ XI, lực lƣợng sản xuất trong nông nghiệp và thủ công nghiệp trong

phạm vi lãnh địa đã đạt đƣợc một khối lƣợng sản phẩm mới. Nông nghiệp và thủ công

nghiệp biệt lập, thủ công nghiệp không thể là cái đuôi của công nghiệp nhƣ trƣớc kia.

1.1.2. Thành thị phong kiến Châu Âu

Là những thành phố tự do, không thuộc sự khống chế của lãnh chúa phong kiến,

trong đó thủ công nghiệp là ngành kinh tế chính. Bên cạnh đó các ngành thƣơng nghiệp, cho vay lấy lãi phát triển...Mỗi nghề đều có tổ chức nghề nghiệp, những phƣờng hội. Có phƣờng hội về từng nghề thủ công và buôn bán...Trong thành thị phong kiến, lúc đầu ngƣời thợ thủ công vừa là ngƣời sản xuất ra vật phẩm, vừa là ngƣời đem chào hàng, bán sản phẩm. Nhƣng khi thị trƣờng tiêu thụ hàng hóa mở rộng

ra ngoài phạm vi thành thị, thì xuất hiện ngƣời chuyên mang hàng của xƣởng thợ đi bán, đi mua nguyên vật liệu cho xƣởng thợ đó sản xuất, đó là những thƣơng nhân.

Thƣơng nhân hợp thành từng đoàn ngƣời đi khắp lục địa châu Âu sang Ấn Độ để bán hàng. Trên đƣờng đi, có chỗ dừng chân, gặp nhau để trao đổi hàng ở một số địa

6

điểm nhất định gọi là hội chợ. Hội chợ lớn đầu tiên trên thế giới là hội chợ Sampannhơ

(Pháp). Khi mang hàng bán, thƣơng nhân cần nhiều tiền để mua hàng. Đầu tiên, những

thƣơng nhân thừa tiền cho thƣơng nhân khác vay, về sau hình thành dẫn những tổ chức

cho vay. Tổ chức cho vay lớn nhất thế giới vào thế kỷ XIV, XV là các hãng Mêdêli

(Ý), Vendecốp (Đức). Các hãng này không chỉ là chủ nợ của các thƣơng nhân, mà cả của các quý tộc, vua chúa.

Thƣơng nhân giàu có trở thành những nhân vật trung tâm trong thành thị phong

kiến. Thừa tiền, họ tự đứng ra tổ chức xƣởng thợ, thuê lao động, tự sản xuất hàng hóa

đem bán theo nhu cầu của thị trƣờng, không cần lệ thuộc vào ngƣời thợ thủ công nữa. Nhƣ vậy, đã xuất hiện một tầng lớp ngƣời mới. Họ không trực tiếp lao động, có vốn,

thuê lao động để bóc lột. Đó là mầm mống của quan hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa đã

xuất hiện ở một số thành phố ven bờ Địa Trung Hải vào thế kỷ XIV-XV, nhƣng thời

đại của quan hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa chỉ bắt đầu từ thế kỷ XVI, nó gắn liền với

nhiều điều kiện mới.

1.1.3. Tác động của phát kiến địa lý

Ở Tây Âu: Vào thế kỷ XV, nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển, nhƣng ở các quốc gia phong kiến lại không có tiền, vàng để thanh toán các khoản chi phí xa xỉ

trong triều đình. Vua chúa nợ con buôn đã nhiều, ngân khố Nhà nƣớc vẫn rỗng. “Khát

vàng” là động lực, thúc đẩy các quốc gia phong kiến tìm con đƣờng sang phƣơng

Đông để kiếm vàng, nhƣng con đƣờng quen thuộc trên Địa Trung Hải để sang Ấn Độ

đã bị đế quốc Thổ chiếm giữ. Nhà nƣớc phong kiến Tây Ban Nha đã đi đến giai đoạn

phong kiến tập quyền, đang hung cƣờng nhất, đã bắt buộc phải tổ chức những con

đƣờng mới sang phƣơng Đông: năm 1492, Cristoforo Colombo đi vào vùng Caribe

khám phá ra châu Mĩ; năm 1496, Vasco da Gama đi sâu vào lục địa châu Phi, cuối

cùng đến Ấn Độ, từ năm 1519-1521, Ferdinand Magellan kế thừa thành tựu của các

cuộc thám hiểm trên, tìm ra con đƣờng vòng quanh thế giới. Hành trình vòng quanh

thế giới của ông đã chứng minh là ngƣời ta có thể đi buôn bán bất cứ từ đâu, có thể đến bất cứ nơi nào, mà vẫn có thể trở lại chỗ cũ đƣợc.

Các cuộc thám hiểm đó ảnh hƣởng đến quá trình hình thành phƣơng tức sản xuất

tƣ bản chủ nghĩa ở châu Âu:

- Thị trường thế giới và những tác động về thương nghiệp: Những lục địa mới phát triển là thị trƣờng rộng lớn cho hàng hóa ở châu Âu tiêu thụ, đồng thời là những

nơi cung cấp các nông sản phẩm đa dạng làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp ở châu Âu phát triển. Trƣớc năm 1500, ngƣời ta biết diện tích quả đất là 50 triệu km2, đến năm 1600 thì diện tích đó là 310 triệu km2. Nhiều nông sản phẩm trƣớc kia chƣa hề biết nhƣ thuốc lá, ca cao, cà phê, chè,…đã đƣợc nhập vào ngày càng nhiều. Nhiều

7

loại trƣớc đã có thì nay tăng gấp bội nhƣ hồ tiêu từ 200 tấn tăng lên 7.000 tấn. Phƣơng

pháp thƣơng nghiệp quốc tế thay đổi: nhiều nƣớc thành lập các tổ chức thƣơng nghiệp độc quyền, chuyên bán một thứ hàng ở một thị trƣờng nhất định, nhƣ công ty Phi Châu

ở Anh, công ty Đông Ấn ở Hà Lan, Anh…Trung tâm buôn bán cũng thay đổi, từ Địa

Trung Hải chuyển lên phía Bắc Âu. Từ thế kỷ thứ XVI về trƣớc, các thành phố miền

Bắc nƣớc Ý nổi tiếng. Từ thế kỷ XVI về sau, các thành phố của các nƣớc Anh, Pháp, Hà Lan…Nghiệp vụ thƣơng nghiệp quốc tế thay đổi ngƣời ta không cần mang hàng

đến chỗ buôn bán, mà chỉ mang hàng mẫu, rồi kí hợp đồng, nhận hàng và trả tiền. Các

hình thức tín dụng, kế toán thƣơng mại quốc tế… trở thành công cụ phổ biến trong

mọi hình thức buôn bán.

- Cách mạng giá cả ở châu Âu: Gây ảnh hƣởng lớn đến quá trình tan rã của chế

độ phong kiến, thúc đẩy quá trình hình thành chủ nghĩa tƣ bản.

Từ những lục địa mới, vàng và bạc bị cƣớp về châu Âu. Trong thế kỷ XVII khối

lƣợng vàng ở châu Âu tăng từ 590.000 kg lên 1.192.000 kg, bạc từ 7 triệu kg tăng lên

21,4 triệu kg. Kim loại quý tăng lên hay phƣơng tiện thanh toán tăng lên, trong khi đó

số lƣợng hàng hóa sản xuất ra không thay đổi tƣơng ứng. Do vậy, giá cả làm thay đổi

tình hình kinh tế xã hội ở châu Âu. Tầng lớp phong kiến vì thu tô bằng tiền bị phá sản.

Thƣơng nhân có dịp làm giàu và tích lũy. Ngƣời lao động trong các xƣởng thợ gặp khó

khăn. Cuộc “cách mạng giá cả” tác động một cách khách quan đến sự hình thành quan hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa làm tan rã cơ sở kinh tế của chế độ phong kiến.

- Xuất hiện chế độ bóc lột thuộc địa: Những vùng đất mới trở thành những nơi bị

xâm chiếm để khai thác tài nguyên, cƣỡng bức cung cấp lao động và phải trao đổi

hàng hóa không bình đẳng. Vƣơng quốc thuộc địa đầu tiên của thế giới là Bồ Đào Nha

và Tây Ban Nha và ngoài ra còn Anh, Pháp, Hà Lan. Chế độ thuộc địa chỉ mới bắt đầu

vào thế kỷ thứ XVI, XVII, nhƣng các thủ đoạn bóc lột thuộc địa dần dần đƣợc áp dụng

phổ biến cho đến nay, nhƣ buôn bán không ngang giá, khai thác vơ vét tài nguyên

mang về chính quốc.

1.1.4. Tích luỹ nguyên thuỷ tƣ bản

Bản anh hùng ca của phát kiến địa lý vĩ đại mở ra thời đại tích lũy nguyên thủy của tƣ bản. Đó là quá trình dùng bạo lực để tạo ra nguồn vốn và lao động làm thuê cho chủ nghĩa tƣ bản.

Quá trình tích lũy nguyên thủy tƣ bản ở mỗi nƣớc có những nét riêng biệt, diễn ra ở nhũng thời điểm khác nhau. Ví dụ điển hình là của nƣớc Anh, quá trình tích lũy

nguyên thủy diễn ra sớm và mang nhiều phƣơng pháp điển hình nhƣ tƣớc đoạt ruộng đất của ngƣời dân, buôn bán nô lệ và cƣớp biển, xâm chiếm thuộc địa, phát hành công trái, thực hiện chế độ bảo hộ công nghiệp, độc quyền, ngoại thƣơng… Bằng những

8

biện pháp đó, đến cuối thế kỷ XVI, tƣ bản Anh đã tích lũy đƣợc khoảng 1 triệu phun –

Steclinh vàng và bạc và có một nguồn lao động làm thuê.

1.1.5. Phát triển kỹ thuật

Thế kỷ XV-XVI có nhiều tiến bộ kỹ thuật về năng lƣợng và luyện kim. Thế kỷ

thứ XVI có hai sang kiến trong lĩnh vực năng lƣợng là sử dụng sức gió trong công việc

xay bột và dùng động lực sức nƣớc trong nhiều ngành sản xuất nhƣ xay bột, khai thác than, đặc biệt trong ngành luyện kim.

Vào thế kỷ thứ XV,XVI, ở châu Âu, phong kiến có nhiều nhu cầu về kim loại cả

về số lƣợng và chất lƣợng để chế tạo vũ khí, đóng tàu… phục vụ chiến tranh và xâm

chiếm thuộc địa. Những phƣơng pháp sản xuất mới giữ đƣợc nhiệt độ cao và liên tục, cho phép luyện đƣợc những mẻ kim loại lỏng, đúc những công cụ mà ngƣời ta muốn.

Số lƣợng kim loại tăng lên, phƣơng pháp chế biến kim loại thay đổi theo. Những

công cụ để chế biến kim loại cũng thay đổi: Đã xuất hiện những loại búa đơn giản,

máy bào, gọt, mài thô sơ, đã có bộ cần trục thô sơ hạ sâu trong lòng mỏ. Đến cuối thế

kỷ XVI đã chế tạo đƣợc đồng hồ xách tay. Cơ cấu của bộ máy tự động là điểm xuất

phát cho những suy nghĩ phát minh sau này.

Trong ngành dệt, bàn dệt hoàn toàn bằng thủ công dần dần đƣợc cải tiến, lắp bàn đạp thay cho thao tác của hai bàn tay. Trong nông nghiệp, tăng diện tích gieo

trồng, tạo giống mới. Lực lƣợng sản xuất và phân công xã hội phát triển ngày càng

mâu thuẫn với phạm vi chật hẹp của nền sản xuất nhỏ trong các thành phố trung cổ.

Thị trƣờng mỏ rộng vốn và lao động làm thuê càng tăng và cơ sở kỹ thuật đƣợc cải

tiến đã tạo điều kiện để tổ chức sản xuất với quy mô lớn hơn. Công trƣờng thủ công tƣ

bản chủ nghĩa ra đời là hình thức quá độ từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn tƣ bản chủ

nghĩa, giữ vai trò thống trị ở châu Âu từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII. 1.2. Kinh tế các nƣớc tƣ bản thời kỳ tự do cạnh tranh

1.2.1. Quan hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa giữ vai trò thống trị

Mâu thuẫn giữa lực lƣợng sản xuất tƣ bản chủ nghĩa và quan hệ sản xuất phong

kiến dẫn đến cuộc cách mạng tƣ sản nhằm lật đổ chế độ phong kiến: ở Hà Lan (1556); Anh (1640 - 1660); Pháp (1789 - 1794); Mỹ (1864 - 1865); Nga (1861); Nhật (1868), Trung Quốc (1911) … Đến thế cuối thế kỷ XIX, quan hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa đã hình thành và phát triển ở nhiều nƣớc trên thế giới.

Chủ nghĩa tƣ bản ở Anh, Hà Lan thuộc dạng cổ điển có đặc trƣng sau: cách mạng

ruộng đất bắt đầu sớm, chủ nghĩa tƣ bản phát triển mạng trong nông nghiệp, tài nguyên của các nƣớc thuộc địa, chính sách của nhà nƣớc phong kiến ảnh hƣởng đến sự phát triển của chủ nghĩa tƣ bản.

9

Ở Mỹ, Canađa, Úc, Tây Ban Nha chủ nghĩa tƣ bản phát triển trong nông nghiệp

bằng con đƣờng trang trại. Ở Pháp chủ nghĩa tƣ bản ở nông thôn có điều kiện thuận lợi vì cách mạng tƣ sản triệt để hơn đã quét sạch các đẳng cấp phong kiến.

Con đƣờng phát triển CNTB ở các nƣớc Đức, Balan, Hunggari, Rumani, Nhật và

Nga là con đƣờng phong kiến kiểu Phổ: Chủ nghĩa tƣ bản trong nông nghiệp phát triển

chậm chạp do các tàn dƣ của chế độ nông nô phong kiến.

Chủ nghĩa tƣ bản ở các nƣớc Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, Inđônêxia, các

nƣớc Ảrập, các nƣớc châu Mỹ La tinh phát triển theo dạng thuộc địa, chế độ phong

kiến bị kỳm hãm.

Quan hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa đƣợc bảo hộ về mặt pháp lý ở nhiều nƣớc sau

khi cách mạng tƣ sản thành công.

1.2.2. Cách mạng công nghiệp và hậu quả của nó

1.2.2.1. Cách mạng công nghiệp Anh

Nƣớc Anh là nƣớc đầu tiên thực hiện CM công nghiệp, cách mạng công nghiệp

không phải là hiện tƣợng kỹ thuật thuần túy, mà còn biểu hiện tính chất kinh tế xã hội,

tác động lớn đến quá trình phát triển của chủ nghĩa tƣ bản.

Tiền đề: - Nguồn vốn dựa vào ƣu thế ngoại thƣơng do độc quyền buôn bán và trao đổi

không ngang giá với thuộc địa

- Buôn bán nô lệ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo tiền đề cho cách mạng

công nghiệp ở Anh. Nếu tính từ 1680 đến 1786 có 2 triệu nô lệ bị Anh bán đi khắp nơi.

- Sự phát triển của CNTB trong nông nghiệp cũng là tiền đề cho cách mạng

công nghiệp ở Anh, đặc biệt thông qua việc mua bán và chiếm đoạt ruộng đất và sự

phát triển về kỹ thuật, năng suất trong nông nghiệp.

Tiến trình của cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh. - Cách mạng công nghiệp bắt đầu từ việc phát triển công cụ sản xuất

+ Năm 1733, John Kay đã chế tạo ra thoai bay chạy bằng dây và sức đẩy của

+ Năm 1768, James Hargreave tạo ra máy kéo sợi có năng suất cao. + Năm 1779, Samuel Compton đóng đƣợc máy kéo sợi có ƣu điểm mịn, đẹp + Năm 1785, Edmund Cartwright đã chế tạo hoàn chỉnh đƣợc máy dệt, nâng

bàn đạp thay thế việc đƣa thoi bằng tay. năng suất dệt lên 40 lần. - Nhu cầu về kim loại có chất lƣợng tốt để chế tạo máy mới ngày càng tăng

+ Năm 1735, Derbi cải tiến cách chế than cốc. + Năm 1784, Henry Cort phát hiện ra cách dùng than đá nấu gang thành sắt. - Cách mạng trong lĩnh vực năng lƣợng có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển

ngành công nghiệp. Năm 1784, James Watt đã sáng chế ra máy hơi nƣớc.

10

- Ngành công nghiệp cơ khí và chế tạo máy chính xác ra đời và phát triển: Năm

1789, Modeale chế tạo ra máy phay, máy bào, máy tiện.

- Công nghiệp phát triển, yêu cầu về tăng cƣờng các phƣơng tiện giao thông và

đƣờng giao thông.

+ Cách mạng công nghiệp bắt đầu từ việc xây dựng kênh đào: Năm 1755, kênh

đào đầu tiên đƣợc xây dựng dài 11 dặm gần Liverpool. Trong khoảng ¼ đầu thế kỷ XIX, ở nƣớc Anh có đến 4.670 dặm kênh đào.

+ Giai đoạn 2 mở đầu bằng việc đóng tầu thủy. Năm 1807, Robert Fulton đã

chế ra tàu thủy chạy bằng hơi nƣớc thay thế cho những mái chèo hay những cánh

buồm.

+ Từ năm 1812 – 1854, là giai đoạn thứ 3 của cuộc cách mạng trong giao thông

vận tải - giai đoạn xây dựng đƣờng sắt. Năm 1814, chiếc đầu máy xe lửa đầu tiên chạy

bằng hơi nƣớc đã ra đời. Đến năm 1829, vận tốc xe lửa đã lên tới 14 dặm/giờ. Năm

1830, đƣờng sắt chạy từ Manchester đến Liverpool đƣợc xây dựng, tuyến đƣờng này

có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động buôn bán của nƣớc Anh.

Đặc điểm của cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh:

Bắt đầu từ công nghiệp nhẹ (ngành dệt) rồi dẫn đến các ngành công nghiệp

nặng: luyện kim, cơ khí. Từ các công cụ đến các máy động lực với đỉnh cao nhất là

máy hơi nƣớc, nó tuân theo từ trình tự từ thấp đến cao, từ thủ công lên nửa cơ khí và cơ khí. Đó cũng là quá trình bót lột nhân dân lao động trong nƣớc và thuộc địa.

Hậu quả kinh tế - xã hội của cuộc cách mạng công nghiệp:

- Dân cƣ trong nƣớc bị xáo trộn, lực lƣợng sản xuất mới xuất hiện đƣợc phân bố

lại, nhiều thành phố lớn xuất hiện. Dân cƣ thành phố tăng lên 3,5 lần (1750 - 1871).

Ngƣợc lại dân cƣ nông thôn giảm đi nhanh chóng năm 1871 chỉ còn 14,1% trong tổng

số 22 triệu dân. Trong thời gian từ 1815 – 1880 có 8 triệu ngƣời Anh di cƣ đến các

vùng đất thuộc địa mới.

- Trong xã hội hình thành nên giai cấp mới đối lập với giai cấp tƣ sản đó là giai

cấp vô sản.

- Ruộng đất chủ yếu tập trung vào tay địa chủ lớn. Nƣớc Anh nhờ cuộc cách mạng công nghiệp trở thành “công xƣởng của thế giới”, năm 1848 sản lƣợng công nghiệp của Anh chiến 45% sản lƣợng công nghiệp thế giới. Nƣớc Anh chở thành “chủ nợ, là trung tâm cho vay của thế giới tƣ bản”, “ngƣời thƣơng nghiệp quốc tế”.

1.2.2.2. Cách mạng công nghiệp Pháp và Đức * Cách mạng công nghiệp ở Pháp:

Bắt đầu từ năm 1815 – 1830, có đặc điểm

11

- Quá trình tích lũy vốn chậm và yếu ớt hơn so với Anh. Phƣơng pháp chủ yếu

bằng thuế cao, tích lũy vốn từ các thuộc địa.

- Cách mạng công nghiệp Pháp bắt đầu từ công nghiệp nhẹ, cụ thể là ngành dệt

lụa. Quá trình đó đƣợc chia làm 2 giai đoạn:

Giai đoạn 1: (1815 - 1848) đánh dấu bằng sự tăng cƣờng máy móc trong nông

nghiệp và phát triển sản xuất.

Giai đoạn 2: (từ những năm 50 của thế kỷ XIX đến những năm 20 của thế kỷ

XX). Từ năm 1850 – 1870 số lƣợng máy hơi nƣớc tăng lên không ngừng tới 24.000

chiếc.

Nƣớc Pháp hoàn thiện quá trình công nghiệp hóa vào những năm 20 của thế XX, sau gần 100 năm (1830 – 1920). Đến khi hoàn thành cách mạng công nghiệp, tuy

đã có hệ thống công nghiệp nặng và nhẹ, song sản xuất lớn tập trung vẫn chƣa đóng

vai trò chính, sản xuất ở các công trƣờng thủ công còn phổ biến. Những năm 60 của

thế kỷ XIX, nƣớc Pháp có 3 triệu công nhân, song 4/10 làm việc tại các công xƣởng,

còn lại làm trong các xƣởng tiểu thủ công nghiệp. Nền nông nghiệp tiểu nông, phân

tán, lạc hậu. Trong số 15 triệu lao động của cả nƣớc lao động nông nghiệp chiếm 7

triệu. CNTB xâm nhập vào nông thôn nhƣng không diễn ra dƣới hình thứ trang trại

nhƣ ở Anh, mà ruộng đất tập trung vào tay địa chủ, phát canh thu tô, dẫn đến một tầng

lớp tá điền đông đảo và sử dụng công cụ lao động lạc hậu so với châu Âu.

Vào những năm 70 của thế kỷ XX, cơ cấu kinh tế của nƣớc Pháp là cơ cấu công

nông nghiệp phát triển. Trong công nghiệp hàng tiêu dùng vẫn chiếm tỷ trọng lớn về

giá trị và sản lƣợng. Từ 1870 đến 1913, cơ cấu thay đổi rất chậm chạm và ngày càng

lạc hậu so với các nƣớc tƣ bản khác, đứng sau Mỹ, Anh, Đức.

* Cách mạng công nghiệp ở Đức:

- Cách mạng công nghiệp diễn ra vào những năm 40 của thế kỷ XIX với tốc độ

nhanh kỷ lục.

- Trong nông nghiệp: máy móc thâm nhập và đƣợc đƣa vào sử dụng nhiều:

máy cày, bừa, máy giặt, sử dụng phân bón.

- Đặc điểm: cách mạng công nghiệp ở Đức diễn ra với tốc độ phát triển nhanh,

kỷ lục.

Cách mạng công nghiệp ở Pháp, Đức diễn ra muộn nhƣng tốc độ lại nhanh nhờ tiếp thu kinh nghiệm từ phát minh của Anh, quá trình cải tiến kỹ thuật ở Pháp, Đức diễn ra khẩn trƣơng hơn

1.2.3. Sự phát triển kinh tế của các nƣớc tƣ bản

Nhờ có tác động của cách mạng công nghiệp, kinh tế các nƣớc tƣ bản đã có sự

phát triển vƣợt bậc trong khoảng 20 cuối thời kỳ trƣớc độc quyền.

12

Sự phát triển của công nghiệp và giao thông vận tải đòi hỏi nguồn vốn rất lớn

đã thúc đẩy sự phát triển của hệ thống ngân hàng và các công ty cổ phần.

Cách mạng công nghiệp cũng đã thúc đẩy nhanh quá trình đô thị hóa ở tất cả

các nƣớc, năm 1870 tỷ lệ dân cƣ đô thị Đức là 32,5%, Pháp là 31%.

Cách mạng công nghiệp đã diễn ra sớm ở các nƣớc tƣ bản khác ... bắt đầu từ

những năm 30 của thế kỷ XVIII đến những năm 70 của thế kỷ XIX. Hệ thống công xƣởng cơ khí đã thay thế hệ thống công trƣờng thủ công. Nhịp độ phát triển của lực

lƣợng sản xuất trong chủ nghĩa tƣ bản đã tăng nhanh hơn nhiều so với thời kỳ phong

kiến. 1.3. Kinh tế các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa thời kỳ độc quyền

1.3.1. Thời kỳ độc quyền hóa (1871 – 1913)

* Công xã Pari (1871)

Đánh dấu sự kết thúc thời kỳ phát triển “tiến bộ”, thuận chiều của chủ nghĩa tƣ bản. Từ đó, nó bƣớc sang giai đoạn mới - giai đoạn phát triển và khủng hoảng xen kẽ,

giai đoạn độc quyền hóa (1871-1913) bắt đầu từ khi nền kinh tế tƣ bản có những phát

minh mới trong các lĩnh vực sản xuất, vận tải, và đời sống. Trƣớc hết phải kể đến

những phát minh về năng lƣợng.

Ở giai đoạn trƣớc, nếu hơi nƣớc là nguồn năng lƣợng chủ yếu, thì thời kỳ này là

điện và hơi đốt. Sự phát minh ra điện đƣợc các nhà khoa học ứng dụng trong các

ngành kinh tế (máy phát điện, máy biến thế, tàu chạy bằng điện, bóng đèn điện,...).

Việc phát minh ra điện năng cho phép chuyển những động cơ đi xa nơi cung

cấp điện. Đó là một ƣu thế lớn của điện so với hơi nƣớc. Do phát hiện ra dầu lửa năm 1870, ngƣời ta phát minh ra đầu máy chạy bằng động cơ đốt trong, rồi một phƣơng

tiện vận tải mới ra đời (ô tô năm 1883 -1985), một loại đầu máy mới có sức kéo mạnh

ra đời - đầu máy diezen (1891).

Trong lĩnh vực hóa học, ngƣời ta khám phá những nguyên tắc phân tích và tổng

hợp các chất. Đó là những nguyên tắc để chế ra các loại thuốc nhuộm, thuốc chữa

bệnh, nƣớc hoa,...

Kỹ thuật mới và việc khám phá ra quá trình công nghiệp hóa là tiền đề cho phát minh phƣơng pháp luyện kim mới, phƣơng pháp chế biến kim loại có chất lƣợng tốt (phƣơng pháp luyện thép của Becxme và Mactanh vào những năm 50,60 của thế kỷ XIX; từ ngành chế tạo máy làm chai tự động, máy dệt, tự động, máy in,...

* Kỹ thuật phát triển làm xuất hiện nhiều hình thức sản xuất và kinh doanh mới

trên thế giới

Xuất hiện nhiều ngành công nghiệp mới nhƣ ngành điện, ngành khai thác và chế biến dầu lửa, ngành hóa chất; ngành cơ khí chế tạo ô tô mới ra đời, cơ cấu sản xuất đã thay đổi.

13

Tiền đề xuất hiện các tổ chức sản xuất mới: quá trình công nghiệp mới cho phép

thay thế những lò luyện kim nhỏ bằng những xí nghiệp luyện kim lớn có chu trình hoàn chỉnh. Điện năng phát triển cho phép mở rộng các công xƣởng không cần gần nơi

phát điện.

Hình thức tích tụ, tập trung vốn mới xuất hiện - công ty cổ phần. Công ty cổ phần

trở thành một hình thức trung gian giữa những hãng riêng lẻ của thế kỷ XIX với tƣ bản độc quyền của thế kỷ XX. Công ty cổ phần đã giải thoát sự hạn chế của các tƣ bản cá

biệt; mở rộng khả năng phát triển sản xuất. Nó là bƣớc đầu của các hình thức công ty

độc quyền sau này, nhƣ carten (về giá cả), syndicate (về tiêu thụ), trust (sản xuất và

tiêu thụ), consortium (sản xuất, tiêu thụ và tài chính). Lúc đầu, nó chỉ xuất hiện trong một số ngành nhất định, nhƣng về sau, theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc

quyền mở rộng ra trong nhiều ngành khác (công nghiệp - ngân hàng) thành tƣ bản tài

chính. Quá trình này đã diễn ra trong những năm cuối của thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

Tƣ bản mỗi nƣớc đi lên con đƣờng độc quyền hóa theo thế mạnh và cách thức

riêng của mình. Đến đầu thế kỷ XX tính chất độc quyền hóa trong các nƣớc tƣ bản

phƣơng Tây định hình. Đó là thời kỳ tƣ bản tài chính nắm quyền thống trị. Các tập

đoàn tƣ bản độc quyền chia nhau giành giật thị trƣờng. Từ năm 1876 đến năm 1914, sáu nƣớc lớn (Anh, Nga, Pháp, Nhật, Đức, Mỹ) chia nhau cƣớp bóc 25 triệu km2 đất đai của các thuộc địa (bằng 2,5 lần châu Âu và nô dịch 500 triệu ngƣời các nƣớc này). Chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha (1898), Nga - Nhật (1905) là những mốc đánh dấu các

chặng đƣờng giành giật thị trƣờng ở các thuộc địa, giữa các nhóm tƣ bản độc quyền ở

các nƣớc. Đến trƣớc chiến tranh thế giới thứ I, các nƣớc tƣ bản phát triển sớm (nhƣ

Anh, Pháp…) đã chiếm “xong” các thuộc địa. Những nƣớc đế quốc khác muộn màng

hơn (nhƣ Mỹ, Nhật, Đức…) không có thuộc địa để bành trƣớng, tìm nguyên liệu cho

công nghiệp và đầu tƣ. Tƣ bản Đức phát triển, lấn át tƣ bản các tổ chức độc quyền của

C¸c n íc kh¸c 22%

Mü 38%

Ph¸p 11%

Anh 13%

§øc 16%

Anh, Pháp, Đức…đã dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới thứ I (1914-1918).

Biểu đồ 1.1. Tỷ trọng công nghiệp của các nƣớc tƣ bản năm 1913

1.3.2. Thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918 – 1939)

Chiến tranh thế giới thứ nhất đã làm cho loài ngƣời phải chịu những tổn thất ghê gớm: Trong chiến tranh thế giới thứ nhất 70 triệu ngƣời phải ngừng sản xuất, gần 10 triệu

ngƣời bị chết, 20 triệu ngƣời bị thƣơng, sản lƣợng công nghiệp giảm 50% so với trƣớc

14

chiến tranh, 1/6 của cải vật chất của loài ngƣời bị hủy hoại (trị giá tới 208 tỷ đô la). Tất cả

các nƣớc tham gia chiến tranh đều bị thiệt hại, chỉ có 2 nƣớc giàu lên do chiến tranh (Mỹ, Nhật). Thu nhập của Mỹ tăng 40% của Nhật tăng 25% do bán vũ khí, lƣơng thực cho các

bên tham gia chiến tranh hoặc cho các thuộc địa của các nƣớc tham chiến.

Đặc điểm kinh tế các nƣớc tƣ bản thời kỳ này: Nền kinh tế tƣ bản lâm vào tình

trạng khủng hoảng và phát triển bấp bênh vì những mâu thuẫn vốn có của nó và vì xuất hiện một nƣớc xã hội chủ nghĩa sau Cách mạng tháng Mƣời Nga thành công.Thời

kỳ này, có thể chia thành nhiều thời kỳ nhỏ với những đặc trƣng riêng của nó. Từ 1918

- 1921 đánh dấu những cơn suy thoái sai chiến tranh, và có cuộc khủng hoảng năm

1920 - 1921. Từ năm 1921 - 1929, kinh tế các nƣớc tƣ bản đã đƣợc khôi phục và phát triển vƣợt mức trong chiến tranh 2 - 3 lần.Nhƣng sau đó, nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa

lại gặp những mâu thuẫn mới, dẫn đến cuộc khủng hoảng năm 1929 - 1933. Đây là

một cuộc khủng hoảng toàn diện, một cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới lớn nhất từ

trƣớc đến nay. Năm 1933 nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa thế giới bị giảm 37% so với

năm 1929. Năm 1936, nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa bắt đâu khôi phục lại đạt mức năm

1928. Một năm sau nổ ra cuộc khủng hoảng kinh tế mới. Cuộc khủng hoảng này kéo

theo khủng hoảng về chính trị. Cao trào cách mạng đã nổ ra ở nhiều nƣớc đặc biệt ở

các nƣớc thuộc địa, trong đó có Việt Nam.Trƣớc sự đe dọa đó, chủ nghĩa phát xít xuất

hiện ở Đức, Ý, Nhật đòi chia lại thị trƣờng thế giới. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra là biểu hiện cao nhất của những mâu thuẫn sâu sắc giữa các nƣớc đế quốc.

Chiến tranh thế giới thứ hai đã gây nên tổn thất to lớn: Hơn 50 triệu ngƣời bị

chết, của cải bị tàn phá trị giá 962 tỷ đô la. Riêng Mỹ là một nƣớc tƣ bản chủ nghĩa

đƣợc giàu có lên sau chiến tranh này. 1.4. Thời kỳ sau chiến tranh thế giới 2 (1946 – đến nay)

1.4.1. Giai đoạn khôi phục kinh tế (1945 – 1950)

Các nƣớc thực hiện tái thiết kinh tế sau chiến tranh

Một số tổ chức lớn ra đời: IBRD (Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế), IMF

(Quỹ tiền tệ quốc tế), GATT (Hiệp định chung về thƣơng mại và thuế quan); Hiệp ƣớc Bretton Woods về chế độ tỷ giá cố định (35 USD = 1 ounce Au). Mỹ thực hiện kế hoạch Marshall viện trợ cho Tây Âu Hầu hết các nƣớc tƣ bản đã khôi phục nền kinh tế, ngang bằng và vƣợt mức trƣớc

chiến tranh (năm 1938), nền kinh tế Mỹ vẫn tăng trƣởng với tốc độ khá cao

1.4.2. Giai đoạn tăng trƣởng (1951 – 1973)

Trong thời gian từ 1951 - 1973, nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa đã phát triển với

nhịp độ nhanh chóng, với nhiều hiện tƣợng kinh tế - xã hội mới xuất hiện.

* Về công nghiệp:

15

- Nhịp độ phát triển nhanh hơn so với thời kỳ trƣớc chiến tranh, bình quân

5,5%/năm (tăng hơn 2 lần so với thời kỳ 1920 - 1928)

- Giá trị sản lƣợng bình quân một công nhân tăng từ 3.090 đô la (năm 1950) lên

6.110 đô la (năm 1970).

- Ba ngành cơ khí, hóa chất, năng lƣợng có nhịp độ phát triển cao nhất. Ngành cơ

khí có tốc độ phát triển là 5,7%; hơi đốt, điện 7,7%; hóa chất 8,3%, trong khi nhịp độ của ngành luyện kim 3,8%; dệt,may mặc, thực phẩm 3 - 3,8%.

- Các mặt hàng tiêu dùng lâu bền nhƣ ô tô, tủ lạnh… tăng lên so với trƣớc rất nhiều.

* Về nông nghiệp:

- Trƣớc chiến tranh trình độ trang bị kỹ thuật còn lạc hậu rất nhiều, lao động nông nghiệp chiếm từ 1/3 đến 2/5 tổng số lao động trong các ngành kinh tế, nhiều

nƣớc Tây Âu chƣa tự túc đƣợc lƣơng thực.

- Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều cơ sở kinh doanh trong nông nghiệp đã đƣợc

hiện đại hóa. Trung bình trên diện tích 100 ha, ở Tây Đức, Hà Lan, Áo, Tân Tây Lan có từ

11 đến 15,5 máy kéo, ở Bỉ, Mỹ, Thụy Điển, Pháp có từ 5 - 10 chiếc. Nhờ áp dụng những

thành tựu của cách mạng khoa học kỹ thuật, sản xuất nông nghiệp ngày càng gắn bó với

nông nghiệp, tổ hợp công – nông nghiệp, liên kết giữa các khâu sản xuất, chế biến, vận

tải, tiêu thụ và cung cấp vật tƣ kỹ thuật đƣợc hình thành. Bốn nƣớc tƣ bản: Mỹ, Pháp,

Canada, Úc trở thành những nƣớc xuất khẩu nông sản lớn nhất thế giới.

- Tốc độ tăng trƣởng kinh tế chung của các nƣớc tƣ bản phát triển trong giai

đoạn 1953 - 1962 là 4,8%; giai đoạn 1963 - 1972 là 5,0%.

- Các cuộc khủng hoảng chu kỳ vẫn xảy ra, nhƣng thời gian không kéo dài,

không diễn ra cùng lúc ở nhiều nƣớc và mức độ khủng hoảng không lớn.

- Tỷ lệ tăng giá tiêu dùng bình quân của các nƣớc những năm 1950 -1970 duy

10,4

8,7

Anh

6,8

trì ở mức xấp xỉ 3%. Các nƣớc còn đạt đƣợc mục tiêu việc làm đầy đủ

(%)

5,1

5,5

Ph¸p

4,6

4,0

CHLB §øc

2,8 2,7

2,8

NhËt B¶n

1952-1962

1963-1972

12,0 10,0 8,0 6,0 4,0 2,0 0,0

Biểu đồ 1.2. Tốc độ tăng trƣởng kinh tế của một số nƣớc

16

* Cơ cấu nền kinh tế thay đổi nhanh chóng giai đoạn 1950 – 1973:

- Tỷ trọng khu vực I (nông, lâm, ngƣ nghiệp) giảm nhanh: Pháp từ 33% xuống 12%, CHLB Đức từ 25% xuống 7%; Italia từ 41% (năm 1954) xuống 17%; Anh từ 5%

(năm 1951) xuống 3%.

- Tỷ trọng của khu vực II (công nghiệp và xây dựng) tăng lên chậm.

- Tỷ trọng của khu vực III (dịch vụ) mở rộng rất lớn: Thƣơng mại, vận tải, bƣu

điện, tài chính tiền tệ, bảo hiểm, y tế, giáo dục, du lịch v.v... phát triển nhanh.

1.4.3. Giai đoạn phát triển chậm chạp và không ổn định (1973 - 1985)

- Đặc điểm của giai đoạn nay là: Nền kinh tế các nƣớc tƣ bản tăng trƣởng chậm,

không ổn định (tốc độ bình quân chỉ đạt ≈ 2,4%/năm).

- Chu kỳ khủng hoảng rút ngắn trong giai đoạn này bị rút ngắn.

- Nhiều hiện tƣợng mới xuất hiện: Khủng hoảng năng lƣợng, khủng hoảng cơ

cấu, khủng hoảng kinh tế đi liền với thất nghiệp và lạm phát cao.

- Nguyên nhân dẫn đến tăng trƣởng chậm và bất ổn định: Sự can thiệp của nhà

nƣớc không có khả năng thích ứng với những biến động kinh tế trong nƣớc, quốc tế;

Đầu tƣ sụt giảm; Cạnh tranh giữa các nƣớc ngày càng trở nên gay gắt; Cuộc đấu tranh

giành độc lập về kinh tế của các nƣớc đang phát triển; Tình trạng trì trệ, khủng hoảng kéo dài.

- Xuất hiện những lý thuyết kinh tế mới (tiêu biểu là lý thuyết về mô hình kinh

tế hỗn hợp).

1.4.4. Điều chỉnh kinh tế từ năm 1985 đến nay

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, dựa trên lý thuyết của J.M.Keynes, điều chỉnh

kinh tế đƣợc coi là hoạt động thƣờng xuyên của chính phủ các nƣớc tƣ bản phát triển.

Tuy nhiên, trƣớc những khó khăn, mâu thuẫn mới xuất hiện và dựa trên những lý

thuyết kinh tế mới, từ đầu thập niên 1980 các nƣớc tƣ bản thực sự bƣớc vào giai đoạn

tổng điều chỉnh toàn bộ nền kinh tế với các nội dung chủ yếu sau:

- Thứ nhất , điều chỉnh sự can thiệp của chính phủ theo hướng là tăng hiệu quả

của cơ chế thị trường Thực tế, việc nhà nƣớc gia tăng lƣợng cung tiền để kích thích đầu tƣ trong giai đoạn trƣớc mặc dù đã mang lại những tác động tích cực đến sự tăng trƣởng của nền kinh tế nhƣng đồng thời nó cũng gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Đó là tình trạng thâm hụt ngân sách và lạm phát gia tăng. Vì vậy, các nƣớc đã giảm tỷ trọng chi tiêu

của nhà nƣớc để giảm thâm hụt ngân sách, hạn chế mức cung tiền để ngăn chặn lạm phát. Lý thuyết trọng tiền là cơ sở lý luận cho điều chỉnh kinh tế đó.

Ở Mỹ, chính phủ đã thực hiện việc giảm chi tiêu ngân sách, ví dụ nhƣ: cắt giảm

chi phí quốc phòng từ mức thƣờng xuyên chiếm 35-38% ngân sách trƣớc năm 1984

xuống mức 30%. Các cơ quan tài chính Mỹ áp dụng các biện pháp mới về điều tiết các

17

nguồn thanh toán tự do góp phần làm cho tốc độ tăng cung ứng tiền tệ giảm xuống,

nhờ đó chỉ số giá cả đã giảm từ 12,4% năm 1980 xuống 8,9% năm 1981 và 3,9% năm 1982.

Ở nƣớc Anh, chính phủ đã tiến hành tƣ nhân hóa các doanh nghiệp nhà nƣớc

trong các lĩnh vực khai thác than, sắt thép, cung cấp gas, điện, nƣớc, đƣờng sắt, vận

tải, hàng không và viễn thông. Bên cạnh đó, Anh cũng thực hiện tƣ nhân hóa nhà ở công cộng và đồng thời hạn chế chi tiêu và cải cách chế độ tài chính đối với các chính

quyền địa phƣơng. Chính sách tiền tệ đƣợc tập trung vào mục tiêu kiểm soát lạm phát.

Ngân hàng trung ƣơng đã nâng cao mức thanh toán và tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để

hạn chế việc tăng khối lƣợng tiền tệ. Nhờ đó mà thâm hụt ngân sách đã giảm từ 4% GDP năm 1980 xuống 1,5% năm 1983, chỉ số giá cả giảm từ 11,2% năm 1981 xuống

4,6% năm 1983.

Về thực chất, những nội dung điều chỉnh này là sửa đổi cách thức can thiệp của

nhà nƣớc và sự vận động của hệ thống tài chính - tiền tệ. Sau một loạt các biện pháp

ổn định tài chính – tiền tệ thì xu hƣớng nới lỏng điều tiết của nhà nƣớc, không can

thiệp quá sâu vào hoạt động của nền kinh tế đã trở thành xu hƣớng chủ đạo. Việc khắc

phục lạm phát cao và giảm chi tiêu nhà nƣớc sẽ chủ yếu dựa vào các giải pháp kinh tế

có tính phòng ngừa và mềm dẻo nhằm duy trì mức lạm phát phù hợp với nhịp độ tăng

trƣởng kinh tế. Chính phủ sử dụng lãi suất tín dụng nhƣ một hệ thống “van điều chỉnh” cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế.

- Thứ hai, kích thích phát triển khu vực kinh tế tư nhân

Tốc độ tăng đầu tƣ tƣ bản cố định ở các nƣớc tƣ bản giảm sút nghiêm trọng

trong thập niên 1970 là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự đình trệ của nền kinh

tế. Do vậy, chính phủ các nƣớc đã chủ trƣơng huy động mọi khả năng của nền kinh tế

để kích thích đầu tƣ tƣ nhân. Chính phủ Mỹ đã cắt giảm 25% thuế thu nhập cá nhân

trong vòng 3 năm (1981-1984). Hệ thống thuế thu nhập từ mức tối đa 50% và tối thiểu

10% đã giảm xuống tỷ lệ tƣơng ứng là 30% và 10%. Ở Anh và các nƣớc Tây Âu cũng

có các biện pháp điều chỉnh thuế tƣơng tự. Có điểm khác là các nƣớc này giảm thuế trực thu đồng thời với việc mở rộng thuế giá trị gia tăng, chuyển gánh nặng thuế từ ngƣời kinh doanh sang ngƣời tiêu dùng để hạn chế tiêu dùng, tăng tiết kiệm . Thực tế cho thấy, các biện pháp điều chỉnh thuế, giảm chi tiêu nhà nƣớc có hiệu quả thực sự nếu những biện pháp này đƣợc kết hợp với việc thực hành phi điều chỉnh hóa ở một số lĩnh vực thuộc phạm vi sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà

nƣớc. việc nhà nƣớc nới lỏng mọi sự kiểm soát hành chính đẻ các doanh nghiệp tự do kinh doanh thích ứng với xu thế tự do hóa, vừa giảm đƣợc chi phí quản lý của nhà

nƣớc.

- Thứ ba, điều chỉnh cơ cấu kinh tế

18

Sự đình trệ của nền kinh tế trƣớc tác động của khủng hoảng dầu lửa phản ánh

sự khủng hoảng cơ cấu kinh tế trong các nƣớc tƣ bản. Trong giai đoạn trƣớc, các nƣớc tƣ bản dã phát triển mạnh các ngành công nghiệp tiêu tốn nhiều nguyên nhiên liệu, phụ

thuộc quá nhiều vào nguồn năng lƣợng dầu lửa nhập ngoại giá rẻ. Vì vậy, khi giá dầu

tăng cao, những ngành sản xuất sử dụng nhiều năng lƣợng giảm sút nhanh chóng do

thiếu hụt nguồn tài chính cho việc nhập khẩu dầu lửa đã kéo theo sự sụt giảm của nền kinh tế, đặc biệt là với những nƣớc nhập khẩu nhiều dầu lửa. Mặt khác, do kinh tế tăng

trƣởng tƣơng đối nhanh trong nhiều năm nên tiền lƣơng ở các nƣớc tƣ bản cũng tăng

lên, sức cạnh tranh của những ngành sử dụng nhiều lao động sẽ giảm sút so với các

nƣớc đang phát triển. Thực trạng đó cho thấy điều chỉnh cơ cấu kinh tế trở thành một yêu cầu cấp bách.

Hƣớng điều chỉnh là giảm bớt những ngành sử dụng nhiều năng lƣợng và nhân

công, đẩy mạnh cải tiến kỹ thuật- công nghệ để giảm tiêu hao nguyên liệu và năng

lƣợng. Đồng thời, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng dịch chuyển lao động và

vốn từ các ngành sản xuất vật chất sang các ngành dịch vụ sẽ tạo điều kiện cho các

ngành sản xuất vật chất tổ chức lại, kết cấu lại theo hƣớng ngày càng hiện đại.

Sự cải cách cơ cấu trong ngành công nghiệp đã trở nên rõ rệt hơn với sự phát

triển rất nhanh của các ngành công nghiệp kỹ thuật cao. Trong thực tế, vào những năm

1980, các nƣớc tƣ bản đã đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng những tiến bộ khoa học- kỹ thuật mới, thúc đẩy sự ra đời của những ngành có hàm lƣợng khoa học – công nghệ cao,

sử dụng ít lao động, nhƣng đem lại giá trị gia tăng lớn. Nhằm phục vụ yêu cầu phát triển

các ngành sản xuất vật chất công nông nghiệp cùng với các nhu cầu ngày càng đa dạng

của đời sống xã hội, các ngành dịch vụ cũng đƣợc mở rộng và hiện đại hóa nhanh

chóng. Sự phát triển đa dạng của các loại hình dịch vụ sản xuất và đời sống đã góp phần

tích cực nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội và đóng góp vào tăng trƣởng chung của nên

kinh tế. Đó cũng là tiền đề để các nƣớc tƣ bản phát triển thúc đẩy phát triển kinh tế tri

thức khi bƣớc vào thế kỷ XXI.

Trong khi chuyển dịch cơ cấu trong nƣớc theo hƣớng trên, các nƣớc tƣ bản đã đẩy mạnh việc chuyển giao các ngành có công nghệ lạc hậu hơn, tiêu tốn nhiều nguyên liệu, năng lƣợng và sử dụng nhiều lao động, thậm chí gây nhiều ô nhiễm sang các nƣớc đang phát triển. - Thứ tư, điều chỉnh các quan hệ kinh tế quốc tế Các cuộc “chiến tranh thƣơng mại” là biểu hiện những mâu thuẫn mới giũa các

nƣớc tƣ bản nhƣng nó không dẫn đến các cuộc xung đột vũ trang nhƣ trƣớc đây. Các nƣớc tƣ bản đã tìm cách làm dịu những mâu thuẫn này thông qua các cuộc gặp gỡ cấp

cao nhằm tìm ra các giải pháp chung để đƣa nền kinh tế của họ ra khỏi bế tắc, mà mở

đầu la hội nghị những ngƣời đúng đầu sáu nƣớc tƣ bản lớn (Mỹ, Nhật Bản, CHLB

19

Đức, Anh, Pháp, Italia) tại Pháp tháng 11-1975. Năm 1976 đã diễn ra cuộc họp thƣợng

đỉnh lần thứ II gồm 7 nƣớc (có thêm Canada) và từ đó gọi là nhóm G7. Hằng năm hội nghi thƣợng đỉnh G7 đƣợc tổ chức để bàn về các vấn đề kinh tế, chính trị trên thế giới

và đƣa ra các chính sách của họ. Những chính sách đó không những chỉ có tác động

đến kinh tế mỗi nƣớc mà còn ảnh hƣởng sâu sắc đến tinh hình kinh tế thế giới.

Trong quan hệ thƣơng mại quốc tế, tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO) đã ra đời thay thế cho GATT nhằm khắc phục tình trạng bảo hộ mậu dịch mới xuất hiện

trong giai đoạn trƣớc. Ngoài ra, nhiều tổ chức, diễn đàn kinh tế khu vực cũng đã ra đời

nhằm xây dựng các khu vực mậu dịch tự do, liên minh kinh tế nhằm tăng cƣờng khả

năng cạnh tranh với các khu vực khác nhƣ diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dƣơng (APEC), hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), liên minh châu Âu

(EU)…

Tăng cƣờng các hoạt động đầu tƣ ra nƣớc ngoài, diều chỉnh dòng chảy và

phƣơng thức đầu tƣ quốc tế là một nét mới trong điều chỉnh kinh tế các nƣớc tƣ bản.

Trong hai thập niên cuối Thế kỷ XX, FDI của toàn thế giới đã gia tăng nhanh chóng,

từ 511,9 tỷ USD năm 1980 đã tăng lên 1.700 tỷ USD năm 1990 và 4.000 tỷ USD năm

1998 nhƣng dòng chảy FDI thế giới đã có sự thay đổi lớn. Trong những năm 1950-

1960, dòng chảy của FDI thƣờng tập trung vào các nƣớc đang phát triển (chiếm

khoảng 70% tổng số), 30% còn lại là đầu tƣ vào các nƣớc tƣ bản phát triển, thì từ đầu thập kỷ 1990 dòng chảy của vốn đã đổi theo chiều ngƣợc lại, vốn đầu tƣ vào các nƣớc

đang phát triển giảm xuống chỉ còn chiếm 16,8%. Năm 1989, FDI của Nhật Bản tập

chung chủ yếu ở Bắc Mỹ (chiếm 50,2%) và Châu Âu (21,9%). Mỹ là nƣớc nhận đƣợc

vốn đầu tƣ nƣớc ngoài nhất với 193 tỷ USD, chiếm gần 1/3 tổng số vốn FDI của thế

giới, đồng thời cũng là nƣơc đầu tƣ ra nƣớc ngoài lớn nhất đạt tới 133 tỷ USD. Đáng

chú ý là những lĩnh vực công nghệ hiện đại có thể đem lại lợi nhuận cao nhƣng cần

nhiều vốn là những lĩnh vực đƣợc chú ý đầu tƣ.

Sự thay đổi dòng vận động của vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài theo xu hƣớng

gia tăng tỷ trọng đầu tƣ vào các nƣớc phát triển có nhiều nguyên nhân. Thực tế cho thấy, một nƣớc thƣờng không có lợi thế sản xuất tất cả các mặt hàng để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của xã hội, các doanh nghiệp trong nó không phải lúc nào cũng đủ khả năng về vốn, công nghệ, nhân lực để đầu tƣ vào những lĩnh vực công nghệ cao, đòi hỏi đầu tƣ lớn. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế mở, sự xâm nhập và phụ thuộc lẫn nhau sẽ làm tăng thêm sự an toàn, sự chia sẻ rủi ro khi có các sự cố bất

lợi khó lƣờng xảy ra cho một nƣớc. Đồng thời, đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài lại chính là biên pháp tốt nhất để một nƣớc né tránh các hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nƣớc

khác. Trong khi đó, các nƣớc đang phát triển thƣờng không có đủ kết cấu hạ tầng,

trình độ của ngƣời lao động thấp không đáp ứng đƣợc nhu cầu phát triển các ngành với

20

công nghệ hiện đại, thị trƣờng tiêu thụ có hạn vì thu nhập thấp, sức mua thấp đã bị

giảm dần lợi thế cạnh tranh trong việc hấp dẫn các nguồn FDI. Về thƣơng mại quốc tế, chính phủ có chính sách hỗ trợ tài chính cho xuất khẩu,

cụ thể là cấp tín dụng ƣu đãi cho các nhà xuất khẩu dƣới hai hình thức: thành lập quỹ

hỗ trợ xuất khẩu; cung cấp tín dụng ƣu đãi cho các nhà xuất khẩu (khoản chênh lệch

giữa lãi suất ƣu đãi và lãi xuất thị trƣờng đƣợc nhà nƣớc chi trả từ vốn ngân sách). Trong nhiều trƣờng hợp, nƣớc nhập khẩu còn đƣợc vay tín dụng ƣu đãi của các nƣớc

xuất khẩu để nhập khẩu theo các hợp đồng đã ký kết. Nhà nƣớc còn bảo hiểm cho

những thiệt hại rủi ro trong hoạt động xuất khẩu do sự không ổn định của hệ thống tiền

tệ quốc tế. Việc tài trợ của nhà nƣớc cho xuất khẩu còn đƣợc thực hiện dƣới hình thức bồi hoàn thuế, tức nhà nƣớc sẽ trả một phần thuế cho những nhà xuất khẩu nhập

nguyên liệu và bán thành phẩm để sản xuất phục vụ xuất khẩu.

Nhìn chung, các chính sách điều chỉnh đã có tác dụng đáng kể đƣa nền kinh tế

các nƣớc tƣ bản thoát khỏi tình trạng suy thoái và đình trệ (1974 - 1982).

Từ năm 1983 đén 1990 kinh tế các nƣớc tƣ bản phục hồi với nhịp độ tăng

trƣởng bình quân đạt 3,2%/năm, cao hơn mức 2,4% của giai đoạn 1973 - 1982. Trong

những năm 1990 khủng hoảng tuy vẫn xảy ra ở một số nƣớc nhƣng mức độ suy thoái

không trầm trọng nhƣ trƣớc và không trùng pha giữa các nƣớc với nhau. Giai đoạn

1993 - 2000, tốc độ tăng trƣởng GDP của các nƣớc phát triển đạt 3,1%.

Bảng 1.1 Tốc độ tăng trƣởng kinh tế các nƣớc tƣ bản

(Đơn vị tính: %)

Mỹ Nhật Bản EU Năm

1,3 5,6 2,5 1990

-1,0 4,5 1,5 1991

2,7 1,1 0,9 1992

2,3 0,1 0,5 1993

3,5 0,5 2,8 1994

2,0 0,9 2,5 1995

2,4 2,7 1,6 1996

3,7 1,1 2,5 1997

4,4 -2,5 2,9 1998

4,2 0,6 2,1 1999

5,2 1,4 3,4 2000

Nền kinh tế Mỹ đạt tốc độ tăng trƣởng bình quân 3,0%/ năm trong những năm

1980-1990. Sau đó bị suy thoái nhẹ vào năm 1991 (GDP giản 1%), nhƣng tính chung

trong 10 năm (1990-1999) vẫn đạt tốc độ tăng bình quân 3,4%/năm. Năm 2000 tăng

21

trƣởng kinh tế Mỹ đạt tới đỉnh cao nhất là 5,2%. Nền kinh tế Nhật Bản đã sớm ra khỏi

tình trạng trì trệ và giữ tốc độ tăng trƣởng với mức bình quân 4%/năm trong giai đoạn 1980-1990. Tuy nhiên, trong thập niên 1990, Nhật Bản lại rơi vào tình trạng suy thoái,

tốc độ tăng trƣởng bình quân chỉ đạt 1,4%/năm. Kinh tế các nƣớc Tây Âu phục hồi

chậm chạp hơn. Tốc độ tăng trƣởng kinh tế trong các giai đoạn tƣơng ứng của Pháp là

2,3% và 1,7%, Đức là 2,2% và 1,5%, Italia là 2,4% và 1,2%, Anh là 3,2% và 2,2%. Bên cạnh đó, sự chuyển dịch cơ câu kinh tế theo hƣớng giảm các ngành sản

xuất vật chất đồng thời tăng các ngành dịch vụ cũng thể hiện rất rõ trong nền kinh tế

các nƣớc tƣ bản phát triển. Thực tế, khu vực I đã có xu hƣớng giảm xuống ngay từ

trong quá trình công nghiệp hóa diễn ra ở các nƣớc trƣớc chiến tranh thế giới thƣ hai nhƣng có xu hƣớng giảm tỷ trọng khu vực II chỉ diễn ra trong khoảng 20 năm cuối thế

kỷ XX. Đồng thời với quá trình đó là sự gia tăng tỷ trọng của khu vực III. Những

ngành đƣợc đẩy mạnh phát triển trong các nƣớc tƣ bản từ những năm cuối thê kỷ XX

là các ngành công nghệ cao nhƣ kỹ thuật điện tử, năng lƣợng mới, thông tin quang

học, vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ khai thác khoảng không…

Bảng 1.2. Cơ cấu GDP theo khu vực kinh tế

Đơn vị : %

Năm 1970 Năm 1990

KV I KV II KV III KV I KV II KV III

Mỹ 2,9 31,7 64,7 2 26,4 71,6

Nhật Bản 8,6 43,0 48,4 3 41,0 56

CHLB Đức 3,4 51,6 45 2 37 62

2,8 Anh 42,7 54,5 2 37 62

6,9 Pháp 54,4 38,7 3 29 67

Cơ cấu kinh tê của các nƣớc tƣ bản còn thay đổi theo hƣớng phát triển mạnh mẽ các ngành khoa học công nghệ mới, đồng thời thúc đẩy quá trình quốc tế hóa nền kinh tế. Tỷ trọng các ngành công nghệ cao đã chiếm trên 50% tổng số sản phẩm xã hội ở Mỹ, chiếm trên 30% ở Nhật Bản, Anh, Đức, Pháp… Khoa học công nghệ đã góp tới 50 - 60% vào sự tăng trƣởng kinh tế, trong đó 3/5 là do tăng năng suất lao động.

Ở các nƣớc tƣ bản phát triển,cơ cấu,trình độ nghiệp vụ và các yếu tố cấu thành giá tri hàng hóa sức lao động cũng biến đổi. Tỷ trọng lao động trong các ngành có hảm lƣợng khoa học công nghệ cao tăng lên. Tỷ lệ “công nhân cổ xanh” trong các ngành công nghiệp Mỹ giảm từ 30% năm 1960 xuống 20% năm 1980, hiện nay còn thấp hơn

22

rất nhiều. Trong thời đại kinh tế tri thức, chính phủ và các công ty tƣ nhân đã chú

trọng đầu tƣ nâng cao trình độ của đội ngũ ngƣời lao động. Cùng với sự tăng trƣởng kinh tế, thu nhập, và chi tiêu cho việc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của

ngƣời lao động cũng đƣợc nâng lên. Các nƣớc tƣ bản phát triển hiện nắm phần lớn

tổng sản lƣợng sản xuất và cũng là những nƣớc có mức thu nhập bình quân đầu ngƣời

vào loại cao nhất thế giới. Thực tế cho thấy, quá trình điều chỉnh kinh tế ở các nƣớc tƣ bản phát triển

chính là thực hiện cải cách một bƣớc triệt để nền kinh tế cả về cơ cấu và cơ chế diều

tiết trƣớc xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Nó đã có tác dụng đáng kể đối với

sự phát triển kinh tế, song các nƣớc tƣ bản vẫn chƣa giải quyết đƣợc nhiều căn bệnh cố hữu của nó. Do vậy, chính sách điều chỉnh kinh tế đã phá vỡ các tƣơng quan truyền

thống và tạo dựng thế quan hệ cạnh tranh mới. Điều đó cũng làm cho cạnh tranh giữa

các nƣớc công nghiệp chủ yếu trở nên đa dạng và quyết liệt hơn. Đây là một trong

những vấn đề mà nền kinh tế các nƣớc công nghiệp chủ yếu sẽ phải đối mặt trong

những năm đầu thế kỷ XXI.

Thực tế, thập kỷ đầu tiên thế kỷ XXI đánh dấu nhũng biến động lớn của nền

kinh tế các nƣớc tƣ bản. Năm 2001, tốc độ tăng trƣởng của các nƣớc tƣ bản phát triển

đều giảm sút, Mỹ chỉ còn 1,1%; EU là 1,7% và Nhật Bản thậm chí còn tăng trƣởng

âm 0,9%. Những năm sau đó, tốc độ tăng trƣởng kinh tế ở các nƣớc đã đƣợc cải thiện tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tế thế giới đã bùng phát từ Mỹ năm 2007,

lan tỏa nhanh chóng ra toàn thế giới và tạo ra cơn địa chấn với nền kinh tế thế giới.

Xét về bản chất, cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ chính sách tín dụng thế

chấp rủi ro cao với thị trƣờng bất động sản và chính sách tiền tệ nới lỏng đƣợc duy trì

trong thời gian dài khi thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ của chính phủ đã dẫn tới sự hình

thành siêu bong bóng tài chính và bất động sản. Tình trạng khó khăn , đổ vỡ trong lĩnh

vực tài chính ngân hàng đã lan nhanh sang các ngành sản xuất kinh doanh khác nhƣ

ngành công nghiệp ô tô, xây dựng … Cuộc khủng hoảng bùng nổ từ Mỹ đã lan sang

các nền kinh tế Tây Âu. Thực tế cho thấy, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh doanh nhƣ tài chính ngân hàng, công nghiệp ô tô, điện tử, bất động sản vốn đƣợc coi là siêu lợi nhuận đã rơi vào tình trạng suy sụp. Năm 2008, tốc độ tăng trƣởng kinh tế ở hầu hết các nƣớc tƣ bản phát triển đều sụt giảm mạnh. Năm 2009, hầu hết các nền kinh tế tƣ bản phát triển nhất đều rơi vào tình trạng suy thoái. Tốc độ tăng trƣởng kinh tế ở Mỹ là -2.6%; CHLB Đức là -4.7%;

Nhật Bản là -6.3%; Anh -4.9%; Pháp -2.5%. Tính chung, tăng trƣởng kinh tế các nƣớc phát triển là -3.4%.

23

Bảng 1.3. Tốc độ tăng trƣởng GDP của các nƣớc tƣ bản phát triển

(Đơn vị:%)

Quốc gia 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Bình quân 1993-2002

Mỹ 3,4 3,1 2,7 1,9 0,0 -2,6 2,8

CHLB Đức 1,5 0,9 3,6 2,8 0,7 -4,7 3,5

Pháp 2,0 2,0 2,4 2,3 0,1 -2,5 1,5

Anh 3,1 2,2 2,8 2,7 -0,1 -4,9 1,3

Tây Ban Nha 3,2 3,6 4,0 3,6 0,9 -3,7 -0,1

Nhật Bản 0,8 1,9 2,0 2,4 -1,2 -6,3 3,9

Trong bối cảnh ấy , để ngăn chặn ảnh hƣởng của khủng hoảng tài chính toàn

cầu, các nƣớc tƣ bản phát triển đã có những kế hoạch khẩn cấp với những biện pháp

kinh tế và một khối lƣợng tiền lớn để khắc phục khủng hoảng, kích thích nền kinh tế.

Các biện pháp tập trung vào việc hỗ trợ các lĩnh vực , khu vực dễ bị tổn thƣơng nhằm

ngăn chặn suy thoái kinh tế. Các nƣớc tƣ bản Mỹ , Nhật Bản , Pháp … đặt trọng tâm

vào việc giải cứu các tập đoàn tài chính lớn khỏi nguy cơ sụp đổ , ổn định hoạt động

của hệ thống tín dụng – ngân hàng và thị trƣờng chứng khoán. Chính phủ một số nƣớc

còn giành khoản tiền lớn để cứu trợ cho các ngành công nghiệp quan trọng là xƣơng

sống của nền kinh tế khỏi bị sụp đổ nhƣ các ngành công nghiệp ô tô, điện tử, xây dựng …, đầu tƣ vào lĩnh vực công nghệ thông tin, viễn thông, các hoạt động nghiên cứu

phát triển năng lƣợng thay thế vào những ngành có hàm lƣợng giá trị gia tăng cao. Cụ

thể nhƣ sau :

- Cắt giảm lãi suất : Lãi suất ở Mỹ còn 0-0.25%; ở Nhật Bản 0.1%, ở Anh

1.5%... và bơm tiền vào hệ thống ngân hàng nhằm đảm bảo tính thanh khoản, thúc đẩy

lƣu thông tiền tệ nhằm tạo điều kiện gia tăng đầu tƣ sản xuất, nhất là đối với các ngành

kinh tế then chốt của nền kinh tế. - Hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhất là với loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ nhƣ bảo lãnh các khoản nợ: CHLB Đức 540 tỷ USD, Pháp 40 tỷ Euro, chính phủ mua lại cổ phần hoặc cấp vốn trực tiếp cho các ngành sản xuất then chốt: Mỹ đã cấp 17,4 tỷ USD cho 2 tập đoàn General Motor và

Chrysler, EU hỗ trợ 30 tỷ Euro cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhật Bản lập quỹ bảo đảm tín dụng ngắn hạn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ với 275 tỷ USD.

24

- Kích cầu đầu tƣ vào tiêu dùng nội địa: EU giảm thuế cho các ngành dịch vụ sử

dụng nhiều lao động, Nhật Bản mở rộng các khoản cho vay , miễn thuế để mua nhà , Mỹ cắt giảm thuế cho các doanh nghiệp và cá nhân .

- Đảm bảo an sinh xã hội: EU giảm thuế với ngƣời có thu nhập thấp, chi 14,4 tỷ

Euro cho việc đẩy mạnh nghiên cứu và đào tạo nghề; CHLB Đức, Nhật Bản thực hiện

giảm phí bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội … Nhìn chung, các giải pháp đƣợc chính phủ các nƣớc tƣ bản phát triển đƣa ra

nhằm khắc phục hậu quả của khủng hoảng và ngăn chặn suy thoái kinh tế đã mang lại

những tác động tích cực. Nhiều tập đoàn lớn đã tránh đƣợc sự đổ vỡ. Các ngành sản

xuất cơ bản khôi phục, tỷ lệ thất nghiệp có xu hƣớng giảm. Năm 2010, tốc độ tăng trƣởng kinh tế của Mỹ đã đƣợc khôi phục đạt 2,8% và CHLB Đức 3,5%, Nhật Bản

3,9%... Tính chung tăng trƣởng kinh tế của các nƣớc tƣ bản phát triển năm này đạt

3,0%. Mặc dù đã đạt đƣợc một số kết quả trong khôi phục kinh tế nhƣng hầu hết các

nƣớc tƣ bản phát triển lại rơi vào một cuộc khủng hoảng mới đó là khủng hoảng nợ.

Vấn đề này đã trở nên đặc biệt nghiêm trọng với một số quốc gia thuộc EU nhƣ Hy

Lạp, Italia, Tây Ban Nha. Theo báo cáo của OECA (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh

tế) năm 2011, nếu tính tỷ lệ nợ so với GDP thì Nhật Bản là nƣớc có số nợ cao nhất

bằng 213% GDP. Số nợ của Mỹ chiếm khoảng 101% GDP. Một số nƣớc có số nợ cao

hơn 100% GDP nhƣ Hi Lạp, Italia , và Ailen, Bỉ. Số nợ của Anh và Pháp tƣơng ứng là 89% và 97% GDP.

Bảng 1.4. Tỷ lệ nợ so với GDP của một số nƣớc tƣ bản phát triển

(Đơn vị:%)

Tỷ lệ nợ/GDP Quốc gia Tỷ lệ nợ/GDP Quốc gia

213 Bồ Đào Nha 111 Nhật Bản

157 Mỹ 101 Hi Lạp

129 Bỉ 101 Italia

121 Pháp 97 Aixơlen

120 Anh 89 CH Ailen

Nhìn chung, trong hiện tại và trong tƣơng lai gần, các nƣớc tƣ bản phát triển

vẫn còn nhiều việc phải làm nhằm khắc phục những hậu quả của cuộc khủng hoảng tài

chính và suy thoái kinh tế toàn cầu vừa qua cùng những khó khăn, thách thức mới nảy

sinh.

25

Câu hỏi ôn tập

1. Trình bày nguồn gốc ra đời của phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa. 2. Trình bày vai trò của tích lũy nguyên thủy tƣ bản.

3. Phân tích tiền đề, tiến trình, đặc điểm của cách mạng công nghiệp tại Anh

trong thế kỷ XVIII. Bài học kinh nghiệm từ việc nghiên cứu vấn đề này là gì?

4. Phân tích đặc điểm cách mạng công nghiệp ở Anh. 5. So sánh cách mạng công nghiệp ở Anh so với cách mạng công nghiệp ở Đức

và Pháp trong thế kỷ 18.

6. Kinh tế các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa trong giai đoạn 1914 - 1945 có đặc điểm

nhƣ thế nào?

7. Nêu những đặc điểm cơ bản của kinh tế các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa giai đoạn

1951 - 1973.

8. Tại sao kinh tế các nƣớc tƣ bản phát triển nhanh trong giai đoạn 1951 – 1973. 9. Trình bày những điều chỉnh kinh tế của các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa từ năm

1985 cho đến nay.

10. Tại sao các nƣớc tƣ bản trong giai đoạn hiện nay phải thực hiện nhiều điều

chỉnh về kinh tế?

26

CHƢƠNG 2. KINH TẾ NƢỚC MỸ

2.1. Kinh tế Mỹ trƣớc khi giành độc lập (trƣớc 1776)

2.1.1. Công cuộc khẩn thực của ngƣời Châu Âu

Nƣớc Mỹ, cũng nhƣ châu Mỹ đƣợc tìm ra sau những phát kiến địa lý vĩ đại vào

cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI.

Sau những phát kiến địa lý vĩ đại, ngƣời châu Âu lần lƣợt đặt chân lên châu Mỹ

mà lịch sử gọi đó là công cuộc “khẩn thực”. Trên giải lục địa châu Mỹ đã bắt đầu hình

thành những vùng thuộc địa của bọn thực dân Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan,

Anh, Pháp...

Đặc điểm kinh tế vùng thuộc địa Bắc Mỹ ở nƣớc Anh bấy giờ có tình trạng hàng

loạt nông dân bị mất ruộng đất, họ muốn sang Bắc Mỹ sinh sống và nuôi hi vọng sẽ trở

thành những chủ ruộng đất ở đó. Việc một số lƣợng đông đảo nông dân Anh tham gia vào hoạt động khẩn thực đã góp phần đáng kể xây dựng chỗ đứng cho ngƣời Anh ở

Bắc Mỹ. Do nhu cầu mở rộng khai thác và bóc lột, thực dân Anh có du nhập vào Bắc

Mỹ một số ngành công nghiệp nhƣ dệt, khai mỏ, luyện kim… Về hoạt động thƣơng

nghiệp việc buôn bán giữa các vùng thuộc địa Bắc với châu Phi, Châu Âu đƣợc tiến hành

từ khá sớm. Những mặt hàng buôn bán trao đổi là đƣờng mật, rƣợu, nô lệ, lông thú…

Các vùng thuộc địa miền Trung là nơi sinh sống của những ngƣời nông dân tự do

và chủ các ấp trại. Ở đây điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho trồng trọt và chăn nuôi.

Việc sử dụng ruộng đất trong canh tác đƣợc thực hiện trên cơ sở hợp đồng tự do hoặc

chính phủ cấp cho dân cƣ sử dụng với mức thuế vừa phải.

Các vùng thuộc địa phía Nam đất đai màu mỡ, khí hậu ở đây nóng ẩm rất thuận

lợi cho hoạt động trồng trọt. Cơ sở kinh tế ở đây là đồn điều quảng canh. Lực lƣợng

lao động chủ yếu là những nô lệ da đen. Năm 1800, số nô lệ da đen làm việc trong các

đồn điền lên tới 90 vạn ngƣời. Các vùng thuộc địa ở phía Nam, công thƣơng nghiệp

phát triển yếu ớt. Do vậy lực lƣợng thống trị ở đây là các chủ đồn điền nô lệ.

Trong quá trình thống trị, Anh luôn kỳm hãm Bắc Mỹ trong vòng ảnh hƣởng và lệ thuộc cả về kinh tế, chính trị. Ngoài ra với thuộc địa Bắc Mỹ, nhà nƣớc Anh còn có những chính sách nhằm bảo vệ quyền lợi của quý tộc và địa chủ. Nhìn chung sự thống trị của Anh ở Bắc Mỹ đã làm kỳm hãm xu hƣớng tiến bộ của lực lƣợng sản xuất tình trạng này kéo dài càng làm tăng thêm mâu thuẫn giữa Anh và thuộc địa Bắc Mỹ. Về phƣơng diện xã hội, những cƣ dân từ nhiều nƣớc châu Âu tới sinh cơ lập nghiệp ở Bắc

Mỹ đều có nguyện vọng muốn thoát khỏi sự thống trị của Anh để hình thành quốc gia

dân tộc độc lập.

Nhƣ một tất yếu của lịch sử vào tháng 4 năm 1775 cuộc chiến trang giành độc lập đã bùng nổ ở Bắc Mỹ. Ngày 04 tháng 07 năm 1776, đại hội lục địa Bắc Mỹ đã họp và

27

ra tuyên ngôn độc lập bản tuyên ngôn thành lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Đến ngày 3

tháng 9 năm 1783 Anh chính thức công nhân nền độc lập của Mỹ.

2.1.2. Kinh tế Mỹ thời kỳ thống trị của thực dân Anh.

Trong quá trình thống trị, Anh luôn kỳm hãm Mỹ trong vòng ảnh hƣởng và lệ

thuộc cả về kinh tế, chính trị.

Về kinh tế, với công nghiệp Chính phủ Anh ban hành những đạo luật nhƣ cấm đƣa vào Mỹ các loại máy móc, mẫu hàng sáng chế và thợ cả… Trong sản xuất, Anh

quy định những sản phẩm công nghiệp của Mỹ chỉ dừng lại ở bán thành phẩm, chứ

không đƣợc sản xuất hàng thành phẩm. Mỹ chỉ đƣợc sản xuất gang chứ không đƣợc

sản xuất thép, chỉ đƣợc sản xuất đƣờng thô chứ không đƣợc sản xuất đƣờng tinh…

Với lĩnh vực thƣơng mại, từ năm 1551 - 1761, Chính phỉ Anh đã ban hành 125

đạo luật quy định hàng hóa của các nƣớc châu Âu nhập vào Mỹ bị đánh thuế nặng,

hàng hóa trao đổi giữa Mỹ và nƣớc ngoài phải chuyên chở bằng tàu của Anh. Anh

muốn nắm độc quyền thƣơng mại ở Mỹ.

Về chính trị, Anh chia Mỹ thành 13 vùng tách biệt. Chính sách chia để trị của

thực dân Anh đã ảnh hƣởng nhiều tới sự phát triển kinh tế nói chung ở Mỹ. Sau khi

chia Mỹ thành 13 vùng thì Anh quy định giữa các vùng không đƣợc trao đổi buôn bán với nhau, mỗi vùng chỉ đƣợc trao đổi buôn bán trực tiếp với Anh.

Nhà nƣớc Anh còn có những chính sách nhằm bảo vệ quyền lợi của quý tộc và

địa chủ. Nhƣ việc khôi phục và củng cố mối quan hệ sở hữu ruộng đất kiểu nhƣ phong

kiến của Anh ở Mỹ là cực kỳ phản động và trái với xu thế của lịch sử.

Nhìn chung sự thống trị của Anh ở Mỹ đã làm kỳm hãm xu hƣớng tiến bộ của lực

lƣợng sản xuất tình trạng này kéo dài càng làm tăng thêm mâu thuẫn giữa Anh và Mỹ. 2.2. Kinh tế Mỹ thời kỳ trƣớc độc quyền (1776 - 1865)

2.2.1. Công cuộc di thực bành trƣớng đất đai mở rộng thị trƣờng

Sau khi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ ra đời, nó tăng cƣờng bành trƣớng lãnh thổ.

Chính sự cách biệt địa lý giữa châu Âu và châu Mỹ đã giúp Mỹ dễ dàng trở thành chủ

nhân trên dải lục địa rộng lớn. Nƣớc Mỹ khi ấy bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, trải qua các cuộc chiến tranh và buôn bán, những vùng đất của Tây Ban Nha, Hà Lan, Pháp... đã rơi vào tay Mỹ. Nhƣ vậy, lãnh thổ Mỹ đã trải rộng từ Đại Tây Dƣơng sang Thái Bình Dƣơng. Mỹ đã trở thành một đế quốc thực dân hùng mạnh. Khi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thành lập thì diện tích của nó là 892.000 dặm vuông, nhƣng sau thời kỳ

bành trƣớng tới năm 1853 diện tích nƣớc Mỹ lên tới 3.062.798 dặm vuông. Việc mở rộng đất đai đóng một vai trò vô cùng quan trọng với sự phát triển kinh tế của Mỹ.

2.2.2. Cách mạng công nghiệp và bành trƣớng lãnh thổ

Dựa vào những tiền đề kinh tế, chính trị, xã hội thuận lợi, cuộc cách mạng công nghiệp đã diễn ra ở Mỹ vào những năm cuối của thế kỷ XVIII. Năm 1790, một ngƣời

28

Anh di cƣ đã xây dựng nhà máy dệt đầu tiên. Trong một thời gian, vài thập kỷ nhà

máy đã có vốn khá lên với 690.000 USD.

Nhìn chung, trong 10 năm cuối của thế kỷ XVIII, có nhiều nhà máy dệt đã đƣợc

xây dựng với tốc độ khá nhanh chóng, trong thời gian 25 năm (1815 - 1840) số lƣợng

sợi bông sử dụng tăng lên 5 lần. Đồng thời vào đầu thế kỷ XIX, công nghiệp len dạ

cũng đƣợc xúc tiến xây dựng: năm 1810 có 24 nhà máy. Từ năm 1830 ngƣời ta đã xây dựng những nhà máy quy mô lớn.

Sự phát triển của công nghiệp nhẹ đã thúc đẩy sự ra đời phát triển của những

ngành công nghiệp nặng. Năm 1810 có 153 lò cao, sản lƣợng thép đạt 33.908 tấn. Tới

năm 1869 sản lƣợng thép lên tới 600.000 tấn. Vấn đề năng lƣợng cũng đƣợc nhanh chóng giải quyết. Các mỏ than đã đƣợc tập trung khai thác, năm 1860 sản lƣợng đạt

14,3 triệu tấn.

Chính sự phát triển và mở mang công nghiệp đặt ra những vấn đề bức bách trong

lĩnh vực giao thông vận tải. Nhìn chung tốc độ xây dựng đƣờng sá, cầu cống cũng diễn

ra khá nhanh chóng. Riêng đƣờng sắt đƣợc xây dựng từ năm 1825, những tới năm

1850 đã có độ dài 14.518 km. Các kênh đào cũng đƣợc mở rộng, năm 1850 chiều dài

của các kênh đào là 5950 km.

Nhìn vào cách mạng công nghiệp Mỹ, tốc độ phát triển khá nhanh chóng. Năm

1850 giá trị sản lƣợng công nghiệp đã tăng lên 5 lần so với năm 1810. Trên đất nƣớc Mỹ, nhiều trung tâm công nghiệp đã hình thành. Sản xuất công nghiệp của Mỹ đã

vƣơn lên đứng hàng thứ 4 thế giới. Cách mạng công nghiệp Mỹ đƣợc tiến hành trong

điều kiện rất phong phú, có vị trí địa lý thuận lợi, dễ dàng mở mang hệ thống giao

thông vận tải và có nguồn vốn, sức lao động, kỹ thuật từ châu Âu chuyển sang. Đó là

những lợi thế rất lớn của cách mạng công nghiệp Mỹ.

Sự phát triển của cách mạng công nghiệp Mỹ đi từ công nghiệp nhẹ nhƣng đã

nhanh chóng chuyển sang công nghiệp nặng. Cuộc cách mạng công nghiệp Mỹ diễn ra

và cơ bản hoàn thành trong thời gian ngắn hơn nhiều so với cách mạng công nghiệp

Anh, Pháp.

Công nghiệp sớm tác động vào nông nghiệp. Do vậy, ngành chế tạo máy nông nghiệp ở Mỹ rất phát triển. Công nghiệp sớm gắn bó với nông nghiệp là do nhu cầu khai khẩn vùng đất phía Tây rộng lớn và mầu mỡ. Chính sự phát triển của công nghiệp góp phần đẩy nhanh xuất khẩu ở Mỹ, từ năm 1800 tới năm 1850, giá trị xuất khẩu tăng từ 79 triệu đô la lên 144 triệu đô la. Nhƣng thời gian tiếp theo từ năm 1850 tới năm

1860 giá trị xuất khẩu tăng từ 144 triệu đô la lên 333 triệu đô la.

Trong sản xuất nông nghiệp, sản lƣợng tăng với tốc độ khá nhanh chóng. Đó

chính là kết quả của công cuộc khẩn thực trên quy môn rộng lớn. Năm 1860, sản lƣợng

bông tiêu dùng trong nƣớc chỉ hết khoảng 1/5, còn 4/5 để xuất cảng. Mỹ đã trở thành

29

nƣớc cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp dệt của Anh, Pháp, Đức và nhiều

quốc gia khác. Với thuốc lá từ năm 1850 tới năm 1860, sản lƣợng đã tăng lên gấp 2 lần, một nửa số sản phẩm đã đƣợc xuất sang Anh, Đức. Riêng các bang ở miền Nam

của Mỹ từ năm 1820 – 1850, sản lƣợng lúa gạo tăng lên 3 lần.

Sự phát triển của nông nghiệp nƣớc Mỹ đã hình thành hai hệ thống đối lập nhau,

đó là sự biểu hiện khác nhau giữa hai khuynh hƣớng phát triển của chủ nghĩa tƣ bản trong nông nghiệp, ở miền Bắc nông nghiệp phát triển rất mạng mẽ còn ở miền Nam,

chế độ nô lệ đồn điền vẫn ngự trị trong nông nghiệp.

Ở miền Bắc trong sản xuất rất chú trọng ứng dụng kỹ thuật và sử dụng phổ biến

các loại máy móc nông nghiệp và sức lao động làm thuê.

Ở miền Nam chế độ nô lệ dồn điền là sự bóc lột man rợ với ngƣời lao động, cũng

nhƣ vơ vét kiệt quệ nguồn tài nguyên thiên nhiên. Ở các đồn điền nô lệ, bạo lực là yếu

tố trực tiếp của sản xuất, cũng nhƣ mọi hình thức bóc lột. Trong sản xuất, các đồn điền

phía Nam ít đƣợc sử dụng máy móc, kỹ thuật thay vào đó là khai thác và sử dụng tới

kiệt quệ sức lao động của nô lệ da đen. Do vậy năng suất lao động thấp.

2.2.3. Nội chiến ở Mỹ (1861 - 1865)

Nguyên nhân dẫn đến nội chiến ở Mỹ (1861 - 1865): - Mâu thuẫn phát sinh từ sự tồn tại của hai hệ thống nông nghiệp đối lập nhau cả

về kinh tế và chính trị xã hội của Bắc Mỹ và Nam Mỹ;

- Cả hai miền Bắc Mỹ và Nam Mỹ đều có xu hƣớng bành trƣớng ra phía Tây.

- Các bang phía nam liên minh với nhau và ra tuyên bố ly khai khỏi Hợp chủng

quốc Hoa Kỳ.

- Nội chiến bùng nổ tháng 4 năm1861 và kết thúc tháng 4 năm1865 với sự chiến

thắng thuộc về phe liên bang. 2.3. Kinh tế Mỹ thời kỳ độc quyền (1865 đến nay)

2.3.1. Thời kỳ bùng nổ kinh tế Mỹ (1865 - 1913)

Sau cuộc nội chiến (1861 - 1865), từ một nƣớc phụ thuộc vào châu Âu, nƣớc Mỹ

nhanh chóng trở thành quốc gia công nghiệp cũng nhƣ kinh tế đứng đầu thế giới.

- Công nghiệp: giá trị tổng sản lƣợng công nghiệp tăng 4,98 lần (từ 1.907 triệu

USD (năm 1860) lên 9.498 triệu USD (năm 1894).

Năm 1913 sản lƣợng thép của Mỹ vƣợt Đức 2 lần, vƣợt Anh 4 lần đạt 31,3 triệu

tấn thép.

Ngành khai thác than sản lƣợng gấp hơn 2 lần Anh và Pháp cộng lại. Năm 1882 mới xuất hiện nhà máy điện đầu tiên, đến năm 1913 sản lƣợng điện

đạt 57 triệu Kwh.

Các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nhƣ: may mặc, giầy da, chế biến

thực phẩm ... cũng phát triển mạnh.

30

Với nông nghiệp, nhà nƣớc có chính sách khuyến khích kinh tế trang trại nhƣ

không đánh thuế vào hàng nông sản.

- Nông nghiệp nước Mỹ đạt được những thành tựu lớn: Giá trị sản lƣợng nông

nghiệp năm 1913 tăng 4 lần so với năm 1870, từ 2,5 tỷ USD lên 10 tỷ USD.

Từ năm1870 đến năm1913 diện tích gieo trồng lúa mỳ tăng lên 4 lần.

Nông nghiệp phát triển theo hƣớng chuyên canh, thâm canh, sử dụng máy móc và

kỹ thuật để tăng năng suất.

Nƣớc Mỹ cung cấp 9/10 bông; 1/4 lúa mạch trên thị trƣờng thế giới vào cuối thế

kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

- Giao thông vận tải được mở rộng phát triển: đƣờng bộ, đƣờng thuỷ, đặc biệt là

đƣờng sắt.

Giai đoạn 1865 - 1875, riêng ngành đƣờng sắt Mỹ đã thu hút 2 tỷ USD đầu tƣ của

nƣớc ngoài.

Đã xây dựng các tuyến đƣờng sắt nối liền Đông - Tây, Nam Bắc.

Năm 1870 chiều dài đƣờng sắt của Mỹ là 85.000 km.

Năm 1913 chiều dài đƣờng sắt của Mỹ đạt 411.000 km.

Mỹ trở thành nƣớc có ngoại thƣơng phát triển và xuất khẩu tƣ bản.

Năm 1899 xuất khẩu tƣ bản của Mỹ đạt 500 triệu USD, năm 1913 đạt 2.625 triệu

USD. Năm 1870 kim ngạch xuất khẩu đạt 377 triệu USD, năm 1914 đạt 5,5 tỷ USD.

Thị trƣờng đầu tƣ và buôn bán chủ yếu của Mỹ là Canađa, các nƣớc vùng biển

Caribbean, Trung Mỹ, các nƣớc châu Á đặc biệt là Nhật Bản và Ấn Độ.

2.3.2. Kinh tế Mỹ từ chiến tranh thế giới thứ nhất đến chiến tranh thế giới hai

(1914 - 1945)

Nƣớc Mỹ tham gia Chiến tranh thế giới I từ tháng 4 năm 1917 khi mới tham gia

nền kinh tế bị xáo trộn.Tuy nhiên, chiến tranh lại kích thích nền kinh tế Mỹ phát triển

sản phẩm công nghiệp tăng 1,7 lần, nông nghiệp tăng 1,5 lần. Bán vũ khí và thiết bị

cho các nƣớc tham chiến thu đƣợc 35 tỷ USD lợi nhuận.

Sau chiến tranh Mỹ trở thành trung tâm kinh tế tài chính của thế giới tƣ bản chủ nghĩa, đồng thời là chủ nợ lớn nhất, riêng các nƣớc Tây Âu vay nợ của Mỹ là 7 tỷ USD.

Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1920 - 1921 cũng ảnh hƣởng đến nền kinh tế Mỹ nhƣng nền kinh tế đã nhanh chóng đƣợc khôi phục và bƣớc vào giai đoạn phát triển ổn

định năm 1924 -1928.

Tháng 10 năm 1929 xuất hiện khủng hoảng kinh tế. Đầu tiên là sự sụp đổ của

công nghiệp sản xuất thép, lan sang các ngành xây dựng, vận tải, thƣơng nghiệp, nông

nghiệp.

31

Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 -1933, kinh tế Mỹ thụt lùi lại 20 năm: Sản xuất

công nghiệp giảm 36%: 92 lò luyện thép với công suất 4 triệu tấn/năm bị phá huỷ; 6,4 triệu con lợn bị giết; 13 vạn công ty bị phá sản; hơn 10.000 ngân hàng bị đóng cửa;

100.000 lýt sữa bò đổ xuống cống; Năm 1932 có hơn 12 triệu ngƣời bị thất nghiệp

(25% lực lƣợng lao động toàn nƣớc Mỹ lúc bấy giờ).

Để cứu vãn nền kinh tế bị suy sụt trầm trọng, tổng thống Mỹ Rooselelt đã đề ra

“đƣờng lối kinh tế mới” gồm một số điểm cơ bản:

- Giúp đỡ hệ thống tài chính, ngân hàng phát triển, cho vay để khuyến kích tƣ bản

tƣ nhân đầu tƣ, giảm giá đồng đô la Mỹ.

- Trong công nghiệp, bắt buộc các xí nghiệp giảm sản xuất, thống nhất giá bán, quy định mức sản xuất từng xí nghiệp, quy định thị trƣờng tiêu thụ và mức tiền lƣơng

cho công nhân.

- Trong nông nghiệp, thực hiện chính sách nâng giá nông sản phẩm, giảm diện

tích canh tác và trợ cấp cho các chủ trại.

- Áp dụng các biện pháp giảm thất nghiệp bằng cách tạo ra việc làm mới nhờ đầu

tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng.

Tháng 12 năm 1941 Mỹ tham gia chiến tranh thế giới II. Trong Chiến tranh thế

giới thứ hai, Mỹ thiệt hại không đáng kể và Mỹ tiếp tục giàu lên vì chiến tranh nhờ bán

vũ khí cho các nƣớc Đồng Minh, Mỹ thu đƣợc 117,2 tỷ USD lợi nhuận.

Giai đoạn năm 1940 - 1945 sản xuất công nghiệp tăng gấp đôi; GDP tăng hơn 2

lần từ 99,7 tỷ USD lên 211,9 tỷ USD.

Sau chiến tranh nƣớc Mỹ chiếm hơn 50% sản xuất công nghiệp, ¾ tổng kim

ngạch xuất nhập khẩu, gần ¾ dự trữ vàng của hệ thống các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa.

Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, Mỹ thực hiện kế hoạch Marshall các nội

dung cơ bản sau:

- Kế hoạch Marshall viện trợ cho Tây Âu (12,5 tỷ USD (tính đến tháng 12 năm

1951), trong đó 16% là tƣ liệu sản xuất, còn lại là hàng tiêu dùng; viện trợ cho Nhật

Bản 2,3 tỷ USD;

- Xâm nhập thị trƣờng các nƣớc châu Á, Phi, Mỹ Latinh thông qua các chƣơng

trình viện trợ.

- Điều chỉnh nền kinh tế từ nền kinh tế phục vụ chiến tranh sang thời bình.

2.3.3. Kinh tế Mỹ từ sau chiến tranh thế giới hai (1945 – 1973)

Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, Mỹ đã thực hiện nhiều biện pháp điều chỉnh

nền kinh tế:

- Từ 1945, Chính phủ Mỹ đã áp dụng các biện pháp giảm sản xuất quân sự và

phục hồi sản xuất dân dụng.

32

- Chính phủ Mỹ tạo việc làm và cấp học phí cho hàng triệu quân nhân phục viên

học nghề. Chính phủ chuyển nhƣợng cho tƣ nhân các cơ sở công nghiệp quân sự, khuyến khích đầu tƣ tƣ nhân. Tổng đầu tƣ tƣ nhân đạt 156,9 tỷ USD (1945 - 1949),

trong đó đầu tƣ vào thiết bị mới bình quân mỗi năm là 14,4 tỷ USD.

- Thực hiện xóa bỏ chế độ phân phối hàng tiêu dùng thời chiến, nới lỏng và kích

thích tiêu dùng.

- Thực hiện mở rộng bảo hiểm xã hội và nâng mức lƣơng tối thiểu, phát triển xây

dựng nhà ở công cộng giá rẻ...

Giai đoạn năm 1951 – 1973, các chính sách kinh tế của chính phủ Mỹ thể hiện

sự vận dụng học thuyết kinh tế của J. Keynes:

- Tỷ lệ tích lũy tƣ bản trong GDP của Mỹ 15,3% giai đoạn (1964-1973), đầu tƣ tƣ

nhân của Mỹ từ 1953-1973 tăng từ 53 tỷ USD lên 209 tỷ USD.

- Nƣớc Mỹ tăng chi tiêu cho quân sự và đầu tƣ cho nghiên cứu khoa học (chi của

chính phủ cho nghiên cứu khoa học chiếm 50%, chú trọng các hạng mục điện tử, vi

điện tử, máy tính điện tử, năng lƣợng nguyên tử, nghiên cứu vũ trụ...

- Phát triển khoa học giáo dục: Năm 1950, kinh phí giáo dục của Mỹ chiếm

3,38% tổng sản phẩm quốc dân, đến năm 1970 lên trên 7%.

- Chính sách tiền lƣơng và phúc lợi xã hội cao: Thời kỳ năm 1950 - 1972, tốc độ

tăng lƣơng danh nghĩa bình quân 4,7% (tốc độ tăng giá bình quân 2,5%); Tăng chi ngân sách cho phúc lợi xã hội (bảo hiểm xã hội cho ngƣời già, tàn tật, tai nạn lao động,

thất nghiệp...).

- Mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại: Tốc độ tăng GDP bình quân của Mỹ

những năm 1953 -1973 là 3,5% (Nhật 9,8%, Pháp 5,2%, Tây Đức 5,9%...).

Ở giai đoạn này Mỹ vẫn là cƣờng quốc kinh tế có ƣu thế về kinh tế, tài chính, tiền

tệ, và khoa học - kỹ thuật nhƣng địa vị tƣơng đối của Mỹ trong nền kinh tế thế giới tƣ

bản giảm sút liên tục. Nguyên nhân dẫn đến sự giảm sút tƣơng đối địa vị kinh tế của

Mỹ là do:

- Chính sách chạy đua vũ trang nên ngân sách quân sự tăng nhanh. - Lún sâu vào các cuộc chiến tranh (chiến tranh Việt Nam khoảng 352 tỷ USD). - Tốc độ tăng năng suất lao động giảm sút, lợi thế so sánh giảm xuống do tiền

lƣơng của ngƣời lao động cao.

- Đầu tƣ trong nƣớc tăng tƣơng đối chậm, đầu tƣ ra nƣớc ngoài tăng nhanh. - Đồng đôla Mỹ bị mất giá, hai lần phá giá đồng đôla (18-12-1971, USD giảm giá

7,89%; 13-2-1973, USD giảm 10%).

- Phƣơng pháp quản lý trong công nghiệp không còn phát huy tác dụng từ những

năm 1970.

33

2.3.4. Kinh tế Mỹ từ năm 1974 đến nay

* Thời kỳ 1974 – 2000 Trong những năm 1974 – 1982, kinh tế Mỹ phát triển chậm và không ổn

định.Khủng hoảng kinh tế đi liền với khủng hoảng cơ cấu, khủng hoảng nănglƣợng,

khủng hoảng tài chính, tiền tệ. Tốc độ tăng trƣởng GDP chỉ đạt 2,3% trong khi của

Nhật Bản đạt 4,7%. Cùng với sự giảm sút về kinh tế, tình trạng lạm phát, thất nghiệp cũng gia tăng. Thực trạng này bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:

- Đầu tƣ vốn cho kinh tế tăng chậm, trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế 1974-

1975 đầu tƣ tƣ bản cố định giảm 16,6%, tình trạng giảm sút đầu tƣ là do điều kiện tái

sản xuất tƣ bản không thuận lợi (lạm phát, thất nghiệp tăng, tỷ xuất lợi nhuận bình quân giảm sút).

- Các cuộc khủng hoảng nguyên liệu và năng lƣợng 1974-1975, 1979-1982 với sự

gia tăng của giá dầu đẫ tác động đến nền kinh té Mỹ, bởi lƣợng nhập khẩu dầu lửa của

Mỹ chiếm tới 53% tỏng nhu cầu dầu trong nƣớc năm 1975.

- Thị trƣờng trong nƣớc thu hẹp do thu nhập thực tế của ngƣời lao động giảm

mạnh (lạm phát tăng, giá cả tăng nhanh).

Nhìn chung, sự đình trệ kéo dài của nền kinh tế Mỹ trƣớc hết bắt nguồn từ mâu thuẫn nội tại của nền kinh tế. đó là mâu thuẫn giữa sức sản xuất đã phát triển với quy

mô vô cùng lớn, vƣợt ra khỏi phạm vi quốc gia với cơ chế điều tiết nền kinh tế hƣớng

vào trọng cầu. Sự phát triển không ổn định của nền kinh tế Mỹ trên trƣờng quốc tế đã

đặt nền kinh tế Mỹ trƣớc những thách thức về vấn đề cơ cấu lại nền kinh tế, khắc phục

thâm hụt cán cân thƣơng mại và cán cân thanh toán, xác lập lại nguồn dự trữ ngoại tệ

và điều chỉnh lại vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nƣớc.

Để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng trì trệ kéo dài từ giữa những năm 1970 trở

đi, đặc biệt là sau khủng hoảng kinh tế 1973-1975 và 1979-1982, ở Mỹ đã diễn ra quá

trình điều chỉnh kinh tế với các chính sách và giải pháp:

- Ủng hộ mạnh mẽ các nguyên tắc thị trƣờng tự do nhƣng chính phủ vẫn đóng

một vai trò chính trong việc điều hành nền kinh tế Mỹ. Nƣớc Mỹ vẫn phải dựa vào chính phủ để giải quyết các vấn đề nhƣ giáo dục, bảo vệ môi trƣờng… ngoài ra, chính phủ còn thực hiện chức năng nuôi dƣỡng các ngành công nghiệp mới và bảo vệ các doanh nghiệp Mỹ khỏi sự cạnh tranh với nƣớc ngoài.

- Chính phủ Mỹ tiếp tục tăng chi tiêu ngân sách cho hoạt dộng nghiên cứu và triển khai. Trong những năm 1980, chi tiêu ngân sách của chính phủ cho nghiên cứu

và triển khai gấp 3 lần những năm 1970 (từ 60 tỉ USD tăng lên 195 tỉ USD). Đồng thời, Mỹ cũng tăng cƣờng nhập khẩu các sản phẩm có hàm lƣợng kỹ thuật cao. Các ngành công nghệ kỹ thuật cao đƣợc Mỹ chú trọng là ngành công nghiệp otô, sản xuất

máy tính (đặc biệt là phần mềm máy tính), thiết bị thông tin, chế tạo máy, công nghệ

34

sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ vũ trụ, công nghệ năng lƣợng…. sự phát

triển của các ngành này đã góp phần nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế - xã hội, khắc phục khủng hoảng nguyên liệu, năng lƣợng, khủng hoảng cơ cấu, góp

phần nâng cao sức cạnh tranh trên thị trƣờng thé giới.

- Chi ngân sách nhà nƣớc cho giáo dục đào tạo cũng tăng nhanh. Năm học 1989-

1990, nhà nƣớc đầu tƣ cho giáo dục 153 tỷ USD tăng hơn so với năm học trƣớc 23 tỷ USD. Nhà nƣớc còn thực hiện trợ cấp đào tạo lại nghề nghiệp cho công nhân trong

trƣờng hợp công ty làm ăn thua lỗ phải chuyển hƣớng sang ngành mới theo hƣớng của

nhà nƣớc.

- Để tạo điều kiện ổn định kinh tế, giảm bớt sự căng thẳng về chính trị - xã hội, chính phủ Mỹ đã thực hiện nhiều biện pháp để ổn định xã hội thông qua các chƣơng

trình xã hội: hệ thống bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp hƣu trí, tuổi già, tàn tật do lao

động… hệ thống này đƣợc nhà nƣớc đứng ra tổ chức trên cơ sở đóng góp của ngƣời

lao động, doanh nghiệp sử dụng ngƣời lao động và từ ngân sách nhà nƣớc.

Bảng 2. 1 Tỷ lệ đóng góp cho quỹ trợ cấp xã hội

của một số nƣớc tƣ bản chủ yếu Đơn vị: %

Bên đóng góp

Trích từ ngân Xí nghiệp Ngƣời lao động Các loại thuế sách

49,5 15,2 34,8 0,5 Mỹ

26,1 25,0 48,9 0,0 Nhật Bản

31,9 14,7 51,7 1,7 Anh

52,9 24,7 21,0 1,4 Pháp

37,6 30,5 28,0 3,9 CHLB Đức

- Nhà nƣớc còn có chính sách khuyến khích phát triển loại hình doanh nghiệp vừa

và nhỏ nhằm góp phần giải quyết việc làm. Loại hình doanh nghiệp này đƣợc ƣu đãi về tài chính tín dụng. Ở Mỹ có 10 ngân hàng với số vốn 16 tỷ USD, chuyên cấp vốn tín dụng cho khu vực sản xuất vừa và nhỏ. Nhà nƣớc còn chú ý dành hợp đồng cho khu vực sản xuất vừa và nhỏ. Năm 1987 trong 147 tỷ USD nhà nƣớc đặt hàng cho tƣ nhân, trong đó có 25,4 tỷ USD dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhờ giải pháp này mà phần lớn các lao động bị công ty lớn xa thải đã tìm đƣợc việc làm. Theo số liệu

thống kê, ở Mỹ trong vòng 10 năm (1980- 1989) 500 công ty lớn chỉ tạo ra 3,5 triệu việc làm trong khi đó khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ đã giải quyết đƣợc 20 triệu việc làm. Số ngƣời làm việc trong khu vực sản xuất vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động có việc làm (78,5 %).

35

- Thực hiện đổi mới tổ chức và quản lý trong công nghiệp: vào đầu những năm

1980, nhiều công ty Mỹ đã tăng cƣờng đầu tƣ vốn để đổi mới trang thiết bị, kỹ thuật và công nghệ, mục đích tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và sản phẩm trên thị

trƣờng thế giới, song thực tế không đạt đƣợc nhƣ ý muốn. Để khôi phục sức mạnh vốn

có của công nghiệp Mỹ, vấn đề cấp bách nhất là phải tạo cho các nhà quản lý kinh tế

Mỹ có tƣ duy quản lý mới và trình độ tổ chức cao phù hợp với trang thiết bị và công nghệ tự động hoá. Đồng thời chú trong hơn việc nâng cao trình độ chuyên môn, tay

nghề cho ngƣời lao động, tạo điều kiện cho ngƣời lao động tham gia quản lý sản xuất,

tạo điều kiện cho các nhà khoa học nghiên cứu, ứng dụng thành tựu vào thực tế quản

lý sản xuất.

- Tăng cƣờng hoạt động đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài: trong số các nƣớc tƣ bản

phát triển, Mỹ vừa là nƣớc đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài lớn nhất nhƣng cũng vừa là

nƣớc thu hút đầu tƣ trực tiếp từ nƣơc ngoài lớn nhất. Năm 1989 tổng số đầu tƣ của Mỹ

ra nƣớc ngoài là 1.380 tỷ USD và thu hút đầu tƣ từ nƣớc ngoài là 2.288 tỷ USD. Đầu

tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài của Mỹ tập trung chủ yếu vào các nƣớc phát triển. Năm

1950 đầu tƣ của Mỹ vào các nƣớc phát triển chiếm 48,3%; năm 1980 đã tăng lên

chiếm 73,5% và năm 1990 chiếm 74,1% tổng vốn đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài. Mỹ

cũng là nƣớc thu hút đầu tƣ trực tiếp từ nƣớc ngoài lớn nhất từ giữa những năm 1980

trở đi. Năm 1990 trong tổng đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Mỹ có tới 90% là từ các nƣớc tƣ bản phát triển, trong đó 63,5% là từ các nƣớc Tây Âu và Nhật Bản. Số vốn

đầu tƣ trực tiếp của Tây Âu vào Mỹ đến năm 1970 là 9,55 tỷ USD; đến năm 1980 là

43,47 tỷ USD và năm 1990 lên tới 256,5 tỷ USD. Đầu tƣ của Nhật Bản vào Mỹ cũng

tăng nhanh, tính đến năm 1990 tổng số đầu tƣ của Nhật Bản vào Mỹ là 83,5 tỷ USD.

Thực tế, hoạt động đầu tƣ ra nƣớc ngoài của Mỹ đƣợc thực hiện bởi các công ty

xuyên quốc gia. Đó là các công ty chủ yếu phát triển lên từ những công ty độc quyền

lớn ở trong nƣớc. trong xu hƣớng quốc tế hoá sản xuất, thông qua đầu tƣ trực tiếp,

thông qua “chế độ tham dự”, và hợp đồng kinh tế quốc tế, các công ty xuyên quốc gia

có hệ thống chi nhánh các công ty ở khắp thế giới, hình thành “đế quốc” kinh doanh khổng lồ, do tƣ bản Mỹ độc quyền chi phối và quản lý.

Giai đoạn Các chính sách và điều chỉnh kinh tế của Mỹ đã mang lại những tác dụng tích cực. Nền kinh tế Mỹ đã vƣợt qua đƣợc các cuộc khủng hoảng (1973- 1975), (1980- 1982) và bƣớc vào một giai đoạn phát triển tƣơng đối ổn định cho đến đầu những năm 1989 với nhịp độ khá cao

Trong phát triển kinh tế, ƣu thế về công nghiệp của Mỹ đã vƣợt xa Tây Âu và Nhật Bản. Năm 1990, các công ty Mỹ kiểm soát 75% thị trƣờng máy vi xử lý của toàn

thế giới, các công ty Mỹ cung ứng khoảng 80% giá trị kim ngạch buôn bán phần mền

của thế giới. Nhờ công nghệ thông tin phát triển mạnh, hàm lƣợng kỹ thuật va tri thức

36

đóng góp vào tăng trƣởng kinh tế của Mỹ đã ngày càng tăng. Trong giai đoạn 1990-

2000, năng xuất lao động ở Mỹ tăng với tốc độ 2,5% bình quân hàng năm, gấp 2 lần so với tỷ lệ tăng bình quân hàng năm trong giai đoạn 1970- 1990.

Cơ cấu kinh tế Mỹ cũng có những thay đổi căn bản. Từ những năm 1970, nền

kinh tế Mỹ đã chuyển biến dần từ sản xuất hàng hoá sang cung cấp dịch vụ, chủ yếu là

các nhóm ngành thƣơng mại, giao thông, các dịch vụ tiện ích, tài chính, du lịch và công nghệ thông tin. Ngành dịch vụ đã chiếm vị trí chủ đạo trong toàn nền kinh tế.

Tỷ lệ lạm phát từ 2 con số cũng giảm xuống còn khoảng 3%. Tình trạng thâm hụt

ngân sách đã từng bƣớc đƣợc khắc phục.

Nhờ tăng trƣởng kinh tế tƣơng đối cao liên tục trong nhiều năm, nƣớc Mỹ có điều kiện giải quyết việc làm cho ngƣời lao động. Tuy tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ vẫn cao hơn

của Nhật Bản, nhƣng thất nghiệp của Mỹ chủ yếu là thất nghiệp cơ cấu.

Tuy vậy, nền kinh tế Mỹ vẫn gặp không ít khó khăn. Thâm hụt cán cân thƣơng

mại của Mỹ rất lớn. Năm 1989 thâm hụt 169,9 tỷ USD; năm 1995 tƣơng ứng là 196,2

tỷ USD; năm 1998 là 210 tỷ USD; năm 1999 với kỷ lục thâm hụt là 270 tỷ USD. Nợ

của chính phủ liên bang so với GDP còn cao, theo số liệu của nợ chính phủ liên bang

Mỹ năm 1993 so với GDP là 67,2%, năm 1999 là 62,6%.

Nhìn chung, vào nhƣng năm 1990, nền kinh tế Mỹ có những biểu hiện phát triển

kinh tế tốt hơn so với Nhật Bản và Tây Âu. Thực tế cho thấy, trong cuộc chạy đua về kinh tế giữa Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu những năm 1990, Mỹ thực hiện chính sách điều

chỉnh linh hoạt với nền kinh tế để thích ứng với xu thế toàn cầu hoá và đi đầu trong

chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế thông tin. Mỹ đã xác định

đƣợc vai trò chủ chốt trong tiến trình tự do hoá về thƣơng mại và đầu tƣ quốc tế với

tính cách là nội dung chủ yếu của xu hƣớng toàn cầu hoá.

Biểu đồ2.1. Tình hình kinh tế Mỹ (1990 – 2002)

* Thời kỳ từ năm 2000 đến nay Bƣớc sang thế kỷ XXI, nƣớc Mỹ gặp nhiều khó khăn mới. Đây cũng là thời kỳ nền kinh tế thế giới có nhiều biến động nhƣ nguy cơ khủng hoảng năng lƣợng toàn

cầu, nguy cơ khủng hoảng lƣơng thực hay lạm phát ngày càng tăng tại nhiều quốc gia và một số nƣớc trong khu vực. Đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng

37

phát từ Mỹ vào năm 2007 và lan rộng ra toàn thế giới vào năm 2008 đã để lại tác động

tiêu cực với nền kinh tế Mỹ và kinh tế thế giới.

Ở nƣớc Mỹ, sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của lĩnh vực tài chính- chứng

khoán, ngân hàng đã thu hút một nguồn vốn lớn trong khi ấy, nhiều lĩnh vực của đời

sống kinh tế - xã hội không đƣợc đầu tƣ thích đáng, hậu quả là thị trƣờng chứng

khoán, bất động sản và tín dụng ngân hàng tăng trƣởng nóng, ví dụ giá bất động sản tại Mỹ từ năm 2001 đến năm 2005 tăng 54%, thị trƣờng chứng khoán Mỹ tăng từ 30-

40% giai đoạn 2005- 2007 đã dẫn đến mất cân đối cơ cấu tài chính, khủng hoảng cơ

cấu sản xuất. Nhìn vào biến động của kinh tế Mỹ và kinh tế thế giới trong thời gian

qua cho thấy, khủng hoảng thể chế quản lý tài chính – ngân hàng gắn liền với khủng hoảng cơ cấu sản xuất và khủng hoảng hàng hoá. Ba yếu tố này có mối quan hệ hữu cơ,

tác động sâu sắc lẫn nhau làm cho tình hình kinh tế của Mỹ cũng nhƣ thế giới diễn biến

hết sức phức tạp và khó lƣờng.

Đứng trƣớc sóng gió của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế, chính phủ

Mỹ đã có một số hành động ứng phó sau:

- Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã thực hiện bơm tiền vào hệ thống ngân hàng

thƣơng mại đang thiếu tiền mặt nhằm giúp cho việc tạo tín dụng trở lại bình thƣờng.

Đồng thời thực hiện cắt giảm lãi xuất cơ bản nhằm kích thích nền kinh tế.

- Kế hoạch kính thích kinh tế nhằm hỗ trợ hoạt động của nền kinh tế, từ ngày 13- 2- 2008, Chính phủ Mỹ thực hiện kế hoạch kích thích kinh tế cả gói trong đó có khoản

hoàn trả thuế giành cho các công ty, giúp cho các công ty này cố điều kiện mở rộng

sản xuất. Thông qua biện pháp cả gói trị giá 149 tỷ USD cho các mục tiêu hỗ trợ thất

nghiệp và giảm thuế…

Để huy động tiền cho các gói kích thích kinh tế, chính phủ Mỹ đã phải vay nợ

dƣới nhiều hình thức và điều này đã dẫn tới tình trạng thâm hụt ngân sách lớn. Nguy

cơ nợ quốc gia và khủng hoảng nợ công đang là một trong những hiểm hoạ hàng đầu

với nền kinh tế Mỹ hiện nay.

Cho đến nay, nền kinh tế Mỹ vẫn chƣa thể khôi phục lại từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Niềm tin của ngƣời tiêu dùng trong nƣớc giảm thấp trong suốt khoảng thời gian đó. Đáng chú ý là tiêu dùng chiếm tới 70% GNP của Mỹ trong giai đoạn 2005- 2008 nhƣng tỷ lệ tiết kiệm của các hộ gia đình Mỹ đã rơi xuống mức dƣới 0%. Đồng thời Mỹ đã phải đối mặt với tình trạng giảm phát đầu tiên kể từ chiến tranh thế giới thứ hai, - 0,3% trong năm 2009 và 1,6 % năm 2010. Tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ

vẫn ở mức cao, năm 2010 là 9,6%. Đặc biệt là tình trạng nợ công quá lớn. Số nợ của Mỹ hiện chiếm khoảng 101% GDP.

38

Bảng 2.2. Một số chỉ số kinh tế Mỹ

(đơn vị: %)

Bình

2005 2006 2007 2008 2009 2010 quân 1993-

2000

Tăng trƣởng 3,4 3,1 2,7 1,9 0,0 -2,6 2,8

GDP (%)

Chỉ số giá tiêu dùng 2,5 3,4 3,2 2,9 3,8 -0,3 1,6

(%)

Tỷ lệ thất nghiệp 5,2 5,1 4,6 4,6 5,8 9,3 9,6

(%)

Tăng trƣởng 1,4 1,8 1,9 1,1 -0,5 -3,8 -0,6 việc làm

(%)

Tăng

trƣởng 2,2 2,1 1,7 0,9 -0,9 -3,5 2,0 GDP bình

quân (%)

Tăng

trƣởng 4,9 6,7 9,0 9,3 6,0 -9,5 11,8 xuất khẩu

(%)

8,6 6,1 6,1 2,7 -2,6 -13,8 12,7

Tăng trƣởng nhập khẩu (%)

Cán cân

thƣơng 0,6 -2,6 -0,4 0,3 -5,1 6,1 -1,7

mại (%)

Tổng nợ

- 61,7 61,3 62,2 71,2 84,6 91,6

quốc gia (% GDP)

39

Mặc dù còn nhiều khó khăn nhƣng hiện nay Mỹ vẫn là nền kinh tế lớn và quan trọng nhất trên thế giới. Năm 2010, nền kinh tế Mỹ chiếm 20.218% tổng GDP của thế

giới với 14.597,7 tỷ USD, trong đó ngành dịch vụ đóng góp khoảng 79.2% GDP của

Mỹ. GDP trên đầu ngƣời của Mỹ đứng thứ bảy trên thế giới với 47,131.95 USD.

Mỹ là một trong những nền kinh tế có công nghệ tiên tiến nhất trên thế giới, dẫn đầu chỉ số sáng tạo toàn cầu và đứng vị trí thứ 9 trong chỉ số chi thức kinh tế của WB.

Các doanh nghiệp Mỹ gần nhƣ đi tiên phong trong tiến bộ công nghệ, đặc biệt là các

lĩnh vực máy móc và thiết bị y tế, hàng không vũ trụ và quân sự. Mỹ cũng là quốc gia

thƣơng mại lớn nhất thế giới, đứng đầu thế giới về nhập khẩu và là một trong ba nƣớc xuất khẩu nhiều nhất thế giới. Là thị trƣờng xuất khẩu hàng đầu của gần 60 quốc gia

nên trong thực tế Mỹ luôn có vị thế chắc chắn trong việc gây ảnh hƣởng về kinh tế và

chính trị khắp thế giới. Mỹ cũng giữ vai trò chính trong việc hình thành các tổ chức

thƣơng mại toàn cầu nhƣ GATT trƣớc đây và nay là WTO. Mỹ cũng sở hữu những thị

trƣờng tài chính lớn nhất và có thế lực lớn nhất trên thế giới .

40

Câu hỏi ôn tập

1. Tại sao kinh tế Mỹ phát triển nhanh sau năm 1865?

2. Trình bày đặc điểm cơ bản của kinh tế nƣớc Mỹ trong giai đoạn 1914 - 1945.

3. Trình bày nội dung kế hoạch Marshall và những điều chỉnh kinh tế của nƣớc Mỹ sau

chiến tranh thế giới lần thứ II.

4. Nêu các nguyên nhân làm giảm sút tƣơng đối địa vị kinh tế của Mỹ trong giai đoạn

1945 - 1973.

5. Trình bày các chính sách kinh tế của chính phủ Mỹ giai đoạn 1951 – 1973

6. Tại sao từ năm 1983 đến nay kinh tế Mỹ phải thực hiện nhiều điều chỉnh kinh tế?

7. Trình bày những chính sách kinh tế chủ yếu của nƣớc Mỹ trong giai đoạn 1972 – 1982.

8. Trình bày những chính sách kinh tế chủ yếu của nƣớc Mỹ trong giai đoạn 1982 – 2000.

9. Trình bày những chính sách kinh tế chủ yếu của nƣớc Mỹ từ năm 2000 đến nay?

10. Những điều chỉnh kinh tế chủ yếu của nƣớc Mỹ sau cuộc khủng hoảng năm 2008

là gì?

41

CHƢƠNG 3. KINH TẾ NHẬT BẢN

3.1. Kinh tế Nhật Bản thời kỳ phong kiến

3.1.1. Đặc điểm kinh tế xã hội Nhật Bản cuối thời kỳ phong kiến Nhật Bản

Từ thế kỷ XVIII, nhiều nƣớc phƣơng Tây đã bắt đầu tiến nhanh trên con đƣờng

phát triển tƣ bản chủ nghĩa. Trong khi đó Nhật Bản, cũng nhƣ nhiều nƣớc khác ở châu

Á, nền kinh tế phong kiến vẫn chiếm vị trí thống trị hoàn toàn cô lập với thế giới bên ngoài.

Ở Nhật Bản, từ đầu thế kỷ XVII, dòng họ Tokugawa đã chinh phục xong các đối

thủ khác và thiết lập nên chế độ nhiếp chính cha truyền con nối. Chế độ phong kiến Nhật thời kỳ Tokugawa (1615-1868) khác với phong kiến châu Âu về nhiều mặt.

Thiên hoàng chỉ còn tồn tại trên hình thức. Đất nƣớc đƣợc chia ra gần 300 lãnh địa,

mỗi lãnh địa do một lãnh chúa cai trị. Các lãnh chúa này phải thần phục chính quyền

trung ƣơng và có quyền lực tối cao trong phạm vi lãnh địa của mình. Từ lâu, xã hội

phong kiến Nhật Bản đƣợc chia thành bốn tầng lớp xã hội chủ yếu: Võ sĩ đạo hay

Samurai, nông dân, thợ thủ công và thƣơng nhân:

- Tầng lớp Samurai chiếm khoảng 10% dân cƣ, gồm các quý tộc, kẻ sĩ, là những

ngƣời có địa vị cao nhất trong xã hội. Chức năng của họ là cai trị quốc gia, đƣợc

hƣởng mọi quyền lợi về giáo dục, huấn luyện quân sự…

- Tầng lớp thứ hai là nông dân, có số lƣợng đông đảo nhất, về mặt xã hội, họ tạo

ra sự giàu có của đất nƣớc và cung cấp các phƣơng tiện nuôi các Samurai. Tuy nhiên,

phần lớn nông dân Nhật không có ruộng đất, phải nhận ruộng cày rẽ cho bọn chủ đất

và phải nộp tới 50 - 70% số thu nhập hàng năm của mình, tô hiện vật là hình thức bóc

lột chính.

- Tầng lớp thứ ba và thứ tƣ trong xã hội là thợ thủ công và thƣơng nhân, đƣợc coi

là tầng lớp thấp hèn nhất. Nhƣ tầng lớp thợ thủ công họ bị cho rằng chỉ làm cái việc

phân phối hàng hóa những ngƣời khác sản xuất ra.

Xã hội phong kiến Nhật dựa trên cơ sở tƣ tƣởng Khổng giáo. Theo đó, lòng nhân từ, chính trực, trí tuệ và sự phục tùng có tác động mạnh mẽ đến các mối quan hệ phụ tử, chủ tớ, anh em và bạn bè. Trong đó, tôn ti, trật tự, tính phục tùng đƣợc đề cao, học vấn đƣợc đặt ngang hàng với tinh thông võ nghệ. Xã hội đƣợc tổ chức chặt chẽ và phân định theo đẳng cấp.

Nông nghiệp là cơ sở kinh tế của chế độ phong kiến Nhật. Nông dân bị bóc lột đến cùng cực, tô thuế nặng nề. Từ năm 1771 đến 1789 có gần một triệu ngƣời bị chết

đói. Phần lớn ruộng đất tập trung vào tay bọn phong kiến, quý tộc. Một bộ phận trong

tầng lớp trên bị phân hóa.

42

Sự chuyển biến về mặt xã hội và khủng hoảng của nến kinh tế nông nghiệp từ thế

kỷ XVIII đã làm cho nền kinh tế phong kiến Nhật ngày càng bị lung lay tận gốc.

Từ cuối thế kỷ XVII, nội thƣơng bắt đầu đƣợc mở rộng và đã đóng vai trò quan

trọng làm tan rã dần chế độ phong kiến Nhật. Trƣớc thế kỷ XVIII, hàng hóa thƣờng

đƣợc trao đổi trực tiếp, hiện vật là chủ yếu, nhƣng dần dần quan hệ hàng tiền ngày

càng phát triển nhất là ở vùng Tây Nam. Cuối thế kỷ XVII có khoảng 14,51% dân số sống về nội thƣơng. Hoạt động của bọn đầu cơ ở vùng nông thôn đã thu hút phần lớn

hoạt động thủ công nghiệp gia đình của nông dân và đẩy nhanh sự phá sản của nông

dân. Bọn đầu cơ và tầng lớp thƣơng nhàn ngày càng có thế lực kinh tế mạnh mẽ. Ngay

cả một bộ phận lớn các lãnh chúa, võ sĩ đạo do bị nghèo đói cũng phải lệ thuộc vào tầng lớp này.

Trên cơ sở sự phát triển của lực lƣợng sản xuất bắt đầu có sự tách rời giữa nông

nghiệp và thủ công nghiệp, giữa thành thị và nông thôn. Cuối thế kỷ XVII, ở Nhật có

đến 130 loại nghề thủ công. “Thủ công nghiệp gia đình” của nông dân phát triển và sự

xuất hiện một tầng lớp thƣơng nhân giàu có là tiền đề cho sự ra đời của công trƣờng

thủ công phân tán.

Nhiều nhà buôn và chủ cho vay nặng lãi đã tích lũy đƣợc một số vốn lớn. Trong

xã hội diễn ra sự phân hóa sâu sắc. Một bộ phận nông dân do bị bóc lột nặng nề đã rời

bỏ nông thôn và trở thành những ngƣời làm thuê.

3.1.2. Sự ra đời của Chủ nghĩa tƣ bản Nhật Bản

Từ thế kỷ XVII, quan hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa đã xuất hiện, nhƣng không có

những điều kiện phát triển thuận lợi nhƣ ở châu Âu. Chế độ phong kiến chuyên chế ở

Nhật không đóng vai trò quan trọng trong sự ra đời của chủ nghĩa tƣ bản. Nhà nƣớc

phong kiến Nhật thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng”, cô lập với thế giới bên

ngoài. Đầu thế kỷ XVII, thuyền buôn của một số nƣớc nhƣ Tây Ban Nha, Bồ Đào

Nha, Hà Lan đã đến buôn bán nhƣng đều bị chính quyền phong kiến Nhật khƣớc từ.

Chế độ cát cứ, quy chế phƣờng hội đã hạn chế sự phát triển thƣơng nghiệp và công

trƣờng thủ công, phần lớn của cải cƣớp đoạt của nông dân tập trung vào tay bọn phong kiến quan lại ăn chơi xa xỉ. Các đạo luật cấm mua bán ruộng đất, cấm chia nhỏ ruộng đất đã làm giảm tốc độ phân hóa trong nông thôn. Do đó, “thủ công nghiệp gia đình” với tính tự cấp tự túc của nó có điều kiện tồn tại lâu dài.

Tuy nhiên, lực lƣợng sản xuất phát triển đã tiếp tục thúc đẩy sự ra đời các công trƣờng thủ công. Thế kỷ XVII, cả nƣớc có 33 công trƣờng thủ công các loại. Thế kỷ

XVIII, nhiều công trƣờng thủ công mới ra đời: dệt, kéo sợi, nhuộm, đồ gốm. Vào nửa đầu thế kỷ XIX, công trƣờng thủ công phát triển mạnh mẽ, có nơi đã bắt đầu sử dụng máy móc. Năm 1864, ở vùng Kuni có tới 267 xí nghiệp dệt lụa, sử dụng từ 5.000 đến

6.000 bàn dệt. Năm 1852, lò cao đầu tiên đƣợc xây dựng. Nhiều xƣởng đóng tàu lớn

43

xuất hiện, đến 1866 hơn 50 chiếc tàu đã đƣợc hạ thủy. Cho đến trƣớc cải cách Minh

Trị (1868), ở Nhật có 420 công trƣờng thủ công.

Từ cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XIX, nhiều nƣớc phƣơng Tây bắt đầu dòm ngó,

xâm nhập Nhật Bản. Tầu biển một số nƣớc Hà Lan, Anh, Mỹ đã đến buôn bán ở một

số cảng của Nhật. Nhà nƣớc phong kiến Nhật Bản vẫn tiếp tục thực hiện chính sách

bảo thủ, cấm thƣơng nhân nƣớc ngoài không đƣợc đến buôn bán và cấn thƣơng nhân nƣớc ngoài không đƣợc đến buôn bán và cấm nhân dân trong nƣớc không đƣợc trao

đổi hàng hóa với tƣ bản phƣơng Tây. Năm 1853, một hạm đội của Mỹ đã nổ súng vào

thủ đô và Nhật Bản đứng trƣớc nguy cơ bị tƣ bản phƣơng Tây xâm lƣợc. Chính quyền

phong kiến Nhật Bản đã buộc phải lý các hiệp ƣớc bất bình đẳng với Mỹ, và sau đó với Anh, Hà Lan, Nga…

Hàng hóa nƣớc ngoài tràn ngập càng làm gay gắt thêm các mâu thuẫn kinh tế xã

hội ở Nhật. Nền sản xuất công trƣờng thủ công bị chèn ép, nhiều thƣơng nhân và thợ

thủ công bị phá sản. Nông dân ở nhiều địa phƣơng do bị bóc lột nặng nề đã nổi dậy

chống lại chính quyền Mạc phủ. Nội bộ chính quyền phong kiến cũng có mâu thuẫn và

bắt đầu phân hóa. Phong trào chống chủ nghĩa thực dân phƣơng Tây nhanh chóng lan

ra toàn quốc. Những mâu thuẫn kinh tế xã hội trên đã dẫn đến một cuộc cải cách đƣa

nƣớc Nhật nhan chóng tiến lên chủ nghĩa tƣ bản và thoát khỏi hiểm họa xâm lƣợc của

tƣ bản phƣơng Tây. 3.2. Kinh tế Nhật Bản từ cải cách Minh Trị đến chiến tranh thế giới thứ II

(1868 – 1945)

3.2.1. Cải cách Minh Trị

Tháng 1 năm 1868, Shogun cuối cùng của dòng họ Tokugawa chính thức từ bỏ

quyền lực đối với Nhật Bản, nhà vua trẻ tuổi Mutsuhito Meiji lên ngôi lấy hiệu là

Minh trị Thiên hoàng. Chính quyền Minh trị đã nhân chóng tiến hành một cuộc cải

cách toàn diện nhằm khắc phục tình trạng lạc hậu, cát cứ phong kiến và đổi mới nƣớc

Nhật:

- Về chính sách cải cách ruộng đất mới đƣợc ban hành trên cơ sở cải cách ruộng đất năm 1872 – 1873. Nhà nƣớc công nhận quyền tiếp tục sở hữu ruộng đất của địa chỉ đã có từ trƣớc, cho phép tự do mua bán ruộng đất. Nhà nƣớc bán một số ruộng đất vắng chủ cho thƣơng nhân và nông dân.

- Về cải cách về kinh tế - tài chính, từ năm 1869 xóa bỏ các loại thế cũ, ban hành

luật pháp, thống nhất tiền tệ, thuế khóa trong phạm vi cả nƣớc. Năm 1873 đã thay thế

thuế gạo đánh vào nông dân bằng thuế 3% giá trị ƣớc tính của ruộng đất. Thuế này đã

đem lại khoảng một nửa thu nhập của nhà nƣớc trong thời kỳ 1879 – 1888. Ngoài ra, nông dân còn phải nộp thuế hàng hóa, thuế thu nhập. Những thứ thuế này dần dần đã thay thế thuế đất, trở thành nguồn thu nhập chủ yếu của Nhà nƣớc.

44

- Cải cách công nghiệp và khoa học kỹ thuật, tăng cƣờng giao lƣu kinh tế với

nƣớc ngoài: chính quyền mới đã đặc biệt ƣu tiên khuyến khích phát triển công nghiệp hiện đại vốn đƣợc xem là nguồn gốc sức mạnh ƣu việt của phƣơng Tây. Thực hiện

chính sách mở cửa, mở rộng quan hệ với phƣơng Tây, xuất khẩu các sản phẩm nông

nghiệp truyền thống nhƣ chè, tơ, nhập hàng công nghiệp và kỹ thuật của phƣơng Tây.

Nhà nƣớc khuyến khích và tăng cƣờng học tập khoa học kỹ thuật mới của các nƣớc tƣ bản châu Âu và Mỹ

- Về cải cách giáo dục, nhà nƣớc thành lập một hệ thống các trƣờng giáo dục phổ

thông và đại học, mở các trƣờng tiểu học cƣỡng bức, bắt buộc trẻ em đến tuổi phải đi

học. Mọi ngƣời đƣợc tự do học tập và làm việc. Nền giáo dục mới đƣợc phổ biến rộng rãi. Đã có 50% tổng số nam và 15% tổng số nữ theo học trong các trƣờng phổ cập.

Cải cách Minh Trị là cuộc cách mạng tƣ sản không triệt để vì chính thể phong

kiến đã không bị xóa bỏ hoàn toàn. Giai cấp tƣ sản và tầng lớp phong kiến trở thành

chỗ dựa của nền quân chủ chuyên chế.

3.2.2. Cách mạng công nghiệp và chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản.

* Cách mạng công nhiệp ở Nhật Bản có một số đặc điểm cơ bản sau:

- Khởi đầu bằng công nghiệp nhẹ nhƣng các ngành công nghiệp nặng, giao thông

vận tải, công nghiệp quốc phòng đã xuất hiện rất sớm và phát triển nhanh.

- Nguồn vốn chủ yếu dựa vào trong nƣớc.

- Nhà nƣớc Nhật Bản có vai trò quan trọng trong cách mạng công nghiệp.

- Trực tiếp đầu tƣ xây dựng các cơ sở công nghiệp dựa trên nền tảng kỹ thuật

hiện đại của phƣơng Tây khi đó, sau bán lại cho tƣ nhân với giá thấp hơn giá vốn đầu

tƣ ban đầu; tạo điều kiện thuận lợi cho nhập khẩu nguyên liệu, kỹ thuật từ nƣớc ngoài;

hỗ trợ tƣ nhân trong nƣớc tích lũy vốn, trợ cấp cho xuất khẩu các sản phẩm quan

trọng…

- Khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ liên kết thành các công ty cổ phần để khắc

phục hạn chế về quy mô…

- Sự tách rời giữa nông nghiệp và công nghiệp (nông nghiệp ngày càng lạc hậu

hơn so với sự phát triển của công nghiệp) * Tác động về kinh tế - xã hội: - Từ năm 1880 đến năm1913, sản lƣợng khai thác than tăng lên 8,2 lần từ 5,3 lên 21,3 triệu tấn, sản lƣợng đồng tăng 12,5 lần từ 5,3 lên 66,5 triệu tấn, tốc độ phát triển công nghiệp trung bình 6%/năm.

- Một nét nổi bật trong quá trình cách mạng công nghiệp ở Nhật là sự tách rời giữa nông nghiệp và công nghiệp, nông nghiệp ngày càng lạc hậu hơn so với công nghiệp. Mặc dù trong thời kỳ Minh Trị, một số biện pháp cải tiến trong nông nghiệp

đá đƣợc thực hiện nhƣ áp dụng giông mới, cải tiến thủy lợi, phổ biến sử dụng phân

45

bón … nhƣng nông nghiệp đƣợc coi là lĩnh vực ít đƣợc chú ý đầu tƣ. Nông nghiệp

vẫn trong tinh trạng sản xuất nhỏ, lạc hậu, ruộng đất bị phân tán. Cho đến đầu thế kỷ XX, trên 2/3 dân số vẫn song chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Vì vậy, ngay từ đầu ở

Nhật đá hình thành nên hai khu vực kinh tế trái ngƣợc nhau, một khu vực công

nghiệp hiện đại Và một khu vực nông thôn lạc hậu.

Mặc dù cho đến đầu thế kỷ XX, Nhật Bản còn kém các nƣớc Mỹ, Đức, Anh, Pháp về mặt chỉ tiêu tuyệt đối, nhƣng cách mạng công nghiệp từ sau cải cách Minh Trị

đả phát triển nhanh chóng, nhất là trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Nhật Bản đã biết tiếp thu nhanh chóng kỹ thuật từ bên ngoài để đẩy nhanh nhịp độ

phát triển các ngành công nghiệp. Từ năm 1888 đến 1913, sản lƣợng khai thác than tăng lên 20 lần, sản lƣợng đồng tăng lên 13 lần. Nhịp độ phát triển công nghiệp trung

bình hàng năm từ 1878 đến 1913 tăng khoảng 6%.

* Cách mạng công nghiệp ở Nhật cũng đƣợc gắn liền với quá trình chuyển biến

từ chủ nghĩa tƣ bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tƣ bản độc quyền:

- Nhiều tổ chức độc quyền đã xuất hiện ngay trong giai đoạn đầu của cách mạng

công nghiệp. Năm 1880, Liên hiệp độc quyền giấy đƣợc thành lập. Hãng Misui có từ

thế kỷXVI đã phát triển thành công ty kinh doanh cả trong công nghiệp và thƣơng

nghiệp. Phần lớn các hãng cho vay nặng lãi thời kỳ phong kiến đã nhanh chóng trở

thành các hãng tƣ bản lớn. Các tập đoàn tài phiệt nhƣ Mitsui, Mitsubisi, Xumimoto đã chiếm địa vị thống trị và chi phối toàn bộ nền kinh tế Nhật Bản.

- Mặc dù Nhật Bản đã bƣớc sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, nhƣng những tàn dƣ

của chế độ phong kiến vẫn còn tồn tại rất dai dẳng. Những tàn dƣ này thể hiện rõ nét

trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, trong các mối quan hệ xã hội và gia đình. Lợi

dụng một số nhân tố tƣ bản độc quyền Nhật bản tăng cƣờng bóc lột sức lao động của

các tầng lớp nhân dân kể cả phụ nữ và trẻ em. Vì vậy, những ngƣời lao động Nhật

phải lao động hết sức vất vả với điều kiện sống thấp kém.

- Để mở rộng thị trƣờng thuộc địa, đế quốc Nhật đã tiến hànhchiến tranh xâm

lƣợc hết sức điên cuồng và thô bạo. Đó là các cuộc chiến tranh Trung – Nhật (1894- 1895), chiến tranh Nga – Nhật (1904-1905), chiến tranh xâm lƣợc Triều Tiên (1910).

3.2.3. Kinh tế Nhật Bản thời kỳ (1914 - 1945)

Washington gồm 9 nƣớc công nhận Trung Quốc "độc lập" và các nƣớc đƣợc tự do buôn bán với Trung Quốc. Do đó, Nhật mất vị trí độc quyền ở thị trƣờng Trung Quốc rộng lớn; các nƣớc tƣ bản châu Âu và Mỹ trở lại cạnh tranh gay gắt với Nhật ở khu vực

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản không còn có những nhân tố thuận lợi nhƣ trƣớc nữa: năm 1971, cách mạng tháng 10 Nga thành công; Nhật mất vị trí giàu có ở Đông Bắc Trung Quốc do Năm 1922 Hội nghị

châu Á – Thái Bình Dƣơng.

46

Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1920 – 1921 đã làm cho nhịp độ sản xuất công

nghiệp giảm sút, 12 vạn ngƣời thất nghiệp. Trong những năm 1924 – 1928 nhiều ngành công nghiệp Nhật đƣợc phục hồi và phát triển, đặc biệt là công nghiệp quân sự.

Cuộc khủng hoảng toàn diện 1929 – 1933 bắt đầu từ Mỹ đã nhân chóng lan sang

Nhật Bản. Năm 1931 so với 1929, giá trị sản lƣợng công nghiệp giảm 32,5%, ngoại

thƣơng giảm 50% tổng giá trị sản lƣợng nông nghiệp giảm từ 4,3 tỷ yên xuống còn 2,6 tỷ yên. Đầu năm 1930 có 10,5 triệu ngƣời bị thất nghiệp. Bọn quân phiệt Nhật đã giải

quyết khủng hoảng bằng con đƣờng phát xít hóa và quân sự hóa nền kinh tế, ráo riết

chuẩn bị chiến tranh xâm lƣợc. Tháng 9 năm 1931, Nhật bắt đầu đánh chiếm các thành

phố lớn ở Đông Bắc Trung Quốc, Nhật mở rộng chiến tranh xâm lƣợc Trung Quốc. Mùa thu năm 1940, Nhật chiếm Đông Dƣơng và tiếp đó đánh chiếm hàng loạt các

nƣớc Đông Nam Á và Thái Bình Dƣơng.

Tháng 12 năm 1941, Nhật Bản chính thức tham gia vào cuộc chiến tranh thế giới

lần thứ 2 bằng việc bất ngờ tấn công căn cứ hải quân Mỹ ở Trân Châu Cảng.

Từ cuối những năm 30, quá trình công nghiệp hóa đƣợc tiếp tục đẩy mạnh và

Nhật Bản trở thành một nƣớc công – nông nghiệp phát triển. Năm 1942, công nghiệp

nặng chiếm 72% tổng giá trị sản lƣợng công nghiệp.

Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã huy động triệt để mọi tiềm lực

kinh tế của đất nƣớc để thực hiện chiến tranh. Nhà nƣớc thiết lập chế độ kiểm soát trực tiếp đối với các công ty và toàn bộ nền kinh tế, ban hành luật tổng động viên. Cơ cấu

công nghiệp đã đƣợc chuyển thành một khu vực rộng lớn phục vụ mục đích quân sự. 3.3. Kinh tế Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay

3.3.1. Thời kỳ khôi phục kinh tế sau chiến tranh (1945 – 1954)

* Cải cách kinh tế trong giai đoạn 1945 - 1951

Sau chiến tranh nền kinh tế nƣớc Nhật bị tàn phá nặng nề:

- Cả nƣớc Nhật Bản có 34% công cụ, máy móc công nghiệp, 25% công trình xây

dựng, 82% tàu biển bị tàn phá.

- Sản xuất nông, lâm nghiệp bằng 59,3% so với 1937, công nghiệp chế tạo bằng

52,7%, dệt bằng 6,4%

- Tổng giá trị thiệt hại của nền kinh tế Nhật Bản lên tới 61,3 tỷ yên ngang với

tổng giá trị tài sản quốc gia năm 1935.

- Thất nghiệp (13,1 triệu), lạm phát rất cao, thiếu năng lƣợng và nguyên liệu.

- Nhật Bản bị quân đội đồng minh chiến đóng. Vì những khó khăn trên mà Nhật Bản đã có những cải cách kinh tế sau chiến

tranh:

- Giải thể các nhóm Zaibatsu nhằm tiêu diệt sức mạnh quân sự của Nhật Bản, xóa

bỏ quyền kiểm soát của một số công ty lớn đối với nền kinh tế Nhật Bản.

47

- Cải cách ruộng đất: Quy định mức hạn điền tối đa là 5 ha, sau giảm xuống còn 1

ha. Số còn lại nhà nƣớc sẽ mua lại và chuyển nhƣợng cho những nông dân không có ruộng đất.

- Giải quyết vấn đề việc làm, cải thiện điều kiện làm việc, tăng lƣơng cho công

nhân: có ba đạo luật đƣợc ban hành: Luật công đoàn; Luật tiêu chuẩn lao động; Luật

điều chỉnh các quan hệ lao động.

- Cải cách về tài chính - tiền tệ: thực hiện cân bằng ngân sách và quy định tỷ giá

cố định 1 đô la Mỹ = 360 yên (1949).

3.3.2. Thời kỳ phát triển nhanh (1955 – 1973)

- Thời kỳ năm 1955 - 1973 nền kinh tế Nhật Bản có nhiều phát triển vƣợt: tốc độ tăng trƣởng kinh tế (GDP) cao, bình quân 9,8%/năm; tốc độ tăng trƣởng công nghiệp

giai đoạn 1960 - 1969 là 13,5%.

- Một số ngành công nghiệp phát triển nhanh và nhanh chóng vƣơn lên đứng

hàng đầu thế giới: các sản phẩm điện, điện tử, bán dẫn, đóng tàu…, sản lƣợng ôtô, xi

măng, sản phẩm hóa chất… đứng thứ 2.

- Cơ cấu kinh tế biến đổi nhanh chóng:

Năm 1952: Nông nghiệp 22,6%; công nghiệp, xây dựng 31,3%; Năm 1968: Nông nghiệp 9,9%; công nghiệp, xây dựng 38,6%;

- Ngoại thƣơng phát triển nhanh, năm 1950 là 1,7 tỷ USD, năm 1971 là 43,6 tỷ

USD. Nhật Bản xuất siêu từ 1965.

Biểu đồ 3.1. So sánh về mức tăng tổng sản phẩm quốc dân thực tế giữa các

nƣớc tƣ bản phát triển

(Đơn vị %)

* Nguyên nhân tăng trưởng nhanh của kinh tế Nhật Bản giai đoạn 1952 – 1973:

- Phát huy vai trò nhân tố con người:

Nhật Bản có lực lƣợng lao động đông đảo, có trình độ văn hóa khá cao, có kỹ

năng nghề nghiệp, có tinh thần trách nhiệm với công việc và đƣợc giáo dục văn hóa,

48

truyền thống. Công thức thành công của Nhật Bản trong giai đoạn này chính là :

“Công nghệ phƣơng Tây + Tính cách Nhật Bản”.

- Duy trì mức tích lũy cao thường xuyên, sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả cao:

Từ một nƣớc trong tình trạng thiếu vốn, Nhật Bản đã đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho

đầu tƣ phát triển và không phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn bên ngoài, đồng việc sử

dụng vốn táo bạo và hiệu quả sử dụng vốn cao.

Tích lũy vốn giai đoạn 1952 – 1973 của Nhật Bản chiếm 30 đến 35% thu nhập

quốc dân. Những biện pháp duy trì mức tích lũy của Nhật Bản là:

+ Tận dụng triệt để nguồn lao động trong nƣớc, áp dụng chế độ tiền lƣơng thấp.

+ Huy động tiết kiệm cá nhân: Từ 1961-1967, tỷ lệ gửi tiết kiệm trong thu nhập

quốc dân là 18,6% (Mỹ 6,2% và Anh 7,7%).

+ Giảm chi phí quân sự (dƣới 1% GNP); chi hành chính; hạn chế các khoản chi

tiêu cho phúc lợi xã hội, y tế...

+ Huy động vốn nƣớc ngoài: ODA, vay thƣơng mại, đầu tƣ nƣớc ngoài.

Sử dụng vốn: Nhật Bản trong đƣợc coi là nƣớc sử dụng vốn táo bạo, có hiệu quả

cao do đầu tƣ có lựa chọn, tập trung vào những ngành mũi nhọn (đóng tàu, chế tạo

máy, hóa chất, điện tử và vi điện tử... ), đồng thời nƣớc Nhật cũng tăng cƣờng đầu tƣ

ra nƣớc ngoài nhằm khai thác tài nguyên và mở rộng thị trƣờng.

- Đầu tư phát triển khoa học – kỹ thuật: + Tăng kinh phí cho nghiên cứu và phát triển (R&D), 1955 chiếm 0,84% thu

nhập quốc dân, năm 1970 là 1,96%.

+ Phát triển các cơ sở nghiên cứu khoa học - kỹ thuật: số phòng thí nghiệm năm

1955 là 1.445; năm 1970 là 12.594.

+ Chú trọng đào tạo nhân lực khoa học - kỹ thuật: năm 1970 có tới 419.000 nhà

khoa học và chuyên gia kỹ thuật.

+ Chú trọng nghiên cứu ứng dụng: Nhập khẩu phát minh, sáng chế, nhập khẩu

công nghệ hiện đại để tiếp cận những thành tựu mới nhất.

- Tiếp cận và ứng dụng nhanh chóng những tiến bộ khoa học - kỹ thuật: Nền khoa học - kỹ thuật của Nhật Bản có bƣớc phát triển nhảy vọt, đuổi kịp các nƣớc tƣ bản phát triển khác. Đầu những năm 1970, Nhật Bản đã đạt trình độ cao về tự động hóa, về sử dụng máy tính trong một số ngành sản xuất... - Chú trọng vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước: Ngay sau khi chiến tranh thế giới kết thúc, chính phủ Nhật Bản đã thực hiện hàng

loạt các biện pháp:

+ Thúc đẩy nền kinh tế tự do theo cơ chế thị trƣờng kết hợp với sự điều tiết của

Nhà nƣớc thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô.

49

+ Bộ Công nghiệp và Thƣơng mại quốc tế thực hiện vai trò xác định chiến lƣợc

phát triển cho nền kinh tế quốc dân.

+ Đề ra các kế hoạch phát triển (kế hoạch 5 năm).

+ Tạo môi trƣờng kinh tế thuận lợi thông qua hoàn thiện hệ thống pháp luật.

+ Điều tiết thông qua các chính sách tài chính - tiền tệ thông qua ngân hàng trung

ƣơng Nhật Bản – BOJ (Bank of Japan).

+ Đầu tƣ xây dựng hạ tầng cơ sở, các ngành công nghiệp mới và cho R&D

(Research & Development).

- Mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài:

+ Với thị trƣờng trong nƣớc: Mở rộng thị trƣờng nông thôn (thông qua các chƣơng trình cải cách ruộng đất, phát triển mô hình nông trại nhỏ…). Thị trƣờng nội

địa mở rộng còn do sự gia tăng dân số, việc làm, thu nhập thực tế của ngƣời lao

động.... Các doanh nghiệp đƣa ra thị trƣờng sản phẩm đảm bảo chất lƣợng nhƣ hàng

xuất khẩu. Nhà nƣớc thực hiện bảo hộ các ngành sản xuất trong nƣớc đồng thời tiến

hành tự do hóa thƣơng mại và hội nhập một cách thận trọng.

+ Với thị trƣờng nƣớc ngoài: tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa bằng giảm

chi phí và nâng cao chất lƣợng sản phẩm. Chính phủ Nhật thực hiện chính sách đối

ngoại linh hoạt, lôi kéo về chính trị kết hợp với viện trợ, tăng cƣờng quan hệ thƣơng

mại, đầu tƣ với các nƣớc đang phát triển. Đồng thời, Nhật Bản cũng khai thác những lợi thế trong quan hệ với Mỹ và các tổ chức kinh tế quốc tế nhƣ IBRD, GATT,

OECD…

- Kết hợp khéo léo cấu trúc kinh tế hai tầng:

Nhật Bản có mô hình kết cấu 2 tầng:

+ Khu vực 1: Các doanh nghiệp lớn, trình độ kỹ thuật – công nghệ hiện đại, năng

lực cạnh tranh lớn.

+ Khu vực 2: Các doanh nghiệp nhỏ, kỹ thuật - công nghệ thấp kém, chủ yếu

thực hiện gia công các bộ phận hoặc nhận thầu khoán cho các doanh nghiệp lớn, sử

dụng lao động thời vụ, điều kiện làm việc thấp kém.

Tác dụng: + Tận dụng triệt để nguồn lao động (giá rẻ) trong nƣớc. + Tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ. + Tạo điều kiện nâng cấp công nghệ cho cả hai khu vực. + Có tác dụng chống đỡ khủng hoảng.

- Đẩy mạnh hợp tác với Mỹ và các nước khác: Nhật Bản đã thu đƣợc 10,2 tỷ đô la tiền bán hàng cho Mỹ trong giai đoạn 1950 – 1969, trong cơ cấu xuất khẩu ngoại

thƣơng của Nhật Bản giai đoạn này có tới 34% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu sang

Mỹ, 30% giá trị hàng hóa nhập khẩu của Nhật Bản là từ Mỹ.

50

Tuy nhiên, kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn này cũng còn một số hạn chế:

+ Mất cân đối nghiêm trọng giữa các vùng kinh tế, giữa nhu cầu phát triển sản xuất với cơ sở hạ tầng lạc hậu. 3 trung tâm công nghiệp là Tokyo - Osaka - Nagoya chỉ

chiếm 1,25% diện tích cả nƣớc nhƣng tập trung hơn 50% sản lƣợng công nghiệp;

+ Phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu và thị trƣờng nƣớc ngoài;

+ Những mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt và môi trƣờng bị ô nhiễm nặng nề.

3.3.3. Thời kỳ kinh tế trƣởng thành (1974 đến nay)

* Giai đoạn 1974-1991:

Cuộc khủng hoảng kinh tế 1973-1975 chấm dứt thời kỳ phát triển nhanh và tƣơng

đối ổn định của nền kinh tế Nhật Bản. Đây là cuộc khủng hoảng có sức phá hoại lớn đối với nền kinh tế Nhật Bản kể từ sau cuộc khủng hoảng 1929-1933. Nhiều ngành sản

xuất bị đình đốn nghiêm trọng nhƣ chế tạo máy, đóng tàu, sản xuất thép, dệt. Sản xuất

công nghiệp năm 1974 so với năm 1973 giảm 3,1%; năm 1975 so với năm 1974 giảm

10,6%. Tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc dân trung bình giai đoạn 1974 -1982 chỉ còn

4,3%. Đồng thời, nền kinh tế Nhật Bản cũng có những biểu hiện mới nhƣ các nƣớc tƣ

bản phát triển khác nhƣ khủng hoảng chu kỳ đi liền với khủng hoảng cơ cấu, khủng

hoảng năng lƣợng, nguyên kiệu, lạm phát, thất nghiệp gia tăng…

Những nguyên nhân cơ bản đẩy nền kinh tế Nhật Bản vào thời kỳ khủng hoảng

và tăng trƣởng chậm:

- Do cuộc khủng hoảng thế giới năm 1971, khi hệ thống tiền tệ Bretton Woods

sụp đổ, đồng yên của Nhật Bản đã tăng giá 16,77% (từ 360 yên/ USD lên 308

yên/USD). Sự lên giá của đồng yên đã tác động mạnh đến hoạt động xuất khẩu của

Nhật Bản. Đồng thời, do xuất khẩu của Nhật Bản thƣờng tập trung chủ yếu vào một số thị trƣờng nhƣ Bắc Mỹ, Tây Âu và Đông Nam Á nên khi nền kinh tế các nƣớc này rơi

vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng, nhu cầu nhập khẩu giảm sút đã ảnh hƣởng đến hoạt

động xuất khẩu của Nhật Bản. Kim nghạch xuất khẩu của Nhật Bản giảm nhanh,sự sụt

giảm của xuất khẩu đã gây những tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất trong nƣớc và hệ quả là tốc độ tăng trƣởng kinh tế giảm sút.

- Cuộc khủng hoảng năng lƣợng, nguyên liệu đã tác động mạnh đến nền kinh tế Nhật Bản và làm thay đổi cơ cấu kinh tế của nƣớc này. Trong cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ nhất Nhật Bản bị mất thêm 14,4 tỷ USD (năm 1974). Đến cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ hai năm 1979 - 1980, kim ngạch nhập khẩu dầu của Nhật Bản

đã tăng vọt lên gấp hai lần, từ 32 tỷ USD năm 1979 lên 66 tỷ USD năm 1980. Thực tế, sự gia tăng mạnh của giá dầu đã làm cho những ngành kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn dầu mỏ nhập khẩu rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Khủng hoảng dầu mỏ cũng tác động tiêu cực đến hoạt động đầu tƣ của nhiều doanh nghiệp Nhật Bản.

51

- Những biện pháp can thiệp vào nền kinh tế thông qua chính sách tài chính và

tiền tệ không còn hiệu lực, thậm chí để lại hiệu quả đó là bội chi ngân sách ngày càng lớn. Cuối những năm 1970, nợ đọng của Nhật Bản là 38,8% so với tổng sản phẩm

quốc dân. Bội chi ngân sách lớn, nợ nhà nƣớc tăng cộng với lạm phát, nợ tƣ nhân tăng,

cung tiền tăng đã dẫn đếngiá cả tăng mạnh.

Trƣớc tình hình trên, Nhật Bản đã tiến hành điều chỉnh kinh tế nhằm thích ứng với điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi, phục hồi và duy trì tăng trƣởng kinh tế ổn định.

Điều chỉnh kinh tế của Nhật Bản tập trung vào một số nội dung sau:

- Tăng cƣờng nghiên cứu và ứng dụng khoa học- kỹ thuật,công nghệ: Trong giai

đoạn tăng trƣởng nhanh lúc đó, Nhật Bản dựa nhiều vào việc nhập khẩu kỹ thuật - công nghệ từ nƣớc ngoài. Tuy nhiên, từ cuối những năm 1970, Nhật Bản đã thực hiện

một chiến lƣợc phát triển khoa học –kỹ thuật trên cơ sở những ƣu tiên sau đây:

+ Chuyển từ vay mƣợn thành tựu khoa học-kỹ thuật của nƣớc ngoài sang tự phát

triển những kỹ thuật và công nghệ tiên tiến; chú trọng hoạt động nghiên cứu cơ bản.

+ Tập trung nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa hoc – kỹ thuật vào sản

xuất các mặt hang có hàm lƣợng công nghệ cao, có sức cạnh tranh trên thị trƣờng thế

giới: ứng dụng rộng rãi máy vi tính trong các ngành sản xuất, trong điều hành các hoạt

động của nền kinh tế, đẩy mạnh tự động hoá sản xuất, tăng cƣờng áp dụng công nghệ

vật liệu mới, công nghệ sinh học…

+ Tích cực nghiên cứu và áp dụng nhiều thiết bị và quy trình công nghệ tiết kiệm

năng lƣợng, nguyên liệu trong tất cả các ngành nghề. Đa dạng hoá các nguồn năng

lƣợng: năng lƣợng hạt nhân, năng lƣợng mặt trời, thuỷ triều, nhiên iệu hoá thạch…

- Điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế: do tác động của cuộc cách mạng khoa học - kỹ

thuật và nhu cầu thực tế của nền kinh tế, vào đầu những năm 1980, ở Nhật Bản có xu

hƣớng điều chỉnh ngành theo hƣớng:

+ Giảm tỷ trọng các ngành công nghiệp truyền thống, tăng tỷ trọng các nghành

công nghiệp chế biến và dịch vụ. Đặc biệt tăng nhanh các ngành công nghiệp mới, các

ngành có hàm lƣợng cao nhƣ sản xuất máy tính điện tử, ngƣời máy công nghiệp, mạch tổ hợp, dịch vụ thu nhập, xử lý chuyển giao thông tin...

+ Phát triển lĩnh vực dịch vụ: Đây là đặc diểm quan trọng của quá trình cải tổ kinh tế của Nhật Bản trong những năm 1970-1980. Các nghành dịch vụ mới nhƣ dịch vụ thiết kế, tƣ vấn kỹ thuật,tín dụng trả tiền, thuê thiết bị, cung cấp lao động, các loại dịch vụ tiêu dùng…đã tăng mạnh làm thay đổi quá trình sản xuất, thay đổi động thái

tổng cầu trong nền kinh tế Nhật Bản và trực tiếp làm gia tăng GDP. Trong thời gian từ năm 1970 đến năm 1985, dịch vụ tăng trƣởng với tốc độ bình quân 10,9%, nhờ đó tỷ

của khu vƣc dịch vụ đã tăng lên chiếm 63,5%GDP.

52

Sự điều chỉnh cơ cấu ngành nhƣ trên ở Nhật Bản đã góp phần nâng cao hiệu quả

sản xuất xã hội, đẩy nhanh những tiến độ khoa học kỹ thuật, tạo thuận lợi cho bƣớc nhảy vọt về chất trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân.

- Điều chỉnh sự can thiệp của nhà nƣớc: Thực chất là xác định lại vai trò kinh tế

giữa nhà nƣớc và khu vực tƣ nhân. Nhật Bản tiến hành tƣ hữu hoá và giảm quy mô

hoạt động của các doanh nghiệp nhà nƣớc, mở rộng phạm vi hoạt động của kinh tế tƣ nhân. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là phủ nhận vai trò điều chỉnh kinh tế của

nhà nƣớc, mà chỉ nhằm giới hạn sự can thiệp của nhà nƣớc vào một số hƣớng chiến

lƣợc chủ yếu, nâng cao hiệu quả của nó và giảm bớt những chức năng không còn cần

thiết nữa.

- Điều chỉnh chiến lƣợc kinh tế đối ngoại:

+ Về xuất khẩu hàng hoá: thực tế cho thấy, xuất khẩu luôn đóng vai trò quan

trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản. Để đẩy mạnh xuất khẩu, Nhật

Bản thực hiện chiến lƣợc mở rộng địa bàn xuất khẩu, đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu,

giảm bớt tình trạng quá tập trung vào một mặt hàng nhất định, tăng cƣờng xuất khẩu

các mặt hang có kỹ thuật cao, có giá trị gia tăng lớn.

+ Về đầu tƣ ra nƣớc ngoài: từ cuối những năm 1970, do xuất khẩu của Nhật Bản

vấp phải xu hƣớng bảo hộ ngày càng tăng trên thị trƣờng thế giới, hoạt động đầu tƣ ra

nƣớc ngoài đã thực sự đƣợc Nhật Bản sử dụng nhƣ một công cụ chủ yếu để mở rộng thị trƣờng nƣớc ngoài. Thực tế, từ đầu những năm 1980, đầu tƣ ra nƣớc ngoài của

Nhật Bản tăng lên nhanh chóng, từ 7.7 tỷ USD Năm 1982, tới 47 tỷ USD năm 1988,

67.54 tỷ USD năm 1989. Đầu tƣ của Nhật Bản vào các nƣớc công nghiệp phát triển

chủ yếu là các hoạt động dịch vụ, thƣơng mại, ngân hàng và các nghành chế tạo nhằm

mục đích là chọc thủng hàng rào bảo hộ của các nƣớc này đối với hàng hoá Nhật Bản.

Với các nƣớc đang phát triển, thị trƣờng đầu tƣ chủ yếu của Nhật Bản là các nƣớc

thuộc khu vực Đông và Đông nam á (chiếm trên 50% tổng đầu tƣ của Nhật Bản vào

các nƣớc đang phát triển) và tập trung vào các ngành khai thác và chế tạo nhằm tận

dụng lợi thế so sánh để khai thác thị trƣờng và chuyển giao công nghệ- kỹ thuật thấp sang các nƣớc khác.

Với những điều chỉnh phù hợp nền kinh tế đã thoát ra khỏi tình trạng trì trệ và trong những năm 1980 tốc độ tăng trƣởng kinh tế của Nhật Bản ở mức tƣơng đối cao, lạm phát đƣợc duy trì ở mức thấp.

53

Bảng 3.1. Tốc độ tăng GDP và lạm phát của Nhật Bản

(đơn vị%)

1974- 1983 1984 1985 1986 1987 1988 1989 1990 1982

4,3 2,8 4,3 5,2 2,6 4,3 6,2 4,7 5,6 Tốc độ tăng GDP

Lạm phát 7,1 1,4 2,3 1,6 1,8 - 0,4 1,9 1,9

Về thƣơng mại quốc tế, Nhật Bản đã chiếm lĩnh đƣợc thị trƣờng về nhiều loại sản

phẩm công nghiệp ở nhiều khu vực trên thế giới, ngay cả trên chính thị trƣờng của Mỹ

và các nƣớc Tây Âu. Trong thập kỷ 1980, xuất khẩu của Nhật Bản đã tăng lên rất

mạnh, mức thặng dƣ cán cân thƣơng mại ngày càng tăng. Đặc biệt trong quan hệ

thƣơng mại với Mỹ và Tây Âu, Nhật Bản thƣờng xuyên ở thế xuất siêu. Sự thay đổi cơ cấu sản xuất đã đem lại sự thay đổi về cơ cấu thƣơng mại theo hƣớng đáp ứng nhanh

chóng những đòi hỏi và biến động của thị trƣờng quốc tế.

Trong suốt những năm 1980, vị trí của Nhật Bản trong nền kinh tế, trong khoa

học kỹ thuật và tài chính thế giới tăng lên mạnh mẽ. Năm 1980, Nhật Bản mới chỉ

chiếm 8,6% tổng sản phẩm quốc dân của thế giới thì đến 1989 là 15% ; tổng sản phẩm

quốc dân bình quân đầu ngƣời năm 1990 của Nhật Bản là 25.430 USD, trong khi đó

Mỹ là 21.970 USD. Sự lớn mạnh của nền kinh tế đã giúp Nhât Bản trở thành một trong

các cƣờng quốc hành chính lớn nhất thế giới. Tokyo đã trở thành trung tâm tài chính

quốc tế, các ngân hàng của Nhật Bản nằm trong số các ngân hàng lớn nhất thế giới.

Năm 1988, các tổ chức Nhật Bản chiến 36% tài sản ở nƣớc ngoài trên thế giới.

Nhật Bản cũng thành công trong việc dịch chuyển cơ cấu công nghiệp lên trình

độ cao hơn đồng thời hình thành sự phân công mới với các nền kinh tế đang trỗi dậy ở

Đông Á và Đông Nam Á.

Nhìn chung, trong giai đoạn này, Nhật Bản vẫn đạt đƣợc tốc độ tăng trƣởng kinh

kế khá cao so với nhiều nƣớc tƣ bản phát triển nhờ thành công trong việc nhanh chóng khác phục hậu quả của hai cuộc khủng hoảng năng lƣợng ( năm 1973 và năm 1979) và sự kiện đồng Yên lên giá đột ngột (giai đoạn 1985 – 1987). Điều đáng chú ý là sự tăng trƣởng kinh tế của Nhật Bản trong thời gian này đã đóng góp quan trọng cho sự tăng chỉ tiêu của ngƣời Nhật. Theo số liệu thống kê của Liên hợp quốc thì chỉ tiêu của hộ gia đình của Nhật Bản tăng trung bình 5,2% trong giai đoạn 1970 - 1979 và tăng trung bình 3,2% trong giai đoạn 1980 – 1989.

Trong thập niên 1980, Nhật Bản đã vƣơn lên thành cƣờng quốc kinh tế có ảnh

hƣởng nhiều mặt trên thế giới và khu vực.

* Giai đoạn từ 1992 đến nay:

54

Năm 1992, kinh tế Nhật Bản lại lâm vào thời kỳ suy thoái. Tốc độ tăng trƣởng

kinh tế giảm sút, thậm chí một số năm có tốc độ tăng trƣởng âm, đồng thời quá trình phục hồi kinh tế diễn ra rất chậm chạp.

Bảng 3.2. Tốc độ tăng trƣởng GDP(1992-2002)

(Đơn vị: %)

1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002

1,1 0,1 0,5 0,9 2,7 1,1 -2,5 0,6 1,4 -0,9 0,5 Tốc độ tăng

Thực tế, vào đầu những năm 1990, nền kinh tế bong bóng của nƣớc Nhật Bản đã đổ vỡ .Gía cổ phiếu và giá đất hạ 50% đã tạo nên một cú sốc trong ngành kinh doanh

bất động sản và kéo theo sự khủng hoảng của hệ thống ngân hàng. Gánh chịu thiệt hại

đầu tiên và cũng là nghiêm trọng nhất là hệ thống các ngân hàng và các công ty tài

chính. Một số ngân hàng lớn gần nhƣ mất khả năng thanh toán. Từ đó đến cuối năm

1995, đã có hàng loạt công ty bị phá sản. Tổng số nợ của các ngân hàng lên tới 40.000

ty yên (khoảng 400 tỷ USD). Nhiều ngân hàng và công ty tài chính lâm vào cảnh hết

sức khó khăn, thậm chí bị đổ vỡ theo, trong đó có cả 11 ngân hàng mạnh nhất của

Nhật Bản nhƣng cũng là của thế giới đã phải giảm tới 10% khả năng hoạt động trong 2

năm 1994-1995.Theo cục kế hoạch kinh tế Nhật Bản (EPA) ƣớc tính đến thời điểm

năm 1998, tổng giá trị các khoản nợ khó đòi trong nƣớc của các ngân hàng đã lên tới

800 tỷ USD, chiếm 20% tổng lƣợng tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng Nhật Bản.

Ngoài ra, khoảng 300 tỷ USD tiền các nƣớc châu á vay cũng có nguy cơ khó đòi do

các nƣớc này cũng rơi vào tình trạng khủng hoảng.

Thực tế đó cho thấy, mô hình kinh tế của Nhật Bản đã thể hiện rõ những hạn chế,

bất cập trƣớc những yêu cầu, thách thức mới của thời đại mà nguyên nhân của tình

trạng này là do:

- Tốc độ tăng trƣởng kinh tế khá nhanh của Nhật Bản trong những năm cuối thập

niên 1980, tù 26% năm 1986 tăng lên 4,3% năm 1987; 6,2% năm 1988; 4,7% năm 1989 và 5,6% năm 1990 không phải xuất phát từ việc tập chung phát triển của các hoạt động sản xuất vật chất nhƣ thời kỳ trƣớc đó. Do kinh tế phát triển cao trong hai thập kỷ 1970 – 1980, giá tài sản Nhật Bản đã tăng lên nhanh.Thêm nữa, với sự dƣ thừa cán cân thƣơng mại, ngƣời Nhật đã ồ ạt mua tài sản nƣớc ngoài. Năm 1985, với thoả thuận

Plaza (Plaza Accord) Nhật Bản đã chấp nhận tăng giá đồng yên (1USD bằng 240 yên)

vì không muốn các nƣớc tƣ bản phát triển, đặc biệt là Mỹ đƣa ra biện pháp bảo vệ thị

trƣờng, ngăn chặn hàng hoá xuất khẩu của Nhật Bản. Cũng vì chính sách ép buộc của

Mỹ và các nƣớc phát triển đòi hỏi Nhật Bản mở cửa cho tƣ bản tài chính và hàng hoá

vì sự tăng giá trị đồng yên nên từ năm 1985, Nhật Bản cũng tăng cƣờng đầu tƣ ra nƣớc

55

ngoài. Hàng năm Nhật Bản xuất khẩu tƣ bản (qua cho vay, đầu tƣ trực tiếp và mua tài

sản ở nƣớc ngoài) lên đến 2 - 3% GDP. Điều đó đã ảnh hƣởng đến hoạt động đầu tƣ phát triển sản xuất trong nƣớc. Để đối phó với tình trạng này, đặc biệt là sự lên giá

mạnh của đồng yên, chính phủ Nhật Bản đã duy trì kéo dài chính sách lãi xuất cho vay

thấp. Do vậy, các hoạt động đầu tƣ buôn bán bất động sản, cổ phiếu, trái phiếu,… tăng

giá mạnh.

- Thể chế tài chính ở Nhật Bản cũng bộc lộ rõ những hạn chế. Thời gian trƣớc

những năm 1990 khu vực doanh nghiệp đóng vai trò là khu vực mƣợn vốn từ các khu

vực khác để phát triển nhƣng từ năm 1990 trở đi, khu vực này giảm dần việc mƣợn

vốn và trở thành khu vực cung ứng vốn cho thị trƣờng thế giới. Từ năm 1990 đến năm 2001, nhu cầu vốn của doanh nghiệp sụp giảm chỉ bằng 14% GDP. Chính vì vậy, Nhật

Bản đã tăng chi ngân sách nhà nƣớc để kích thích kinh tế. Hậu quả là bội chi ngân

sách nhà nƣớc quá lớn. Năm 1996, bội chi tài chính của chính phủ Nhật Bản trên danh

nghĩa chiếm 7,4% tổng thu nhập quốc dân.

- Việc nhà nƣớc bảo hộ các ngành sản xuất vật chất phục vụ cho nhu cầu tiêu

dùng nội địa ở Nhật Bản đã tỏ rakhoong phù hợp khi qua trình toàn càu hoá, khu vực

hoá kinh tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Điều đó đã làm cho năng lực cạnh tranh của

nền kinh tế Nhật Bản đã bị suy yếu so với một số nƣớc phát triển khác.

- Cơ cấu kinh tế của Nhật Bản đƣợc thiết lập trong thời kỳ sau chiến tranh đã trở nên kém hiệu quả. Trong nội dung của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ mới,

việc coi nhẹ nghiên cứu cơ bản thiên về nghiên cứu ứng dụng đã dẫn đến hiệu quả là

Nhật Bản mất dần ƣu thế trong lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ mũi nhọn. Cơ chế quản lý

trong nội bộ các doanh nghiệp Nhật Bản có phần sơ cứng, kém hiệu quả, kém sức sáng

tạo, khó đáp ứng kịp thời với nhu cầu quản lý kinh tế kinh doanh hiện đại. Đặc biệt, sự

phát triển mạnh mẽ của một số nền kinh kế mới nổi ở khu vƣc Đông Á và Đông Nam

Á với việc gia tăng sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm hàng hoá công nghệ cao đã

tác động đến các thị trƣờng xuất khẩu chủ yếu của Nhật Bản.

Trƣớc tình hình trên, năm 1997 chính phủ Nhật Bản theo đuổi chính sách cải tổ hệ thống tài chính, giảm thiểu các quy định đã lỗi thời để tăng cung nhƣng ko đƣa lại kết quả. Thực tế phải các ngân hàng dƣ thừa vốn nhƣng không tìm ra ngƣời vay. Chính sách cân bằng ngân sách từ cuối năm 1997 đến cuối năm 1998 của chính phủ Nhật Bản đã làm cho tình hình kinh tế trở lên xấu hơn, GDP năm 1997 và 1998 tăng trƣởng âm. Hệ quả tiếp theo là ngân sách thâm hụt thêm do nguồn thu từ thuế giảm sút. Do

ảnh hƣởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu thì từ năm 2008 tốc độ tăng trƣởng kinh tế của Nhật Bản bắt đầu suy giảm. Đây cũng là năm lần đầu tiên

Nhật Bản rơi vào tình trạng thâm hụt cán cân thƣơng mại trong khoảng 30 năm. Sản

xuất công nghiêp cũng trở về mức của những năm đầu thập niên 1980.

56

Bảng 3.4. Tốc độ tăng trƣởng GDP 1993-2010

(đơn vị: %)

Thời gian 1993 - 2002 2005 2006 2007 2008 2009 2010

Tốc độ tăng trƣởng 0,8 1,9 2,0 2,4 -1,2 -6,3 3,9 GDP

Thực tế, cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ lan rộng ra cả thế giới kéo theo suy

thoái kinh tế toàn cầu đã có tác động nhiều mặt đến sự phát triển kinh tế Nhật Bản:

- Thứ nhất, nó tác động trực tiếp đến các nhà đầu tƣ Nhật Bản nắm dữ cổ phiếu và trái phiếu của các tổ chức tài chính Mỹ. Giá trị tài sản của các tổ chức tài chính

Nhật Bản nắm giữ cổ phiếu và trái phiếu của các tổ chức tài chính Mỹ sụt giảm mạnh.

- Thứ hai, sự khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp lan rộng thành khủng hoảng tài

chính ở Mỹ cũng tạo ra một hiệu ứng tâm lý tiêu cực đối với thị trƣờng bất động sản

của Nhật Bản.

- Thứ ba, nó ảnh hƣởng đến xuất khẩu của Nhật bản mà nguyên nhân sâu xa là do

thị trƣờng Mỹ cùng lên giá.

Trong một số năm gần đây, nhờ những biện pháp tich cực, nền kinh tế Nhật Bản

đã có sự phục hồi mạnh mẽ. Năm 2010, tốc độ tăng trƣởng GDP thực tế của Nhật theo

tỷ giá thị trƣờng là 3,9% là cao nhất trong các nƣớc G7 ở cùng thời kỳ. Năm 2010,

ngành công nghiệp chiếm 23% GDP của Nhật Bản trong khi ngành dịch vụ chiếm tới 75,9% và nông nghiêp chỉ còn chiếm 1,1% GDP.

Mặc dù tình trạng trì trệ, suy thoái của nền kinh tế Nhật Bản kéo dài gần hai thập

kỷ qua nhƣng Nhật Bản vẫn nằm trong số những nƣớc tiên tiến và sáng tạo nhất thế

giới. Nhiều sản phẩm công nghiệp ché tạo của Nhật Bản, đặc biệt trong lĩnh vực chế

tạo điện tử và ô tô, vẫn đang đứng hàng đầu trên thế giới cả trong sản xuất và tiến bộ

công nghệ. Các hang sản xuất ô tô của Nhật Bản luôn nắm giữ công nghệ tiên tiến và

có giá trị nhất trên thế giới.

Nhật Bản là một trong những quốc gia đầu tiên ở châu Á đã tiến hành công nghiệp hoá thành công và trở thành một cƣờng quốc kinh tế. Từ cuộc cải cách Minh Trị từ năm 1968 đến nay đánh dấu sự thăng trầm của nền kinh tế Nhật Bản. Trong giai đoạn 1952 -1973, kinh tế thế giới đánh dấu sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản và Nhật Bản đã trở thành một trong 3 trung tâm kinh tế của thế giới tƣ bản. thời gian sau đó

đến thập kỷ 1990, Nhật Bản vẫn duy trì tốc độ tăng trƣởng kinh tế cao hơn so với Mỹ và Tây Âu. Tuy nhiên, từ năm 1991 đến nay, nền kinh tế Nhật Bản rơi vào tình trạng

suy thoai kéo dài, sự phục hồi kinh tế găp nhiều khó khăn. Đặc biệt là những khó khăn

do những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn

cầu thời gian gần đây.

57

Hiện tại, vị trí tƣơng quan của kinh tế Nhật trong nền kinh tế thế giới đã có sự

thay đổi. Về quy mô GDP, Nhật Bản đã tụt xuống đứng thứ 3 thế giới sau Mỹ và Trung Quốc. Năm 2010, GDP của Nhật Bản tính theo tỷ giá thị trƣờng là 5.458 tỷ

USD và GDP tính theo ngang giá sức mua là 4.309 tỷ USD. Tuy nhiên với quy mô nền

kinh tế lớn và có tiềm lực mạnh về khoa học công nghệ, Nhật Bản sẽ còn tiếp tục đóng

vai trò quan trọng đối với sự phát trển của khu vƣc Đông Á và Đông Nam Á dù trong thời điểm hiện tại nền kinh tế Nhật Bản đang còn đứng trƣớc tình trạng giảm phát kéo

dài, tình trạng già hoá và sụt giảm dân số và là nƣớc có nợ công lớn nhất thế giới ở

mức trên 200% GDP.

58

Câu hỏi ôn tập

1. Trình bày nội dung cải cách Minh Trị của Nhật Bản trong thế kỷ 19.

2. Trình bày vai trò của cải cách Minh Trị của Nhật Bản trong thế kỷ 19 đối với kinh tế

Nhật Bản.

3. Trình bày nguyên nhân Nhật Bản phát triển “thần kỳ” trong giai đoạn 1952 - 1973. Bài học kinh nghiệm từ việc nghiên cứu vấn đề này là gì?

4. Phân tích quá trình tích lũy và sử dụng vốn của Nhật Bản trong giai đoạn 1952 –

1973.

Bài học kinh nghiệm từ việc nghiên cứu vấn đề này là gì?

5. Phân tích việc tích lũy, sử dụng và đầu tƣ vốn của Nhật Bản trong giai đoạn 1952 -

1973. Bài học kinh nghiệm từ việc nghiên cứu vấn đề này là gì?

6. Phân tích vai trò nhà nƣớc ở Nhật Bản trong gai đoạn phát triển kinh tế “thần kỳ” 1952 – 1873. Bài học kinh nghiệm từ việc nghiên cứu vân đề này với thực tiễn ở Việt

Nam hiện nay là gì?

7. Trình bày những khó khăn của kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn 1974 – 1991.

8. Trình bày nội dung những cải cách kinh tế chủ yéu của Nhật Bản trong giai đoạn

1974 – 1991. Ý nghĩa của những cải cách kinh tế này là gì?

9. Khủng hoảng kinh tế năm 2008 có ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến Nhật Bản?

10. So sánh các biện pháp khắc phục khủng hoảng kinh tế của Nhật Bản so với Mỹ sau

cuộc khủng hoảng năm 2008.

59

CHƢƠNG 4. KINH TẾ CÁC NƢỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

4.1.Quá trình hình thành hệ thống kinh tế Xã hội chủ nghĩa

4.1.1. Sự xuất hiện Chủ nghĩa xã hội

Đầu thế kỷ XIX chủ nghĩa xã hội mới chỉ là các thuyết không tƣởng của Saint

Simont, R.Owen và Furier. Năm 1848 với “ tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, K.Mark và F. Engels đã đặt nền tảng lý luận cho chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Năm 1871 sự kiện công xã Pari nổ ra ở Pháp là sự thể nghiệm đầu tiên về mô

hình xã hội tƣơng lai đó, nhƣng công xã Pari chỉ tồn tại trong thời gian gần ba tháng và

để lại cho phong trào cách mạng vô sản thế giới những bài học kinh nghiệm sâu sắc.

Đến năm 1917, cách mạng tháng Mƣời Nga thành công. Nhà nƣớc xã hội chủ

nghĩa đầu tiên trên thế giới đƣợc thành lập. Chủ nghĩa xã hội đã thành hiện thực trên

1/5 quả địa cầu. Ngọn cờ của Cách mạng tháng Mƣời Nga đã thức tỉnh hàng triệu ngƣời vùng lên đấu tranh chống áp bức, đã đƣa chủ nghĩa tƣ bản vào giai đoạn tổng

khủng hoảng và mở ra thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tƣ bản lên chủ nghĩa xã hội. Trong

những năm từ 1917-1920 làn sóng cách mạng đã lan sang một số nƣớc Phần Lan, Đức,

Aó, Hunggari, Triều Tiên. Tuy cách mạng không thành công, nhƣng giai cấp thống trị

ở các nƣớc đó đã buộc phải thực hiện những cải cách xã hội nhất định, mở rộng quyền

bầu cử, cải cách ruộng đất, thi hành ngày làm việc 8 giờ, bảo hiểm xã hội …

Sau đó, năm 1921 cách mạng Mông Cổ thành công, dẫn đến việc thành lập nƣớc

cộng hòa nhân dân Mông Cổ vào năm 1924.

Năm 1945, việc Liên Xô chiến thắng phát xít Đức và phát xít Nhật đã tạo điều

kiện cho hàng loạt các nƣớc xã hội chủ nghĩa ở châu Âu và châu Á ra đời. Chủ nghĩa

xã hội từ phạm vi một nƣớc đã trở thành một hệ thống thế giới. Trong lịch sử loài

ngƣời chƣa bao giờ bản đồ chính trị và kinh tế thế giới lại thay đổi với quy mô to lớn

và tốc độ nhanh chóng nhƣ vậy.Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đƣợc xuất hiện là

sự kiện lịch sử quan trọng nhất sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng

Mƣời Nga.

Tiếp đó, năm 1959 chủ nghĩa đế quốc lại bị đòn mới nặng nề nữa: đó là sự thắng lợi của cách mạng Cuba và việc thành lập nƣớc cộng hòa Cuba, chủ nghĩa xã hội đã lan sang cả châu Mỹ La tinh.

Vào đầu những năm 70, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã bao gồm 1/4 diện

tích, 1/3 dân số thế giới.

Sau đó hệ thống xã hội chủ nghĩa đƣợc mở rộng thêm: cách mạng ở một số nƣớc

ở châu Á, Phi, Mỹ la tinh đã thành công và tuyên bố đi theo con đƣờng của nhủ nghĩa

xã hội hoặc có xu hƣớng xã hội chủ nghĩa nhƣ Afghanistan, Angola, Angola, Lào, Nicaragua.

60

4.1.2. Quan hệ hợp tác giữa các nƣớc Xã hội chủ nghĩa

Các nƣớc xã hội chủ nghĩa tuy xuất phát từ những điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội rất khác nhau, nhƣng có nhiều điểm giống nhau về cơ sở kinh tế,

chính trị, tƣ tƣởng, nên mối quan hệ hợp tác kinh tế ngày càng đƣợc tăng cƣờng.

Quá trình phát triển của mối quan hệ hợp tác kinh tế giữa các nƣớc xã hội chủ

nghĩa có thể chia ra làm hai thời kỳ:

- Thời kỳ thứ nhất (1944 - 1948): đây là thời kỳ khôi phục và hàn gắn vết

thƣơng chiến tranh ở các nƣớc Đông Âu và Liên Xô.

Các nƣớc XHCN ở châu Âu trừ Liên Xô, CHDC Đức, Tiệp Khắc, trƣớc chiến

tranh thế giới thứ hai thực chất là những nƣớc nông nghiệp lạc hậu, phụ thuộc vào Tây Âu, là “ sân sau kinh tế của Tây Âu”. Sản phẩm công nghiệp tính theo đầu ngƣời ít

hơn các nƣớc Tây Âu tới 2 - 3 lần. Không những thế, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ

hai đã làm cho nền kinh tế của các nƣớc đó bị thiệt hại nặng nề.

Trong hoàn cảnh ấy, mối quan hệ hợp tác kinh tế giữa các nƣớc XHCN Đông Âu

đặt ra là vô cùng cần thiết và quan trọng. Nó quyết định hƣớng phát triển của chủ

nghĩa xã hội trƣớc mắt cũng nhƣ lâu dài. Trong thời kỳ này quan hệ hợp tác kinh tế

giữa các nƣớc XHCN có đặc điểm là mang tính chất song phƣơng và chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực ngoại thƣơng và tín dụng. Liên Xô cung cấp cho các nƣớc Đông Âu:

than, dầu, lƣơng thực, thực phẩm và những thứ khác cần thiết cho công cuộc khôi phục

kinh tế nhƣ thiết bị, quặng sắt… và Liên Xô còn cho các nƣớc Đông Âu vay vốn lãi

suất thấp hơn nhiều so với lãi suất trong thế giới tƣ bản.

Với sự giúp đỡ của Liên Xô, nói chung đến cuối năm 1948, nền kinh tế quốc dân

của phần lớn các nƣớc XHCN Đông Âu đã cơ bản đƣợc phục hồi, đạt và vƣợt mức

trƣớc chiến tranh, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã

hội ở các nƣớc này.

- Thời kỳ thứ hai (từ năm 1949 - 1991): Đây là thời kỳ thực hiện những cải tạo

quan trọng trong nền kinh tế quốc dân ở các nƣớc XHCN, xây dựng cơ sở vật chất và

kỹ thuật của CNXH… giành sự thắng lợi của chế độ XHCN ở các nƣớc đó.

Trong thời kỳ này, mối quan hệ kinh tế giữa các nƣớc XHCN có những đặc điểm mới: chuyển sang tính chất đa phƣơng; mở rộng các lĩnh vực quan hệ hợp tác sang cả khoa học kỹ thuật và sản xuất. Hoạt động trong một tổ chức kinh tế chung. Việc thành lập Hội đồng tƣơng trợ kinh tế (SEV) là một đặc điểm nổi bật của sự phát triển của các nƣớc XHCN.

Hội đồng tƣơng trợ kinh tế đƣợc thành lập vào tháng 1 năm 1949. Lúc đầu tổ chức này gồm 6 nƣớc: Liên Xô, Bungari, Hunggari, Rumani, Ba Lan và tiệp khắc. Trong quá trình phát triển, tổ chức này dần dần có thêm một số thành viên mới:

61

Anbani tham gia năm 1949CHDC Đức tham gia năm 1950, Mông Cổ - 1962, Cuba -

1972,Việt Nam năm1978.

Ngoài những thành viên chính thức, còn một số nƣớc tham gia với tƣ cách là

quan sát viên nhƣ Triều Tiên, Ăngôla, Apganixtan, Êtiopia, Yemen, Lào… Và có nƣớc

tham gia từng mặt trong các hoạt động của hội đồng nhƣ Nam Tƣ, Phần Lan, Irắc…

Mục tiêu cơ bản của hội đồng tƣơng trợ kinh tế là phát triển hợp tác kinh tế nhiều bên, trên cơ sở thực hiện triệt để nguyên tắc phân công lao động quốc tế XHCN, tác

động đến sự phát triển kinh tế của các nƣớc thành viên, nâng cao trình độ công nghiệp

hóa, năng suất lao động và phúc lợi của nhân dân lao động của các hội viên…

Hội đồng tƣơng trợ kinh tế đã thể hiện là một hệ thống quan hệ mới về kinh tế

giữa các nƣớc bình đẳng có chủ quyền.

Từ khi thành lập, Hội đồng tƣơng trợ kinh tế đã trải qua 4 giai đoạn hoạt động cụ

thể, nhƣ sau:

- Giai đoạn 1 (1948 - 1958): hoạt động của Hội đã tổ chức sự hợp tác kinh tế

nhiều bên, giúp đỡ nhau giải quyết những vấn đề về nguyên liệu, nhiên liệu, lƣơng

thực, thực phẩm, máy móc thiết bị và cho vay, phát triển ngoại thƣơng và hợp tác về khoa

học kỹ thuật.

- Giai đoạn 2 (1959 - 1962): hình thành cơ sở của việc chuyên môn hóa và hợp

tác sản xuất giữa các thành viên, thành lập các tổ chức phối hợp kinh doanh giữa các nƣớc XHCN nhƣ: ống dẫn dầu” hữu nghị”, hệ thống năng lƣợng điện “hòa bình”… và

Hội đồng còn thành lập các cơ quan chuyên môn để điều hành các mặt hoạt động của

mình nhƣ: Uỷ ban hợp tác về công tác kế hoạch, Uỷ ban hợp tác về khoa học kỹ thuật

và các ban thƣờng trực bao gồm các ngành kinh tế quốc dân chủ yếu.

- Giai đoạn 3 (1962 - 1969): hoạt động của hội ở giai đoạn này đã thể hiện là một

nhất thể hóa kinh tế xã hội chủ nghĩa mở rộng hợp tác sản xuất và khoa học kỹ thuật.

Nhất thể hóa kinh tế xã hội chủ nghĩa là sự hợp tác bao gồm nhiều mặt giữa các

nƣớc thành viên, nhằm thúc đẩy sự phát triển và sự hoàn thiện của phân công lao động

quốc tế.

Trong giai đoạn này hoạt động của Hội đồng đã tăng cƣờng hợp tác trong sản xuất nhƣ điện lực, chế tạo máy, dầu khí đốt, luyện kim… Hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, gồm 3.000 tổ chức khoa học kỹ thuật tham gia, thành lập tổ chức quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu vũ trụ, thành lập ngân hàng quốc tế XHCN trong lĩnh vực tín dụng và đầu tƣ.

- Giai đoạn 4 (từ năm 1969 - 1991) trong giai đoạn này, hoạt động của Hội đồng đã đi sâu vào nhất thể hóa kinh tế XHCN, dƣới hình thức phối hợp kế hoạch kinh tế

quốc dân. Đó là một hiện tƣợng mới trong quan hệ kinh tế XHCN. Việc phối hợp kế

hoạch đã có tác dụng quan trọng trong việc giải quyết một cách tổng hợp các vấn đề

62

kinh tế quốc dân của các nƣớc thành viên. Năm 1971 có một văn kiện quan trọng vào

bậc nhất đƣợc kí kết: chƣơng trình tổng hợp tiếp tục tăng cƣờng và hoàn thiện sự hợp tác và nhất thể hóa kinh tế của các nƣớc thành viên.

Chƣơng trình tổng hợp đề ra các biện pháp chủ yếu nhằm tăng cƣờng phân công lao

động quốc tế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực hoạt động khoa học, phối hợp các kế hoạch

kinh tế quốc dân bổ sung việc phối hợp các kế hoạch 5 năm bằng việc phối hợp các kế hoạch dài hơn.

Khóa họp lần thứ 45 của Hội đồng đánh giá từ khi đƣợc thành lập, Hội đồng tƣơng

trợ kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế của các nƣớc thành

viên. Nhƣng những năm gần đây, Hội đồng tƣơng trợ kinh tế đã dần dần mất tính hiệu quả và tính năng động của nó. Do đó, Hội đồng tƣơng trợ kinh tế sau đó không tồn tại nữa. 4.2. Kinh tế các nƣớc xã hội chủ nghĩa thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội

(1917 – 1960)

4.2.1. Cải tạo quan hệ sản xuất cũ xây dựng quan hệ sản xuất mới

* Quốc hữu hóa:

- Quốc hữu hóa xã hội chủ nghĩa là việc dùng phƣơng pháp cách mạng để xóa bỏ

chế độ chiếm hữu tƣ liệu sản xuất của giai cấp tƣ sản tức sở hữu toàn phần.

- Mục đích của quốc hữu hóa là làm cho giai cấp bóc lột mất chỗ dựa về kinh tế

để chống đối cách mạng, đồng thời làm cho nhà nƣớc vô sản nắm đƣợc các cách mạng

máu kinh tế quan trọng để lãnh đạo và xây dựng nền kinh tế có kế hoạch.

- Về hình thức quốc hữu hóa: Liên Xô chủ yếu dùng hình thức tƣớc đoạt trực

tiếp, không bồi thƣờng, còn các nƣớc khác nhƣ Trung Quốc, CHDC Đức… thì chủ yếu

áp dụng hình thức cải tạo bằng phƣơng pháp hòa bình, thông qua chính sách chuộc lại

và trả dần đối với tài sản của bọn tƣ bản. Liên Xô và Bungari khi chuẩn bị tiến hành

quốc hữu hóa, Nhà nƣớc đã thực hiện chế độ kiểm soát của công nhân để thong qua

đó, Nhà nƣớc phát hiện và khám phá hành động phá hoại sản xuất của bọn tƣ bản,

đồng thời chuẩn bị một đội ngũ cán bộ cần thiết cho việc quản lý ngành công nghiệp quốc hữu hóa sau này.

- Về tốc độ: nhìn chung việc quốc hữu hóa đƣợc tiến hành ở các nƣớc vào thời gian 5 - 6 tháng sau khi giành đƣợc chính quyền, nhƣng đối với Liên Xô phải đến cuối năm 1948 mới thực hiện xong quốc hữu hóa.

* Cải cách ruộng đất:

- Là một nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nó đã đƣợc tiến

hành ở các nƣớc xã hội chủ nghĩa.

- Đặc điểm của nó đối với các nƣớc: Liên Xô và Mông Cổ thực hiện quốc hữu hóa ruộng đất, còn các nƣớc khác tiến hành cải cách ruộng đất; Liên Xô dành một phần ruộng đất sau khi quốc hữu hóa để xây dựng nông trƣờng, số còn lại chia cho

63

nông dân sử dụng, chứ không có quyền sở hữu; Còn đa số các nƣớc XHXN: CHDC

Đức, Ba Lan, Trung Quốc… sau khi xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ, đã đem chia ruộng đát cho nông dân vừa sở hữu vừa sử dụng.

* Hợp tác hóa nông nghiệp:

- Thực hiện theo nguyên tăc: tự nghuện, từng bƣớc và có sự giúp đỡ, khuyến

khích vật chất của nhà nƣớc.

- Hình thức hợp tác hóa cũng rất khác nhau nhƣ ở Liên Xô là tổ cày chung, acten

nông nghiệp và các komun; ở Trung Quốc có hình thức là tổ đổi công, hợp tác xã bậc

thấp, bậc cao và các công xã nhân dân; ở Việt Nam là tổ đổi công, hợp tác xã bậc thấp,

hợp tác xã bậc cao…

- Phƣơng pháp tiến hành hợp tác hóa cũng có điểm khác nhau: Cuba theo kiểu

riêng của mình nhƣ kiểu công nghiệp - xây dựng ngay kinh tế nhà nƣớc với tỷ trọng

lớn ở trong nông nghiệp; CHDC Triều Tiên đã đƣa kinh tế toàn dân sớm xâm nhập vào

kinh tế tập thể.

- Tốc độ tiến hành hợp tác hóa: có nhiều nƣớc phải mất thời gian trên dƣới 10

năm mới hoàn thành. Nhƣng cũng có nƣớc thực hiện trong một thời gian tƣơng đối

ngắn nhƣ 3 - 5 năm

* Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.

- Tiến hành cải tạo công thƣơng nghiệp tƣ bản tƣ doanh để xóa bỏ chế độ chiếm hữu tƣ nhân tƣ bản chủ nghĩa về tƣ liệu sản xuất, xóa bỏ bóc lột, tạo điều kiện để phát

triển lực lƣợng sản xuất một cách mạnh mẽ.

- Hình thức và phƣơng pháp cải tạo công thƣơng nghiệp tƣ bản tƣ doanh đƣợc

thực hiện một cách khác nhau tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể và tiến trình cách mạng

ở từng nƣớc, tùy ở tình hình so sánh lực lƣợng giai cấp và thái độ của giai cấp tƣ sản

với cách mạng.

Ở Liên Xô, giai cấp tƣ sản ngoan cố không chịu tiếp thu cải tạo hòa bình, nên các

loại hình chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc không đƣợc thực hiện mấy. Do vậy, chính sách

kinh tế của Liên Xô là phát triển mạnh kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, trên cơ sở đó thủ tiêu hoàn toàn kinh tế tƣ bản chủ nghĩa.

Sau này trong hoàn cảnh lịch sử mới, đa số các nƣớc xã hội chủ nghĩa khác nhƣ Trung Quốc, Việt Nam, CHDC Đức đã áp dụng hình thức chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc để cải tạo công thƣơng nghiệp tƣ bản tƣ doanh. Với hình thức này, Nhà nƣớc đã “ chuộc lại và trả dần” đối với tài sản của bọn tƣ bản.

4.2.2. Xây dựng cơ sở vật chất của Chủ nghĩa xã hội

- Do trình độ xuất phát của nền kinh tế và do cơ cấu kinh tế của mỗi nƣớc, công

nghiệp hóa đƣợc đặt ra với mức độ khác nhau giữa các nƣớc.

64

Đối với Liên Xô, Ba Lan, Rumani tiến hành công nghiệp hóa với ý nghĩa là liên

tục giai đoạn cuối của quá trình công nghiệp hóa nói chung, vì công nghiệp hóa đã đi đƣợc một chặng đƣờng dài dƣới chủ nghĩa tƣ bản.

Đối với những nƣớc xuất phát từ một nƣớc nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa

xã hội phải công nghiệp hóa hầu nhƣ từ đầu. Ở các nƣớc này, công nghiệp hóa trở

thành nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

- Trong quá trình công nghiệp hóa, các nƣớc XHCN đã tiến hành theo một mô

hình chung: ƣu tiên phát triển công nghiệp năng, đƣợc thực hiện một cách có kế hoạch,

tập trung và nguồn vốn chủ yếu dựa vào tích lũy trong nƣớc trên cơ sở tăng năng suất

lao động, dựa vào tiết kiệm và vào tinh thần lao động XHCN của toàn dân.

Cũng do những đặc điểm lịch sử, kinh tế, chính trị của mỗi nƣớc khác nhau, công

nghiệp hóa XHCN ở các nƣớc cũng có những đặc điểm khác nhau về bƣớc đi, quan hệ

tỷ lệ giữa các ngành công nghiệp, về tích lũy vốn ban đầu và về tốc độ công nghiệp

hóa nền kinh tế quốc dân.

4.2.3. Xây dựng thể chế kinh tế Xã hội chủ nghĩa.

- Cơ chế kinh tế ở các nƣớc XHCN có đặc điểm là thực hiện kế hoạch hóa, tập

trung cao độ, với nhiều chỉ tiêu pháp lệnh. Kế hoạch hóa đƣợc coi là công cụ chủ yếu của quản lý kinh tế ở các nƣớc XHCN. Nhà nƣớc đã vạch ra các kế hoạch kinh tế quốc

dân để tổ chức việc sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng trong toàn xã hội, nhằm

đảm bảo cho nền kinh tế phát triển với nhịp độ nhanh hơn.

- Kế hoạch hóa ở các nƣớc XHCN đều có tính chất pháp lệnh. Nhƣng nhiệm vụ

kinh tế chính trị của các thời kỳ kế hoạch có khác nhau và mức độ hiệu lực của kế

hoạch cũng khác nhau.

- Các quan hệ hàng hóa tiền tệ ở các nƣớc XHCN ở thời kỳ này bị coi nhẹ hoặc

bị phủ nhận. Nền kinh tế mang tính chất trao đổi hiện vật trực tiếp; hạch toán kinh tế

đƣợc thực hiện, nhƣng mang tính chất hình thức. Và nhìn chung đó là mô hình quản lý

kinh tế theo chế độ tập trung quan liêu bao cấp đƣợc thực hiện một cách phổ biến ở

các nƣớc trong thời kỳ quá độ lên CNXH. 4.3. Kinh tế các nƣớc Xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ từ 1961 - 1991

4.3.1. Cải cách kinh tế

- Cuộc cải cách kinh tế là quá trình cải tiến toàn diện những hình thức và phƣơng

pháp quản lý kinh tế nhằm đạt hiệu quả kinh tế ngày càng cao.

- Nội dung cơ bản của cuộc cải cách kinh tế ở các nƣớc XHCN châu Âu: + Cải tiến hệ thống tổ chức quản lý kinh tế theo xu hƣớng chuyên môn hóa, tập trung hóa và liên hợp hóa. Trong quản lý kinh tế, quyền dân củ đã đƣợc mở rộng các đơn vị cơ sở ngày càng đợc giao thêm nhiều quyền hạn gắn liền với hoạt động kinh doanh của họ và chịu trách nhiệm vật chất về các quyết định và hoạt động của mình.

65

Các cơ quan trung ƣơng ngày càng đƣợc tập trung vào việc thực hiện chức năng hoạch

định chiến lƣợc phát triển, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chiến lƣợc đó. Kết hợp quản theo ngành và vùng lãnh thổ cũng là một nội dung quan trọng của việc cải tiến hệ

thống tổ chức quản lý kinh tế, xuất phát từ yêu cầu của sự phân công lao động theo

ngành và vùng lãng thổ. Với nguyên tắc này, các xí nghiệp phải chịu sự chỉ đạo song

trùng vừa theo bộ chuyên ngành, vừa theo địa phƣơng.

+ Cải tiến chế độ kế hoạch hóa: đây là nội dung cơ bản nhất của cuộc cải cách

kinh tế. Việc phối hợp giữa các loại kế hoạch: dài hạn, trung hạn và ngắn hạn cũng đã

đƣợc thực hiện. Kế hoạch triển vọng đƣợc coi trọng hơn. Vai trò hợp đồng kinh tế đã

đƣợc đề cao hơn. Nó có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch. Đồng thời, các nƣớc XHCN đã chí ý nâng cao tính khoa học của các kế hoạch, trên cơ

sở vận dụng những thành tựu mới nhất về khoa học kỹ thuật.

+ Tăng cƣờng sử dụng các đòn bẩy kinh tế các phạm trù giá trị nhƣ giá cả, lợi

nhuận, tiền lƣơng, tiền thƣởng, tisn dụng… để quản lý nền kinh tế. Việc vận dụng quy

luật giá trị cũng đã đƣợc chú trọng hơn, chống cả 2 xu hƣớng cực đoan phủ nhận hoặc

khuất phục trƣớc quy luật giá trị. Các nƣớc XHCN còn đề ra tinh thần kết hợp các lợi

ích tỏng quản lý kinh tế, theo một phƣơng châm cái gì có lợi cho Nhà nƣớc thì cũng

phải có lợi cho tập thể và cá nhân.

Cuộc cải cách kinh tế cũng đã đem lại những kết quả nhất định nhƣ góp phần đẩy nhanh nhịp độ tăng trƣởng của nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy quá trình xã hội hóa sản

xuất và lao động, xóa dần sự cách biệt giữa hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể,

giữa thành trị và nông thôn, giữa lao động trí óc và chân tay.

Tuy nhiên, kết quả thu đƣợc trong cuộc cải cách kinh tế lần này mới chỉ là bƣớc

đầu, còn rất hạn chế, không đạt đợc nhƣ kết quả mong muốn, trên thực tế ở nhiều nơi

vẫn chƣa thoát ra khỏi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trƣớc đây.

4.3.2. Phát triển kinh tế

- Trong giai đoạn này các nƣớc trong hệ thống XHCN phát triển kinh tế theo xu

hƣớng nhƣ: nâng cao trình độ điện khí hóa trong các ngành kinh tế quốc dân, sử dụng rộng rãi năng lƣợng điện nguyên tử, cơ khí hóa toàn bộ và tự động hóa sản xuất, tăng cƣờng trình độ hóa học hóa nền kinh tế quốc dân, thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp, chuyển nông nghiệp sang phƣơng pháp sản xuất công nghiệp, làm cho nông nghiệp và công nghiệp gắn bó với nhau, thành lập các liên hiệp nông - công nghiệp hay các liên hiệp công - nông nghiệp.

66

Bảng 4.1. Tốc độ tăng trƣởng kinh tế một số nƣớc XHCN

(Đơn vị: %)

1961-1965 1966-1970 1971-1975 1976-1980 1981-1985

6,7 8,8 7,8 6,1 3,7 Bungari

6,2 6,0 9,8 1,2 -0,8 Ba Lan

3,5 5,2 5,4 4.,1 4,5 CHDC Đức

4,1 9,1 6,8 7,7 6,5 11,4 2,8 7,0 1,3 4,4 Hunggari Rumani

6,5 7,8 5,7 4,3 3,5 Liên Xô

4,9 6,9 5,5 3,7 1,7 Tiệp Khắc

Trong thời kỳ từ năm 1971 – 1985 thu nhập quốc dân tăng 2 lần và sản lƣợng

công nghiệp tăng 2,2 lần, gấp 1,5 lần mức tăng của các nƣớc tƣ bản phát triển.

Đời sống nhân dân đã đƣợc cải thiện một bƣớc rõ rệt; nạn thất nghiệp đã căn

bản bị xóa bỏ; phúc lợi của nhân dân ngày càng tăng; sự nghiệp y tế, giáo dục đƣợc

phát triển mạnh mẽ…

Tuy nhiên, từ những năm 1970 trở đi, nền kinh tế của các nƣớc XHCN dần lâm

và tình trạng khó khăn,trì trệ tình trạng này kéo dài đến cuối năm 1989 thì các nƣớc

lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng nhất từ trƣớc tới nay.

Trải qua quá trình xây dựng và phát triển, nền kinh tế của các nƣớc xã hội chủ

nghĩa đã đạt đƣợc những thành tựu to lớn không thể chối cãi đƣợc. Trong vòng 1/2 thế

kỷ các nƣớc XHCN đã đi đƣợc một chặng đƣờng mà chủ nghĩa tƣ bản đã phải đi hàng

thế kỷ.

Bên cạnh đó, trong quá trình xây dựng nền kinh tế XHCN cũng đã có không ít

sai lầm khuyết điểm. Làm kỳm hãm sự phát triển của lực lƣợng sản xuất và làm ảnh

hƣởng đến việc cải thiện đời sống nhân dân.

- Các nƣớc XHCN đang đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải tổ, cải cách hoặc đổi

mới, hoặc sửa sai, để khắc phục khó khăn, phát triển kinh tế mạnh mẽ hơn. Nhƣng

công cuộc cải tổ, cải cách ở các nƣớc Đông Âu và Liên Xô có một số chủ trƣơng không đúng, hình thức, phƣơng pháp và bƣớc đi không phù hợp, nên dẫn đến sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nƣớc này vào cuối thập 80, đầu thập kỷ 90. 4.4. Kinh tế các nƣớc Xã hội chủ nghĩa thời kỳ từ 1991 đến nay

Các nƣớc xã hội chủ nghĩa sau khi hoàn thành nhiệm vụ kinh tế của cách mạng

dân tộc dân chủ đã tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa để xác lập mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung và tiến hành công công nghiệp hóa nền kinh tế. Thực tế các nƣớc này đã thu đƣợc một số thành tựu kinh tế nhất định trong phát triển kinh tế - xã hội nhƣng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung kéo dài cùng những định hƣớng không phù hợp trong công nghiệp hóa đã dẫn đến những sự trì trệ trong phát triển. Để khắc

67

phục những hạn chế này, các nƣớc Trung Quốc, Việt Nam và một số nƣớc xã hội chủ

nghĩa khác đã lần lƣợc tiến hành, đổi mới theo hƣớng:

- Chuyển đổi cơ cấu kinh tế:

+ Về sở hữu tư liệu sản xuất: đƣợc coi là vấn đề then chốt, thực hiện đa dạng hóa

quyền sở hữu, thực hiện cổ phấn hóa và tƣ nhân hóa các doanh nghiệp Nhà nƣớc.

+Về cơ cấu kinh tế: cải tổ kinh tế theo hƣớng phi quân sự hóa, nâng cao khả năng

sản xuất hàng tiêu dùng, nâng cao khả năng hội nhập kinh tế quốc tế.

- Về cơ cấu quản lý kinh tế: từ bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị

trƣờng có sự điều tiết quản lý vĩ mô của nhà nƣớc.

- Cải cách mở cửa: Chủ trƣơng mở cửa nền kinh tế, hòa nhập với kinh tế thế

giới, chuyển hƣớng thƣơng mại, thiên về thị trƣờng Mỹ và Tây Âu...

68

Câu hỏi ôn tập

1. Trình bày quá trình cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới

của các nƣớc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn 1917 đến giữa thập kỷ 1960.

2. Trình bày đặc điểm cơ chế kinh tế của các nƣớc xã hội chủ nghĩa trong giai

đoạn 1917 đến giữa thập kỷ 1960.

3. Tại sao các nƣớc XHCH thực hiện cải cách kinh tế với nhiều biện pháp “sốc”

những năm 1980 đến giữa thập kỷ 1990?

4. Trình bày những thành tựu cơ bản của công cuộc cải cách kinh tế của các nƣớc

XHCN những năm 1980 đến giữa thập kỷ 1990.

5. Trình bày những hạn chế cơ bản của công cuộc cải cách kinh tế của các nƣớc

XHCN những năm 1980 đến giữa thập kỷ 1990.

6. Trình bày quá trình chuyển đổi nền kinh tế của các nƣớc XHCN từ năm 1991 đến

giai đoạn nay.

7. Tại sao nhiều nƣớc trong hệ thống XHCN chuyển đổi, cải cách nền kinh tế?

8. Xu hƣớng đổi mới kinh tế cơ bản của các nƣớc xã hội chủ nghĩa trong giai

đoạn hiện nay nhƣ thế nào?

9. So sách đặc điểm kinh tế cơ bản của kinh tế các nƣớc chủ nghĩa xã hội trƣớc và

sau cải cách.

10. Tại sao trong giai đoạn hiện nay, vai trò của nhà nƣớc đối với sự phát triển

kinh tế vẫn đóng vai trò quan trọng ?

69

CHƢƠNG 5. KINH TẾ LIÊN XÔ (cũ)

5.1. Đặc điểm kinh tế nƣớc Nga trƣớc cách mạng tháng Mƣời (1917)

5.1.1. Nƣớc Nga phong kiến từ thế kỷ VI đến đầu thể kỷ XIX

Quan hệ sản xuất phong kiến ở nƣớc Nga đã hình thành vào thế kỷ VI mới đến

giai đoạn phong kiến tập quyền, đạt đến giai đoạn cực thịnh vào thế kỷ X và XI. Chế độ phong kiến ở Nga có đặc điểm là chế độ phong kiến nông nô.

Đến thế kỷ XVII công trƣờng thủ công đã khá phát triển, nhƣng công trƣờng thủ

công đúc tiền chậm hơn ở Tây Âu, dựa trên cơ sở lao động của nông nô và dƣới hình

thức gia công tại nhà.

Thế kỷ XVIII và XIX các ngành nghề thủ công và thƣơng nghiệp phát triển mạnh

và xuất hiện nhiều công trƣờng thủ công tƣ bản chủ nghĩa.

Để thích ứng với yêu cầu mới của lực lƣợng sản xuất tƣ bản chủ nghĩa, tháng 12 năm 1861, Sa hoàng Nga đã chủ trƣơng tiến hành cuộc cải cách nông nô, với nội dung

chủ yếu là xóa bỏ sự lệ thuộc của nông dân vào địa chủ, chia ruộng đất cho nông dân

và xác định tiền thuế phải nộp. Cuộc cải cách này mạng tính chất một cuộc cách mạng

tƣ sản và mở đƣờng cho chủ nghĩa tƣ bản phát triển ở Nga.

5.1.2. Nƣớc Nga tƣ bản chủ nghĩa (1861 – 1913)

Đƣợc tiến hành từ thời kỳ nông nô và kết thúc vào thời gian sau cuộc cải cách.

Việc xây dựng đƣờng sắt đƣợc phát triển mạnh: năm 1839 đƣờng sắt đầu tiên đƣợc

xây dựng ở Uran, đến năm 1890 đã có 29.000 km, trong công nghiệp Nga đã phát triển

có tính chất chu kỳ.

Cuối thế kỷ XIX những tổ chức độc quyền bắt đầu đƣợc hình thành ở Nga và đến

đầu thế kỷ XX nƣớc Nga thực sự bƣớc sang chủ nghĩa đế quốc nhƣ các nƣớc tƣ bản

khác, nhƣng còn mạng nặng quan hệ sản xuất tiền tƣ bản.

Đế quốc Nga mang tính chất đế quốc phong kiến quân sự. Hình thức độc quyền

chủ yếu là xanhđica và có quan hệ chặt chẽ với các cơ sở kinh tế của nhà vua. Nƣớc Nga là đối tƣợng để tƣ bản phƣơng Tây đầu tƣ. Điều đó nói lên nƣớc Nga tuy bƣớc

sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, nhƣng vẫn là tƣ bản loại yếu, lệ thuộc vào tƣ bản phƣơng Tây. 5.2. Kinh tế Liên Xô thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội (1918 -1955)

5.2.1. Những cải cách sau cách mạng tháng 10

- Quốc hữu hóa toàn bộ ruộng đất của địa chủ, nhà tu và nhà thờ, giữ lại một

phần làm nông trƣờng quốc doanh, còn một phần lớn đem chia cho nông dân sử dụng.

Sắc lệnh về quốc hữu hóa ruộng đất đƣợc ban hành ngày 8/11/1917, đánh dấu giai

đoạn kết thúc cuộc cách mạng dân chủ tƣ sản ở Nga, mở đầu cho quá trình đi lên chủ

nghĩa xã hội.

70

- Thực hiện chế độ kiểm soát của công nhân: sắc lệnh này đƣợc ban hành ngày

14 tháng 11 năm 1917, từ đó đến cuối tháng 11 năm 1917 ở tất cả các xí nghiệp lớn và vừa trong các ngành công nghiệp, thƣơng nghiệp, tài chính quan trọng nhất đều thành

lập các Uỷ ban kiểm soát của công nhân. Đó là biện pháp quá độ để công nhân làm

quen với việc quản lý xí nghiệp, ngăn chặn những hành vi phá hoại của tƣ sản.

- Quốc hữu hóa đối với đƣờng sắt, hầm mỏ, ngoại thƣơng, bƣu điện, ngân hàng lớn và công nghiệp. Từ tháng 11 năm 1917 đến tháng 10 năm 1918 tất cả đã có 3.668

xí nghiệp đã vào tay nhân dân lao động. Các cơ sở công nghiệp, thƣơng nghiệp, giao

thông bƣu điện đã quốc hữu hóa, đƣợc đặt dƣới sự lãnh đạo thống nhất của Hội đồng

kinh tế tối cao.

- Thực hiện kế hoạch tiến quân vào cách mạng xã hội chủ nghĩa: đầu năm 1918

Lênin đã đề ra kế hoạch khôi phục lại nền kinh tế và kế hoạch phát triển kinh tế trong

thời gian trƣớc mắt-kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhƣng đến cuối năm 1918,

kế hoạch đó phải hoãn lại vì có nội chiến.

5.2.2. Thời kỳ nội chiến (1918 - 1920)

Trong giai đoạn này nƣớc Nga thực hiện chính sách “Kinh tế cộng sản thời

chiến” với những nội dung cơ bản:

- Trƣng thu lƣơng thực thực thừa của nông dân, Nhà nƣớc độc quyền mua bán

lúa mì để cung cấp cho thành thị và quân đội.

- Nhà nƣớc kiểm soát việc sản xuất và phân phối sản phẩm không những đối với

đại công nghiệp mà cả trung và tiểu công nghiệp.

- Quốc hữu hóa cả những xí nghiệp vừa và nhỏ, có từ 5 công nhân trở lên và 10

công nhân trở lên nếu không có động cơ.

- Cấm buôn bán trao đổi sản phẩm ở trên thị trƣờng, nhất là lúa mì, thực hiện chế

độ tem phiếu, trực tiếp phân phối bằng hiện vật cho ngƣời tiêu dùng, xóa bỏ ngân hàng

Nhà nƣớc.

- Đặt chế độ lao động cƣỡng bức với nguyên tắc: “ không làm thì không ăn”.

Nhờ thực hiện chính sách “kinh tế cộng sản thời chiến” mà Nhà nƣớc Xô viết mới có lƣơng thực để cung cấp cho quân đội và nhân dân, đảm bảo đánh thắng thù trong giặc ngoài. Khi đánh giá về chính sách đó, Lênin đã nói “Trong điền kiện chiến tranh mà chúng ta đã lâm vào thì về cơ bản chính sách đó là đúng”.

Đồng thời, trong thời gian này khí thế lao động của quần chúng đƣợc lên cao “Ngày thứ bảy lao động Cộng sản chủ nghĩa” đƣợc thực hiện trên toàn nƣớc Nga. Đó

là sáng kiến vĩ đại của công nhân đƣờng sắt và sau đó đƣợc công nhân, ngƣời lao động trong cả nƣớc hƣởng ứng.

71

Chính sách kinh tế cộng sản thời chiến hoàn toàn không phải là một giai đoạn tất

yếu trong chính sách kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đó là chính sách tạm thời .

5.2.3. Thời kỳ khôi phục kinh tế (1921 – 1925)

Hoàn cảnh lịch sử: Nền kinh tế bị khủng hoảng nghiêm trọng: sản lƣợng lƣơng

thực năm 1920 chỉ bằng 1/2 so với năm 1913 – nạn đói xảy ra khắp nơi; đại công nghiệp bằng 1/7; giao thông vận tải tê liệt…

- Chính sách kinh tế cộng sản thời chiến không còn phù hợp, đặc biệt chính sách

trƣng thu lƣơng thực thừa đã gây bất bình đối với nông dân, một số cuộc bạo loạn đã

nổ ra, nguy cơ liên minh công - nông tan vỡ

- Trƣớc tình hình đó, Lênin đã đƣa ra Chính sách kinh tế mới NEP nhằm khôi

phục kinh tế nƣớc Nga.

Nội dung của Chính sách kinh tế mới (NEP):

- Thay chính sách trƣng thu lƣơng thực thừa bằng chính sách thuế lƣơng thực

- Cho phép tƣ nhân thuê hoặc mua lại các xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ

- Cho phép trao đổi buôn bán, cải cách tiền tệ

- Thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong các xí nghiệp quốc doanh - Kêu gọi nƣớc ngoài đầu tƣ kinh doanh

Ý nghĩa

- Chính sach kinh tế mới của Lênin đã có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn là

thúc đẩy quá trình khôi phục nhanh chóng, đồng thời củng cố khối liên minh công

nông và tạo cơ sở cho sự ra đời của Liên bang Cộng hoà XHCN Xô Viết ra đời

(30.12.1922)

- Ý nghĩa lý luận: chính sách NEP của Lênin đã đƣa ra nhiều kinh nghiệm và lý

luận thực tiễn đối với quá trình phát triển kinh tế sau này, đặc biệt là đối với các nƣớc

thuộc khối XHCN.

5.2.4 Thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa

xã hội.

* Hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa. - Cải tạo xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất nhằm thay thế chế độ chiếm hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất bằng chế độ công hữu về tƣ liệu sản xuất với hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể

- Thực chất là chuyển biến nền kinh tế nhiều thành phần thành nền kinh tế xã hội

chủ nghĩa (kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể).

Nội dung:

- Nông nghiệp: Thực hiện hợp tác hoá nông nghiệp, đƣa nông dân vào làm ăn tập

thể bằng việc xây dựng các nông trang tập thể.

72

- Công thƣơng nghiệp: nhà nƣớc tịch thu các cơ sở kinh tế của tƣ bản tƣ nhân và

biến thành các xí nghiệp quốc doanh.

Kết quả: Năm 1937 hoàn thành, nền kinh tế trở nên thuần nhất chỉ bao gồm kinh

tế quốc doanh và kinh tế tập thể.

* Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. - Liên Xô đã đưa ra khái niệm công nghiệp hóa là: “Quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó là sự phát triển công

nghiệp nặng với ngành trung tâm là chế tạo máy…” . Nhiệm vụ công nghiệp hoá

XHCN ở Liên Xô đƣợc đề ra tại đại hội XIV của Đảng Cộng sản Liên Xô (12 - 1925).

- Tiến trình thực hiện: + Bƣớc thứ nhất: Bƣớc chuẩn bị hay còn gọi là bƣớc lấy đà, chủ yếu cải tạo lại

các xí nghiệp cũ và xây dựng mới các xí nghiệp vừa và nhỏ. Đến cuối năm 1927 nền

công nghiệp Xô viết đã vƣợt xa nƣớc Nga trƣớc cách mạng.

+ Bƣớc thứ hai: Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất là bƣớc triển khai có ý nghĩa quyết

định. Liên Xô đã xây dựng đƣợc một nền công nghiệp nặng to lớn với kỹ thuật tiên

tiến, đã đƣa vào sản xuất 1.500 xí nghiệp công nghiệp mới, chủ yếu là xí nghiệp có

quy mô lớn và hiện đại, đã cho ra đời những ngành mới của đất nƣớc nhƣ sản xuất

máy kéo, máy lien hợp, ô tô, máy bay, máy công cụ, tơ nhân tạo và chất dẻo.

+ Bƣớc thứ ba: Kế hoạch 5 năm lần thứ hai là bƣớc hoàn thành việc trang bị kỹ

thuật cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

- Đặc điểm ông nghiệp hoá ở Liên Xô:

+ Liên Xô ƣu tiên phát triển công nghiệp nặng ngay từ đầu.

+ Nguồn vốn cho công nghiệp hoá hoàn toàn dựa vào tích luỹ trong nƣớc.

+ Tiến hành một cách có kế hoạch và đƣợc chỉ đạo theo kế hoạch thống nhất, tập

trung cao độ.

+ Tác động trực tiếp đến nông nghiệp: cung cấp máy móc để thực hiện cơ giới

hoá nông nghiệp.

+ Diễn ra với tốc độ nhanh và hoàn thành trong thời gian ngắn. + Trong đó có nhiều nguyên nhân, nhƣng có một nguyên nhân rất quan trọng cần đƣợc nhấn mạnh là có sự nỗ lực chủ quan của nhân dân Liên Xô trong quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, thể hiện ở các phong trào thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đƣợc phát triển mạnh mẽ khắp đất nƣớc Liên Xô.

Đến năm 1937 Liên Xô đã cơ bản hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hóa xã hội

chủ nghĩa, đã từ một nƣớc đứng thứ 5 thế giới trở thành thứ hai thế giới, đứng đầu châu Âu về sản xuất công nghiệp- trở thành một cƣờng quốc công nghiệp.

Sau đó Liên Xô thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ ba để phát triển mạnh mẽ hơn

nữa ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành luyện kim có chất lƣợng cao, hóa chất, xây

73

dựng các xí nghiệp mới ở Uran và vùng phía Đông Liên Xô. Nhƣng kế hoạch này chỉ

đƣợc thực hiện trong 3 năm rƣỡi.

5.2.5. Thời kỳ chiến tranh vệ quốc (1941– 1945)

Trong giai đoạn Liên Xô đã đạt đƣợc những thành tựu to lớn trong công cuộc

khôi phục kinh tế:

- Khôi phục công nghiệp: đã đƣợc hoàn thành trong 4 năm 3 tháng. Sản lƣợng công nghiệp năm 1950 tăng 75% so với năm 1940, đã xây dựng đƣợc 6.000 xí nghiệp

mới trong nhiều lĩnh vực.

- Khôi phục nông nghiệp: đến năm 1950 diện tích và sản lƣợng đạt đƣợc mức

trƣớc chiến tranh. Riêng đàn gia súc chƣa khôi phục lại đƣợc, vì ngành chăn nuôi bị thiệt hại quá lớn trong những năm chiến tranh.

- Giao thông vận tải: đƣợc khôi phục ngang mức trƣớc chiến tranh, về kỹ thuật

đƣợc cải tiến hơn, nhiều tuyến đƣờng đƣợc điện khí hóa, ngành vận tải đƣờng ống

đƣợc bắt đầu ra đời và nhanh chóng mở rộng.

- Thƣơng nghiệp và tiền tệ: mạng lƣới thƣơng nghiệp đƣợc mở rộng hơn nhiều so

với trƣớc chiến tranh, hệ thống tem phiếu đƣợc bãi bỏ. Mối quan hệ kinh tế đối ngoại

của Liên Xô đƣợc bƣớc sang thời kỳ mới hình thành mối quan hệ hợp tác giữa Liên Xô và các nƣớc xã hội chủ nghĩa trong khối SEV.

5.2.6. Thời kỳ hoàn thiện chủ nghĩa xã hội (1951 – 1955)

Sau khi Liên Xô hoàn thành kế hoạch khôi phục kinh tế, đã bƣớc vào kế hoạch 5

năm lần thứ 5 (1951-1955) hoàn thiện công cuộc của kế hoạch này là phát triển mạnh

mẽ hơn nữa mọi ngành kinh tế quốc dân, nâng cao hơn nữa phúc lợi vật chất và văn

hóa của nhân dân.

Công nghiệp nặng vẫn đƣợc phát triển mạnh. Năm 1954 nhà máy điện nguyên tử

đầu tiên trên thế giới đƣợc xây dựng.

Nông nghiệp đã khắc phục một bƣớc quan trọng hiện tƣợng trì trệ trong thời kỳ

công nghiệp hóa. Liên Xô đã nêu rõ nguyên nhân của sự trì trệ đó là do: trong những

năm công nghiệp hóa vốn tập trung vào công nghiệp nặng quá lớn, trong chiến tranh, nông nghiệp Liên Xô, đặc biệt ở miền Tây bị phá hoại nặng nề và công tác quản lý có nhiều thiếu xót. Nhà nƣớc Xô viết đã tập trung thực hiện hàng loạt các biện pháp để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp: hệ thống phục vụ về vật chất và kỹ thuật cho các nông trang tập thể và chế độ thu mua nông phẩm đƣợc cải tổ về căn bản. 5.3. Kinh tế liên xô thời kỳ củng cố và hoàn thiện CNXH (1956 – 1990)

5.3.1. Đặc điểm kinh tế Liên Xô giai đoạn 1956 - 1975

* Cải tiến hệ thống tổ chức quản lý kinh tế và cải cách kinh tế: - Tổ chức lại hệ thống quản lý theo nguyên tắc ngành, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo vùng lãnh thổ, mở rộng quyền hạn và tính độ lập kinh doanh của các xí

74

nghiệp và liên hợp sản xuất trên cơ sở thực hiện hạch toán kinh tế đầy đủ, quy định quan

hệ hợp tác giữa các ngành các cấp, xác định ba cấp quản lý: bộ, liên hiệp xí nghiệp, xí nghiệp.

- Cải tiến sự lãnh đạo tập trung theo kế hoạch, nâng cao chất lƣợng công tác kế

hoạch hóa, đổi mới hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh để kích thích hoạt động sản xuất kinh

doanh của các xí nghiệp, xác định mối quan hệ giữa kế hoạch triển vộng và kế hoạch dài hạn và kế hoạch ngắn hạn.

- Tăng trƣởng các phƣơng pháp kinh tế trong quản lý và vai trò các đòn bẩy kinh

tế nhằn khuyến khích ngƣời lao động, các xí nghiệp sản xuất quan tâm đến việc phát

huy khả năng tiềm tang của mình để tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội.

Cuộc cải cách kinh tế lần này cũng có tác dụng nhất định. Thúc đẩy sự đổi mới

kỹ thuật, tăng cƣờng nhịp độ phát triển kinh tế, nhƣng những kết quả đạt đƣợc không

nhƣ mong muốn vì nó vẫn chƣa hoàn toàn thoát ra khỏi cơ chế kinh tế đã lỗi thời của

thời kỳ phát triển chủ yếu theo chiều rộng với lối tƣ duy kinh tế đã cũ mòn và tính tập

trung quan lieu bao cấp còn có đất tồn tại.

* Phát triển các ngành kinh tế:

- Công nghiệp đƣợc tiếp tục phát triển theo hƣớng hoàn thiện kỹ thuật, tiếp tục

thực hiện kế hoạch điện khí hóa, cơ khí hoám tự động hóa và hóa học hóa. Năm 1975

so với năm 1940 giá trị tổng sản lƣợng công nghiệp tăn lên 17 lần và trong thời gian từ 1961 đến 1975 đạt nhịp độ phát triển hàng năm khoảng 8%, trong đó các ngành công

nghiệp nặng hiện đại tiếp tục phát triển nhanh.

Bảng 5.1. Kết quả sản xuất một số ngành công nghiệp ở Liên Xô

giai đoạn 1940 - 1975

Ngành 1940 1965 1970 1975

Điện (tỷ kwh) Dầu và hơi đốt (triệu tấn) 48,6 31,1 507,0 243,0 741,0 253,0 1,039,000 491,0

Than (triệu tấn) 166,0 578,0 624,0 701,0

Thép (triệu tấn) Quặng sắt ( triệu tấn) 18,3 29,0 91,0 153,0 116,0 197,0 141,0 253,0

- Nông nghiệp cũng có một bƣớc phát triển mạnh mẽ, sản lƣợng trung bình

hàng năn về ngũ cốc, thịt, bông, sữa đều tăng.

Bảng 5.2. Kết quả sản xuất một số ngành nông nghiệp ở Liên Xô

giai đoạn 1961 - 1975

Sản phẩm 1961 – 1965 1966 - 1970 1971 - 1975

Ngũ cốc (triệu tấn) Thịt (triệu tấn) 130,2 9,3 167,5 11,6 180,0 14,1

75

Sữa (triệu tấn) 64,7 80,5 87,5

Bông (triệu tấn) 5,0 6,1 87,5

- Giao thông vận tải: đẩy mạnh trang bị đầu máy điêzen trong ngành đƣờng sắt,

thực hiện điện khí hóa đƣờng sắt: đến năm 1975 Liên Xô có 139.000km đƣờng sắt,

trong đó 38.800km đƣợc điện khí hóa. Vận tải đƣờng ống đƣợc đẩy mạnh. Các phƣơng

tiện vận tải đƣợc trang bị kỹ thuật hiện đại.

- Quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng mở rộng, Liên Xô đã có quan hệ buôn bán

với hơn 140 nƣớc: trao đổi ngoại thƣơng lên đến hơn 60 tỷ rúp; trong đó việc quan hệ

hợp tác, liên kết kinh tế giữa Liên Xô với các nƣớc trong Hội đồng tƣơng trợ kinh tế ngày càng đƣợc củng cố và tăng cƣờng.

5.3.2. Đặc điểm kinh tế trong giai đoạn 1976 - 1990

Chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nƣớc Liên Xô trong thời gian này là kiên

quyết chuyển chủ yếu kinh tế sang những nhân tố phát triển theo chiều sâu, phát triển

mạnh mẽ và cân đối nền sản xuất xã hội, nâng cao hiệu quả, đẩy mạnh sự tiến bộ khoa

học kỹ thuật, tăng năng suất lao động và ra sức cải tiến chất lƣợng trong tất cả các

khâu của nền kinh tế quốc dân.

Đồng thời, những khó khăn, căng thẳng về tài chính cũng tăng lên. Có hiện tƣợng

bị tụt lùi rõ rệt trên các chỉ tiêu kinh tế, khoảng cách giữa Liên Xô và các nƣớc phát

triển nhất về năng suất, chất lƣợng, hiệu quả, về khoa học kỹ thuật bắt đầu tăng lên,

không có lợi cho Liên Xô. Chƣơng trình xã hội đƣợc vạch ra trong những năm đó cũng

không hoàn toàn thực hiện đƣợc. Những điều đó thể hiện rõ sự trì trệ của nền kinh tế

và tình trạng tiền khủng hoảng kinh tế - xã hội Liên Xô.

Nguyên nhân của tình trạng đó chủ yếu là vì nền kinh tế theo quán tính tiếp tục

phát triển, phần lớn trên cơ sở theo chiều rộng, hƣớng vào việc thu hút những nguồ dự

trữ nhân lực và vật tƣ bổ sung vào sản xuất. Trong khi đó khả năng phát triển theo

chiều rộng ở Liên Xô không còn nhiều. Sự trì trệ trong tƣ duy lý luận cũng đã làm ảnh

hƣởng không tốt đến việc giải quyết những vấn đề kinh tế: vẫn còn tồn tại các phƣơng pháp cũ. 5.4. Kinh tế Nga thời kỳ hậu Liên Xô

5.4.1. Chuyển đổi nền kinh tế theo hƣớng thị trƣờng

Sau năm 1991, Chính phủ Nga đã chủ trƣơng quá độ chuyển sang nền kinh tế thị

trƣờng có điều tiết và hòa nhập với nền kinh tế thế giới với các chính sách kinh tế đồng bộ và triệt để:

- Chính sách tài chính: Quy định một hệ thống tài chính thống nhất, thi hành một

ngân sách liên bang khắc khổ, giảm chi phí tối đa cho trợ giá và quốc phòng.

76

- Chính sách đầu tư: thay thế trình tự tài trợ không hoàn lại từ ngân sách trung

ƣơng trƣớc đây bằng việc cấp tín dụng các ngân hàng kinh doanh, ban hành luật hoạt động trứng khoán, đào tạo đội ngũ nhân viên giao dịch chứng khoán, tạo điều kiện

hoạt động tự do cho thị trƣờng vốn, lao động và tiền tệ.

- Chính sách sở hữu: Xóa bỏ chế độ độc quyền Nhà nƣớc, mở rộng quá trình tƣ nhân

hóa, đảm bảo quyền cạnh tranh và sở hữu tài sản, chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần.

- Chính sách ruộng đất: Đảm bảo chuyển hóa và sản xuất theo chế độ cho thuê,

chuyển nhƣợng và thừa kế.

- Chính sách giá cả: Nhà nƣớc hủy bỏ độc quyền giá cả nhà nƣớc, thực hiện tự do hóa giá cả để phản ánh các chi phí sản xuất, khống chế tiền lƣơng để gắn thu nhập

với năng suất lao động.

- Chính sách đầu tư nước ngoài: Cho phép các công ty đầu tƣ nƣớc ngoài đầu tƣ

100% vốn vào các ngành công nghiệp, xi nghiệp quốc doanh đã tƣ nhân hóa.

- Chính sách cơ cấu kinh tế: Thu hẹp cá ngành sẩn xuất không hiệu quả và hiệu

quả thấp, chuyển mạnh sản xuất quân sự sang sản xuất dân sự.

5.4.2. Kinh tế Nga hồi phục (1995 – nay)

* Từ năm 1995 – 1999: nƣớc Nga thực hiện biện pháp cải cách ôn hòa hơn, lấy

trọng tâm chính là giải quyết khủng hoảng để đẩy mạnh sản xuất, trợ giúp cho nhiều

ngành công nghiệp, kiểm soát chặt chẽ nền tài chính. Bên cạnh đó nƣớc Nga vẫn tiếp

tục tiến hành tƣ nhân hóa cải cách thƣơng mại, kinh tế đối ngoại không buông lỏng vai

trò quản lý của nhà nƣớc.

* Từ năm 2000 đến nay: Đƣờng lối phát triển của nƣớc Nga vẫn theo hƣớng bền

vững, xây dựng kinh tế thị trƣờng theo phƣơng thức mới, định hƣớng cho sự đảm bảo

các chỉ số kinh tế - xã hội để nền kinh tế đạt hiệu quả cao. Mục tiêu của nền kinh tế

Nga trong phát triển kinh tế là vƣợt qua tình trạng khủng hoảng, đảm bảo tăng trƣởng

sản xuất, kích thích đầu tƣ, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Các chính

sách phát thúc đẩy phát triển kinh tế của nƣớc Nga bao gồm:

- Tăng trƣởng kinh tế kinh tế tốc độ cao với cơ cấu kinh tế tiến bộ, tăng trƣởng

phải bền vững.

- Chú trọng sử dụng các công cụ kinh tế và thể chế để giải quyết các vấn đề kinh

tế của nền kinh tế quốc dân.

- Ƣu tiên phát triển nguồn lực con ngƣời. Đây cũng là yếu tố quyết định khả năng

cạnh tranh của nền kinh tế hiện đại.

- Xây dựng thể chế kinh tế - xã hội là then chốt, đồng thời tạo điều kiện cho

ngƣời dân tự do tham gia vào các hoạt động kinh tế.

77

Câu hỏi ôn tập

1. Trình bày nội dung dung chính sách kinh tế “Cộng sản thời chiến” của Lênin

trong giai đoạn 1918 - 1920. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này là gì?

2. Trình bày nội dung dung chính sách kinh tế “Kinh tế mới” của Lênin trong giai

đoạn 1921 - 1925. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này là gì?

3. So sánh chính sách “Cộng sản thời chiến” với chính sách “Kinh tế mới” của

Lênin. Vai trò lịch sử của hai chính sách kinh tế này đối với nƣớc Nga là gì?

4. Trình bày tiến trình, đặc điểm của quá trình công nghiệp hóa Liên Xô trong

giai đoạn 1926 -1937.

5. Trình bày những thành tựu của quá trình công nghiệp hóa Liên Xô trong giai

đoạn 1926 -1937.

6. Trình bày những hạn chế của quá trình công nghiệp hóa Liên Xô trong giai

đoạn 1926 -1937.

7. Kinh tế nƣớc Nga sau năm 1991 có những thay đổi nhƣ thế nào?

8. Trình bày những chính sách phát triển kinh tế của nƣớc Nga từ năm 2000 cho

đến nay.

9. Trình bày đặc điểm cơ bản của kinh tế CHLB Nga hậu Xô viết.

10. So sánh mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung của Liên Xô trƣớc đây và mô

hình kinh tế thị trƣờng hiện nay của nƣớc Nga.

78

CHƢƠNG 6. KINH TẾ TRUNG QUỐC

6.1. Đặc điểm kinh tế Trung Quốc thời kỳ phong kiến

Kinh tế Trung Quốc trƣớc năm 1949 đã trải qua hàng nghìn năm dƣới chế độ

phong kiến và thực dân phong kiến. Vốn là quốc gia đất rộng ngƣời đông, địa hình đa

dạng và phức tạp, tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhƣng sự thống trị của phong kiến và thực dan phong kiến đã kéo dài làm cho nền kinh tế Trung Quốc rơi và tình

trạng đói nghèo và lạc hậu.

Trƣớc khi chủ nghĩa tƣ bản thực dân phƣơng Tây xâm nhập, cơ sở kinh tế của

chế độ phong kiến Trung Quốc là nền kinh tế tự nhiên, nông nghiệp là nền tảng kinh

tế, thủ công nghiệp phát triển phụ thuộc vào nông nghiệp. Từ thế kỷ 19, các nƣớc phƣơng tƣ bản thực hiện thôn tính, nô dịch Trung Quốc thông qua thƣơng mại và chiến tranh biến nƣớc này thành nửa thuộc địa, nửa phong kiến. Các nƣớc đế quốc thao túng toàn bộ nền kinh tế Trung Quốc, phá vỡ cở sở của nền kinh tế

tự nhiên, phát triển các quan hệ tiền – hàng trong các lĩnh vực kinh tế xã hội.

Chế độ phong kiến và chế độ nửa thuộc địa đã để lại di chứng nặng nề ở Trung

Quốc. Đó là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu và công nghiệp nhỏ bé. Nông nghiệp

chiếm tỷ trọng lớn nhƣng phát triển bấp bênh, năng suất thấp. Công nghiệp trang bị kỹ

thuật thấp kém và năng suất cũng rất thấp. Ngoài ra, nền kinh tế Trung Quốc cũng bị

chiến tranh tàn phá nặng nề. 6.2. Kinh tế Trung Quốc từ ngày thành lập nƣớc Cộng hòa nhân dân

Trung Hoa đến năm 1978.

6.2.1. Khôi phục kinh tế từ 1949 - 1952

Sau ngày giải phóng, nền kinh tế Trung Quốc đang đứng trƣớc nhiều khó khăn,

sản xuất nông công thƣơng nghiệp trong tình trạng giảm sút nghiêm trọng. Do vậy

công cuộc khôi phục kinh tế đã đƣợc triển khai trên tất cả các lĩnh vực kinh tế:

* Trong nông nghiệp:

- Khắp các vùng nông thôn Trung Quốc thực hiện chủ trƣơng cải cách ruộng đất, từ tháng 6 năm 1950 đến cuối năm 1952 thì cải cách ruộng đất đã cơ bản hoàn thành. Kết quả 46 triệu ha ruộng đất đƣợc chia cho 300 triệu nông dân.

- Quan hệ sản xuất trong nông thôn Trung Quốc đã có sự thay đổi, quan hệ sản xuất phong kiến đã bị thủ tiêu, đồng thời trong điều kiện cụ thể thì sở hữu nhỏ và sản xuất nhỏ của ngƣời nông dân đã trở thành cơ sở cho sự phát triển của nông nghiệp của

Trung Quốc. Ngay trong giai đoạn cải cách ruộng đất, Trung Quốc đã bắt đầu xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp. Năm 1951 có 300 hợp tác xã, tới năm 1952 đã nâng lên 4000 hợp tác xã.

79

- Để tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển, Trung Quốc còn chú trọng phát

triển hệ thống thủy lợi. Từ năm 1949 - 1952, số lƣợng đất đào đắp là 1700 triệu m3, nhƣ vậy là gấp 25 lần kênh đào Xuyê và 10 lần so với kênh đào Panama về số lƣợng

đất đào đắp.

- Sản xuất nông nghiệp có điều kiện nhanh chóng phục hồi. Năm 1949, sản lƣợng

lƣơng thực là 108 triệu tấn, tới năm 1952 tăng lên 159,3 triệu tấn.

* Về công thương nghiệp:

- Trung Quốc đã tiến hành quốc hữu hóa nhằm thủ tiêu quyền lực kinh tế của tƣ

bản trong và ngoài nƣớc. Trên cơ sở ấy, các cơ sở kinh tế quốc doanh đã hình thành và

nhà nƣớc đã nắm lấy những mạch máu kinh tế quan trọng. Nhìn chung, tới cuối năm 1952, trong công nghiệp, kinh tế quốc doanh chiếm 50% giá trị sản lƣợng công nghệp;

trong thƣơng nghiệp, kinh tế quốc doanh chiếm 95% trong tổng số chu chuyển hàng

hóa và vật tƣ.

- Trong lĩnh vực công thƣơng nghiệp, bƣớc đầu đã hình thành nên quan hệ kinh

tế mới, góp phần tác động tích cực tới sự phát triển cảu nền kinh tế. Năm 1952 so với

năm 1949, giá trị sản lƣợng công nghiệp tăng 77,5%.

- Giá cả và tiền tệ cũng đi vào ổn định. Do vậy, đời sống nhân dân đƣợc cải thiện,

hoạt động tài chính tiến hành có kết quả. Năm 1952 thu chi tài chính cân bằng, riêng

số thu năm 1952 so với năm 1949 tăng 239%.

Nhƣ vậy sau 3 năm tiến hành khôi phục kinh tế, kinh tế Trung Quốc đã thu đƣợc

những thắng lợi cơ bản. Năm 1952, tổng giá trị sản lƣợng nông công nghiệp đạt

177,5% so với năm 1949. Tuy vậy, nhìn vào nền kinh tế Trung Quốc, với công nghiệp

thì sản phẩm tính theo đầu ngƣời còn thấp, ví dụ thép là 2,3kg, dầu lửa 0,7kg … Từ

tình trạng ấy, hàng năm Trung Quốc phải nhập 95% số lƣợng thép, 76% thiết bị máy

móc, 21% nguyên liệu dệt và 99% số lƣợng dầu mỏ … Để từng bƣớc xóa bỏ tình trạng

thấp kém và lạc hậu của nền kinh tế, Trung Quốc đã triển khai kế hoạch 5 năm lần thứ

nhất (1953 -1957) với 2 nhiệm vụ là cải tạo và phát triển kinh tế.

6.2.2. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1953 -1957)

Vào năm 1952, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đề ra đƣờng lối chung trong thời kỳ quá độ là trong một thời kỳ dài, dần dần thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, dần dần cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thƣơng nghiệp tƣ bản theo hƣớng xã hội chủ nghĩa. Dựa theo tinh thần đó, Trung Quốc đã vạch ra những nhiệm vụ và mục tiêu của kế hoạch 5 năm làn thứ nhất (1953 -1957).

Để thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1953 - 1957), Trung Quốc đã xúc tiến công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trên quy mô lớn, từ thành thị tới nông thôn, với tất cả các đối tƣợng nhƣ nông dân, thợ thủ công, tiểu

thƣơng và những nhà công thƣơng nghiệp, tƣ bản tƣ doanh. Nhìn chung công cuộc cải

80

tạo diễn ra với tốc độ nhanh và cơ bản hoàn thành vào nửa đầu năm 1956. Ví dụ, trong

nông nghiệp vào năm 1956 có 96% số hộ nông dân tham gia hợp tác xã, trong đó có 87% hộ nông dân tham gia hợp tác xã bậc cao.

Chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đã chiếm ƣu thế tuyệt đối trong nền kinh tế. Từ

đó, tỷ trọng các thành phần kinh tế trong nền kinh tế Trung Quốc đã có sự thay đổi. Từ

năm 1952 - 1957, kinh tế quốc doanh tăng từ 19% lên 33%, kinh tế hợp tác xã từ 1,5% lên 56%, kinh tế công tƣ hợp danh từ 0,7% lên 8%, cũng trong thời gian ấy, kinh tế cá

thể từ 73% giảm xuống 3%, kinh tế tƣ bản tƣ doanh từ 7% giảm xuống 0,1%.

Bƣớc vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Trung Quốc chủ trƣơng thực hiện một

bƣớc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa:

- Trong công nghiệp, Trung Quốc lấy xây dựng và phát triển công nghiệp nặng

làm trung tâm, gồm những ngành điện lực, than, gang, thép, hóa chất … Trong thời

gian 1953 - 1957 việc xây dựng công nghiệp ở Trung Quốc đã đƣợc sự giúp đỡ nhiều

mặt của Liên Xô và các nƣớc xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Các nƣớc này đã giúp Trung

Quốc 200 công trình công nghiệp quan trọng, đƣợc coi là xƣơng sống của nền công

nghiệp Trung Quốc đã bƣớc đầu hình thành. Nhìn vào kết quả của sản xuất công

nghiệp, tốc độ tăng hàng năm đạt 18%.

- Với sản xuất nông nghiệp, phong trào cải tiến kỹ thuật là xây dựng các công

trình tƣới tiêu đã góp phần thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Nhịp độ tăng hàng năm của nông nghiệp đạt 4,5%. Do vậy, sản lƣợng lƣơng thực năm 1957 đạt 185 triệu tấn.

Nhƣ vậy việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1953 -1957) của Trung

Quốc đã thu đƣợc một số thắng lợi cơ bản. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã đƣợc

xác lập và đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển của nền kinh tế. Sản xuất nông công

nghiệp đều có những tiến bộ.

Tuy vậy, với nền kinh tế Trung Quốc, cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, lao

động thủ công còn phổ biến, năng suất lao động thấp. Qua cải tạo xã hội chủ nghĩa,

chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đã đƣợc xác lập, nhƣng trình độ tổ chức và quản lý còn

bộc lộ nhiều yếu kém. Trong quá trình tiến hành, về quan điểm, Trung Quốc cho rằng: nền kinh tế càng thuần khiết xã hội chủ nghĩa càng tốt. Quan điểm này phản ánh tƣ tƣởng chủ quan, nóng vội, muốn hoàn thành nhanh chóng cải tạo xã hội chủ nghĩa. Việc đánh giá kết quả cải tạo xã hội chủ nghĩa thƣờng căn cứ vào số lƣợng, chứ ít chú ý tới chất lƣợng và hiệu quả.

Chính quan điểm nói trên đã phản ánh tới việc lựa chọn hình thức, bƣớc đi trong

quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc. Qua thực tế chỉ ra rằng, những hạn chế nói trên là chƣa nhận thức đầy đủ đặc điểm kinh tế xã hội của thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội, chƣa thấy đƣợc quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình

81

độ của lực lƣợng sản xuất. Tình trạng này nếu không đƣợc khắc phục kịp thời sẽ để lại

những hậu quả kinh tế to lớn trong thời kỳ lịch sử tiếp theo.

6.2.3. Kinh tế từ năm 1958 tới năm 1978

Từ năm 1958 đến năm 1978 là giai đoạn Trung Quốc với những chính sách kinh

tế tả khuynh, nóng vội, duy ý chí đƣợc phản ánh qua các mốc lịch sử cụ thể nhƣ “Đại

nhảy vọt” (1958 - 1965), “Đại cách mạng văn hóa vô sản” (1966 - 1976), “Bốn hiện đại hóa” (1976 - 1978). Những chính sách nói trên đã đƣa nền kinh tế Trung Quốc rơi

vào tình trạng khủng hoảng, mất cân đối nghiêm trọng.

* Kinh tế thời “Đại nhảy vọt” (1958 - 1965).

Vào tháng 9 năm 1956, đại hội Đản cộng sản Trung Quốc đã họp và khẳng định lại đƣờng lối xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, đồng thời còn phê phán

những biểu hiện tả khuynh trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế của giai

đoạn trƣớc. Đại hội còn vạch ra những chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1958 -

1962), những giá trị tổng sản lƣợng nền kinh tế sẽ tăng 75% so với năm 1957, trong đó

công nghiệp tăng gấp 2 lần, nông nghiệp tăng 35%.

Nhƣng sau đó tình hình thực tế không diễn ra nhƣ vậy. Vì từ hội nghị lần thứ 2

của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tƣ tƣởng Mao Trạch Đông đã chi phối toàn bộ đƣờng lối phát triển của Trung Quốc. Do vậy, những mục tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ hai

đã đƣợc sửa chữa lại. Trung Quốc dự định nâng sản lƣợng công nghiệp lên 6,5 lần, sản

lƣợng nông nghiệp lên 2,5 lần. Trong công nghiệp, một số ngành đƣợc đề ra với mục

tiêu rất cao, nhƣ sản xuất thép tăng 18 lần, điện tăng 15 lần, xi măng tăng 10 lần …

Để hƣớng tới những mục tiêu kinh tế nói trên, Trung Quốc phát động phong trào

ba ngọn cờ hồng: “Đƣờng lối chung, đại nhẩy vọt và công xã nhân dân”.

- Với công nghiệp, Trung Quốc tập trung cao độ để phát triển những ngành công

nghiệp nặng nhƣ luyện kim, chế tạo máy, hóa chất, điện lực ... Do tập trung cao độ để

phát triển công nghiệp nặng nền kinh tế Trung Quốc rơi vào tình trạng mất cân đối

nghiêm trọng, thể hiện giữa công nghiệp với nông nghiệp, giữa công nghiệp nặng và

công nghiệp nhẹ, giữa quy mô xây dựng và khả năng kinh tế tài chính, vật tƣ kỹ thuật, giữa tích lũy và tiêu dùng.

Bên cạch đó Trung Quốc còn phát động phong trào toàn dân làm công nghiệp, toàn dân làm gang thép. Đây là thời điểm sản xuất thép đƣợc đƣa lên hàng đầu, năm 1962 chỉ tiêu đặt ra là 10,5 - 12 triệu tấn, sau nâng lên 80 - 100 triệu tấn. Do vậy, khắp đất nƣớc Trung Quốc nhanh chóng mọc lên hàng chục xí nghiệp, lò cao do nhân dân

xây dựng. Sản xuất gang thép trong điều kiện nhƣ vậy nên chất lƣợng rất thấp. Hàng triệu tấn thép do nông dân luyện đúc không thể sử dụng đƣợc gây lãng phí tiền vốn và sức lao động.

82

- Với nông nghiệp, từ năm 1958, Trung Quốc xúc tiến xây dựng công xã nhân

dân ồ ạt. Mỗi công xã khoảng 5000 hộ nông dân. Nhìn chung, tới năm 1958 tất cả các nông dân đã đƣợc đƣa vào các công xã. Đây là giai đoạn khắp nông thôn Trung Quốc

tiến hành trƣng thu ồ ạt tƣ liệu sản xuất của nông dân, kinh tế phụ gia đình bị xóa bỏ ,

phân phối áp dụng theo chính sách bình quân. Để tăng thêm tích lũy nông nghiệp,

Trung Quốc còn phát động phong trào học tập và noi gƣơng công xã Đại Trại. Đó là công xã không xin nhà nƣớc chi viện, giúp đỡ, đã tự lực, tự cƣờng, phát triển và có

nhiều đóng góp với nhà nƣớc.

Nhƣ vậy từ những ý đồ, cùng những tham vọng chủ quan, khiến cho Trung

Quốc đứng trƣớc những hậu quả kinh tế nghiêm trọng. Sức sản xuất của xã hội bị phá hoại, tính ra hàng năm thu nhập quốc dân giảm 3%. Trong đó sản lƣợng các mặt hàng

công nghiệp đều giảm sút, với nông nghiệp, sản lƣợng lƣơng thực năm 1960 tụt xuống

160 triệu tấn. Đứng trƣớc những khó khăn về vấn đề lƣơng thực, hàng năm Trung

Quốc phải nhập một khối lƣợng khá lớn lƣơng thực bằng 1/3 tổng giá trị hàng hóa

nhập khẩu.

Tình hình kinh tế nói trên đã gây ra những đảo lộn trong đời sống kinh tế, chính

trị, xã hội. Trƣớc tình hình ấy, Hội nghị Trung Ƣơng lần thứ 9 (1 -1961) của Đản cộng

sản Trung Quốc đã đề ra những biện pháp nhằm khôi phục nền kinh tế. Với công

nghiệp, Trung Quốc đã giảm bớt hạng mục xây dựng, chuyển nhƣợng hƣớng phục vụ sản xuất nông nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng. Với công nghiệp, các công xã nhân

dân đƣợc chỉnh đốn và củng cố lại. Trong lĩnh vực tổ chức và quản lý nền kinh tế,

những phạm trù kinh tế với tính cách là những đòn bẩy kinh tế nhƣ giá cả, tiền lƣơng,

lợi nhuận v.v.. đƣợc sử dụng nhằm khuyến khích sản xuất và động viên ngƣời lao

động. Ở các vùng nông thôn Trung Quốc, các thợ địa phƣơng và những mảnh đất phần

trăm của nông dân đã đƣợc phục hồi. Qua thực tế, kinh tế phụ của nông dân đã đƣợc

chú trọng, chủ nghĩa bình quân trong phân phối đã đƣợc dẹp lại.

Với những biện pháp nói trên, đã kịp thời giải thoát những khó khăn cho nền

kinh tế Trung Quốc. Sản xuất từ năm 1963 đã đi vào ổn định. Do vậy, sản lƣợng lƣơng thực năm 1965 đạt 200 triệu tấn, sản lƣợng công nghiệp năm 1965 vƣợt năm 1957.

* Kinh tế thời “Đại cách mạng văn hóa vô sản” (1966 -1976) Bƣớc vào năm 1966, Mao Trạch Đông đã phát động cuộc “Đại cách mạng văn hóa vô sản”. “Đại cách mặng văn hóa vô sản” đã gây ra những biến động to lớn trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội ở Trung Quốc.

Bƣớc vào thời kỳ “Đại cách mạng văn hóa vô sản” những chính sách kinh tế tả khuynh thời kỳ trƣớc tiếp thục đƣợc áp dụng đã gây ra những xáo trộn không bình

thƣờng cho sự phát triển của nền kinh tế. Trong công nghiệp Trung Quốc tập trung đầu

tƣ phát triển công nghiệp nặng, đặc biệt là công nghiệp quân sự. Ở Trung Quốc trong

83

thời điểm này chi phí quân sự rất cao, thƣờng chiếm khoảng 10% tổng sản phẩm xã

hội, chiếm 40% trong tổng số ngân sách của nhà nƣớc. Tại một viện nghiên cứu năng lƣợng nguyên tử của Trung Quốc, có 300 cán bộ nhƣng chỉ có 20 ngƣời nghiên cứu

phục vụ công nghiệp dân sự, số đông còn lại nghiên cứu phục vụ công nghiệp quân sự.

Trong nông nghiệp, các công xã nhân dân lại quay trở về với chính sách tăng

cƣờng xã hội hóa tƣ liệu sản xuât, sức lao động. Kinh tế phụ thuộc của gia đình nông dân bị xóa bỏ. Hoạt động tài chính nhà nƣớc đẩy nhanh tích lũy từ nông nghiệp. Do

vậy, đời sống ngƣời lao động gặp nhiều khó khăn.

Những chính sách kinh tế tả khuynh nêu trên kiến tạo cho sản xuất bị phá hoại

nghiêm trọng, nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng kéo dài. Trên thực tế qua 3 năm đỉnh cao của thời đại “Đại cách mạng văn hóa vô sản”, sản lƣợng các loại sản

phẩm công nghiệp chủ yếu đều giảm sút hoặc không tăng

Bảng 6.1. Kết quả sản xuất một số ngành kinh tế của Trung quốc

giai đoạn 1966- 1968

Chủng loại sản phẩm Năm 1966 Năm 1967 Năm 1968

- Phân bón(triệu tấn) 9,6 8,1 9,5

- Than (tiệu tấn) 248,0 190,0 205,0

- Thép (triệu tấn) 13,0 10,0 14,0

- Xi măng (triệu tấn) 17,0 14,0 17,0

- Lƣơng thực (tiệu tấn) 212,0 218,0 212,0

- Vải (tỉ mét) 6,7 5,5 6,0

Nhìn vào tiềm lực công nghiệp của Trung Quốc trong 1 số ngành so với 1 số

nƣớc trên thế giới là thấp kém. Nếu sản lƣợng tính bình quân theo đầu ngƣời thì về

điện Trung Quốc, kém Mỹ 67 lần, kém Liên Xô 28 lần kém Anh 32 lần, về thép kém

Liên Xô 20 lần, kém Mỹ 19 lần, kém Nhật 32 lần …

Với nông nghiệp, sản xuất ngày càng trì trệ. Nhìn vào cơ sở vật chất kỹ thuật

trong nông nghiệp vô cùng yếu kém. Trong 4,7 triệu đội sản xuất, giá trị bình quân về

vốn cố định cho mỗi đội là 10 nghìn nhân dân tệ nhƣng giá 1 mát kéo loại 55 sức ngựa trên thị trƣờng Trung Quốc là 11 nghìn nhân dân tệ. Do vậy, với sản xuất nông nghiệp, lao động thủ công là phổ biến, nên năng suất lao động thấp. Ở Trung Quốc, 1 lao động nông nghiệp trong 1 năm sản xuất đƣợc 1 tấn lƣơng thực, nhƣ vậy so với 1 lao động nông nghiệp của Mỹ kém hơn 100 lần. Vì vậy, thu nhập của ngƣời lao động thấp, đồng thời sản xuất hàng hóa ngũ cốc giảm xuống 15% so với trƣớc đó (1953 - 1957) là 28%.

Sản xuất công nông nghiệp trong tình trạng nói trên, nên ngoại thƣơng cũng giảm sút theo. Tới năm 1971 kim ngạch ngoại thƣơng mới đạt bằng năm 1959 là 4,4 tỷ đô la.

84

Nhƣ vậy, những thảm họa kinh tế nói trên của Trung Quốc là hậu quả của chính

sách quân sự hóa nền kinh tế, cùng những biện pháp kinh tế tả khuynh coi thƣờng các quy luật khách quan. Do vậy, nhiều chính sách đặt ra ở Trung Quốc chƣa đúng hoàn

cảnh nhƣ chế độ phân phối sản phẩm theo nhu cầu trong điều kiện sản xuất xã hội còn

thấp kém. Chính xu hƣớng ấy đã đẻ ra thể chế tập trung quan liệu, bao cấp gây trì trệ

cho nền kinh tế, mà hậu quả của nó ngƣời Trung Quốc đã gói gọn trong 3 chữ “tử - lãn- cùng”, nghĩ là hoạt động sản xuất trì trệ nhƣ chết, ngƣời lao động thì lƣời biếng,

đất nƣớc thì nghèo khó cùng cực. Kết cục cuối cùng là chính trị xã hội thì rối loạn,

lòng dân ly tán và sản xuất giảm sút.

* Kinh tế thời kỳ “Bốn hiện đại hóa” (1976 -1978) Năm 1976, Trung Quốc chủ trƣơng thực hiện “Bốn hiện đại hóa”: công nghiệp,

nông nghiệp, khoa học kỹ thuật và quốc phòng. Chƣơng trình này đƣợc đƣa ra khá

sớm vào những năm 1964, 1975 nhƣng tới năm 1977 mới đƣợc Đảng Cộng sản Trung

Quốc chính thức thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ 11 và đƣợc triển khai thực hiện.

Mục tiêu “Bốn hiện đại hóa” thể hiện những tham vọng rất lớn, ví dụ trong giai

đọan đầu năm 1976 -1985, sản lƣợng tiến tới phải đạt đƣợc thép 600 tấn, lƣơng thực

400 triệu tấn/năm, Trung Quốc dự định tới năm 2000, sản lƣợng các loại sản phẩm

công nghiệp chủ yếu sẽ xấp xỉ và đuổi kịp các nƣớc tƣ bản phát triển. Trung Quốc cho

rằng trong khoảng thời gian 25 năm, Trung Quốc sẽ trở thành quốc gia hàng đầu của thế giới, có công nghiệp hiện đại, có quốc phòng và khoa học kỹ thuật tiên tiến.

Để thực hiện chủ trƣơng trên, Trung Quốc cố gắng tăng nhanh tích lũy, đẩy

nhanh nhập khẩu thiết bị và vay vốn của nƣớc ngoài. Tỷ lệ tích lũy trong thu nhập

quốc dân tăng lên tới 36,5%, Trung quốc tăng cƣờng đầu tƣ cho xây dựng cơ bản, năm

1978 là 45 tỷ đồng nhân dân tệ, bằng 1,5 lần năm 1977. Nguồn vốn đầu tƣ của Trung

Quốc chủ yếu tập trung cho khu vực sản xuất, với những ngành công nghiệp hiện đại.

Do vậy, khu vực phi sản xuất bị xem nhẹ. Từ đó những vấn đề ăn, ở, văn hóa, y tế

trong tình trạng thấp kém, không đƣợc chú ý.

Nhìn vào những diễn biến kinh tế ở Trung Quốc từ năm 1976 - 1978 phản ánh sự nôn nóng, là quá trình tiếp nối chủ trƣơng “Đại nhảy vọt” của thời gian trƣớc. Do vậy, dẫn tới hậu quả nghiêm trọng với nền kinh tế xét trên phƣơng diện cơ cấu và hiệu quả. Trong thời gian thực hiện “Bốn hiện đại hóa”, tỷ trọng nông nghiệp, công nghiệp trong nền kinh tế có sự thay đổi đáng chú ý. Với nông nghiệp, năm 1957 chiếm tỷ trọng 43%, thì năm 1978 hạ xuống 27% trong tổng giá trị sản lƣợng công nông nghiệp.

Cũng trong thời gian ấy, tỷ trọng công nghiệp từ 56% tăng lên 72% trong tổng giá trị sản lƣợng nông nghiệp. Tình hình nông nghiệp nhƣ vậy, nên trong thời gian 1976 -

1978 hàng năm Trung Quốc phải nhập khẩu 1 lƣợng lƣơng thực và thực phẩm thƣờng

chiếm tới 20% trong tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu.

85

Với công nghiệp, việc tập trung đầu tƣ cho công nghiệp nặng đã gây ra mất cân

đối nghiêm trọng với công nghiệp nhẹ. Năm 1978 vốn đầu tƣ cho công nghiệp nặng chiếm 55,7%, trong khi đó công nghiệp nhẹ chỉ chiếm 5,7% trong tổng số vốn đầu tƣ

xây dựng cơ bản. Do chính sách đầu tƣ nhƣ vậy, tỷ trọng giữa các ngành công nghiệp

cũng có sự thay đổi. Với công nghiệp nhẹ năm 1957 chiếm 53%, năm 1978 là 42%

trong tổng giá trị sản lƣợng công nghiệp. Cũng trong thời gian ấy, tỷ trọng công nghiệp nặng từ 46% tăng lên 57% trong tổng giá trị sản lƣợng công nghiệp. Tình hình

phát triển của công nghiệp nhƣ vậy, khiến cho hàng hóa tiêu dùng khan hiếm, đời sống

sinh hoạt của nhân dân gặp nhiều khó khăn.

Nhƣ vậy, chủ trƣơng “Bốn hiện đại hóa” mà Trung Quốc đƣa ra không phải là bài toán dễ dàng thực hiện, Trung Quốc đã nhận thức đƣợc chính sách nôn nóng không

thể đem lại hiệu quả kinh tế nhƣ mong muốn. Từ bài học thực tế này, Trung Quốc đã

tiến hành công cuộc cải cách và mở cửa trên cơ sở xem xét và đánh giá lại thực trạng

nền kinh tế của mình. 6.3. Kinh tế Trung Quốc từ 1978 đến nay

6.3.1 Kinh tế Trung Quốc từ năm 1978 tới năm 1987

* Nguyên nhân cải cách kinh tế ở Trung Quốc:

- Năm 1978 ghi nhận sự kiện lịch sử quan trọng của Trung Quốc, vào tháng 11

năm 1978, tại Hội nghị lần thứ 3 của Đại hội 11, Đảng cộng sản Trung Quốc đã vạch

rõ những quan điểm tả khuynh về kinh tế, chính trị của thời gian trƣớc, đó là nguyên

nhân gây nên sự trì trệ về kinh tế xã hội.

- Về phƣơng diện kinh tế, tại Hội nghị lần thứ 3 của Đảng cộng sản Trung Quốc đã xem xét đánh giá toàn diện thực trạng của kền kinh tế Trung Quốc. Với nông

nghiệp thì 700 triệu nông dân dùng lao động thủ công là phổ biến. Với công nghiệp thì

nhiều ngành sản xuất còn lạc hậu mấy chục năm, thậm chí có ngành sản xuất lạc hậu

hàng trăm năm so với công nghiệp hiện đại ở phƣơng tây. Tình hình sản xuất công

nông nghiệp nhƣ vậy, nên trình độ xã hội hóa sức sản xuất rất thấp kém, kinh tế hàng

hóa và thị trƣờng trong nƣớc không phát triển. Do vậy, kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên còn chiếm tỷ trọng tƣơng đối lớn trong nền kinh tế.

- Với thực trạng kinh tế nói trên, nếu tiếp tục kéo dài, sẽ đƣa đất nƣớc vào con đƣờng bế tắc, khủng hoảng. Từ xem xét và đánh giá thực trạng kinh tế xã hội, nhiều quan điểm ở Trung Quốc đều thống nhất rằng, cần làm sáng tỏ Trung Quốc đang ở giai

đoạn nào của sự phát triển lịch sử. Đây là vấn đề rất quan trọng, vì có nhƣ vậy mới xác lập đƣợc hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lƣợng sản xuất trong hoàn cảnh cụ thể. Từ thực trạng kinh tế xã hội, Trung Quốc cho rằng đất nƣớc đang ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, giai đoạn này kéo dài ít nhất là 100 năm. Đó là thời gian cần thiết để Trung Quốc thực hiện những việc mà nhiều nƣớc đã

86

thực hiện trong điều kiện tƣ bản chủ nghĩa, trƣớc khi các nƣớc này tiến hành cách

mạng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là thời gian để Trung Quốc thực hiện công nghiệp hóa, thƣơng phẩm hóa, xã hội hóa và hiện đại hóa sản xuất.

- Từ xem xét thực trạng kinh tế xã hội, chuyển sang phƣơng diện lý luận, Trung

Quốc cho rằng trong quá trình nghiên cứu, C.Mác không đặt ra cho mình nhiệm vụ

đƣa ra mô hình cụ thể về xã hội tƣơng lai. C.Mác đã đƣa ra những dự đoán thiên tài về xã hội tƣơng lai, đó là sự trừu tƣợng hóa cao độ với nền kinh tế có lực lƣợng sản xuất

đạt tới trình độ cao. Nhƣng trên thực tế, công cuộc xây dựng “chủ nghĩa xã hội hiện

thực” ở mỗi nƣớc lại tiến hành trong điều kiện lịch sử khác nhau và có khoảng cách rất

lớn so với sự trừu tƣợng hóa của C.Mác, đặc biệt với Trung Quốc, nền kinh tế còn ở trình độ rất thấp. Với cách xem xét, đánh giá về phƣơng diện lý luận và thực tiễn nói

trên, là cơ sở cho việc khởi thảo đƣờng lối cải cách kinh tế ở Trung Quốc.

* Về nội dung cải cách kinh tế ở Trung Quốc bao hàm nhiều vấn đề:

- Trƣớc hết Trung Quốc chủ trƣơng điều chỉnh lại cơ cấu của nền kinh tế vốn

mất cân đối từ trƣớc. Từ chính sách ƣu tiên phát triển công nghiệp nặng, chuyển sang

ƣu tiên phát triển sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và những ngành công nghiệp

đáp ứng nhu cầu cấp bách của đất nƣớc.

- Trung Quốc chủ trƣơng xây dựng nền kinh tế hàng hóa xã hội chủ nghĩa. Về

vấn đề này, quan điểm của Trung Quốc cho rằng, trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa không phải do kế hoạch điều tiết đơn nhất, mà có thể thực hiện sự kết hợp giữa kế

hoạch với thị trƣờng.

- Trung Quốc còn chủ trƣơng khôi phục và duy trì nền kinh tế có nhiều thành

phần. Về vấn đề này, quân điểm của Trung Quốc cho rằng trong điều kiện cụ thể, với

các tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa, không phải càng quy mô lớn càng tốt. Đồng thời

với nền kinh tế hiện tại không hoàn toàn càng công hữu, càng thuần khiết xã hội chủ

nghĩa càng tốt, mà cần đa dạng hóa các loại hình sở hữu trong điều kiện lấy chế độ

công hữu làm chủ thể. Từ chủ trƣơng khôi phục và duy trì nền kinh tế có nhiều thành

phần, nền kinh tế cá thể đƣợc khuyến khích phát triển, các hình thức tƣ bản nhà nƣớc cũng đƣợc chú trọng.

- Tiến hành đồng thời với cải cách kinh tế, Trung Quốc chủ trƣơng thực hiện chính sách mở cửa quan hệ với thế giới bên ngoài. Tại Hội nghị XII của Đảng cộng sản Trung Quốc đã khẳng định “chính sách mở cửa là đƣờng lối chiến lƣợc không thay đổi, là một điều kiện cơ bản để hiện đại hóa”. Thực chất hoạt động mở cửa của Trung

Quốc nhằm thu hút vốn và tranh thủ khoa học kỹ thuật, khi sản xuất và tiêu dùng ngày càng mang tính chất quốc tế hóa cao, thì hoạt động mở cửa là phản ánh xu thế khách

quan của thời đại với tất cả các quốc gia có nhu cầu phát triển kinh tế.

87

- Cùng với việc khởi xƣớng đƣờng lối cải cách kinh tế, Trung Quốc còn tiến

hành cải cách thể chế chính trị. Trung Quốc cho rằng trong thời gian qua, ở Trung Quốc đã hình thành bộ máy nhà nƣớc mang tính chất tập trung quan liêu, tổ chức thì

cồng kềnh nhƣng hiệu quả trong hoạt động lại rất thấp. Bên cạnh đó có tình trạng công

tác của Đảng và chính quyền chồng chéo lên nhau.

Qua thực tế, cải cách kinh tế đã tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ, làm sống

động nền kinh tế Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực:

- Với nông nghiệp, từ hội nghị Trung Ƣơng lần thứ 3 khóa XI (1978) đã coi

“nông nghiệp là cơ sở của nền kinh tế quốc dân” và “Nhiệm vụ hàng đầu đặt ra trƣớc

mắt là tập trung tinh lực làm cho nền nông nghiệp lạc hậu mau chóng phát triển”.

- Trong lĩnh vực công nghiệp, sự phát triển gắn với việc điều chỉnh phƣơng

hƣớng đầu tƣ giữa công nghiệp và nông nghiệp giữa công nghiệp nặng và công nghiệp

nhẹ. Tính từ năm 1979 Trung Quốc đã giảm bớt quy mô và tốc độ phát triển của công

nghiệp nặng. Đồng thời Trung Quốc chú trọng tăng quy mô và tốc độ phát triển của

công nghiệp nhẹ. Do vậy, trong những năm qua, cơ cấu của nền kinh tế đã bƣớc đầu

giảm đƣợc tỷ lệ mất cân đối giữa công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ và nông nghiệp.

Trong thời gian này, khả năng sản xuất của công nghiệp tăng nhanh. Vào năm 1980

sản lƣợng dầu mỏ đạt 106 triệu tấn, nhƣng năm 1987 sản lƣợng dầu mỏ là 134 triệu

tấn, than là 899 triệu tấn. Nhìn chung, từ năm 1979 - 1985, về giá trị sản lƣợng công nghiệp, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 10,1%.

- Những hoạt động kinh tế đối ngoại chính sách mở cửa đã tạo ra những chuyển

biến quan trọng, góp phần to lớn làm sống động nền kinh tế.

- Trong những sau cải cách, kim ngạch ngoại thƣơng của Trung Quốc tăng

nhanh. Năm 1978 là 20,6 tỷ đô la, năm 1987 là 83,7 tỷ đô la, nghĩa là tăng lên gấp 4

lần. Điều đáng chú ý là sự tăng nhanh trong lĩnh vực ngoại thƣơng của Trung Quốc

không phải chỉ so với giai đoạn trƣớc đây, mà còn nhanh hơn tốc độ của nhiều nƣớc

trên thế giới. Trong nhũng khoảng thời gian 10 năm (1978-1987), tốc độ bình quân với

hoạt động ngoại thƣơng của các nƣớc trong hội đồng tƣơng trợ kinh tế các nƣớc xã hội chủ nghĩa (SEV) là 7 - 8%, các nƣớc thuộc khối thị trƣờng chung châu Âu (EEC) là 3,1%, nhƣng tỷ lệ này ở Trung Quốc là 18,9%. Theo thống kê của Chính phủ Trung Quốc, trong thời gian 10 năm (1978-1987) thì hoạt động ngoại thƣơng của Trung Quốc tăng gấp 4 lần, sản xuất công nghiệp tăng 2,5 lần, sản xuất nông nghiệp tăng 2,25 lần. Tốc độ phát triển của ngoại thuơng tăng nhanh hơn tốc độ phát triển của sản

xuất. Điều đó chỉ ra rằng vai trò của ngoại thƣơng tác động trở lại với sự phát triển kinh tế trong nƣớc rất quan trọng.

- Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, Trung Quốc còn tranh thủ vay vốn của quỹ

tiền tệ quốc tế với điều kiện rất thuận lợi và chú trọng sử dụng nó có hiệu quả. Năm

88

1982, Trung Quốc đã vay của ngân hàng thƣơng mại quốc tế 10,8 tỷ đô la để thanh

toán tiền nhập khẩu thiết bị đồng bộ. Các nƣớc Tây Đức, Nhật, Anh ...cũng cung cấp tín dụng dài hạn với lãi suất thấp ƣu đãi cho Trung Quốc. Tháng 10 năm1984, Tây

Đức cho Trung Quốc vay 50 triệu Mác, với lãi suất 2% trả trong 30 năm.

Với chính sách mở cửa của Trung Quốc, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho tƣ

bản nƣớc ngoài đầu tƣ trực tiếp.

Từ năm 1978 - 1985, vốn đầy tƣ của tƣ bản nƣớc ngoài vào các xí nghiệp hợp

doanh là 16,2 tỷ đô la, trong đó 5 tỷ đô la đầu tƣ vào thăm dò và khai thác mỏ, số còn

lại là đầu tƣ vào công nghiệp nhẹ, điện tử, hóa chất, luyện kim ... Nhìn vào hoạt động

đầu tƣ của nƣớc ngoài vào Trung Quốc chủ yếu tập trung vào sản xuất, chiếm tới 70% trong tổng số xí nghiệp tƣ bản nƣớc ngoài đầu tƣ, do vậy, số xí nghiệp phi sản xuất chỉ

chiếm 25%.

Hoạt động đầu tƣ của nƣớc ngoài đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển

của các đặc khu kinh tế và thành phố mở cửa. Tỉnh Quảng Đông năm 1979, giá trị sản

phẩm sản xuất ra là 60 triệu nhân dân tệ, nhƣng tới năm 1987 là 8 tỷ nhân dân tệ.

Nhƣ vậy, mức tăng trƣởng thật là “thần kỳ” gấp 120 lần. Nhìn chung trong những

năm qua, chính sách mở cửa đã đem lại những kết quả đáng chú ý. Ở Trung Quốc,

việc đầu tƣ của nƣớc ngoài làm xuất hiện 5000 xí nghiệp hợp doanh, 120 xí nghiệp

nƣớc ngoài độc doanh. Tính tới năm 1987, có 40 nƣớc trong thế giới tƣ bản đã đầu tƣ kinh doanh vào Trung Quốc với 8796 hợp đồng kí kết. Trung Quốc đã sử dụng 31,9 tỷ

đô la vốn đầu tƣ của nƣớc ngoài. Trong quá trình hợp tác kinh doanh, Trung Quốc đã

sử dụng 7000 kĩ sƣ, kỹ thuật viên của Anh, Pháp, Mỹ, Nhật.

Riêng trong quan hệ với các nƣớc trong khối SEV, tính tới năm 1983 sau hơn 20

năm gián đoạn, Trung Quốc và Liên Xô lại nối quan hệ kinh tế. Năm 1985, Liên Xô đã

giúp Trung Quốc cải tạo lại 14 công trình công nghiệp cũ và xây dựng 7 công trình

công nghiệp mới. Với các nƣớc Đông Âu trong khối SEV, từ năm 1984 bắt đầu quay

lại hợp tác với Trung Quốc. Các nƣớc này nhận giúp Trung Quốc cải tạo 79 công trình

công nghiệp trị giá 80 triệu đô la thuộc các ngành chết tạo máy, luyện kim, hóa chất, điện tử, ...

Trên đây là những vấn đề kinh tế diễn ra trong thời kỳ cải cách mở cửa ở Trung Quốc đã thu hút đƣợc những thành tựu to lớn. Khối lƣợng tổng sản phẩm xã hội năm 1988 đạt tới 1092 tỷ nhân dân tệ. Trung Quốc đã cơ bản giải quyết đƣợc vấn đề ăn no, mặc ấm cho 1 tỷ ngƣời. Trung Quốc đã tạo việc làm cho 70 triệu ngƣời ở thành phố và

80 triệu nông dân đã chuyển sang khu vực kinh tế phi nông nghiệp. Tất cả những điều nêu trên phản ánh xu hƣớng tiến bộ trong phát triển kinh tế và tổ chức phân công lao

động xã hội ở Trung Quốc.

89

Tuy vậy, trong nền kinh tế vẫn tồn tại không ít khó khăn và những khó khăn ấy

không phải dễ dàng giải quyết đƣợc.

- Cụ thể tình trạng mất cân đối giữa các ngành đã giảm, nhƣng việc khắc phục nó

vẫn đang dai dẳng vì tốc độ tăng trƣởng của công nghiệp trong những năm qua vẫn

cao. Ứng phó với vấn đề này, trong việc điều chỉnh nền kinh tế, nhà nƣớc đã giảm đầu

tƣ cơ bản, nhƣng chỉ dừng lại ở mức độ nhất định. Năm 1987, đầu tƣ cơ bản vẫn chiếm 1/8 tổng thu nập quốc dân.

- Việc hiện đại hóa có những giới hạn của nó. Do vậy, còn nhiều xí nghiệp trang

bị kỹ thuật kém, sản xuất hiệu quả thấp. Trên thực tế có khoảng 1/6 số xí nghiệp bị

thua lỗ trong kinh doanh và có nguy cơ phải giải thể hoặc sát nhập.

- Trong nông nghiệp, Trung Quốc thực hiện chế độ khoán, tuy đã khắc phục đƣợc

tình trạng bế tắc lâu dài ở nông thôn, nhƣng lại phát sinh những vấn đề mới phải giải

quyết. Vì khoán trong nông nghiệp hạn chế vai trò của khoa học kỹ thuật, mà nguyên

nhân sâu xa là do điều kiện của sản xuất nông nghiệp quy định. Qua thực tế chỉ rõ

khuynh hƣớng phân tán trong sử dụng ruộng đất đã gây khó khăn cho việc áp dụng

khóa học kỹ thuật. Bên cạnh đó chế độ khoán tới hộ nông dân làm cho tính kế hoạch

phát triển kinh tế và sản xuất bị ảnh hƣởng, vì hoạt động của ngƣời nông dân đơn

thuần chạy theo cơ chế chế thị trƣờng. Nhìn vào nông thôn Trung Quốc trong mấy

năm có khoảng 105 lao động ở nông thôn là những ngƣời làm thuê. Đồng thời, cũng trong hoàn cảnh ấy thì nhiều hộ nông dân giàu lên rất nhanh.

Nhìn vào kinh tế Trung Quốc hơn 10 năm, chính sách cải cách và mở cửa với nội

dung chƣa hoàn chỉnh của nó đã làm sâu sắc thêm những tiêu cực trong xã hội. Những

hiện tƣợng nhƣ đầu cơ, tích trữ, tham nhũng hay hiện tƣợng kinh doanh sản xuất chạy

theo cơ chế thị trƣờng gây ra những cẳng thẳng trong tổ chức sản xuất và quản lý kinh

doanh. Xét trên phạm vi chung của nền kinh tế, Trung Quốc chƣa tìm ra đƣợc giải

pháp tốt nhất để giải quyết mối quan hệ giữa quản lý vi mô và quản lý vĩ mô. Qua thực

tế có biểu hiện Nhà nƣớc chƣa quản lý thống nhất các hoạt động xuất khẩu trên phạm

vi cả nƣớc. Trong thời gian gần đây, khi nền kinh tế đang đứng trƣớc nhiều biến động, nhƣng có hiện tƣợng Nhà nƣớc chƣa xác định rõ mối quan hệ giữa quản lý hành chính và quản lý kinh doanh. Do vậy, khi giải quyết các công việc cụ thể nhiều khi còn lúng túng, bị động.

Bên cạnh đó, việc Trung Quốc mở rộng cửa ra thế giới trong những năm qua nhằm tranh thủ vốn kỹ thuật, nhƣng chƣa đạt đƣợc ý đồ mong muốn. Nhìn chung, với

hoạt động đầu tƣ của nƣớc ngoài chƣa có quy mô lớn, việc chuyển giao công nghệ còn nhiều hạn chế, vì nó chƣa tập trung vào những ngành then chốt gắn liền với khoa học

kỹ thuật hiện đại.

90

6.3.2. Kinh tế Trung Quốc từ năm 1988 đến nay

6.3.2.1. Cải cách mở cửa * Về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế:

- Quan điểm, chủ trƣơng:

+ Nền kinh tế XHCN không nhất thiết phải thuần khiết công hữu.

+ Thực hiện đa dạng hoá các loại hình sở hữu: công hữu, tƣ hữu, sở hữu hỗn hợp; nền kinh tế nhiều thành phần (hình thức sở hữu do trình độ của lực lƣợng sản xuất

quyết định).

+ Kinh tế công hữu là chủ thể, kinh tế quốc hữu là chủ đạo.

+ Cho rằng quyền sở hữu và quyền kinh doanh có thể tách rời nhau. - Chính sách, biện pháp:

+ Thực hiện chế độ khoán trong nông nghiệp và các lĩnh vực khác.

+ Cải cách khu vực kinh tế quốc doanh (khu vực kinh tế nhà nƣớc).

+ Khuyến khích kinh tế tƣ nhân.

+ Kêu gọi đầu tƣ nƣớc ngoài.

* Về cơ chế quản lý kinh tế:

- Nền kinh tế XHCN không nhất thiết phải dựa trên cơ chế kế hoạch hoá tập

trung.

- Có thể kết hợp sử dụng hai công cụ, phƣơng tiện là kế hoạch và thị trƣờng để

điều tiết kinh tế.

- Chủ trƣơng xây dựng nền kinh tế hàng hoá XHCN, từ 1992, xây dựng nền kinh

tế thị trƣờng XHCN (hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước).

- Chính sách, biện pháp:

+ Giảm dần vai trò can thiệp trực tiếp bằng kế hoạch của nhà nƣớc.

+ Cải cách các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô: thuế, giá cả…

+ Hình thành các loại thị trƣờng.

+Cải cách hệ thống bộ máy quản lý kinh tế .

* Về điều chỉnh cơ cấu kinh tế: - Chủ trƣơng điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế để khắc phục tình trạng mất cân

đối.

- Chuyển thứ tự ƣu tiên phát triển từ công nghiệp nặng – công nghiệp nhẹ - nông

nghiệp sang nông nghiệp - công nghiệp nhẹ - công nghiệp nặng. - Coi nông nghiệp là cơ sở của nền kinh tế quốc dân.

- Khai thác, phát huy lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh . - Coi trọng hiện đại hoá cơ cấu kinh tế: năng động, có thể điều chỉnh linh hoạt. - Xu hƣớng: giảm tỷ trọng của nông nghiệp, tăng tỷ trọng của công nghiệp và

dịch vụ.

91

* Về chính sách mở cửa (kinh tế đối ngoại)

- Chính sách mở cửa đƣợc coi là đƣờng lối chiến lƣợc không thay đổi, là điều

kiện để hiện đại hoá.

- Chủ trƣơng đa dạng hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại, mở rộng quan hệ với

các nƣớc, các tổ chức quốc tế, không phân biệt về thể chế chính trị, về trình độ phát

triển nhƣng phải đem lại lợi ích cho Trung Quốc.

- Thực hiện mở cửa từng bƣớc: trƣớc tiên xây dựng các đặc khu kinh tế, tiếp đến

mở cửa các thành phố ven biển và sau đó là các khu vực khác.

- Biện pháp: cải cách ngoại thƣơng, tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu hút đầu tƣ

nƣớc ngoài (đặc biệt là FDI)…

* Về cải cách thể chế chính trị:

Thực chất của cải cách và mở cửa ở Trung quốc là chuyển đổi mô hình kinh tế, từ

nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng XHCN

mang màu sắc Trung quốc. Đó là quá trình cấu trúc lại nền kinh tế và thay đổi phƣơng

pháp vận hành nền kinh tế:

- Từ nền kinh tế thuần nhất công hữu sang nền kinh tế có nhiều loại hình sở hữu,

nhiều thành phần

- Từ vận hành nền kinh tế bằng cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền

kinh tế vận hành theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của nhà nƣớc

- Từ nền kinh tế mang nặng tính hiện vật sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá

- Từ nền kinh tế đóng sang nền kinh tế mở cửa, hội nhập quốc tế

- Phƣơng pháp cải cách mở cửa diễn ra thận trọng, tự do hóa giá cả đƣợc tiến

hành từng bƣớc và không sử dụng “liệu pháp sốc” trong cải cách.

- Chú trọng xử lý tốt mối quan hệ giữa cải cách cục bộ và cải cách chỉnh thể

- Áp dụng các phƣơng pháp vừa mạnh dạn vừa chắc chắn nhƣ kết hợp đột phá

trọng điểm với đẩy mạnh toàn diện, thí điểm trƣớc mở rộng sau.

- Mở rộng cải cách dần dần có trình tự và nhờ đó đã tránh đƣợc những xáo trộn xã

hội không cần thiết, hạn chế và ngăn chặn một cách hữu hiệu những rủi ro trong cải cách.

6.3.2.2. Những thành tựu kinh tế và hạn chế sau cải cách * Thành tựu: Cách đây hơn 30 năm, tháng 12-1978, Hội nghị Trung ƣơng 3 Khóa XI Ðảng CS Trung Quốc đã quyết định chuyển trọng tâm công tác sang xây dựng hiện đại hóa đất nƣớc. Ðó là hội nghị quan trọng, vạch ra con đƣờng mới xây dựng CNXH đặc sắc Trung

Quốc, mở ra thời kỳ lịch sử mới cho công cuộc cải cách mở cửa. Ðến nay, Trung Quốc từ một nƣớc nghèo nàn, lạc hậu, trở thành nền kinh tế lớn thứ nhì trên thế giới.

Theo số liệu vừa đƣợc Cục thống kê Quốc gia Trung Quốc (NBS) công bố, giá trị

tổng sản phẩm trong nƣớc (GDP) của Trung Quốc năm 2007 đạt 24.950 tỷ nhân dân

92

tệ, tƣơng đƣơng 23,7% GDP của Mỹ, 74,9% GDP của Nhật Bản và 99,5% GDP của

Ðức. Trong thời gian từ 1978 đến 2007, tốc độ tăng trƣởng trung bình của GDP Trung Quốc là 9,8%, cao hơn 3% so với tốc độ tăng trƣởng trung bình hằng năm của thế giới

trong cùng thời kỳ. Thu nhập bình quân đầu ngƣời của nƣớc này tăng từ 190 USD năm

1978 lên 2.360 USD năm 2007.

Trong 30 năm cải cách mở cửa, thành phần kinh tế phi tập thể trong nền kinh tế đã phát triển với tốc độ nhanh. Thành phần kinh tế nhà nƣớc không còn đóng vai trò

độc quyền ở Trung Quốc. Kinh tế tƣ nhân, doanh nghiệp nhà nƣớc và nƣớc ngoài cùng

tồn tại trong hệ thống kinh tế của Trung Quốc.

Số liệu của NBS cho thấy, năm 1978, xí nghiệp quốc doanh chiếm 77,6% tổng sản lƣợng công nghiệp Trung Quốc. Tuy nhiên, đến năm 2007, tỷ lệ này chỉ còn chiếm

29,5%. Mặc dù tỷ lệ giảm, nhƣng kinh tế quốc doanh vẫn là yếu tố quan trọng trong

kinh tế Trung Quốc.

Trƣớc khi cải cách mở cửa, Trung Quốc phải gánh chịu sự thiếu hụt nghiêm trọng

về hàng tiêu dùng và dịch vụ. Sau năm 1978, khả năng cung cấp hàng tiêu dùng của

Trung Quốc tăng nhanh và có thể đáp ứng nhu cầu của ngƣời dân. Năm 2007, sản

lƣợng lƣơng thực của Trung Quốc đạt 501,6 triệu tấn, tăng 64,6% so với năm 1978.

Giá trị gia tăng công nghiệp năm 2007 vƣợt mức 10.000 tỷ nhân dân tệ (1.470 tỷ

USD), tăng 23 lần so với năm 1978. Năm 2007, Trung Quốc đứng đầu thế giới về sản lƣợng sản phẩm nông nghiệp nhƣ ngũ cốc, thịt và bông. Các sản phẩm công nghiệp

nhƣ thép, than đá, xi-măng và phân hóa học của Trung Quốc cũng đạt sản lƣợng hàng

đầu thế giới. Trung Quốc đã có 22 doanh nghiệp lọt vào danh sách 500 doanh nghiệp

mạnh của thế giới.

Năm 2001, Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO), chính

thức trở thành một thành viên trong hệ thống thƣơng mại đa phƣơng toàn cầu, từng

bƣớc mở cửa thị trƣờng tài chính của mình và hoàn thiện các quy định, văn bản luật

pháp có liên quan. Thu nhập tài chính của Chính phủ Trung Quốc đã tăng gấp 45 lần

trong vòng 30 năm qua. Tháng 8-2008, Trung Quốc tổ chức thành công Ðại hội thể thao Olympic Bắc Kinh 2008, đƣợc đánh giá là đại hội quy mô hoành tráng và thành công nhất trong lịch sử các kỳ đại hội.

Trung Quốc đạt đƣợc tiến bộ rõ rệt trên các lĩnh vực khoa học kỹ thuật công nghệ, thể hiện nổi bật qua việc phóng thành công các tàu vũ trụ Thần Châu, đƣa nhà du hành vũ trụ Trác Chí Cƣơng bƣớc ra ngoài khoảng không vũ trụ; tự lực phát triển

các lĩnh vực công nghiệp quốc phòng then chốt, phục vụ đắc lực cho hiện đại hóa quốc phòng của nƣớc này.

93

Biểu đồ 6.1. Tốc độ tăng GDP của Trung Quốc (1978 – 2000)

* Hạn chế:

Bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc kinh tế Trung Quốc hiện nay còn một số hạn

chế cơ bản sau:

- Tăng trƣởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào vốn đầu tƣ.

- Tình trạng bất bình đẳng về thu nhập giữa các tầng lớp dân cƣ tăng.

- Tăng trƣởng kinh tế dẫn đến tình trạng nguy cơ khai thác cạn kiện nguồn tài

nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trƣờng.

- Hệ thống cơ sở hạ tầng cho đến nay vẫn chƣa theo kịp tiến trình tăng trƣởng

nhanh của nền kinh tế.

6.3.2.3 Bài học rút ra từ sau cải cách

- Xác định nông nghiệp là khâu đột phá trong cải cách. Những kết quả đạt đƣợc

trong cải cách nông nghiệp và nông thôn đã tạo tiền đề để mở rộng cải cách toàn bộ.

- Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa cải cách - phát triển - ổn định. Cải cách là biện

pháp, là động lực; phát triển là mục đích, là mục tiêu; ổn định là tiền đề, là điều kiện tất

yếu trong phát triển kinh tế quốc dân.

- Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận cải cách, coi trọng

phƣơng pháp và phƣơng thức của cải cách

- Kiên trì tiêu chuẩn phát triển lực lƣợng sản xuất, xử lý chính xác mối quan hệ

giữa hiệu suất với công bằng.

- Xử lý chính xác mối quan hệ giữa cải cách kinh tế và cải cách chính trị, “lấy

xây dựng kinh tế làm trung tâm”.

- Cần chú ý học tập kinh nghiệm của nƣớc ngoài. Về vấn đề cải cách và mở cửa mà Trung Quốc tiến hành là để tranh thủ vốn, kỹ thuật của nƣớc ngoài vài giải tỏa tình trạng trì trệ và bế tắc truyền thống. Về vấn đề cải

cách và mở cửa mà Trung Quốc tiến hành vào những năm 1980, khi xem xét đánh giá thì lúc đầu hầu hết những nhà kinh tế học xã hội chủ nghĩa đều cho là hữu khuynh

phục hồi chủ nghĩa tƣ bản và vi phạm những nguyên tắc Mácxit v.v… Nhƣng qua thực

tế diễn biến ở Trung Quốc trong những năm qua, cách nhìn nhận và đánh giá về công

cuộc xây dựng phát triển kinh tế ở đất nƣớc này đã có sự thay đổi. Quan điểm chung

94

đều thừa nhận rằng trong thời gian qua Trung Quốc đã đạt đƣợc những thành tựu rất

cơ bản và coi chính sách cải cách và mở cửa là 1 tất yếu khách quan trên con đƣờng phát triển của xã hội Trung Quốc. Từ những chuyển biến và thay đổi ấy, những ngƣời

Mácxit cho rằng Trung Quốc đi theo con đƣờng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với xu thế

thời đại, với nguyện vọng chung của các dân tộc trên đất nƣớc này.

95

Câu hỏi ôn tập

1. Tại sao nền kinh tế Trung Quốc phát triển chậm trƣớc năm 1978.

2. Trình bày nguyên nhân cải cách và mở cửa kinh tế của Trung Quốc từ năm

1978 đến nay. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này là gì?

3. Trình bày nội dung cải cách và mở cửa kinh tế của Trung Quốc từ năm 1978

đến nay. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này là gì?

4. Trình bày nguyên nhân và nội dung cải cách và mở cửa kinh tế của Trung

Quốc từ năm 1978 đến nay.

5. Trình bày những thành tựu trong phát triển kinh tế của Trung Quốc sau năm

1978 là gì?

6. Trình bày những hạn chế của nền kinh tế Trung Quốc từ năm 1978 đến nay?

7. Tại sao cho rằng cải cách kinh tế ở Trung Quốc trong năm 1978 là tất yếu? 8. Đặc điểm cơ bản của nền kinh tế Trung Quốc sau cải cách 1979 là gì?

9. Đánh giá những thành tựu mà kinh tế Trung Quốc đạt đƣợc sau cải cách kinh tế.

10. Trình bày những kinh nghiệm rút ra từ nghiên cứu quá trình cải cách và mở

cửa ở Trung Quốc từ năm 1978 đến nay.

96

CHƢƠNG 7. KINH TẾ ASEAN

7.1. Kinh tế Asean trƣớc khi giành độc lập

7.1.1. Cơ cấu kinh tế

Trƣớc khi bị thực dân phƣơng tây xâm lƣợc, phần lớn các nƣớc ASEAN đang ở

thời kỳ chế độ phong kiến.

Sau các phát kiến về địa lý vĩ đại, từ thế kỷ XVI, thực dân Châu Âu mà trƣớc hết

là Bồ Đào Nha, Tây Ba Nha đã xâm nhập vào vùng Đông Nam Á. Trong khoảng 20

năm đầu thế kỷ XVI, thực dân Bồ Đào Nha đã chiếm một số đảo và kiểm soát nhƣng

con đƣờng buôn bán chủ yếu trên Ấn Độ Dƣơng. Tiếp từ đó năm 1565 đến 1572, thực dân Tây Ba Nha đã chiếm Philippin và tiếp tục mở rộng các vùng thuộc địa ở Châu Á.

Từ thế kỷ XVII, tƣ bản Hà Lan, Anh, pháp đã dần chiếm ƣu thế trong các cuộc

tranh giành thuộc địa ở châu Á. Năm 1762 công ty Đông Ấn của Hà lan đƣợc thành lập và tiến hành sâm lƣợc Inđônêxia (Indonesia).Từ năm 1768, thực dân Anh bắt đầu

xâm lƣợc Mã Lai. Năm 1819, Anh chiếm Xingapo. Sau cuộc chiến tranh Mỹ - Tây Ba

Nha năm 1898, Philippin trở thành thuộc địa của Mỹ.

Đến cuối thế kỷ XIX, các nƣớc ASEAN đã trở thành thuộc địa của tƣ bản phƣơng

Tây. Các nƣớc và Đông Nam Á nói chung đã trở thành một trong những vùng thuộc

địa quan trọng nhất, là nơi cung cấp chủ yếu cho các nƣớc tƣ bản các loại nguyên liệu,

nông sản nhƣ gạo, bông, hồ, tiêu, gỗ, sợi, gai v.v… Tƣớc chiến tranh thế giới thứ hai,

Đông Nam Á chiếm 80 - 90% giá trị xuất khẩu của thế giới các loại mặt hàng này.

Ngoài ra khu vực này còn chiếm 90% cao su xuất khẩu của thế giới, 68% chì, 75% bột

sắt và sản phẩm dừa, 50% dầu dừa và một phần quan trọng dứa sợi, đƣờng mía, thuốc

lá, chè và nhiều loại nguyên liệu quý khác bán gia trên thị trƣờng thế giới.

Sự chuyển biến của nền kinh tế các nƣớc ASEAN phụ thuộc chặt chẽ vào nhu

cầu xuất khẩu thu lợi nhuận cao của tƣ bản chính quốc.

Trong giai đoạn đầu thống trị các nƣớc này, thực dân phƣơng Tây đã áp dụng phổ

biến các hình thức bóc lột siêu kinh tế mà điển hình mà chế độ trồng trọt cƣỡng bức. Hàng triệu nông dân buộc phải chuyển sang trồng các cây gia vị, cà phê, chàm và các cây công nghiệp khác nhằm phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu. Ngoài ra chính sách sƣu cao thuế nặng, trao đổi không ngang giá cũng đóng vai trò quan trọng.

Ở Đông Nam Á, chỉ còn có Thái Lan (trƣớc năm 1939 gọi là Xiêm ) độc lập do sự tranh chấp giữa Anh và Pháp. Thực chất Xiêm đã trở thành nƣớc nửa thuộc địa và

bị rằng buộc bởi một loạt các hiệp ƣớc bất bình đẳng với Anh, Pháp và các nƣớc tƣ

bản phƣơng Tây khác.

Từ cuối thế kỷ XIX, ASEAN là một trong những thị trƣờng đầu tƣ quan trọng

nhất của các nƣớc đế quốc với hai hình thức đầu tƣ kinh doanh và đầu tƣ cho vay.

97

Bảng 7.1. Đầu tƣ nƣớc nƣớc ngoài vào một số nức ASEAN trƣớc chiến tranh thế giới thứ hai (triệu đô la)

Đầu tƣ kinh doanh Đầu tƣ cho vay Nƣớc Năm

1.600 853(năm 1937) 1930

1930 447 113

Inđônêxia (Indonesia) Malaixia (Malaysia) Thái Lan 1938 90 34

(Thailand)

Philippin 1935 315 61

Phần lớn vốn đầu của tƣ bản nƣớc ngoài tập chung vào hai nghành: nông nghiệp

và công nghiệp khai thác.

Trong công nghiệp, phần lớn ruộng đất nằm trong tay địa chủ phong kiến và tƣ

bản nƣớc ngoài và phát triển chủ yếu phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu. Thái lan từ đầu

thế kỷ XX chủ yếu là độc canh sản xuất lúa gạo xuất khẩu. Năm 1940, diện tích trồng

lúa lên tới 2 triệu hécta. Ở một số nƣớc khác nhƣ Malaixia, Inđônêxia, Philippin lại

chủ yếu là phát triển các đồn điền trồng cây công nghiệp nhƣ cao su, cà phê, dừa, mía

v.v… Riêng Malaixia, khoảng 50% số vốn đầu tƣ của tƣ bản Anh tập trung vào cao su,

năm 1900 có 500 acoro cao su, năm 1940 lên đến 3,5 triệu acoro.

Trong công nghiệp, công nghiệp khai thác đƣợc chú trọng. Năm 1941, riêng ở

Malaixia có tới 70 công ty của tƣ bản Anh hoạt động trong ngành khai thác thiếc. Ở

một số nƣớc khác, tƣ bản nƣớc ngoài cũng đầu tƣ chủ yếu vào công nghiệp khai thác

nhƣ dầu ở Inđônêxia, thiếc ở Thái Lan, vàng, quặng sắt, đồng, crôm ở Philippin.

7.1.2. Chính sách kinh tế

Dƣới tác động của chính sách thuộc địa, cơ cấu kinh tế xã hội ở các nƣớc này có

sự thay đổi sâu sắc. Bên cạnh quan hệ sản xuất phong kiến, vẫn tiếp tục duy trì quan

hệ sản xuất mới xuất hiện nhƣng phát triển phiến diện. Nền kinh tế các nƣớc ASEAN

trong thời kỳ này có đặc điểm nổi bật sau:

- Kinh tế nông nghiệp lạc hậu vẫn là phổ biến. Nông nghiệp độc canh, tập trung chủ yếu vào một số loại cây công nghiệp hoặc xuất khẩu. Quan hệ sản xuất tƣ bản đã xâm nhập vào nông nghiệp, nhƣng các quan hệ sản xuất tƣ bản vẫn duy trì và tồn tại phổ biến với kỹ thuật sản xuất hết sức lạc hậu.

- Công nghiệp phát triển què quặt, phiến diện chủ yếu là công nghiệp khai thác

mỏ và một số ít cơ sở công nghiệp sơ chế nguyên liệu.

- Nền kinh tế phụ thuộc hoàn toàn vào tƣ bản nƣớc ngoài và phát triển theo

hƣớng xuất khẩu nguyên liệu và sản phẩm nông - lâm nghiệp. Các nƣớc tƣ bản thu

đƣợc nguồn nông lâm, khoáng sản phong phú từ các nƣớc này.

98

7.2. Kinh tế Asean sau khi giành độc lập

7.2.1 Sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân mới

- Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các nƣớc ASEAN đã lần lƣợt giành đƣợc độc

lập về chính trị:

+ Ngày 17 tháng 8 năm1945, nƣớc cộng hòa Inđônêxia đƣớc thành lập. + Ngày 4 tháng 7 năm 1946, Mỹ chính thức công nhận Philippin là nƣớc cộng

hòa độc lập.

+ Tháng 8 năm1957, chính phủ Anh tuyên bố “trao trả” độc lập cho Malaixia

+ Ngày 9 tháng 8 năm 1965 Xingapo tách khỏi liên bang Malaixia và tuyên bố

thành lập nƣớc cộng hòa Xingapo.

+ Ngày 1 tháng1 năm1984, Anh tuyên bố “trao trả” độc lập cho Brunây

(Brunei).

- Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ và và các nƣớc tƣ bản phát triển vẫn tiếp

tục tìm mọi cách khống chề nền kinh tế các nƣớc này bằng nhiều thủ đoạn thực dân

mới nhằm tiếp tục duy trì các nƣớc này trong quỹ đạo của hệ thống kinh tế tƣ bản chủ

nghĩa thế giới.

Chính sách viện trợ đƣợc coi là công cụ quan trọng nhất mở đƣờng cho sự xâm

nhập của chủ nghĩa thực dân mới. Trong khoảng hơn 20 năm đầu sau chiến tranh thế

giới thứ hai, Mỹ đứng đầu các nƣớc tƣ bản phát triển về tổng số viện trợ cho các nƣớc

ASEAN. Thời kỳ 1960 - 1967, Mỹ chiếm 50,9%, Nhật: 32%, Anh: 6,1%, Tây Đức:

9,6%. Trong tổng số 1.395,1 triệu USD viện trợ cho các nƣớc ASEAN trong thời kỳ năm 1968 -1970 Mỹ chiếm tới 53%, Nhật chiếm 30,1%

Từ những năm 1970, Nhật Bản đã nhanh chóng vƣợt Mỹ về viện trợ, đầu tƣ và

thƣơng mại với ASEAN:…..

Thị trƣờng Đông Nam Á đƣợc Nhật Bản coi là địa bàn quan trọng bậc nhất trong

chiến lƣợc kinh tế đối ngoại. Dƣới chiêu bài xây dựng “khu vực mậu dịch tự do châu

Á -Thái Bình Dƣơng” và bằng các biện pháp linh hoạt nhƣ bồi thƣờng chiến tranh,

tăng cƣờng tín dụng thƣơng mại xuất, nhập khẩu, viện trợ kỹ thuật v.v… Nhật Bản đã vƣơn lên giành vị trí số một trong chiếm lĩnh thị trƣờng ASEAN. Mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa thực dân mới Nhật Bản là biến ASEAN thành thị trƣờng tiêu thụ hàng hóa, nơi cung cấp nguyên liệu, nông lâm sản cho nền kinh tế Nhật Bản.

Dƣới hình thức các công ty hỗn hợp, tƣ bản nƣớc ngoài đã thâm nhập sâu và nắm

nhƣng vị trí then chốt trong nền kinh tế ASEAN. Các công ty tƣ bản nƣớc ngoài kiểm soát trên 45% tổng số đầu tƣ cho công nghiệp ASEAN. Phần của tƣ bản nƣớc ngoài trong tổng số đầu tƣ ở Xingapo vào nhƣng năm 70%: 69,4%, Philippin: 57,9%, Malaixia: 54,8%, Thái Lan: 29,1%. Từ đầu nhƣng năm 1970, ở Philippin có 205 chi nhánh của các công ty độc quyền xuyên quốc gia, Xingapo (Singapore): 115,

99

Malaixia: 136, Inđônêxia: 50. Riêng ở Xingapo, từ năm 1975, tƣ bản nƣớc ngoài kiểm

soát 451 xí nghiệp công nghiệp chế biến, chiếm 66,2% tổng số vốn, 68,9% sản phẩm, 55% số lƣợng công nhân của toàn ngành trong tổng số 72 ngân hàng là của tƣ bản

nƣớc ngoài. Ở Inđônêxia, trên 50% tổng số vốn đầu tƣ hàng năm là dựa vào vốn đầu tƣ

nƣớc ngoài. ở Malaixia, tƣ bản nƣớc ngoài nắm khoảng 50% các nghành công nghiệp

hiện đại, trên 50 đồn điền cao su, dầu cọ. Ở Philippin, tƣ bản Mỹ kiểm soát phần lớn công nghiệp khai khoáng và dầu mỏ.

7.2.2. Mô hình phát triển ASEAN

Sau khi giành đƣợc độc lập, các nƣớc ASEAN chủ trƣơng phát triển nền kinh tế

nhiều thành phần, tạo điều kiện cho đầu tƣ của tƣ bản tƣ nhân trong và ngoài nƣớc. Nét nổi bật bao chùm trong chính sách kinh tế của các nƣớc ASEAN là:

- Dựa trên cơ chế thị trƣờng tự do, áp dụng rộng rãi chế độ mậu dịch, tự do thuế

quan, ngoại thƣơng, hối đoái, tiền tệ, ngân hàng. Áp dụng rộng rãi nhất các chính sách

này là Xingapo và Malaixia.

- Nhà nƣớc điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế quốc dân thông qua chính sách thuế và

áp dụng các đòn bẩy kinh tế. Khu vực kinh tế nhà nƣớc chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ.

Để tạo điều kiện phát huy nhanh tróng và thu hút nguồn vốn của tƣ bản tƣ nhân trong và ngoài nƣớc, hầu hết các nƣớc ASEAN đều tập chung vào thực hiện hai chức

năng sau:

- Thứ nhất, phần lớn ngân sách nhà nƣớc tập trung vào xây dựng cơ sở kinh tế hạ

tầng nhƣ giao thông vận tải, thông tin liên lạc, dịch vụ xây dựng hệ thống thủy lợi, bến

bãi, kho hàng …

- Thứ hai, xây dựng khu vực kinh tế nhà nƣớc trên cơ sở nguồn viện trợ từ bên

ngoài và cùng với các công ty độc quyền nƣớc ngoài thành lập các công ty, xí nghiệp

hỗn hợp đòi hỏi vốn đầu tƣ lớn, kỹ thuật hiện đại, nhằm hỗ trợ cho khu vực tƣ nhân,

mua hoặc thuê lại nhƣng xí nghiệp tƣ nhân khi bị thua lỗ.

Các nƣớc ASEAN đều có chính sách ƣu tiên đặc biệt để thu hút ngày càng nhiều

vốn đầu tƣ từ bên ngoài. Chính sách này bao gồm nội dung chủ yếu sau:

- Bảo đảm cho đầu tƣ của tƣ bản nƣớc ngoài và tạo điều kiện thuận lợi cho tƣ bản nƣớc ngoài nhanh chóng phát huy vốn đầu tƣ. Các nƣớc ASEAN đều đã sớm ban hành luật đầu tƣ nƣớc ngoài, trong đó đảm bảo không quốc hữu hóa, xác định rõ quyền sở hữu kinh doanh của tƣ bản nƣớc ngoài. Nhà nƣớc trực tiếp thực hiện chính sách bảo hiểm đối với vốn đầu tƣ từ bên ngoài, áp dụng một số chính sách cụ thể ƣu tiên cho

đầu tƣ vào những ngành công nghiệp mũi nhọn, kỹ thuật hiện đại, kiến lập môi trƣờng đầu tƣ thuận lợi nhƣ tạo cơ sở kinh tế xã hội, quan hệ cung - cầu, ổn định chính trị … Về chính sách này, mỗi nƣớc có một biện pháp cụ thể khác nhau.

100

- Các nƣớc ASEAN đã đặc biệt chú trọng đến xây dựng cơ sở hạ tầng. Ở

Philippin từ năm 1971 đến 1975. Đầu tƣ cho giao thông vận tải chiếm 50% trong tổng số vốn đầu tƣ của ngân sách nhà nƣớc về phát triển kinh tế. Trong tổng số tiền vay từ

bên ngoài trong thời kỳ 1970 - 1975 là 991,7 triệu đô la của nhà nƣớc Philippin thì

66% đƣợc dùng để phát triển cơ sở kinh tế hạ tầng.

- Để kích thích đầu tƣ và tăng khả năng cạnh tranh của đầu tƣ nƣớc ngoài, các nƣớc ASEAN đã áp dụng chính sách bảo đảm cung cấp lao động ổn định và rẻ mạt,

nhà nƣớc trực tiếp xây dựng các khu vực dành riêng cho xí nghiệp của tƣ bản nƣớc

ngoài hoặc xí nghiệp hỗn hợp. Nhiều nƣớc đã quy định chế độ của công nhân thấp,

xóa bỏ các quyền bãi công, đình công của công nhân bản xứ.

- Nhiều khu vực dành riêng cho đầu tƣ nƣớc ngoài xây dựng với những điều kiện

đặc biệt thuận lợi về cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống gia thông vận tải, kho tàng, điện

nƣớc, nhà ở, dịch vụ .… Nhƣng khu vực này thƣờng là gần ở hải cảng, sân bay quốc tế.

* Sự phát triển một số ngành kinh tế:

“Cách mạng xanh” và phát triển nông nghiệp: Sau chiến tranh thế giới thứ hai,

hầu hết các nƣớc ASEAN đều đã ban hành các đạo luật về cải cách ruộng đất. Mỗi

nƣớc có biện pháp khác nhau, nhƣng đều có đặc điểm chung là:

- Thứ nhất, cải cách ruộng đất đều nhằm tiếp tục duy trì chế độ chiếm hữu

ruộng đất của địa chủ.

- Thứ hai, cải cách ruộng đất đều thực hiện chế độ bồi thƣờng cao đối với ruộng

đất bị thu hồi. Vì vậy, một số ít địa chủ đƣợc bồi thƣờng một khoản rất lớn.

- Thứ ba, cải cách ruộng đất cùng một số biện pháp khác đã đem lại quyền lợi

cho tầng lớp trên ở nông thôn và tạo điều kiện cho sự phát triển của chủ nghĩa tƣ bản

trong nông nghiệp.

Từ cuối những năm 1960, nông nghiệp ASEAN đã có những bƣớc chuyển biến

nhanh tróng theo hƣớng chuyển thành phần chuyển thành phần kinh tế địa chủ phong

kiến sang kinh doanh tƣ bản chủ nghĩa, một bộ phận lớn nông dân từ sản xuất tự cấp tự

túc chuyển sang sản xuất hàng hóa phục vụ kinh tế đô thị và xuất khẩu. Cùng với việc mở rộng diện tích canh tác, đa dạng hóa cây trồng xuất khẩu, nhiều nƣớc đã triển khai mạnh mẽ áp dụng khoa học kỹ thuật và phƣơng pháp canh tác mới, phát triển hệ thống thủy lợi, lai tạo giống mới, tăng cƣờng đầu tƣ cho nông nghiệp. Trên thực tế, cuộc “cách mạng xanh” trong trồng trọt đã đƣợc thực hiện ở các nƣớc ASEAN.

Thái Lan ở chỗ chỉ có hai cây trồng truyền thống là lúa và cao su. Từ những

năm 70 đã nhanh tróng đa dạng hóa cây trồng xuất khẩu. Philippin từ cuối những năm 60 thực hiện rộng rãi nhiều trƣơng trình thâm canh và hiện đại hóa sản xuất lƣơng

thực, thực phẩm. Chƣơng trình “Cách mạng xanh” với phong trào Masagana 99 áp

dụng giống lúa mới đạt năng suất 99 cavan/ha = 5,7 tấn/ha hai vụ; chƣơng trình đẩy

101

mạnh chăn nuôi, chƣơng trình thành lập các công ty tƣ bản cổ phần nông nghiệp …

Sản lƣợng lúa tăng nhanh, từ 5.75 triệu tấn năm 1973 lên 9 triệu tấn năm 1978. Nhờ đó Philippin đã tự túc đƣợc lƣơng thực và bắt đầu có xuất khẩu.

“Cách mạng xanh” đã đạt đƣợc nhƣng kết quả đáng kể, nhƣng nhìn chung công

nghiệp nhiều nƣớc ASEAN vẫn đang trong tình trạng phát triển bấp bênh, phụ thuộc

chầm trọng vào viện trợ và đầu tƣ của tƣ bản nƣớc ngoài. Sự hạn chế của nông nghiệp ASEAN đến nhƣng năm gần đây thể hiện trên mấy nét chính sau đây:

- Những tàn tích của quan hệ sản xuất phong kiến và tiền phong kiến vẫn còn

tồn tại. Một bộ phận lớn nông dân nghèo không có hoặc có ít ruộng đất. Sự phân hóa

trong nông thôn gay gắt, mâu thuẫn kinh tế xã hội ngày càng phức tạp.

- “Cách mạng xanh” chỉ đƣợc áp dụng ở một số vùng nhất định. Tại nhiều vùng

nông thôn rộng lớn, kỹ thuật sản xuất còn lạc hậu.

* Chiến lược “phát triển công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu” và chiến lược

“phát triển công nghiệp hướng ra xuất khẩu”:

- Chiến lƣợc “phát triển công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu” đã thực hiện ở các

nƣớc ASEAN trong nhƣng năm 50, 60 với nội dung:

+ Giảm bớt sự phụ thuộc đối với hàng nhập khẩu từ bên ngoài. Hạn chế tối đa

hàng thành phẩm công nghiệp nhập từ các nƣớc công nghiệp phát triển.

+ Tập trung phát triển một số ngành công nghiệp trong nƣớc thay thế hàng nhập

khẩu từ nƣớc ngoài.

+ Mở rộng thị trƣờng nội địa, tận dụng tối đa vốn đầu tƣ trong nƣớc.

+ Vẫn tiếp tục tạo điều kiện cho nền kinh tế tƣ nhân trong và ngoài nƣớc nắm giữ

những vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân.

- Đối với hầu hết các nƣớc ASEAN, chiến lƣợc này có một số yếu tố tích cực

sau đây:

+ Giúp các nƣớc này xây dựng cơ sở công nghiệp then chốt, chủ yếu dựa vào

nguồn lực trong nƣớc.

+ Tăng cƣờng vị trí của tƣ bản dân tộc và khu vực kinh tế Nhà nƣớc. Tuy nhiên, chiến lƣợc công nghiệp này ở các nƣớc ASEAN còn có một số hạn chế: + Trong điều kiện của nền kinh tế “mở”, hàng hóa trong nƣớc không thể cạnh tranh đƣợc với nhƣng hàng hóa nƣớc ngoài. Kết quả là, các nƣớc này vẫn phải nhập khẩu ngày càng nhiều hơn các loại nguyên liêu, kỹ thuật, máy móc từ bên ngoài và kinh tế các nƣớc ASEAN ngày càng lệ thuộc chặt chẽ hơn vào các nƣớc công nghiệp

phát triển.

+ Những khó khăn về kinh tế xã hội càng trở nên gay gắt hơn, lạm phát tăng

nhanh, nợ nƣớc ngoài ngày càng nhiều. Thị trƣờng trong nƣớc không đƣợc mở rộng,

nhiều xí nghiệp trong nƣớc bị phá sản do kinh doanh thua lỗ.

102

+ Nguồn lực nền trong nƣớc trong điều kiện một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu

đã không hiệu quả.

+ Do thiếu kinh nghiệm quản lý, do cơ chế quản lý mang tính tập trung hóa nên

cơ sơ kinh tế Nhà nƣớc nhìn chung hoạt động không hiệu quả.

- Từ đầu những năm 1965 đến những năm đầu thập kỷ 1990, các nƣớc ASEAN

thực hiện chiến lƣợc mới “phát triển công nghiệp hƣớng ra xuất khẩu”.Đây là sự thay đổi căn bản trong chính sách công nghiệp nói riêng và chính sách phát triển kinh tế nói

chung ở ASEAN 5. Đó là quá trình chuyển đổi nền kinh tế tự cung, tự cấp, kép kín

sang nền kinh tế thị trƣờng mở, hội nhập kinh tế thế giới.

Nội dung thực hiện cơ bản của chiến lƣợc này là: + Các nƣớc ASEAN chủ trƣơng tận dụng tối đa nguồn vốn và kỹ thuật từ bên

ngoài tập trung phát triển những ngành công nghiệp có thể xuất khẩu đƣợc.

+ Từng bƣớc cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trƣờng thế giới.

Thực hiện các chiến lƣợc này, các nƣớc đã áp dụng một số biện pháp và chính

sách chủ yếu sau:

+ Chính sách mở cửa rộng rãi và tự do về kinh tế: hầu hết các nƣớc ASEAN

trong giai đoạn này thực hiện tiến hành các biện pháp tăng cƣờng mở cửa nền kinh tế

nhƣ giảm và miễn thuế hàng xuất khẩu, bãi bỏ các hàng rào phi thuế quan đối với hàng

hóa xuất khẩu, đơn giản hóa thủ tục hải quan, thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu, cho phép tƣ nhân đƣợc trực tiếp xuất khẩu…

+ Áp dụng chính sách tỷ giá có lợi cho xuất khẩu: quá trình này đƣợc thực hiện

từng bƣớc, từ chỗ bãi bỏ chế độ tỷ giá cố định, phá giá đồng tiền trong nƣớc, thực hiện

chế độ tỷ giá linh hoạt và cuối cùng là thực hiện thả nổi tỷ giá.

+ Tạo môi trƣờng kinh doanh thuận lợi để đẩy nhanh công nghiệp hóa theo

hƣớng khuyến khích xuất khẩu thông qua việc cải cách bộ máy hành chính, tƣ nhân

hóa khu vực kinh tế Nhà nƣớc, cải cách hệ thồng ngân hàng theo hƣớng kinh doanh

tiền tệ. Đồng thời thực hiện phát triển cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế.

+ Khuyến kích khu vực tƣ nhân phát triển và thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài + Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng phát triển những ngành có thể xuất khẩu đƣợc. Trong giai đoạn đầu thực hiện đổi mới cơ cấu công nghiệp từ chủ yếu là các ngành truyền thống sang phát triển công nghiệp và sử dụng nhiều lao động và có khả năng xuất khẩu thu lợi nhuận cao. Trong nông nghiệp thực hiện “cách mạng xanh”, đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp và các loại hình nông sản. Trong lĩnh vực

“dịch vụ” thực hiện đổi mới mạnh mẽ hệ thống dịch vụ, trƣớc hết là hệ thống tài chính ngân hàng phù hợp với nền kinh tế thị trƣờng hƣớng ra xuất khẩu

* Tài chính, tiền tệ và kinh tế dịch vụ:

103

Từ những năm 1970, hệ thống ngân hàng, tín dụng ở các nƣớc ASEAN phát triển

đặc biệt. Hầu hết các nƣớc này đều thực hiện chính sách hối đoái tự do, mở rộng thị trƣờng tiền tệ, tăng cƣờng kinh tế đô thị và dịch vụ trên cơ sở thực hiện “mở cửa” rộng

rãi.

Trong những năm gần đây, nền kinh tế dịch vụ - “khu vực kinh tế thứ 3” ở các

nƣớc ASEAN đã chiếm vị trí quan trọng bậc nhất về lực lƣợng lao động cũng nhƣ về giá trị trong tổng sản phẩm xã hội. Ở tất cả các nƣớc ASEAN, khu vực kinh tế dịch vụ

đều chiếm tỷ lệ cao hơn nông nghiệp và công nghiệp trong cơ cấu giá trị tổng sản

phẩm quốc dân. Trong đó, Xingapo đã chở thành trung tâm nổi bật về tài chính,

thƣơng mại, du lịch quốc tế ở châu Á và thế giới. Thị trƣờng vàng ở Xingapo đƣợc thiết lập từ năm 1969 nhà nƣớc cho phép 10 hãng buôn lớn đƣợc phép hoạt động có

thể mua vàng từ bất kỳ quốc gia nào và bán tự do không bị đánh thuế. Vì vậy, số lƣợng

vàng nhập vào Xingapo ngày càng nhiều (đầu năm 1981 đã lên đến 15 tấn). Nhà nƣớc

chủ trƣơng thiết lập thị trƣờng ngoại hối, tự do trao đổi ngoại tệ. khối lƣợng giao dịch

của thị trƣờng Xingapo tăng từ 100 triệu đô la Mỹ năm 1969 lên 54 tỷ đô la Mỹ và tiếp

tục tăng nhanh những năm sau đó. Xingapo cũng là trung tâm hoạt động nhộn nhịp của

các ngân hàng. Năm 1975 đã có 70 ngân hàng và 36 đại diện của công ty tài chính

quốc tế. Các ngân hàng này đã thu hút một số lƣợng vốn rất lớn từ các nƣớc tƣ bản

phát triển và các nƣớc tƣ bản đang phát triển. Bên cạnh Xingapo, thì Manila, Băngcốc (Bangkok), Cualalămpơ (Kuala Lumpur) thị trƣờng tiền tệ và ngân hàng cũng đang phát triển với nhịp độ nhanh.

* Quan hệ kinh tế đối ngoại:

- Hợp tác kinh tế trong nội bộ ASEAN: ASEAN đƣợc thành lập từ năm 1967,

nhƣng trong một số thời gian dài các nƣớc này còn có nhiều quan điểm bất đồng về lợi

ích kinh tế của từng quốc gia trong khu vực.

Trong khoảng 10 năm đầu, cơ cấu tổ chức ASEAN còn lỏng lẻo, phản ánh sự do

dự của các thành viên, giữa các nƣớc chƣa có các nhƣng chƣơng trình hợp tác kinh tế chặt trẽ, quy mô lớn. Năm 1975 các nƣớc ASEAN mới thành lập ủy ban hợp tác

chuyên ngành nhƣ ủy ban lƣơng thực và nông nghiệp, ủy ban hàng hải, thông tin, vận tải, du lịch, thƣơng mại, khoa học và kỹ thuật … Ngoài ra còn có một loạt các tổ chức phi chính phủ nhƣ ủy ban hợp tác thanh niên, liên hiệp phụ nữ ASEAN, Hiệp hội các nhà làm phim ASEAN …

Năm 1976, Hội nghị cấp cao 5 nƣớc ASEAN họp ở Bali (Inđonêxia) đánh dấu

bƣớc phát triển quan trọng trong quan hệ hợp tác kinh tế giữ các nƣớc này. Hội nghị

đã thông qua ba văn kiện quan trọng: hiệp ƣớc hữu nghị và hợp tác. Bản tuyên bố về

sự hòa hợp của ASEAN và thông cáo chung ASEAN. Từ năm 1977, cơ cấu tổ chức

ASEAN đƣợc cải tổ lại đã tạo điều kiện cho sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các thành

104

viên trong tổ chức. Tháng 2 năm 1977, hiệp nghị mậu dịch ƣu đãi đƣợc kí ở Manila

nhằm tăng cƣờng quan hệ mậu dịch giữa các thành viên. Theo đó, mỗi nƣớc sẽ có chính sách cụ thể dần giải phóng mậu dịch trong khu vực khỏi hàng rào thuế quan

cách biệt nhau, giảm thuế định kỳ lần lƣợt đối với từng sản phẩm. Năm 1977 có 71

mặt hàng, đến cuối năm 1982 có 2.592 mặt hàng với mức ƣu đãi giảm từ 20 - 25%

thuế quan. Mặc dù đã có bƣớc tiến triển quan trọng trong quan hệ thƣơng mại, nhƣng tỷ trọng buôn bán trong nội bộ thị trƣờng ASEAN vẫn còn rất thấp. Đến đầu nhƣng

năm 1980, thị trƣờng thƣơng mại giữa các nƣớc này mới chiếm khoảng 15% trong

tổng số và chủ yếu là các sản phẩm truyền thống.

Trong hợp tác sản xuất công nghiệp, các nƣớc đã đề ra năm dự án công nghiệp then chốt. Ban quản lý tuyên bố về sự hòa hợp ASEAN chủ trƣơng của các thành viên

hợp tác thành lập những nhà máy công nghiệp quy mô lớn để đáp ứng nhu cầu chung

của khu vực về một số mặt hàng thiết yếu. Đã có những dự án xây dựng nhà máy u rê

cho Inđônêxia và Malaixia, nhà máy supe phốt phát cho Philippin, nhà máy động cơ

điêzen cho Xingapo … Trong đó nƣớc chủ nhà góp 60% cổ phần, mỗi thành viên

khác góp 10% để xây dựng các nhà máy này. Các dự án này nhằm tạo ra nền sản xuất

xuyên quốc gia trong nội bộ ASEAN. Tuy nhiên, việc thực hiện đã gặp nhiều khó khăn

và không đạt đƣợc kết quả mong muốn. Trong nhƣng năm gần đây đã có nhiều dự án

bổ xung công nghiệp ASEAN nhằm tăng cƣờng khả năng chuyên môn hóa và phát triển khu vực kinh doanh hỗn hợp trong khuôn khổ tổ chức trong khu vực.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, tháng 8 năm 1979, các bộ trƣởng nông nghiệp ASEAN

đã công bố “chính sách nông nghiệp chung của ASEAN “nhằm gia tăng sự phụ thuộc lẫn

nhau và hợp tác trong nội bộ ASEAN về sản xuất lƣơng thực và thực phẩm.

Các nƣớc cũng đề ra chƣơng trình hợp tác trong lĩnh vực tài chính ngân hàng nhƣ

dự án thành lập công ty tài chính ASEAN để giúp vào việc cấp vốn cho các dự án phát

triển khu vực.

Ngoài ra, các nƣớc ASEAN đã bƣớc đầu hợp tác trên một số lĩnh vực khác nhƣ

hợp tác lao động, khoa học kỹ thuật, trao đổi thông tin, hàng không dân dụng, chƣơng trình dân số và cứu tế thiên tai, kiểm soát ma túy v.v… Các hội tƣ nhân hoặc tổ chức phi chính phủ xuất hiện ngày càng nhiều bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong chƣơng trình kinh tế đối ngoại, các nƣớc ASEAN đã phối hợp tham gia tập thể vào các tổ chức và hội nghị quốc tế với tƣ cách là một tổ chức thống nhất, phối hợp và theo dõi các dõi các chƣơng trình viện trợ kỹ thuật mở rộng thông qua các cơ quan liên hợp

quốc UNDP, ESCAP, FAO, ngân hàng phát triển châu Á…

- Quan hệ kinh tế giữa các nƣớc ASEAN với các nƣớc và các tổ chức khu vực

khác

105

Thực hiện chiến lƣợc phát triển công nghiệp hƣớng về xuất khẩu, từ những năm

1970, ngoại thƣơng các nƣớc ASEAN tăng lên với nhịp độ nhanh. Chỉ trong vòng 5 năm từ 1975 đến 1980, kim ngạch ngoại thƣơng ASEAN tăng lên gấp 3 lần từ 44 lên

132 tỷ đô la. Bảng sau đây cho thấy mức tăng về xuất - nhập khẩu một số nƣớc.

Bảng 7.2. Xuất - Nhập khẩu các nƣớc ASEAN (từ 1975 đến 1980)

(Đơn vị triệu đô la)

Xuất Nhập

1975 1980 1975 1980

Inđônêxia 7,102 22,564 4,770 12,380

Malaixia Philippin 3,808 2,273 13,005 5,111 3,526 3,703 10,340 8,185

Xingapo 5,375 19,377 8,134 24,043

Thái Lan 2,208 6,406 3,190 9,378

20,764 67,063 23,323 64,769

Nhờ đa dạng hóa xuất khẩu mạnh mẽ, ASEAN đã giảm đáng kể sự lệ thuộc vào

một số ít các sản phẩm truyền thống và đã trở thành đối thủ cạnh tranh trên thị trƣờng thế giới về các ngành công nghiệp nhẹ, điện kỹ thuật và điện tử, đặc biệt là hàng da và

may mặc. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu, tỷ lệ hàng công nghiệp tăng. Vào cuối những

năm 1970, công nghiệp chiếm 35% trong tổng giá trị hàng xuất của Philipin, 18% của

Malaixia, 15% của Thái Lan, 3% của Inđônêxia.

Ngoại thƣơng của ASEAN chủ yếu là với các nƣớc tƣ bản phát triển, trƣớc hết là

Mỹ và Nhật. Nhật nhập khoảng ¼ số hàng xuất khẩu của ASEAN, trong đó 15% dầu

lửa, 20% đƣờng và một khối lƣợng lớn nguyên liệu và sản phẩm nông nghiệp nhiệt

đới. Các sản phẩm này bao gồm nhiên liệu máy bay (từ các nhà máy lọc dầu ở

Xingapo), cao su thiên nhiên (từ Malaixia và Thái Lan), gỗ nhiệt đới. (Inđônêxia và

Malaixia), thiếc Inđônêxia, Malaixia và Thái Lan), dầu cọ (Philipin), chuối (Philipin).

Đối với một số nƣớc nhƣ Inđônêxia, Thái Lan, Philipin thì Nhật là bạn hàng lớn nhất.

Từ năm 1970, Nhật chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu, 30% kim ngạch nhập khẩu của Inđônêxia, số liệu tƣơng tự của Thái Lan là 25% và 33%, các nƣớc ASEAN nhập một số lƣợng lớn các sản phẩm của Nhật nhƣ xe máy, xe hơi, xi măng, sắt thép.

Mỹ là bạn hàng quan trọng thứ 2 của ASEAN, trong những năm 70 và đầu những năm 80, hàng Mỹ chiếm khoảng 14% tổng giá trị hàng nhập của Thái Lan (gồm máy móc thiết bị, ô tô, thuốc lá, dƣợc phẩm, sản phẩm dầu lửa) và 12,5% của Inđônêxia,

hàng xuất của Inđônêxia sang Mỹ từ 1967 đến 1977 chiếm 28% tổng kim ngạch xuất khẩu của Inđônêxia (gồm dầu mỏ, bôxít).

106

Ngoài ra, các nƣớc ASEAN còn có quan hệ buôn bán với nhiều nƣớc và tổ chức

khu vực khác nhƣ các nƣớc Tây Âu, Úc, các nƣớc Trung đông và các nƣớc đang phát triển khác.

Từ những năm 1960, các nƣớc ASEAN cũng đã có quan hệ thƣơng mại với các

nƣớc xã hội chủ nghĩa nhƣng nhìn chung còn chiếm tỷ trọng rất thấp. Quan hệ kinh tế

ASEAN - Trung Quốc mới thực sự bắt đầu từ những năm 70. Năm 1975, 5 nƣớc ASEAN mới chiếm 0,7% giá trị xuất khẩu và 2,6% giá trị nhập khẩu với Trung Quốc.

7.2.3. Những thành tựu và hạn chế

* Sự phát triển nhanh và đa dạng:

Sau khi giành đƣợc độc lập, nhất là từ những năm 1970, ASEAN là một trong

những khu vực có nền kinh tế phát triển năng động nhất thế giới.

Bảng 7.3. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nƣớc trung bình hàng năm thời kỳ (1970 – 1990)

(đơn vị :%)

Trung bình Trung bình Nƣớc 1991 1992 1993 1994 1995 1971 - 1980 1981-1990

Inđônêxia 7,9 6,9 6,3 6,5 6,5 6,4 5,5

Thái Lan 9,9 8,1 7,6 7,7 8,1 8,2 7,8

Philippin 6,2 0,5 0,1 1,7 4,2 5,4 1,2

Malaixia 8,0 8,7 7,8 8,5 8,2 8,0 5,2

Xingapo 9,0 6,7 5,8 9,9 7,0 6,8 6,3

Trong tổ chức ASEAN, Singapo có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất. Giá trị

sản phẩm quốc dân tăng từ 5.805 triệu đô la năm 1970 lên 43.340 triệu đô la năm

1990. Tổng kim ngạch ngoại thƣơng tăng từ 12.290 triệu đô la năm 1970 lên 92.787

triệu đô la 1980. Từ đầu những năm 80, Singapo đã trở thành một trung tâm công

nghiệp, giao dịch và tài chính thƣơng mại quốc tế, là một trong số các nƣớc mới đƣợc

công nghiệp hóa (NIC) ở châu Á. Sau Singapo là Thái Lan, từ một nền kinh tế mang

tính chất nửa phong kiến, nửa thuộc địa thời kỳ trƣớc chiến tranh thế giới thứ hai, đã trở thành một nƣớc nông - công nghiệp hƣớng về xuất khẩu. Trong cơ cấu giá trị tổng

sản phẩm xã hội của Thái Lan năm 1946, nông nghiệp chiếm 61,1% năm 1958: 27,9%, năm 1980:26%, năm 1986: 17% trong khi đó tỷ trọng của các sản phẩm công nghiệp và kinh tế dịch vụ không ngừng tăng lên.

Tổng sản phẩm trong nƣớc bình quân đầu ngƣời năm 1980 của Inđônêxia,

Philipin, Thái Lan, Malaixia và Singapo lần lƣợt là 430, 690,670,1620 và 7.410 đô la

Mỹ. Số liệu tƣơng ứng năm 1992 là 670, 770, 1.848, 2.790 và 15.730.

Cơ cấu kinh tế ASEAN do đó đã có sự biến đổi rõ rệt theo hƣớng giảm tỷ lệ

nông nghiệp, tăng phần công nghiệp và dịch vụ. Từ chỗ chủ yếu là kinh tế nông

107

nghiệp, từ những năm 80, công nghiệp và dịch vụ đã chiếm tỷ trọng lớn. Đặc biệt là

ngành kinh tế dịch vụ đƣợc coi là khu kinh tế thứ ba chiếm tỷ trọng lớn nhất.

Bảng 7.4. Tỷ trọng các ngành kinh tế trong tổng sản phẩm quốc nội một số nước ASEAN

(đơn vị %)

1970 1980 1993 1970 1980 1993 1970 1980 1993 Nƣớc

Inđônêxia 40,6 24,4 17,6 20,9 41,3 40,2 33,1 34,3 40,4

Thái Lan 28,8 25,6 22,8 29,4 36,2 34,3 41,8 38,3 42,9

Philippin 30,2 20,6 14,2 25,7 30,8 35,3 44,1 48,6 50,1

Malaixia 32,0 22,9 15,8 24,7 35,8 44,2 43,3 41,3 40,0

Xingapo 2,3 1,1 0,2 18,9 38,6 36,4 67,9 60,0 63,4

Riêng Thái Lan số liệu ở cột năm 1993 chƣa sƣu tầm đƣợc nên thay bằng năm 1990.

Nhìn chung trong hơn hai thập kỷ qua với chiến lƣợc phát triển công nghiệp

hƣớng về xuất khẩu, đa dạng hóa thƣơng mại, thực hiện mở cửa rộng rãi, thu hút đầu

tƣ nƣớc ngoài...vv, các nƣớc ASEAN đã đạt đƣợc kết quả đáng kể trong lĩnh vực đối

ngoại, giải quyết vấn đề lƣơng thực. Tuy nhiên, nền kinh tế các nƣớc này vẫn đang

trong tình trạng không ổn định do những nhân tố bên trong, bên ngoài và những vấn đề

kinh tế xã hội gay gắt.

* Những trở ngại trên con đường phát triển:

Những mâu thuẫn kinh tế xã hội gay gắt và trở ngại trên con đƣờng phát triển

kinh tế của các nƣớc ASEAN thể hiện chủ yếu trên mấy nét sau đây:

- Nền kinh tế thị trường về xuất khẩu ngày càng phụ thuộc sâu sắc hơn vào nguồn vốn, kỹ thuật và thị trường của thế giới tư bản chủ nghĩa. Nền kinh tế tăng

trưởng trong sự chi phối, kiểm soát của các công ty tư bản độc quyền nước ngoài.

Bằng các biện pháp kinh tế của chủ nghĩa thực dân mới các công ty độc quyền

nƣớc ngoài đã kiểm soát và chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt của hầu hết các

nƣớc ASEAN đã thực hiện chính sách “mở cửa” rộng rãi, thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài.

Năm 1979, nguồn vốn đầu tƣ từ bên ngoài lên tới 9 tỷ đô la chiếm 45% tổng số vốn đầu tƣ công nghiệp của các nƣớc này và tập trung chủ yếu trong nhiều ngành công

nghiệp mũi nhọn. Phần lớn các công ty hỗn hợp đều phải phải phụ thuộc vào nguồn vốn và kỹ thuật từ bên ngoài. Nhƣ trƣờng hợp Indônêxia, trong tổng số 1.216 công trình năm 1979, có 756 công trình có vốn hỗn hợp, trong đó tƣ bản Mỹ - Nhật chiếm khoảng 80 - 85% tổng số vốn. Về thực chất quyết định đối với sự phát triển kinh tế các

nƣớc ASEAN.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng đa dạng hóa thƣơng mại và thị trƣờng, các nƣớc

ASEAN vẫn phải phụ thuộc nặng nề vào thị trƣờng một số ít nƣớc tƣ bản phát triển

nhất. Quan hệ thƣơng mại của các nƣớc ASEAN càng phát triển thì sự lệ thuộc đó

108

càng tăng lên. Năm 1978, Mỹ chiếm 17,7% trong nền mậu dịch của ASEAN, trong khi

đó ASEAN chỉ chiếm 4% trong thị trƣờng mậu dịch của Mỹ. EEC chiếm 14,3% trong nền mậu dịch của ASEAN, còn ASEAN chỉ chiếm 1,1% trong nền mậu dịch của EEC.

Phần của Nhật chiếm 24,9% trong nền mậu dịch của ASEAN, trong khi ASEAN

chiếm 10,5% trong nền mậu dịch của Nhật. Bạn hàng đối với mỗi nƣớc ASEAN chủ

yếu tập trung vào một số ít nƣớc, trong đó thông thƣờng có một nƣớc giữ vai trò chi phối càng làm cho tinh thần bấp bênh, lệ thuộc tăng lên. Nhiều nhà kinh tế phƣơng tây

cho rằng sự phụ thuộc về mậu dịch đối với ASEAN có nghĩa là bị gò bó trong phát

triển kinh tế, rằng họ bị lệ thuộc vào hệ thống quốc tế đến mức không hoặc hầu nhƣ

không kiểm soát đƣợc tác động của nó nữa.

Trong hệ thống phân công lao động quốc tế, các nƣớc ASEAN vẫn trong tình

trạng chuyên sản xuất và xuất khẩu nguyên liệu nông lâm sản và phụ thuộc chặt chẽ

vào thị trƣờng một số ít nƣớc tƣ bản phát triển về thiết bị công nghiệp, vận tải, ôtô, hóa

chất, sản phẩm dầu lửa và một phần lớn hàng tiêu dùng,

- Tuy đã có những phát triển mạnh mẽ trong gần ba thập kỷ qua, nền kinh tế

một số nước ASEAN vẫn chưa thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu mất cân đối.

Tình trạng lạc hậu của nền kinh tế một số nƣớc này thể hiện rõ nét nhất trong

nông nghiệp và trong cơ cấu xuất - nhập khẩu. Bên cạnh các trung tâm công nghiệp -

dịch vụ và các đô thị sầm uất, khu vực nông nghiệp vẫn chiếm đại bộ phận lao động với tập quán canh tác lạc hậu của nền sản xuất nhỏ, phân tán. Nguồn xuất khẩu chủ

yếu của Nhà nƣớc vẫn là nguyên liệu, nông lâm sản. Chẳng hạn, hàng xuất khẩu chính

của Thái Lan vẫn là lúa gạo, cao su, ngô, sắn, đay, thuốc lá, thiếc; hàng nhập chủ yếu

là dầu lửa và sản phẩm công nghiệp. Năm 1979, Malaixia xuất khẩu chủ yếu là máy

móc, thiết bị công nghiệp, nguyên liệu bán thành phẩm chiếm 36,9%.

Trong cơ cấu công, nông nghiệp, phần công nghiệp nhất là công nghiệp chế

biến tăng lên. Nhƣng ngay bản thân ngành công nghiệp chế biến vẫn đang chủ yếu là

chế biến các sản phẩm nông - lâm sản.

- Các nước ASEAN đang đứng trước những vấn đề kinh tế - xã hội gay gắt cán cân thương mại và thanh toán thiếu hụt, nợ nước ngoài tăng, tình hình chính trị xã hội chưa ổn định.

Thiếu hụt trong cán cân thƣơng mại 5 nƣớc ASEAN (trừ Brunay) từ 1268 triệu đô la năm 1968 lên 3.021 triệu đô la năm 1975. Ở một số nƣớc, tình trạng này đang có xu hƣởng tăng lên, nguyên nhân chủ yếu là do.

Những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của các nƣớc này nhƣ nguyên liệu, nông lâm sản có giá cả không ổn định trên thị trƣờng thế giới. Do vậy, điều kiện thƣơng mại

của ASEAN không ngừng giảm sút.

109

Do tác động của lạm phát và khủng hoảng năng lƣợng khủng hoảng kinh tế thế

giới, nhiều nƣớc công nghiệp phát triển đã thực hiện chính sách bảo hộ mậu dịch và giảm nhập khẩu.

Do sự khống chế thao túng thị trƣờng các nƣớc ASEAN và thị trƣờng thế giới

của các công ty độc quyền, chính sách buôn bán bất bình đẳng, thực hiện giá cả độc

quyền của các công ty xuyên quốc gia đối với các sản phẩm xuất khẩu của các nƣớc ASEAN.

Nợ nƣớc ngoài ngày càng tăng là một gánh nặng đối với nền kinh tế các nƣớc

ASEAN. Năm 1988, nợ nƣớc ngoài của Inđônêxia là 42 tỷ đôla, của Philipin: 28 tỷ đô

la, Malaixia 21 tỷ đô la, Thái lan 18 tỷ đô la, Brunây: 0,25 tỷ đô la, Inđônêxia và Philipin nằm trong số những nƣớc mắc nợ nhiều nhất. Số tiền phải trả cho vay nợ năm

1984 của Inđônêxia là 8,9 tỷ đô la, Philipin là 9,3 tỷ đô la.

Lƣơng thực vẫn đang là vấn đề gay gắt. Mặc dù đã có bƣớc phát triển đáng kể

trong sản xuất lƣơng thực, nhƣng nhiều nƣớc ASEAN (trừ Thái Lan và Philipin) vẫn

phải nhập khẩu lƣơng thực.

Trong các nƣớc ASEAN, sự phân hóa giai cấp ngày càng gay gắt nạn thất

nghiệp tăng, tình hình chính trị, xã hội không ổn định.

Trong những năm gần đây, nền kinh tế các nƣớc ASEAN tiếp tục tăng trƣởng

nhanh. Nhiều nhà kinh tế dự toán rằng Đông Nam Á nói riêng và Châu Á - Thái Bình Dƣơng nói chung là khu vực phát triển năng động nhất của thế giới vào đầu thế kỷ

XXI. Tuy nhiên, các nƣớc này đang phải tiếp tục giải quyết các mâu thuẫn kinh tế xã

hội gay gắt và trong điều kiện cạnh tranh kinh tế khốc liệt trên phạm vi toàn cầu, nền

kinh tế các nƣớc ASEAN đang đứng trƣớc những thách thức to lớn để tiếp tục tăng

trƣởng nhanh.

7.2.4. Một số kinh nghiệm của ASEAN

- Sự tăng trƣởng kinh tế nhanh nhƣng chƣa bền vững.

- Nền kinh tế hƣớng về xuất khẩu ngày càng phụ thuộc sâu sắc hơn vào nguồn

vốn, công -nghệ và thị trƣờng bên ngoài.

- Nhiều nƣớc ASEAN đang đứng trƣớc những vấn đề kinh tế - xã hội gay gắt: cán cân thƣơng mại và thanh toán thiếu hụt, nợ nƣớc ngoài tăng, tình hình chính trị - xã hội chƣa ổn định.

- Sự suy giảm tài nguyên và tình trạng mất cân bằng sinh thái. - Với trình độ phát triển kinh tế không đồng nhất, việc thúc đẩy hợp tác và hội

nhập khu vực theo tầm nhìn ASEAN 2020 đang là một thách thức to lớn.

110

Câu hỏi ôn tập

1. Trình bày chiến lƣợc phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu của các nƣớc ASEAN trong giai đoạn 1950 - 1960. Bài học kinh nghiệm từ việc nghiêm cứu vấn đề

này là gì?

2. Trình bày chiến lƣợc phát triển công nghiệp hóa hƣớng ra xuất khẩu của các

nƣớc ASEAN trong giai đoạn 1965 đến những năm đầu thập kỷ 1990. Bài học kinh nghiệm từ việc nghiêm cứu vấn đề này là gì?

3. So sánh chiến lƣợc phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu và chiến lƣợc

công nghiệp hƣớng ra xuất khẩu của các nƣớc ASEAN.

4. Trình bày nguyên nhân những điều chỉnh kinh tế của các nƣớc ASEAN từ cuối

những năm 1980. Bài học kinh nghiệm của việc nghiên cứu vấn đề này là gì?

5. Trình bày nội dung điều chỉnh kinh tế của các nƣớc ASEAN từ cuối những

năm 1980. Bài học kinh nghiệm của việc nghiên cứu vấn đề này là gì?

6. Phân tích những hạn chế trong phát triển kinh tế của các nƣớc ASEAN.

7. Bài học kinh nghiệm từ việc lựa chọn chiến lƣợc phát triển kinh tế của các

nƣớc ASEAN đối với Việt Nam hiện nay là gì?

111

CHƢƠNG 8. KINH TẾ VIỆT NAM

8.1. Kinh tế Việt Nam thời kỳ phong kiến

8.1.1.Kinh tế Việt Nam thời kỳ tiền phong kiến

* Kinh tế thời nguyên thủy:

Thời kỳ nguyên thủy, lịch sử còn gọi là thời kỳ đồ đá. Căn cứ vào loài hình công cụ lao động và phƣơng thức sinh hoạt của ngƣời nguyên thủy, khảo cổ học chia

thời kỳ đồ đá thành ba giai đoạn: Đá cũ, đá giữa và đá mới.

- Giai đoạn đá cũ ở Việt Nam cách đây 30 vạn năm. Tại vùng núi Đọ (Thanh

Hóa) con ngƣời nguyên thủy Việt Nam đã xuất hiện. Trong buổi bình minh của lịch sử, ngƣời nguyên thủy sống thành từng bầy, hái lƣợm những thức ăn có sẵn trong tự

nhiên để sinh sống. Đất đai đúng nghĩa là kho lƣơng thực nguyên thủy của con ngƣời.

- Bƣớc vào giai đoạn đá giữa, kỹ thuật chế tác đá cơ bản vẫn là ghè đẽo. Những công cụ lao động tìm thấy trong các di chỉ văn hóa Hòa Bình so với công cụ núi Đọ

thuộc giai đoạn đá cũ đã có sự phong phú hơn về số lƣợng và loại hình. Với những

công cụ đƣợc ghè đẽo một mặt, còn một mặt giữ nguyên đƣợc coi là đặc trƣng riêng

của văn hóa Hòa Bình.

- Giai đoạn đá mới ở Việt Nam cách đây 5 ngàn năm, với nền văn hóa Bắc Sơn

… đây là giai đoạn đá phát triển toàn diện, với sự đa dạng về loại hình công cụ đá.

Giai đoạn đá mới ghi nhận những biến chuyển quan trọng trong đời sống con ngƣời.

Con ngƣời dần chấm dứt cuộc sống lang thang, ăn lông ở lỗ để tiến tới định cƣ. Trồng

trọt đã trở thành nguồn sống quan trọng của con ngƣời. khi con ngƣời sống định cƣ là

điều kiện thuận lợi để chung sức lao động để phát triển trồng trọt và chăn nuôi.

Nhìn chung, vào giai đoạn đá mới, hoạt động sinh hoạt và kinh tế của ngƣời

nguyên thủy vẫn mang tính cộng đồng trong các tổ chức thị tộc, bộ lạc. Nhƣng tới cuối

chế độ công xã nguyên thủy, khi công xã nông thôn và gia đình phụ hệ cá thể xuất

hiện, đã dẫn tới sự tan rã của quan hệ cộng đồng nguyên thủy.

Với các công xã nông thôn, sự phân hóa tài sản đã bắt đầu xuất hiện. Ruộng đất, nguồn nƣớc vẫn thuộc quyền sở hữu công xã, nhƣng có những cái đã thuộc về gia đình phụ hệ cá thể nhƣ nhà cửa, đồ dùng trong nhà, nông cụ. Để sinh sống, các gia đình nhận ruộng của công xã canh tác riêng, thu hoạch riêng. Bên cạnh hoạt động mang tính chất gia đình, các thành viên công xã phải tham gia lao động tập thể cho công xã nhƣ xây dựng công trình thủy lợi. Nhƣ vậy, tính chất cá nhân của sức sản xuất là nguyên

nhân dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội. Nó báo hiệu quan hệ cộng đồng

nguyên thủy đi vào giai đoạn tan rã.

Thời kỳ nguyên thủy kéo dài vài chục vạn năm, lịch sử xã hội nguyên thủy phát triển chậm chạp nhƣng vẫn theo xu thế đi lên. Kinh tế nguyên thủy ở nƣớc ta chủ yếu là kinh tế hái lƣợm và trồng trọt. Nó diễn ra trong phạm vi hẹp, mang tính chất tự

112

nhiên, tự cấp, tự túc. Ở đó con ngƣời trao đổi với thiên nhiên nhiêu hơn trao đổi với xã

hội. Tình trạng này khiến phân công lao động xã hội diễn ra yếu ớt chậm chạp, kinh tế hàng hóa không có điều kiện phát sinh.

* Kinh tế thời kỳ bắt đầu dựng nước Thời kỳ mở đầu dựng nƣớc ở Việt Nam cách đây khoảng 4 nghìn năm lịch sử,

từ khi kỹ thuật luyện kim xuất hiện. Thời kỳ này gồm hai giai đoạn: Văn Lang và Âu Lạc, mà lịch sử gọi chung là thời đại Hùng Vƣơng. Nhìn lại lịch sử nhân loại, khi kỹ

thuật luyện kim xuất hiện sự có mặt của các loại công cụ, nông cụ bằng kim loại trong

hoạt động kinh tế của con ngƣời là một cuộc cách mạng trong lực lƣợng sản xuất, góp

phần quyết định làm thay đổi nhƣng quan hệ kinh tế xã hội. Thời đại Hùng Vƣơng, vào giai đoạn nƣớc Văn Lang, tổ chức xã hội lúc đầu dƣới hình thức liên minh bộ lạc

mà thủ lĩnh đứng đầu là Hùng Vƣơng. Khi đồ đồng phát triển cực thịnh, xã hội Văn

Lang đã xuất hiện bóng dáng của nhà nƣớc đầu tiên. Tổ chức xã hội trên có vua Hùng,

rồi tới hạc hầu, lạc tƣớng và dƣới là lạc dân tầng lớp cơ bản trong xã hội. Ngoài ra,

trong xã hội còn một số lƣợng nhất định những nô tì, họ phục vụ trong các gia đình

quyền quý.

Trong xã hội Văn Lang, quan hệ kinh tế cũng có sự thay đổi. Sử cũ ghi lại “lạc

dân khẩn ruộng, lạc hầu ăn ruộng”. Nhƣ vậy, lạc hầu là ngƣời đã chiếm một phần sản

phẩm của lạc dân. Quan hệ kinh tế bất bình đẳng đã xuất hiện, kéo theo sự phân hóa trong xã hội. Ở khu mộ táng thuộc huyện Thiệu Dƣơng (Thanh Hóa), có ngôi mộ có

36 hiện vật bằng đồng, trong khi ấy có ngôi mộ chỉ có ít đồ gốm sơ sài. Căn cứ vào số

lƣợng và chất lƣợng đồ tùy táng, ngƣời ta có thể đánh giá đƣợc kẻ giàu ngƣời nghèo

trong xã hội.

Thời đại Hùng Vƣơng khi bƣớc sang giai đoạn nƣớc Âu Lạc, về phƣơng diện

Nhà nƣớc và tổ chức xã hội có những thay đổi lớn so với giai đoạn nƣớc Văn Lang.

Theo sách “Giao châu ngoại vực kí” thì đội quân của nhà nƣớc Âu Lạc lên tới 3 vạn

ngƣời. Với thành Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội) cũng là một minh chứng về phân hóa

giai cấp và tổ chức xã hội. Thành Cổ Loa, với 3 vòng thành, ở đó có sự phân định rạch ròi chỗ ở, nơi đóng quân của vua, quan, lính. Điều đó thể hiện sự phân hóa trong xã hội đã khá rõ nét và Nhà nƣớc của An Dƣơng Vƣơng đƣợc tổ chức khá chặt chẽ.

Trong lịch sử Việt Nam, sự lớn mạnh của Nhà nƣớc Âu Lạc có nguyên nhân khách quan từ sự xâm lăng của phong kiến Trung Quốc, nhƣng mặt khác nó còn là sản phẩm của những mâu thuẫn giai cấp trong xã hội đã phát triển tới mức độ nhất định.

Sự phát triển của Nhà nƣớc kéo theo những thay đổi trong quan hệ kinh tế xã hội. Trong xã hội Âu Lạc, ruộng đất thuộc Quyền sở hữu tối cao của nhà vua. Do vậy,

ngƣời dân cày cấy ruộng công phải chịu các nghĩa vụ với Nhà nƣớc, nhƣ đóng góp sản

113

phẩm, đi lai dịch, binh dịch. Chính sự phân hóa xã hội khiến cho số nô tì thời Âu Lạc

nhiều hơn thời Văn Lang.

Cùng với những biến đổi trong quan hệ kinh tế xã hội, khi bƣớc vào thời kỳ dựng

nƣớc, việc xuất hiện các công cụ bằng kim loại thực sự là một cuộc cách mạng trong

lực lƣợng sản xuất. Đây là thời kỳ trung tâm kinh tế đã dời về vùng đồng bằng dọc lƣu

vực các dòng sông nhƣ sông Hồng, sông Cầu, sông Mã. Ngƣời dân đã sinh sống định cƣ thành làng xã, bên cạnh quan hệ huyết thống là quan hệ láng giềng. Do con ngƣời

định cƣ, nên có điều kiện tập trung phát triển trồng trọt và chăn nuôi.

Với trồng trọt, bên cạnh việc trồng cây lƣơng thực con ngƣời còn trồng các loại

cây thực phẩm, hoa quả, cây lấy sợi. Trồng trọt đã trở thành nguồn sống chủ yếu của con ngƣời. Trong hoạt động canh tác, việc sử dụng các nông cụ bằng đồng và sắt cùng

với việc bƣớc đầu bƣớc đầu sử dụng trâu bò đã góp phần mở rộng diện tích trồng trọt,

Con ngƣời còn biết lợi dụng nguồn nƣớc ven sông để tƣới lúa. Bên cạnh hoạt động

trồng trọt, con ngƣời còn tiến hành chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm. Chăn nuôi

mang tính chất là nghề phụ trong gia đình.

Để phục vụ cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của con ngƣời, thủ công nghiệp

thời Hùng Vƣơng có sự phát triển. Giai đoan Văn Lang, kỹ thuật luyện kim đúc đồng

đạt tới đỉnh cao. Sản phẩm của nó khá đa dạng, trong đó nổi bật là trống đồng. Trống

đồng đƣợc coi là một kỳ công trong nền văn hóa dân tộc. Qua phân tích tỷ lệ hợp kim đồng thau ngƣời ta thấy đây là một tỷ lệ hợp lý, vừa đảm bảo đƣợc độ bền chắc cho

các công cụ lao động, vừa đảm bảo đƣợc độ nóng chảy cần thiết để dễ đúc đƣợc sản

phẩm. Từ Văn Lang chuyển sang giai đoạn Âu Lạc đã xuất hiện thêm kỹ thuật luyện

đúc sắt. Chính sắt là chất liệu dần loại bỏ đồng ra khỏi lĩnh vực công cụ lao động.

Với nghề dệt, thời Hùng Vƣơng ngƣời dân còn trồng dâu nuôi tằm, trồng các loại

cây lấy sợi để dệt vải. Căn cứ vào y phục của nam và nữ in trên trống đồng chứng tỏ

nghề dệt có những tiến bộ nhất định.

Với nghề gốm, các sản phẩm của nó đƣợc trang trí bằng các văn hoa đơn giản,

nhiệt độ nung gốm ổn định hơn, đảm bảo đƣợc độ bền chắc của đồ vật.

Bên cạnh những nghề thủ công nói trên, những nghề thủ công khác nhƣ móc, đan lát … tiếp tục đƣợc duy trì phát triển nhằm phục vụ những nhu cầu thiết yếu trong sinh hoạt của con ngƣời.

Nhƣ vậy, nông nghiệp và thủ công nghiệp thời Hùng Vƣơng đều có những tiến bộ, tạo điều kiện cho sự trao đổi giữa con ngƣời trong xã hội nảy sinh. Khảo cổ học đã tìm

thấy đồ đồng Đông Sơn (Thanh Hóa) ở vùng đồng bằng Bắc bộ. Điều đó chứng tỏ rằng giữa các vùng trong nƣớc có sự trao đổi với nhau. Thời kỳ này đã có sự trao đổi với

nƣớc ngoài. Trống đồng Đông Sơn đã đƣợc tìm thấy ở các nƣớc vùng Đông Nam Á

114

Thời đại Hùng Vƣơng cách đây 4 nghìn năm lịch sử, với những chuyển biến trên

các phƣơng diện kinh tế xã hội nói trên chỉ ra rằng với thời đại Hùng Vƣơng, dân tộc Việt Nam đã hòa nhập cùng nhiều dân tộc trên thế giới bƣớc vào ngƣỡng cửa của thời

đại văn minh.

8.1.2. Kinh tế Việt Nam thời kỳ phong kiến hóa (179 trƣớc công nguyên đến 938)

Từ năm 179 trƣớc công nguyên đến năm 938 là thời kỳ phong kiến Trung Quốc đô hộ Việt Nam. Đây cũng là thời kỳ xã hội Việt Nam bƣớc trên con đƣờng phong

kiến hóa. Quá trình phong kiến hóa diễn ra trong bối cảnh lịch sử khá đặc biệt, khi

chính sách nô dịch và bóc lột của phong kiến Trung Quốc là một trở lực trên con

đƣờng phát triển của xã hội Việt Nam, nhƣng do kế thừa những thành tựu văn hóa vật chất thời đại Hùng Vƣơng, cùng với quá trình đấu tranh chống đồng hóa dân tộc, đấu

tranh chống áp bức để phát triển sản xuất đã mở ra những chuyển biến trong kinh tế

dân tộc.

* Chính sách nô dịch và bóc lột của phong kiến Trung Quốc Trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc, nhiều tập đoàn phong kiến Trung Quốc nhƣ:

Triệu, Hán, Ngô, Tùy, Đƣờng …. Thay nhau thống trị của chúng chỉ dừng lại ở châu,

quận, huyện. Lúc đầu phạm vi thống trị của chính chỉ dừng lại ở châu, quận. Dƣới đó chính quyền đô hộ đã thông qua tầng lớp trên trong xã hội Việt Nam, những lạc hầu,

lạc tƣớng để thực hiện nô dịch và bóc lột nhân dân ta. Trong thời kỳ này, những phong

tục và luật lệ của ngƣời Việt có từ trƣớc vẫn đƣợc duy trì

Nhƣng từ năm 43 sau công nguyên khi cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trƣng bị dập

tắt, phong kiến Trung Quốc đã mở rộng ách đô hộ. Chúng cử quan lại ngƣời Hán sang

Việt Nam cai trị với cấp huyện. bên cạnh đó phong kiến Trung Quốc tăng cƣờng chính

sách đồng hóa dân tộc, với việc du nhập phong tục văn hóa Trung Quốc vào Việt Nam,

những cƣ dân ngƣời hán cũng đƣợc đƣa sang sinh sống ở Việt Nam ….

Khi nhà đƣờng thống trị Việt Nam, từ năm 662, chúng tăng cƣờng can thiệp vào

làng xã, với tƣ cách là tế bào kinh tế xã hội cơ sở. Những đơn vị hành chính cơ sở

đƣợc nhà đƣờng thiết lập nhƣ tiểu thƣơng từ 70 -130 hộ, đại hƣơng là 160 - 540 hộ. Tiểu xã 10 - 30 hộ, đại xã 40 - 60 hộ. Nhƣ vậy âm mƣu của nhà Đƣờng hủy bỏ tính tự trị của làng xã Việt Nam để mở rộng nô dịch, bóc lột và thực hiện đồng hóa dân tộc.

Nhìn chung, suốt trong thời kỳ thống trị Việt Nam, sự sâm phạm của chính quyền

đô hộ vào làng xã gặp nhiều khó khăn

Làng xã đúng nghĩa vẫn là: “Bầu trời riêng của ngƣời Việt Nam” ở đó vẫn bảo

lƣu, giữ vững những phong tục tập quán và sức mạnh truyền thống của dân tộc. Trên thực tế khả năng tự vệ của làng xã đã phá vỡ âm mƣu đồng hóa dân tộc của phong kiến Trung Quốc ở nƣớc ta.

115

Tiến hành đồng thời với sự nô dịch về chính trị, phong kiến Trung Quốc còn mở

rộng hoạt động khai thác bóc lột ở Việt Nam. Hoạt động này biểu hiện dƣới nhiều hình thức khác nhau mà nội dung của nó còn mang tính chất nô dịch cƣỡng bức và phong

kiến nông nô.

Trong những hình thức bóc lột bằng cống nạp, phong kiến Trung Quốc còn thực

hiện bóc lột thuế, lao dịch ở Việt Nam. Sau khi đặt ách thống trị về danh nghĩa toàn bộ đất đai ở nƣớc ta thuộc về hoàng đế Trung Quốc. Do vậy, ngƣời Việt Nam cấy ruộng

công phải nộp tô cho chính quyền đô hộ. thời nhà Đƣờng, nhân đinh cày ruộng mỗi

năm nộp hai thạch lúa. Thời kỳ phong kiến Trung Quốc nô dịch, hai mặt bằng chủ yếu

trong đời sống nhân dân là muối và sắt thì chính quyền đô hộ độc quyền quản lý và đánh thuế. Ngoài ra các mặt hàng thủ công khác cũng bị đánh thuế nặng.

Để thực hiện bóc lột lao dịch, chính quyền đô hộ đã tiến hành kiểm tra dân số ở

Việt Nam. Thời nhà Hán theo thống kê của chính quyền đô hộ Âu Lạc có 143.643 hộ

với 981.735 nhân khẩu. Ngƣời dân Âu Lạc phải đi lao dịch liên miên, xây thành đắp

lũy cho chính quyền đô hộ đã ảnh hƣởng lớn đến sức sản xuất xã hội.

Ngoài những hình thức bóc lột nói trên, phong kiến Trung Quốc còn thực hiện

chính sách chiếm đoạt đất đai lập đồn điền, cƣớp bắt thợ thủ công giỏi ở nƣớc ta đƣa

về Trung Quốc, thời nhà Ngô chúng đã bắt hàng nghìn thợ thủ công Việt Nam để phục

vụ cho việc xây dựng kinh đô Kiến Nghiệp (Nam Kinh - Trung Quốc).

Nhƣ vậy, chính sách nô dịch và bóc lột của phong kiến Trung Quốc là một trở lực

lớn trên con đƣờng phát triển của xã hội Việt Nam. Nó tạo nên sự bần cùng phá sản

trên quy mô xã hội rộng lớn và sự phân hóa trong xã hội ngày càng rõ nét. Trong hoàn

cảnh ấy, cuộc đấu tranh của nhân dân ta để bảo tồn nòi giống, để phát triển vẫn mở ra

hƣớng đi lên cho nền kinh tế dân tộc.

* Những chuyển biến của nền kinh tế dân tộc

Thời kỳ phong kiến Trung Quốc đô hộ cũng là thời kỳ xã hội Việt Nam đi vào

con đƣờng phong kiến hóa với việc hình thành quan hệ địa chủ nông nô. Sự hình thành

ấy diễn ra trong bối cảnh lịch sử khá đặc biệt, nên đã phản ánh cơ cấu kinh tế và cơ cấu giai cấp trong xã hội không thuần nhất.

Về phƣơng diện kinh tế, bên cạnh kinh tế làng xã đã xuất hiện những đồn điền của nhà nƣớc phong kiến ngoại bang và một số trang trại của quan lại địa chủ ngƣời Trung Quốc sang sinh cơ lập nghiệp ở Việt Nam.

Về phƣơng diện giai cấp, với tầng lớp địa chủ, bên cạnh tầng lớp quý tộc ngƣời

Việt đã địa chủ hóa, còn có bọn quan lại địa chủ ngƣời hán sang sinh sống ở Việt Nam đã dẫn dần Việt Hóa. Với nông dân lao động, bên cạnh những nông dân ngƣời Việt

sinh sống trong các làng xã, chịu sự bóc lột của chính quyền đô hộ nhƣ thân phận nông

nô, còn có những nông nô ngƣời hán làm việc trong các đồn điền thực dân đã Việt hóa.

116

Nhìn chung, sự biến đổi về cơ cấu kinh tế gai cấp, đã phản ánh những đặc thù

riêng về con đƣờng phong kiến hóa ở Việt Nam. Quan hệ kinh tế mới hình thành là quan hệ sơ khai phong kiến với những hình thức bóc lột vừa mang tính nô dịch cƣỡng

bức vừa mang tính chất phong kiến nông nô.

Thời kỳ phong kiến Trung Quốc đô hộ Việt Nam, cuộc đấu tranh chống áp bức

để sinh tồn và phát triển là yếu tố quyết định mở đƣờng cho nông công thƣơng nghiệp có những chuyển biến. Trong nông nghiệp, trồng trọt đã trở thành nguồn sống chủ yếu

của con ngƣời: kỹ thuật trồng trọt có nhiều tiến bộ. Công cụ sắt và trâu bò cày kéo

đƣợc sử dụng phổ biến trong canh tác. Hệ thống đê điều đƣợc hình thành dọc các con

sông lớn vùng đồng bằng bắc bộ và bắc trung bộ. Ngƣời dân đã biết dùng phân bón để bón ruộng, biết chiết cành cây để trồng. trải qua quá trình lâu dài trong canh tác, con

ngƣời Việt Nam đã tiến tới trồng lúa theo hai vụ chiêm mùa. Chăn nuôi gắn bó chặt

chẽ với trồng trọt trong hoạt động kinh tế của các gia đình. Ngoài nuôi trâu bò sử dụng

trong canh tác, con ngƣời còn biết nuôi voi, ngựa để kéo xe và chuyển đồ vật, nuôi

lợn, gà sử dụng làm thực phẩm

Với thủ công nghiệp, ngoài các xƣởng thủ công nghiệp quan doanh do chính

quyền đô hộ trực tiếp quản lý, thì thủ công nghiệp trong nhân dân vẫn tiếp tục phát

triển, chủ yếu với tính cách là nghề phụ trong gia đình, nhằm giải quyết những nhu cầu

thông thƣờng về ăn, ở, mặc trong nhân dân. Trong quá trình phát triển của thủ công nghiệp, việc giao lƣu kinh tế văn hóa với nƣớc ngoài đã làm xuất hiện thêm một số

ngành nghề thủ công nghiệp mới bên cạnh những nghề thủ công nghiệp truyền thống

Nghề khai mỏ luyện kim có sự phát triển hơn so với thời kỳ trƣớc, vì từ sau công

nguyên, nƣớc ta bƣớc vào thời kỳ thịnh đạt của đồ sắt. Các loại công cụ, nông cụ bằng

sắt đƣợc sử dụng khá phổ biến trong hoạt động kinh tế của nhân dân. Bên cạnh đó các

mỏ vàng, bạc, đồng tiếp tục đƣợc khai thác phục vụ cho việc sản xuất đồ Mỹ nghệ.

Những đồ vật trang sức bằng vàng bạc nhƣ vòng, trạm, hạt chuỗi … là những sản

phẩm thủ công quý, hàng năm Việt Nam phải cống nạp cho Trung Quốc. Ngoài các

loại Mỹ nghệ trên, nghề khảm xà cừ chạm khắc còn cho những sản phẩm quý nhƣ khay, cơi, trầu … mà sử sách Trung Quốc phải công nhận là báu vật.

Với nghề gốm, bên cạnh gốm thƣờng còn có gốm tráng men, gốm nửa sành, nửa sứ. Hình loại đồ gốm đa dạng, đƣợc trang trí bằng những hoa văn đẹp. trên cơ sở nghề gốm, nghề gạch ngói cũng phát triển, với các loại ngói thƣờng và gạch ngói tráng men đƣợc sử dụng vào việc xây dựng thành lũy của chính quyền đô hộ.

Đến thế kỷ III, ngƣời Việt Nam đã biết sản xuất các loại giấy nhƣ giấy bằng vỏ dó, giấy trầm hƣơng. Riêng giấy trầm hƣờng là sản phẩm quý, vì vậy năm 284 lái buôn

La mã đã mua 3 vạn tờ ở Việt Nam để dâng tặng vua Tấn (Trung Quốc) vào thời điểm

này, La Mã và cả Châu Âu vẫn chƣa biết sản xuất giấy.

117

Nghề dệt vẫn tiếp tục phát triển, kỹ thuật dệt, nhuộm đƣợc cải tiến, nghề dệt đã

cho những sản phẩm nổi tiếng nhƣ lụa, lĩnh, the, vóc, nhiễu, với màu sắc và họa tiết đẹp. Đó là những sản phẩm mà nƣớc ta phải cống nạp cho Trung Quốc.

Cùng với những nghề thủ công nêu trên, những nghề thủ công khác cũng nhƣ

nghề nấu đƣờng, nghề mộc, đan lát…. cũng có sự phát triển.

Nhƣ vậy, trong thời kỳ phong kiến Trung Quốc đô hộ Việt Nam, thủ công nghiệp vẫn giữ đƣợc bản sắc dân tộc bên cạnh đó qua giao lƣu kinh tế với ngƣời nƣớc ngoài ,

ngƣời Việt Nam đã tiếp thu đƣợc kinh nghiệm và kỹ thuật sản xuất mới đa dạng thêm

ngành nghề thủ công nghiệp dân tộc.

Một khi sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp có sự phát triển nhất định, nó đã thúc đẩy hoạt động giao lƣu trao đổi trong nhân dân, cũng nhƣ với ngƣời nƣớc

ngoài, giao thông vận tải đã góp phần quan trọng trong thúc đẩy quá trình đó, vào

khoảng thế kỷ VII - VIII, trên đất nƣớc ta đã hình thành nên mạng lƣới giao thông thủy

bộ nối liền các vùng trong nƣớc với nhau.

Thời kỳ này sông Hồng đã trở thành đƣờng giao thông có ý nghĩa về kinh tế, văn

hóa, quân sự. Đƣờng biển Việt Nam đã trở thành đƣờng hàng hải quốc tế, có thuyền bè

nƣớc ngoài đi lại tấp nập. Từ Việt Nam có đƣờng bộ sang Trung Quốc, sang Lào và

Thủy Chân Lạp.

Để phục vụ cho hoạt động giao thông vận tải, nhân dân ta đã đóng các loại thuyền, đi lại trên sông biển và dung voi ngựa để vận chuyển đồ vật và kéo xe chở đồ.

Giao thông vận tải đã góp phần mở rộng giao lƣu trong nƣớc. Thƣơng nghiệp có

những chuyển biến đáng chú ý, với việc xuất hiện các chợ địa phƣơng, những trung

tâm đổi chác dọc biên giới phí Bắc. Thời kỳ này các châu, quận đã trở thành trung tâm

trao đổi của cả nƣớc, nơi đây có nhiều ngƣời nƣớc ngoài nhƣ Ấn Độ, Ba Tƣ, Ả Rập…

tới trú ngự và buôn bán. Nhƣ vậy, mối liên hệ kinh tế giữa các vùng trong nƣớc đƣợc

tăng cƣờng. Đây là điều kiện cần thiết để nhân dân ta trao đổi với nhau kinh nghiệm

sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở mang một số ngành nghề.

Riêng trong lĩnh vực ngoại thƣơng, chính quyền đô hộ độc quyền nắm giữ và kiểm soát. Do vậy, giao lƣu trao đổi giữa ngƣời Việt Nam với nƣớc ngoài gặp không ít khó khăn. Tuy Vậy, hoạt động ngoại thƣơng vẫn có các tác động nhất định tới sự phát triển kinh tế trong nƣớc qua việc tiếp thu kinh nghiệm sản xuất của nƣớc ngoài.

Hàng Việt Nam bán ra nƣớc ngoài là các loại làm thổ sản quý, đồ mỹ nghệ…

Hàng nhập từ nƣớc ngoài vào Việt Nam thƣờng là thuốc men, đồ sắt…

Nhƣ vậy, hàng nghìn năm phong kiến Trung Quốc đô hộ Việt Nam, chính sách nô dịch và bóc lột là một trở lực lớn trên con đƣờng phát triển của xã hội. Tuy vậy,

cuộc đấu tranh chống nô dịch và áp bức vẫn mở ra những chuyển biến trong nền kinh

tế dân tộc. Xã hội Việt Nam đã đi vào con đƣờng phong kiến hóa, với việc hình thành

118

chủ nô, nông công thƣơng nghiệp đều có những tiến bộ. Những chuyển biến nêu trên

đã tạo điều kiện để kinh tế xã hội cần thiết cho xã hội Việt Nam bƣớc sang thời kỳ lịch sử mới, thời kỳ phong kiến dân tộc tự chủ. 8.2. Kinh tế Việt Nam thời kỳ thực dân Pháp thống trị

8.2.1. Kinh tế Việt Nam từ khi Pháp xâm lƣợc đến chiến tranh thế giới lần thứ hai

- Chính sách bóc lột của Pháp ở Việt Nam

Cuộc khai thác lần thứ nhất (1858 -1918) tƣ bản Pháp đã nặng về thƣơng mại,

chú trọng xuất cảng hàng hóa hơn là xuất cảng tƣ bản, Pháp đầu tƣ vào Việt Nam còn

ở mức độ thấp và dè dặt, chủ yếu là để vay nặng lãi. Phƣơng thức kinh doanh của

chúng còn rất lạc hậu – theo phƣơng thứ kinh doanh phong kiến.

Cuộc khai thác lần thứ hai từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tƣ bản Pháp

đã chú trọng xuất cảng tƣ bản hơn xuất cảng hàng hóa. Bên cạnh việc tiếp tục cho vay

nặng lãi, chúng đã tăng cƣờng khai thác thuộc địa, đầu tƣ khai thác vào Việt Nam mạnh hơn, phƣơng thức kinh doanh của Pháp lần này đã có sự thay đổi có phần kinh

doanh theo phƣơng thức tƣ bản chủ nghĩa.

Đặc điểm kinh tế thời này là:

+ Nền nông nghiệp hết sức lạc hậu

+ Công nghiệp nhỏ bé què quặt và thủ công nghiệp bị chèn ép

+ Giao thông vận tải thấp kém

+ Thƣơng nghiệp bị Pháp nắm độc quyền

+ Tài chính tiền tệ bị phụ thuộc.

- Kinh tế trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ 2 ( 1939 - 1945)

Chính sách “kinh tế chỉ huy” của Nhật - Pháp.

Trong thời gian này Nhật thúc ép Pháp phải thực hiện chính sách “kinh tế chỉ

huy” và biến nền kinh tế nƣớc ta thành nền kinh tế chiến tranh.

Nội dung của chính sách “kinh tế chỉ huy” là kiểm sóat sản xuất, kiểm soát nhập

cảng, kiểm soát việc phân phôi hàng hóa và kiểm soát giá cả. Thực chất của chính sách

“kinh tế chỉ huy” là tăng cƣờng độc quyền về kinh tế để thu đƣợc lợi nhuận tối đa, để cung cấp cho bọn Nhật và để tổng động viên phục vụ thực hiện chiến tranh.

Nền kinh tế thời kỳ này có một số đặc điểm mới + Sản xuất nông, công nghiệp phục vụ chiến tranh, vận tải rất khó khăn. + Thƣơng nghiệp bị kiểm soát chặt chẽ.

+ Tăng thuế và lạm phát nghiêm trọng.

8.2.3. Kinh tế trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954)

Cách mạng tháng 8 thành công, nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa tuyên bố độc lập ngày 2 tháng 9 năm1945. Nhƣng chỉ đƣợc 3 tuần lễ sau đó tức là ngày 23 tháng 9 năm 1945 thực dân Pháp quay lại gây hấn ở Nam bộ. Rồi chúng đánh dần ra các nơi

119

khác. Với tinh thần “thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nƣớc, nhất định

không chịu làm nô lệ” nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc kháng chiến chống lại chúng.

Kinh tế trong năm đầu dau cách mạng tháng 8 (1945 - 1946)

* Khẩn trương mở chiến dịch cứu đói.

Đầu năm 1945 ở nƣơc ta xảy ra một nạn đói khủng khiếp làm cho hơn 2 triệu

đồng bào bị thiệt mạng. Chính bọn Pháp, bọn Nhật là kẻ thủ phạm đã gây ra.

Sau cách mạng tháng tám, nạn đói có phần dịu đi do cách mạng phá kho thóc

của Pháp, Nhật để chia cho dân và vì vụ chiêm 1945 đã có thêm một số thóc. Nhƣng

nạn đói không dịu đi hơn mà trở lên trầm trọng, hàng vạn ngƣời có nguy cơ bị chết đói , vì số thóc trên có ít, mà vụ mùa năm 1945 bị thất thu 50% do có trận lụt lớn, làm cho

9 tỷnh ở Bắc bộ vì vỡ đê. Đó là một thử thách to lớn một đe dọa nghiêm trọng đối với

sự phát triển của cách mạng.

Do vậy, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, ngày 3 tháng 9 năm

1945, Hồ Chủ tịch đã đề ra phải khẩn trƣơng mở chiến dịch cứu đói. Đó là một trong hai

nhiệm vụ quan trọng của cả nƣớc lúc ấy (cứu đói ở miền Bắc và kháng chiến ở miền

Nam).

Để tiền hành cứu đói, nhà nƣớc đã thực hiện nhiều biện pháp trong đó có những

biện pháp cấp bách nhƣ vận động phong trào nhƣờng cơm sẻ áo, tổ chức cứu đói ở các nơi khuyến khích chở thóc gạo từ Nam ra Bắc, cấm xuất cảng gạo, ngô, đỗ, cấm đầu

cơ tích trữ thóc gạo. Ngày 29 tháng11 năm1945 chính phủ lại ra quyết định địa chủ

phải giảm tô 25% và xóa bỏ những món nợ lâu đời ở nông thôn. Đồng thời chính phủ

cũng đã tiến hành một số biện pháp cơ bản và lâu dài nhƣ vận động toàn bộ dân đẩy

mạnh tăng gia sản xuất, vận động trồng mầu ngắn ngày ở các nơi chia lại công điền.

Ai không sử dụng hết ruộng đất ủy ban nhân dân sẽ cho nông dân mƣợn để trồng màu.

Những quãng đê vỡ đã đƣợc hàn khẩu lại, hệ thống nông giang đƣợc sửa chữa lại.

Do đó, chỉ trong một thời gian ngắn từ tháng 9 đến tháng 12 năm 1945 diện tích

trồng màu ở Bắc bộ đã tăng lên 3 lần vào năm 1946 sản lƣợng lúa đã vƣợt hơn năm 1944 là 38,8%. Nhờ nạn đói đã đƣợc chặn đứng chiến dịch cứu đói đã đạt đƣợc thắng lợi rực rỡ. Thắng lợi ấy là một kỳ công của chế độ dân chủ nhân dân và đã có tác dụng trọng yếu trong việc củng cố và bảo vệ chính quyền nhân dân. * Đấu tranh xây dựng một nền tài chính tiền tệ độc lập: Về tài chính: Trƣớc hết nhà nƣớc kêu gọi sự đóng góp tự nguyện của nhân dân,

lập các quỹ quyên góp: quỹ độc lập và “Tuần lễ vàng” Hai quỹ này đƣợc nhân dân nhiệt liệt hƣởng ứng. Kết quả thu đƣợc 20 triệu đồng và 370 kg vàng (bằng số thuế

thân và thuế điền thu của cả nƣớc trong 1 năm dƣới thời Pháp thuộc). Kết quả đã nói

lên lòng kiên quyết giữ vững độc lập của nhân dân ta. Ngoài ác quỹ quyên góp trên

120

còn có một số hình thức đóng góp tự nguyện khác nhƣ “hũ gạo nuôi quân” nuôi dƣỡng

cán bộ, bộ đội lập quỹ vệ quốc đoàn, đón thƣơng binh về làng.

Những hình thức tài chính đặc biệt dựa vào lòng yêu nƣớc của nhân dân ta mang

lại những kết quả đáng kể, góp phần giải quyết những khó khăn về tài chính trong

những ngày đầu cách mạng. Nhƣng nó cũng có nhƣợc điểm là không thành nghĩa vụ,

không ổn định và không công bằng trong việc đóng góp. Do đó Nhà nƣớc đã dần dần quy định sự đóng góp theo chế độ: Đầu tiên là bãi bỏ những thứ thuế nô dịch và bất

công do chế độ cũ để lại nhƣ thuế đinh, thuế rƣợu, muối, thuốc phiện,…

Việc bãi bỏ những thứ thuế nô dịch và bất công đó đã có ý nghĩa chính trị rất lớn

lao. Nhƣng cũng gây lên nhiều khó khăn nhất định cho ngân sách nhà nƣớc. Sau đó Nhà nƣớc đã từng bƣớc xây dựng chế dộ thuế khóa mới: Tiếp tục thu thuế quan vì thuế

này còn thể hiện chủ quyền của 1 nƣớc độc lập, thuế đồn điền vẫn tiếp tục thu nhƣng

giảm đi 20% đổi lại thuế đánh vào lãi thƣơng mại, kĩ nghệ canh nông, lƣơng bổng và

thi hành từ 1 tháng1 năm1946.

Đồng thời với việc phải thu, Nhà nƣớc quản lý chi, thực hiện nguyên tắc triệt để

chi tiêu hƣớng vào việc thực hiện ba nhiệm vụ cơ bản: diệt giặc đói, giặc dốt, giặc

ngoại xâm, nhƣng đặc biệt là chi phục vụ sản xuất, giảm những chi tiêu không cần

thiết, cán bộ lúc đó tình nguyện “cơm nhà việc nƣớc” hay chỉ lĩnh sinh hoạt phí, thực

hiện một chính phủ “ít tốn tiền” mà Mác đã nêu ra khi tổng kết xã hội Pari.

Về tiền tệ: Hồi đầu cách mạng, Nhà nƣớc ta chƣa có đồng tiền riêng nên thƣờng

phải bị động với những thủ đoạn gây rối của bọn Pháp. Do đó chính phủ chủ trƣơng

một mặt cho lƣu hành giấy bạc Đông Dƣơng trong một thời gian nữa (vì nó là tài sản

của nhân dân) mặt khác đã cho chuẩn bị phát hành giấy bạc Việt Nam.

Tiếp đó ngày 31 tháng 1 năm 1946 Chính phủ đã cho phát hành giấy bạc Việt

Nam tại miền Nam Trung bộ, từ vĩ tuyên 16 trở vào, vì nơi đây không có quân đội

nƣớc ngoài chiếm đóng, cuộc khởi nghĩa nổ ra ở đây triệt để hơn, các lực lƣợng phản

động bị quét đến tận gốc nên việc phát hành tiền mới không bị phá hại.

Đến ngày 16 tháng 8 năm1946 Chính phủ quyết định mở rộng việc phát hành

giấy bạc Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc Trung Bộ.

Và ngày 16 tháng 8 năm1946 trong kỳ họp thứ hai, Quốc hội đã cho phát hành giấy bạc Việt Nam trong toàn quốc, thế là chỉ hơn 1 năm sau cách mạng, nƣớc Việt Nam đã có đồng tiền riêng của mình.

Đƣợc pháp luật cho phát hành trong toàn quốc, đƣợc nhân dân tín nhiệm. Đó là

một thắng lợi to lớn trong lịch sử tiền tệ ở Việt Nam và một thành tựu to lớn trong lịch sử tiền tệ Việt Nam và một thành tựu to lớn trong quá trình xây dựng nền kinh tế độc

lập tự chủ.

* Phục hồi công thương nghiệp và chuyển dần nền kinh tế sang thời chiến:

121

Về công nghiệp: Chính phủ đã tiêu thụ đặc lợi đặc quyền của bọn thực dân và

giành lại chủ quyền của ta nhƣ thủ tiêu đặc quyền khai mỏ của thực dân Pháp, nhà máy và tƣ bản Pháp đƣợc tiếp tục kinh doanh một số nhà máy nhƣ điện, nƣớc, ở thành phố,

than ... nhƣng phải tuân theo luật lệ và chịu sự kiểm soát của ta. Chủ trƣơng này đã

ngăn ngừa đƣợc sự phá hoại của họ đã tránh đƣợc sự xáo trộn không cần thiết.

Về giao thông vận tải: Việc cấp bách là sửa chữa những chỗ bị bom đạn tàn phá trong chiến tranh thế giới lần thứ hai nhƣ: Về đƣờng bộ đã sửa chữa đƣợc 50 trong số

60 chiếc cầu bị bắn phá, sửa đƣợc 500 km đƣờng bộ, về đƣờng sắt sửa xong đƣợc 15

trong số 18 chiếc cầu bị bom phá, tu sửa đƣợc 32 km đƣờng bị hƣ hỏng… chƣa đầy 1

tháng sau đƣờng xe lửa Việt Nam đã đƣợc tổ chức lại, xe lửa đã đi đƣợc từ Nam ra Bắc và ngƣợc lại. Chính phủ tiêu quyền kinh doanh đƣờng xe lửa Hải Phòng - Vân

Nam của công ty xe lửa Vân Nam của Pháp và giao cho bộ giao thông công chính

nƣớc ta quản lý.

Về thƣơng nghiệp: Ngày 5 tháng 9 năm1945 chính phủ ra xác lệnh thủ tiêu những

luật lệ cấm chợ ngăn sông, ngày 22 tháng 9 năm 1945 ra sác lệnh bác bỏ các nghiệp

đoàn độc quyền kinh doanh. Chính phủ khuyến khích tƣ bản, tƣ nhân mở rộng kinh

doanh thành lập hội thƣơng gia Việt Nam để nghiên cứu các vấn đề thƣơng nghiệp,

đồng thời chính phủ kiên quyết nắm chủ quyền về ngoại thƣơng thủ tiêu các luật lệ của

Pháp đặt ra, ngày 9 tháng11 năm1945 chính phủ tuyên bố hủy bỏ quyền ƣu tiên xuất nhập khẩu đối với tƣ bản Pháp.

Sau khi thực dân Pháp gây hấn ở Nam Kỳ (ngày 23 tháng 9 năm 1945) nền kinh tế

nƣớc ta chuyển sang thời chiến: ở những thành phố địch đã chiếm đƣợc ta tiến hành bao

vây và phá hoại kinh tế địch, bất hợp tác với địch. Ở những vùng nông thôn địch sẽ đi

qua ta thực hiện chính sách “vƣờn không nhà trống” và cả nƣớc thực hiện phong trào

“ủng hộ kháng chiến Nam Bộ “các đơn vị Nam tiến đƣợc tổ chức, các công binh xƣởng

đƣợc thành lập ở khắp nơi, tiến hành thu lƣợng máy móc nguyên liệu để di chuyển lên

Việt Bắc.

Chính sách kinh tế kháng chiến bao gồm 2 mặt: 1 là phá hoại kinh tế địch, 2 là

xây dựng kinh tế Việt Nam.

Phá hoại kinh tế địch bằng nhiều cách: phá hủy máy móc kho tàng, đƣờng giao thông vận tải làm vƣờn không nhà trống, không cho địch vơ vét lƣơng thực, của cải để thực hiện thủ đoạn “ lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. 8.3. Kinh tế Việt Nam thời kỳ 1955 - 1975

8.3.1. Đặc điểm tình hình và nhiệm vụ cơ bản của miền Bắc

Đặc điểm tình hình và nhiệm vụ cơ bản của miền bắc Khi bƣớc vào thời kỳ quá

độ tiên tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Bắc nƣớc ta có những đặc điểm sau:

122

Miền Bắc nƣớc ta có một nền kinh tế nồng nghiệp lạc hậu, chủ yếu dựa trên sản

xuất nhỏ cá thể, cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tƣ bản hết sức kém cỏi và non yếu. Công nghệ mới phôi thai, nông nghiệp và thủ công nghiệp có tính chất phân tán, chiếm bộ

phận lớn trong nền kinh tế quốc dâ…Trải qua 15 năm chiến tranh, kinh tế miền Bắc lại

bị tàn phá nặng nề.

Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội trong khi chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống thế giới. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc tiến hành trong hoàn

cảnh nƣớc ta bị chia thành hai miền. Đế quốc Mỹ đã biến miền Nam thành thuộc địa

và căn cứ phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chuẩn bị gây

chiến tranh xâm lƣợc.

Xuất phát từ tình hình trên, Đảng và nhà nƣớc chủ trƣơng “…đƣa miền Bắc tiến

nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Trong quá trình đó có hai

nhiệm vụ kinh tế cơ bản là cải tạo xã hội chủ

8.3.2. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội

* Khôi phục kinh tế (1955 - 1957)

- Nội dung của việc khôi phục kinh tế: Cần thực hiện về cả 3 mặt: Khôi phục

cơ sở sản xuất, khôi phục mức sản xuất ngang trƣớc chiến tranh (năm 1939) và cần có những biến đổi cần thiết về tính chất của nền kinh tế cũ sao cho phù hợp với chế độ

dân chủ nhân dân.

- Kết quả khôi phục kinh tế:

+ Hoàn thành cải cách ruộng đất. Sau khi mới giải phóng, ở nhiều địa phƣơng

trên miền Bắc, nông dân vẫn chƣa có ruộng cày, nên nông dân đã có yêu cầu phải cải

cách ruộng đất. Hơn nữa đây là một nguyên tắc bất di bất dịch của cuộc cách mạng

dân tộc - dân chủ nhân dân. Do đó, Nghị quyết Bộ chính trị tháng 9 năm 1954 đề ra

chủ trƣơng tiếp tục tiến hành cải cách ruộng đất ở những nơi chƣa làm (chủ yếu là

vùng mới giải phóng).

+ Cải cách ruộng đất ở giai đoạn này đƣợc tiến hành trong 3 đợt:

Đợt 3 (2/1955 - 6/1955), đợt 4 (6/1955 - 12/1955) và đợt 5 (12/1955 - 7/1956). Trong đó, đợt 5 là lớn nhất, làm ở 1732 xã của 16 tỷnh (đợt này đƣợc ví nhƣ một chiến dịch Điện Biên Phủ trên lĩnh vực phản phong…). Cả 5 đợt, cải cách ruộng đất đã đƣợc tiến hành ở 3653 xã, 22 tỷnh, phần lớn ở đồng bằng và trung du.

Tuy đợt 4 và 5 có phạm phải một số sai lầm (trấn áp địch tràn lan…) nhƣng cuộc cải cách ruộng đất đã thu đƣợc những thắng lợi to lớn: cả 5 đợt đã tịch thu, trung

thu và trƣng mua 810.000 ha ruộng đất, 100.000 trâu bò, 2.000.000 nông cụ, 150.000 nhà cửa đem chia cho hơn 20 triệu hộ, với 9,5 triệu ngƣời.

Thắng lợi đó đã có ý nghiã to lớn về cả kinh tế và trính trị.

123

Về kinh tế: Ta đã xóa bỏ đƣợc quan hệ sản xuất phong kiến thực hiện “ ngƣời

cày có ruộng”, xóa bỏ về căn bản chế độ ngƣời bóc lột ngƣời ở nông thôn, giải phóng sức lao động trong nông nghiệp, cải thiện đời sống nông dân.

Về chính trị : Cuộc cách mạng phản phong đã hoàn thành, kết thúc cuộc cách

mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Bắc, uy thế chính trị của địa chủ đã bị đánh đổ,

khối liên minh công nông đƣợc củng cố

Nói chung, thắng lợi của cải cách ruộng đất có ý nghĩa chiến lƣợc. Tuy nhiên,

những thắng lợi ấy có bị hạn chế một phần vì đợt 4 và đợt 5 ta có phạm phải một sai

lầm nghiêm trọng. Hội nghị lần thứ X (khóa II) của Đảng (họp vào tháng 9 năm 1956)

đã đánh giá thành tích và sai lầm của cải cách ruộng đất và đề ra chủ trƣơng sửa sai. Đến cuối năm 1957 công tác sửa sai đã đƣợc hoàn thành và thắng lợi của cách mạng

ruộng đất đã đƣợc phát huy.

Đồng thời với việc tiến hành cải cách ruộng đất và sửa sai, đối với công thƣơng

nghiệp tƣ bản tƣ doanh, Nhà nƣớc chủ trƣơng sử dụng, hạn chế và bƣớc đầu cải tạo:

dùng những hình thức thấp của chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc nhƣ gia công, đặt hang,

kinh tiêu, đại lý, ủy thác mua bán và còn dùng những chính sách thuế, giá cả để hƣớng

việc kinh doanh của họ phục vụ cho quốc kế dân sinh.

- Khôi phục sản xuất đạt và vƣợt mức trƣớc chiến tranh (năm 1939):

Nghị quyết của Bộ chính trị tháng 9 năm 1954 đã đề ra chủ trƣơng về khôi phục công nông nghiệp nhƣ sau: “ Trƣớc hết cần nắm việc khôi phục công nông nghiệp. Đó

là vấn đề then chốt, là cơ sở của việc cải thiện đời sống nhân dân. Khôi phục và phát

triển công nghiệp nhẹ trƣớc, công nghiệp nặng sau, công nghiệp nhẹ là chính, đồng

thời cũng khôi phục một phần công nghiệp nặng”.

Để thực hiện chủ trƣơng đó, nhà nƣớc đã thực hiện một số biện pháp chủ yếu

nhƣ sau: giải quyết một số vấn đề khó khăn trƣớc mắt về đời sống (vì vừa ra khỏi

chiến tranh), giúp các cơ sở sản xuất về vốn (tổ chức hợp tác xã tín dụng ở nông thôn

vào ngày 17 tháng 4 năm1956; tăng vốn đầu tƣ cho công nghiệp: từ 6,9% - năm 1955

lên 41,8% - năm 1957), đẩy mạnh phong trào đổi công và phong trào làm thủy lợi để khôi phục và phát triển nông nghiệp.

Do vậy, sản lƣợng lúa năm 1957 so với năm 1939 đạt 162%, sản lƣợng công nghiệp và thủ công nghiệp bằng 299,8%. Trong thời gian đó đã xây dựng đƣợc một số xí nghiệp mới - chủ yếu là các xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng.

Giao thông vận tải cũng đƣợc khôi phục và phát triển nhanh chóng: các đƣờng

sắt Hà Nội - Nam Định, Hà Nội - Lào Cai,…đƣợc khôi phục. Đƣờng ô tô đã vƣợt hơn năm 1939 là 38% và thành một hệ thống thông suốt. Điều đó đã góp phần tích cực vào

việc khôi phục kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân.

124

- Chấn chỉnh thƣơng nghiệp, tài chính, tiền tệ: Trong giai đoạn này nhiệm vụ

quan trọng của thƣơng nghiệp là thống nhất thị trƣờng, bình ổn vật giá, nắm độc quyền ngoại thƣơng và mở rộng việc buôn bán với nƣớc ngoài.

Đến tháng 7 năm 1955 ta đã hoàn thành việc điều chỉnh giá, thị trƣờng đi vào

một hệ thống. Sau khi thống nhất giá cả một số mặt hàng (gạo, muối, vải,…) lên một

cách đột biến Nhà nƣớc đã quan tâm bình ổn giá bằng các biện pháp kinh tế; phát triển mậu dịch quốc doanh, lập lại hợp tác xã mua bán (ngày 15 tháng 3 năm 1955). Độc

quyền ngoại thƣơng (năm 1955 – Nhà nƣớc nắm 77%, năm 1957 nắm đƣợc 95% kim

ngạch ngoại thƣơng). Việc buôn bán với nƣớc ngoài đƣợc mở rộng hơn.

Để hỗ trợ cho việc thống nhất thị trƣờng, bình ổn vật giá, Nhà nƣớc đã ban hành thuế tồn kho (vào tháng 1 năm 1955), vì sau khi hòa bình lập lại nhà nƣớc đã ban

hành điều lệ tạm thời về thuế hàng hóa, quy định các hàng mới sản xuất hay nhập khẩu

đều phải chịu thuế hàng hóa và có sự điều chỉnh giá lên ở vùng mới giải phóng.

Việc thu thuế hàng tồn kho đã có tác dụng to lớn điều tiết lợi nhuận của tƣ sản,

tăng tích lũy cho nhà nƣớc, bảo vệ sản xuất trong nƣớc. Đồng thời, Nhà nƣớc còn thực

hiện thống nhất và ổn định tiền tệ, thu hồi các loại tiền: tiền Đông Dƣơng, tiền tín

phiếu, tiền ngân hàng nhân dân Nam Bộ; lƣu hành giấy bạc ngân hàng Trung ƣơng

(phát hành năm 1951). Nhà nƣớc còn tăng cƣờng quản lý tiền mặt và mở rộng quan hệ

tín dụng.

* Cải tạo và phát triển kinh tế (1958 - 1960)

- Nhiệm vụ của kế hoạch 3 năm(1958 -1960)

Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và công nghiệp lấy sản xuất nông nghiệp làm

khâu chính, chủ yếu nhằm giải quyết vấn đề lƣơng thực, đồng thời rất chú trọng sản

xuất công nghiệp, hết sức tăng thêm các tƣ liệu sản xuất và phần lớn hàng tiêu dùng.

Ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thƣơng nghiệp tƣ bản tƣ

doanh theo chủ nghĩa xã hội, khâu chính là đẩy mạnh hợp tác hóa nông nghiệp, đồng

thời tích cực phát triển và củng cố thành phần kinh tế quốc doanh.

Trên cơ sở phát triển sản xuất, nâng cao thêm một bƣớc đời sống vật chất và văn

hóa của nhân dân lao động và tăng cƣờng củng cố quốc phòng.

Trong các nhiệm vụ đó thì nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ yếu là trọng tâm; đồng

thời bƣớc đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.

- Cải tạo xã hội chủ nghĩa Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích cải tạo những quan hệ sản xuất

không xã hội chủ nghĩa thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trong đó mấu chốt là cải biến chế độ sở hữu cá thể và chế độ sở hữu tƣ bản chủ nghĩa về tƣ liệu sản xuất thành các

hình thức khác nhau của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, mở đƣờng cho sức sản xuất phát

triển.

125

Ở miền Bắc nƣớc ta, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa bao gồm cải tạo công

thƣơng nghiệp tƣ bản tƣ doanh, cải tạo nông nghiệp, cải tạo thủ công nghiệp và cải tạo tiểu thƣơng, trong đó cải tạo nông nghiệp là khâu chính vì nông nghiệp chiếm bộ phận

rất quan trọng, nông dân lao động là một lực lƣợng sản xuất to lớn.

Đến cuối năm 1960, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã căn bản

đƣợc hoàn thành: 85,5% số hộ nông dân đã vào hợp tác xã nông nghiệp - theo hình thức thấp và quy mô nhỏ (33,0 ha ruộng đất và 68 hộ một hợp tác xã), gần 100% số hộ

tƣ sản thuộc diện cải tạo đã đƣợc cải tạo, 87,9% số thợ thủ công đi vào con đƣờng làm

ăn tập thể, 45,6% số tiểu thƣơng vào hợp tác xã, chuyển đƣợc 11.000 ngƣời sang sản

xuất và một số ít ngƣời đƣợc tuyển vào làm nhân viên cho mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán.

Thắng lợi cho cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có ý nghĩa lịch sử to lớn; quan

hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đƣợc xác lập một cách phổ biến (nhƣng chủ yếu mới thay

đổi quan hệ sở hữu về tƣ liệu sản xuất); chế độ ngƣời bóc lột ngƣời đã căn bản bị xóa

bỏ; lực lƣợng sản xuất đã đƣợc giải phóng và đang trên đà phát triển.

Tuy nhiên, trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã có những biểu

hiện chủ quan nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN, nhanh

chóng biến kinh tế tƣ bản tƣ nhân thành quốc doanh; một số nơi gần nhƣ cƣỡng bức

nông dân đi vào hợp tác xã, khi mà họ chƣa có thời gian suy nghĩ trên mảnh đất vừa đƣợc chia.

- Phát triển sản xuất

Trong giai đoạn này sản xuất nông, công nghiệp đƣợc phát triển mạnh mẽ. So với

năm 1957, năm 1960 giá trị tổng sản lƣợng nông nghiệp bằng 113,7%, trong đó thắng

lợi nhất là về sản xuất lƣơng thực - sản lƣợng hàng năm đạt 5 triệu 15 vạn tấn, nông

nghiệp đã phát triển toàn diện hơn so với trƣớc chiến tranh.

Trong công nghiệp, chủ trƣơng của Đảng ta lúc này: “…phải ra sức phát triển

công nghiệp sản xuất tƣ liệu sản xuất, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh phát triển công

nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng.

Công nghiệp đã có thay đổi một bƣớc về tỷ trọng: từ chỗ chiếm 31,4% năm 1957 lên 42,6% năm 1960 (trong giá trị sản lƣợng công nghiệp). Trong công nghiệp nhóm A từ chỗ chiếm 23,5% năm 1958 lên 89,9% năm 1960.

Có một số mặt hàng công nghiệp mới đƣợc ra đời nhƣ: máy công cụ đạt trình độ chính xác cấp II, tức 1/1000 li, gang lò cao nhỏ, gạch chịu lửa, axit sun-phu-ric, thuốc

trừ sâu, gỗ, dán, xà phòng, đồ sắt tráng men, văn phòng phẩm, len, hàng dệt, kim, đƣờng kính…Một số trung tâm công nghiệp xuất hiện nhƣ Hà Nội, Hải Phòng, Nam

Định,…

- Tăng cường thương nghiệp, tài chính, tiền tệ

126

Thƣơng nghiệp quốc doanh đã đƣợc phát triển mạnh theo hƣớng tăng cƣờng trình

độ chuyên nghiệp hóa: từ 10 công ty – năm 1957 lên 14 tổng công ty liên doanh; mở rộng kinh doanh cả ăn uống, phục vụ, sửa chữa, may mặc. Mạng lƣới mậu dịch quốc

doanh và hợp tác xã mua bán đƣợc phát triển về cả nông thôn, miền núi và miền biển.

Nhà nƣớc đã nắm đƣợc gần 100% về ngoại thƣơng.

Công tác tài chính giai đoạn này đã có những chuyển biến mới: Từ tài chính cung cấp sang tài chính xây dựng, chấm dứt việc phát hành cho chi tiêu tài chính và chỉ

đƣợc phát hành qua con đƣờng cho vay ngắn hạn, đã có chính sách, đã có chính sách

thuế phục vụ cho công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

Về tiền tệ, cuộc cải cách tiền tệ lần thứ 2 đã đƣợc đề ra (vào ngày 27 tháng 2 năm 1959: Chính phủ cho phép thay đổi đơn vị tiền tệ: 1000đ ngân hàng cũ ăn 1đồng ngân

hàng mới. Ngày 28 tháng 2 năm 1959 cuộc thu đổi tiền đƣợc tiến hành). Cuộc cải cách

tiền tệ này đã có ý nghĩa to lớn nâng cao sức mua của đồng tiền; Nhà nƣớc đã rút bớt

đƣợc một số tiền mặt trong lƣu thông làm cho quan hệ hàng tiền đƣợc cân đối hơn;

Nhà nƣớc nắm đƣợc sự phân bố tiền tệ trong nhân dân để điều hòa lƣu thông tiền tệ;

đồng thời nhà nƣớc nắm đƣợc nguồn tiền trong tay giai cấp tƣ sản - lúc đó đang đƣợc

cải tạo.

* Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965):

- Nhiệm vụ của kế hoạch này: Sau khi công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã giành thắng lợi có tính

chất quyết định, chúng ta đã chuyển sang lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm nhiệm vụ

trọng tâm. Nhiệm vụ cụ thể của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất nhƣ sau:

+ Ra sức phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, tích cực phát triển giao

thông vận tải, tăng cƣơng thƣơng nghiệp quốc doanh và thƣơng nghiệp hợp tác xã.

+ Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công

nghiệp, thƣơng nghiệp nhỏ và công thƣơng nghiệp tƣ bản tƣ doanh.

+ Tiến hành cuộc cách mạng văn hóa tƣ tƣởng, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi

dƣỡng cán bộ, công tác khoa học và kỹ thuật, đẩy mạnh thăm dò tài nguyên thiên nhiên và điều tra cơ bản.

+ Cải thiện một bƣớc đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động. + Kết hợp phát triển kinh tế với việc củng cố quốc phòng, tăng cƣờng trật tự an ninh. - Thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa + Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta, mà kế hoạch 5 năm này chỉ thực hiện một bƣớc, nhằm xây dựng bƣớc đầu cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

+ Chủ trƣơng công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nƣớc ta đã đƣợc Đại

hội Đảng lần thứ III đề ra nhƣ: “Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và

127

hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ƣu

tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nƣớc ta thành một nƣớc nông nghiệp lạc hậu

thành một nƣớc có công nghiệp hiện đại”.

Để thực hiện chủ trƣơng trên, Nhà nƣớc đã dành 48% số vốn đầu tƣ xây dựng cơ

bản để xây dựng công nhiệp, trong đó tới 78% dành cho công nghiệp nặng. Nguồn vốn để thực hiện công nghiệp hóa trong kế hoạch này chủ yếu dựa vào phần thu ở trong

nƣớc (chiếm tỷ trọng 80 - 82,5% tổng số doanh thu của ngân sách). Trong đó có số thu

của kinh tế quốc doanh lại là chủ yếu và bằng 2,2 lần thời kỳ cải tạo. Một phong trào

tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng (với khẩu hiệu “thắt lung buộc bụng” để xây dựng chủ nghĩa xã hội) đã đƣợc phát động mạnh mẽ.

Do đó, đến cuối năm 1964, giá trị sản lƣợng công nghiệp đã đạt 172% so với năm

1960, bình quân hàng năm tăng 14,6%.

Về công nghiệp nặng so với năm 1960, năm 1964 đạt 198,4% (bình quân hàng

năm tăng 23%). Về công nghiệp nhẹ, cũng năm 1964 so với năm 1960 đạt 158,5%,

nên đã giải quyết đƣợc 90% nhu cầu của nhân dân về hàng tiêu dụng thông thƣờng.

Đồng thời, ta còn dành một phần để xuất khẩu.

+ Đối với nông nghiệp cũng có bƣớc phát triển khá: giá trị sản lƣợng nông nghiệp

năm 1964 đạt 119% so với năm 1960 (chăn nuôi tăng 22%, trồng trọt tăng 16,7%). Phong trào trồng cây gây rừng và phong trào “Tết trồng cây” cũng đƣợc thực hiện tốt.

+ Mạng lƣới giao thông vận tải từ trung ƣơng đến địa phƣơng, từ miền xuôi lên

miền ngƣợc đã đƣợc phát triển mạnh. Trong 4 năm nhà nƣớc dành 11,7% số vốn đầu

tƣ xây dựng cơ bản cho nhiệm vụ đó.

Về đƣờng sắt, Nhà nƣớc kéo dài quãng đƣờng về phía Nam (Hàm Rồng, Vinh), làm

thêm những quãng đƣờng quan trọng (Thái Nguyên - Bắc Giang, Uông Bí - Hải Dƣơng).

Về đƣờng bộ, các con đƣờng liên tỷnh, liên huyện, nhất là ở miền núi đã đƣợc

xây dựng thêm và thực hiện phƣơng châm tăng cầu, giảm phà.

Về đƣờng thủy, Nhà nƣớc đã tiến hành nạo vét các lòng sông, nối liền các thành phố quan trọng nhƣ Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Việt Trì, Bắc Giang,…và củng cố thêm các cảng sông, cảng biển.

Do vậy, năm 1964 so với năm 1960 khối lƣợng vận tải hàng hóa tăng 48,4%, vận

chuyển hành khách tăng 49%.

- Thương nghiệp - tài chính - tiền tệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa XHCN:

Ngành nội thƣơng tiếp tục mở rộng mạng lƣới của ngành, hợp lý hóa tổ chức: đƣa cửa hàng HTX mua bán về xã - là một chuyển biến mới về sự phân công và phân phối

giữa mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán. Trong các thành phố và thị xã,

ngành kinh doanh ăn uống, phục vụ, rau quả đƣợc tăng cƣờng hơn. Do đó, năm 1964

128

so với năm 1960 mậu dịch thu mua thóc tăng 21%, lạc tăng 2 lần, thuốc lá tăng 3,6 lần,

bán lẻ tăng 36,8% - bình quân mỗi năm tăng 8,1%(vƣợt chỉ tiêu kế hoạch 5 năm).

Công tác ngoại thƣơng đƣợc đẩy mạnh để phục vụ quá trình công nghiệp hóa:

năm 1964 so với năm 1960 xuất khẩu tăng lên 135,7%, nhập khẩu tăng 116,4%. Nƣớc

ta đã có quan hệ buôn bán với 44 nƣớc trên thế giới, nhƣng chủ yếu là quan hệ với các

nƣớc xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian này cán cân thanh toán chƣa thăng bằng còn bị nhập siêu và ta còn phải đi vay để thanh toán.

Cùng với thƣơng nghiệp, tài chính, Nhà nƣớc đã có vai trò cực kỳ quan trọng với

sự nghiệp công nghiệp hóa: nguồn thu từ trong nƣớc chiếm đại bộ phận (80 - 82,5%)

trong tổng số thu của ngân sách; trong đó thu quốc doanh chiếm tỷ trọng ngày càng lớn, cơ cấu chi của ngân sách chủ yếu để phục vụ việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ

thuật của chủ nghĩa xã hội và phục vụ sản xuất.

Đồng thời, trong 4 năm này, ngân hàng Nhà nƣớc cũng đƣợc phát triển mạnh,

đến năm 1964 hệ thống ngân hàng chia thành 3 loại: Ngân hàng Nhà nƣớc, ngân hàng

Kiến Thiết và ngân hàng Ngoại Thƣơng. Ngân hàng đã tăng cƣờng huy động vốn nhàn

rỗi trong nhân dân: năm 1964 bằng 1,5 lần năm 1960, cho vay ngắn hạn từ 5.601,7

triệu lên 7.489,5% triệu đồng 1 năm, còn cho vay dài hạn từ 24 triệu đồng năm 1960

lên 45,1 triệu đồng( năm 1962)

- Củng cố và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa: Ngày 23 tháng 11 năm 1962 Bộ Chính Trị trung ƣơng Đảng đã ra Nghị quyết về

cuộc vận động “cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển sản xuất

nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc”.

Khu vực kinh tế quốc doanh đã đóng góp 45,5% tổng sản phẩm xã hội. Trong

khu vực này Nhà nƣớc đã mở rộng cuộc vận động “3 xây 3 chống” để đẩy mạnh

phong trào cải tiến quản lý, tăng năng suất, hạ giá thành (nâng cao ý thức trách nhiệm,

cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu).

* Chuyển hướng kinh tế để chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và khôi

phục kinh tế sau chiến tranh (1965 – 1975):

- Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ I (1965-1968) và khôi phục kinh tế (1969 -1971) Tháng 2 năm 1965 đế quốc Mỹ mở rộng cuộc đấu tranh leo thang phá hoại miền Bắc. Trƣớc tình hình đó Đảng và Nhà nƣớc đã có chủ trƣơng chuyển hƣớng kinh tế sang thời chiến với nội dung: Ra sức phát triển kinh tế địa phƣơng bao gồm nông nghiệp và công nghiệp điạ phƣơng. Đối với các xí nghiệp lớn thì chủ yếu là duy trì

năng lực sản xuất bằng cách tích cực bảo vệ, phân tán và sơ tán; Tích cực chi viện cho tiền tuyến, thực hiện khẩu hiệu: “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lƣợc”, đồng thời

cố gắng bảo đảm những nhu cầu cơ bản của đời sống nhân dân; Tranh thủ tới mức độ

cao nhất sự viện trợ quốc tế, chủ yếu là sự giúp đỡ của các nƣớc xã hội chủ nghĩa;

129

Tăng cƣờng tiềm lực kinh tế, tích cực đào tạo cán bộ và công nhân, đẩy mạnh công tác

điều tra cơ bản nhằm chuẩn bị cho việc xây dựng kinh tế sau này.

Nông nghiệp một ngành trọng tâm của kinh tế địa phƣơng lúc này có 3 mục tiêu

phấn đấu: “5 tấn thóc, 1 lao động làm 1 ha và 2 con lợn trên 1 ha gieo trồng”. Đây là

vấn đề có ý nghĩa chiến lƣợc về kinh tế, không phải chỉ riêng đối với nông nghiệp mà

cả các ngành khác cũng hƣớng vào đó mà phục vụ.

Mặc dù ở trong hoàn cảnh chiến tranh rất ác liệt, nhƣng ngay trong lúc chiến

tranh, nông dân tập thể đã giữ vững sản lƣợng lúa và lƣơng thực, đẩy mạnh sản lƣợng

rau mầu, mở rộng diện tích nhiều loại cây công nghiệp quan trọng, tiếp tục phát triển

trồng cây gây rừng và tăng thêm đầu gia súc…

Đặc biệt giao thông vận tải - một công tác trung tâm đột xuất trong thời kỳ này đã

đƣợc phát triển rất mạnh mẽ ở hầu khắp các nơi nhất là ở Quảng Bình, Nghệ An, Hà

Tĩnh. Đến cuối năm 1967 miền Bắc đã làm đƣợc 340km đƣờng vòng, đƣờng tránh,

250 bến phà và cầu, nâng cấp và làm thêm khoảng 13.000km đƣờng liên tỷnh, 25.700

km đƣờng giao thông nông thôn kết hợp với thủy lợi. Số phƣơng tiện cũng đƣợc trang

bị nhiều gấp 3,5 lần so với trƣớc chiến tranh. Do đó, địch đã tiêu hao hàng triệu tấn

bom đạn mà không thể nào làm tê liệt đƣợc mạch máu giao thông vận tải của miền

Bắc.

Ngành thƣơng nghiệp đã cố gắng trong việc phục vụ sản xuất, nắm nguồn hàng trong nƣớc, tranh thủ tiếp nhận hàng viện trợ. Từ năm 1965 - 1967 tổng số hàng nhập

khẩu bằng 2,5 lần so với 3 năm trƣớc chiến tranh, nên tổng mức bán lẻ của thị trƣờng

xã hội chủ nghĩa tăng bình quân hàng năm 8%; phƣơng thức phân phối đƣợc cải tiến,

mạng lƣới phân phối đƣợc mở rộng. Nguyên tắc phân phối: “Bảo đảm nhu cầu cơ bản

kết hợp với phân phối theo lao động” đƣợc thực hiện. Do đó, những nhu cầu thiết yếu

của nhân dân về ăn mặc, học tập và bảo vệ sức khỏe đƣợc bảo đảm.

Ngày 28 tháng 4 năm 1969, nhà nƣớc ban hành Điều lệ hợp tác xã sản xuất nông

nghiệp bậc cao. Đầu năm 1970, Đảng và Nhà nƣớc đã phát động một phong trào lao

động sản xuất sôi nổi ở các ngành, các cấp. Đây là một trong ba cuộc vận động lớn mà Đảng ta chủ trƣơng mở ra trong thời gian đó. Và đầu năm 1971 Ban chấp hành trung ƣơng Đảng đã ra Nghị quyết 19 giải quyết một số vấn đề về đƣờng lối, chính sách, tổ chức để khôi phục và phát triển một bƣớc nền kinh tế nông nghiệp theo hƣớng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Đến cuối năm 1971, công cuộc khôi phục và phát triển một bƣớc nền kinh tế

miền Bắc đã thu đƣợc một số kết quả quan trọng. Trong thông báo ngày 20 tháng 12 năm 1971 của Hội đồng chính phủ đã nêu rõ: “Tình hình kinh tế năm 1971 đã có

chuyển biến tốt, nhiều ngành đã đi vào khôi phục và phát triển sản xuất, các ngành và

các địa phƣơng đã cố gắng khắc phục hậu quả của nạn lụt, đời sống đƣợc ổn định,

130

công tác kinh tế có những tiến bộ bƣớc đầu. Những kết quả tốt đẹp kể trên có ý nghĩa

quan trọng vì nó là cái xu thế, cái đà để đƣa đến những kết quả to lớn trong thời gian tới, nhằm đáp ứng với tình hình và nhiệm vụ mới của sự nghiệp cách mạng của nhân

dân Việt Nam.

- Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ II (năm 1972) và cuộc khôi phục kinh tế

(1973-1975):

Đầu năm 1972 đế quốc Mỹ lại tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối

với miền Bắc với cƣờng độ và quy mô ác liệt hơn nhiều so với lần trƣớc. Miền Bắc lại

phải chuyển hƣớng kinh tế sang thời chiến.

Trong cuộc chiến tranh này, hầu hết các thành phố, thị xã, khu công nghiệp, nông nghiệp, bệnh viện, trƣờng học,… đều bị đánh phá. Do đó, sau khi hiệp định Pari đƣợc

kí kết nhiệm vụ khôi phục kinh tế sau chiến tranh rất nặng nề. Nhiệm vụ, phƣơng

hƣớng khôi phục và phát triển kinh tế đã đƣợc đề ra trong Nghị quyết 22 của Trung

ƣơng Đảng.

Lần này miền Bắc lại chuyển hƣớng kinh tế thời chiến sang thời bình: kế hoạch

khôi phục và phát triển kinh tế 2 năm (1974 -1975) đã đƣợc đề ra, với nhiệm vụ chủ

yếu là nhanh chóng hoàn thành việc hàn gắn vết thƣơng chiến tranh, ra sức khôi phục

và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của

chủ nghĩa xã hội về mọi mặt, ổn định tình hình kinh tế và đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng, ra sức làm tròn nhiệm vụ đối với miền Nam anh hùng.

Đến cuối năm 1975 miền Bắc đã hoàn thành nhiệm vụ khôi phục kinh tế sau

chiến tranh, cụ thể:

Trong công nghiệp: Hầu hết các các cơ sở công trƣờng bị chiến tranh tàn phá đã

đƣợc khôi phục (trừ một số ít còn kết hợp khôi phục với mở rộng).

Trong nông nghiệp: Công tác thủy lợi và trang bị cơ khí nhỏ đƣợc tăng cƣờng.

Giá trị tổng sản lƣợng nông nghiệp năm 1975 bằng 111,4% năm 1965, trong đó trồng

trọt đạt 105,5% và chăn nuôi đạt 121,4%.

Về giao thông, vận tải: Các tuyến đƣờng sắt, bộ, sông, biển đã đƣợc khôi phục. Đƣờng bộ rải nhựa tăng 2 lần so với trƣớc chiến tranh. Năng lực thông qua cảng biển, cảng sông tăng 30%. Các phƣơng tiện vận tải tăng đáng kể so với năm 1965.

Về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả 2 khu vực: Quốc doanh và tập thể đƣợc củng cố thêm một bƣớc: tỷ lệ số hộ nông dân vào HTX nông nghiệp từ 90,1% năm 1965 lên 95,2% năm 1975. Quy mô hợp tác xã đã đƣợc mở rộng hơn trƣớc, có tới

1.500 trong số 17.900 hợp tác xã có quy mô toàn xã…

Tuy nhiên, nhiều sản phẩm chủ yếu bình quân đầu ngƣời trong thời gian này chƣa

bằng mức trƣớc chiến tranh.

131

Nội dung sau 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế miền Bắc đã có

những biến đổi căn bản: Những tàn tích của nền kinh tế thực dân phong kiến đã đƣợc xóa bỏ, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã đƣợc xác lập một cách phổ biến (chủ yếu

là đã thiết lập đƣợc chế độ công hữu về tƣ liệu sản xuất dƣới 2 hình thức: toàn dân và

tập thể); Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội đã ngày càng đƣợc tăng cƣờng

(số xí nghiệp quốc doanh và công ty hợp danh năm 1975 so với 1955 đã tăng lên 16,5 lần), lực lƣợng lao động xã hội đƣợc phân bố lại hợp lý hơn. Lƣơng thực đƣợc phát

triển khá hơn trƣớc, đã hình thành đƣợc những ngành chủ yếu của công nghiệp nặng,

trong đấy có ngành trƣớc đây ta không có, công nghiệp nhẹ đã giải quyết đƣợc 90%

hàng tiêu dùng chủ yếu của nhân dân.Đời sống nhân dân miền Bắc đã đƣợc cải thiện rõ rệt so với trƣớc.

Tuy nhiên, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa vẫn chƣa thực sự đƣợc củng cố và

cải thiện, cơ sở vật chất và kỹ thuật còn kém, sản xuất chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của

nhân dân, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối, năng suất lao động xã hội còn thấp, đời sống

nhân dân còn khó khăn.

Từ thực tiễn của 20 năm xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã

cho ta nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích trong vấn đề cải tạo xã hội chủ nghĩa và công

nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

8.3.3. Kinh tế miền Nam trong vùng Mỹ – Ngụy kiểm soát

* Chính sách kinh tế của Mỹ - Ngụy:

Mỹ - Ngụy xóa bỏ nền kinh tế dân tộc dân chủ đã đƣợc thiết lập trong thời kỳ

kháng chiến chống Pháp, khôi phục lại quan hệ sản xuất phong kiến, xây dựng một

nền kinh tế thị trƣờng mở, nằm trong sự khống chế của đế quốc Mỹ.

Thông qua việc viện trợ, đế quốc Mỹ đã chi phối, lung đọa toàn bộ nền kinh tế

miền Nam để phục vụ chiến tranh và chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ.

Chúng thực hiện chính sách “cải cách điền địa” và tập trung dân trong nông

nghiệp, chính sách “khuyến khích công kỹ nghệ” nhằm tạo ra cơ sở kinh tế - xã hội ở

cả nông thôn và thành thị.

Các chính sách kinh tế của Mỹ - Ngụy tạo điều kiệu cho tƣ bản phát triển mạnh

mẽ ở miền Nam.

* Đặc điểm tình hình kinh tế: Quá trình biến đổi của nền kinh tế miền Nam có thể chia làm hai giai đoạn (1955 -1965) và (1965 - 1975), gắn liền với cƣờng độ của cuộc chiến tranh thực dân

mới ở miền Nam - chiến tranh đặc biệt năm 1961 - 1965, chiến tranh cục bộ năm 1965 - 1969 và Việt Nam hóa chiến tranh năm 1969 - 1975 với mức độ phát triển khác nhau của kinh tế hàng hóa ở cả thành thị và nông thôn.

- Giai đoạn 1955 - 1965

132

Nông nghiệp vẫn giữ nguyên tình trạng lạc hậu, độc canh, phát triển chậm chạp,

bấp bênh nhƣ trong thời kỳ thực dân pháp thống trị. Sản lƣợng lúa không những chƣa bằng năm 1945 mà còn không ổn định.

Công nghiệp của miền Nam ngày càng bị phụ thuộc vào tƣ bản nƣớc ngoài, mở

rộng cho tƣ bản nƣớc ngoài nhất là Mỹ đầu tƣ vào miền Nam .

Hệ thống đường giao thông vận tải: Để phục vụ kế hoạch xâm lƣợc của đế quốc Mỹ,

giao thông vận tải đã đƣợc phát triển mạnh hơn, nhất là đƣờng bộ và đƣờng hàng không.

Thương nghiệp ở miền Nam là bộ phận tiêu thụ hàng viện trợ của Mỹ. Bộ máy

nảy phình ra một cách rất bất hợp lý.

Nội thương miền Nam thực ra chỉ là kế tục khâu nhập cảng để phân phối hàng hóa viện trợ. Nó rất bấp bênh và ngày càng có nhiều khó khăn vì sản xuất bắt đầu bị

đình đốn, vì tình trạng khủng bố ở nông thôn tăng lên và có sự cạnh tranh của hàng

ngoại, thuế và phạt vạ ngày càng tăng.

Tài chính: Nguồn thu của ngụy quyền dựa vào viện trợ và thuế má chồng chất,

xin viện trợ của nhiều nƣớc (34 nƣớc), nhƣng chủ yếu là Mỹ.

- Giai đoạn 1965 - 1975:

Nông nghiệp: Mỹ - Ngụy cố gắng thúc đẩy nông nghiệp, lôi cuốn nông dân, đƣa

nền kinh tế tiểu nông theo con đƣờng phát triển tƣ bản chủ nghĩa.

Công nghiệp: Vẫn rất nhỏ bé (công nghiệp chỉ chiếm 7,2%, nông nghiệp 39%, dịch vụ 50%) và bị què quặt (công nghiệp sản xuất máy móc hầu nhƣ không có), lại bị

phá hoại nặng nề và bị đánh đồn, nhất là ngành đƣờng và ngành dệt.

Giao thông vận tải: Từ năm 1965 đội quân vĩnh chinh Mỹ ồ ạt vào miền Nam,

Mỹ -Ngụy đã chi hơn 2 tỷ đô la cho giao thông vận tải để mở rộng tu sửa và mở rộng

các tuyến đƣờng mới phục vụ quân sự. Đến cuối năm 1970 ở miền Nam có tới 1 nghìn

km đƣờng chiến lƣợc quan trọng, 400 km đƣờng sắt hoàn toàn đƣợc khôi phục, vài trăm

đầu máy điêzen, 52 máy bay dành cho hàng không dân dụng, 5 sân bay có thể cho các

phi cơ hạng nặng chuyên chở hành khách, 5 hải cảng lớn có đầy đủ trang bị, có thể nhận

các loại tàu lớn từ 30.000 đến 40.000 tấn cập bến. Tuy nhiên do hoàn cảnh chiến sự ngày càng ác liệt, giao thông vận tải của chúng cũng trở nên rất khó khăn: nhiều đoạn đƣờng sông bị tắc nghẽn vì bị du kích đánh chìm tàu. Đƣờng bộ bị thiếu xe, thiếu phụ tùng, thiếu xăng. Đƣờng hàng không thì tốn kém và cũng không đủ máy bay để chuyên chở. Con đƣờng giao thông huyết mạch hoặc không ổn định hoặc bị cắt đứt. Cho nên chúng đã phải dùng hàng chục tiểu đoàn để bảo vệ một con đƣờng vận tải.

Thương nghiệp: Kinh doanh thƣơng nghiệp trở thành ngành kinh doanh lớn nhất ở Miền Nam (nhiều hơn cả công nghiệp), hình thành những công ty nhập cảng tổng

hợp các ngành, khuyến khích tƣ sản công nghiệp chuyển sang kinh doanh xuất nhập

133

khẩu, đội ngũ thƣơng nhân bành chƣớng ra làm nhiệm vụ tiếp nhận và phân phối hàng

viện trợ.

Nhận hàng viện trợ là nội dung chủ yếu của hoạt động ngoại thƣơng ở miền Nam

thời kỳ này. Cơ cấu hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn là lƣơng thực, thực phẩm và hàng

tiêu dùng.

Xuất khẩu ở miền Nam ngày càng bị giảm sút. Từ năm 1965 chỉ còn cao su là đáng kể, song cũng giảm dần, kim ngạch xuất chỉ bù cho nhập 1% vào năm 1969. Từ

năm 1965 đến năm 1975 việc kinh doanh xuất nhập cảng do tƣ bản nƣớc ngoài đảm

nhận thực hiện.

Thị trƣờng miền Nam là “chợ trời” của tƣ bản nƣớc ngoài, nhƣng mang tính chất phồn hoa giả tạo, nạn đầu cơ, tích trữ phát triển, hàng hóa phải qua nhiều khâu trung

gian, lại bị tăng thuế và nạm phát nên giá cả hàng hóa tăng lên khủng khiếp.

Tài chính tiền tệ: Ngân sách của ngụy quyền là ngân sách chiến tranh và bị thiếu

hụt nặng nề, vì chi tiêu tăng lên nhanh chóng: năm 1966 hụt 6 tỷ, năm 1969 hụt 43 tỷ,

năm 1970 hụt 52 tỷ đồng miền nam. Để giải quyết sự thụt của ngân sách, ngụy đã tăng

thuế (đồng loạt nên 20%), xin thêm viện trợ và lạm phát giấy bạc. Do đó, Mỹ ngụy

liên tiếp phá giá đồng bạc. Đồng tiền bị mất giá là những gánh nặng đổ lên đầu nhân

dân miền Nam vùng tạm bị chiếm. Điều đó phản ánh sự bế tắc trong nền kinh tế miền

Nam lúc bấy giờ.

Sau 20 năm nền kinh tế miền Nam đã biến đổi từ một nền kinh tế có tính chất

thực dân nửa phong kiến thành một nền kinh tế thực dân mới, theo quỹ đạo của chủ

nghĩa tƣ bản. Tuy đã có một số cơ sở sản xuất hiện đại của chủ nghĩa tƣ bản, song sản

xuất nhỏ còn khá phổ biến. Nền kinh tế đó phát triển thấp kém, mất cân đối, bị sa sút

và ngày càng khó khăn, bế tắc: số ngƣời thất nghiệp đông, tiền tệ lạm phát, thị trƣờng

hỗn loạn. Có lúc nhƣ giai đoạn chiến tranh cục bộ - có vẻ phồn vinh nhƣng giả tạo. Do

đó, những di sản nặng nề của chế độ thực dân mới đã gây nên nhiều khó khăn cho

bƣớc đƣờng cải tạo và xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của cả nƣớc sau khi miền

Nam hoàn toàn giải phóng sau này.

8.3.4. Kinh tế trong vùng giải phóng

* Chính sách kinh tế của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam: Để xây dựng vùng giải phóng thành khu căn cứ cách mạng và hậu phƣơng trực tiếp của toàn bộ công cuộc giải phóng miền Nam, về mặt kinh tế, mặt trận chủ trƣơng bãi bỏ độc quyền kinh tế của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, xây dựng một nền kinh tế và

tài chính độc lập tự chủ, lợi cho quốc kế dân sinh, tịch thu tài sản của đế quốc Mỹ và tay sai làm tài sản quốc gia. Giúp đỡ cho công thƣơng gia khôi phục và khuếch trƣơng công nghệ và tiểu công nghệ, khuyến khích phát triển kĩ nghệ, tích cực bảo vệ hàng

134

hóa bằng cách bãi bỏ thuế sản xuất, hạn chế hoặc đình chỉ nhập cảng, hàng hóa trong

nƣớc sản xuất đƣợc giảm thuế, nhập cảng nguyên liệu, máy móc.

Chấn hƣng nông nghiệp, canh tân nghề trồng lúa, nghề cá và chăn nuôi. Giúp đỡ

cho nông dân khai hoang và phát triển sản xuất, bảo vệ mùa màng, đảm bảo tiêu thụ

nông sản.

Khuyến khích và đẩy mạnh việc giao lƣu kinh tế giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, phát triển buôn bán với nƣớc ngoài, không phân biệt chế

độ chính trị theo nghuyên tắc bình đẳng cùng có lợi.

* Đặc điểm tình hình kinh tế:

- Giải quyết ruộng đất cho nông dân và đẩy mạnh tăng gia sản xuất nông nghiệp Mặt trận dân tộc giải phóng đã thực hiện giảm tô, đảm bảo quyền sở hữu đất đai

khai hoang cho ngƣời có công khai phá, bảo vệ quyền sở hữu chính đáng về ruộng đất

đã đƣợc chia của nông dân, tịch thu ruộng đất của đế quốc Mỹ và tay sai để chia cho

nông dân nghèo không có ruộng đất hay thiếu ruộng đất, chia lại công điền cho công

bằng, hợp lý.. Nhà nƣớc mua lại ruộng đất của điền chủ có từ mức độ nào đó tùy theo

địa phƣơng để chia cho nông dân không có hoặc thiếu ruộng đất.

Ngày 3 tháng 3 năm 1962 mặt trận lại bổ sung chính sách ruộng đất nhƣ sau: thừa

nhận quyền sở hữu ruộng đất của tất cả những địa chủ nào hiện nay không làm tay sai

gian ác cho đế quốc Mỹ và bọn tay sai chung thành của chúng, nhƣng họ phải thực hiện chính sách ruộng đất hiện nay cuả mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt

Nam là “giảm tô” và đảm bảo quyền nguyên canh cho tá điền.

Vùng giải phóng đƣợc mở rộng đến đâu thì chính sách ruộng đất của mặt trận

đƣợc thực hiện đến đó. Đến cuối năm 1965 đầu năm 1966, tổng số ruộng đất về tay

nông dân đã lên tới gần 2 triệu ha, số thóc, giảm tô đạt đƣợc 200.000 tấn. Đó là một

trong những thành tựu kinh tế quan trọng của cách mạng miền Nam.

Ở những nơi đã cải cách ruộng đất, mặt trận đã khuyến khích nông dân vào làm

ăn tập thể, theo các hình thức: phân công, đổi công, hợp công, tập đoàn sản xuất với

quy mô từ 20 - 25 hộ, có vùng đạt tới 80 - 90% nông hộ tham gia. Đồng thời mặt trận còn phát động phong trào khai hoang, tăng vụ, làm thủy lợi kết hợp với cải tạo địa hình để phục vụ sản xuất và chiến đấu nhƣ: “tay cày tay sung, quyết thắng giặc Mỹ”, vừa sản xuất tự cấp, tự túc vừa đánh giặc, vừa bảo đảm công tác chuyên môn” đƣợc phát động rộng rãi. Do đó, sản lƣợng lúa năm 1965 bằng 240% năm 1962, năng suất lúa đạt trung bình là 3 tấn/ha.

- Công nghiệp quốc phòng và thủ công nghiệp. Sau khi hình thành vùng giải phóng, Mặt trận đã vận động một số thợ rèn, thợ

mộc đƣa lên miền núi giúp đồng bào thiểu số sản xuất công cụ cải tiến nhƣ: cày, cuốc,

rựa, guồng,…Nhiều xƣởng sửa chữa, sản xuất vũ khí đạn dƣợc, sản xuất thuốc men,

135

quần áo, giấy viết, nông cụ,…đƣợc thành lập. Mặt trận đã thành lập những xƣởng lớn

sản xuất vũ khí nhƣ mìn chống xe tăng…Ngoài ra ở một số xã hoặc liên xã cũng có trạm sữa chữa, sản xuất súng ngựa trời, súng phóng lửa, bàn chông…

Ở các tỷnh đều có cơ sở sửa chữa máy chữ, máy in, máy thu thanh; phát triển

nghề dệt, nghề rèn, nấu quặng. Đối với các nghề nhƣ: đồ gốm, làm nón, xà phòng, làm

giấy, làm chiếu…cũng đƣợc khôi phục.

Nhiều nơi các cơ quan, đơn vị bộ đội đã thành lập xƣởng may quần áo tự túc. Ở

Miền Trung Trung Bộ, mặt trận còn xây dựng và quản lý trực tiếp một số ngành nhƣ là

giấy, dệt và nông cụ…

- Thương nghiệp, tài chính Từ năm 1963, trong vùng giải phóng, mặt trận đã tổ chức mậu dịch quốc doanh,

các trạm tiếp liệu để mua của nhân dân các hàng hóa lâm thổ sản và cung cấp cho nhân

dân những hàng hóa cần thiết nhƣ muối, vải, nông cụ…

Đế quốc Mỹ và Ngụy quyền chủ trƣơng bao vây phong tỏa kinh tế của vùng giải

phóng. Nhƣng trong thực tế, ngụy quyền lại phải dựa vào vùng nông thôn để vơ vét

lúa, gạo, than để tiêu thụ hàng viện trợ.

Mặt trận khuyến khích họp chợ, khai thông luồng hàng giữa vùng tự do và vùng

tạm chiếm và ban hành chính sách tự do đi lại mua bán và giáo dục nhân dân hạn chế

tiêu dùng hàng xa xỉ của đế quốc nhập vào. Do đó, doanh số bán lẻ ở vùng đồng bằng và miền núi năm 1965 bằng 1.000% năm 1963. Qua đó đã làm cho các vùng giải

phóng quan hệ chặt chẽ với nhau về mặt kinh tế, góp phần vào việc xây dựng nền kinh

tế tự cấp, tự túc, đẩy mạnh sản xuất và cung cấp hàng tiêu dùng cho nhân dân.

Trong những năm 1960 - 1961 nguồn thu của mặt trận chủ yếu dựa vào sự đóng

góp tự nguyện của nhân dân, dƣới các hình thức lạc quyên, quỹ nuôi quân, khao quân

giải phóng về làng, ủng hộ gia đình thƣơng binh liệt sĩ ...Năm 1962, Mặt trận bắt đầu

thu đảm phụ, Từ năm 1963 trở đi các khoản đóng góp đã trở thành nghĩa vụ của toàn

dân: thu thuế nông nghiệp, ngoài ra còn có các khoản thu khác: theo chuyến hàng xuất

nhập, thu về sản xuất đồn điền, bán tài sản quốc gia và bán chiến lợi phẩm.

Còn về chi tiêu, ở vùng giải phóng nhằm thực hiện khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền

tuyến, tất cả cho chiến thắng”, thực hành tiết kiệm có thu mới có chi.

Mặc dù ở trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn, gian nan nền kinh tế trong vùng giải phóng cũng đã đạt đƣợc những thắng lợi quan trọng, góp phần đáng kể về việc giải quyết vấn đề “hậu cần tại chỗ”, đánh bại chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. 8.4. Kinh tế Việt Nam thời kỳ 10 năm đầu sau khi đất nƣớc thống nhất

(1976 – 1985)

8.4.1. Đặc điểm tình hình và đƣờng lối phát triển kinh tế

* Đặc điểm tình hình

136

- Những khó khăn

Cả nƣớc cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến vẫn còn là sản xuất nhỏ. Tính chất sản xuất nhỏ thể hiện rõ nét ở các mặt nhƣ: cơ sở vật chất kỹ

thuật còn nhỏ yếu, đại bộ phận lao động vẫn còn là thủ công, phân công lao động xã

hội kém phát triển, năng suất lao động xã hội rất thấp, tình trạng tổ chức và quản lý

kinh tế còn thiếu chặt chẽ, việc kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân còn yếu, nền kinh tế còn bị mất cân đối nghiêm trọng.

Không những thế, nền kinh tế còn phải chịu hậu quả nặng nề của 30 năm chiến

tranh ác liệt và ở miền Nam lại còn có nhiều tàn dƣ của chủ nghĩa thực dân mới. Thêm

vào đó, cuộc chiến tranh ở biên giới Tây nam và phía Bắc cũng đã gây ra cho ta nhiều khó khăn hơn nữa trong công cuộc xây dựng nền kinh tế của đất nƣớc.

Trên trƣờng quốc tế, chúng ta cũng có những khó khăn nhất định: cuộc đấu tranh

để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc và các

thế lực phản động đang diễn ra gay go quyết liệt. Đế quốc Mỹ và các thế lực phản

động thực hiện bao vây kinh tế đối với nƣớc ta. Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ

cứu nƣớc đã thắng lợi, nhiều khoản viện trợ không hoàn lại hầu nhƣ không còn nữa.

Sự hợp tác kinh tế với nƣớc ngoài đều đƣợc tiến hành trên cơ sở có đi có lại, cùng có

lợi giữa các bên.

- Những thuận lợi Tổ quốc ta đã đƣợc hòa bình, độc lập, thống nhất. Nhân dân phấn khởi, hai miền

có thể hỗ trợ đƣợc cho nhau trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách

mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ và đem lại những thành

tựu cực kỳ to lớn trong sự phát triển kinh tế của các nƣớc. Những điều đó đã có ảnh

hƣởng to lớn đến công cuộc xây dựng kinh tế ở nƣớc ta.

* Đường lối chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ này

Đƣờng lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa do Đại hội IV đề ra nhƣ sau:

“đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của

chủ nghĩa xã hội, đƣa nền kinh tế nƣớc ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ƣu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nƣớc thành một cơ cấu công - nông nghiệp, vừa xây dựng kinh tế trung ƣơng, vừa phát triển kinh tế địa phƣơng trong một cƣ cấu inh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lƣợng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với

quốc phòng”.

Nhiệm vụ chung của kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980) là vừa phải giải

quyết những hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh và của chủ nghĩa thực dân mới,

vừa phải tổ chức lại nền kinh tế vốn nghèo nàn lạc hậu, xây dựng một bƣớc nền sản

137

xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong cả nƣớc, đặt nền móng cho sự nghiệp công nghiệp hóa

nƣớc nhà.

Tập trung cao độ lực lƣợng của cả nƣớc tạo ra một bƣớc phát triển vƣợt bậc về

nông nghiệp, ra sức đẩy mạnh lâm nghiệp, ngƣ nghiệp; phát triển công nghiệp nhẹ và

công nghiệp thực phẩm; cải thiện một bƣớc đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân,

tạo tích lũy cho công nghiệp hóa XHCN.

Phát huy năng lực sẵn có và xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp

nặng, đặc biệt là cơ khí, tích cực mở mang giao thông vận tải, tăng nhanh năng lực xây

dựng cơ bản, đẩy mạnh công tác khoa học kỹ thuật.

Sử dụng hết lực lƣợng lao động xã hội, hình thành bƣớc đầu cơ cấu kinh tế mới công - nông nghiệp, kết hợp kinh tế trung ƣơng với kinh tế địa phƣơng, từng bƣớc xây

dựng huyện thành đơn vị kinh tế nông- công nghiệp, kết hợp kinh tế với quốc phòng.

Hoàn thành về cơ bản cải tạo XHCN ở miền Nam, củng cố và hoàn thiện quan hệ

sản xuất XHCN ở miền Bắc.

Tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu, mở rộng quan hệ kinh tế với nƣớc ngoài.

Ra sức phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hóa, xã hội, tiến hành cải cách giáo

dục, đẩy mạnh đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật.

Thực hiện một sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức và quản lý kinh tế.

Đại hội V của Đảng đã xác định nƣớc ta đang ở chặng đƣờng đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt chặng đƣờng trƣớc mắt bao gồm thời kỳ 5 năm

1981 - 1985 và kéo dài đến năm 1990 là khoảng thời gian có tầm quan trọng đặc biệt.

Những mục tiêu kinh tế - xã hội tổng quát của những năm 80 đã đƣợc đại hội V

xác định nhƣ sau: Đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất, dần dần ổn định,

tiến lên cải thiện một bƣớc đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân; Tiếp tục xây

dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất

nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, đồng thời tăng thêm trang bị kỹ thuật cho

các ngành kinh tế khác và chuẩn bị cho sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của công

nghiệp nặng trong chặng đƣờng tiếp theo; Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; Đáp ứng nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nƣớc, củng cố quốc phòng và giữ vững an ninh trật tự.

8.4.2. Thực trạng nền kinh tế nƣớc ta 1976 – 1985

Trong thời kỳ này, tuy có nhiều khó khăn trở ngại, nhƣng cũng đã đạt đƣợc

những thành tựu quan trọng công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội: tiếp tục củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cải tạo XHCN ở miền Nam, phát triển thêm một bƣớc lực lƣợng sản xuất trong cả nƣớc. Hàng trăm công trình xây

138

dựng tƣơng đối lớn về các mặt công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, văn hóa

xã hội... đã đƣợc xây dựng trên khắp các miền của đất nƣớc.

* Cải tạo và phát triển nông nghiệp. - Cải tạo quan hệ sản xuất: Trƣớc hết là vấn đề củng cố và hoàn thiện quan hệ

sản xuất XHCN ở miền Bắc. Do có sự khủng hoảng của mô hình tập thể nông nghiệp

trong giai đoạn (1976 - 1980) nên tháng 1 năm 1981 Ban Bí thƣ trung ƣơng đã ra chỉ thị 100 về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và ngƣời lao động.

Khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và ngƣời lao động là một hình thức quản lý

tiến bộ, thích hợp với điều kiện lao động của ta - chủ yếu còn là thủ công và là hình

thức biểu hiện của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lƣợng sản xuất.

Trong việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở miền Nam, một vấn đề

quan trọng đƣợc đặt ra trƣớc hết là việc xóa bỏ những tàn dƣ của chế độ thực dân và

phong kiến về ruộng đất, giải quyết tốt vấn đề tranh chấp ruộng đất .

Ở miền Nam nƣớc ta, sau khi đƣợc giải phóng, quan hệ sở hữu ruộng đất đã biến

đổi sâu sắc, đại bộ phận ruộng đất đã về tay nông dân; quan hệ sản xuất phong kiến

không còn là trở lực lớn trên con đƣờng tiến lên của xã hội miền Nam. Do đó, ở đây

chúng ta không cần tiến hành cải cách ruộng đất nhƣ ở miền bắc mà chủ yếu là việc

xóa bỏ những tàn dƣ thực dân và phong kiến về ruộng đất.

Còn ở Nam bộ, đến cuối năm 1979 các địa phƣơng đã xây dựng đƣợc 13.246 tập

đoàn sản xuất. Nhƣng rồi vì làm ồ ạt không chuẩn bị tốt, nhất là việc điều chỉnh ruộng

đất chƣa đƣợc giải quyết hợp lý và do có thiên tai nên có trên 4.000 tập đoàn sản xuất

gặp khó khăn và dần dần bị tan rã. Để uốn nắn lại tình hình, Ban bí thƣ đã ra chỉ thị số

93 nhấn mạnh tinh thần tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp Nam bộ.

Và đến cuối năm 1980 phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở đó dần dần đi vào ổn

định và ngày càng tiến lên những bƣớc mới.

- Phát triển nông nghiệp:

Trong thời kỳ này, Nhà nƣớc đã thực hiện chủ trƣơng khai hoang, phục hóa, tăng vụ, diện tích gieo trồng đã đƣợc tăng thêm 1.5 triệu ha, đã cung ứng thêm cho nông nghiệp gần 10.000 máy kéo các loại, đƣa tỷ lệ cơ giới hóa làm đất lên 25% diện tích gieo trồng. Diện tích trồng rừng đạt 500.000 ha, thêm gần 1 triệu ha đƣợc tƣới nƣớc.

Trên cơ sở đó, sản xuất nông nghiệp thời kỳ này đƣợc phát triển một bƣớc quan trọng. Nét nổi bật nhất của việc thực hiện 2 kế hoạch 5 năm này là việc tạo ra sự

chuyển biến bƣớc đầu của nông nghiệp. Gía trị tổng sản lƣợng nông nghiệp năm 1980 đạt 108.2% so với năm 1976 bình quân hàng năm đạt 1.9%; lƣơng thực năm 1980 đạt

14.4 triệu tấn, bình quân đầu ngƣời đạt 184 kg. Năm 1985 giá trị tổng sản lƣợng nông

nghiệp đạt 126.9% so với năm 1980, bình quân hàng năm tăng 4.9%; lƣơng thực đạt

139

18.2 triệu tấn, bình quân đầu ngƣời đạt 304 kg. Nhờ những cố gắng trên mặt trận

lƣơng thực và thực phẩm, những yêu cầu bức thiết của đời sống nhân dân cơ bản đƣợc đảm bảo.

* Cải tạo và phát triển công nghiệp và vận tải.

- Đối với công nghiệp:

Tƣ bản tƣ doanh phải cải tạo xã hội chủ nghĩa chủ yếu bằng con đƣờng công tƣ hợp doanh, các xí nghiệp của tƣ sản mại bản và tƣ sản bỏ chạy ra nƣớc ngoài đều bị

quốc hữu hóa và chuyển thành quốc doanh. Nhƣng thực chất việc hoàn thành cải tạo tƣ

sản chỉ diễn ra trên hình thức.

Cải tạo tiểu thủ công nghiệp: Đối với tiểu thủ công nghiệp và những ngành dịch vụ cần thiết cho xã hội, phải sắp xếp lại theo ngành dƣới sự quản lý của Nhà nƣớc.

Tùy theo đặc điểm của từng ngành nghề mà áp dụng những hình thức tổ chức và cải

tạo thích hợp.

Phát triển sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng cƣờng cơ sở vật chất kỹ thuật cho

chủ nghĩa xã hội. Công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa vẫn đƣợc tiếp tục đẩy

mạnh, tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đƣa

nông nghiệp một bƣớc tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạng sản xuất

hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng, kết

hợp với nông nghiệp và công nghiệp trong một cơ cấu công nông nghiệp hợp lý.

Trong thời kỳ này, mặc dù có nhiều khó khăn về năng lƣợng, nghuyên liệu, vật

tƣ, phụ tùng thay thế, nhiều cơ sở sản xuất đã phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo,

thực hiện liên kết giữa các ngành, các địa phƣơng, đã vƣợt qua đƣợc nhiều khó khăn,

tăng cƣờng năng lực sản xuất và sản lƣợng trong cả công nghiệp và thủ công nghiệp.

Do vậy, sản xuấ công nghiệp đã ngăn chặn đƣợc sự giảm sút và trong kế hoạch

5 năm đã tăng lên một mức độ nhất định. Về cơ cấu công nghiệp đã có một sự thay

đổi. Đó chính là một sự điều chỉnh cần thiết để đáp ứng nhu cầu ổn định và phát triển

kinh tế hiện nay ở nƣớc ta.

- Giao thông vận tải: Trong ngành này đã khôi phục và xây dựng gần 1.700km đƣờng sắt, 3.800km đƣờng ô tô, 30.000m cầu, trong đó có cầu Thăng Long và Chƣơng Dƣơng, 4.000 m2 bến cảng, đƣợc bổ sung nhiều phƣơng tiện vận tải mới, lập nhà máy sửa chữa tàu thủy Phà Rừng. Việc xây dựng sớm con đƣờng sắt thống nhất có ý nghĩa kinh tế chính trị to lớn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân hai miền Nam Bắc. Và kết quả đạt đƣợc là

khối lƣợng hàng hóa luân chuyển năm 1985 bằng 191,7% so với năm 1976.

* Về phân phối lưu thông:

- Cải tạo đối với tư sản thương nghiệp và những người buôn bán nhỏ

140

Đảng ta chủ trƣơng “ xóa bỏ ngay thƣơng nghiệp tƣ bản tƣ doanh” và đến năm

1978 công cuộc cải tạo đối với tƣ sản thƣơng nghiệp cũng đƣợc tuyên bố căn bản hoàn thành, mặc dù việc đó cũng có tính chất hình thức.

Còn đối với việc cải tạo tiểu thƣơng cũng khá phức tạp. Ở miền Nam có hơn 1

triệu tiểu thƣơng, tập trung phần lớn ở các đô thị, đông nhất ở thành phố HCM, còn lại

rải rác ở các thị xã thị trấn và các vùng nông thôn.

Đối với tiểu thƣơng, Đảng ta chủ trƣơng “tổ chức lại thƣơng nghiệp nhỏ, chuyển

phần lớn tiểu thƣơng sang sản xuất. Đối với số còn lại đƣợc phép kinh doanh, phải

tăng cƣờng quản lý bằng những chính sách và biện pháp thích hợp”.

Đến cuối năm 1978 có khoảng 9 vạn ngƣời buôn bán nhỏ đƣợc chuyển sang sản xuất và 15.000 ngƣời đƣợc sử dụng trong ngành thƣơng nghiệp xã hội chủ nghĩa, sắp

xếp và tổ chức lại kinh doanh theo ngành hàng ở các chợ trọng điểm của thành phố

HCM và các tỉnh.

- Thống nhất được thị trường cả nước, thị trường xã hội chủ nghĩa được củng cố

và mở rộng từng bước.Thị trƣờng có tổ chức chiếm 55.8% (năm 1976) lên 72.2%

(năm 1985). Tháng 4 năm 1978 đã thống nhất đƣợc tiền tệ trong cả nƣớc.

- Quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng được mở rộng: tháng 6 năm1985 Hội nghị

lần thứ 8 của Trung ƣơng đã đề ra những chủ trƣơng lớn vê giá, lƣơng, tiền. Đây là

một sự đổi mới có ý nghĩa cách mạng không chỉ về giá cả, tiền lƣơng, tiền tệ mà cả về tài chính thƣơng nghiệp và kế hoạch hóa. Đảng ta đã xác định “ xóa bỏ cơ chế tập

trung quan liêu bao cấp, trong đó giá và lƣơng là khâu đột phá có tính chất quyết định

để chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh XHCN tạo điều kiện cho nền kinh tế- xã hội

nƣớc ta phát triển lên một bƣớc mới”. 8.5. Kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay)

8.5.1. Bối cảnh và nội dung đổi mới

* Các quan điểm kinh tế của Đại hội VI:

- Về cải tạo xã hội chủ nghĩa:

Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần: kinh tế xã hội chủ nghĩa, thợ thủ công, nông dân cá thể, kinh tế tƣ bản tƣ nhân, kinh tế tƣ bản Nhà nƣớc, kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số.

Phát triển kinh tế nhiều thành phần là một chủ trƣơng chiến lƣợc lâu dài và là một đặc trƣng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.“ Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa

là nhiệm vụ thƣờng xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bƣớc đi thích hợp với tính chất và trình độ của lực lƣợng sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lƣợng sản xuất”.

- Về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa:

141

Trong những năm qua, do nhận thức phiến diện về công nghiệp hóa xã hội chủ

nghĩa đã dẫn đến khuynh hƣớng ham xây dựng công nghiệp nặng, ham quy mô lớn và thiên về xây dựng mới, làm gay gắt thêm nhiều mặt mất cân đối trong nền kinh tế.

Ba chƣơng trình mục tiêu cụ thể hóa nội dung xã hội chủ nghĩa trong chặng đƣờng đầu

tiên định hƣớng cho sự phát triển tất cả các ngành, các mặt hoạt động kinh tế, nhằm

xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.

- Về cơ chế quản lý kinh tế:

Cơ chế quản lý tập trung quan lieu bao cấp từ nhiều năm nay đã không tạo đƣợc

động lực phát triển và gây ra nhiều hiện tƣợng tiêu cực trong xã hội. Do đó, đại hội VI

đã chủ trƣơng đổi mới về cơ chế quản lý về kinh tế, mà thực chất của cơ chế mới đó là: cơ chế kế hoạch hóa theo phƣơng thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng

nguyên tắc tập trung dân chủ.

Đầu tháng 4 năm1988, Bộ chính trị đã ra Nghị quyết 10 về đổi mới quản lý nông

nghiệp, đề ra nhiều biện pháp khắc phục những thiếu xót của chế độ khoán sản phẩm.

Bây giờ hộ gia đình là đơn vị kinh tế xã hội cơ bản trong nông thôn.

Hội nghị trung ƣơng lần thứ 6 (tháng 4 năm1989) đã khẳng định đƣờng lối đổi

mới do Đại hội VI đề ra là đúng đắn và nêu lên phƣơng hƣớng chỉ đạo công việc đổi

mới trong thời gian tới: “ Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển mạnh các đơn vị

kinh tế sang hạch toán kinh doanh theo quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch, gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội”.

- Về kinh tế đối ngoại:

Đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu.

Phát triển và mở rộng hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật với bên ngoài, áp

dụng rộng rãi các hình thức hợp tác xã và lien kết với các nƣớc XHCN và các nƣớc

khác trên thế giới.

Đa dạng hóa thị trƣờng và phƣơng thức hoạt động theo quan điểm “ mở cửa”,

từng bƣớc gắn nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, thị trƣờng quốc tế trên

nguyên tắc bảo đảm độc lập, chủ quyền dân tộc, an ninh quốc gia và cùng có lợi.

* Các phương hướng lớn về kinh tế do Đại hội VII đề ra: - Về cơ cấu ngành và vùng: Phát triển nông lâm ngƣ nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội.

Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đáp ứng nhu cầu đa dạng, chất lƣợng ngày càng cao, phục vụ tốt tiêu dùng trong nƣớc và xuất khẩu, tăng thêm nhiều việc

làm cho ngƣời lao động.

142

Phát triển một số ngành công nghiệp nặng, trƣớc hết phục vụ cho sản xuất nông-

lâm - ngƣ nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu…

Phát triển kết cấu hạ tầng, sớm khắc phục tình trạng xuống cấp, mở rộng và hiện đại

hóa có trọng điểm mạng lƣới giao thông vận tải, chú trọng phát triển vận tải đƣờng biển,

đƣờng song, đƣờng sắt và hàng không quốc tế, phát triển giao thông nông thôn và miền núi.

Sắp xếp lại và phát triển các loại hình dịch vụ kinh tế- kỹ thuật đáp ứng yêu cầu

của sản xuất, đời sống và hợp tác quốc tế.

- Tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và đổi mới quản lý

kinh tế nền kinh tế quốc dân:

Sắp xếp lại và củng cố các đơn vị kinh tế: Khẩn trƣơng sắp xếp lại và đổi mới uản lý kinh tế quốc doanh, bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả, nắm vững

những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.

Tiếp tục đổi mới và kiện toàn kinh tế tập thể theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ,

bình đẳng, phát huy và kết hợp hài hòa sức mạnh của tập thể và của xã viên.

Phát triển mạnh kinh tế gia đình bằng nhiều hình thức.

Kinh tế tƣ nhân đƣợc phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý

hƣớng dẫn của Nhà nƣớc... hƣớng kinh tế tƣ bản tƣ nhân phát triển theo con đƣờng tƣ

bản Nhà nƣớc dƣới nhiều hình thức.

Từng bƣớc hình thành và mở rộng đồng bộ các thị trƣờng hàng tiêu dùng, tƣ liệu sản xuất, dịch vụ, thị trƣờng vốn và tiền tệ, thị trƣờng ngoại hối, thị trƣờng sức lao

động...

Đổi mới và hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu của nhà nƣớc. Tiếp

tục đổi mới, bổ sung và đồng bộ hóa hệ thống pháp luật kinh tế.

Nâng cao chất lƣợng kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân, lấy thị trƣợng làm đối

tƣợng và là căn cứ quan trọng nhất.

Hệ thống ngân hàng vƣơn lên làm tốt chức năng là trung tâm tiền tệ, tín dụng và

thanh toán của các thành phần kinh tế, huy động mọi nguồn vốn rỗi trong xã hội thúc

đẩy sản xuất phát triển có hiệu quả, góp phần từng bƣớc ổn định giá trị đồng tiền VN.

Cải tiến công tác điều hành của Nhà nƣớc về kinh tế theo hƣớng bảo đảm sự nhất quán trong các quyết định, phối hợp đồng bộ giữa các cấp quản lý, tăng cƣờng công tác kiểm tra, kiểm soát; tiếp tục phân định rõ quản lý Nhà nƣớc về kinh tế và quản lý kinh doanh của các đơn vị cơ sở, cải tiến phân cấp quản lý kinh tế giữa trung ƣơng và các cấp chính quyền địa phƣơng.

8.5.2. Những chuyển biến của nền kinh tế

Trải qua gần 30 năm thực hiện đƣờng lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội, kể từ Ðại hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc

trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay, Việt Nam đã thu đƣợc

143

những thành tựu to lớn, hết sức quan trọng. Thực hiện đƣờng lối đổi mới, với mô hình

kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, đất nƣớc ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo đƣợc những tiền đề cần thiết để

chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Việc thực hiện tốt ba chƣơng trình mục tiêu phát triển về lƣơng thực, thực phẩm,

hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu trong kế hoạch 5 năm 1986 - 2000, đƣợc coi là sự thành công bƣớc đầu cụ thể hoá nội dung của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong

chặng đƣờng đầu tiên đã đƣợc Đại hội thông qua.

Kết thúc thời kỳ kế hoạch 1991-1995, "Đất nƣớc ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh

tế - xã hội, đã tạo đƣợc tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc". Tốc độ tăng trƣởng GDP bình quân

hàng năm đạt 8,2%.

Giai đoạn tiếp theo (1996-2000), toàn Đảng, toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu vƣợt

qua khó khăn thách thức; giữ đƣợc nhịp độ tăng trƣởng cao, duy trì đƣợc sự phát triển

đều đặn của các mặt văn hoá, xã hội. Tốc độ tăng trƣởng GDP bình quân của thời kỳ

1996-2000 đạt 7%; các ngành nông lâm ngƣ nghiệp, công nghiệp và xây dựng, các

ngành dịch vụ đều có bƣớc phát triển khá.

Đại hội IX đã thông qua chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001-2010)

với mục tiêu: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đƣa đất nƣớc ra khỏi tình trạng kém phát triển và xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nƣớc ta cơ bản trở thành một

nƣớc công nghiệp. Chất lƣợng đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân

đƣợc nâng lên một mức đáng kể. Thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ

nghĩa đƣợc định hình về cơ bản. Nguồn lực con ngƣời, năng lực khoa học và công

nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh đƣợc tăng cƣờng. Vị thế

nƣớc ta trong quan hệ quốc tế đƣợc củng cố và nâng cao.

Trong 5 năm đầu thực hiện chiến lƣợc 10 năm 2001-2010; nền kinh tế đạt đƣợc

tốc độ tăng trƣởng khá cao, bình quân gần 7,5%/năm; cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch

đáng kể, nguồn lực phát triển trong các thành phần kinh tế đã đƣợc huy động khá hơn, nhiều lợi thế so sánh trong từng ngành, từng vùng đã đƣợc phát huy.

Những kết quả nổi trội chủ yếu đạt đƣợc trong quá trình đổi mới kinh tế Việt

Nam từ năm 1986 đến nay đó là: * Về phát triển kinh tế - Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh

+ Giai đoạn 1986 - 1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ trƣơng phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trƣờng

định hƣớng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục đƣợc những yếu kém và

có những bƣớc phát triển. Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), công cuộc đổi mới

144

đã đạt đƣợc những thành tựu bƣớc đầu rất quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm; tổng giá

trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13 -14%/năm; giá trị kim ngạch xuất

khẩu tăng 28%/năm. Việc thực hiện tốt ba chƣơng trình mục tiêu phát triển về lƣơng

thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã phục hồi đƣợc sản xuất, tăng

trƣởng kinh tế, kiềm chế lạm phát,… Đây đƣợc đánh giá là thành công bƣớc đầu cụ thể hóa nội dung của công nghiệp hóa XHCN trong chặng đƣờng đầu tiên. Điều quan

trọng nhất, đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý

mới, thực hiện một bƣớc quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và bƣớc đầu giải

phóng đƣợc lực lƣợng sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới.

+ Giai đoạn 1991 - 1995: Đất nƣớc dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái.

Nền kinh tế tiếp tục đạt đƣợc những thành tựu quan trọng: đã khắc phục đƣợc tình

trạng trì trệ, suy thoái, tốc độ tăng trƣởng đạt tƣơng đối cao, liên tục và toàn diện, hầu

hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vƣợt mức: GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị sản xuất

công nghiệp tăng 13,3%/năm; nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ tăng

12%/năm; tổng sản lƣợng lƣơng thực 5 năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu tấn, tăng

27% so với giai đoạn 1986 - 1990. Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng

trƣởng tƣơng đối khá. “Nƣớc ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm

trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chƣa vững chắc, song đã tạo đƣợc tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nƣớc”.

+ Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bƣớc phát triển quan trọng

của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Mặc dù

cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 -

1999) và thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nƣớc ta trƣớc những

thử thách khốc liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì đƣợc tốc độ tăng trƣởng khá. GDP

bình quân của cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%; trong đó, nông, lâm, ngƣ nghiệp tăng

4,1%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch vụ tăng 5,2%. “Nếu tính cả giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng trƣởng GDP bình quân là 7,5%. So với năm 1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần”.

+ Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu, việc triển khai Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt đƣợc những kết quả nhất định.

Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trƣởng khá cao, theo hƣớng tích cực, năm sau cao hơn năm trƣớc. GDP tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%; trong đó, nông

nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; các ngành dịch vụ tăng 7%.

Riêng quy mô tổng sản phẩm trong nƣớc của nền kinh tế năm 2005 đạt 837,8 nghìn tỷ

145

đồng, tăng gấp đôi so với năm 1995. GDP bình quân đầu ngƣời khoảng 10 triệu đồng

(tƣơng đƣơng 640 USD), vƣợt mức bình quân của các nƣớc đang phát triển có thu nhập thấp (500 USD). Từ một nƣớc thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1

triệu tấn lƣơng thực, Việt Nam đã trở thành nƣớc xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm

2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt

hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao su;…

Cùng với sự tăng trƣởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô đƣợc duy trì, bảo đảm

sự ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bƣớc đầu phát huy đƣợc nhiều lợi

thế của đất nƣớc, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế, từng bƣớc

hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển nguồn và chất lƣợng lao

động, khoa học và công nghệ;…

+ Giai đoạn 2006 - 2010: Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trƣởng khá, tiềm lực

và quy mô nền kinh tế tăng lên, nƣớc ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm

nƣớc thu thập thấp đã trở thành nƣớc có thu nhập trung bình (thấp). GDP bình quân 5

năm đạt 7%. Mặc dù bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn

cầu (từ cuối năm 2008), nhƣng thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài vào Việt Nam vẫn đạt

cao. Tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, vƣợt 77% so với kế hoạch đề ra.

Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ƣớc đạt 150 tỷ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên

31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ƣớc đạt khoảng 13,8 tỷ

USD, vƣợt 16%. GDP năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần

so với năm 2000.

Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn cầu

còn rất chậm, song mức tăng trƣởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm, tuy thấp hơn

kế hoạch (7,5% - 8%), nhƣng vẫn đƣợc đánh giá cao hơn bình quân các nƣớc trong

khu vực.

Nhƣ vậy, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trƣởng GDP của Việt Nam đạt 7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên thế giới nói chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên 2,1 lần năm 2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm).

Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trƣởng tuy thấp hơn mức tăng 5,89% của năm 2011, nhƣng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn thì đây là m ức tăng trƣở ng h ợp lý . Về s ản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ƣớc tính tăng 3,4% so với năm 2011; công nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011. Chỉ số giá tiêu

dùng năm 2012 tăng 6,81%. Đầu tƣ phát triển tăng 7% so với năm trƣớc và bằng

33,5% GDP. Xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng 18,3%. Kim ngạch xuất khẩu có thể vƣợt

146

qua mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP năm 2011 đã đạt

xấp xỉ 170%, đứng thứ 5 thế giới. Vốn FDI tính từ 1988 đến tháng 7-2012 đăng ký đạt trên 236 tỷ USD, thực hiện đạt trên 96,6 tỷ USD. Vốn ODA từ 1993 đến nay cam kết

đạt gần 80 tỷ USD, giải ngân đạt trên 35 tỷ USD.

Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bƣớc phát triển khá,

trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lƣơng thực đã bảo đảm an ninh lƣơng thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa

dạng và phong phú về chủng loại, chất lƣợng đƣợc cải thiện, từng bƣớc nâng cao khả

năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trƣờng trong nƣớc và

mở rộng thị trƣờng xuất khẩu; chú trọng đầu tƣ phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trƣởng ổn định. Sự phục hồi và

đạt mức tăng trƣởng khá này đã tạo cơ sở vững chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5

năm (2011 - 2015) trong những năm sau đạt kết quả vững chắc hơn.

- Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,

gắn sản xuất với thị trường

Về cơ cấu kinh tế tiếp tục đƣợc chuyển dịch theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện

đại hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm 2005

còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo

hƣớng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên

tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2005 lên 41%.

Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005.

Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất

thấp và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nƣớc, còn xuất khẩu gạo với

khối lƣợng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lƣơng thực quốc tế; xuất

khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lƣợng lớn đứng thứ hạng cao

trên thế giới.

Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bƣu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tƣ vấn pháp lý;... có bƣớc phát triển theo hƣớng tiến bộ, hiệu quả.

- Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát

huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế.

Kinh tế nhà nƣớc đƣợc sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lƣợng và hiệu quả, tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Cơ

chế quản lý doanh nghiệp nhà nƣớc đƣợc đổi mới một bƣớc quan trọng theo hƣớng

xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của

147

doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tƣ nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng

tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trƣởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tƣ nhân đóng

góp khoảng 38% GDP của cả nƣớc. Kinh tế có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài có tốc độ tăng

trƣởng tƣơng đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế

quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nƣớc và tạo việc làm cho nhiều ngƣời dân.

- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình

thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định

Trải qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa đƣợc xây dựng tƣơng đối đồng

bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và

bộ máy quản lý của Nhà nƣớc đƣợc đổi mới một bƣớc quan trọng. Với chủ trƣơng tích

cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nƣớc,

các tổ chức quốc tế ngày càng đƣợc mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc

gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN (AFTA), Hiệp định Thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức

Thƣơng mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thƣơng mại với hơn

200 nƣớc và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thƣơng mại song phƣơng với các nƣớc, tạo ra một bƣớc phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.

Thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa tiếp tục đƣợc xây dựng

và hoàn thiện; chủ trƣơng, đƣờng lối đổi mới của Đảng tiếp tục đƣợc thể chế hóa thành

luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trƣờng đầu tƣ, kinh

doanh đƣợc cải thiện; các yếu tố thị trƣờng và các loại thị trƣờng tiếp tục hình thành,

phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bƣớc phát triển mạnh.

Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nƣớc đạt

một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, số doanh nghiệp tăng hơn 2,3 lần, số vốn tăng

7,3 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến. * Về phát triển các mặt xã hội - Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đời sống của đại bộ phận dân cư được

cải thiện rõ rệt

Thành công nổi bật, đầy ấn tƣợng qua hơn 25 năm thực hiện đổi mới, đầu tiên

phải kể đến việc chúng ta đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trƣởng kinh tế với phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; các cơ hội phát triển

đƣợc mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cƣ, khuyến khích, phát

huy đƣợc tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân. GDP bình quân đầu ngƣời

148

tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái của Việt Nam năm 1988 chỉ đạt 86

USD/ngƣời/năm - là một trong những nƣớc thấp nhất thế giới, nhƣng đã tăng gần nhƣ liên tục ở những năm sau đó, giai đoạn 2005 - 2010 đạt 1.168 USD/ngƣời/năm, nƣớc

ta đã ra khỏi nhóm nƣớc thu thập thấp để trở thành nƣớc có thu nhập trung bình (thấp).

Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình

mỗi năm cả nƣớc đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu ngƣời lao động có công ăn việc làm; những năm 2001 - 2005, mức giải quyết việc làm trung bình hằng năm đạt

khoảng 1,4 - 1,5 triệu ngƣời; những năm 2006 - 2010, con số đó lại tăng lên đến 1,6

triệu ngƣời. Công tác dạy nghề từng bƣớc phát triển, góp phần đƣa tỷ lệ lao động qua

đào tạo từ dƣới 10% năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010.

Công tác xóa đói giảm nghèo đạt đƣợc kết quả đầy ấn tƣợng. Theo chuẩn quốc

gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm 2010. Còn

theo chuẩn do Ngân hàng thế giới (WB) phối hợp với Tổng cục Thống kê tính toán, thì

tỷ lệ nghèo chung (bao gồm cả nghèo lƣơng thực, thực phẩm và nghèo phi lƣơng thực,

thực phẩm) đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 29% năm 2002 và còn khoảng 17% năm

2008. Nhƣ vậy, Việt Nam đã “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một

nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”, mà Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) của Liên hợp

quốc đã đề ra. Tại cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa đói, giảm nghèo: Kinh

nghiệm Việt Nam và một số nƣớc châu Á do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vào giữa tháng 6-2004, Việt Nam đƣợc đánh giá là nƣớc có tốc độ giảm nghèo

nhanh nhất khu vực Đông Nam Á.

Sự nghiệp giáo dục có bƣớc phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình

trƣờng lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nƣớc đã đạt

chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; dự tính đến cuối năm

2010, hầu hết các tỉnh, thành sẽ đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ

ngƣời lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 84% cuối những năm 1980 lên 90,3%

năm 2007. Từ năm 2006 đến nay, trung bình hằng năm quy mô đào tạo trung học

chuyên nghiệp tăng 10%; cao đẳng và đại học tăng 7,4%. Năm 2009, trên 1,3 triệu sinh viên nghèo đƣợc Ngân hàng chính sách xã hội cho vay với lãi suất ƣu đãi để có thể theo học.

Hoạt động khoa học và công nghệ có bƣớc tiến đáng ghi nhận. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ (bao gồm khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật) đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đƣờng lối, chủ

trƣơng, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nƣớc; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ nƣớc ngoài, nhất là trong các lĩnh vực thông tin -

truyền thông, lai tạo một số giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, thăm dò và

149

khai thác dầu khí, xây dựng cầu, đóng tàu biển có trọng tải lớn, sản xuất vắc-xin phòng

dịch,... và bƣớc đầu có một số sáng tạo về công nghệ tin học.

Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Bảo hiểm y tế đƣợc mở rộng

đến khoảng gần 60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng đƣợc nâng lên. Tỷ lệ tử

vong ở trẻ em dƣới 5 tuổi đã giảm từ 81% năm 1990 xuống còn khoảng 28% năm

2010; tỷ lệ trẻ em dƣới 5 tuổi suy dinh dƣỡng đã giảm tƣơng ứng từ 50% xuống còn khoảng 20%. Công tác tiêm chủng mở rộng đƣợc thực hiện, nhiều dịch bệnh hiểm

nghèo trƣớc đây đã đƣợc thanh toán hoặc khống chế. Tuổi thọ trung bình của ngƣời

dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 72 tuổi hiện nay.

Chỉ số phát triển con ngƣời (HDI) tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập kỷ qua: từ 0,561 năm 1985 lần lƣợt tăng lên 0,599 năm 1990; 0,647 năm 1995; 0,690 năm

2000; 0,715 năm 2005 và 0,725 năm 2007. Nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình

quân đầu ngƣời thì xếp hạng HDI của Việt Nam năm 2007 vƣợt lên 13 bậc: GDP bình

quân đầu ngƣời xếp thứ 129 trên tổng số 182 nƣớc đƣợc thống kê, còn HDI thì xếp thứ

116/182. Điều đó chứng tỏ sự phát triển kinh tế - xã hội của nƣớc ta có xu hƣớng phục

vụ sự phát triển con ngƣời, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội khá hơn một số nƣớc

đang phát triển có GDP bình quân đầu ngƣời cao hơn Việt Nam. Nhƣ vậy, tổng quát

nhất là chỉ số phát triển con ngƣời (HDI) của nƣớc ta đã đạt đƣợc ba sự vƣợt trội: chỉ

số đã tăng lên qua các năm; thứ bậc về HDI tăng lên qua các năm; chỉ số và thứ bậc về tuổi thọ và học vấn cao hơn chỉ số về kinh tế.

Tóm lại, sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt đƣợc nhiều thành

tựu to lớn, toàn diện. Cùng với tăng trƣởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô đƣợc duy

trì, các mặt: chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh đƣợc bảo đảm và ổn định. Trong

đó có những thành tựu rất đáng khích lệ về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội gắn

bó chặt chẽ với tăng trƣởng kinh tế, phát triển nguồn lao động và chất lƣợng lao động,

khoa học và công nghệ. Thành tựu đó ngày càng khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của

Đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới, khích lệ, động viên nhân dân tiếp

tục hƣởng ứng, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nƣớc với những bƣớc tiến cao hơn. Thành tựu này đƣợc các nƣớc trong khu vực cũng nhƣ các đối tác có quan hệ với Việt Nam thừa nhận và xem đây là một thuận lợi trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

150

Câu hỏi ôn tập

1. Trình bày đặc điểm cơ bản của kinh tế Việt Nam trong thời phong kiến dân tộc tự chủ giai đoạn 938 - 1858.

2. Trình bày chính sách kinh tế của Pháp tại Việt Nam trong giai đoạn 1858 - 1939.

3. Trình bày mục tiêu kinh tế trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) của Đại

hội Đảng toàn quốc lần thứ III. 4. Trình bày những nguyên nhân dẫn đến hạn chế phát triển kinh tế của Việt Nam

trong giai đoạn 1976 - 1985.

5. Trình bày những nguyên nhân dẫn đến hạn chế phát triển kinh tế của Việt Nam

trong giai đoạn 1976 - 1985. Bài học kinh nghiệm của thời kỳ này là gì?

6. Trình bày bối cảnh lịch sử dẫn đến đổi mới kinh tế năm 1986 của Việt Nam.

7. Trình bày những nội dung cơ bản trong đổi mới kinh tế của Việt Nam từ năm 1986.

8. Phân tích những thành tựu trong phát triển kinh tế trong giai đoạn đổi mới kinh tế của Việt Nam từ năm 1986 đến nay.

9. Phân tích những hạn chế trong phát triển kinh tế trong giai đoạn đổi mới kinh tế của

Việt Nam từ năm 1986 đến nay.

10. Phân tích ý nghĩa của việc lựa chọn mô hình phát triển kinh tế ảnh hƣởng đến việc

phát triển kinh tế ở Việt Nam.

151

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đinh Văn Ân – Lê Xuân Bá, Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2006.

2. Bộ môn lịch sử kinh tế quốc dân, Trƣờng đại học kinh tế quốc dân, Lịch sử

kinh tế quốc dân tâp I ; tập II; NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, năm 1991.

3. Nguyễn Văn Bích – Chu Tiến Quang, Chính sách kinh tế và vai trò của nó đối với

phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI; lần

thứ VII; lần thứ VIII; lần thứ IX; lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia.

5. Trần Thọ Đạt, Tăng trưởng kinh tế thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, NXB Đại học

Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, năm 2010.

6. Nguyễn Trí Dĩnh, Giáo trình lịch sử kinh tế , NXB Đại học Kinh tế Quốc Dân,

Hà Nội, năm 2012.

7. Nguyễn Quang Ngọc, Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, 2004. 8. Karl Marx , Bộ Tư bản, NXB Sự thật, năm 1970 - 1973.

9. Stanley Fischer, Rudiger Dornbusch and Richard Schmelense, Economic, NXB

Mc Grow Hill, New Yourk, năm 1988.

10. R.W.Clower, Monetary theory, NXB Peuguin Books Ltd, năm 1969.

11. J.R. Hicks, Value and Capital, NXB Oxford, năm 1972.

12. http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Viet-nam-tren-duong-doi-mo

152